Một số phép tắc Phật tử
Tác giả: Sumangala Bhikkhu Viên Phúc
———————————————————–
❶ Đảnh lễ Đức Phật và Chư Tỳ khưu
———————————————————–
– Khi Phật tử đến chùa, trước tiên là lên chánh điện đảnh lễ Đức Phật, đảnh lễ Sư Cả chủ trì (nếu có thể) và chư Tỳ khưu quen thân, trước khi làm những việc khác.
– Cách thức đảnh lễ: quỳ chắp tay cúi đầu đảnh lễ 3 lần, khi đảnh lễ 5 phần cơ thể phải chạm đất là: hai đầu gối, hai cùi chỏ và trán, hai tay úp xuống để trên mặt đất phía trước trán.
– Người Phật tử phải giữ sự tôn nghiêm thanh tịnh của chùa, lên chùa để lễ Phật, hỏi đạo, xin giới, hành thiền và tạo phước cúng dường Tam Bảo, không phải đến chơi đùa, du lịch. Không nô đùa, cười nói lớn tiếng. Không để trẻ em la hét, nghịch ngợm. Ăn mặc cần kín đáo, không nên mặc quần soóc, áo hở nách, áo mỏng, cổ rộng, váy ngắn…
– Không sử dụng câu: “Nam mô A di đà Phật” trong giao tiếp vì trong truyền thống phật giáo Nguyên thủy Theravada không có Phật A di đà. Phật tử, Sa di, nữ tu, chư Tỳ khưu chỉ Quy y duy nhất Đức Phật Chánh Đẳng Giác Gotama có thật trong lịch sử, cũng như chỉ Quy y Giáo Pháp do chính Đức Phật Gotama truyền dạy và chỉ Quy y Tăng đoàn do chính Đức Phật Gotama thành lập và huấn luyện bởi Giới Luật do chính Đức Phật Gotama chế định. Tam Bảo Phật Pháp Tăng này là Ba ngôi báu tối thượng trên thế gian.
– Không nói “Mô” Phật là câu vô nghĩa, bất kính, hãy nói Nam mô Phật (Namo Buddhaya) là câu thể hiện lòng kính trọng, có nghĩa là: “Con đem hết lòng kính lễ Đức Phật.”
Khi đảnh lễ Đức Phật thường tụng “Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa”, nghĩa là: “Con đem hết lòng thành kính làm lễ đức Bhagava đó, Ngài là bậc Araham cao thượng, được chứng quả chánh biến tri do ngài tự ngộ không thầy chỉ dạy”.
– Khi tán thán công đức của chư tỳ khưu hoặc của các đạo hữu khác có thể dùng câu “Sādhu! Sādhu! Sādhu!”, nghĩa là “Lành thay! Lành thay! Lành thay!”.
– Khi phạm lỗi, phạm giới, phạm tội với Tam Bảo hay với bất kỳ ai khác cần phải sám hối: ⑴ để tự nhận biết, tự thừa nhận công khai đúng pháp, ⑵ tự răn mình không tái phạm trong tương lai, ⑶ tự phát nguyện làm lành lánh ác: tránh xa 10 bất thiện nghiệp, vun bồi 10 phước nghiệp. Sau đó thọ trì lại Tam quy Ngũ Giới.
Không nên xin xỏ người khác “xin hoan hỷ tha lỗi cho tôi / cho con” vì: ⑴ không có bất kỳ ai có quyền năng tha lỗi, xóa tội đã tạo – đã gieo Nhân ắt gặt Quả là quy luật công minh trong Tam giới, và ⑵ lại càng không thể yêu cầu người khác phải hoan hỷ một cách vô lý với những ác pháp, bất thiện nghiệp, tội lỗi đã gây ra. (Ghi chú: Tha thứ khác với tha lỗi – tha lỗi là xóa bỏ tội lỗi, còn tha thứ là thái độ bao dung độ lượng – sau khi tội, lỗi đã được sám hối thì không còn chấp bám và phiền não vì tội lỗi của người, của mình.)
