Bộ Phân Tích đọc online – Tập II
Tạng Vi Diệu Pháp (ABHIDHAMMAPIṬAKA)
Dịch Việt: Hoà Thượng Tịnh Sự SANTAKICCO
Nguồn: https://www.budsas.org
MỤC LỤC
[01]
Thiền Phân tích theo Kinh
Thiền Phân tích theo Vi Diệu Pháp
Phần Thiền Vấn Ðáp
[02]
Tứ Vô Lượng Phân tích theo Kinh
Tứ Vô Lượng Phân tích theo Vi Diệu Pháp
Phần Tứ Vô Lượng Vấn Ðáp
[03]
Ðiều Học Phân tích theo Vi Diệu Pháp
Phần Ðiều Học Vấn Ðáp
[04]
Tứ Ðạt Thông Phân tích theo Kinh
Tứ Ðạt Thông Phân tích theo Vi Diệu Pháp
Phần Tứ Ðạt Thông Vấn Ðáp
[05]
Trí Phân Tích
[06]
Tiểu Tông Phân Tích
[07]
Pháp Tâm Phân Tích
[08]
Từ vựng Pali-Việt
THIỀN PHÂN TÍCH (JHĀNAVIBHAṄGO)
PHÂN TÍCH THEO KINH (Suttantabhājanīyaṃ)
[599] PHẦN MẪU ÐỀ – MĀTIKĀ
Nơi đây, vị tỳ khưu sống thu thúc trong biệt biệt giải thoát thu thúc giới, thành tựu phẩm hạnh và hành xứ, thấy sợ hãi trong những lỗi nhỏ nhặt, thọ trì học tập các điều học, phòng hộ môn quyền, tiết độ trong vật thực, chuyên tâm tĩnh thức vào đầu hôm đến cuối hôm, chuyên chú tu tập các pháp đẳng giác một cách kiên trì thận trọng.
Vị ấy là bậc tỉnh giác khi bước tới bước lui, tỉnh giác khi nhìn tới nhìn lui, tỉnh giác khi co duỗi, tỉnh giác khi mang y bát và Tăng già lê, tỉnh giác khi ăn uống nhai nếm, tỉnh giác khi đại tiện tiểu tiện, tỉnh giác khi đi, đứng, ngồi, ngủ, thức, nói, im lặng.
Vị ấy xử dụng trú xứ vắng vẻ, là khu rừng, gốc cây, triền núi, thạch động, sơn cốc, nghĩa địa, chỗ ở nơi rừng, chỗ ở trống trải, chỗ đống rơm, chỗ ít tiếng ồn, chỗ ít náo động, chỗ hiu quạnh, chỗ vắng người, chỗ thích hợp thiền tịnh.
Vị ấy đi đến khu rừng hoặc đến gốc cây hay đến ngôi nhà trống, ngồi xếp bằng kiết già, giữ thân ngay thẳng, an lập niệm trước mặt.
Vị ấy đoạn trừ tham ác ở đời, sống với tâm ly tham ác, gội rữa tâm khỏi tham ác; đoạn trừ sân độc hại, sống với tâm vô sân độc, có lòng tiếp độ lợi ích đến tất cả loài sinh vật hữu tình gội rữa tâm khỏi sân độc hại; đoạn trừ hôn trầm thụy miên, sống ly hôn trầm thụy miên, có tưởng quang minh, có chánh niệm tỉnh giác, gội rữa tâm khỏi hôn trầm thụy miên; đoạn trừ trạo hối, sống vô phóng dật, nội tâm tỉnh lặng, gội rữa tâm khỏi trạo hối; đoạn trừ hoài nghi, an trú vượt khỏi hoài nghi, không còn nghi nan đối với các thiện pháp, gội rữa tâm khỏi hoài nghi.
Vị ấy sau khi đoạn trừ năm triền cái này là điều nhơ bẩn tâm, muội lược trí tuệ, ly các dục, ly các bất thiện pháp, chứng và trú Sơ thiền có tầm có tứ, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh; do vắng lặng tầm tứ, chứng và trú nhị thiền, nội tỉnh nhất tâm, không tầm không tứ, một trạng thái hỷ lạc do định sanh; ly hỷ trú xả, ức niệm tỉnh giác, thân cảm thọ lạc, chứng và trú tam thiền một trạng thái mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú; đoạn trừ lạc, đoạn trừ khổ, diệt hỷ ưu đã có từ trước, chứng và trú tứ thiền phi khổ phi lạc, xả niệm thanh tịnh. Do vượt qua mọi sắc tưởng, dập tắt các đối ngại tưởng, không tác ý các dị biệt tưởng, nghĩ rằng: “Hư không là vô biên”, chứng và trú không vô biên xứ; vượt qua mọi không vô biên xứ, nghĩ rằng “thức là vô biên” chứng và trú thức vô biên xứ; vượt qua mọi thức vô biên xứ, nghĩ rằng “không có chi cả”, chứng và trú vô sở hữu xứ; vượt qua mọi vô sở hữu xứ, chứng và trú phi tưởng phi phi tưởng xứ.
DỨT MẪU ÐỀ
[600] RẰNG “NƠI ÐÂY”, tức là trong tri kiến này, trong tín ngưỡng này, trong khuynh hướng này, trong lập tường này, trong pháp này, trong luật này, trong Pháp luật này, trong Kinh điển này, trong phạm hạnh này, trong giáo lý Bậc Ðạo Sư này; bởi lẽ đó được nói rằng “nơi đây”.
[601] RẰNG “TỲ KHƯU”, tức là tỳ khưu do ấn định, tỳ khưu do tự nhận, hạnh khất thực gọi là tỳ khưu, người khất thực gọi là tỳ khưu, người chấp nhận hạnh khất thực gọi là tỳ khưu, người mang vải cắt manh gọi là tỳ khưu, người đang cắt trừ các ác bất thiện pháp gọi là tỳ khưu, do từ bỏ phiền não từng phần gọi là tỳ khưu, do từ bỏ phiền não không riêng phần gọi là tỳ khưu, có tỳ khưu bậc hữu học, bậc vô học, có tỳ khưu phi hữu học phi vô học, có tỳ khưu hạng thượng thủ, có tỳ khưu hạng hiền thiện, có tỳ khưu hạng tinh khiết, có tỳ khưu hạng pháp lõi, có hạng đắc giới do đúng điều kiện nhất định bằng hành sự tứ tác tuyên ngôn có chúng tăng hòa hợp, gọi là tỳ khưu.
[602] RẰNG: “BIỆT BIỆT GIẢI THOÁT GIỚI”, tức là giới điều thành chỗ y cứ, điều sơ cấp, sở hành, điều chế ngự, điều thu thúc điều đại diện, điều chủ chốt để thành tựu các thiện pháp.
RẰNG “SỰ THU THÚC” tức là sự không thái quá về thân, không thái quá về khẩu, không thái quá về thân khẩu.
RẰNG “THU THÚC”, tức là dự nhập, biến nhập, dự đáo, mãn đáo, dự đắc, hoàn đắc, thành đạt theo biệt biệt giải thoát thu thúc giới này.
Bởi lẽ ấy, nói rằng: “thu thúc trong biệt biệt giải thoát thu thúc giới”.
[603] RẰNG “SỐNG”, tức là cử động, xử sự, trông nom, duy trì, sinh sống, hành động, trú ngụ. Bởi lẽ ấy gọi là “sống”.
[604] RẰNG “THÀNH TỰU PHẨM HẠNH VÀ HÀNH XỨ”
Có phẩm hạnh, có phi phẩm hạnh. Ở ÐÂY PHI PHẨM HẠNH LÀ THẾ NÀO?
Sự thái quá về thân, sự thái quá về khẩu, sự thái quá về thân khẩu, đây gọi là phi phẩm hạnh. Tất cả tư cách ác giới cũng là phi phẩm hạnh. Nơi đây có một số vị nuôi sống bằng cách tà mạng nào đó mà Ðức Phật đã quở trách, như bằng cách cho tre, hoặc cho lá, hoặc cho hoa, hoặc cho quả, hoặc cho phấn tắm, hoặc cho cây chải răng, hoặc nói gợi cảm, hoặc nói úp mở [1], hoặc lãnh nuôi trẻ, hoặc làm tay sai, đây gọi là phi phẩm hạnh[2].
Ở ÐÂY PHẨM HẠNH LÀ THẾ NÀO?
Sống không thái quá về thân, không thái quá về khẩu, không thái quá về thân khẩu, đây gọi là phẩm hạnh.
Tất cả sự thu thúc trong giới cũng là phẩm hạnh. Nơi đây, có một số vị không nuôi sống bằng cách tà mạng nào đó mà Ðức Phật đã quở trách, như không bằng cách cho tre hoặc không bằng cách cho lá, không bằng cách cho hoa, không bằng cách cho quả, không bằng cách cho phấn tắm, không bằng cách cho cây chà răng, không bằng cách nói gợi cảm, không bằng cách nới úp mở, không bằng cách lãnh nuôi trẻ, không bằng cách làm tay sai, đây gọi là phẩm hạnh[3].
RẰNG “HÀNH XỨ”. Có hành xứ, có phi hành xứ.
Ở ÐÂY, PHI HÀNH XỨ LÀ THẾ NÀO?
Nơi đây, một số vị có hành xứ chỗ gái điếm, hoặc hành xứ chỗ gái góa, hoặc hành xứ chỗ gái già, hoặc hành xứ người lại cái, hoặc hành xứ tỳ khưu ni, hoặc hành xứ chỗ quán nước; vị ấy sống lẫn lộn với vua, với các đại thần của vua, với các ngoại đạo sư, với các đệ tử ngoại đạo, với sự chung đụng cư sĩ không thích hợp, hoặc có những gia đình nào không có đức tin, không tín ngưỡng, không là giếng nước, thường mắng nhiếc chưỡi rủa, muốn gây bất lợi, muốn gây bất hạnh, muốn gây bất an, muốn cho không thoát khổ ách đối với các tỳ khưu, tỳ khưu ni, cận sự nam, cận sự nữ; giao du thân cận quan hệ những gia đình như thế. Ðây gọi là phi hành xứ[4].
Ở ÐÂY, HÀNH XỨ LÀ THẾ NÀO?
Nơi đây, một số vị không có hành xứ chỗ gái điếm, không có hành xứ chỗ gái góa, không có hành xứ chỗ gái già, không có hành xứ chổ người lại cái, không có hành xứ chỗ tỳ khưu ni, không có hành xứ chỗ quán nước; không sống lẫn lộn với vua, với các đại thần của vua, với các ngoại đạo sư, với các đệ tử ngoại đạo, với sự chung đụng cư sĩ không thích hợp, hoặc là những gia đình nào có đức tin, có tín ngưỡng, thành giếng nước, thường nghinh tiếp vị mặc Ca-sa, năng lai vãng với bậc ẩn sĩ, muốn đem lợi ích, muốn đem may mắn, muốn đem an vui, muốn cho thoát khổ ách, đến với các tỳ khưu, tỳ khưu ni, cận sự nam, cận sự nữ, giao du thân cận quan hệ những gia đình như thế. Ðây gọi là hành xứ[5].
Như thế, vị dự nhập… (trùng)… thành đạt với những phẩm hạnh này và hành xứ này; bởi lẽ ấy mới nói rằng “thành tựu phẩm hạnh và hành xứ”.
[605] RẰNG “THẤY SỢ HÃI TRONG NHỮNG LỖI NHÕ NHẶT”
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ NHỮNG LỖI NHỎ NHẶT?
Những lỗi lầm nào ít oi, thấp thói, nhẹ nhàng, được xem là nhẹ nhàng mà nên chế ngự, nên thu thúc, nên sanh tâm liên hệ tác ý. Những điều này được gọi là lỗi nhỏ nhặt.
Người thấy tội, thấy sợ, thấy nạn, thấy thoát ly đối với các lỗi nhỏ nhặt này. Bởi lẽ ấy được nói rằng “thấy sợ hãi trong những lỗi nhỏ nhặt”.
[606] RẰNG “THỌ TRÌ HỌC TẬP CÁC ÐIỀU HỌC”
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ HỌC GIỚI[6]?
Có bốn học giới: Học giới tỳ khưu của hàng tỳ khưu; học giới tỳ khưu ni của hàng tỳ khưu ni; học giới cận sự nam của hàng cận sự nam; học giới cận sự nữ của hàng cận sự nữ. Những điều này được gọi là học giới.
Ðối với những học giới này, người thọ trì tất cả bằng mọi điều, thọ trì tất cả theo mọi cách, rồi thực hành trọn vẹn không bỏ sót. Bởi lẽ ấy, được nói rằng “thọ trì học tập các điều học”.
[607] RẰNG “PHÒNG HỘ MÔN QUYỀN”[7], có tư cách phòng hộ môn quyền, có tư cách không phòng hộ môn quyền.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ TƯ CÁCH KHÔNG PHÒNG HỘ MÔN QUYỀN?
Nơi đây, có người khi thấy cảnh sắc do mắt, lại nắm tướng chung, nắm tướng riêng; do nguyên nhân chi mà các ác bất thiện pháp tham ưu xâm lấn người ấy khi sống không thu thúc nhãn quyền, thì người ấy không hành động thu thúc với nhân ấy, không hộ trì nhãn quyền, không thúc liểm trong nhãn quyền. Khi nghe tiếng do tai… (trùng)… Khi ngữi mùi do mũi… (trùng)… Khi nếm vị do lưỡi… (trùng)… Khi đụng vật xúc do thân… (trùng)… Khi biết cảnh pháp do ý, lại nắm lấy tướng chung, tướng riêng; do nguyên nhân ấy mà các ác bất thiện pháp tham ưu xâm lấn người ấy khi sống không thu thúc ý quyền, thì người ấy không hành động thu thúc với nhân ấy, không hộ trì ý quyền, không thúc liễm trong ý quyền, chi là sự không phòng hộ, không bảo hộ, không hộ trì, không thu thúc đối với sáu quyền này. Ðây gọi là tư cách không phòng hộ môn quyền.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ TƯ CÁCH PHÒNG HỘ MÔN QUYỀN?
Nơi đây, có người khi thấy cảnh sắc do mắt, không nắm tướng chung, không nắm tướng riêng; do nguyên nhân chi mà các ác bất thiện pháp tham ưu xâm lấn người ấy khi sống không thu thúc nhãn quyền, thì người ấy hành động thu thúc với nhân ấy, hộ trì nhãn quyền, thúc liểm trong nhãn quyền. Khi nghe tiếng do tai… (trùng)… Khi ngửi mùi do mũi… (trùng)… Khi nếm vị do lưỡi… (trùng)… Khi đụng vật xúc do thân… (trùng)… Khi biết cảnh pháp do ý, không nắm lấy tướng chung, không nắm lấy tướng riêng; do nguyên nhân chi mà các ác bất thiện pháp tham ưu xâm lấn người ấy khi sống không thu thúc ý quyền, thì người ấy hành động thu thúc với nhân ấy, hộ trì ý quyền, thúc liễm trong ý quyền, chi là sự phòng hộ, sự bảo hộ, sự hộ trì, sự thu thúc đối với sáu quyền này. Ðây gọi là tư cách phòng hộ môn quyền.
Vị dự nhập… (trùng)… thành đạt với tư cách phòng hộ môn quyền này. Bởi lẽ ấy được nói rằng “phòng hộ môn quyền”.
[608] RẰNG “TIẾT ÐỘ TRONG VẬT THỰC”, có tư cách tiết độ vật thực, có tư cách không tiết độ vật thực.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ TƯ CÁCH KHÔNG TIẾT ÐỘ VẬT THỰC?
Nơi đây, có người không quán tưởng, thọ dùng vật thực không chánh quán: ăn để chơi đùa, để đam mê, để trang sức, để làm đẹp, ở đây chi là tư cách không tri túc, không tri độ, không quán tưởng trong thực phẩm. Ðây gọi là tư cách không tiết độ vật thực.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ TƯ CÁCH TIẾT ÐỘ VẬT THỰC?
Nơi đây, có người quán tưởng, thọ dùng vật thực một cách chánh quán: ăn chẳng phải để chơi đùa, chẳng phải để đam mê, chẳng phải để trang sức, chẳng phải để làm đẹp, chỉ để duy trì, nuôi dưỡng xác thân này, để khỏi bị thương tổn, để hỗ trợ phạm hạnh, nghĩ là như thế ta sẽ trừ diệt cảm thọ cũ và không cho khởi lên cảm thọ mới, ở nơi ta không có lỗi lầm và sẽ lạc trú; ở đây chi là tư cách tri túc, tư cách tiết độ, quán tưởng trong vật thực. Ðây gọi là tư cách tiết độ vật thực”.
Vị dự nhập… (trùng)… thành đạt với tư cách tiết độ trong vật thực. Bởi lẽ ấy được gọi là ‘tri túc trong vật thực”.
[609] LÀM SAO VỊ TỲ KHƯU CHUYÊN TÂM TỈNH THỨC VÀO ÐẦU HÔM ÐẾN CUỐI HÔM?
Nơi đây, vị tỳ khưu ban ngày thanh lọc tâm khỏi các chướng ngại pháp bằng cách kinh hành, bằng cách an tọa; vào canh đầu hôm, thanh lọc tâm bởi các chướng ngại pháp bằng cách kinh hành, bằng cách an tọa; vào canh giữa đêm nằm nghỉ dáng sư tử ngọa, nghiêng tay bên mặt, gát chân lên chân, có chánh niệm tỉnh giác, tác ý đến khởi sàng tưởng; vào canh cuối đêm thức dậy, thanh lọc tâm khỏi các chướng ngại pháp bằng cách kinh hành, bằng cách an tọa. Như vậy là vị tỳ khưu chuyên tâm tỉnh thức vào đầu hôm đến cuối hôm.
[610] RẰNG “KIÊN TRÌ”, tức cái chi là sự cần cố thuộc về tâm… (trùng)… chánh tinh tấn. Rằng “THẬN TRỌNG”, tức cái chi là sự hiểu rõ, biết rõ… (trùng)… vô si, trạch pháp, chánh kiến.
[611] RẰNG “CHUYÊN CHÚ TU TẬP CÁC PHÁP ÐẲNG GIÁC”
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ CÁC PHÁP ÐẲNG GIÁC?
Tức bảy giác chi: niệm giác chi, trạch pháp giác chi, cần giác chi, hỷ giác chi, tịnh giác chi, định giác chi, xả giác chi. Ðây gọi là các pháp đẳng giác.
Thực hành tu tập, làm sung mãn các pháp đẳng giác này. Bởi lẽ ấy được nói rằng “chuyên chú tu tập các pháp đẳng giác”.
[612] LÀM SAO VỊ TỲ KHƯU là bậc tỉnh giác khi bước tới bước lui, tỉnh giác khi nhìn tới nhìn lui, tỉnh giác khi co duỗi, tỉnh giác khi mang y bát và Tăng già lê, tỉnh giác khi ăn uống nhai nếm, tỉnh giác khi đại tiện tiểu tiện, tỉnh giác khi đi đứng, ngồi, ngủ, thức, nói, im lặng?
Nơi đây, vị tỳ khưu bước tới có chánh niệm tỉnh giác, bước lui có chánh niệm tỉnh giác, nhìn tới có chánh niệm tỉnh giác, nhìn lui có chánh niệm tỉnh giác, co vào có chánh niệm tỉnh giác, duỗi ra có chánh niệm tỉnh giác; vị ấy giữ chánh niệm tỉnh giác khi mang y bát, tăng già lê, giữ chánh niệm tỉnh giác, khi ăn, uống, nhai, nếm, giữ chánh niệm tỉnh giác khi đại tiện tiểu tiện, giữ chánh niệm tỉnh giác khi đi đứng, ngồi, ngủ, thức, nói, im lặng.
RẰNG “NIỆM”. Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ NIỆM?
Cái chi là ức niệm, tùy niệm, tưởng niệm, nhớ lại, thái độ nhớ lại, thái độ ghi nhận, thái độ không lơ đảng, thái độ không lãng quên, niệm là niệm quyền, niệm lực, chánh niệm. Ðây gọi là niệm.
RẰNG “TỈNH GIÁC”. Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ TỈNH GIÁC?
Cái chi là sự hiểu rõ, sự biết rõ, sự lựa chọn, sự cân nhắc, trạch pháp, sự tham khảo, sự phân định, sự khảo sát, sự thông thái, sự rành rẽ, sự khôn ngoan, sự sáng suốt, sự suy xét, sự nghiên cứu, sự minh mẫn, sự mẫn tiệp, sự hồi quang, sự chiếu kiến, sự lương tri, sự sắc xảo, tuệ là tuệ quyền, tuệ lực, tuệ như vũ khí, tuệ như lâu đài, tuệ như ánh sáng, tuệ như hào quang, tuệ như đèn, tuệ như báu vật, vô si, trạch pháp, chánh kiến. Ðây gọi là tỉnh giác.
Vị dự nhập… (trùng)… thành đạt với sự niệm này và sự tỉnh giác này như thế. Như vậy là vị tỳ khưu bước tới có chánh niện tỉnh giác, bước lui có chánh niệm tỉnh giác, nhìn tới có chánh niệm tỉnh giác, nhìn lui có chánh niệm tỉnh giác, co vào có chánh niệm tỉnh giác, duỗi ra có chánh niệm tỉnh giác; giữ chánh niệm tỉnh giác khi ăn uống nhai nếm, giữ chánh niệm tỉnh giác khi mang y bát và Tăng già lê, giữ chánh niệm tỉnh giác khi ăn uống nhai nếm, giữ chánh niệm tỉnh giác khi đại tiện tiểu tiện, giữ chánh niệm tỉnh giác khi đứng, ngồi, ngủ, thức, nói, im lặng
[613] RẰNG “VẮNG VẺ”, như là trú xứ ở gần, mà chỗ ấy không lẫn lộn với người tại gia, bậc xuất gia, do đó chỗ ấy là chỗ vắng vẽ. Dù là trú xứ ở xa, mà chỗ ấy không lẫn lộn với các người tại gia, xuất gia, do đó chỗ ấy cũng là chỗ vắng vẽ.
[614] RẰNG “TRÚ XỨ”. Giường cũng là trú xứ, ghế cũng là trú xứ, nệm cũng là trú xứ, gối cũng là trú xứ, tịnh thất cũng là trú xứ, mái hiên cũng là trú xứ, lâu đài cũng là trú xứ, nhà chòi cũng là trú xứ, phòng ốc cũng là trú xứ, thạch động cũng là trú xứ, cốc hang cũng là trú xứ, gốc cây cũng là trú xứ, bụi tre cũng là trú xứ; hoặc là bất cứ chỗ nào mà các vị tỳ khưu lui tới thì tất cà chỗ đó là trú xứ.
[615] RẰNG “XỬ DỤNG”, tức là xử dụng, thọ dụng, hưởng thọ, dụng nạp, tiếp nhận trú xứ vắng vẻ này. Bởi lẽ ấy được nói rằng “XỬ DỤNG”.
[616] RẰNG “RỪNG” tức là ra ngoài thềm nhà, tất cả chỗ đó là rừng.
[617] RẰNG “GỐC CÂY”, chính tại cội cây là gốc cây. Chính tại đồi đá là triền núi. Chính tại kẹt núi là thạch động. Chính hang núi là sơn cốc, chỗ đất táng là nghĩa địa. Chỗ hoang sơ là chỗ ở trống trãi, chỗ chất rơm là đống rơm.
[618] RẰNG: “CHỖ Ở NƠI RỪNG”, đó là chỉ cho các trú xứ xa vắng. Rằng “CHỖ Ở NƠI RỪNG”, đó là chỉ cho các trú xứ rừng rậm. Rằng “CHỖ Ở NƠI RỪNG”, đó là chỉ cho các trú xứ kinh hoàng. Rằng “CHỖ Ở NƠI RỪNG”, đó là chỉ cho các trú xứ rởn lông ốc[8]. Rằng “CHỖ Ở NƠI RỪNG”, đó là chỉ cho các trú xứ tận cùng. Rằng “CHỖ Ở NƠI RỪNG”, đó là chỉ cho các trú xứ lân cận loài người. Rằng “CHỖ Ở NƠI RỪNG”, đó là chỉ cho các trú xứ khó tìm đến.
[619] RẰNG “CHỖ ÍT TIẾNG ỒN”, như là trú xứ ở gần mà chỗ ấy không lẫn lộn với người tại gia, xuất gia, do đó chỗ ấy là chỗ ít tiếng ồn, dù là trú xứ ở xa mà chỗ ấy không lẫn lộn với người tại gia, xuất gia, do đó chỗ ấy cũng là chỗ ít tiếng ồn.
[620] RẰNG “CHỖ ÍT NÁO ÐỘNG”, chỗ nào là chỗ ít tiếng ồn, chỗ ấy là chỗ ít náo động; chỗ nào là chỗ ít náo động, chỗ ấy là chỗ hiu quạnh; chỗ nào là chỗ hiu quạnh, chỗ ấy là chỗ vắng người; chỗ nào là chỗ vắng người, chỗ ấy là chỗ thích hợp thiền định.
[621] RẰNG “ÐI ÐẾN KHU RỪNG HOẶC ÐẾN GỐC CÂY HOẶC ÐẾN NGÔI NHÀ TRỐNG”, tức là vị ấy đi đến rừng, đi đến gốc cây hay đi đến ngôi nhà trống.
[622] RẰNG “NGỒI XẾP BẰNG KIẾT GIÀ”, tức là vị ngồi xếp bằng tréo chân.
[623] RẰNG “GIỮ THÂN NGAY THẲNG”, tức là thân trụ giữ thẳng lưng.
[624] RẰNG “AN LẬP NIỆM TRƯỚC MẶT”
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ NIỆM?
Cái chi là sự ức niệm, tùy niệm… (trùng)… chánh niệm. Ðây gọi là niệm.
Niệm này được giữ, được đặt ngay nơi chót mũi hoặc môi. Bởi lẽ ấy được nói rằng “AN LẬP NIỆM TRƯỚC MẶT”.
[625] RẰNG “ÐOẠN TRỪ THAM ÁC Ở ÐỜI”
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ THAM ÁC?
Cái chi là sự tham luyến, tham đắm… (trùng)… sự tham đắm của tâm. Ðây gọi là tham ác.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ ÐỜI?
Tức là đời ngũ thủ uẩn. Ðây gọi là đời.
Tham ác đây được yên lặng trong đời này, được vắng lặng, tịnh chỉ, dập tắt, diệt tắt, đình chỉ cấm chỉ, kiệt quệ, tàn rụi, tận diệt; bởi lẽ ấy đuợc nói rằng “đoạn trừ tham ác ở đời”.
[626] RẰNG “VỚI TÂM LY THAM ÁC”
Ở đây thế nào là tâm? Cái chi là tâm, ý, tâm địa… (trùng)… ý thức giới sanh từ đó. Ðây gọi là tâm.
Tâm này đã lìa tham ác; bởi lẽ ấy được nói là “với tâm ly tham ác”.
[627] RẰNG “SỐNG”, tức là cử động xử sự, trông nom, duy trì, sinh sống, hành động, trú ngụ, bởi lẽ ấy gọi là sống.
[628] RẰNG “GỘI RỮA TÂM KHỎI THAM ÁC”
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ THAM ÁC?
Cái chi là sự tham luyến, tham đắm… (trùng)… sự tham đắm của tâm. Ðây gọi là tham ác.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ TÂM?
Cái chi là tâm, ý, tâm địa… (trùng)… ý thức giới sanh từ đó. Ðây gọi là tâm.
Tâm này rửa sạch, lọc sạch, gội sạch, giải tỏa, giải phóng, giải thoát khỏi tham này; bởi lẽ ấy được nói là “gội rữa tâm khỏi tham ác”
[629] RẰNG “ÐOẠN TRỪ SÂN ÐỘC HẠI”. Có sân độc và có sân hại.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ SÂN ÐỘC[9]?
Cái chi là sự hiềm khích của tâm, sự phẫn nộ, phản kháng, chống đối, giận dữ, giận hờn, tức giận, nóng nảy, ám hại, quyết ám hại, sự sân độc của tâm, sự ám hại của tâm, sự hiềm hận, cách hiềm hận, thái độ hiềm hận, sự hãm hại, cách hãm hại, thái độ hãm hại, sự sân độc, cách sân dộc, thái độ sân dộc, sự đối lập, phản đối, hung dữ, lỗ mãn, sự bất bình của tâm. Ðây gọi là sân độc.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ SÂN HẠI[10]?
Chi là sân độc, ấy là sân hại; chi là sân hại, ấy là sân độc.
Như thế sân độc này và sân hại này được yên lặng, được bắng lặng, tịnh chỉ, dập tắt, diệt tắt, đình chỉ, cấm chỉ, kiệt quệ, tàn rụi, tận diệt; bởi lẽ ấy được nói rằng “đoạn trừ sân độc hại”.
[630] RẰNG “TÂM VÔ SÂN ÐỘC[11]”
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ TÂM?
Cái chi là tâm, ý, tâm địa… (trùng)… ý thức giới sanh từ đó. Ðây gọi là tâm.
Tâm này không còn sân độc. Bởi lẽ ấy được nói là “tâm vô sân độc”.
[631] RẰNG “SỐNG”, tức là cử động… (trùng)… trú ngụ; bởi lẽ ấy được gọi là sống.
[632] RẰNG “GỘI RỮA TÂM KHỎI SÂN ÐỘC HẠI”
Có sân độc, có sân hại.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ SÂN ÐỘC?
Cái chi là sự hiềm khích của tâm, sự phẫn nộ, phản kháng, chống đối, giận dữ, giận hờn, tức giận, nóng nảy, ám hại, quyết ám hại, sự sân độc của tâm, sự ám hại của tâm, sự hiềm hận, cách hiềm hận, thái độ hiềm hận, sự hãm hại, cách hãm hại, thái độ hãm hại, sự sân độc, cách sân dộc, thái độ sân dộc, sự đối lập, phản đối, hung dữ, lỗ mãn, sự bất bình của tâm. Ðây gọi là sân độc.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ SÂN HẠI?
Chi là sân độc, ấy là sân hại; chi là sân hại, ấy là sân độc.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ TÂM?
Cái chi là tâm, ý, tâm địa… (trùng)… ý thức giới sanh từ đó. Ðây gọi là tâm.
Tâm này rữa sạch, lọc sạch, gội sạch, giải tỏa, giải phóng, giải thoát khỏi sân độc hại; bởi lẽ ấy được gọi là “gội rữa tâm thoát khỏi sân độc hại”
[633] RẰNG “ÐOẠN TRỪ HÔN TRẦM THỤY MIÊN” CÓ HÔN TRẦM, CÓ THỤY MIÊN…
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ HÔN TRẦM?
Chi là sự không bén nhạy của tâm, không thích nghi, sự chần chờ, trầm lặng, lười biếng, cách lười biếng, thái độ lười biếng, dả dượi, cách dả dượi, thái độ dả dượi của tâm. Ðây gọi là hôn trầm.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ THỤY MIÊN?
Chi là sự không bén nhạy của thân, không thích nghi, sự che lấp, dậy khuất, bít ngăn bên trong, hôn mê, bần thần thiu thỉu, sự buồn ngủ, cách buồn ngủ, thái độ buồn ngủ. Ðây gọi là thụy miên.
Như thế hôn trầm này và thụy miên này được yên lặng, được vắng lặng, tịnh chỉ, dập tắt, diệt tắt, đình chỉ, cấm chỉ, kiệt quệ, tàn rụi, tận diệt; bởi lẽ ấy được nói rằng “đoạn trừ hôn trầm thụy miên”.
[634] RẰNG “LY HÔN TRẦM THỤY MIÊN”, tức là tình trạng dứt bỏ, tình trạng đào thải, tình trạng giải thoát, tình trạng đoạn trừ, tình trạng phóng xả, tình trạng xả trừ sự hôn trầm thụy miên ấy; nên được gọi là “ly hôn trầm thụy miên”.
Rằng “SỐNG… (trùng)… nên được gọi là “sống”.
[635] RẰNG “TƯỞNG QUANG MINH”
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ TƯỞNG?
Chi là sự nhận ra, sự nhận biết, thái độ nhận biết. Ðây gọi là tưởng.
Tưởng này tỏ rạng, mở mang, trong sạch, thuần tịnh; nên được gọi là “tưởng quang minh”.
[636] RẰNG “CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC”
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ NIỆM?
Chi là sự ức niệm, tùy niệm… (trùng)… chánh niện. Ðây gọi là niệm.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ TỈNH GIÁC?
Chi là sự hiểu rõ, biết rõ… (trùng)… vô si, trạch pháp, chánh kiến. Ðây gọi là tỉnh giác.
Như thế, vị dự nhập… (trùng)… thành đạt với niệm này và tỉnh giác này; nên gọi là “chánh niệm tỉnh giác”.
[637] RẰNG “GỘI RỮA TÂM KHỎI HÔN TRẦM THỤY MIÊN”
Có hôn trầm, có thụy miên.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ HÔN TRẦM?
Chi là sự không mạnh dạn của tâm… (trùng)… thái độ dã dượi của tâm. Ðây gọi là sự hôn trầm.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ THỤY MIÊN?
Chi là sự không bén nhạy của thân… (trùng)… thái độ buồn ngủ. Ðây gọi là thụy miên.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ TÂM?
Chi là tâm, ý, tâm địa… (trùng)… ý thức giới sanh từ đó. Ðây gọi là tâm.
Tâm này rửa sạch, lọc sạch, gội sạch, giải tỏa, giải phóng, giải thoát khỏi hôn trầm thụy miên; nên được gọi là “gội rửa tâm khỏi hôn trầm thụy miên”.
[638] RẰNG “ÐOẠN TRỪ TRẠO HỐI”
Có trạo cử, có hối hận.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ TRẠO CỬ?
Chi là sự phóng dật của tâm, sự không vắng lặng, tâm lao chao, tình trạng tán loạn của tâm. Ðây gọi là trạo cử.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ HỐI HẬN?
Việc không đáng nghĩ là đáng; việc đáng nghĩ là không đáng; việc không tội nghỉ là tội, việc tội nghĩ là không tội; sự kiện nào là sự hối hận như vậy, cách hối hận, thái độ hối hận, tâm ăn năn, ý bối rối. Ðây gọi là hối hận.
Như thế trạo cử này và hối hận này được yên lặng, được vắng lặng, tịnh chỉ, dập tắt, diệt tắt, đình chỉ, cấm chỉ, kiệt quệ, tàn rụi, tận diệt; nên được nói rằng “đoạn trừ trạo hối”.
[639] RẰNG “VÔ PHÓNG DẬT”, tức là tình trạng đã dứt bỏ, đã đào thải, đã giải thoát, đã đoạn trừ, đã phóng xả, đã trừ trạo hối ấy; nên được gọi là “vô phóng dật”.
[640] RẰNG “SỐNG”, tức là cử động… (trùng)… trú ngụ; nên gọi là sống.
[641] RẰNG “NỘI”, tức là chi thuộc bên trong, thuộc phần riêng.
Rằng “TÂM TỈNH LẶNG”. Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ TÂM?
Chi là tâm, ý, tâm địa… (trùng)… ý thức giới sanh từ đó. Ðây gọi là tâm.
Tâm thuộc nội phần này được yên lặng, được vắng lặng, được tịnh chỉ; nên được gọi là “nội tâm tỉnh lặng”.
[642] RẰNG “GỘI RỮA TÂM KHỎI TRẠO HỐI”
Có trạo cử, có hối hận.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ TRẠO CỬ?
Chi là sự phóng dật của tâm, sự không vắng lặng, tâm lao chao, tình trạng tán loạn của tâm. Ðây gọi là trạo cử.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ HỐI HẬN?
Việc không đáng nghĩ là đáng… (trùng)… ý bối rối. Ðây gọi là hối hận.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ TÂM?
Chi là tâm, ý, tâm địa… (trùng)… ý thứ giới sanh từ đó. Ðây gọi là tâm.
Tâm này rữa sạch, lọc sạch, gội sạch, giải tỏa, giải phóng, giải thoát khỏi trạo hối; nên được gọi là “gội rữa tâm khỏi trạo hối”.
[643] RẰNG “ÐOẠN TRỪ HOÀI NGHI”
Chi là sự do dự, cách do dự, thái độ do dự, sự dị nghị, sự không xác định, sự lưỡng ước, sự phân vân, sự ngờ vực, sự không nhất quyết, sự tính vớ vẫn, sự lẫn quẩn, sự không quyết đoán, tình trạng lay động của tâm, sự rối ý. Ðây gọi là hoài nghi.
Hoài nghi này được yên lặng, vắng lặng, tịnh chỉ, dập tắt, diệt tắt, đình chỉ, cấm chỉ, kiệt quệ, tàn rụi, tận diệt; nên được gọi là “đoạn trừ hoài nghi”.
[644] RẰNG “VƯỢT KHỎI HOÀI NGHI”, tức là hoài nghi này được đi qua, vượt qua, vượt khỏi, đi đến bờ kia, đạt đến bờ kia; nên được gọi là “vượt khỏi hoài nghi”.
[645] RẰNG “SỐNG”, tức là cử động… (trùng)… trú ngụ; nên gọi là sống.
[646] RẰNG “KHÔNG CÒN NGHI NAN ÐỐI VỚI CÁC THIỆN PHÁP” tức là đối với các thiện pháp không ngờ vực, không do dự theo sự hoài nghi này, thành người chẳng nghi hoặc, chẳng nghi ngờ, không còn hoài nghi; nên được gọi là “không nghi nan đối với các thiện pháp”.
[647] RẰNG “GỘI RỮA TÂM KHỎI HOÀI NGHI”
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ HOÀI NGHI?
Chi là sự do dự, cách do dự, thái độ do dự… (trùng)… tình trạng lay động của tâm, sự rối ý. Ðây gọi là hoài nghi.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ TÂM?
Chi là tâm, ý, tâm địa… (trùng)… ý thức giới sanh từ đó. Ðây gọi là tâm.
Tâm này rữa sạch, lọc sạch, gội sạch, giải tỏa, giải phóng, giải thoát khỏi hoài nghi đây, nên được gọi là “gội rữa tâm khỏi hoài nghi”.
[648] RẰNG “ÐOẠN TRỪ NĂM TRIỀN CÁI NÀY”, tức là năm triền cái này được yên lặng, vắng lặng, tịnh chỉ, dập tắt, diệt tắt, đình chỉ, cấm chỉ, kiệt quệ, tàn rụi, tận diệt; nên được gọi là “đoạn trừ năm triền cái này”.
[649] RẰNG “ÐIỀU NHƠ BẨN TÂM” tức là năm triền cái này đều là phiền não của tâm.
[650] RẰNG “MUỘI LƯỢC TRÍ TUỆ” tức là do năm triền cái này mà trí tuệ chưa sanh không sanh và trí tuệ đã sanh bị tiêu diệt; cho nên được gọi là làm muội lược trí tuệ.
[651] RẰNG “LY CÁC DỤC LY CÁC BẤT THIỆN PHÁP”
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ CÁC DỤC?
Sự mong muốn là dục, sự tham luyến là dục, dục tham là dục, sự tư duy là dục, quyến luyến là dục, tham tư duy là dục. Ðây gọi là các dục.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ CÁC BẤT THIỆN PHÁP?
Dục dục, sân độc, hôn thụy, trạo hối, hoài nghi. Ðây gọi là các bất thiện pháp.
Như thế, vị xa lìa các dục này và các bất thiện pháp này; nên được gọi là “ly các dục ly các bất thiện pháp”.
[652] RẰNG “HỮU TẦM HỮU TỨ”
Có tầm, có tứ.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ TẦM?
Chi là sự tìm cảnh, sự nghĩ ngợi, sự suy xét, sự chuyên chú, sự hướng tâm, sự đem tân khắn khít cảnh, chánh tư duy. Ðây gọi là tầm.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ TỨ?
Chi là sự gìn giữ, sự giám sát, sự bám sát, sự chăm nom, trạng thái khắn khít, thái độ xem xét của tâm. Ðây gọi là tứ.
Như thế, vị dự nhập… (trùng)… thành đạt với tầm này và tứ này; nên được gọi là “hữu tầm hữu tứ”.
[653] RẰNG “DO LY DỤC SANH”, tức là tầm tứ hỷ lạc và nhất hành tâm; những pháp ấy được sanh ra, được sanh thành, được xuất hiện, được phát khởi, được hiện khởi trong sự viễn ly này. Do đó được gọi là “do ly dục sanh”.
[654] RẰNG “TRẠNG THÁI HỶ LẠC”
Có hỷ, có lạc.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ HỶ?
Chi là sự mừng vui, sự no vui, sự hân hoan, sự hỷ duyệt, sự hài lòng, sự vui vẻ, sự phấn khởi, sự thích thú, sự hoan hỷ của tâm. Ðây gọi là hỷ.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ LẠC?
Chi là sự sảng khoái thuộc về tâm, sự dễ chịu thuộc về tâm, trạng thái cảm thọ sảng khoái dễ chịu sanh từ tâm xúc sự cảm giác sảng khoái dễ chịu sanh từ tâm xúc. Ðây gọi là lạc.
Lạc này câu hành, câu sanh, hòa hợp, tương ưng với hỷ này; nên được gọi là hỷ lạc.
[655] RẰNG “SƠ”, tức là hạng thứ nhất do đếm tuần tự; chứng bậc thứ nhất này nên gọi là sơ (thiền).
[656] RẰNG “THIỀN”, tức là tầm, tứ, hỷ, lạc và nhất hành tâm.
[657] RẰNG “CHỨNG”, là sự mà đắc thành, viên đắc, chứng đắc, thành đạt, đắc chứng, tác chứng, thành tựu sơ thiền.
[658] RẰNG “TRÚ”, tức là cử động… (trùng)… trú ngụ, bởi lẽ ấy gọi là trú.
[659] RẰNG “VẮNG LẶNG TẦM, TỨ”
Có tầm, có tứ.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ TẦM?
Chi có sự tìm cảnh, sự nghĩ ngợi… (trùng)… chánh tư duy. Ðây gọi là tầm.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ TỨ?
Chi là sự gìn giữ, sự giám sát, sự chăm nom, trạng thái khắn khít, trạng thái xem xét của tâm. Ðây gọi là tứ.
Như thế tầm này và tứ này được yên lặng, vắng lặng, tịnh chỉ dập tắt, diệt tắt, đình chỉ, cấm chỉ, kiệt quệ, tàn rụi, tận diệt; do đó được gọi là “vắng lặng tầm tứ”.
[660] RẰNG “NỘI”, là chi thuộc bên trong, thuộc phần riêng.
RẰNG “TỊNH”, tức chi là sự trong sạch, sự tin tưởng, sự tín nhiệm, sự cả tin.
[661] RẰNG “NHẤT TÂM”, tức chi là sự đình trụ của tâm… (trùng)… chánh định.
[662] RẰNG “KHÔNG TẦM KHÔNG TỨ”
Có tầm, có tứ.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ TẦM?
Chi là sự tìm cảnh, sự nghĩ ngợi… (trùng)… chánh tư duy. Ðây gọi là tầm.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ TỨ?
Chi là sự gìn giữ, sự giám sát, sự bám sát, sự chăm nom, trạng thái khắn khít, trạng thái xem xét của tâm. Ðây gọi là tứ.
Như thế, tầm này và tứ này được yên lặng, được vắng lặng, tịnh chỉ, dập tắt, diệt tắt, đình chỉ, cấm chỉ, kiệt quệ, tàn rụi, tận diệt. Do đó được gọi là “không tầm không tứ”.
[663] RẰNG “DO ÐỊNH SANH”, tức là sự thanh tịnh, hỷ lạc, nhất hành tâm; những pháp ấy được sanh ra, được sanh thành, được xuất hiện, được phát khởi, được hiện khởi trong định này. Do đó được gọi là “do định sanh”.
[664] RẰNG “TRẠNG THÁI HỶ LẠC”
Có hỷ, có lạc.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ HỶ[12]?
Chi là sự mừng vui, sự no vui… (trùng)… sự hoan hỷ của tâm. Ðây gọi là hỷ.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ LẠC[13]?
Chi là sự sảng khoái thuộc về tâm… (trùng)… sự cảm giác sảng khoái dễ chịu sanh từ tâm xúc. Ðây gọi là lạc.
Lạc này câu hành, câu sanh, hòa hợp, tương ưng với hỷ này; do đó được gọi là hỷ lạc.
[665] RẰNG “NHỊ[14]” tức là hạng thứ hai do đếm tuần tự, chứng bậc thứ hai này nên gọi là nhị (thiền).
[666] RẰNG “THIỀN[15]” tức là sự thanh tịnh, hỷ lạc, nhất hành tâm.
[667] RẰNG “CHỨNG[16]” Là sự đắc thành, viên đắc, chứng đạt, thành đạt, đắc chứng, tác chứng, thành tựu nhị thiền.
[668] RẰNG “TRÚ”, tức là cử động… (trùng)… trú ngụ; do đó gọi là trú.
[669] RẰNG “LY HỶ[17]”
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ HỶ?
Chi là sự mừng vui, sự no vui, sự hân hoan, sự hỷ duyệt, sự hài lòng, sự vui vẽ, sự phấn khởi, sự thích thú, sự hoan hỷ của tâm. Ðây gọi là hỷ.
Hỷ này được yên lặng, vắng lặng, tịnh chỉ, dập tắt, diệt tắt, đình chỉ, cấm chỉ, kiệt quệ, tàn rụi, tận diệt. Do đó được gọi là “ly hỷ”.
[670] RẰNG “XẢ[18] (trú)”
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ XẢ?
Chi là sự lơ là, sự dững dưng, sự thờ ơ, sự quân bình của tâm. Ðây gọi là xả.
Bậc dự nhập… (trùng)… thành đạt với xả này. Do đó được gọi là “xả (trú)”.
[671] RẰNG “TRÚ”, tức là cử động… (trùng)… trú ngụ, do đó được gọi là trú.
[672] RẰNG “VỊ ỨC NIỆM TỈNH GIÁC”
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ ỨC NIỆM?
Chi là sự ức niệm, tùy niệm… (trùng)… chánh niệm. Ðây gọi là niệm.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ TỈNH GIÁC?
Chi là sự hiểu rõ, biết rõ… (trùng)… vô si, trạch pháp, chánh kiến. Ðây gọi là tỉnh giác.
Như thế, bậc dự nhập… (trùng)… thành đạt với ức niệm này và tỉnh giác này. Do đó được gọi là “vị ức niện tỉnh giác”.
[673] RẰNG “THÂN CẢM THỌ LẠC”
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ LẠC?
Chi là sự sảng khoái thuộc về tâm, sự dễ chịu thuộc về tâm, trạng thái cảm thọ sảng khoái dễ chịu sanh từ tâm xúc, sự cảm giác sảng khoái dễ chịu sanh từ tâm xúc. Ðây gọi là lạc.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ THÂN?
Tức tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn. Ðây gọi là thân.
Cảm thọ lạc này bằng thân. Do đó được gọi là “thân cảm thọ lạc”.
[674] RẰNG “MỘT TRẠNG THÁI MÀ CÁC BẬC THÁNH GỌI”
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ CÁC BẬC THÁNH?
Chư Phật và chư đệ tử Phật được gọi là các bậc Thánh; chư vị ấy trình bày, thuyết giảng, giải thích, xác minh, khai thị, phân tích, bày tỏ, tuyên thuyết điều này. Do đó được nói rằng “một trạng thái mà các bậc Thánh gọi”.
[675] RẰNG “XẢ NIỆM LẠC TRÚ”
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ XẢ?
Chi là sự lơ là, sự dững dưng, sự thờ ơ, sự quân bình của tâm. Ðây gọi là xả.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ NIỆM?
Chi là sự ức niệm, tùy niệm… (trùng)… chánh niệm. Ðây gọi là niệm.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ LẠC?
Chi là sự sảng khoái thuộc về tâm, sự dễ chịu thuộc về tâm, trạng thái cảm thọ sảng khoái dễ chịu từ tâm xúc, sự cảm giác sảng khoái dễ chịu sanh từ tâm xúc. Ðây gọi là lạc.
Như thế, vị thành tựu với xả này, niệm này và lạc này rồi cử động, xử sự, trông nom, duy trì, sinh sống, hành động, trú ngụ, do đó được nói rằng “xả niệm lạc trú”.
[676] RẰNG “TAM” tức là hạng thứ ba do đếm tuần tự; chứng bậc thứ ba này nên gọi là tam (thiền).
[677] RẰNG “THIỀN”, tức là xả, niệm, tỉnh giác, lạc, nhất hành tâm.
[678] RẰNG “CHỨNG”. Là sự mà đắc thành, viên đắc, chứng đạt, thành đạt, đắc chứng, tác chứng, thành tựu tam thiền.
[679] RẰNG “TRÚ”, tức là cử động… (trùng)… trú ngụ. Do đó được gọi là trú.
[680] RẰNG “ÐOẠN TRỪ LẠC ÐOẠN TRỪ KHỔ”
Có lạc, có khổ.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ LẠC?
Chi là sự sảng khoái thuộc về thân, sự dễ chịu thuộc về thân, trạng thái cảm thọ sảng khoái dễ chịu sanh từ thân xúc, sự cảm giác sảng khoái dễ chịu sanh từ thân xúc. Ðây gọi là lạc.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO GỌI LÀ KHỔ ?
Chi là sự bất an thuộc về thân, sự đau đớn thuộc về thân, trạng thái cảm thọ bất an đau đớn sanh từ thân xúc, sự cảm giác bất an đau đớn sanh từ thân xúc. Ðây gọi là khổ.
Như thế lạc này và khổ này được yên lặng, vắng lặng, tịnh chỉ, dập tắt, diệt tắt, đình chỉ, cấm chỉ, kiệt quệ, tàn rụi, tận diệt. Do đó, được nói rằng: “đoạn trừ lạc đoạn trừ khổ”.
[681] RẰNG “DIỆT HỶ ƯU ÐÃ CÓ TỪ TRƯỚC”
Có hỷ, có ưu.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ HỶ?
Chi là sự sảng khoái thuộc về tâm, sự dễ chịu thuộc về tâm, trạng thái cảm thọ sảng khoái dễ chịu thuộc về tâm, sự cảm giác sảng khoái dễ chịu thuộc vềø tâm. Ðây gọi là hỷ.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ ƯU?
Chi là sự bất an thuộc về tâm, sự khó chịu thuộc về tâm, trạng thái cảm thọ bất an khó chịu sanh từ tâm xúc, sự cảm giác bất an khó chịu sanh từ tâm xúc. Ðây gọi là ưu.
Như thế hỷ này và ưu này có từ trước đã được yên lặng, vắng lặng, tịnh chỉ, dập tắt, diệt tắt, đình chỉ, cấm chỉ, kiệt quệ, tàn rụi, tận diệt, do đó được nói rằng “diệt hỷ ưu đã có từ trước”.
[682] RẰNG “PHI KHỔ PHI LẠC”, tức là sự không vui không buồn thuộc về tâm, trang thái cảm thọ không khổ không lạc sanh từ tâm xúc, sự cảm giác không khổ không lạc sanh từ tâm xúc. Do đó được nói là “phi khổ phi lạc”.
[683] RẰNG “XẢ NIỆM THANH TỊNH”
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ XẢ?
Chi là sự lơ là, sự dững dưng, sự thờ ơ, sư quân bình của tâm. Ðây gọi là xả.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ NIỆM?
Chi là sự ức niện, tùy niệm… (trùng)… chánh niệm. Ðây gọi là niệm.
Niệm này được mở mang thanh tịnh tinh khiết do xả này. Do đó được nói rằng: “xả niệm thanh tịnh”.
[684] RẰNG “TỨ”, tức là hạng thứ tư do đếm tuần tự; chứng bậc thứ tư này nên gọi là tứ (thiền).
[685] RẰNG “THIỀN”, tức là xả, niệm, nhất hành tâm.
[686] RẰNG “CHỨNG”, là sự mà đắc thành, viên đắc, chứng đạt, thành đạt, đắc chứng, tác chứng, thành tựu tứ thiền.
[687] RẰNG “TRÚ” tức là cử động… (trùng)… trú ngụ. Do đó được gọi là TRÚ.
[688] RẰNG “VƯỢT QUA MỌI SẮC TƯỞNG”
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ SẮC TƯỞNG?
Chi là sự tưởng nhận, tưởng tri, trạng thái tưởng tri của bậc nhập thiền sắc giới hoặc của bậc sanh (cõi sắc) hoặc của bậc hiện tại lạc trú. Ðây gọi là sắc tưởng.
Ðã vượt qua, vượt khỏi, thoát khỏi các sắc tưởng này, do đó được nói rằng “vượt qua mọi sắc tưởng”.
[689] RẰNG “DẬP TẮT CÁC ÐỐI NGẠI TƯỞNG”
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ ÐỐI NGẠI TƯỞNG?
Tức là sắc tưởng, thinh tưởng, khí tưởng, vị tưởng, xúc tưởng. Ðây gọi là các đối ngại tưởng.
Các đối ngại tưởng này đã đuợc yên lặng, vắng lặng, tịnh chỉ, dập tắt, đình chỉ, cấm chỉ, kiệt quệ, tàn rụi, tận diệt; do đó được nói rằng “dập tắt các đối ngại tưởng”.
[690] RẰNG “KHÔNG TÁC Ý CÁC DỊ BIỆT TƯỞNG”
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ CÁC DỊ BIỆT TƯỞNG?
Chi là sự tưởng nhận, tưởng tri, trạng thái tưởng tri của người không nhập thiền, có ý giới hoặc có ý thức giới. Ðây gọi là các dị biệt tưởng.
Vị chẳng tác ý đến các dị biệt tưởng này. Do đó được nói rằng “không tác ý dị biệt tưởng”.
[691] RẰNG “HƯ KHÔNG LÀ VÔ BIÊN”
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ HƯ KHÔNG?
Chi là khoảng trống, hiện tượng khoảng trống, trống rỗng, hiện tượng trống rỗng, kẽ hở, hiện tượng kẽ hở, không xúc chạm với bốn đại hiển. Ðây gọi là hư không.
Vị để tâm, an lập, biến mãn không cùng trong hư không ấy, do đó được gọi là “hư không vô biên”.
[692] RẰNG “KHÔNG VÔ BIÊN XỨ”
Tức là các pháp tâm và sở hữu tâm của bậc nhập thiền, hay bậc sanh khởi hoặc bậc hiện tại lạc trú thiền không vô biên xứ.
[693] RẰNG “CHỨNG” tức là sự mà đắc thành, viên đắc, chứng đạt, thành đạt, đắc chứng, tác chứng, thành tựu thiền không vô biên xứ.
[694] RẰNG “TRÚ” tức là cử động… (trùng)… trú ngụ do đó được gọi là trú.
[695] RẰNG “VƯỢT QUA MỌI KHÔNG VÔ BIÊN XỨ” tức là vượt qua, vượt khỏi, thoát khỏi không vô biên xứ này; do đó được nói rằng: “vượt qua mọi không vô biên xứ”.
[696] RẰNG “THỨC VÔ BIÊN” là tác ý đến hư không ấy vẫn còn bị thức ngộ nhận, mới biến mãn không cùng; do đó được nói rằng “thức là vô biên”.
[697] RẰNG “THỨC LÀ VÔ BIÊN XỨ” là các pháp tâm và sở hữu tâm của các bậc nhập thiền thức vô biên xứ, hoặc của bậc sanh (cỏi thức vô biên xứ), hay của bậc hiện tại lạc trú.
[698] RẰNG “CHỨNG” là sự mà đắc thành, viên đắc, chứng đạt, thành đạt, đắc chứng, tác chứng, thành tựu thiền thức vô biên xứ.
[699] RẰNG “TRÚ”, tức là cử động… (trùng)… trú ngụ, do đó được gọi là trú.
[700] RẰNG “VƯỢT KHỎI MỌI THỨC VÔ BIÊN XỨ”, tức là vượt qua, vượt khỏi, thoát khỏi thức vô biên xứ này, do đó được nói rằng “vượt qua mọi thức vô biên xứ”.
[701] RẰNG “KHÔNG CÓ CHI CẢ” là quán thấy rằng chính cái thức ấy không còn, không hiện hữu, tiêu mất, chẳng có gì cả; do đó được nói rằng “không có chi cả”.
[702] RẰNG “VÔ SỞ HỮU XỨ” tức là các pháp tâm vô sở hữu tâm tức là các pháp và sở hữu tâm của bậc nhập thiền vô sở hữu xứ, hoặc của bậc sanh (cỏi vô sở hữu xứ); hoặc của bậc hiện tại lạc trú.
[703] RẰNG “CHỨNG” tức là sự mà đắc thành, viên đắc, chứng đạt, thành đạt, đắc chứng, tác chứng, thành tựu thiền vô sở hữu xứ.
[704] RẰNG “TRÚ”, tức là cử động… (trùng)… trú ngụ, do đó được gọi là trú.
[705] RẰNG “VƯỢT QUA MỌI VÔ SỞ HỮU XỨ”, tức là vượt qua, vượt khỏi, thoát khỏi vô sở hữu xứ này, do đó được nói rằng “vượt qua mọi vô sở hữu xứ”.
[706] RẰNG “PHI TƯỞNG PHI PHI TƯỞNG”, tức là tác ý đến vô sở hửu xứ ấy vẫn còn tỉnh lặng, mới tu tập thiền nhập hữu dư hành, do đó được nói rằng “phi tưởng phi phi tưởng”.
[707] RẰNG “PHI TƯỞNG PHI PHI TƯỞNG XỨ” tức là pháp tâm và sở hữu tâm của bậc nhập thiền phi tưởng phi phi tưởng xứ, hoặc của bậc sanh (cỏi phi tưởng phi phi tưởng xứ), hoặc của bậc hiện tại lạc trú.
[708] RẰNG “CHỨNG”, là sự mà đắc thành, viên đắc, chứng đạt, thành đạt, đắc chứng, tác chứng, thành tựu thiền phi tưởng phi phi tưởng xứ.
[709] RẰNG “TRÚ”, tức là cử động, xử sự, trông nom, duy trì, sinh sống, hành động, trú ngụ. Do đó được gọi là trú.
DỨT PHẦN PHÂN THEO KINH
PHẦN THEO VI DIỆU PHÁP (Abhidhammabhājanīyaṃ)
[710] BỐN THIỀN LÀ: SƠ THIỀN, NHỊ THIỀN, TAM THIỀN, TỨ THIỀN.
[711] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ SƠ THIỀN?
Nơi đây, khi nào vị tỳ khưu tu tập con đường đạt đến Sắc giới, ly các dục… (trùng)… chứng và trú Sơ thiền để mục đất; trong khi ấy có thiền năm chi là: tầm, tứ, hỷ, lạc, nhất hành tâm. Ðây được gọi là sơ thiền; các pháp còn lại là tương ưng với thiền.
[712] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ NHỊ THIỀN?
Nơi đây, khi nào vị tỳ khưu tu tập con đường đạt đến Sắc giới, vắng lặng tầm tứ… (trùng)… chứng và trú nhị thiền đề mục đất; trong khi ấy có thiền ba chi là: Hỷ, lạc, nhất hành tâm. Ðây được gọi là nhị thiền; các pháp còn lại là tương ưng thiền.
[713] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ TAM THIỀN?
Nơi đây, khi nào vị tỳ khưu tu tập con đường đạt đến Sắc giới, ly hỷ… (trùng)… chứng và trú tam thiền đề mục đất; trong khi ấy có thiền hai chi là: Lạc và nhất hành tâm. Ðây gọi là tam thiền; các pháp còn lại là tương ưng thiền.
[714] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ TỨ TNIỀN?
Nơi đây, khi nào vị tỳ khưu tu tập con đường đạt đến Sắc giới, đoạn trừ lạc… (trùng)… chứng và trú Tứ thiền, đề mục đất, trong khi ấy có thiền hai chi là: xả và nhất hành tâm. Ðây gọi là tứ thiền, các pháp còn lại là tương ưng thiền.
[715] NƠI ÐÂY, khi nào vị tỳ khưu tu tập con đường đạt đến Sắc giới, ly các dục… (trùng)… chứng và trú Sơ thiền đề mục đất; trong khi ấy có thiền năm chi là tầm, tứ, hỷ, lạc, nhất hành tâm. Ðây gọi là Sơ thiền; các pháp khác còn lại là tương ưng thiền.
[716] NƠI ÐÂY, KHI NÀO vị tỳ khưu tu tập con đường đạt đến Sắc giới, chứng và trú Nhị thiền đề mục đất; một trạng thái hỷ lạc do viễn ly sanh, không tầm còn tứ, trong khi ấy có thiền bốn chi là: tứ, hỷ, lạc, nhất hành tâm. Ðây gọi là Nhị thiền, các pháp còn lại là tương ưng thiền.
[717] NƠI ÐÂY, khi nào vị tỳ khưu tu tập con đường đạt đến Sắc giới vắng lặng tầm tứ… (trùng)… chứng và trú Tam thiền đề mục đất; trong khi ấy có thiền ba chi là hỷ, lạc và nhất hành tâm. Ðây gọi là tam thiền; các pháp còn lại là tương ưng thiền.
[718] NƠI ÐÂY, khi nào vị tỳ khưu tu tập con đường đạt đến Sắc giới, do ly hỷ… (trùng)… chứng và trú Tứ thiền đề mục đất; trong khi ấy có thiền hai chi là Lạc và nhất hành tâm. Ðây gọi là Tứ thiền; các pháp còn lại là tương ưng thiền.
[719] NƠI ÐÂY, khi nào vị tỳ khưu tu tập con đường đạt đến Sắc giới, đoạn trừ lạc… (trùng)… chứng và trú Ngũ thiền đề mục đất; trong khi ấy có thiền hai chi là xả và nhất hành tâm. Ðây gọi là ngũ thiền, các pháp còn lại là tương ưng thiền.
[720] NƠI ÐÂY, khi nào vị tỳ khưu tu tập con đường dẫn đến Vô Sắc giới, vượt qua mọi Vô sở hữu xứ, đoạn trừ lạc… (trùng)… chứng và trú Tứ thiền câu hành tưởng phi tưởng phi phi tưởng; trong khi ấy có thiền hai chi là xả và nhất hành tâm. Ðây gọi là Tứ thiền; các pháp còn lại là tương ưng thiền.