– Nữ giới tránh trang điểm lòe loẹt, xức nước hoa khi đến chùa, khi hành thiền thì nên quàng khăn giới, nếu không có khăn giới thì khi đảnh lễ ngẩng lên phải dùng một tay che phần áo trước ngực cho kín đáo.
– Không làm mất vệ sinh, không nói to, cười lớn, không gọi nhau í ới, không đi giày dép, không đội mũ nón nơi chánh điện, nơi thờ tự, phòng ốc nơi chư Tỳ khưu ở…
———————————————————–
❷ Xưng hô với Chư Tỳ khưu
———————————————————–
– Người Phật tử gọi chư Tỳ khưu bằng các danh từ như Sư, Thầy, Đại Đức hoặc Ngài, Hòa thượng, Thượng tọa (nếu biết tôn phẩm của Ngài) và xưng con hoặc xưng Phật tử (pháp danh). Chắp tay chào hỏi: “Con kính lễ Sư ạ!”, “Con kính lễ Thầy ạ!”
– Thưa gửi một cách cung kính, không gọi “Sư ơi…”, “Thầy ơi…” một cách quá thân mật, suồng sã hay trêu đùa, bông lơn dù thân thiết đến đâu chăng nữa. Không lớn tiếng kêu, gọi chư Tỳ khưu từ xa mà phải tiến lại gần để thưa gửi nói năng nhỏ nhẹ, từ tốn. Trước khi nói nên thưa: “Con kính bạch Sư / Thầy…”, nên chắp tay khi thưa chuyện với chư Tỳ khưu.
– Không bắt tay, vỗ vai, va chạm thân thể, nắm kéo y áo; khi đứng, khi ngồi nên giữ một khoảng cách ít nhất là 2 khủy tay tới chư Tỳ khưu, nhất là đối với người nữ.
———————————————————–
❸ Thưa chuyện, hỏi đạo hoặc trình Pháp với Chư Tỳ khưu
———————————————————–
– Quỳ gối hoặc ngồi xuôi hai chân sang một bên, không dựa lưng vào tường vào cột, không ngồi ôm hai đầu gối hay ngồi duỗi chân về phía trước về phía tượng Phật hoặc nơi chư Tỳ Khưu đang ngồi, nên chắp tay trong khi thưa chuyện.
– Không được ngồi cao hơn hay bằng chư Tỳ khưu, không ngồi hay nằm nói chuyện khi chư Tỳ khưu đứng, không ngồi ngang hàng hay ngồi chung một hàng ghế với chư Tỳ khưu. Không ngồi chính diện với tượng Phật hoặc ngồi chính diện với chư Tỳ khưu, mà hơi lệch sang bên một chút.
– Người ốm, bệnh, tật có thể ngồi ghế, thậm chí còn phải nằm nhưng thường nếu có thể thì thu xếp ngồi, nằm thấp hơn ghế ngồi của Pháp sư, Thiền sư, hoặc ngồi, nằm phía ngoài tầm hướng, không trực diện, không đối diện.
– Không đội nón, mũ, cầm ô dù, gậy, dao, kéo … v.v… khi nói chuyện với chư Tỳ khưu.
– Muốn xin hỏi đạo, trình pháp hoặc thỉnh thuyết pháp, phải có lời thưa thỉnh trước. Thỉnh thuyết pháp phải có lời tác bạch đúng cách và ở nơi trang trọng như chánh điện, nơi trình pháp… Trước buổi nghe thuyết pháp cần đảnh lễ ba lần và tuyên thọ Tam Quy Ngũ Giới (hoặc Bát giới nếu là trong khóa thiền). Sau buổi nghe thuyết pháp cùng bày tỏ tri ân bằng cách đồng thanh “Sādhu! Sādhu! Sādhu!” và đảnh lễ ba lần chứ không vỗ tay như trong các cuộc hội họp.