[721] BỐN THIỀN LÀ: SƠ THIỀN, NHỊ THIỀN, TAM THIỀN, TỨ THIỀN.
[722] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ SƠ THIỀN ?
Nơi đây, khi nào vị tỳ khưu tu tập thiền Siêu thế, pháp dẫn xuất, nhân tịch diệt để đoạn trừ thiên kiến, đạt đến đệ nhất địa vức, ly các dục… (trùng)… chứng và trú Sơ thiền hành nan đắc trì; trong khi ấy có thiền năm chi là tầm, tứ, hỷ, lạc và nhất hành tâm. Ðây gọi là Sơ thiền; các pháp còn lại là tương ưng thiền.
[723] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ NHỊ THIỀN ?
Nơi đây, khi nào vị tỳ khưu tu tập thiền Siêu thế, pháp dẫn xuất, nhân tịch diệt, để đoạn trừ thiên kiến, đạt đến đệ nhất địa vức, vắng lặng tầm tứ… (trùng)… chứng và trú nhị thiền hành nan đắc trì; trong khi ấy có thiền ba chi là: hỷ, lạc và nhất hành tâm. Ðây gọi là nhị thiền; các pháp còn lại là tương ưng thiền.
[724] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ TAM THIỀN ?
Nơi đây, khi nào vị tỳ khưu tu tập thiền Siêu thế, Pháp dẫn xuất, nhân tịch diệt, để đoạn trừ thiên kiến, đạt đến đệ nhất địa vức, ly hỷ… (trùng)… chứng và trú Tam thiền hành nan đắc trì; trong khi ấy có thiền hai chi là: lạc và nhất hành tâm. Ðây gọi là tam thiền các pháp còn lại là tương ưng thiền.
[725] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ TỨ THIỀN ?
Nơi đây, khi nào vị tỳ khưu tu tập thiền Siêu thế, pháp dẫn xuất, nhân tịch diệt để đoạn trừ thiên kiến, đạt đến đệ nhất địa vức, đoạn trừ lạc… (trùng)… chứng và trú Tứ thiền hành nan đắc trì; trong khi ấy có thiền hai chi là xả và nhất hành tâm. Ðây gọi là Tứ thiền; các pháp còn lại là tương ưng thiền.
[726] NƠI ÐÂY, khi nào vị tỳ khưu tu tập thiền Siêu thế, pháp dẫn xuất, nhân tịch diệt, để đoạn trừ thiên kiến, đạt đến đệ nhất địa vức, ly các dục… (trùng)… chứng và trú Sơ thiền, hành nan đắc trì; trong khi ấy có thiền năm chi là tầm, tứ, hỷ, lạc và nhất hành tâm. Ðây gọi là Sơ thiền, các pháp còn lại là tương ưng thiền.
[727] NƠI ÐÂY, khi nào vị tỳ khưu tu tập thiền Siêu thế, pháp dẫn xuất, nhân tịch diệt, để đoạn trừ thiên kiến, đạt đến đệ nhất địa vức, chứng và trú Nhị thiền, không tầm không tứ, một trạng thái hỷ lạc do viễn ly sanh, hành nan đắc trì; trong khi ấy có thiền bốn chi là: tứ, hỷ, lạc và nhất hành tâm. Ðây gọi là Nhị thiền, các pháp còn lại là tương ưng thiền.
[728] NƠI ÐÂY, khi nào vị tỳ khưu tu tập thiền Siêu thế, Pháp dẫn xuất, nhân tịch diệt để đoạn trừ thiên kiến, đạt đến đệ nhất địa vức, vắng lặng tầm tứ… (trùng)… chứng và trú tam thiền, hành nan đắc trì; trong khi ấy có thiền ba chi là hỷ, lạc và nhất hành tâm. Ðây gọi là Tam thiền, các pháp còn lại là tương ưng thiền.
[729] NƠI ÐÂY, khi nào vị tỳ khưu tu tập thiền Siêu thế, pháp dẫn xuất, nhân tịch diệt, để đoạn trừ thiên kiến, đạt đến đệ nhất địa vức, ly hỷ… (trùng)… chứng và trú Tứ thiền hành nan đắc trì; trong khi ấy có thiền hai chi là lạc và nhất hành tâm. Ðây gọi là tứ thiền; các pháp còn lại là tương ưng thiền.
[730] NƠI ÐÂY, khi nào vị tỳ khưu tu tập thiền Siêu thế, pháp dẫn xuất, nhân tịch diệt, để đoạn trừ thiên kiến, đạt đến đệ nhất địa vức, đoạn trừ lạc… (trùng)… chứng và trú Ngũ thiền, hành nan đắc trì; trong khi ấy có thiền hai chi là xả và nhất hành tâm. Ðây gọi là ngũ thiền, các pháp còn lại là tương ưng thiền.
[731] BỐN THIỀN LÀ: SƠ THIỀN, NHỊ THIỀN, TAM THIỀN, TỨ THIỀN.
[732] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ SƠ THIỀN ?
NƠI ÐÂY, khi nào vị tỳ khưu tu tập con đường để đạt đến Sắc giới, ly các dục… (trùng)… chứng và trú Sơ thiền đề mục đất; trong khi ấy có xúc… (trùng)… có bất phóng dật. Ðây là các pháp thiện. Do sự tạo tác tích lũy thiện nghiệp Sắc giới đó nên vị ly các dục… (trùng)… chứng và trú Sơ thiền đề mục đất, thành tựu quả; trong khi ấy có thiền năm chi là tầm, tứ, hỷ, lạc và nhất hành tâm. Ðây gọi là Sơ thiền, các pháp còn lại là tương ưng thiền.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ NHỊ THIỀN ?
Nơi đây, khi nào vị tỳ khưu tu tập con đường để đạt đến Sắc giới, vắng lặng tầm tứ… (trùng)… chứng và trú Nhị thiền đề mục đất; trong khi ấy có xúc… (trùng)… có bất phóng dật. Ðây là các pháp thiện. Do sự tạo tác tích lũy nghiệp thiện Sắc giới đó, nên vị do vắng lặng tầm, tứ… (trùng)… chứng và trú Nhị thiền đề mục đất, thành tựu quả… (trùng)… tam thiền… (trùng)… tứ thiền… (trùng)… Sơ thiền… (trùng)… chứng và trú ngũ thiền đề mục đất, thành tựu quả; trong khi ấy có thiền hai chi là xả và nhất hành tâm. Ðây gọi là ngũ thiền; các pháp còn lại là tương ưng thiền… (trùng)…
Nơi đây, khi nào vị tỳ khưu tu tập con đường để đạt đến Vô Sắc giới, vượt qua mọi Vô sở hữu xứ, đoạn trừ lạc… (trùng)… chứng và trú Tứ thiền câu hành tưởng phi tưởng phi phi tưởng xứ; Trong khi ấy có xúc… (trùng)… có bất phóng dật. Ðây là các pháp thiện do sự tạo tác tích lũy nghiệp thiện vô sắc giới đó nên vị vượt qua mọi vô sở hữu xứ đoạn trừ lạc… (trùng)… chứng và trú tứ thiền câu hành tưởng, phi tưởng phi phi tưởng xứ, thành tựu quả trong khi ấy có thiền hai chi là xã và nhất hành tâm. Ðây gọi là Tứ thiền, các pháp còn lại là tương ưng thiền.
[733] BỐN THIỀN LÀ: SƠ THIỀN, NHỊ THIỀN, TAM THIỀN, TỨ THIỀN
[734] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ SƠ THIỀN ?
Nơi đây, khi nào vị tỳ khưu tu tập thiền Siêu thế, pháp dẫn xuất, nhân tịch diệt để đoạn trừ thiên kiến, đạt đến đệ nhất địa vức, ly các dục… (trùng)… chứng và trú Sơ thiền, hành nan đắc trì; trong khi ấy có xúc… (trùng)… có bất phóng dật. Ðây là các pháp thiện. Do sự tạo tác tu tập thiền thiện Siêu thế đó, nên bậc ly các dục… (trùng)… chứng và trú Sơ thiền Không tánh, hành nan đắc trì, thành tựu quả; trong khi ấy có thiền năm chi là tầm, tứ, hỷ, lạc và nhất hành tâm. Ðây gọi là Sơ thiền, các pháp còn lại là tương ưng thiền.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ NHỊ THIỀN ?
Nơi đây, khi nào vị tỳ khưu tu tập thiền Siêu thế, pháp dẫn xuất, nhân tịch diệt, để đoạn trừ thiên kiến, đạt đến đệ nhất địa vức, vắng lặng tầm tứ… (trùng)… chứng và trú Nhị thiền, hành nan đắc trì; trong khi ấy có xúc… (trùng)… có bất phóng dật. Ðây là các pháp thiện. Do sự tạo tác tu tập thiền thiện Siêu thế đó, nên vị vắng lặng tầm tứ… (trùng)… chứng và trú Nhị thiền… Tam thiền… (trùng)… Tứ thiền… (trùng)… Sơ thiền… (trùng)… ngũ thiền Không tánh, hành nan đắc trì, thành tựu quả; trong khi ấy có thiền hai chi là xả và nhất hành tâm. Ðây gọi là ngũ thiền; các pháp còn lại là tương ưng thiền.
[735] BỐN THIỀN LÀ: SƠ THIỀN, NHỊ THIỀN, TAM THIỀN, TỨ THIỀN.
[736] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ SƠ THIỀN ?
Nơi đây, khi nào vị tỳ khưu tu tập Thiền Sắc giới thuộc tố phi thiện phi bất thiện, phi quả nghiệp, hiện tại lạc trú, ly các dục… (trùng)… chứng và trú Sơ thiền, đề mục đất; trong khi ấy có thiền năm chi là tầm, tứ, hỷ, lạc và nhất hành tâm. Ðây gọi là Sơ thiền, các pháp còn lại là tương ưng thiền.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ NHỊ THIỀN ?
Nơi đây, khi nào vị tỳ khưu tu tập thiền Sắc giới thuộc tố phi thiện phi bất thiện, phi quả nghiệp, hiện tại lạc trú, vắng lặng tầm tứ… (trùng)… chứng và trú nhị thiền… (trùng)… tam thiền… (trùng)… tứ thiền… (trùng)… Sơ thiền… (trùng)… ngũ thiền, đề mục đất; trong khi ấy có thiền hai chi là xả và nhất hành tâm. Ðây gọi là ngũ thiền, các pháp còn lại là tương ưng thiền… (trùng)…
Nơi đây, khi nào vị tỳ khưu tu tập thiền Vô Sắc giới, thuộc tố phi thiện phi bất thiện, phi quả nghiệp, hiện tại lạc trú, vượt qua mọi vô sở hữu xứ; đoạn trừ lạc… (trùng)… chứng và trú tứ thiền câu hành tưởng phi tưởng phi phi tưởng xứ; trong khi ấy có thiền hai chi là xả và nhất hành tâm. Ðây gọi là Tứ thiền, các pháp còn lai là tương ưng thiền.
DỨT PHẦN PHÂN THEO VI DIỆU PHÁP
PHẦN VẤN ÐÁP (Pañhāpucchakam)
[737] BỐN THIỀN:
Nơi đây, vị tỳ khưu ly các dục, ly các bất thiện pháp, chứng và trú Sơ thiền có tầm có tứ, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh.
Do vắng lặng tầm tứ, chứng và trú Nhị thiền, nội tỉnh nhất tâm không tầm không tứ, một trạng thái hỷ lạc do định sanh.
Ly hỷ trú xả, ức niệm tỉnh giác, thân cảm thọ lạc, chứng và trú tam thiền, một trạng thái mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú.
Ðoạn trừ lạc, đoạn trừ khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ từ trước, vị ấy chứng và trú Tứ thiền phi khổ phi lạc, xả niệm thanh tịnh.
TRONG BỐN THIỀN, CÓ BAO NHIÊU LÀ THIỆN? CÓ BAO NHIÊU LÀ BẤT THIỆN? CÓ BAO NHIÊU LÀ VÔ KÝ?… (trùng)… CÓ BAO NHIÊU LÀ HỮU TRANH? CÓ BAO NHIÊU LÀ VÔ TRANH?
[738] (BỐN THIỀN) CÓ THỂ LÀ THIỆN, CÓ THỂ LÀ VÔ KÝ.
Ba thiền là tương ưng thọ lạc, ngoại trừ lạc thọ sanh trong thiền ấy; tứ thiền là tương ưng thọ phi khổ phi lạc, ngoại trừ phi khổ phi lạc thọ sanh trong thiền ấy.
(Bốn thiền) có thể là dị thục; có thể là dị thục nhân; có thể là phi dị thục phi dị thục nhân.
(Bốn thiền) có thể là do thủ cảnh thủ, có thể là phi do thủ cảnh thủ, có thể là phi do thủ phi cảnh thủ.
(Bốn thiền) có thể là phi thiền toái cảnh phiền não; có thể là phi thiền toái phi cảnh phiền não.
Sơ thiền là hữu tầm hữu tứ, ngoại trừ tầm tứ đang sanh trong thiền ấy; ba thiền là vô tầm vô tứ.
Hai thiền là câu hành hỷ, ngoài trừ hỷ đang sanh trong thiền ấy; ba thiền là câu hành lạc, ngoại trừ lạc đang sanh trong thiền ấy, tứ thiền là câu hành xả, ngoại trừ xả đang sanh trong thiền ấy.
(Bốn thiền) là không đáng do kiến đạo tiến đạo đoạn trừ.
(Bốn thiền) là phi hữu nhân đáng do kiến đạo tiến đạo đoạn trừ.
(Bốn thiền) có thể là nhân tích tập; có thể là nhân tịch diệt; có thể là phi nhân tích tập, phi nhân tịch diệt.
(Bốn thiền) có thể là hữu học; có thể là vô học; có thể là phi hữu học phi vô học.
(Bốn thiền) có thể là đáo đại; có thể là vô lượng.
Ba thiền không nên nói là biết cảnh hy thiểu hay biết cảnh đáo đại, chỉ có thể biết cảnh vô lượng, mà có thể không nên nói là biết cảnh vô lượng; tứ thiền có thể là biết cảnh hy thiểu có thể là biết cảnh đáo đại, có thể là biết cảnh vô lượng, có thể không nên nói là biết cảnh hy thiểu hay biết cảnh đáo đại hay biết cảnh vô lượng.
(Bốn thiền) có thể là trung bình; có thể là tinh lương.
(Bốn thiền) có thể là cố định phần chánh, có thể là phi cố định.
Ba thiền chẳng phải là có đạo thành cảnh; mà có thể là có đạo thành nhân, có thể là có đạo thành trưởng; cũng có thể không nên nói là có đạo thành nhân hay có đạo thành trưởng.
Tứ thiền có thể là có đạo thành cảnh; có thể là có đạo thành nhân, có thể là có đạo thành trưởng; có thể không nên nói là có đạo thành cảnh hay có đạo thành nhân hay có đạo thành trưởng.
(Bốn thiền) có thể là sinh tồn; có thể là vị sinh tồn; có thể là chuẩn sanh.
(Bốn thiền) có thể là quá khứ, có thể là vị lai, có thể là hiện tại.
(Ba thiền) không nên nói là biết cảnh quá khứ, hay biết cảnh vị lai hay biết cảnh hiện tại; tứ thiền có thể là biết cảnh quá khứ, có thể biết cảnh vị lai, có thể là biết cảnh hiện tại; có thể không nên nói là biết cảnh quá khứ hay biết cảnh vị lai hay biết cảnh hiện tại.
(Bốn thiền) có thể là nội phần, có thể là ngoại phần, có thể là nội ngoại phần.
Ba thiền là biết cảnh ngoại phần; tứ thiền có thể là biết cảnh nội phần, có thể biết cảnh ngoại phần, có thể là biết cảnh nội ngoại phần, có thể không nên nói là biết cảnh nội phần, hay biết cảnh ngoại phần hay biết cảnh nội ngoại phần.
(Bốn thiền) là vô kiến vô đối chiếu.
[739] (BỐN THIỀN) là phi nhân. Là hữu nhân. Là tương ưng nhân.
(Bốn thiền) không nên nói là nhân hữu nhân, mà là hữu nhân phi nhân.
(Bốn thiền) không nên nói là nhân tương ưng nhân, mà là tương ưng nhân phi nhân.
(Bốn thiền) là phi nhân hữu nhân (Bốn thiền) là hữu duyên. Là hữu vi. Là vô kiến. Là vô đối chiếu. Là phi sắc.
(Bốn thiền) có thể là hiệp thế, có thể là Siêu thế.
(Bốn thiền) là đáng vài tâm biết, là không đáng vài tâm biết.
(Bốn thiền) là phi lậu. (Bốn thiền) có thể là cảnh lậu, có thể là phi cảnh lậu. (Bốn thiền) không nên nói là lậu cảnh lậu mà có thể là cảnh lậu phi lậu, có thể không nên nói là cảnh lậu phi lậu. (Bốn thiền) không nên nói là lậu tương ưng lậu hay tương ưng lậu phi lậu. (Bốn thiền) có thể là bất tương ưng lậu cảnh lậu, có thể là bất tương ưng lậu phi cảnh lậu.
(Bốn thiền) là phi triền… (trùng)…
(Bốn thiền) là phi phược… (trùng)…
(Bốn thiền) là phi bộc… (trùng)…
(Bốn thiền) là phi phối… (trùng)…
(Bốn thiền) là phi cái… (trùng)…
(Bốn thiền) là phi khinh thị… (trùng)…
(Bốn thiền) là hữu tri cảnh. Là phi tâm. Là sở hữu tâm. Là tương ưng tâm. Là hòa với tâm. Là có tâm làm sở sanh. Là đồng hiện hữu với tâm. Là tùy chuyển với tâm. Là hòa tâm tâm sở sanh. Là hòa tâm tâm sở sanh đồng hiện hữu với tâm. Là hòa tâm tâm sở sanh tùy chuyển với tâm. Là ngoại phần. Là phi y sinh. (Bốn thiền) có thể là do thủ, có thể là phi do thủ.
(Bốn thiền) là phi thủ… (trùng)…
(Bốn thiền) là phi phiền não… (trùng)…
[740] (Bốn thiền) là không đáng do kiến đạo đoạn trừ. Là không đáng do tiến đạo đoạn trừ. Là phi hữu nhân đáng do kiến đạo đoạn trừ. Là phi hữu nhân đáng do tiến đạo đoạn trừ. Sơ thiền là hữu tầm, ngoại trừ tầm đang sanh trong thiền ấy; ba thiền là vô tầm. Sơ thiền là hữu tứ ngoại trừ tứ đang sanh trong thiền ấy; ba thiền là vô tứ. Hai thiền là hữu hỷ, ngoại trừ hỷ đang sanh trong thiền ấy; hai thiền là vô hỷ, hai thiền là câu hành hỷ, ngoại trừ hỷ đang sanh trong thiền ấy; hai thiền là phi câu hành hỷ. Ba thiền là câu hành lạc, ngoại trừ lạc đang sanh trong thiền ấy; tứ thiền là phi câu hành lạc. Tứ thiền là câu hành xả, ngoại trừ xả đang sanh trong thiền ấy; ba thiền là phi câu hành xả.
(Bốn thiền) là phi dục giới. (Bốn thiền) có thể là sắc giới, có thể là phi sắc giới. Ba thiền là phi vô sắc giới; tứ thiền có thể là vô sắc giới, có thể là phi vô sắc giới; (Bốn thiền) có thể là hệ thuộc, có thể là phi hệ thuộc (Bốn thiền) có thể là pháp dẫn xuất, có thể là pháp phi dẫn xuất. (Bốn thiền) có thể là cố định, có thể là phi cố định. (Bốn thiền) có thể là hữu thượng, có thể là vô thượng. Bốn thiền là vô tranh.
DỨT PHẦN VẤN ÐÁP
TRỌN VẸN THIỀN PHÂN TÍCH
[1] Maggasāpata, lời nói như ‘chè đậu’, tức là nói ngọt bùi (ND)
[2] Phi hạnh kiểm, phi phẩm hạnh.
[3] Ācāra: Phẩm hạnh.
[4] Agocara.
[5] Gocara.
[6] Sikkhāpada.
[7] Indriyesugutadvārata.
[8] Salomahaṃsa, rỡn lông ốc, mộc lông ốc, nổi lông ốc.
[9] Byāpāda.
[10] Padosa.
[11] Abyāpannacitta.
[12] Pīti: Sự mừng vui, sự hoan hỷ của tâm.
[13] Sukha: Sự cảm giác sảng khoái dễ chịu sanh từ tâm xúc.
[14] Dutiya: Thứ hai, đệ nhị.
[15] Jhāna: Thiền na, Thiền định.
[16] Upasampajja: Chứng, thành tựu.
[17] Pītiya virāgā: Ly hỷ.
[18] Upekkhā: là sự lơ là, sự dửng dưng, sự thờ ơ sự quân bình của tâm.
VÔ LƯỢNG PHÂN TÍCH (APPANANNĀ VIBHAṄGO)
PHÂN THEO KINH (Suttantabhājanīyam)
[741] BỐN VÔ LƯỢNG LÀ:
Nơi đây, vị tỳ khưu biến mãn và an trú một phương với tâm câu hành từ, phương thứ hai cũng thế, phương thứ ba cũng thế, phương thứ tư cũng thế. Như vậy đối với mọi phương xứ trên dưới bề ngang, cùng khắp, hết thảy thế giới, vị ấy biến mãn và an trú với tâm câu hành từ rộng lớn quãng đại, vô lượng, không hận, không sân.
Biến mãn và an trú một phương với tâm câu hành bi, phương thứ hai cũng thế, phương thứ ba cũng thế, phương thứ tư cũng thế. Như vậy đối với mọi phương xứ trên dưới bề ngang, cùng khắp, hết thảy thế giới, vị ấy biến mãn và an trú với tâm câu hành bi rộng lớn, đáo đại, vô lượng, không hận, không sân.
Biến mãn và an trú một phương với tâm câu hành tùy hỷ, phương thứ hai cũng thế, phương thứ ba cũng thế, phương thứ tư cũng thế. Như vậy đối với mọi phương xứ trên dưới bề ngang, cùng khắp, hết thảy thế giới, vị ấy biến mãn và an trú với tâm câu hành tùy hỷ rộng lớn, đáo đại, vô lượng, không hận, không sân.
Biến mãn và an trú một phương với tâm câu hành xả, phương thứ hai cũng thế, phương thứ ba cũng thế, phương thứ tư cũng thế. Như vậy đối với mọi phương xứ trên dưới bề ngang, cùng khắp, hết thảy thế giới, vị ấy biến mãn và an trú với tâm câu hành xả rộng lớn, đáo đại, vô lượng, không sân, không hận.
[742] VỊ TỲ KHƯU BIẾN MÃN VÀ AN TRÚ MỘT PHƯƠNG VỚI TÂM CÂU HÀNH TỪ LÀ SAO?
Cũng như là kẻ thấy một người thân thương vừa lòng thì khởi từ ái, cùng thế ấy là vị biến mãn từ tâm đối với mọi chúng sanh.
[743] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ TỪ?
Chi là sự từ hòa, sự mát mẻ, thái độ mát mẻ, từ tâm giải thoát đối với các chúng sanh. Ðây gọi là từ.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ TÂM?
Chi là tâm, ý, tâm địa tâm tạng, bạch tịnh, ý là ý xứ, ý quyền, thức, thức uẩn, ý thức giới sanh từ đó. Ðây gọi là tâm. Tâm này câu hành, câu sanh, hòa hợp, tương ưng với từ này; do đó được nói rằng với tâm câu hành từ.
Rằng “MỘT PHƯƠNG” là hướng đông, hướng tây, hoặc hướng bắc, hoặc hướng nam, hoặc phía trên, hoặc phía dưới, hoặc phía ngang, hoặc hướng phụ.
Rằng “BIẾN MÃN” là tỏa khắp, hướng đến.
Rằng “AN TRÚ” tức là cử động, xử sự, trông nom, duy trì, sinh sống, hành động, trú ngụ; do đó gọi là “an trú”.
Rằng “PHƯƠNG THỨ HAI CŨNG THẾ”, tức là đối với một phương như thế nào thì đối với phương thứ hai như vậy, đối với phương thứ ba như vậy, đối với phương thứ tư như vậy, đối với phương trên như vậy, đối với phương dưới như vậy, đối với phương ngang như vậy, đối với phương phụ như vậy.
Rằng “Ðối với mọi phương xứ… cùng khắp hết thảy thế giới”, tức là kể tất cả đối với mọi loài, kể tất cả đối với mọi nơi, gồm cả không thừa ra, không dư sót. Ðó là lời nói rằng “Ðối với mọi phương xứ… cùng khắp hết thảy thế giới”.
Rằng “với tâm câu hành từ”.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ TỪ?
Chi là sự từ hòa, sự mát mẻ, thái độ mát mẻ, từ tâm giải thoát đối với các chúng sanh. Ðây gọi là từ.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ TÂM?
Chi là tâm, ý, tâm địa… (trùng)… ý thức giới sanh từ đó. Ðây gọi là tâm. Tâm này câu hành, câu sanh, hòa hợp, tương ưng với từ này, do đó được gọi là “tâm câu hành từ”.
Rằng “rộng lớn”. Chi là rộng lớn ấy là quãng đại, chi là quãng đại ấy là vô lượng, chi là vô lượng ấy là vô hận, chi là vô hận ấy là vô sân.
Rằng “biến mãn”, tức là tỏa khắp, hướng đến.
Rằng “an trú”, tức là cử động… (trùng)… trú ngụ. Do đó gọi là an trú.
[744] VỊ TỲ KHƯU BIẾN MÃN VÀ AN TRÚ MỘT PHƯƠNG VỚI TÂM CÂU HÀNH BI LÀ SAO?
Cũng như kẻ thấy một người cùng cực khốn khổ thì thương xót, cùng thế ấy, là vị biến mãn bi tâm đối với mọi chúng sanh.
[745] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ BI?
Chi là sự bi mẫn, sự lân mẫn, thái độ thương xót, bi tâm giải thoát, đối với các chúng sanh. Ðây gọi là bi.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ TÂM?
Chi là tâm, ý, tâm địa… (trùng)… ý thức giới sanh từ đó. Ðây gọi là tâm.
Tâm này câu hành, câu sanh, hòa hợp, tương ưng với bi này. Do đó được nói rằng với tâm câu hành bi.
Rằng “một phương” là hướng đông, hoặc hướng tây, hoặc hướng bắc, hoặc hướng nam, hoặc phía trên, hoặc phía dưới, hoặc phía ngang, hoặc hướng phụ.
Rằng “biến mãn” là trãi rộng, là hướng đến.
Rằng “an trú” tức là cử động, xử sự, trông nom, duy trì, sinh sống, hành động, trú ngụ, do đó mới được gọi là an trú.
Rằng “phương thứ hai cũng thế”, tức là đối với một phương như thế nào, thì đối với phương thứ hai như vậy, đối với phương thứ ba như vậy, đối với phương thứ tư như vậy, đối với phương trên như vậy, đối với phương dưới như vậy, đối với phương ngang như vậy, đối với hướng phụ như vậy.
Rằng “đối với mọi phương xứ… cùng khắp hết thảy thế giới”, tức là kể tất cả đối với mọi loài, kể tất cả đối với mọi nơi, gồm cả không thừa ra, không dư sót. Ðó là lời nói rằng “đối với mọi phương xứ… cùng khắp hết thảy thế giới”.
Rằng “với tâm câu hành bi”.
Ở ÐÂY THẾ NÀO LÀ BI?
Chi là sự bi mẫn, sự lân mẫn, thái độ thương xót, bi tâm giải thoát đối với các chúng sanh. Ðấy gọi là bi.
Ở ÐÂY THẾ NÀO LÀ TÂM?
Chi là tâm, ý, tâm địa… (trùng)… ý thức giới sanh từ đó. Ðây gọi là tâm.
Tâm này câu hành, câu sanh, hòa hợp, tương ưng với bi này, do đó được gọi là “tâm câu hành bi”.
Rằng “rộng lớn”, chi là rộng lớn ấy là quãng đại, chi là quãng đại ấy là vô lượng, chi là vô lượng ấy là vô hận, chi là vô hận ấy là vô sân.
Rằng “biến mãn”, tức là tỏa khắp, hướng đến.
Rằng “an trú”, tức là cử động… (trùng)… trú ngụ. Do đó gọi là an trú.
[746] VỊ TỲ KHƯU BIẾN MÃN VÀ AN TRÚ MỘT PHƯƠNG VỚI TÂM CÂU HÀNH HỶ LÀ SAO?
Cũng như kẻ thấy một người khả ái vừa lòng thì hoan hỷ, cùng thế ấy là vị biến mãn hỷ tâm đối với mọi chúng sanh.
[747] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ HỶ?
Chi là sự vui vẻ, sự tùy hỷ, thái độ tùy hỷ, hỷ tâm giải thoát đối với các chúng sanh. Ðây gọi là hỷ.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ TÂM?
Chi là tâm, ý, tâm địa… (trùng)… ý thức giới sanh từ đó. Ðây gọi là tâm.
Tâm này câu hành, câu sanh, hòa hợp, tương ưng với hỷ này. Do đó được nói rằng với tâm câu hành hỷ.
Rằng “một phương” là hướng đông, hoặc hướng tây, hoặc hướng bắc, hoặc hướng nam, hoặc phía trên, hoặc phía dưới, hoặc phía ngang, hoặc hướng trụ.
Rằng “biến mãn” là trãi rộng, hướng đến.
Rằng “an trú”, tức là cử động… (trùng)… trú ngụ. Do đó mới gọi là an trú.
Rằng “phương thứ hai cũng thế”, tức là đối với một phương như thế nào, thì đối với phương thứ hai như vậy, đối với phương thứ ba như vậy, đối với phương thứ tư như vậy, đối với phương trên như vậy, đối với phương dưới như vậy, đối với phương ngang như vậy, đối với hướng phụ như vậy.
Rằng “đối với mọi phương xứ… cùng khắp hết thảy thế giới”, tức là kể tất cả đối với mọi loài, kể tất cả đối với mọi nơi, gồm cả, không thừa ra, không dư sót. Ðó là lời nói rằng “đối với mọi phương xứ… cùng khắp hết thảy thế giới”.
Rằng “với tâm câu hành hỷ”.
Ở ÐÂY THẾ NÀO LÀ HỶ?
Chi là sự vui vẻ, sự tùy hỷ, thái độ tùy hỷ, hỷ tâm giải thoát đối với các chúng sanh. Ðây gọi là hỷ.
Ở ÐÂY THẾ NÀO LÀ TÂM?
Chi là tâm, ý, tâm địa… (trùng)… ý thức giới sanh từ đó. Ðây gọi là tâm.
Tâm này câu hành, câu sanh, hòa hợp, tương ưng với hỷ này. Do đó được nói rằng “với tâm câu hành hỷ”.
Rằng “rộng lớn”, chi là rộng lớn ấy là đáo đại, chi là đáo đại ấy là vô lượng, chi là vô lượng ấy là vô hận, chi là vô hận ấy là vô sân.
Rằng “biến mãn”, tức là tỏa rộng, hướng đến.
Rằng “an trú”, tức là cử động… (trùng)… trú ngụ. Do đó gọi là an trú.
[748] VỊ TỲ KHƯU BIẾN MÃN VÀ AN TRÚ MỘT PHƯƠNG VỚI TÂM CÂU HÀNH XẢ LÀ SAO?
Cũng như là kẻ thấy một người không thương không ghét thì thản nhiên, cùng thế ấy là vị biến mãn xả tâm đối với mọi chúng sanh.
[749] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ XẢ?
Chi là sự thản nhiên, sự bình thản, thái độ bình thản, xả tâm giải thoát đối với các chúng sanh. Ðây gọi là xả.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ TÂM?
Chi là tâm, ý, tâm địa… (trùng)… ý thức giới sanh từ đó. Ðây gọi là tâm.
Tâm này câu hành, câu sanh, hòa hợp, tương ưng với xả này. Do đó được nói rằng với tâm câu hành xả.
Rằng “một phương” là hướng đông, hoặc hướng tây, hoặc hướng bắc, hoặc hướng nam, hoặc phía trên, hoặc phía dưới, hoặc phía ngang, hoặc hướng phụ.
Rằng “biến mãn” là trãi rộng, hướng đến.
Rằng “an trú” tức là cử động… (trùng)… trú ngụ, do đó mới gọi là an trú.
Rằng “phương thứ hai cũng thế”, tức là đối với một phương như thế nào, thì đối với phương thứ hai như vậy, đối với phương thứ ba như vậy, đối với phương thứ tư như vậy, đối với phương trên như vậy, đối với phương dưới như vậy, đối với phương ngang như vậy, đối với hướng phụ như vậy.
Rằng “đối với mọi phương xứ… cùng khắp hết thảy thế giới”, tức là kể tất cả đối với mọi loài, kể tất cả đối với mọi nơi, gồm cả, không thừa ra, không dư sót. Ðó là lời nói rằng “đối với mọi phương xứ… cùng khắp hết thảy thế giới”.
Rằng “với tâm câu hành xả”.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ XẢ?
Chi là sự thản nhiên, sự bình thản, thái độ bình thản, xả tâm giải thoát đối với các chúng sanh. Ðây gọi là xả.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ TÂM?
Chi là tâm, ý, tâm địa… (trùng)… ý thức giới sanh từ đó. Ðây gọi là tâm.
Tâm này câu hành, câu sanh, hòa hợp, tương ưng với xả này, do đó được gọi là “với tâm câu hành xả”.
Rằng “rộng lớn”, chi là rộng lớn ấy là đáo đại, chi là đáo đại ấy là vô lượng, chi là vô lượng ấy là vô hận, chi là vô hận ấy là vô sân.
Rằng “biến mãn”, tức là tỏa khắp, hướng đến.
Rằng “an trú”, tức là cử động… (trùng)… trú ngụ. Do đó gọi là an trú.
DỨT PHẦN PHÂN TÍCH THEO KINH
PHÂN TÍCH THEO VI DIỆU PHÁP(Abhidhammabhājanīyam)
[750] BỐN VÔ LƯỢNG LÀ TỪ, BI, HỶ, XẢ. THIỀN THIỆN TỪ THEO BỐN BẬC.
[751] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ TỪ?
Nơi đây, khi nào vị tỳ khưu tu tập con đường để đạt đến Sắc giới… (trùng)… chứng và trú Sơ thiền… (trùng)… do ly dục câu hành từ tâm. Trong khi ấy có sự từ hòa, sự mát mẻ từ tâm giải thoát; đây gọi là từ, các pháp còn lại là tương ưng từ.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ TỪ?
Nơi đây, khi nào vị tỳ khưu tu tập con đường để đạt đến Sắc giới… (trùng)… chứng và trú Nhị thiền… (trùng)… do vắng lặng tầm tứ câu hành từ tâm. Trong khi ấy có sự từ hòa, sự mát mẻ, thái độ mát mẻ, từ tâm giải thoát; đây gọi là từ, các pháp còn lại là tương ưng từ.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ TỪ?
Nơi đây, khi nào vị tỳ khưu tu tập con đường để đạt đến Sắc giới… (trùng)… chứng và trú Tam thiền… (trùng)… do ly hỷ, câu hành từ. Trong khi ấy có sự từ hòa, sự mát mẻ, thái độ mát mẻ, từ tâm giải thoát. Ðây gọi là từ, các pháp còn lại là tương ưng từ.
THIỀN THIỆN TỪ THEO NĂM BẬC.
Nơi đây, khi nào vị tỳ khưu tu tập con đường để đạt đến Sắc giới chứng và trú Sơ thiền… (trùng)… do ly dục, câu hành từ. Trong khi ấy có sự từ hòa, mát mẻ, thái độ mát mẻ, từ tâm giải thoát. Ðây gọi là từ; các pháp còn lại là tương ưng từ.
Nơi đây, khi nào vị tỳ khưu tu tập con đường để đạt đến Sắc giới, chứng và trú Nhị thiền, vô tầm vô tứ, trạng thái hỷ lạc do viễn ly sanh, câu hành từ. Trong khi ấy có sự từ hòa, sự mát mẻ, thái độ mát mẻ từ tâm giải thoát. Ðây gọi là từ, các pháp còn lại là tương ưng từ.
Nơi đây, khi nào vị tỳ khưu tu tập con đường để đạt đến Sắc giới, chứng và trú tam thiền… (trùng)… vắng lặng tầm tứ, câu hành từ. Trong khi ấy có sự từ hòa, sự mát mẻ, thái độ mát mẻ, từ tâm giải thoát. Ðây gọi là từ, các pháp còn lại là tương ưng từ.
Nơi đây, khi nào vị tỳ khưu tu tập con đường để đạt đến Sắc giới, chứng và trú Tứ thiền… (trùng)… do ly hỷ, câu hành từ. Trong khi ấy có sự từ hòa, sự mát mẻ, thái độ mát mẻ, từ tâm giải thoát. Ðây gọi là từ, các pháp còn lại là tương ưng từ.
THIỀN THIỆN BI THEO BỐN BẬC.
[752] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ BI?
Nơi đây, khi nào vị tỳ khưu tu tập con đường để đạt đến Sắc giới, chứng và trú Sơ thiền… (trùng)… do các dục… câu hành bi. Trong khi ấy có sự bi mẫn, sự lân mẫn, thái độ xót thương, bi tâm giải thoát. Ðây gọi là bi; các pháp còn lại là tương ưng bi.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ BI?
Nơi đây, khi nào vị tỳ khưu tu tập con đường để đạt đến Sắc giới, chứng và trú Nhị thiền… (trùng)… do vắng lặng tầm tứ, câu hành bi. Trong khi ấy có sự bi mẫn, sự lân mẫn, thái độ xót thương, bi tâm giải thoát. Ðây gọi là bi, các pháp còn lại là tương ưng bi.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ BI?
Nơi đây, khi nào vị tỳ khưu tu tập con đường để đạt đến Sắc giới, chứng và trú Tam thiền… (trùng)… do ly hỷ, câu hành bi. Trong khi ấy có sự bi mẫn, sự lân mẫn, thái độ xót thương, bi tâm giải thoát. Ðây gọi là bi, các pháp còn lại là tương ưng bi.
THIỀN THIỆN BI THEO NĂM BẬC
Nơi đây, khi nào vị tỳ khưu tu tập con đường để đạt đến Sắc giới, chứng và trú Sơ thiền… (trùng)… do ly các dục, câu hành bi. Trong khi ấy có sự bi mẫn, sự lân mẫn, thái độ xót thương, bi tâm giải thoát. Ðây gọi là bi, các pháp còn lại là tương ưng bi.
Nơi đây, khi nào vị tỳ khưu tu tập con đường để đạt đến Sắc giới, chứng và trú nhị thiền vô tầm hữu tứ, trạng thái hỷ lạc do viễn ly sanh, câu hành bi. Trong khi ấy có sự bi mẫn, sự lân mẫn, thái độ xót thương, bi tâm giải thoát. Ðây gọi là bi, các pháp còn lại là tương ưng bi.
Nơi đây, khi nào vị tỳ khưu tu tập con đường để đạt đến Sắc giới, chứng và trú tam thiền… (trùng)… do vắng lặng tầm tứ, câu hành bi. Trong khi ấy có sự bi mẫn, sự lân mẫn, thái độ xót thương, bi tâm giải thoát. Ðây gọi là bi, các pháp còn lại là tương ưng bi.
Nơi đây, khi nào vị tỳ khưu tu tập con đường để đạt đến Sắc giới, chứng và trú Tứ thiền… (trùng)… do ly hỷ câu hành bi. Trong khi ấy có sự bi mẫn, sự lân mẫn, thái độ xót thương, bi tâm giải thoát. Ðây gọi là bi, các pháp còn lại là tương ưng bi.
THIỀN THIỆN TÙY HỶ THEO BỐN BẬC
[753] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ HỶ?
Nơi đây, khi nào vị tỳ khưu tu tập con đường để đạt đến Sắc giới, chứng và trú Sơ thiền… (trùng)… do ly các dục… câu hành tùy hỷ. Trong khi ấy có sự vui vẻ, sự tùy hỷ, thái độ tùy hỷ, hỷ tâm giải thoát. Ðây gọi là tùy hỷ, các pháp còn lại là tương ưng tùy hỷ.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ TÙY HỶ?
Nơi đây, khi nào vị tỳ khưu tu tập con đường để đạt đến Sắc giới, chứng và trú Nhị thiền… (trùng)… do vắng lặng tầm tứ, câu hành tùy hỷ. Trong khi ấy có sự vui vẻ, sự tùy hỷ, thái độ tùy hỷ, hỷ tâm giải thoát. Ðây gọi là tùy hỷ, các pháp còn lại là tương ưng tùy hỷ.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ TÙY HỶ?
Nơi đây, khi nào vị tỳ khưu tu tập con đường để đạt đến Sắc giới, chứng và trú Tam thiền… (trùng)… do ly hỷ (pīti), câu hành tùy hỷ (muditā). Trong khi ấy có sự vui vẻ, sự tùy hỷ, thái độ tùy hỷ, hỷ tâm giải thoát. Ðây gọi là hỷ, các pháp còn lại là tương ưng tùy hỷ.
THIỀN THIỆN TÙY HỶ THEO NĂM BẬC
Nơi đây, khi nào vị tỳ khưu tu tập con đường để đạt đến Sắc giới, chứng và trú Sơ thiền… (trùng)… do ly các dục… câu hành tùy hỷ. Trong khi ấy có sự vui vẻ, sự tùy hỷ, thái độ tùy hỷ, hỷ tâm giải thoát. Ðây gọi là tùy hỷ, các pháp còn lại là tương ưng tùy hỷ.
Nơi đây, khi nào vị tỳ khưu tu tập con đường để đạt đến Sắc giới, chứng và trú Sơ thiền… (trùng)… do ly các dục… câu hành tùy hỷ. Trong khi ấy có sự vui vẻ, sự tùy hỷ, thái độ tùy hỷ, hỷ tâm giải thoát. Ðây gọi là tùy hỷ, các pháp còn lại là tương ưng tùy hỷ.
Nơi đây, khi nào vị tỳ khưu tu tập con đường để đạt đến Sắc giới, chứng và trú Nhị thiền, vô tầm hữu tứ trạng thái hỷ lạc do viễn ly sanh, câu hành tùy hỷ. Trong khi ấy có sự vui vẻ, sự tùy hỷ, thái độ tùy hỷ, hỷ tâm giải thoát. Ðây gọi là tùy hỷ, các pháp còn lại là tương ưng tùy hỷ.
Nơi đây, khi nào vị tỳ khưu tu tập con đường để đạt đến Sắc giới, chứng và trú Tam thiền… (trùng)… do vắng lặng tầm tứ, câu hành tùy hỷ. Trong khi ấy có sự vui vẻ, sự tùy hỷ, thái độ tùy hỷ, hỷ tâm giải thoát. Ðây gọi là tùy hỷ, các pháp còn lại là tương ưng tùy hỷ.
Nơi đây, khi nào vị tỳ khưu tu tập con đường để đạt đến Sắc giới, chứng và trú Tứ thiền… (trùng)… do ly hỷ, câu hành tùy hỷ. Trong khi ấy có sự vui vẻ, sự tùy hỷ, thái độ tùy hỷ, hỷ tâm giải thoát. Ðây gọi là tùy hỷ, các pháp còn lại là tương ưng tùy hỷ.
THIỀN THIỆN XẢ
[754] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ XẢ?
Nơi đây, khi nào vị tỳ khưu tu tập con đường để đạt đến Sắc giới, chứng và trú Tứ thiền… (trùng)… do đoạn trừ lạc, câu hành xả. Trong khi ấy có sự thản nhiên, sự bình thản, xả tâm giải thoát. Ðây gọi là xả, các pháp còn lại là tương ưng xả.
[755] BỐN VÔ LƯỢNG TÂM LÀ TỪ, BI, HỶ, XẢ
Thiền dị thục từ theo bốn và năm bậc.
[756] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ TỪ?
Nơi đây, khi nào vị tỳ khưu tu tập con đường để đạt đến Sắc giới, chứng và trú Sơ thiền… (trùng)… do ly các dục… câu hành từ. Trong khi ấy có xúc… (trùng)… có bất phóng dật. Ðây là các pháp thiện. Do sự tạo tác tích lũy nghiệp thiện sắc giới đó, bậc chứng và trú Sơ thiền… (trùng)… do ly các dục câu hành từ, thành tựu quả. Trong khi ấy, có sự từ hòa, sự mát mẻ, thái độ mát mẻ, từ tâm giải thoát. Ðây gọi là từ, các pháp còn lại là tương ưng từ.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ TỪ?
Nơi đây, khi nào vị tỳ khưu tu tập con đường để đạt đến Sắc giới, chứng và trú nhị thiền… (trùng)… do vắng lặng tầm tứ, câu hành từ. Trong khi ấy có xúc… (trùng)… có bất phóng dật. Ðây gọi là pháp thiện. Do sự tạo tác tích lũy nghiệp thiện đó, bậc chứng và trú nhị thiền… (trùng)… do vắng lặng tầm tứ… tam thiền… (trùng)… Sơ thiền… (trùng)… tứ thiền… (trùng)… câu hành từ, thành tựu quả. Trong khi ấy, có sự từ hòa, sự mát mẻ, thái độ mát mẻ, từ tâm giải thoát. Ðây gọi là từ, các pháp còn lại là tương ưng từ.
THIỀN DỊ THỤC BI THEO BỐN VÀ NĂM BẬC
[757] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ BI?
Nơi đây, khi nào vị tỳ khưu tu tập con đường để đạt đến Sắc giới, chứng và trú Sơ thiền… (trùng)… do ly các dục… câu hành bi. Trong khi ấy có xúc… (trùng)… có bất phóng dật. Ðây là các pháp thiện. Do sự tạo tác tích lũy thiện nghiệp Sắc giới đó, bậc chứng và trú Sơ thiền… (trùng)… do ly các dục, câu hành bi, thành tựu quả. Trong khi ấy có sự bi mẫn, sự lân mẫn, thái độ xót thương, bi tâm giải thoát. Ðây gọi là bi, các pháp còn lại là tương ưng bi.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ BI?
Nơi đây, khi nào vị tỳ khưu tu tập con đường để đạt đến Sắc giới, chứng và trú Nhị thiền… (trùng)… do vắng lặng tầm tứ, câu hành bi. Trong khi ấy có xúc… (trùng)… có bất phóng dật. Ðây là các pháp thiện. Do sự tạo tác tích lũy thiện nghiệp Sắc giới đó, bậc chứng và trú Nhị thiền… (trùng)… do vắng lặng tầm tứ… Tam thiền… (trùng)… Sơ thiền… (trùng)… Tứ thiền… (trùng)… câu hành bi, thành tựu quả. Trong khi ấy có sự bi mẫn, sự lân mẫn, thái độ xót thương, bi tâm giải thoát. Ðây gọi là bi, các pháp còn lại là tương ưng bi.
THIỀN DỊ THỤC HỶ THEO BỐN VÀ NĂM BẬC
[758] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ TÙY HỶ?
Nơi đây, khi nào vị tỳ khưu tu tập con đường để đạt đến Sắc giới, chứng và trú Sơ thiền… (trùng)… do ly các dục, câu hành tùy hỷ, trong khi ấy có xúc… (trùng)… có bất phóng dật. Ðây là các pháp thiện. Do sự tạo tác tích lũy nghiệp thiện Sắc giới đó, bậc chứng và trú Sơ thiền… (trùng)… do ly các dục, câu hành tùy hỷ, thành tựu quả. Trong khi ấy có sự vui vẻ, sự tùy hỷ, thái độ tùy hỷ, hỷ tâm giải thoát. Ðây gọi là tùy hỷ, các pháp còn lại là tương ưng tùy hỷ.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ TÙY HỶ?
Nơi đây, khi nào vị tỳ khưu tu tập con đường để đạt đến Sắc giới, chứng và trú nhị thiền… (trùng)… do vắng lặng tầm tứ, câu hành tùy hỷ. Trong khi ấy có xúc… (trùng)… có bất phóng dật. Ðây là các pháp thiện. Do sự tạo tác tích lũy nghiệp thiện Sắc giới đó, bậc chứng và trú Nhị thiền… (trùng)… do vắng lặng tầm tứ… tam thiền… (trùng)… sơ thiền… (trùng)… tứ thiền… (trùng)… câu hành tùy hỷ, thành tựu quả. Trong khi ấy có sự vui vẻ, sự tùy hỷ, thái độ tùy hỷ, hỷ tâm giải thoát. Ðây gọi là tùy hỷ, các pháp còn lại là tương ưng tùy hỷ.
THIỀN DỊ THỤC XẢ
[759] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ XẢ?
Nơi đây, khi nào vị tỳ khưu tu tập con đường để đạt đến Sắc giới, chứng và trú Tứ thiền… (trùng)… do đoạn trừ lạc, câu hành xả; trong khi ấy có xúc… (trùng)… có bất phóng dật. Ðây là các pháp thiện. Do sự tạo tác tích lũy nghiệp thiện Sắc giới đó, bậc chứng và trú Tứ thiền… (trùng)… do đoạn trừ lạc, câu hành xả, thành tựu quả. Trong khi ấy có sự thản nhiên, sự bình thản, thái độ bình thản, xả tâm giải thoát. Ðây gọi là xả, các pháp còn lại là tương ưng xả.
[760] BỐN VÔ LƯỢNG TÂM LÀ: TỪ, BI, HỶ, XẢ.
Thiền Tố từ theo bốn bậc và năm bậc.
[761] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ TỪ?
Nơi đây, khi nào vị tỳ khưu tu tập Thiền Tố Sắc giới phi thiện phi bất thiện, phi nghiệp quả, hiện tại lạc trú, chứng và trú Sơ thiền… (trùng)… do ly các dục, câu hành từ. Trong khi ấy có sự từ hòa, sự mát mẻ, thái độ mát mẻ, từ tâm giải thoát. Ðây gọi là từ, các pháp còn lại là tương ưng từ.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ TỪ?
Nơi đây, khi nào vị tỳ khưu tu tập Thiền Tố Sắc giới, phi thiện phi bất thiện, phi nghiệp quả, hiện tại lạc trú, chứng và trú nhị thiền… (trùng)… do vắng lặng tầm tứ… Tam thiền… (trùng)… Sơ thiền… (trùng)… Tứ thiền… (trùng)… câu hành từ, trong khi ấy có sự từ hòa, sự mát mẻ, thái độ mát mẻ, từ tâm giải thoát. Ðây gọi là từ, các pháp còn lại là tương ưng từ.
THIỀN TỐ BI.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ BI?
… (trùng)…
THIỀN TỐ TÙY HỶ?
… (trùng)…
THIỀN TỐ XẢ.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ XẢ?
Nơi đây, khi nào vị tỳ khưu tu tập Thiền Tố Sắc giới, phi thiện phi bất thiện, phi nghiệp quả, hiện tại lạc trú, chứng và trú Tứ thiền… (trùng)… do sự đoạn trừ lạc, câu hành xả. Trong khi ấy có sự thản nhiên, sự bình thản, thái độ bình thản, xả tâm giải thoát. Ðây gọi là xả, các pháp còn lại là tương ưng xả.
DỨT PHẦN PHÂN TÍCH THEO VI DIỆU PHÁP
PHẦN VẤN ÐÁP (Pañhāpucchakam)
[762] BỐN VÔ LƯỢNG TÂM LÀ:
Nơi đây, vị tỳ khưu biến mãn và an trú một phương với tâm câu hữu từ, phương thứ hai cũng thế, phương thứ ba cũng thế, phương thứ tư cũng thế. Như vậy đối với mọi phương xứ trên dưới, bề ngang, cùng khắp, hết thảy thế giới, vị ấy biến mãn và an trú với tâm câu hành từ rộng lớn, đáo đại, vô lượng, không hận, không sân.
Biến mãn và an trú một phương với tâm câu hành bi, phương thứ hai cũng thế, phương thứ ba cũng thế, phương thứ tư cũng thế. Như vậy đối với mọi phương xứ trên dưới bề ngang cùng khắp, hết thảy thế giới, vị ấy biến mãn và an trú với tâm câu hành bi rộng lớn, đáo đại, vô lượng, không hận, không sân.
Biến mãn và an trú một phương với tâm câu hành tùy hỷ, phương thứ hai cũng thế, phương thứ ba cũng thế, phương thứ tư cũng thế. Như vậy đối với mọi phương xứ trên dưới bề ngang, cùng khắp, hết thảy thế giới, vị ấy biến mãn và an trú với tâm câu hành tùy hỷ rộng lớn, đáo đại, vô lượng, không hận, không sân.
Biến mãn và an trú một phương với tâm câu hành xả, phương thứ hai cũng thế, phương thứ ba cũng thế, phương thứ tư cũng thế. Như vậy đối với mọi phương xứ trên dưới bề ngang, cùng khắp, hết thảy thế giới, vị ấy biến mãn và an trú với tâm câu hành xả rộng lớn, đáo đại, vô lượng, không sân, không hận.
Trong bốn vô lượng tâm có bao nhiêu LÀ THIỆN? BAO NHIÊU LÀ VÔ KÝ… (trùng)… BAO NHIÊU LÀ HỮU TRANH? BAO NHIÊU LÀ VÔ TRANH?
[763] (BỐN VÔ LƯỢNG TÂM) có thể là thiện, có thể là vô ký.
Ba vô lượng tâm là tương ưng thọ lạc, xả là tương ưng thọ phi khổ phi lạc.
(Bốn vô lượng tâm) có thể là dị thục quả, có thể là dị thục nhân, có thể là phi dị thục quả phi dị thục nhân.
(Bốn vô lượng) có thể là thành do thủ cảnh thủ, có thể là phi do thủ cảnh thủ.
(Bốn vô lượng tâm) là phi phiền toái cảnh phiền não.
Ba vô lượng tâm có thể là hữu tầm hữu tứ, có thể là vô tầm hữu tứ, có thể là vô tầm vô tứ; xả là vô tầm vô tứ.
Ba vô lượng tâm có thể là câu hành hỷ, có thể là câu hành lạc, phi câu hành xả, có thể không nên nói là câu hành hỷ; xả là câu hành xả.
(Bốn vô lượng tâm) là không đáng do kiến đạo tiến đạo đoạn trừ.
(Bốn vô lượng tâm) là phi hữu nhân đáng do kiến đạo tiến đạo đoạn trừ.
(Bốn vô lượng tâm) có thể là phân tích tập; có thể là phi nhân tích tập phi nhân tịch diệt.
(Bốn vô lượng tâm) là phi hữu học phi vô học.
(Bốn vô lượng tâm) là đáo đại.
(Bốn vô lượng tâm) không nên nói là cảnh hy thiểu hay cảnh đáo đại hay cảnh vô lượng.
(Bốn vô lượng tâm) là trung bình.
(Bốn vô lượng tâm) là phi cố định.
(Bốn vô lượng tâm) không nên nói là có đạo thành cảnh hay có đạo thành nhân hay có đạo thành trưởng.
(Bốn vô lượng tâm) có thể là sinh tồn, có thể là vị sinh tồn, có thể là chuẩn sanh.
(Bốn vô lượng tâm) có thể là quá khứ, có thể là vị lai, có thể là hiện tại.
(Ba vô lượng tâm) không nên nói là biết cảnh quá khứ hay biết cảnh vị lai hay biết cảnh hiện tại.
(Bốn vô lượng tâm) có thể là nội phần, có thể là ngoại phần, có thể là nội ngoại phần.
(Bốn vô lượng tâm) là biết cảnh ngoại phần.
(Bốn vô lượng tâm) là vô kiến vô đối chiếu.
[764] Từ là nhân; ba vô lượng tâm là phi nhân.
(Bốn vô lượng tâm) là hữu nhân.
(Bốn vô lượng tâm) là tương ưng nhân.
Từ là nhân hữu nhân; ba vô lượng tâm không nên nói là nhân hữu nhân, mà là hữu nhân phi nhân.
Từ là nhân tương ưng nhân; ba vô lượng tâm không nên nói là nhân tương ưng nhân, mà là tương ưng nhân phi nhân.
Ba vô lượng tâm là phi nhân hữu nhân; Từ không nên nói là phi nhân hữu nhân hay phi nhân vô nhân.
[765] (BỐN VÔ LƯỢNG TÂM) là hữu duyên. Là hữu vi. Là vô kiến. Là vô đối chiếu. Là phi sắc. Là hiệp thế. Là đáng vài tâm biết, và không đáng vài tâm biết.
(Bốn vô lượng tâm) là phi lậu.
(Bốn vô lượng tâm) là cảnh lậu.
(Bốn vô lượng tâm) là bất tương ưng lậu.
(Bốn vô lượng tâm) không nên nói là lậu cảnh lậu, mà là cảnh lậu phi lậu.
(Bốn vô lượng tâm) không nên nói là tương ưng lậu hay tương ưng lậu phi lậu.
(Bốn vô lượng tâm) là bất tương ưng lậu cảnh lậu.
(Bốn vô lượng tâm) là phi triền… (trùng)…
(Bốn vô lượng tâm) là phi phược… (trùng)…
(Bốn vô lượng tâm) là phi bộc… (trùng)…
(Bốn vô lượng tâm) là phi phối… (trùng)…
(Bốn vô lượng tâm) là phi cái… (trùng)…
(Bốn vô lượng tâm) là phi khinh thị… (trùng)…
(Bốn vô lượng tâm) là hữu tri cảnh. Là phi tâm. Là sở hữu tâm. Là tương ưng tâm. Là hòa với tâm. Là có tâm làm sở sanh. Là đồng hiện hữu với tâm. Là tùy chuyển với tâm. Là hòa tâm tâm sở sanh. Là hòa tâm tâm sở sanh đồng hiện hữu với tâm. Là hòa tâm tâm sở sanh tùy chuyển với tâm. Là ngoại phần. Là phi y sinh.
(Bốn vô lượng tâm) có thể là do thủ, có thể là phi do thủ.
(Bốn vô lượng tâm) là phi thủ… (trùng)…
(Bốn vô lượng tâm) là phi phiền não… (trùng)…
[766] (Bốn vô lượng tâm) là không đáng do kiến đạo đoạn trừ. Là không đáng do tiến đạo đoạn trừ. Là phi hữu nhân đáng do kiến đạo đoạn trừ. Là phi hữu nhân đáng do tiến đạo đoạn trừ.
Ba vô lượng tâm có thể là hữu tầm, có thể là vô tầm; xả là vô tầm.
Ba vô lượng tâm có thể là hữu tứ, có thể là vô tứ; xả là vô tứ.
Ba vô lượng tâm có thể là hữu hỷ, có thể là vô hỷ; xả là vô hỷ.
Ba vô lượng tâm có thể là câu hành hỷ, có thể là phi câu hành hỷ; xả là phi câu hành hỷ.
Ba vô lượng tâm là câu hành lạc, xả là phi câu hành lạc.
Xả là câu hành xả; ba vô lượng tâm là phi câu hành xả.
(Bốn vô lượng tâm) là phi dục giới. Là sắc giới. Là phi vô sắc giới. Là hệ thuộc. Là pháp phi dẫn xuất. Là phi cố định. Là hữu thượng. Là vô tranh.
DỨT PHẦN VẤN ÐÁP
TRỌN VẸN VÔ LƯỢNG PHÂN TÍCH
ÐIỀU HỌC PHÂN TÍCH (SIKKHĀPADAVIBHAṄGO)
PHÂN THEO VI DIỆU PHÁP (Abhidhammabhājanīyam)
PHẦN THỨ NHẤT
[767] NĂM ÐIỀU HỌC LÀ: Ðiều học kiên tránh sát sanh, điều học kiên tránh lấy vật không cho, điều học kiên tránh tà hạnh trong dục lạc, điều học kiên tránh nói dối, điều học kiên tránh sự dễ duôi uống rượu và các chất say.
[768] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ ÐIỀU HỌC KIÊN TRÁNH SÁT SANH?
Khi nào tâm thiện Dục giới sanh khởi, câu hành hỷ tương ưng trí, kiêng tránh sát sanh; trong khi ấy có sự chừa bỏ, kiêng cữ, ngăn ngừa, kiêng tránh, không tạo, không hành, không phạm, không quá hạn, trừ khử sự sát sanh. Ðây gọi là điều học kiên tránh sát sanh, các pháp còn lại là tương ưng sự kiêng tránh.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ ÐIỀU HỌC KIÊN TRÁNH SÁT SANH?
Khi nào tâm thiện Dục giới sanh khởi, câu hành hỷ tương ưng trí, kiêng tránh sát sanh; trong khi ấy có sự cố ý, sự cố quyết, thái độ cố quyết. Ðây gọi là điều học kiên tránh sát sanh, các pháp còn lại là tương ưng sự cố ý.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ ÐIỀU HỌC KIÊN TRÁNH SÁT SANH?
Khi nào tâm thiện Dục giới sanh khởi, câu hành hỷ tương ưng trí, kiêng tránh sát sanh, có xúc… (trùng)… có chiếu cố có bất phóng dật. Ðây gọi là điều học kiên tránh sát sanh.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ ÐIỀU HỌC KIÊN TRÁNH SÁT SANH?
Khi nào tâm thiện Dục giới sanh khởi, câu hành hỷ tương ưng trí hữu trợ… (trùng)… câu hành hỷ bất tương ưng trí… (trùng)… câu hành hỷ bất tương ưng trí hữu trợ… (trùng)… câu hành xả bất tương ưng trí… (trùng)… câu hành xả bất tương ưng trí hữu trợ… (trùng)…. câu hành xả bất tương ưng trí… (trùng)… câu hành xả bất tương ưng trí hữu trợ, kiêng tránh sự sát sanh; trong khi ấy có sự chừa bỏ, kiêng cữ, ngăn ngừa, kiêng tránh, không tạo, không hành, không phạm, khống quá hạn, trừ khử sự sát sanh. Ðây gọi là điều học kiên tránh sát sanh, các pháp còn lại là tương ưng sự kiêng tránh.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ ÐIỀU HỌC KIÊN TRÁNH SÁT SANH?