– Khi dâng đồ, đảnh lễ, hỏi đạo phải đợi sau khi chư Tỳ khưu an tọa đàng hoàng ở chỗ trang trọng. Chư Tỳ khưu là đại diện cho cộng đồng Tăng Đoàn Sangha, đại diện cho cho Tam Bảo tức Ba ngôi báu tối thượng trên thế gian, vì vậy phải được đối xử một cách cung kính nhất, ngồi ở nơi cao và trang trọng nhất…đặc biệt là khi thuyết pháp, để cung kính Pháp.
– Nếu chư Tỳ khưu đang đi đất thì người Phật tử phải bỏ giầy dép ra khi thưa chuyện. Theo truyền thống các nước PGNT là quốc giáo, khi đưa rước, nói chuyện, để bát cho chư Tỳ khưu thì đều phải bỏ giày dép, mũ nón…
– Không đi song song hoặc đi trước chư Tỳ khưu, không đi giữa đường khi chư Tỳ khưu đi bên cạnh đường.
– Không được ngồi ôm hai đầu gối hoặc duỗi chân về phía tượng Phật và chư Tỳ khưu.
– Người nữ không được chạm vào y áo cũng như các vật dụng của chư Tỳ khưu. Không vào phòng riêng của chư Tỳ khưu, tránh nói chuyện một mình với chư Tỳ khưu trong phòng kín hoặc nơi kín đáo, khi thật cần thiết thì phải đi hai người trở lên.
– Không nhờ vả, sai phái chư Tỳ khưu làm việc này việc kia, nhất là những việc không liên quan đến hoằng pháp và thực hành pháp. Tránh nói chuyện giỡn, chuyện đời, chuyện phù phiếm vô ích. Nói chuyện phải xin phép trước, nói rõ chủ đề xin nói chuyện.
———————————————————–
❹ Tiếp xúc liên lạc qua điện thoại, mạng internet, facebook
———————————————————–
– Khi sử dụng điện thoại, email, tin nhắn, phần bình luận trên FB … v.v… để thăm hỏi, thỉnh cầu giải đáp thắc mắc, trình pháp, bình luận góp ý … v.v… cũng cần thận trọng và lễ phép thưa gửi trước khi bắt đầu với câu “Thưa Sư/Thưa Thầy,…”, không nói năng cộc lốc, hoặc suồng sã “Sư ơi…”, “Thầy ơi…”, hãy trình bày lý do, và giới thiệu sơ lược về bản thân nếu là lần liên lạc đầu tiên, và ngay sau đó để tránh làm phiền, làm phí phạm thời gian quí hiếm nên trình bày ngắn gọn các vấn đề cần xin ý kiến; nên tránh những câu chuyện dài dòng riêng tư, những câu chuyện của người khác, những câu chuyện không liên quan đến pháp học pháp hành, cũng như tránh các câu hỏi chung chung không được chuẩn bị kỹ, tránh các câu hỏi có thể tự mình tìm hiểu, tìm kiếm trên Google … v.v…
– Khi viết tin nhắn, email, bình luận trên FB cần có câu “Thưa Sư/Thưa Thầy … ” trước khi bắt đầu, cần chú ý viết đúng chính tả, dấu chấm phảy, viết hoa … v.v… để thể hiện ý thức thận trọng, có văn hóa có giáo dục trong giao tiếp, tránh viết cẩu thả, viết tắt tùy tiện, viết câu trống không vô chủ ngữ, tránh những lời khiếm nhã, dung tục … v.v…
– Tuyệt đối không gửi các đường dẫn (links), không gửi các bài viết, các thông tin khi không xin phép trước, khi không được yêu cầu, khi không có kiểm chứng nguồn gốc đáng tin cậy … v.v… tức không tùy tiện bỏ bom rác (spam) trống không dưới danh nghĩa chia sẻ thông tin.