Khi nào tâm thiện Dục giới sanh khởi, câu hành xả bất tương ưng trí hữu trợ, kiêng tránh sát sanh; trong khi ấy có sự cố ý, sự cố quyết, thái độ cố quyết. Ðây gọi là điều học kiên tránh sát sanh, các pháp còn lại là tương ưng sự cố ý.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ ÐIỀU HỌC KIÊN TRÁNH SÁT SANH?
Khi nào tâm thiện Dục giới sanh khởi, câu hành xả bất tương ưng trí hữu trợ, kiêng tránh sát sanh, có xúc… (trùng)… có chiếu cố, có bất phóng dật. Ðây gọi là điều học kiên tránh sát sanh.
[769] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ ÐIỀU HỌC KIÊNG TRÁNH LẤY VẬT KHÔNG CHO?
… (trùng)… ÐIỀU HỌC KIÊN TRÁNH TÀ HẠNH DỤC LẠC?… (trùng)… ÐIỀU HỌC KIÊN TRÁNH NÓI DỐI?… (trùng)… ÐIỀU HỌC KIÊN TRÁNH SỰ DỄ DUÔI UỐNG RƯỢU VÀ CHẤT SAY?
Khi nào, tâm thiện Dục giới sanh khởi câu hành hỷ, tương ưng trí, kiêng tránh sự dễ duôi uống rượu và chất say; trong khi ấy có sự chừa bỏ, kiêng cử, ngăn ngừa, kiêng tránh, không tạo, không hành, không phạm, không quá hạn, trừ khử sự dễ duôi uống rượu và các chất say. Ðây gọi là điều học kiên tránh sự dễ duôi uống rượu và chất say, các pháp còn lại là tương ưng sự kiêng tránh.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ ÐIỀU HỌC KIÊN TRÁNH SỰ DỄ DUÔI UỐNG RƯỢU VÀ CHẤT SAY?
Khi nào tâm thiện Dục giới sanh khởi, câu hành hỷ tương ưng trí, kiêng tránh sự dễ duôi uống rượu và chất say; trong khi ấy có sự cố ý, sự cố quyết, thái độ cố quyết. Ðây gọi là điều học kiên tránh sự dễ duôi uống rượu và chất say, các pháp còn lại là tương ưng sự cố ý.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ ÐIỀU HỌC KIÊN TRÁNH SỰ DỄ DUÔI UỐNG RƯỢU VÀ CHẤT SAY?
Khi nào tâm thiện Dục giới sanh khởi, câu hành hỷ, tương ưng trí, kiêng tránh sự dễ duôi uống rượu và chất say, có xúc… (trùng)… có chiếu cố, có bất phóng dật. Ðây gọi là điều học kiên tránh sự dễ duôi uống rượu và chất say.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ ÐIỀU HỌC KIÊN TRÁNH SỰ DỄ DUÔI UỐNG RƯỢU VÀ CHẤT SAY?
Khi nào tâm thiện Dục giới sanh khởi, câu hành hỷ tương ưng trí, hữu trợ… (trùng)… câu hành hỷ bất tương ưng trí… (trùng)… câu hành hỷ bất tương ưng trí hữu trợ… (trùng)… câu hành xả tương ưng trí… (trùng)… câu hành xả tương ưng trí hữu trợ… (trùng)…. câu hành xả bất tương ưng trí… (trùng)… câu hành xả bất tương ưng trí hữu trợ, kiêng tránh sự dễ duôi uống rượu và chất say; trong khi ấy có sự chừa bỏ, cữ kiêng, ngăn trừ, kiêng tránh, không tạo, không hành, không phạm, không quá hạn, trừ khử sự dễ duôi uống rượu và chất say, các pháp còn lại là tương ưng sự kiêng tránh.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ ÐIỀU HỌC KIÊN TRÁNH SỰ DỄ DUÔI UỐNG RƯỢU VÀ CHẤT SAY?
Khi nào tâm thiện Dục giới sanh khởi câu hành xả bất tương ưng trí hữu trợ, kiêng tránh sự dễ duôi uống rượu và chất say. Trong khi ấy có sự cố ý, sự cố quyết, thái độ cố quyết. Ðây gọi là điều học kiên tránh sự dễ duôi uống rượu và chất say, các pháp còn lại là tương ưng sự cố ý.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ ÐIỀU HỌC KIÊN TRÁNH SỰ DỄ DUÔI UỐNG RƯỢU VÀ CHẤT SAY?
Khi nào tâm thiện Dục giới sanh khởi câu hành xả bất tương ưng trí hữu trợ, kiêng tránh sự dễ duôi uống rượu và chất say, có xúc… (trùng)… có chiếu cố, có bất phóng dật. Ðây gọi là điều học kiên tránh sự dễ duôi uống rượu và chất say.
PHẦN THỨ HAI
[770] NĂM ÐIỀU HỌC LÀ:
Ðiều học kiên tránh sát sanh, điều học kiên tránh lấy vật không cho, điều học kiên tránh tà hạnh trong dục lạc, điều học kiên tránh nói dối, điều học kiên tránh dễ duôi uống rượu và chất say.
[771] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ ÐIỀU HỌC KIÊN TRÁNH SÁT SANH?
Khi nào tâm thiện Dục giới sanh khởi câu hành hỷ tương ưng trí, thành bậc hạ, bậc trung, bậc thượng, thành dục trưởng, cần trưởng, tâm trưởng, thẩm trưởng, thành dục trưởng bậc hạ, bậc trung, bậc thượng; thành cần trưởng bậc hạ, bậc trung, bậc thượng; thành tâm trưởng bậc hạ, bậc trung, bậc thượng; thành thẩm trưởng bậc hạ, bậc trung, bậc thượng; kiêng tránh sự sát sanh; trong khi ấy có sự chừa bỏ, kiêng cữ, ngăn ngừa, kiêng tránh, không tạo, không hành, không phạm, không quá hạn, trừ khử sát sanh. Ðây gọi là điều học kiên tránh sát sanh, các pháp còn lại là tương ưng sự kiêng tránh.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ ÐIỀU HỌC KIÊN TRÁNH SÁT SANH?
Khi nào tâm thiện Dục giới sanh khởi, câu hành hỷ tương ưng trí thành bậc hạ, bậc trung, bậc thượng; thành dục trưởng, cần trưởng, tâm trưởng, thẩm trưởng; thành dục trưởng bậc hạ, bậc trung, bậc thượng; thành cần trưởng bậc hạ, bậc trung, bậc thượng; thành tâm trưởng bậc hạ, bậc trung, bậc thượng; thành thẩm trưởng bậc hạ, bậc trung, bậc thượng; kiêng tránh sự sát sanh; trong khi ấy có sự cố ý, sự cố quyết, thái độ cố quyết. Ðây gọi là điều học kiên tránh sát sanh, các pháp còn lại là tương ưng sự cố ý.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ ÐIỀU HỌC KIÊN TRÁNH SÁT SANH?
Khi nào tâm thiện Dục giới sanh khởi, câu hành hỷ tương ưng trí, thành bậc hạ, bậc trung, bậc thượng; thành dục trưởng, cần trưởng, tâm trưởng, thẩm trưởng; thành dục trưởng bậc hạ, bậc trung, bậc thượng; thành cần trưởng bậc hạ, bậc trung, bậc thượng; thành tâm trưởng bậc hạ, bậc trung, bậc thượng; thành thẩm trưởng bậc hạ, bậc trung, bậc thượng, kiêng tránh sự sát sanh, có xúc… (trùng)… có chiếu cố bất phóng dật. Ðây gọi là điều học không sát sanh.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ ÐIỀU HỌC KIÊN TRÁNH SỰ SÁT SANH?
Khi nào tâm thiện Dục giới sanh khởi, câu hành hỷ tương ưng trí hữu trợ… (trùng)… câu hành hỷ bất tương ưng trí… (trùng)… câu hành hỷ bất tương ưng trí hữu trợ… (trùng)… câu hành xả tương ưng trí… (trùng)… câu hành xả tương ưng trí hữu trợ… (trùng)…. câu hành xả bất tương ưng trí… (trùng)… câu hành xả bất tương ưng trí hữu trợ, thành bậc hạ, bậc trung, bậc thượng; thành cần trưởng bậc hạ, bậc trung, bậc thượng; thành tâm trưởng bậc hạ, bậc trung, bậc thượng; thành thẩm trưởng bậc hạ, bậc trung, bậc thượng, kiêng tránh sự sát sanh; trong khi ấy có sự chừa bỏ, kiêng cữ, ngăn trừ, kiêng tránh, không tạo, không hành, không phạm, không quá hạn, trừ khử sự sát sanh. Ðây gọi là điều học kiên tránh sát sanh, các pháp còn lại là tương ưng sự kiêng tránh.
…(trùng)… các pháp còn lại là tương ưng sự cố ý.
…(trùng)… có xúc… (trùng)… có chiếu cố, có bất phóng dật. Ðây gọi là điều học kiên tránh sát sanh.
[772] Ở ÐÂY, ÐIỀU HỌC KIÊNG TRÁNH LẤY VẬT KHÔNG CHO LÀ THẾ NÀO?… (trùng)… ÐIỀU HỌC KIÊN TRÁNH TÀ HẠNH DỤC LẠC?… (trùng)… ÐIỀU HỌC NÓI DỐI?… (trùng)… ÐIỀU HỌC KIÊN TRÁNH SỰ DỄ DUÔI UỐNG RƯỢU VÀ CHẤT SAY?
Khi nào, tâm thiện Dục giới sanh khởi câu hành hỷ, tương ưng trí, thành bậc hạ, bậc trung, bậc thượng; thành dục trưởng, cần trưởng, tâm trưởng, thẩm trưởng; thành dục trưởng bậc hạ, bậc trung, bậc thượng; thành cần trưởng bậc hạ, bậc trung, bậc thượng; thành tâm trưởng bậc hạ, bậc trung, bậc thượng; thành thẩm trưởng bậc hạ, bậc trung, bậc thượng, kiêng tránh sự dễ duôi uống rượu và chất say; trong khi ấy có sự chừa bỏ, kiêng cử, ngăn trừ, kiêng tránh, không tạo, không hành, không phạm, không quá hạn, trừ khử, sự dễ duôi uống rượu và chất say, các pháp còn lại là tương ưng sự kiêng tránh.
…(trùng)… các pháp còn lại là tương ưng sự cố ý.
…(trùng)… có xúc… (trùng)… có chiếu cố, có bất phóng dật. Ðây gọi là điều học kiên tránh sự dễ duôi uống rượu và chất say.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ ÐIỀU HỌC KIÊN TRÁNH SỰ DỄ DUÔI UỐNG RƯỢU VÀ CHẤT SAY?
Khi nào tâm thiện Dục giới sanh khởi, câu hành hỷ tương ưng trí hữu trợ… (trùng)… câu hành hỷ bất tương ưng trí… (trùng)… câu hành hỷ bất tương ưng trí hữu trợ… (trùng)… câu hành xả tương ưng trí… (trùng)… câu hành xả tương ưng trí hữu trợ… (trùng)…. câu hành xả bất tương ưng trí… (trùng)… câu hành xả bất tương ưng trí hữu trợ, thành bậc hạ, bậc trung, bậc thượng; thành dục trưởng, cần trưởng, tâm trưởng, thẩm trưởng; thành dục trưởng bậc hạ, bậc trung, bậc thượng; thành cần trưởng bậc hạ, bậc trung, bậc thượng; thành tâm trưởng bậc hạ, bậc trung, bậc thượng; thành thẩm trưởng bậc hạ, bậc trung, bậc thượng, kiêng tránh sự dễ duôi uống rượu và chất say; trong khi ấy có sự chừa bỏ, sự kiêng cữ, ngăn trừ, kiêng tránh, không tạo, không hành, không phạm, không quá hạn, trừ khử sự dễ duôi uống rượu và chất say. Ðây gọi là điều học kiên tránh sự dễ duôi uống rượu và chất say, các pháp còn lại là tương ưng sự kiêng tránh.
…(trùng)… các pháp còn lại là tương ưng sự cố ý.
…(trùng)… có xúc… (trùng)… có chiếu cố, có bất phóng dật. Ðây gọi là điều học kiên tránh sự dễ duôi uống rượu và chất say.
PHÁP THÀNH ÐIỀU HỌC
[773] CÁC PHÁP NÀO THÀNH ÐIỀU HỌC?
Khi nào tâm thiện Dục giới sanh khởi, câu hành hỷ tương ứng trí, bắt cảnh sắc… (trùng)… cảnh pháp hoặc cảnh chi chi; trong khi ấy có xúc… (trùng)… có bất phóng dật. Ðây là các pháp thành điều học.
CÁC PHÁP NÀO THÀNH ÐIỀU HỌC?
Khi nào tâm thiện Dục giới sanh khởi, câu hành hỷ tương ưng trí hữu trợ… (trùng)… câu hành hỷ bất tương ưng trí… (trùng)… câu hành hỷ bất tương ưng trí hữu trợ… (trùng)… câu hành xả tương ưng trí… (trùng)… câu hành xả tương ưng trí hữu trợ… (trùng)…. câu hành xả bất tương ưng trí… (trùng)… câu hành xả bất tương ưng trí hữu trợ, bắt cảnh sắc… (trùng)… cảnh pháp hoặc cảnh chi chi; trong khi ấy có xúc… (trùng)… có bất phóng dật. Ðây là các pháp thành điều học.
CÁC PHÁP NÀO THÀNH ÐIỀU HỌC
Khi nào bậc tu tập con đuờng để đạt đến Sắc giới… (trùng)… tu tập con đường để đạt đến Vô sắc giới… (trùng)… tu tập Thiền Siêu thế, pháp dẫn xuất nhân tịch diệt, đoạn trừ thiên kiến chứng đạt đệ nhất địa vứt, ly các dục, chứng và trú Sơ thiền… (trùng)… hành nan đắc trì; trong khi ấy có xúc… (trùng)… có bất phóng dật. Ðây là các pháp thành điều học.
DỨT PHẦN PHÂN THEO VI DIỆU PHÁP
PHẦN VẤN ÐÁP (Pañhāpucchakam)
[774] NĂM ÐIỀU HỌC LÀ: Ðiều học kiên tránh sự sát sanh, điều học kiên tránh lấy vật không cho, điều học kiên tránh tà hạnh dục lạc, điều học kiên tránh nói dối, điều học kiên tránh sự dễ duôi uống rượu và các chất say.
TRONG NĂM ÐIỀU HỌC CÓ BAO NHIÊU LÀ THIỆN? CÓ BAO NHIÊU LÀ BẤT THIỆN? CÓ BAO NHIÊU LÀ VÔ KÝ?… (trùng)… CÓ BAO NHIÊU LÀ HỮU TRANH? CÓ BAO NHIÊU LÀ VÔ TRANH?
[775] (NĂM ÐIỀU HỌC) chỉ là thiện.
(Năm điều học) có thể là tương ưng thọ lạc, có thể là tương ưng thọ phi khổ phi lạc.
(Năm điều học) là dị thục nhân.
(Năm điều học) là phi thành do thủ cảnh thủ.
(Năm điều học) là phi phiền toái cảnh phiền não.
(Năm điều học) hữu tầm hữu tứ.
(Năm điều học) có thể là câu hành hỷ, có thể là câu hành lạc, có thể là câu hành xả.
(Năm điều học) là không đáng do kiến đạo tiến đạo đoạn trừ.
(Năm điều học) là phi hữu nhân đáng do kiến đạo tiến đạo đoạn trừ.
(Năm điều học) là phân tích tập.
(Năm điều học) là phi hữu học phi vô học.
(Năm điều học) là hy thiểu.
(Năm điều học) là biết cảnh hy thiểu.
(Năm điều học) là trung bình.
(Năm điều học) là phi cố định.
(Năm điều học) không nên nói là có đạo thành cảnh hay có đạo thành nhân hay có đạo thành trưởng.
(Năm điều học) có thể là sinh tồn, có thể là vị sinh tồn, không nên nói là chuẩn sanh.
(Năm điều học) có thể là quá khứ, có thể là vị lai, có thể là hiện tại.
(Năm điều học) là biết cảnh hiện tại.
(Năm điều học) có thể là nội phần, có thể là ngoại phần, có thể là nội ngoại phần.
(Năm điều học) là biết cảnh ngoại phần.
(Năm điều học) là bất kiến bất đối chiếu.
[776] (NĂM ÐIỀU HỌC) là phi nhân.
(Năm điều học) là hữu nhân.
(Năm điều học) là tương ưng nhân.
(Năm điều học) không nên nói là nhân hữu nhân, mà là hữu nhân phi nhân.
(Năm điều học) không nên nói là nhân tương ưng nhân, mà là tương ưng nhân phi nhân.
(Năm điều học) là phi nhân hữu nhân.
(Năm điều học) là hữu duyên. Là hữu vi. Là vô kiến. Là vô đối chiếu. Là phi sắc. Là hiệp thế. Là đáng vài tâm biết và không đáng vài tâm biết.
(Năm điều học) là phi lậu. Là cảnh lậu. Là bất tương ưng lậu. Không nên nói là lậu cảnh lậu, mà là cảnh lậu phi lậu. Không nên nói là lậu tương ưng lậu hay tương ưng lậu phi lậu. Là bất tương ưng lậu cảnh lậu.
(Năm điều học) là phi triền… (trùng)…
(Năm điều học) là phi phược… (trùng)…
(Năm điều học) là phi bộc… (trùng)…
(Năm điều học) là phi phối… (trùng)…
(Năm điều học) là phi cái… (trùng)…
(Năm điều học) là phi khinh thị… (trùng)…
(Năm điều học) là hữu tri cảnh. Là phi tâm. Là sở hữu tâm. Là tương ưng tâm. Là hòa với tâm. Là có tâm làm sở sanh. Là đồng hiện hữu với tâm. Là tùy chuyển với tâm. Là hòa tâm tâm sở sanh. Là hòa tâm tâm sở sanh đồng hiện hữu với tâm. Là hòa tâm tâm sở sanh tùy chuyển với tâm. Là ngoại phần. Là phi y sinh. Là phi do thủ.
(Năm điều học) là phi thủ… (trùng)…
(Năm điều học) là phi phiền não… (trùng)…
(Năm điều học) là không đáng do kiến đạo đoạn trừ. Là không đáng do tiến đạo đoạn trừ. Là phi hữu nhân đáng do kiến đạo đoạn trừ. Là phi hữu nhân đáng do tiến đạo đoạn trừ. Là hữu tầm. Là hữu tứ. Có thể là hữu hỷ, có thể là vô hỷ. Là có thể câu hành hỷ, có thể phi câu hành hỷ. Có thể là câu hành lạc, có thể là phi câu hành lạc. Có thể là câu hành xả, có thể phi câu hành xả. Là dục giới. Là phi sắc giới. Là phi vô sắc giới. Là hệ thuộc. Là phi dẫn xuất. Là phi cố định. Là hữu thượng. Là vô tranh.
DỨT PHẦN VẤN ÐÁP
TRỌN VẸN ÐIỀU HỌC PHÂN TÍCH
ÐẠT THÔNG PHÂN TÍCH (Paṭisambhidāvibhaṅgo)
PHÂN TÍCH THEO KINH
[777] BỐN ÐẠT THÔNG LÀ: Nghĩa đạt thông, Pháp đạt thông, Ngữ đạt thông, Biện đạt thông. Sự hiểu rõ nghĩa lý là nghĩa đạt thông, sự hiểu rõ Pháp là pháp đạt thông, sự hiểu rõ trong pháp ngữ là ngữ đạt thông, sự hiểu rõ trong các loại trí là biện đạt thông.
PHẦN MỘT THUỘC VỀ ÐẾ.
[778] BỐN ÐẠT THÔNG LÀ NGHĨA ÐẠT THÔNG, PHÁP ÐẠT THÔNG, NGỮ ÐẠT THÔNG, BIỆN ÐẠT THÔNG.
Sự hiểu rõ trong khổ là nghĩa đạt thông.
Sự hiểu trong khổ tập là pháp đạt thông.
Sự hiểu trong khổ diệt là nghĩa đạt thông.
Sự hiểu trong khổ diệt đạo hành là pháp đạt thông.
Sự hiểu trong pháp ngữ đối thoại là ngữ đạt thông.
Sự hiểu trong các loại trí là biện đạt thông.
PHẦN HAI THUỘC VỀ NHÂN.
[779] BỐN ÐẠT THÔNG LÀ nghĩa đạt thông, pháp đạt thông, ngữ đạt thông, biện đạt thông.
Sự hiểu trong nhân là pháp đạt thông.
Sự hiểu trong quả của nhân là nghĩa đạt thông.
Sự hiểu trong pháp ngữ đối thoại là ngữ đạt thông.
Sự hiểu trong các loại trí là biện đạt thông.
PHẦN BA THUỘC VỀ PHÁP
[780] BỐN ÐẠT THÔNG LÀ nghĩa đạt thông, pháp đạt thông, ngữ đạt thông, biện đạt thông.
Những pháp nào đang sanh, đang có, đang thành, đang xuất hiện, đang phát khởi, đang hiện khởi. Sự hiểu trong các pháp này là nghĩa đạt thông.
Nhờ những pháp nào mà các pháp kia được sanh, được có, được thành, được xuất hiện, được phát khởi, được hiện khởi, thì sự hiểu trong những pháp ấy là pháp đạt thông.
Sự hiểu trong pháp ngữ đối thoại là ngữ đạt thông.
Sự hiểu trong các loại trí là biện đạt thông.
PHẦN BỐN THUỘC VỀ DUYÊN KHỞI
[781] BỐN ÐẠT THÔNG LÀ nghĩa đạt thông, pháp đạt thông, ngữ đạt thông, biện đạt thông.
Sự hiểu rõ trong Lão tử là nghĩa đạt thông.
Sự hiểu trong tập khởi của Lão tử là pháp đạt thông.
Sự hiểu trong đoạn diệt Lão tử là nghĩa đạt thông.
Sự hiểu trong lộ hành đoạn diệt Lão tử là pháp đạt thông.
Sự hiểu trong pháp ngữ đối thoại là ngữ đạt thông.
Sự hiểu trong các loại trí là biện đạt thông.
[782] BỐN ÐẠT THÔNG LÀ: nghĩa đạt thông, pháp đạt thông, ngữ đạt thông, biện đạt thông.
Sự hiểu trong sanh… (trùng)… sự hiểu trong hữu… (trùng)… sự hiểu trong Thủ… (trùng)… sự hiểu trong Ái… (trùng)… sự hiểu trong Thọ… (trùng)… sự hiểu trong Xúc… (trùng)… sự hiểu trong Lục nhập… (trùng)… sự hiểu trong Danh sắc… (trùng)… sự hiểu trong Thức… (trùng)… sự hiểu trong hành là nghĩa đạt thông.
Sự hiểu trong tập khởi của Hành là pháp đạt thông.
Sự hiểu trong đoạn diệt các hành là nghĩa đạt thông.
Sự hiểu trong lộ hành đoạn diệt các Hành là pháp đạt thông.
Sự hiểu trong pháp ngữ đối thoại là ngữ đạt thông.
Sự hiểu trong các loại trí là biện đạt thông.
PHẦN NĂM THUỘC VỀ PHÁP HỌC
[783] BỐN ÐẠT THÔNG LÀ nghĩa đạt thông, pháp đạt thông, ngữ đạt thông, biện đạt thông.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ PHÁP ÐẠT THÔNG?
Nơi đây, vị tỳ khưu biết rành pháp như Khế kinh, ứng tụng, ký thuyết, kệ ngôn, cảm hứng ngữ, như thị thuyết, bổn sanh kinh, vị tằng hữu, phương quảng kinh. Ðây gọi là Pháp đạt thông.
Vị ấy hiểu rõ ý nghĩa của ngạn ngữ ấy: “đây là ý nghĩa của ngạn ngữ này; đây là ý nghĩa của ngạn ngữ này”. Ðấy gọi là nghĩa đạt thông.
Sự hiểu rõ trong pháp ngữ đối thoại là ngữ đạt thông.
Sự hiểu rõ trong các loại trí là biện đạt thông.
DỨT PHẦN PHÂN THEO KINH
PHÂN THEO VI DIỆU PHÁP (Abhidhammabhājanīyam)
PHẦN THUỘC TÂM THIỆN DỤC GIỚI
[784] BỐN ÐẠT THÔNG LÀ nghĩa đạt thông, pháp đạt thông, ngữ đạt thông, biện đạt thông.
THẾ NÀO LÀ CÁC PHÁP THIỆN?
Khi nào tâm thiện Dục giới sanh khởi câu hành hỷ tương ưng trí, bắt cảnh sắc… (trùng)… cảnh pháp, hoặc cảnh chi chi; trong khi ấy có xúc… (trùng)… có bất phóng dật. Ðây là các pháp thiện.
Sự hiểu trong các pháp này là pháp đạt thông.
Sự hiểu trong quả của các pháp ấy là nghĩa đạt thông.
Sự hiểu chế định các pháp bằng ngôn từ nào, thì sự hiểu trong pháp ngữ đối thoại đó là ngữ đạt thông.
Rõ biết các loại trí kia bằng trí nào, thì sự hiểu trong các loại trí như rằng “đây là các loại trí soi sáng ý nghĩa này”, thành biện đạt thông.
BỐN ÐẠT THÔNG LÀ nghĩa đạt thông, pháp đạt thông, ngữ đạt thông, biện đạt thông.
THẾ NÀO LÀ CÁC PHÁP THIỆN?
Khi nào tâm thiện dục giới sanh khởi câu hành hỷ tương ưng trí hữu trợ… (trùng)… câu hành hỷ bất tương ưng trí… (trùng)… câu hành hỷ bất tương ưng trí hữu trợ… (trùng)… câu hành xả tương ưng trí… (trùng)… câu hành xả tương ưng trí hữu trợ… (trùng)…. câu hành xả bất tương ưng trí… (trùng)… câu hành xả bất tương ưng trí hữu trợ, bất cảnh sắc… (trùng)… cảnh pháp, hoặc cảnh chi chi; trong khi ấy có xúc… (trùng)… có bất phóng dật. Ðây là các pháp thiện.
Sự hiểu trong các pháp này là pháp đạt thông.
Sự hiểu trong quả của các pháp ấy là nghĩa đạt thông.
Chế định trong các pháp ấy bằng ngôn từ nào, thì sự hiểu trong pháp ngữ đối thoại đó, là ngữ đạt thông.
Rõ biết các loại trí kia bằng trí nào, thì sự hiểu trong các loại trí kia như rằng “đây là các loại trí soi sáng ý nghĩa này”, thành biện đạt thông.
PHẦN THUỘC TÂM THIỆN SẮC GIỚI
BỐN ÐẠT THÔNG LÀ nghĩa đạt thông, pháp đạt thông, ngữ đạt thông, biện đạt thông.
THẾ NÀO LÀ CÁC PHÁP THIỆN?
Khi nào vị tu tập con đường để đạt đến Sắc giới chứng và trú Sơ thiền… (trùng)… do ly các dục đề mục đất; trong khi ấy có xúc… (trùng)… có bất phóng dật. Ðây là các pháp thiện.
Sự hiểu trong các pháp này là pháp đạt thông.
Sự hiểu trong quả của các pháp ấy là nghĩa đạt thông.
Sự chế định các pháp ấy bằng ngôn từ nào, thì sự hiểu trong pháp ngữ đối thoại đó là ngữ đạt thông.
Rõ biết các loại trí kia bằng trí nào, thì sự hiểu trong các loại trí như rằng “đây là các loại trí soi sáng ý nghĩa này”, thành biện đạt thông.
PHẦN THUỘC TÂM THIỆN VÔ SẮC GIỚI
BỐN ÐẠT THÔNG LÀ nghĩa đạt thông, pháp đạt thông, ngữ đạt thông, biện đạt thông.
THẾ NÀO LÀ CÁC PHÁP THIỆN?
Khi nào vị tu tập con đường để đạt đến Vô sắc giới, vượt qua mọi vô sở hữu xứ, chứng và trú Tứ thiền… (trùng)… do đoạn trừ lạc, câu hành tưởng phi tưởng phi phi tưởng xứ; trong khi ấy có xúc… (trùng)… có bất phóng dật. Ðây là các pháp thiện.
Sự hiểu trong các pháp này là pháp đạt thông.
Sự hiểu trong quả của các pháp ấy là nghĩa đạt thông.
Chế định các pháp ấy bằng ngôn từ nào, thì sự hiểu trong pháp ngữ đối thoại đó là ngữ đạt thông.
Rõ biết các loại trí kia bằng trí nào thì sự hiểu trong các loại trí như rằng “đây là các loại trí soi sáng ý nghĩa này”, thành biện đạt thông.
PHẦN THUỘC TÂM THIỆN SIÊU THẾ
BỐN ÐẠT THÔNG LÀ nghĩa đạt thông, pháp đạt thông, ngữ đạt thông, biện đạt thông.
THẾ NÀO LÀ CÁC PHÁP THIỆN?
Khi nào tu tập thiền Siêu thế, pháp dẫn xuất, nhân tịch diệt để đoạn trừ thiên kiến, đạt đến đệ nhất địa vức, chứng và trú Sơ thiền… (trùng)… do ly các dục, hành nan đắc trì; trong khi ấy có xúc… (trùng)… có bất phóng dật. Ðây là các pháp thiện.
Sự hiểu trong các pháp này là pháp đạt thông.
Sự hiểu trong quả của các pháp ấy là nghĩa đạt thông.
Chế định các pháp ấy bằng ngôn từ nào thì sự hiểu trong pháp ngữ đối thoại đó là ngữ đạt thông.
Rõ biết các loại trí kia bằng trí nào thì sự hiểu biết trong các loại trí kia như rằng “đây là các loại trí soi sáng ý nghĩa này”, thành biện đạt thông.
PHẦN TÂM BẤT THIỆN
[785] BỐN ÐẠT THÔNG LÀ nghĩa đạt thông, pháp đạt thông, ngữ đạt thông, biện đạt thông.
THẾ NÀO LÀ CÁC PHÁP BẤT THIỆN?
Khi nào tâm bất thiện sanh khởi câu hành hỷ tương ưng kiến, bắt cảnh sắc… (trùng)… cảnh pháp hoặc cảnh chi chi; trong khi ấy có xúc… (trùng)… có bất phóng dật. Ðây là các pháp bất thiện.
Sự hiểu trong các pháp này là pháp đạt thông.
Sự hiểu trong quả của các pháp ấy là nghĩa đạt thông.
Chế định các pháp ấy bằng ngôn từ nào thì sự hiểu trong pháp ngữ đối thoại đó, là ngữ đạt thông.
Rõ biết các loại trí kia bằng trí nào thì sự hiểu trong các loại trí như rằng “đây là các loại trí soi sáng ý nghĩa này”, thành biện đạt thông.
BỐN ÐẠT THÔNG LÀ nghĩa đạt thông, pháp đạt thông, ngữ đạt thông, biện đạt thông.
THẾ NÀO LÀ CÁC PHÁP BẤT THIỆN?
Khi nào tâm bất thiện sanh khởi câu hành hỷ tương ưng kiến hữu trợ… (trùng)… câu hành hỷ bất tương ưng kiến… (trùng)… câu hành hỷ bất tương ưng kiến hữu trợ… (trùng)… câu hành xả tương ưng kiến… (trùng)… câu hành xả tương ưng kiến hữu trợ… (trùng)…. câu hành xả bất tương ưng kiến… (trùng)… câu hành xả bất tương ưng kiến hữu trợ… (trùng)… câu hành ưu tương ưng phẫn nhuế… (trùng)… câu hành ưu tương ưng phẫn nhuế hữu trợ… (trùng)… câu hành xả tương ưng hoài nghi… (trùng)… câu hành xả tương ưng điệu cử, bất cảnh sắc… (trùng)… cảnh pháp hoặc cảnh chi chi; trong khi ấy có xúc… (trùng)… có bất phóng dật. Ðây là các pháp bất thiện.
Sự hiểu trong các pháp này là pháp đạt thông.
Sự hiểu trong quả của pháp ấy là nghĩa đạt thông.
Chế định các pháp ấy bằng ngôn từ nào thì sự hiểu trong pháp ngữ đối thoại đó là ngữ đạt thông.
Rõ biết các loại trí kia bằng trí nào, thì sự hiểu trong loại trí như rằng “đây là các loại trí soi sáng ý nghĩa này”, thành biện đạt thông.
PHẦN THUỘC TÂM VÔ KÝ QUẢ THIỆN VÔ NHÂN
[786] BA ÐẠT THÔNG LÀ NGHĨA ÐẠT THÔNG, NGỮ ÐẠT THÔNG, BIỆN ÐẠT THÔNG.
THẾ NÀO LÀ CÁC PHÁP VÔ KÝ?
Khi nào nhãn thức dị thục quả sanh khởi do sự tạo tác, tích lũy thiện nghiệp Dục giới, câu hành xả bắt cảnh sắc; trong khi ấy có xúc, có thọ, có tưởng, có tư, có tâm, có xả, có nhất hành tâm, có ý quyền, có xả quyền, có mạng quyền hoặc là trong khi ấy có những pháp phi sắc nào khác liên quan tương sinh. Ðây là các pháp vô ký.
Sự hiểu trong các pháp này là nghĩa đạt thông.
Chế định các pháp ấy bằng ngôn từ nào, thì sự hiểu trong ngữ pháp đối thoại đó là ngữ đạt thông.
Rõ biết các loại trí kia bằng trí nào thì sự hiểu trong các loại trí như rằng: “đây là các loại trí soi sáng ý nghĩa này”, thành biện đạt thông.
Ba đạt thông là nghĩa đạt thông, ngữ đạt thông, biện đạt thông.
THẾ NÀO LÀ CÁC PHÁP VÔ KÝ?
Khi nào nhĩ thức dị thục quả sanh khởi do sự tạo tác tích lũy thiện nghiệp dục giới, câu hành xả bắt cảnh thinh… (trùng)… tỹ thức sanh khởi câu hành xả bắt cảnh khí… (trùng)… thiệt thức câu hành xả bắt cảnh vị… (trùng)… thân thức sanh khởi câu hành lạc bắt cảnh xúc; trong khi ấy có xúc, có thọ, có tưởng, có tư, có tâm, có lạc, có nhất hành tâm, có ý quyền, có lạc quyền, có mạng quyền hoặc là trong khi ấy có những pháp phi sắc nào khác liên quan tương sinh. Ðây là các pháp vô ký.
Sự hiểu trong các pháp này là nghĩa đạt thông.
Chế định các pháp ấy bằng ngôn từ nào thì sự hiểu trong ngữ pháp đối thoại đó là ngữ đạt thông.
Rõ biết các loại trí kia bằng trí nào thì sự hiểu trong các loại trí như rằng: “đây là các loại trí soi sáng ý nghĩa này”, thành biện đạt thông.
Ba đạt thông là nghĩa đạt thông, ngữ đạt thông, biện đạt thông.
THẾ NÀO LÀ CÁC PHÁP VÔ KÝ?
Khi nào ý giới dị thục quả sanh khởi do sự tạo tác tích lũy thiện nghiệp dục giới, câu hành xả bắt cảnh sắc… (trùng)… hoặc cảnh xúc, hoặc cảnh chi chi; trong khi ấy có xúc, có thọ, có tưởng, có tư, có tâm, có tầm, có tứ, có xả, có nhất hành tâm, có ý quyền, có xả quyền, có mạng quyền hoặc là trong khi ấy có những pháp phi sắc nào khác liên quan tương sinh. Ðây là các pháp vô ký.
Sự hiểu trong các pháp này là nghĩa đạt thông.
Chế định các pháp ấy bằng ngôn từ nào, thì sự hiểu trong ngữ pháp đối thoại đó, là ngữ đạt thông.
Rõ biết các loại trí kia bằng trí nào thì sự hiểu trong các loại trí kia như rằng “đây là các loại trí soi sáng ý nghĩa này”, thành biện đạt thông.
Ba đạt thông là nghĩa đạt thông, ngữ đạt thông, biện đạt thông.
THẾ NÀO LÀ CÁC PHÁP VÔ KÝ?
Khi nào ý thức giới dị thục quả sanh khởi, do sự tạo tác tích lũy thiện nghiệp dục giới, câu hành hỷ, bắt cảnh sắc… (trùng)… cảnh pháp, hoặc cảnh chi chi; trong khi ấy có xúc, có thọ, có tưởng, có tư, có tâm, có tầm, có tứ, có hỷ, có lạc, có nhất hành tâm, có ý quyền, có hỷ quyền, có mạng quyền hoặc là trong khi ấy có những pháp phi sắc nào khác liên quan tương sinh. Ðây là các pháp vô ký.
Sự hiểu trong các pháp này là nghĩa đạt thông.
Chế định các pháp ấy bằng ngôn từ nào, thì sự hiểu trong ngữ pháp đối thoại đó là ngữ đạt thông.
Rõ biết các loại trí kia bằng trí nào thì sự hiểu trong các loại trí như rằng: “đây là các loại trí soi sáng ý nghĩa này”, thành biện đạt thông.
BA ÐẠT THÔNG là nghĩa đạt thông, ngữ đạt thông, biện đạt thông.
THẾ NÀO LÀ CÁC PHÁP VÔ KÝ?
Khi nào ý thức giới dị thục quả sanh khởi, do sự tạo tác tích lũy nghiệp thiện dục giới, câu hành xả, bắt cảnh sắc… (trùng)… cảnh pháp, hoặc cảnh chi chi; trong khi ấy có xúc, có thọ, có tưởng, có tư, có tâm, có tầm, có tứ, có xả, có nhất hành tâm, có ý quyền, có xả quyền, có mạng quyền, hoặc là trong khi ấy có những pháp phi sắc nào khác liên quan tương sinh. Ðây là các pháp vô ký.
Sự hiểu trong các pháp này là nghĩa đạt thông.
Chế định các pháp ấy bằng ngôn từ nào, thì sự hiểu trong ngữ pháp đối thoại đó là ngữ đạt thông.
Rõ biết các loại trí kia bằng trí nào, thì sự hiểu trong các loại trí như rằng: “đây là các loại trí soi sáng ý nghĩa này”, thành biện đạt thông.
PHẦN THUỘC VÔ KÝ TÂM ÐẠI QUẢ
BA ÐẠT THÔNG LÀ NGHĨA ÐẠT THÔNG, NGỮ ÐẠT THÔNG, BIỆN ÐẠT THÔNG.
THẾ NÀO LÀ CÁC PHÁP VÔ KÝ?
Khi nào ý thức giới dị thục sanh khởi, do sự tạo tác tích lũy nghiệp thiện Dục giới, câu hành hỷ tương ưng trí… (trùng)… câu hành hỷ tương ưng trí hữu trợ… (trùng)… câu hành hỷ bất tương ưng trí… (trùng)… câu hành hỷ bất tương ưng trí hữu trợ… (trùng)… câu hành xả tương ưng trí… (trùng)… câu hành xả tương ưng trí hữu trợ… (trùng)…. câu hành xả bất tương ưng trí… (trùng)… câu hành xả bất tương ưng trí hữu trợ, bất cảnh sắc… (trùng)… cảnh pháp hoặc cảnh chi chi; trong khi ấy có xúc… (trùng)… có bất phóng dật. Ðây là các pháp vô ký.
Sự hiểu trong pháp này là nghĩa đạt thông.
Chế định các pháp ấy bằng ngôn từ nào, thì sự hiểu trong ngữ pháp đối thoại đó, là ngữ đạt thông.
Rõ biết các loại trí kia bằng trí nào thì sự hiểu trong các loại trí kia như rằng: “đây là các loại trí soi sáng ý nghĩa này”, thành biện đạt thông.
PHẦN THUỘC VÔ KÝ TÂM QUẢ SẮC GIỚI
BA ÐẠT THÔNG LÀ NGHĨA ÐẠT THÔNG, NGỮ ÐẠT THÔNG, BIỆN ÐẠT THÔNG.
THẾ NÀO LÀ CÁC PHÁP VÔ KÝ?
Khi nào tu tập con đường để đạt đến Sắc giới, chứng và trú Sơ thiền… (trùng)… do ly các dục, ly các bất thiện pháp, đề mục đất; trong khi ấy có xúc, có bất phóng dật. Ðây là các pháp thiện. Do sự tạo tác tích lũy nghiệp thiện sắc giới đó, bậc chứng và trú Sơ thiền… (trùng)… ly các dục, ly các bất thiện pháp, đề mục đất, thành tựu quả; trong khi ấy có xúc… (trùng)… có bất phóng dật. Ðây là các pháp vô ký.
Sự hiểu biết trong các pháp này là nghĩa đạt thông.
Chế định các pháp ấy bằng ngôn từ nào, thì sự hiểu trong ngữ pháp đối thoại đó là ngữ đạt thông.
Rõ biết các loại trí kia bằng trí nào, thì sự hiểu trong các loại trí như rằng: “đây là các loại trí soi sáng ý nghĩa này”, thành biện đạt thông.
PHẦN THUỘC VÔ KÝ TÂM QUẢ VÔ SẮC GIỚI
BA ÐẠT THÔNG LÀ NGHĨA ÐẠT THÔNG, NGỮ ÐẠT THÔNG, BIỆN ÐẠT THÔNG.
THẾ NÀO LÀ CÁC PHÁP VÔ KÝ?
Khi nào tu tập con đường để đạt đến Vô sắc giới, vượt qua mọi vô sở hữu xứ, chứng và trú Tứ thiền… (trùng)… do đoạn trừ lạc, câu hành tưởng phi tưởng phi phi tưởng xứ; trong khi ấy có xúc… (trùng)… có bất phóng dật. Ðây là các pháp thiện. Do sự tạo tác tích lũy thiện vô sắc giới đó, bậc vượt qua mọi vô sở hữu xứ, chứng và trú Tứ thiền… (trùng)… do đoạn trừ lạc, câu hành tưởng phi tưởng phi phi tưởng xứ, thành tựu quả; trong khi ấy có xúc… (trùng)… có bất phóng dật. Ðây là các pháp vô ký.
Sự hiểu trong các pháp này là nghĩa đạt thông.
Chế định các pháp ấy bằng ngôn từ nào, thì sự hiểu trong pháp ngữ đối thoại đó, là ngữ đạt thông.
Rõ biết các loại trí kia bằng trí nào thì sự hiểu trong các loại trí như rằng: “đây là các loại trí soi sáng ý nghĩa này”, thành biện đạt thông.
PHẦN THUỘC VÔ KÝ TÂM QUẢ SIÊU THẾ
BA ÐẠT THÔNG LÀ nghĩa đạt thông, ngữ đạt thông, biện đạt thông.
THẾ NÀO LÀ CÁC PHÁP VÔ KÝ?
Khi nào tu tập Thiền Siêu Thế, pháp dẫn xuất, nhân tịch diệt để đoạn trừ thiên kiến, đạt đến đệ nhất địa vức, chứng và trú Sơ thiền… (trùng)… do ly các dục, ly bất thiện pháp, hành nan đắc trì; trong khi ấy có xúc… (trùng)… có bất phóng dật. Ðây là các pháp thiện. Do sự tạo tác tu tập thiền thiện Siêu thế đó, vị chứng và trú Sơ thiền… (trùng)… do ly các dục, ly bất thiện pháp, không tánh hành nan đắc trì; thành tựu quả; trong khi ấy có xúc… (trùng)… có bất phóng dật. Ðây là các pháp vô ký.
Sự hiểu trong các pháp này là nghĩa đạt thông.
Chế định các pháp ấy bằng ngôn từ nào, thì sự hiểu trong ngữ pháp đối thoại đó, là ngữ đạt thông.
Rõ biết các loại trí kia bằng trí nào thì sự hiểu trong các loại trí như rằng: “đây là các loại trí soi sáng ý nghĩa này”, thành biện đạt thông.
PHẦN THUỘC VÔ KÝ TÂM QUẢ BẤT THIỆN
BA ÐẠT THÔNG LÀ NGHĨA ÐẠT THÔNG, NGỮ ÐẠT THÔNG, BIỆN ÐẠT THÔNG.
THẾ NÀO LÀ CÁC PHÁP VÔ KÝ?
Khi nào nhãn thức dị thục quả sanh khởi, do sự tạo tác tích lũy nghiệp bắt thiện, câu hành xả bắt cảnh sắc… (trùng)… nhĩ thức sanh khởi câu hành xả, bắt cảnh thinh… (trùng)… tỷ thức sanh khởi câu hành xả, bắt cảnh khí… (trùng)… thiệt thức sang khởi câu hành xả, bắt cảnh vị… (trùng)… thân thức sanh khởi câu hành khổ, bắt cảnh xúc; trong khi ấy có xúc, có thọ, có tưởng, có tư, có tâm, có khổ, có nhất hành tâm, có ý quyền, có khổ quyền, có mạng quyền, hoặc là trong khi ấy có những pháp phi sắc nào khác liên quan tương sinh. Ðây là các pháp vô ký.
Sự hiểu trong các pháp này là nghĩa đạt thông.
Chế định các pháp ấy bằng ngôn từ nào, thì sự hiểu trong ngữ pháp đối thoại đó, là ngữ đạt thông.
Rõ biết các loại trí kia bằng trí nào thì sự hiểu trong các loại trí kia như rằng “đây là các loại trí soi sáng ý nghĩa này”, thành biện đạt thông.
BA ÐẠT THÔNG LÀ NGHĨA ÐẠT THÔNG, NGỮ ÐẠT THÔNG, BIỆN ÐẠT THÔNG.
THẾ NÀO LÀ CÁC PHÁP VÔ KÝ?
Khi nào ý giới dị thục quả sanh khởi do sự tạo tác tích lũy nghiệp bất thiện, câu hành xả, bắt cảnh sắc… (trùng)… cảnh xúc… (trùng)… cảnh pháp hoặc cảnh chi chi; trong khi ấy có xúc, có thọ, có tưởng, có tư, có tâm, có tầm, có tứ, có xả, có nhất hành tâm, có ý quyền, có xả quyền, có mạng quyền hoặc là trong khi ấy có những pháp phi sắc nào khác liên quan tương sinh. Ðây là các pháp vô ký.
Sự hiểu trong các pháp này là nghĩa đạt thông.
Chế định các pháp ấy bằng ngôn từ nào, thì sự hiểu trong ngữ pháp đối thoại đó là ngữ đạt thông.
Rõ biết các loại trí như rằng “đây là các loại trí soi sáng ý nghĩa này”, thành biện đạt thông.
PHẦN THUỘC VÔ KÝ TỐ VÔ NHÂN.
[787] BA ÐẠT THÔNG LÀ NGHĨA ÐẠT THÔNG, NGỮ ÐẠT THÔNG, BIỆN ÐẠT THÔNG.
THẾ NÀO LÀ CÁC PHÁP VÔ KÝ?
Khi nào ý thức giới sanh khởi, thuộc tố, phi thiện phi bất thiện, phi nghiệp quả, câu hành xả bắt cảnh sắc… (trùng)… hoặc cảnh xúc, hoặc cảnh chi chi; trong khi ấy có xúc, có thọ, có tưởng, có tư, có tâm, có tầm, có tứ, có xả, có nhất hành tâm, có ý quyền, có xả quyền, có mạng quyền, hoặc là có những pháp phi sắc nào khác liên quan tương sinh. Ðây là các pháp vô ký.
Sự hiểu trong các pháp này là nghĩa đạt thông.
Chế định các pháp ấy bằng ngôn từ nào, thì sự hiểu trong ngữ pháp đối thoại đó, là ngữ đạt thông.
Rõ biết các loại trí kia bằng trí nào thì sự hiểu trong các loại trí như rằng “đây là các loại trí soi sáng ý nghĩa này”, thành biện đạt thông.
Ba đạt thông là nghĩa đạt thông, ngữ đạt thông, biện đạt thông.
THẾ NÀO LÀ CÁC PHÁP VÔ KÝ?
Khi nào ý thức giới sanh khởi thuộc tố, phi thiện phi bất thiện, phi nghiệp quả, câu hành hỷ, bắt cảnh sắc… (trùng)… hoặc cảnh pháp… (trùng)… ý thức giới sanh khởi thuộc tố, phi thiện phi bất thiện, phi nghiệp quả, câu hành xả, bắt cảnh sắc… (trùng)… cảnh pháp, hoặc cảnh chi chi; trong khi ấy có xúc, có thọ, có tưởng, có tư, có tâm, có tầm, có tứ, có xả, có nhất hành tâm, có cần quyền, có định quyền, có ý quyền, có xả quyền, có mạng quyền, hoặc là trong khi ấy có những pháp phi sắc nào khác liên quan tương sinh. Ðây là các pháp vô ký.
Sự hiểu trong các pháp này là nghĩa đạt thông.
Chế định các pháp ấy bằng ngôn từ nào thì sự hiểu trong ngữ pháp đối thoại đó là ngữ đạt thông.
Rõ biết các loại trí kia bằng trí nào thì sự hiểu trong các loại trí như rằng “đây là các loại trí soi sáng ý nghĩa này”, thành biện đạt thông.
PHẦN THUỘC VÔ KÝ TỐ HỮU NHÂN.
BA ÐẠT THÔNG LÀ NGHĨA ÐẠT THÔNG, NGỮ ÐẠT THÔNG, BIỆN ÐẠT THÔNG.
THẾ NÀO LÀ CÁC PHÁP VÔ KÝ?
Khi nào ý thức giới sanh khởi thuộc tố, phi thiện phi bất thiện, phi nghiệp quả, câu hành hỷ tương ưng trí… (trùng)… câu hành hỷ tương ưng trí hữu trợ… (trùng)… câu hành hỷ bất tương ưng trí… (trùng)… câu hành hỷ bất tương ưng trí hữu trợ… (trùng)… câu hành xả tương ưng trí… (trùng)… câu hành xả tương ưng trí hữu trợ… (trùng)…. câu hành xả bất tương ưng trí… (trùng)… câu hành xả bất tương ưng trí hữu trợ… (trùng)… tu tập thiền Sắc giới… (trùng)… tu tập thiền Vô sắc giới thuộc tố, phi thiện phi bất thiện, phi nghiệp quả, hiện tại lạc trú, vượt qua mọi vô sở hữu xứ, đoạn trừ lạc… (trùng)… chứng và trú tứ thiền, câu hành tưởng phi tưởng phi phi tưởng xứ; trong khi ấy có xúc… (trùng)… có bất phóng dật. Ðây là các pháp vô ký.
Sự hiểu trong các pháp này là nghĩa đạt thông.
Chế định các pháp ấy bằng ngôn từ nào, thì sự hiểu trong ngữ pháp đối thoại đó, là ngữ đạt thông.
Rõ biết các loại trí kia bằng trí nào thì sự hiểu trong các loại trí như rằng “đây là các loại trí soi sáng ý nghĩa này”, thành biện đạt thông.
[788] BỐN ÐẠT THÔNG LÀ NGHĨA ÐẠT THÔNG, PHÁP ÐẠT THÔNG, NGỮ ÐẠT THÔNG, BIỆN ÐẠT THÔNG.
Ba đạt thông sanh trong bốn thứ tâm hiện khởi tương ưng trí phía thiện dục giới, trong bốn thứ tâm hiện khởi tương ưng trí phía tố, nghĩa đạt thông cũng sanh trong các tâm đó, và bốn đạo, bốn quả.
DỨT PHẦN PHÂN THEO VI DIỆU PHÁP
PHẦN VẤN ÐÁP (Pañhāpucchakam).
[789] BỐN ÐẠT THÔNG LÀ NGHĨA ÐẠT THÔNG, PHÁP ÐẠT THÔNG, NGỮ ÐẠT THÔNG, BIỆN ÐẠT THÔNG.
Trong bốn đạt thông, CÓ BAO NHIÊU LÀ THIỆN? CÓ BAO NHIÊU LÀ BẤT THIỆN? CÓ BAO NHIÊU LÀ VÔ KÝ?… (trùng)… CÓ BAO NHIÊU LÀ HỮU TRANH? CÓ BAO NHIÊU LÀ VÔ TRANH?
[790] (BỐN ÐẠT THÔNG) có thể là thiện, có thể là vô ký.
(Bốn đạt thông) có thể là tương ưng thọ lạc, có thể là tương ưng phi khổ phi lạc thọ.
Ba đạt thông có thể là pháp dị thục nhân, có thể là pháp phi di thục quả phi dị thục nhân; nghĩa đạt thông có thể là dị thục quả, có thể là dị thục nhân, có thể là phi dị thục quả phi dị thục nhân.
Ba đạt thông là phi thành do thủ cảnh thủ; nghĩa đạt thông có thể là phi thành do thủ cảnh thủ, có thể là phi thành do thủ phi cảnh thủ.
Ba đạt thông là phi phiền toái cảnh phiền não; nghĩa đạt thông có thể là phi phiền toái cảnh phiền não, có thể là phi phiền toái phi cảnh phiền não.
Ba đạt thông là hữu tầm hữu tứ; nghĩa đạt thông có thể là hữu tầm hữu tứ, có thể là vô tầm hữu tứ, có thể là vô tầm vô tứ.
(Bốn đạt thông) có thể là câu hành hỷ, có thể là câu hành lạc, có thể là câu hành xả.
(Bốn đạt thông) là không đáng do kiến đạo tiến đạo đoạn trừ.
Ba đạt thông có thể là nhân tích tập, có thể là phi nhân tích tập phi nhân tịch diệt; nghĩa đạt thông có thể là nhân tích tập, có thể là nhân tịch diệt, có thể là phi nhân tích tập, phi nhân tịch diệt.
Ba đạt thông là phi hữu học phi vô học; nghĩa đạt thông có thể là hữu học, có thể là vô học, có thể là phi hữu học phi vô học.
Ba đạt thông là hy thiểu; nghĩa đạt thông có thể là hy thiểu, có thể là vô lượng
Ngữ đạt thông là biết cảnh hy thiểu; ba đạt thông có thể biết cảnh hy thiểu, có thể là biết cảnh đáo đại, có thể là biết cảnh vô lượng.
Ba đạt thông là trung bình; nghĩa đạt thông có thể là trung bình, có thể là tinh lương.
Ba đạt thông là phi cố định; nghĩa đạt thông có thể là cố định phần chánh, có thể là phi cố định.
Ngữ đạt thông không nên nói là có đạo thành cảnh hay có đạo thành nhân hay có đạo thành trưởng; nghĩa đạt thông không phải có đạo thành cảnh, mà có thể là có đạo thành nhân, có thể có đạo thành trưởng, cũng có thể không nên nói là có đạo thành nhân hay có đạo thành trưởng; hai đạt thông có thể có đạo thành cảnh, nhưng không phải có đạo thành nhân cũng có thể có đạo thành trưởng; lại có thể không nên nói là có đạo thành cảnh hay có đạo thành trưởng.
Ba đạt thông có thể là sinh tồn, có thể là vị sinh tồn, mà không nên nói là chuẩn sanh; nghĩa đạt thông có thể là sinh tồn, có thể là vị sinh tồn, có thể là chuẩn sanh.
(Bốn đạt thông) có thể là quá khứ, có thể là vị lai, có thể là hiện tại.
Ngữ đạt thông là biết cảnh hiện tại; hai đạt thông có thể là biết cảnh quá khứ, có thể là biết cảnh vị lai, có thể là biết cảnh hiện tại; nghĩa đạt thông có thể là biết cảnh quá khứ, có thể là biết cảnh vị lai, có thể là biết cảnh hiện tại, có thể không nên nói là biết cảnh quá khứ hay biết cảnh vị lai hay biết cảnh hiện tại.
(Bốn đạt thông) có thể là nội phần, có thể là ngoại phần, có thể là nội ngoại phần.
Ngữ đạt thông là biết cảnh ngoại phần; ba đạt thông có thể là biết cảnh nội phần, có thể là biết cảnh ngoại phần, có thể là biết cảnh nội ngoại phần.
Bốn đạt thông là vô kiến vô đối chiếu.
[791] (BỐN ÐẠT THÔNG) là nhân. Là hữu nhân. Là tương ưng nhân. Là nhân hữu nhân. Là nhân tương ưng nhân. (Bốn đạt thông) không nên nói là phi nhân hữu nhân hay phi nhân vô nhân.
(Bốn đạt thông) là hữu duyên. Là hữu vi. Là vô kiến. Là vô đối chiếu. Là phi sắc. Ba đạt thông là hiệp thế; nghĩa đạt thông là hiệp thế, có thể là Siêu thế.
(Bốn đạt thông) là đáng vài tâm biết, cũng không đáng vài tâm biết.
[792] (BỐN ÐẠT THÔNG) là phi lậu. Ba đạt thông là cảnh lậu; nghĩa đạt thông có thể là cảnh lậu, có thể là phi cảnh lậu.
(Bốn đạt thông) là bất tương ưng lậu. Ba đạt thông không nên nói là lậu cảnh lậu, mà là cảnh lậu phi lậu; nghĩa đạt thông không nên nói là lậu cảnh lậu, mà có thể cảnh lậu phi lậu, cũng có thể không nên nói là cảnh lậu phi lậu.
(Bốn đạt thông) không nên nói là lậu tương ưng lậu hay tương ưng lậu phi lậu. Ba đạt thông là bất tương ưng lậu cảnh lậu; nghĩa đạt thông có thể là bất tương lậu cảnh lậu, có thể là bất tương ưng lậu phi cảnh lậu.
[793] (Bốn ÐẠT THÔNG) là phi triền… (trùng)…
(Bốn đạt thông) là phi phược… (trùng)…
(Bốn đạt thông) là phi bộc… (trùng)…
(Bốn đạt thông) là phi phối… (trùng)…
(Bốn đạt thông) là phi cái… (trùng)…
(Bốn đạt thông) là phi khinh thị… (trùng)…
(Bốn đạt thông) là hữu tri cảnh. Là phi tâm. Là sở hữu tâm. Là tương ưng tâm. Là hòa với tâm. Là có tâm sở sanh. Là đồng hiện hữu với tâm. Là tùy chuyển với tâm. Là hòa tâm tâm sở sanh. Là hòa tâm tâm sở sanh đồng hiện hữu với tâm. Là hòa tâm tâm sở sanh tùy chuyển với tâm. Là ngoại phần. Là phi y sinh. Là bất do thủ.
(Bốn đạt thông) là phi thủ… (trùng)…
(Bốn đạt thông) là phi phiền não… (trùng)…
[794] (BỐN ÐẠT THÔNG) là không đáng do kiến đạo đoạn trừ. Là không đáng do tiến đạo đoạn trừ. Là phi hữu nhân đáng do kiến đạo đoạn trừ, là phi hữu nhân đáng do tiến đạo đoạn trừ. Ba đạt thông là hữu tầm; nghĩa đạt thông có thể là hữu tầm, có thể là vô tầm. Ba đạt thông là hữu tứ; nghĩa đạt thông có thể là vô tứ. (Bốn đạt thông) có thể là hữu hỷ, có thể là vô hỷ.
(Bốn đạt thông) có thể là câu hành hỷ, có thể phi câu hành hỷ. (Bốn đạt thông) có thể là câu hành lạc, có thể là phi câu hành lạc. (Bốn đạt thông) có thể là câu hành xả, có thể là phi câu hành xả. Ba đạt thông là dục giới; nghĩa đạt thông có thể là dục giới, có thể là phi dục giới. (Bốn đạt thông) là phi sắc giới. (Bốn đạt thông) là phi vô sắc giới. Ba đạt thông là hệ thuộc; nghĩa đạt thông có thể là hệ thuộc, có thể là phi hệ thuộc. Ba đạt thông là phi dẫn xuất; nghĩa đạt thông có thể là dẫn xuất, có thể là phi dẫn xuất. Ba đạt thông là phi cố định; nghĩa đạt thông có thể là cố định, có thể là phi cố định. Ba đạt thông là hữu thượng; nghĩa đạt thông có thể là hữu thượng, có thể là vô thượng. (Bốn đạt thông) là vô tranh.
DỨT PHẦN VẤN ÐÁP
TRỌN VẸN ÐẠT THÔNG PHÂN TÍCH
TRÍ PHÂN TÍCH (ÑĀṆAVIBHAṄGO)
ÐẦU ÐỀ (Mātikā)
MỘT LOẠI (Ekavidha)
[795] TRÍ TÔNG THEO MỘT LOÀI LÀ:
Ngũ thức là phi nhân, thành vô nhân, thành bất tương ưng nhân, thành hữu duyên, thành hữu vi, thành phi sắc, thành hiệp thế, thành cảnh lậu, thành cảnh triền, thành cảnh phược, thành cảnh bộc, thành cảnh phối, thành cảnh cái, thành cảnh khinh thị, thành cảnh thủ, thành cảnh phiền não, thành vô ký, thành hữu cảnh, thành phi sở hữu tâm, thành dị thục quả, thành do thủ cảnh thủ, thành phi phiền toái cảnh phiền não, thành phi hữu tầm hữu tứ, thành phi vô tầm hữu tứ, thành phi vô tầm vô tứ, thành phi câu hành hỷ, thành phi kiến đạo phi tiến đạo ưng trừ, thành phi nhân tích tập phi nhân tịch diệt, thành phi hữu học phi vô học, thành hy thiểu, thành dục giới, thành phi sắc giới, thành phi vô sắc giới, thành hệ thuộc, thành phi vô hệ thuộc, thành phi cố định, thành phi dẫn xuất, thành sanh tồn, thành ý thức ứng tri, là vô thường, bị lão chi phối.
Ngũ thức nương vật sinh tồn, biết cảnh sinh tồn, nương vật tiền sanh, biết cảnh tiền sanh, nương vật nội phần, biết cảnh ngoại phần, nương vật bất hoại, biết cảnh bất hoại, nương vật dị biệt, biết cảnh dị biệt, không hưởng cảnh lẫn nhau, sanh ra không phải nhiếp thâu, sanh ra không phải tác ý, sanh ra không phải không xen lẫn, sanh ra không phải không trước sau, sanh ra không phải liên tục với nhau.