– Không tùy tiện, thiếu cung kính, thiếu lễ phép sử dụng các ký hiệu biểu cảm của người thế tục đối với chư vị xuất gia như các đầu ngón tay, vẫy tay, vỗ tay 👍, ✌, 👋, 🙌, 🙋… v.v… hay các biểu cảm tình yêu đôi lứa như trái tim lồng ghép, ôm hôn 💔, 💕, 💞… v.v… , hay hình các con vật nhảy múa, ngoáy mông, hay các từ cộc lốc ok, okay … v.v… Có thể sử dụng các ký hiệu biểu cảm cung kính như chắp tay, cúi lạy 🙏🙏🙏, … v.v…
———————————————————–
❺ Cách cúng dường tứ vật dụng và trai tăng
———————————————————–
– Cúng dường Tam Bảo đem lại quả báo lớn nhất trong các loại công đức bố thí vật dụng, là cơ hội khó gặp để tạo phước báu và gieo duyên với Chánh Pháp. Do vậy người Phật tử cần phải trân trọng cơ hội đó, cần có hiểu biết đúng về nghiệp và quả của nghiệp, có tâm cung kính và trong sáng khi cúng dường, chứ không làm như bố thí hay làm từ thiện ở ngoài đời. Chư Tỳ khưu (úp bát) không nhận sự cúng dường từ những người có tâm bất kính.
– Khi cúng dường cần có sự tác bạch (xin phép) với chư Tỳ khưu. Nói rõ cúng dường vào việc gì. Chư Tăng không nhận đồ cúng dường không được tác bạch đúng pháp.
– Cúng dường Phật Bảo: xây cất, tu sửa chánh điện để tôn thờ Đức Phật, cây Bồ Đề, tượng Phật, hương hoa, đồ lễ… Cúng dường Pháp Bảo: In ấn kinh sách, đĩa thuyết pháp, tổ chức lễ, các khóa thiền, buổi thuyết pháp, phục vụ việc hoằng pháp của chư Tăng… Cúng dường Tăng Bảo: dâng cúng 4 vật dụng cần thiết cho cuộc sống tu tập của chư tăng, bao gồm: ⑴ y phục, ⑵ đồ ăn, ⑶ thuốc chữa bệnh, ⑷ chỗ ở như cốc, liêu… và các phương tiện khác khi cần như phương tiện đi lại…
– Dâng cúng vật dụng: vật dụng nhẹ thì đặt lên khay hoặc đĩa, tới gần chư Tỳ khưu trong khoảng cách nửa mét và dâng bằng hai tay, không quỳ xa để chư Tỳ khưu phải với. Nếu không cầm được hai tay, thì cầm một tay, tay kia đỡ khuỷu tay dâng đồ. Những đồ không thể cầm như cốc, liêu, giường, tủ… có thể dâng bằng cách tác bạch: “Kính bạch Thầy/Đại đức /Ngài (hoặc chư Đại đức Tăng, trong trường hợp dâng cho Tăng đoàn tức toàn thể chư Tỳ khưu), con xin dâng… (nêu tên vật dâng cúng) này đến Thầy/Đại đức /Ngài (hay đến Tăng đoàn), xin Thầy /Đại đức /Ngài hãy hoan hỷ thọ nhận cho con”.
Không được hỏi: con có đồ này, đồ kia, Thầy có cần không để con dâng… Nếu phải hỏi thì nên hỏi: Thầy có dùng được…(tên đồ vật)…hay không ạ. Nếu im lặng hoặc trả lời được thì tác bạch xin dâng đồ đó đến Thầy.