Ngũ thức không phải sự suy nghĩ, không phải do ngũ thức mà hiểu biết được mọi pháp; (thức) chỉ vịn vào một cảnh nào; từ sự liên quan năm thức cũng không hiểu biết được mọi pháp; không phải do ngũ thức mà điều mọi oai nghi được; từ sự liên tục năm thức cũng không điều mọi oai nghi được; không phải do ngũ thức mà thực hiện thân nghiệp, khẩu nghiệp được; từ sự liên tục năm thức cũng không thực hiện được thân nghiệp khẩu nghiệp; không phải do ngũ thức mà chấp trì pháp thiện pháp bất thiện được; từ sự liên tục năm thức cũng không chấp trì pháp thiện pháp bất thiện được; không nhập thiền không xuất thiền được do ngũ thức, cũng không nhập thiền không xuất thiền được từ sự liên tục năm thức; không tử không sanh bằng ngũ thức; cũng không tử không sanh được từ sự liên tục năm thức, không ngủ, không thức, không chiêm bao được do ngũ thức; cũng không ngủ, không thức, không chiêm bao được từ sự liên tục năm thức. Tuệ giải tùy theo căn vật.
Trí tông theo một loại là như vậy.
ÐẦU ÐỀ HAI LOẠI (Duvidha)
[796] TRÍ TÔNG THEO HAI LOẠI LÀ:
Tuệ hiệp thế và tuệ Siêu thế; tuệ có thức tri và tuệ không có thức tri; tuệ cảnh lậu và tuệ phi cảnh lậu; tuệ bất tương ưng lậu cảnh lậu và tuệ bất tương ưng lậu phi cảnh cảnh lậu; tuệ cảnh triền và tuệ phi cảnh triền; tuệ bất tương ưng triền cảnh triền và tuệ bất tương ưng triền phi cảnh triền; tuệ cảnh phược và tuệ phi cảnh phược; tuệ bất tương ưng phược cảnh phược và tuệ bất tương ưng phược phi cảnh phược; tuệ cảnh bộc và tuệ phi cảnh bộc; tuệ bất tương ưng bộc cảnh bộc và tuệ bất tương ưng bộc phi cảnh bộc; tuệ cảnh phối và tuệ phi cảnh phối; tuệ bất tương ưng phối cảnh phối và tuệ bất tương ưng phối phi cảnh phối; tuệ cảnh cái và tuệ phi cảnh cái; tuệ bất tương ưng cái cảnh cái và tuệ bất tương ưng cái phi cảnh cái; tuệ cảnh khinh thị và tuệ phi cảnh khinh thị; tuệ bất tương ưng khinh thị cảnh khinh thị và tuệ bất tương ưng khinh thị phi cảnh khinh thị; tuệ cảnh thủ và tuệ phi cảnh thủ; tuệ bất tương ưng thủ cảnh thủ và tuệ bất tương ưng thủ phi cảnh thủ; tuệ phiền não và tuệ phi cảnh phiền não; tuệ bất tương ưng phiền não; cảnh phiền não và tuệ bất tương ưng phiền não phi cảnh phiền não tuệ hữu tầm và tuệ vô tầm; tuệ hữu tứ và tuệ vô tứ; tuệ hữu hỷ và tuệ vô hỷ; tuệ câu hành hỷ và tuệ phi câu hành hỷ; tuệ câu hành lạc và tuệ phi câu hành lạc; tuệ câu hành xả và tuệ phi câu hành xả; tuệ dục giới và tuệ phi dục giới; tuệ sắc giới và tuệ phi sắc giới; tuệ vô sắc giới và tuệ phi vô sắc giới; tuệ hệ thuộc và tuệ phi hệ thuộc; tuệ dẫn xuất và tuệ phi dẫn xuất; tuệ phần cố định và tuệ phần phi cố định; tuệ hữu thượng và tuệ vô thượng; tuệ sanh lợi và tuệ lợi sanh.
Trí tông theo hai loại là như vậy.
ÐẦU ÐỀ BA LOẠI (Tividha)
[797] TRÍ TÔNG THEO BA LOẠI LÀ:
Tuệ tư, tuệ văn và tuệ tu. Tuệ trí thành, tuệ giới thành và tuệ tu thành. Tuệ tăng thượng giới, tuệ tăng thượng tâm và tuệ tăng thượng trí. Thông thạo tiến hóa, thông thạo thối hóa, thông thạo phương chước.
Tuệ dị thục, tuệ dị thục nhân và tuệ phi dị thục phi dị thục nhân. Tuệ thành do thủ cảnh thủ, tuệ phi thành do thủ cảnh thủ và tuệ phi thành do thủ phi cảnh thủ. Tuệ hữu tầm hữu tứ, tuệ vô tầm hữu tứ, tuệ vô tầm vô tứ. Tuệ câu hành hỷ, tuệ câu hành lạc và tuệ câu hành xả. Tuệ nhân tích tập, tuệ nhân tịch diệt và tuệ phi nhân tích tập phi nhân tịch diệt. Tuệ hữu học, tuệ vô học và tuệ phi hữu học phi vô học. Tuệ hy thiểu, tuệ đáo đại và tuệ vô lượng. Tuệ biết cảnh hy thiểu, tuệ biết cảnh đáo đại và tuệ biết cảnh vô lượng. Tuệ có đạo thành cảnh, tuệ có đạo thành nhân và tuệ có đạo thành trưởng. Tuệ sanh tồn, tuệ vị sinh tồn và tuệ chuẩn sanh. Tuệ quá khứ, tuệ vị lai và tuệ hiện tại. Tuệ biết cảnh quá khứ, tuệ biết cảnh vị lai và tuệ biết cảnh hiện tại. Tuệ nội phần, tuệ ngoại phần và tuệ nội ngoại phần. Tuệ biết cảnh nội phần, tuệ biết cảnh ngoại phần và tuệ biết cảnh nội ngoại phần.
Tuệ hữu tầm hữu tứ thuộc dị thục, thuộc dị thục nhân và thuộc phi dị thục phi dị thục nhân. (Tuệ hữu tầm hữu tứ) thuộc pháp thành do thủ cảnh thủ, thuộc phi thành do thủ cảnh thủ và thuộc phi thành do thủ phi cảnh thủ. (Tuệ hữu tầm hữu tứ) thuộc câu hành hỷ, thuộc câu hành lạc và thuộc câu hành xả. (Tuệ hữu tầm hữu tứ) thuộc nhân tích tập, thuộc nhân tịch diệt và thuộc phi nhân tích tập phi nhân tịch diệt. (Tuệ hữu tầm hữu tứ) thuộc hữu học, thuộc vô học và thuộc phi hữu học phi vô học. (Tuệ hữu tầm hữu tứ) thuộc hy thiểu, thuộc đáo đại và thuộc vô lượng. (Tuệ hữu tầm hữu tứ) thuộc biết cảnh hy thiểu, thuộc biết cảnh đáo đại và biết cảnh vô lượng. (Tuệ hữu tầm hữu tứ) thuộc sinh tồn, thuộc vị sanh tồn và thuộc chuẩn sanh. (Tuệ hữu tầm hữu tứ) thuộc quá khứ, thuộc vị lai và thuộc hiện tại. (Tuệ hữu tầm hữu tứ) thuộc biết cảnh quá khứ, thuộc biết cảnh vị lai và thuộc biết cảnh hiện tại. (Tuệ hữu tầm hữu tứ) thuộc nội phần, thuộc ngoại phần và thuộc nội ngoại phần. (Tuệ hữu tầm hữu tứ) thuộc biết cảnh nội phần, thuộc biết cảnh ngoại phần và thuộc biết cảnh nội ngoại phần.
Tuệ vô tầm hữu tứ thuộc dị thục, thuộc dị thục nhân và thuộc phi dị thục phi dị thục nhân. (Tuệ vô tầm hữu tứ) thuộc thành do thủ cảnh thủ, thuộc phi thành do thủ cảnh thủ và thuộc phi thành do thủ phi cảnh thủ. (Tuệ vô tầm hữu tứ) thuộc nhân tích tập, thuộc nhân tịch diệt và thuộc phi nhân tích tập phi nhân tịch diệt. (Tuệ vô tầm hữu tứ) thuộc hữu học, thuộc vô học và thuộc phi hữu học phi vô học. (Tuệ vô tầm hữu tứ) thuộc sinh tồn, thuộc vị sanh tồn và thuộc chuẩn sanh. (Tuệ vô tầm hữu tứ) thuộc quá khứ, thuộc vị lai và thuộc hiện tại. (Tuệ vô tầm hữu tứ) thuộc nội phần, thuộc ngoại phần và thuộc nội ngoại phần.
Tuệ vô tầm vô tứ thuộc dị thục, thuộc dị thục nhân và thuộc phi dị thục phi dị thục nhân. (Tuệ vô tầm vô tứ) thuộc thành do thủ cảnh thủ, thuộc phi thành do thủ cảnh thủ và thuộc phi thành do thủ phi cảnh thủ. (Tuệ vô tầm vô tứ) thuộc câu hành hỷ, thuộc câu hành lạc và thuộc câu hành xả. (Tuệ vô tầm vô tứ) thuộc nhân tích tập, thuộc nhân tịch diệt và thuộc phi nhân tích tập phi nhân tịch diệt. (Tuệ vô tầm vô tứ) thuộc hữu học, thuộc vô học và thuộc phi hữu học phi vô học. (Tuệ vô tầm vô tứ) thuộc biết cảnh hy thiểu, thuộc biết cảnh đáo đại và thuộc biết cảnh vô lượng. (Tuệ vô tầm vô tứ) thuộc có đạo thành cảnh, thuộc có đạo thành nhân và thuộc có đạo thành truởng. (Tuệ vô tầm vô tứ) thuộc sanh tồn, thuộc vị sanh tồn và thuộc chuẩn sanh. (Tuệ vô tầm vô tứ) thuộc quá khứ, thuộc vị lai và thuộc hiện tại. (Tuệ vô tầm vô tứ) thuộc biết cảnh quá khứ, thuộc biết cảnh vị lai và thuộc biết cảnh hiện tại. (Tuệ vô tầm vô tứ) thuộc nội phần, thuộc ngoại phần và thuộc nội ngoại phần. (Tuệ vô tầm vô tứ) thuộc biết cảnh nội phần, thuộc biết cảnh ngoại phần và thuộc biết cảnh nội ngoại phần.
Tuệ câu hành hỷ tuệ câu hành lạc thuộc dị thục, thuộc dị thục nhân, thuộc phi dị thục phi dị thục nhân. (Tuệ câu hành hỷ câu hành lạc) thuộc thành do thủ cảnh thủ, thuộc phi thành do thủ cảnh thủ và thuộc phi thành do thủ phi cảnh thủ. (Tuệ câu hành hỷ câu hành lạc) thuộc hữu tầm hữu tứ, thuộc vô tầm hữu tứ, thuộc vô tầm vô tứ. (Tuệ câu hành hỷ câu hành lạc) thuộc nhân tích tập, thuộc nhân tịch diệt và thuộc phi nhân tích tập phi nhân tịch diệt. (Tuệ câu hành hỷ câu hành lạc) thuộc hữu học, thuộc vô học và thuộc phi hữu học phi vô học. (Tuệ câu hành hỷ câu hành lạc) thuộc hy thiểu, thuộc đáo đại và thuộc vô lượng. (Tuệ câu hành hỷ câu hành lạc) thuộc biết cảnh hy thiểu, thuộc biết cảnh đáo đại và thuộc biết cảnh vô lượng. (Tuệ câu hành hỷ câu hành lạc) thuộc có đạo thành cảnh, thuộc có đạo thành nhân và thuộc có đạo thành truởng. (Tuệ câu hành hỷ câu hành lạc) thuộc sinh tồn, thuộc vị sinh tồn và thuộc chuẩn sanh. (Tuệ câu hành hỷ câu hành lạc) thuộc quá khứ, thuộc vị lai và thuộc hiện tại. (Tuệ câu hành hỷ câu hành lạc) thuộc biết cảnh quá khứ, thuộc biết cảnh vị lai và thuộc biết cảnh hiện tại. (Tuệ câu hành hỷ câu hành lạc) thuộc nội phần, thuộc ngoại phần và thuộc nội ngoại phần. (Tuệ câu hành hỷ câu hành lạc) thuộc biết cảnh nội phần, thuộc biết cảnh ngoại phần và thuộc biết cảnh nội ngoại phần.
(Tuệ câu hành xả) thuộc dị thục, thuộc dị thục nhân, thuộc phi dị thục phi dị thục nhân. (Tuệ câu hành xả) thuộc thành do thủ cảnh thủ, thuộc phi thành do thủ cảnh thủ và thuộc phi thành do thủ phi cảnh thủ. (Tuệ câu hành xả) thuộc nhân tích tập, thuộc nhân tịch diệt và thuộc phi nhân tích tập phi nhân tịch diệt. (Tuệ câu hành xả) thuộc hữu học, thuộc vô học và thuộc phi hữu học phi vô học. (Tuệ câu hành xả) thuộc hy thiểu, thuộc đáo đại và thuộc vô lượng. (Tuệ câu hành xả) thuộc có đạo thành cảnh, thuộc có đạo thành nhân và thuộc có đạo thành truởng. (Tuệ câu hành xả) thuộc sinh tồn, thuộc vị sinh tồn và thuộc chuẩn sanh. (Tuệ câu hành xả) thuộc quá khứ, thuộc vị lai và thuộc hiện tại. (Tuệ câu hành xả) thuộc biết cảnh quá khứ, thuộc biết cảnh vị lai và thuộc biết cảnh hiện tại. (Tuệ câu hành xả) thuộc nội phần, thuộc ngoại phần và thuộc nội ngoại phần. (Tuệ câu hành xả) thuộc biết cảnh nội phần, thuộc biết cảnh ngoại phần và thuộc biết cảnh nội ngoại phần.
Trí tông theo ba loại là như vậy.
ÐẦU ÐỀ BỐN LOẠI (Catubbidha).
[798] TRÍ TÔNG THEO BỐN LOẠI LÀ:
Trí nghiệp sở, trí đế tùy thuận, trí thành đạo và trí thành quả.
Trí biết khổ, trí biết khổ tập, trí biết khổ diệt và trí biết khổ diệt đạo hành.
Tuệ dục giới, tuệ sắc giới, tuệ vô sắc giới và tuệ vô sở thuộc.
Trí pháp, trí loại, trí biến hành và trí giả định.
Có tuệ đưa đến tích tập không đưa đến tịch diệt, có tuệ đưa đến tịch diệt không đưa đến tích tập, có tuệ vừa đưa đến tích tập vừa đưa đến tịch diệt, có tuệ không đưa đến tích tập không đưa đến tịch diệt.
Có tuệ đưa đến yểm ly không đưa đến triệt ngộ, có tuệ đưa đến triệt ngộ không đưa đến yểm ly, có tuệ vừa đưa đến yểm ly vừa đưa đến triệt ngộ, có tuệ không đưa đến yểm ly không đưa đến triệt ngộ.
Tuệ thối phần, tuệ trụ phần, tuệ thù thắng phần và tuệ quyết trạch phần.
Bốn đạt thông. Bốn tiến hành. Bốn cảnh.
Trí biết lão tử, trí biết lão tử tập khởi, trí biết lão tử đoạn diệt và trí biết lão tử đoạn diệt đạo hành.
Trí biết sanh… (trùng)… trí biết hữu… (trùng)… trí biết thủ… (trùng)… trí biết ái… (trùng)… trí biết thọ… (trùng)… trí biết xúc… (trùng)… trí biết lục nhập… (trùng)… trí biết danh sắc… (trùng)… trí biết thức… (trùng)… trí biết các hành, trí biết các hành tập khởi, trí biết diệt hành, trí biết diệt hành hành lộ.
Trí tông theo bốn loại là như vậy.
ÐẦU ÐỀ NHIỀU LOẠI (Anekavidha).
[799] TRÍ TÔNG THEO NĂM LOẠI LÀ: Năm chi phần chánh định, tức chánh định ngũ trí, Trí tông theo năm loại là như vậy.
TRÍ TÔNG THEO SÁU LOẠI LÀ: Trí trong lục thông. Trí tông theo sáu loại là như vậy.
TRÍ TÔNG THEO BẢY LOẠI LÀ: Trí tông bảy mươi bảy thứ (mười một nhóm bảy trí). Trí tông theo bảy loại là như vậy.
TRÍ TÔNG THEO TÁM LOẠI LÀ: Tuệ trong bốn đạo và tuệ trong bốn quả. Trí tông theo tám loại là như vậy.
TRÍ TÔNG THEO CHÍN LOẠI LÀ: Tuệ trong chín thứ đệ nhập thiền trú. Trí tông theo chín loại là như vậy.
ÐẦU ÐỀ MƯỜI LOẠI (Dasavidha).
[800] TRÍ TÔNG THEO MƯỜI LOẠI LÀ: Thập Như Lai lực của Ðức Như Lai.
Ðức Như Lai hội đủ sức mạnh Ngài mới tự nhận địa vị Ngưu vương, mới rống tiếng rống sư tử giữa các hội chúng, mới vận chuyển Pháp Luân. Mười sức mạnh là thế nào?
Ở đây Ðức Như Lai như thật liểu tri nguyên lý là nguyên lý, phi nguyên lý là phi nguyên lý; sự kiện mà Ðức Như Lai như thật liểu tri nguyên lý là nguyên lý, phi nguyên lý là phi nguyên lý chính điều này là Như Lai lực của Ðức Như Lai. Khi đạt đến sức mạnh này Ðức Như Lai mới tự nhận địa vị Ngưu Vương, rống tiếng rống sư tử giữa hội chúng, vận chuyển Pháp Luân.
Một điều nữa, Ðức Như Lai như thật liểu tri quả dị thục của các nghiệp thọ trì thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại theo nguyên nhân. Sự kiện mà Ðức Như Lai như thật liểu tri quả dị thục của các nghiệp thọ trì thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại theo nguyên nhân; chính điều này là Như Lai lực của Ðức Như Lai. Khi đạt đến sức mạnh này, Ðức Như Lai mới tự nhận địa vị Ngưu Vương, rống tiếng rống sư tử giữa hội chúng, vận chuyển Pháp Luân.
Một điều nữa, Ðức Như Lai thật liểu tri hành lộ dẫn đến mọi sanh thú. Sự hiện mà Ðức Như Lai như thật liểu tri hành lộ dẫn đến mọi sanh thú, chính điều này là Như Lai lực của Ðức Như Lai. Khi đạt đến sức mạnh ấy, Ðức Như Lai mới tự nhận địa vị Ngưu Vương, rống tiếng rống Sư tử giữa hội chúng, vận chuyển Pháp Luân.
Một lẽ nữa, Ðức Như Lai như thật liểu tri thế gian đa dạng bản chất, dị biệt bản chất, sự kiện mà Ðức Như Lai như thật liểu tri thế gian đa dạng bản chất, dị biệt bản chất; chính điều này là Như Lai lực của Ðức Như Lai. Khi đạt đến sức mạnh này Ðức Như Lai mới tự nhận địa vị Ngưu Vương, rống tiếng rống sư tử giữa hội chúng, vận chuyển Pháp Luân.
Một lẽ nữa, Ðức Như Lai như thật liểu tri khuynh hướng dị biệt của chúng sanh. Sự kiện mà Ðức Như Lai như thật liểu tri khuynh hướng dị biệt của chúng sanh, chính điều này là Như Lai lực của Ðức Như Lai. Khi đạt đến sức mạnh này Ðức Như Lai mới tự nhận địa vị Ngưu Vương, rống tiếng rống sư tử giữa hội chúng, vận chuyển Pháp Luân.
Một lẽ nữa, Ðức Như Lai như thật liểu tri thượng hạ căn của chúng sanh khác, của người khác. Sự kiện mà Ðức Như Lai như thật liểu tri thượng hạ căn của người khác, của chúng sanh khác, chính điều này là Như Lai lực của Ðức Như Lai. Khi đạt đến sức mạnh này Ðức Như Lai mới tự nhận địa vị Ngưu Vương, rống tiếng rống sư tử giữa các hội chúng, vận chuyển Pháp Luân.
Một lẽ nữa, Ðức Như Lai như thật liểu tri sự ô nhiễm, sự thanh tịnh, sự xuất ly của thiền, giải thoát định và nhập định; sự kiện mà Ðức Như Lai như thật liểu tri sự ô nhiễm sự thanh tịnh, sự xuất ly của thiền giải thoát, định và nhập định chính điều này là Như Lai lực của Ðức Như Lai. Khi đạt đến sức mạnh này Ðức Như Lai mới tự nhận địa vị Ngưu Vương, rống tiếng rống sư tử giữa các hội chúng, vận chuyển Pháp Luân.
Một lẽ nữa, Ðức Như Lai như thật liểu tri túc mạng ký ức. Sự kiện mà Ðức Như Lai như thật liểu tri túc mạng ký ức; chính điều này là Như Lai lực của Ðức Như Lai. Khi đạt đến sức mạnh này Ðức Như Lai mới tự nhận địa vị Ngưu Vương, rống tiếng rống sư tử giữa các hội chúng, vận chuyển Pháp Luân.
Một lẽ nữa, Ðức Như Lai như thật liểu tri việc sanh tử của các chúng sanh. Sự kiện mà Ðức Như Lai như thật liểu tri việc sanh tử của các chúng sanh, chính điều này là Như Lai lực của Ðức Như Lai. Khi đạt đến sức mạnh này Ðức Như Lai mới tự nhận địa vị Ngưu Vương, rống tiếng rống sư tử giữa các hội chúng, vận chuyển Pháp Luân.
Một lẽ nữa, Ðức Như Lai như thật liểu tri sự đoạn tận các lậu hoặc. Sự kiện mà Ðức Như Lai như thật liểu tri sự đoạn tận các lậu hoặc; chính điều này là Như Lai lực của Ðức Như Lai. Khi đạt đến sức mạnh này Ðức Như Lai mới tự nhận địa vị Ngưu Vương, rống tiếng rống sư tử giữa các hội chúng, vận chuyển Pháp Luân.
Trí tông phân theo mười loại là như vậy.
DỨT PHẦN ÐẦU ÐỀ
PHẦN XIỂN MINH
ÐỀ MỘT LOẠI (Ekaniddesa)
[801] NGŨ THỨC đều là phi nhân, đều là vô nhân, đều là bất tương ưng nhân, đều là hữu duyên, đều là hữu vi, đều là phi sắc, đều là hiệp thế, đều là cảnh lậu, đều là cảnh triền, đều là cảnh phược, đều là cảnh bộc, đều là cảnh phối, đều là cảnh cái, đều là cảnh khinh thị, đều là cảnh thủ, đều là cảnh phiền não, đều là vô ký, đều là hữu cảnh, đều là phi sở hữu tâm, đều là dị thục quả, đều là thành do thủ cảnh thủ, đều là phi phiền toái cảnh phiền não, đều là phi hữu tầm hữu tứ, đều là phi vô tầm hữu tứ, đều là vô tầm vô tứ, đều là phi câu hành hỷ, đều là phi kiến đạo ưng trừ, đều là phi hữu nhân kiến đạo tiến đạo ưng trừ, đều là phi nhân tích tập, đều là phi nhân tịch diệt, đều là phi hữu học phi vô học, đều là hy thiểu, đều là dục giới, đều là phi sắc giới, đều là phi vô sắc giới, đều là hệ thuộc, đều là phi vô hệ thuộc, đều là phi cố định, đều là phi dẫn xuất, đều là sinh tồn, đều là ý thức ứng tri, đều là vô thường, đều là lão chi phối.
[802] NÓI RẰNG: “NGŨ THỨC NƯƠNG VẬT SINH TỒN [1] biết cảnh sinh tồn [2]” tức là sanh lên khi vật đang sanh khi cảnh đang sanh.
NÓI RẰNG “THỨC NƯƠNG VẬT TIỀN SANH, BIẾT CẢNH TIỀN SANH” tức là thức sanh ra trong khi vật sanh trước trong cảnh sanh trước.
NÓI RẰNG “THỨC NƯƠNG VẬT NỘI PHẦN, BIẾT CẢNH NGOẠI PHẦN” nghĩa là vật nương của ngũ thức thuộc nội phần, cảnh của thức thuộc ngoại phần.
NÓI RẰNG “THỨC NƯƠNG VẬT BẤT HOẠI BIẾT CẢNH BẤT HOẠI” tức là thức sanh ra trong khi vật chưa diệt mất, trong khi cảnh chưa diệt mất.
NÓI RẰNG “THỨC NƯƠNG VẬT DỊ BIỆT, BIẾT CẢNH DỊ BIỆT” tức là vật và cảnh của nhãn thức là khác, vật và cảnh của nhĩ thức là khác, vật và cảnh của tỷ thức là khác, vật và cảnh của thiệt thức là khác, vật và cảnh của thân thức là khác.
NÓI RẰNG “THỨC KHÔNG HƯỞNG CẢNH LẪN NHAU”, cảnh vức của nhãn thức, nhĩ thức không hưởng được; ngược lại cảnh vức của nhĩ thức, nhãn thức không hưởng được; cảnh vức của nhãn thức, tỷ thức không hưởng được; ngược lại cảnh vức của tỷ thức, nhãn thức không hưởng được; cảnh vức của nhãn thức, thiệt thức không hưởng được; ngược lại cảnh vức của thiệt thức, nhãn thức không hưởng được; cảnh vức của nhãn thức, thân thức không hưởng được; ngược lại cảnh vức của thân thức, nhãn thức không biết được. Cảnh vức của nhĩ thức… (trùng)… cảnh vức của tỷ thức… (trùng)… cảnh vức của thiệt thức… (trùng)… cảnh vức của thân thức; nhãn thức không hưởng được; ngược lại cảnh vức của nhãn thức, thân thức không hưởng được; cảnh vức của thân thức, nhĩ thức không hưởng được; ngược lại cảnh vức của nhĩ thức, thân thức không hưởng được; cảnh vức của thân thức, tỷ thức không hưởng được; ngược lại cảnh vức của tỷ thức, thân thức không hưởng được; cảnh vức của thân thức, thiệt thức không hưởng được; ngược lại cảnh vức của thiệt thức, thân thức không hưởng được.
NÓI RẰNG “THỨC SANH RA KHÔNG PHẢI KHÔNG NHIẾP THÂU” tức là thức sanh ra để thu nhiếp.
NÓI RẰNG “THỨC SANH RA KHÔNG PHẢI KHÔNG TÁC Ý” tức là thức sanh lên để tác ý cảnh.
NÓI RẰNG “THỨC SANH RA KHÔNG PHẢI KHÔNG XEN LẪN” tức là thức không sanh lên trật tự.
NÓI RẰNG “THỨC SANH RA KHÔNG PHẢI KHÔNG TRƯỚC KHÔNG SAU” tức là thức không sanh ra trong cùng một sát na.
NÓI RẰNG “THỨC SANH RA KHÔNG PHẢI LIÊN TỤC VỚI NHAU” tức là tiếp theo nhãn thức sanh nhĩ thức không sanh lên, ngược lại tiếp theo nhĩ thức sanh nhãn thức không sanh lên, tiếp theo nhãn thức sanh tỷ thức không sanh lên; ngược lại tiếp theo tỷ thức sanh nhãn thức không sanh lên; tiếp theo nhãn thức sanh thiệt thức không sanh lên, ngược lại tiếp theo thiệt thức sanh nhãn thức không sanh lên; tiếp theo nhãn thức sanh thân thức không sanh lên, ngược lại tiếp theo thân thức sanh nhãn thức không sanh lên. Tiếp theo nhĩ thức sanh… (trùng)… tiếp theo tỷ thức sanh… (trùng)… tiếp theo thiệt thức sanh… (trùng)… tiếp theo thân thức sanh nhãn thức không sanh lên; ngược lại tiếp theo nhãn thức sanh thân thức không sanh lên; tiếp theo thân thức sanh nhĩ thức không sanh lên, ngược lại tiếp theo nhĩ thức sanh thân thức không sanh lên; tiếp theo thân thức sanh tỷ thức không sanh lên, ngược lại tiếp theo tỷ thức sanh thân thức không sanh lên; tiếp theo thân thức sanh thiệt thức không sanh lên, ngược lại tiếp theo thiệt thức sanh thân thức không sanh lên;
NÓI RẰNG “NĂM THỨC KHÔNG PHẢI SỰ SUY NGHĨ” tức là năm thức chẳng có khai môn hay tư niệm hay chuyên niệm hay tác ý.
NÓI RẰNG “KHÔNG PHẢI DO NGŨ THỨC MÀ HIỂU BIẾT ÐƯỢC MỌI PHÁP” tức là không phải hiểu được mọi pháp bằng ngũ thức.
NÓI RẰNG “(THỨC) CHỈ VỊN VÀO MỘT CẢNH NÀO” tức là chỉ có giới hạn trong một cảnh nào đó.
NÓI RẰNG “TỪ SỰ LIÊN TỤC NĂM THỨC CŨNG KHÔNG HIỂU BIẾT ÐƯỢC MỌI PHÁP” tức là không thể hiểu biết được mọi pháp bằng ý giới tiếp nối ngũ thức.
NÓI RẰNG “KHÔNG PHẢI DO NGŨ THỨC MÀ ÐIỀU MỌI OAI NGHI ÐƯỢC” tức là với năm thức không thể hành oai nghi như đi hoặc đứng, hoặc nằm hoặc ngồi.
NÓI RẰNG “TỪ SỰ LIÊN TỤC CỦA NĂM THỨC CŨNG KHÔNG ÐIỀU MỌI OAI NGHI ÐƯỢC” tức là không thể hành oai nghi đi đứng nằm ngồi bằng ý giới nối tiếp ngũ thức.
NÓI RẰNG “KHÔNG PHẢI DO NGŨ THỨC MÀ THỰC HIỆN THÂN NGHIỆP KHẨU NGHIỆP ÐƯỢC” tức là không thể tạo thành thân nghiệp khẩu nghiệp bằng ngũ thức được.
NÓI RẰNG “KHÔNG PHẢI DO NGŨ THỨC MÀ CHẤP TRÌ PHÁP THIỆN, BẤT THIỆN ÐƯỢC”, tức là không thể chấp hành pháp thiện hay bất thiện bằng ngũ thức được.
NÓI RẰNG “TỪ SỰ LIÊN TỤC NGŨ THỨC CŨNG KHÔNG CHẤP TRÌ ÐƯỢC PHÁP THIỆN HAY BẤT THIỆN” tức là không thể chấp hành được pháp thiện hay bất thiện bằng ý giới tiếp nối ngũ thức.
NÓI RẰNG “KHÔNG NHẬP THIỀN KHÔNG XUẤT THIỀN ÐƯỢC DO NGŨ THỨC” tức là với ngũ thức không thể nhập thiền không thể xuất thiền.
NÓI RẰNG “CŨNG KHÔNG NHẬP THIỀN KHÔNG XUẤT THIỀN ÐƯỢC TỪ SỰ LIÊN TỤC NGŨ THỨC” tức là với ý giới nối tiếp ngũ thức không thể nhập thiền không thể xuất thiền.
NÓI RẰNG “KHÔNG TỬ KHÔNG SANH BẰNG NGŨ THỨC” tức là với ngũ thức không chết được, không tái sanh được.
NÓI RẰNG “CŨNG KHÔNG TỬ KHÔNG SANH ÐƯỢC TỪ SỰ LIÊN TỤC NĂM THỨC” tức là không thể chết không thể tái sanh bằng ý giới nối tiếp năm thức.
NÓI RẰNG “KHÔNG NGỦ KHÔNG THỨC KHÔNG CHIÊM BAO ÐƯỢC DO NGŨ THỨC” tức là với năm thức không thể ngủ, không thể thức, không thể chiêm bao.