– Chư Tỳ khưu không được đòi hỏi vật gì từ Phật tử, trừ người thân trong gia đình hoặc khi đã được tác bạch trước. Trường hợp người Phật tử muốn xin được cúng dường tứ vật dụng cho chư Tỳ khưu, có thể tác bạch: “Kính bạch Thầy /Đại đức /Ngài (hay Tăng đoàn), con xin cúng dường (tên đồ vật, phương tiện đi lại hoặc trai tăng, hoặc nói chung là tứ vật dụng) đến Thầy /Đại đức /Ngài (hay đến Tăng đoàn), trong thời gian từ … đến… Khi nào Thầy /Đại đức /Ngài cần, xin Thầy /Đại đức /Ngài báo cho con biết ạ.” Khi đó chư Tỳ khưu mới được phép đề nghị Phật tử ấy cúng dường đồ vật khi chư Tỳ khưu cần dùng.
– Dâng cúng khi chư Tỳ khưu đi khất thực: Phật tử bỏ mũ nón, giày dép, và để đồ dâng cúng vào bình bát của chư Tỳ khưu ; không được để tiền (giao cho hộ tăng nếu thấy); không hỏi chuyện chư Tỳ khưu khi đang khất thực, không gọi, kéo, chen lấn, ồn ào…
-Trong 4 món vật dụng trên, đồ ăn chỉ được dâng cúng đến Chư Tỳ khưu trong khoảng thời gian từ lúc bình minh đến 12g trưa, còn 3 vật dụng còn lại thì được phép dâng cúng bất cứ lúc nào.
– Dâng trai tăng đến chư Tỳ khưu: đọc lời tác bạch dâng cơm, rồi bê mâm cơm trong khoảng cách nửa mét để chư Tỳ khưu chạm vào nhận. Nếu là bàn ăn, thì dâng từng món đến tay chư Tỳ khưu. Khi chư Tỳ khưu đã thọ nhận thì không đụng vào nữa, không được tự ý để thêm đồ ăn.
– Đồ ăn dâng cúng đến chư Tỳ khưu phải hợp theo lẽ đạo, tức là có được một cách hợp pháp, không được sát sinh, lấy của không cho, đồ vật chiếm đoạt phi pháp … v.v… để dâng cúng. Chư Tỳ khưu khất thực không có quyền đòi hỏi đồ ăn nào, dù chay hay mặn, cúng gì ăn nấy. Tuy nhiên nếu chư Tỳ khưu nhìn thấy giết con vật để làm cơm hoặc nghe thấy tiếng con vật bị giết, hoặc nghi con vật đó bị giết (cho mình ăn) thì không ăn thịt đó. Những loại đồ ăn chư Tỳ khưu không bao giờ được thọ nhận: thịt người, thịt ngựa, thịt hổ, báo, voi, gấu, mèo rừng, thịt chó, thịt rắn…Không được dâng thịt sống.
– Khi dâng đồ ăn, không nói tên các món ăn định dâng (không nói con mời sư ăn cơm, bánh hoặc tên các món ăn cụ thể. Nên nói “Con xin thỉnh Sư / Thầy, …dùng bữa sáng (trưa)”. Không được hỏi: “Sư / Thầy có ăn/uống …(tên món ăn/đồ uống)…không để con dâng?”.
– Trái cây có hột cần cắt, gọt hoặc bóc vỏ, bỏ hạt…chứ không nên dâng nguyên cả quả có hột. Hoặc cần bổ, gọt đi vài quả đại diện cho cả đĩa, chư Tỳ khưu khi thấy trái cây có hột, mầm cây … v.v… cần nói “Kappiyam karohi” (hãy làm thành hợp lệ cho phép ), và người dâng cúng vật thực cần lấy đầu nhọn của dao, kéo, dĩa, que tăm … v.v… chọc vào trái cây, mầm cây rồi nói “Kappiyam Bhante” (Thưa Ngài, đã được làm thành hợp lệ cho phép).
– Để sự cúng dường được thành tựu phước báu mỹ mãn, cần có đủ bốn điều:
1. Người dâng cúng giữ giới trong sạch (5 hoặc 8 giới).
2. Vật cúng dường có được do làm ăn trong sạch, hợp pháp.
3. Tâm trong sạch (không tham, không sân, không cúng vì danh, vì lợi…).
4. Có đức tin về nghiệp và quả của nghiệp.