NÓI RẰNG “CŨNG KHÔNG NGỦ KHÔNG THỨC, KHÔNG CHIÊM BAO TỪ SỰ LIÊN TỤC NĂM THỨC” tức là với ý giới tiếp nối ngũ thức không thể ngủ; không thể thức, không thể chiêm bao được tuệ giải theo căn nguyên đích xác là như vậy. Như vầy là phần trí Tông phân theo một loại.
XIỂN MINH ÐỀ HAI LOẠI (Dukaniddesa)
[803] TUỆ THIỆN và vô ký trong ba cõi gọi là tuệ hiệp thế; tuệ trong bốn đạo bốn quả gọi là tuệ siêu thế.
Tất cả tuệ đều gọi là tuệ có thức tri và không có thức tri. Tuệ thiện và vô ký trong ba cõi gọi là tuệ cảnh lậu; tuệ trong bốn đạo bốn quả gọi là tuệ phi cảnh lậu.
Tuệ thiện và vô ký trong ba cõi gọi là tuệ bất tương ưng lậu cảnh lậu; tuệ trong bốn đạo bốn quả gọi là tuệ bất tương ưng lậu phi cảnh lậu.
Tuệ thiện và vô ký trong ba cõi gọi là tuệ cảnh triền; tuệ trong bốn đạo bốn quả gọi là tuệ phi cảnh triền.
Tuệ thiện và vô ký trong ba cõi gọi là tuệ bất tương ưng triền cảnh triền; tuệ trong bốn đạo bốn quả gọi là tuệ bất tương ưng triền phi cảnh triền.
Tuệ thiện và vô ký trong ba cõi gọi là tuệ cảnh phược; tuệ trong bốn đạo bốn quả gọi là tuệ phi cảnh phược.
Tuệ thiện và vô ký trong ba cõi gọi là tuệ bất tương ưng phược cảnh phược; tuệ trong bốn đạo bốn quả gọi là tuệ bất tương ưng phược phi cảnh phược.
Tuệ thiện và vô ký trong ba cõi gọi là tuệ cảnh bộc; tuệ trong bốn đạo bốn quả gọi là tuệ phi cảnh bộc.
Tuệ thiện và vô ký trong ba cõi gọi là tuệ bất tương ưng bộc cảnh bộc; tuệ trong bốn đạo bốn quả gọi là tuệ bất tương ưng bộc phi cảnh bộc.
Tuệ thiện và vô ký trong ba cõi gọi là tuệ cảnh phối; tuệ trong bốn đạo bốn quả gọi là tuệ phi cảnh phối.
Tuệ thiện và vô ký trong ba cõi gọi là tuệ bất tương ưng phối cảnh phối; tuệ trong bốn đạo bốn quả gọi là tuệ bất tương ưng phối phi cảnh phối.
Tuệ thiện và vô ký trong ba cõi gọi là tuệ cảnh cái; tuệ trong bốn đạo bốn quả gọi là tuệ phi cảnh cái.
Tuệ thiện và vô ký trong ba cõi gọi là tuệ bất tương ưng cái cảnh cái; tuệ trong bốn đạo bốn quả gọi là tuệ bất tương ưng cái phi cảnh cái.
Tuệ thiện và vô ký trong ba cõi gọi là tuệ cảnh khinh; thị tuệ trong bốn đạo bốn quả gọi là tuệ phi cảnh khinh thị.
Tuệ thiện và vô ký trong ba cõi gọi là tuệ bất tương ưng khinh thị cảnh khinh thị; tuệ trong bốn đạo bốn quả gọi là tuệ bất tương ưng khinh thị phi cảnh khinh thị.
Tuệ trong quả ba cõi gọi là thành do thủ; tuệ thuộc thiện ba cõi, thuộc vô ký tố trong ba cõi, trong bốn đạo và trong bốn quả gọi là tuệ phi thành do thủ.
Tuệ thuộc thiện và vô ký trong ba cõi gọi là tuệ cảnh thủ; tuệ trong bốn đạo bốn quả gọi là tuệ phi cảnh thủ.
Tuệ thiện và vô ký trong ba cõi gọi là tuệ bất tương ưng thủ cảnh thủ; tuệ trong bốn đạo bốn quả gọi là tuệ bất tương ưng thủ phi cảnh thủ.
Tuệ thiện và vô ký trong ba cõi gọi là tuệ cảnh phiền não; tuệ trong bốn đạo bốn quả gọi là tuệ phi cảnh phiền não.
Tuệ thiện và vô ký trong ba cõi gọi là tuệ bất tương ưng phiền não cảnh phiền não; tuệ trong bốn đạo bốn quả gọi là tuệ bất tương ưng phiền não phi cảnh phiền não.
Tuệ tương ưng tầm gọi là tuệ hữu tầm; tuệ bất tương ưng tầm gọi là tuệ vô tầm.
Tuệ tương ưng tứ gọi là tuệ hữu tứ; tuệ bất tương ưng tứ gọi là tuệ vô tứ.
Tuệ tương ưng hỷ gọi là tuệ hữu hỷ; tuệ bất tương ưng hỷ gọi là tuệ vô hỷ.
Tuệ tương ưng hỷ gọi là tuệ câu hành hỷ; tuệ bất tương ưng hỷ gọi là tuệ phi câu hành hỷ.
Tuệ tương ưng lạc gọi là tuệ câu hành lạc; tuệ bất tương ưng lạc gọi là tuệ phi câu hành lạc.
Tuệ tương ưng xả gọi là tuệ câu hành xả; tuệ bất tương ưng xả gọi là tuệ phi câu hành xả.
Tuệ trong thiện và vô ký dục giới gọi là tuệ dục giới; tuệ sắc giới, tuệ vô sắc giới và tuệ bất hệ thuộc gọi là tuệ phi dục giới.
Tuệ trong thiện và vô ký sắc giới gọi là tuệ sắc giới; tuệ dục giới, tuệ vô sắc giới và tuệ bất hệ thuộc gọi là tuệ phi sắc giới.
Tuệ trong thiện và vô ký phi sắc giới gọi là tuệ vô sắc giới; tuệ dục giới, tuệ sắc giới và tuệ bất hệ thuộc gọi là tuệ phi vô sắc giới.
Tuệ thiện và vô ký trong ba cõi là tuệ hệ thuộc; tuệ trong bốn đạo bốn quả gọi là tuệ bất hệ thuộc.
Tuệ trong bốn đạo bốn quả gọi là tuệ dẫn xuất; tuệ thiện trong ba cõi, dị thục quả trong ba cõi, thuộc vô ký tố trong ba cõi gọi là tuệ phi dẫn xuất.
Tuệ trong bốn đạo gọi là tuệ cố định (cho quả); tuệ thuộc thiện ba cõi, thuộc vô ký tố ba cõi là tuệ phi cố định.
Tuệ thuộc thiện và vô ký trong ba cõi gọi là tuệ hữu thượng; tuệ trong bốn đạo bốn quả gọi là tuệ vô thượng.
Ở ÐÂY THẾ NÀO LÀ TUỆ SANH LỢI?
Về mặt thiện trong bốn vức (bhūmi), tuệ vô ký tố của bậc A-la-hán trợ sanh ra thông, trợ sanh ra thiền nhập, gọi là tuệ sanh lợi (atthajāpika). Về mặt dị thục quả trong bốn vức tuệ vô ký tố của bậc A-la-hán nhờ vào thông sanh khởi, nhờ vào thiền nhập sanh khởi, gọi là tuệ lợi sanh (jāpitatthā).
Trí tông theo hai loại là như vậy.
XIỂN MINH ÐỀ BA LOẠI (TIKANIDDESA)
[804] Ở ÐÂY THẾ NÀO LÀ TUỆ TƯ?
Trí đạt được mà không nhờ nghe người khác, tức là trong sự sắp xếp mọi công việc, hay sắp xếp mọi nghề nghiệp, hay sắp xếp mọi tài nghề, hay đế thuận, hay hiểu sắc là vô thường, hay hiểu thọ là vô thường, hay hiểu tưởng là vô thường; hay hiểu hành là vô thường, hay hiểu thức là vô thường, hằng có sự nhẫn nại chính đáng thuận lý, có tri kiến. Xác quyết, cảm nhận quan sát kiên nhẫn nghiệm pháp. Ðây được gọi là tuệ tư.
Ở ÐÂY THẾ NÀO LÀ TUỆ VĂN?
Trí đạt được nhờ nghe người khác, tức là trong sự sắp xếp mọi công việc, hay sắp xếp mọi nghề nghiệp, hay sắp xếp mọi tài nghề, hay đế thuận, hay hiểu sắc là vô thường, hay hiểu thọ là vô thường, hay hiểu tưởng là vô thường; hay hiểu hành là vô thường, hay hiểu thức là vô thường; hằng có sự nhẫn nại chính đáng thuận lý, có tri kiến xác quyết cảm nhận, quan sát, kiên nhẫn nghiệm pháp. Ðây được gọi là tuệ văn.
Tất cả tuệ của bậc nhập thiền gọi là tuệ tu.
[805] Ở ÐÂY THẾ NÀO LÀ TUỆ THÍ THÀNH?
Người bố thí nhờ vào sự thí mà trí tuệ, sự hiểu biết… (trùng)… vô si, trạch pháp, chánh kiến phát sanh. Ðây gọi là tuệ thí thành.
Ở ÐÂY THẾ NÀO LÀ TUỆ GIỚI THÀNH?
Người trì giới nhờ vào giới mà trí tuệ, sự hiểu biết… (trùng)… vô si trạch pháp, chánh kiến phát sanh. Ðây gọi là tuệ giới thành.
Còn tất cả tuệ của bậc nhập thiền gọi là tuệ tu thành.
[806] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ TUỆ TĂNG THƯỢNG GIỚI?
Trí tuệ, sự hiểu biết… (trùng)… vô si, trạch pháp, chánh kiến mà phát sanh cho bậc thúc liễm trong biệt biệt giải thoát thu thúc giới. Ðây gọi là tuệ tăng thượng giới.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ TUỆ TĂNG THƯỢNG TÂM?
Trí tuệ, sự hiểu biết… (trùng)… vô si, trạch pháp, chánh kiến mà phát sanh cho bậc nhập thiền Sắc giới và Vô sắc giới. Ðây gọi là tuệ tăng thượng tâm.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ TUỆ TĂNG THƯỢNG TRÍ?
Tuệ trong bốn đạo bốn quả. Ðây gọi là tuệ tăng thượng trí
[807] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ SỰ THÔNG THẠO TIẾN HÓA?
Chi là trí tuệ, sự hiểu biết… (trùng)… vô si, trạch pháp, chánh kiến, hiểu rằng do tác ý những pháp này nên các bất thiện pháp chưa sanh không sanh khởi và các bất thiện pháp đã sanh được đoạn tận; lại do tác ý những pháp này nên các thiện pháp chưa sanh được sanh khởi và các thiện pháp đã sanh được sung mãn, tăng trưởng, lớn mạnh, phát triển. Ðây gọi là sự thông thạo tiến hóa.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ SỰ THÔNG THẠO THỐI HÓA?
Ðiều đó, cái chi là trí tuệ, sự hiểu biết… (trùng)… vô si, trạch pháp, chánh kiến, hiểu rằng do tác ý những pháp này nên các thiện pháp chưa sanh không sanh khởi, và các thiện pháp đã sanh bị diệt mất. Lại do tác ý những pháp này mà các bất thiện pháp chưa sanh được sanh khởi và các bất thiện pháp đã sanh được tăng trưởng lớn mạnh. Ðây gọi là sự thông thạo thối hóa.
Còn tất cả tuệ rành cách thức trong mọi việc, gọi là sự thông thạo phương chước.
[808] Tuệ trong quả bốn vức gọi là tuệ dị thục; tuệ trong thiện bốn vức gọi là tuệ dị thục nhân; tuệ trong vô ký tố ba cõi gọi là tuệ phi dị thục phi dị thục nhân.
[809] Tuệ trong quả ba cõi gọi là tuệ thành do thủ cảnh thủ; tuệ thuộc thiện trong ba cõi và thuộc vô ký tố trong ba cõi gọi là tuệ phi thành do thủ cảnh thủ; tuệ trong bốn đạo bốn quả gọi là tuệ phi thành do thủ phi cảnh thủ.
[810] Tuệ tương ưng tầm tứ gọi là tuệ hữu tầm hữu tứ; tuệ bất tương ưng tầm mà tương ưng tứ gọi là tuệ vô tầm hữu tứ; tuệ bất tương ưng tầm tứ gọi là tuệ vô tầm vô tứ.
[811] Tuệ tương ưng hỷ gọi là tuệ câu hành hỷ; tuệ tương ưng lạc gọi là tuệ câu hành lạc; tuệ tương ưng xả gọi là tuệ câu hành xả.
[812] Tuệ thuộc thiện trong ba cõi gọi là tuệ thành nhân tích tập; tuệ trong bốn đạo gọi là tuệ thành nhân tịch diệt; tuệ thuộc quả bốn vức và tuệ thuộc vô ký tố trong ba cõi gọi là tuệ phi nhân tích tập phi nhân tịch diệt.
[813] Tuệ trong bốn đạo và ba quả gọi là tuệ hữu học; tuệ trong A-la-hán quả cao tột là tuệ vô học; tuệ thuộc thiện trong ba cõi, thuộc quả trong ba cõi và thuộc vô ký tố trong ba cõi là tuệ phi hữu học phi vô học.
[814] Tuệ thiện và vô ký dục giới gọi là tuệ hy thiểu; tuệ thiện và vô ký sắc giới cùng vô sắc giới gọi là tuệ đáo đại; tuệ trong bốn đạo bốn quả gọi là tuệ vô lượng.
[815] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ TUỆ BIẾT CẢNH HY THIỂU?
Tuệ nào là sự hiểu biết… (trùng)… vô si, trạch pháp, chánh kiến sanh lên bắt lấy các pháp hy thiểu. Ðây được gọi là tuệ biết cảnh hy thiểu.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ TUỆ BIẾT CẢNH ÐÁO ÐẠI?
Tuệ nào là sự hiểu biết… (trùng)… vô si, trạch pháp, chánh kiến sanh lên bắt lấy các pháp đáo đại. Ðây được gọi là tuệ đáo đại.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ TUỆ BIẾT CẢNH VÔ LƯỢNG?
Tuệ nào là sự hiểu biết… (trùng)… vô si, trạch pháp, chánh kiến sanh lên bắt lấy các pháp vô lượng. Ðây được gọi là tuệ biết cảnh vô lượng.
[816] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ TUỆ CÓ ÐẠO THÀNH CẢNH?
Tuệ nào là sự hiểu biết… (trùng)… vô si, trạch pháp, chánh kiến sanh lên bắt lấy Thánh Ðạo (làm cảnh). Ðây được gọi là tuệ có đạo thành cảnh.
Tuệ trong bốn đạo gọi là tuệ có đạo thành nhân.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ TUỆ CÓ ÐẠO THÀNH TRƯỞNG?
Tuệ nào là sự hiểu biết… (trùng)… vô si, trạch pháp, chánh kiến sanh lên bắt lấy Thánh đạo làm cảnh trưởng. Ðây được gọi là tuệ có đạo thành trưởng.
[817] Tuệ thuộc quả trong bốn vức có thể là tuệ sinh tồn, có thể là tuệ chuẩn sanh, nhưng không nên nói là tuệ vị sanh tồn.
Tuệ thuộc thiện trong bốn vức và thuộc vô ký tố trong ba cõi có thể là tuệ sanh tồn, có thể là vị sanh tồn, nhưng không nên nói là tuệ chuẩn sanh.
[818] Tất cả tuệ có thể là quá khứ, có thể là vị lai, có thể là hiện tại.
[819] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ TUỆ BIẾT CẢNH QUÁ KHỨ?
Trí tuệ nào là sự hiểu biết… (trùng)… vô si, trạch pháp, chánh kiến sanh lên bắt lấy các pháp quá khứ. Ðây được gọi là tuệ biết cảnh quá khứ.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ TUỆ BIẾT CẢNH VỊ LAI?
Trí tuệ nào là sự hiểu biết… (trùng)… vô si, trạch pháp, chánh kiến sanh lên bắt lấy các pháp vị lai. Ðây được gọi là tuệ biết cảnh vị lai.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ TUỆ BIẾT CẢNH HIỆN TẠI?
Trí tuệ nào là sự hiểu biết… (trùng)… vô si, trạch pháp, chánh kiến sanh lên bắt lấy các pháp hiện tại. Ðây được gọi là tuệ biết cảnh hiện tại.
[820] Tất cả tuệ đều có thể là nội phần, có thể là ngoại phần, có thể là nội ngoại phần.
[821] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ TUỆ BIẾT CẢNH NỘI PHẦN?
Trí tuệ nào là sự hiểu biết… (trùng)… vô si, trạch pháp, chánh kiến sanh lên bắt lấy các pháp nội phần. Ðây được gọi là tuệ biết cảnh nội phần.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ TUỆ BIẾT CẢNH NGOẠI PHẦN?
Trí tuệ nào là sự hiểu biết… (trùng)… vô si, trạch pháp, chánh kiến sanh lên bắt lấy các pháp ngoại phần. Ðây được gọi là tuệ biết cảnh ngoại phần.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ TUỆ BIẾT CẢNH NỘI NGOẠI PHẦN?
Trí tuệ nào là sự hiểu biết… (trùng)… vô si, trạch pháp, chánh kiến sanh lên bắt lấy các pháp nội ngoại phần. Ðây được gọi là tuệ biết cảnh nội ngoại phần.
Trí tông theo ba loại là như vậy.
XIỂN MINH ÐỀ BỐN LOẠI (Catukkaniddesa)
[822] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ TRÍ NGHIỆP SỞ?
Tuệ nào là sự hiểu biết… (trùng)… vô tri, trạch pháp, chánh kiến hiểu như sau: có quả bố thí, có quả cúng dường, có quả tế tự, có dị thục quả của các nghiệp tốt xấu, có đời này có đời sau, có ân mẹ, có ân cha, có loài hữu tình hóa sanh, có các sa môn bà la môn trong đời đi đúng, thực hành đúng đã tự mình chứng ngộ thắng trí rồi tuyên bố về đời này và đời khác. Ðây được gọi là trí nghiệp sở. Ngoại trừ trí đế tùy thuận, còn lại tất cả tuệ thiện cảnh lậu đều là trí nghiệp sở.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ TRÍ ÐẾ TÙY THUẬN?
Trí mà thuận lý thành sự kham nhẫn, tri kiến, xác quyết, cảm nhận, quan sát, kiên trì nghiệm pháp như vầy: Sắc uẩn là vô thường hay thọ uẩn là vô thường hay tưởng uẩn là vô thường hay hành uẩn là vô thường hay thức uẩn là vô thường. Ðây được gọi là trí tuệ tùy thuận.
Tuệ trong bốn đạo gọi là trí thành đạo. Tuệ trong bốn quả gọi là trí thành quả.
[823] Trí thành đạo là trí hiểu đối với khổ, trí hiểu đối với khổ tập, trí hiểu đối với khổ diệt, trí hiểu đối với khổ diệt đạo hành.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ TRÍ ÐỐI VỚI KHỔ?
Tuệ mà sanh ra là sự hiểu biết… (trùng)… vô si, trạch pháp, chánh kiến, bắt lấy khổ (làm cảnh). Ðây được gọi là trí đối với khổ… (trùng)… bắt lấy khổ tập (làm cảnh)… (trùng)… bắt lấy khổ diệt (làm cảnh).
Tuệ mà sanh ra là sự hiểu biết… (trùng)… vô si, trạch pháp, chánh kiến bắt lấy khổ diệt đạo hành (làm cảnh). Ðây được gọi là trí đối với khổ diệt đạo hành.
[824] Tuệ trong thiện và vô ký dục giới gọi là tuệ dục giới; tuệ trong thiện và vô ký sắc giới gọi là tuệ sắc giới; tuệ trong thiện và vô ký vô sắc giới gọi là tuệ vô sắc giới; tuệ trong bốn đạo bốn quả gọi là tuệ bất hệ thuộc.
[825] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ TRÍ PHÁP (Dhammañānaṃ)?
Tuệ trong bốn đạo quả gọi là trí pháp.
Một vị suy nghiệm về quá khứ và vị lai nhờ trí pháp này, nhờ thấy, nhờ đắc, nhờ hiểu, nhờ thâm nhập; có tuệ là sự hiểu biết… (trùng)… vô si, trạch pháp, chánh kiến như vầy “bất cứ những Sa môn hay Bà la môn nào trong thời quá khứ đã thắng tri khổ, thắng tri khổ tập, thắng tri khổ diệt, thắng tri khổ diệt đạo hành thì những vị ấy thật sự đã thắng tri khổ tập này, những vị ấy đã thật sự thắng tri khổ diệt này, những vị ấy đã thật sự thắng tri khổ diệt đạo hành này; bất cứ những Sa môn hay Bà la môn nào trong thời vị lai sẽ thắng tri khổ, thắng tri khổ tập, thắng tri khổ diệt, thắng tri khổ diệt đạo hành thì những vị ấy chắc chắn sẽ thắng tri khổ này, những vị ấy chắc chắn sẽ thắng tri khổ tập này, những vị ấy chắc chắn sẽ thắng tri khổ diệt này, những vị ấy chắc chắn sẽ tháng tri khổ diệt đạo hành này”. Ðây được gọi là trí loại (anvayenāna).
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ TRÍ BIẾN HÀNH (Paricceñānaṃ)?
Ở đây, vị tỳ khưu với nội tâm chú ý hiểu biết tâm của chúng sanh khác, của người khác; tâm hữu tham biết rõ là tâm hữu tham, tâm ly tham biết rõ là tâm ly tham, tâm hữu sân biết rõ là tâm hữu sân, tâm ly sân biết rõ là tâm ly sân, tâm hữu si biết rõ là tâm hữu si, tâm ly si biết rõ là tâm ly si, hay tâm hôn trầm biết rõ tâm hôn trầm, tâm phóng dật biết rõ là tâm phóng dật, tâm đáo đại biết rõ là tâm đáo đại, tâm phi đáo đại biết rõ là tâm phi đáo đại, tâm hữu thượng biết rõ là tâm hữu thượng, tâm vô thượng biết rõ là tâm vô thượng, tâm định tỉnh biết rõ là tâm định tỉnh, tâm bất định tỉnh biết rõ là tâm bất định tỉnh, hay tâm giải thoát biết rõ là tâm giải thoát, tâm phi giải thoát biết rõ là tâm phi giải thoát. Ở đây, có tuệ tri, hiểu biết… (trùng)… vô si, trạch pháp, chánh kiến như vậy. Ðây gọi là trí biến hành.
Ngoài trừ trí pháp, trí loại, trí biến hành, tuệ còn lại là trí giả định.
[826] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ TUỆ ÐƯA ÐẾN TÍCH TẬP KHÔNG ÐƯA ÐẾN TỊCH DIỆT?
Tuệ trong thiện dục giới là tuệ đưa đến tích tập không đưa đến tịch diệt.
Tuệ trong bốn đạo là tuệ đưa đến tịch diệt không đưa đến tích tập.
Tuệ trong thiện sắc giới và vô sắc giới là tuệ đưa đến tích tập cũng đưa đến tịch diệt.
Tuệ còn lại là tuệ không đưa đến tích tập không đưa đến tịch diệt.
[827] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ TUỆ ÐƯA ÐẾN YỂM LY KHÔNG ÐƯA ÐẾN TRIỆT NGỘ?
Sự ly tham trong các dục bằng tuệ mà không thắng tri không thấu triệt Tứ Ðế. Ðây gọi là tuệ đưa đến yểm ly không đưa đến triệt ngộ.
Vị ấy có ly tham- thắng tri trong các dục bằng tuệ nhưng không thấu triệt Tứ Ðế. Ðây được gọi là tuệ triệt ngộ nhưng không yểm ly.
Tuệ trong bốn đạo gọi là tuệ đưa đến yểm ly đưa đến triệt ngộ.
Tuệ còn lại là tuệ không đưa đến yểm ly cũng không đưa đến triệt ngộ.
[828] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ TUỆ THỐI PHẦN?
Những tác ý tưởng câu hành dục chi phối bậc đắc sơ thiền, gọi là tuệ thối phần. Chánh niệm thuộc khuynh hướng ấy được an lập, gọi là tuệ trú phần. Các tác ý tưởng phi câu hành tầm diễn ra, gọi là tuệ thắng phần. Các tác ý tưởng câu hành yểm ly trí hiệp trợ với ly tham diễn ra, gọi là tuệ quyết trạch phần.
Các tác ý tưởng câu hành tầm chi phối bậc đắc Nhị thiền, gọi là tuệ thối phần. Chánh niệm thuộc khuynh hướng ấy được an lập, gọi là tuệ trú phần. Các tác ý tưởng câu hành xả diễn ra gọi là tuệ thắng phần. Các tác ý tưởng câu hành yểm ly trí hiệp trợ với ly tham diễn ra, gọi là tuệ quyết trạch phần.
Các tác ý tưởng câu hành hỷ chi phối bậc đắc Tam thiền, gọi là tuệ thối phần. Chánh niệm theo khuynh hướng ấy được an lập gọi là tuệ trú phần. Các tác ý tưởng câu hành phi khổ phi lạc thọ được diễn ra gọi là tuệ thắng phần. Các tác ý tưởng câu hành yểm ly trí hiệp trợ với ly tham được diễn ra, gọi là tuệ quyết trạch phần.
Các tác ý tưởng câu hành lạc chi phối bậc đắc Tứ thiền, gọi là tuệ thối phần. Chánh niệm thuộc khuynh hướng ấy được an lập, gọi là tuệ trú phần. Các tác ý tưởng câu hành không vô biên xứ được diễn ra, gọi là tuệ thắng phần. Các tác ý tưởng câu hành yểm ly trí hợp trợ với ly tham được diễn ra, gọi là tuệ quyết trạch phần.
Các tác ý tưởng câu hành sắc pháp chi phối bậc đắc thiền Không vô biên xứ, gọi là tuệ thối phần. Chánh niệm thuộc khuynh hướng ấy được an lập, gọi là tuệ trú phần. Các tác ý tưởng câu hành thức vô biên xứ được diễn ra, gọi là tuệ thắng phần. Các tác ý tưởng câu hành yểm ly trí hợp trợ với ly tham được diễn ra, gọi là tuệ quyết trạch phần.
Các tác ý tưởng câu hành không vô biên xứ chi phối bậc đắc thiền Thức vô biên xứ, gọi là tuệ thối phần. Chánh niệm thuộc khuynh hướng ấy được an lập, gọi là tuệ trú phần. Các tác ý tưởng câu hành vô sở hữu xứ được diễn ra, gọi là tuệ thắng phần. Các tác ý tưởng câu hành yểm ly trí hợp trợ với ly tham được diễn ra, gọi là tuệ quyết trạch phần.
Các tác ý tưởng câu hành thức vô biên xứ chi phối bậc đắc thiền Vô sở hữu xứ, gọi là tuệ thối phần. Chánh niệm theo khuynh hướng ấy được an lập, gọi là tuệ trú phần. Các tác ý tưởng câu hành phi tưởng phi phi tưởng xứ được diễn ra, gọi là tuệ thắng phần. Các tác ý tưởng câu hành yểm ly trí hiệp trợ với ly tham được diễn ra, gọi là tuệ quyết trạch phần.
[829] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ BỐN TUỆ ÐẠT THÔNG?
Tức là nghĩa đạt thông, pháp đạt thông, ngữ đạt thông và biện đạt thông.
Nghĩa đạt thông là sự hiểu thông trong nghĩa lý; Pháp đạt thông là sự hiểu thông trong pháp; Ngữ đạt thông là sự hiểu thông trong lối nói ngữ pháp ở mọi trường hợp; Biện đạt thông là sự hiểu thông về trí tuệ. Ðây gọi là bốn đạt thông.
[830] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ BỐN TIẾN HÀNH?
Tức là tuệ hành nan đắc trì, tuệ hành nan đắc cấp, tuệ hành dị đắc trì, tuệ hành dị đắc cấp.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ TUỆ HÀNH NAN ÐẮC TRÌ?
Tức là trí tuệ, sự hiểu biết… (trùng)… vô si, trạch pháp, chánh kiến sanh khởi đối với vị đắc định một cách khó khăn khổ sở và thắng tri sự kiện ấy một cách chậm trễ. Ðây được gọi là tuệ hành nan đắc trì.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ TUỆ HÀNH NAN ÐẮC CẤP?
Tức là trí tuệ, sự hiểu biết… (trùng)… vô si, trạch pháp, chánh kiến sanh khởi đối với vị đắc định một cách khó khăn, khốn khổ nhưng thắng tri sự kiện ấy một cách nhanh chóng. Ðây được gọi là tuệ hành nan đắc cấp.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ TUỆ HÀNH DỊ ÐẮC TRÌ?
Tức là trí tuệ, sự hiểu biết… (trùng)… vô si, trạch pháp, chánh kiến sanh khởi đối với vị đắc định một cách dễ dàng không khó khăn, nhưng thắng tri sự kiện ấy một cách chậm chạp. Ðây được gọi là tuệ hành dị đắc trì.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ TUỆ HÀNH DỊ ÐẮC CẤP?
Tức là trí tuệ, sự hiểu biết… (trùng)… vô si, trạch pháp, chánh kiến sanh khởi đối với vị đắc định một cách dễ dàng không khó khăn và thắng tri sự kiện ấy một cách nhanh chóng. Ðây được gọi là tuệ hành dị đắc cấp.
Ðây tức là bốn đạt thông.
[831] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ BỐN CẢNH?
Tức là tuệ hy thiểu cảnh hy thiểu, tuệ hy thiểu cảnh vô lượng, tuệ vô lượng cảnh hy thiểu, tuệ vô lượng cảnh vô lượng.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ TUỆ HY THIỂU CẢNH HY THIỂU?
Tức là trí tuệ, sự hiểu biết… (trùng)… vô si, trạch pháp, chánh kiến sanh khởi cho bậc không phải dễ dàng đắc định và ít biến mãn đối tượng. Ðây được gọi là tuệ hy thiểu cảnh hy thiểu.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ TUỆ HY THIỂU CẢNH VÔ LƯỢNG?
Tức là trí tuệ, sự hiểu biết… (trùng)… vô si, trạch pháp, chánh kiến sanh khởi cho bậc không phải dễ dàng đắc định nhưng biến mãn đối tượng một cách rộng rãi. Ðây được gọi là tuệ hy thiểu cảnh vô lượng.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ TUỆ VÔ LƯỢNG CẢNH HY THIỂU?
Tức là trí tuệ, sự hiểu biết… (trùng)… vô si, trạch pháp, chánh kiến sanh khởi cho bậc dễ dàng đắc định nhưng ít biến mãn đối tượng. Ðây được gọi là tuệ vô lượng cảnh hy thiểu.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ TUỆ VÔ LƯỢNG CẢNH VÔ LƯỢNG?
Tức là trí tuệ, sự hiểu biết… (trùng)… vô si, trạch pháp, chánh kiến sanh khởi cho bậc dễ dàng đắc định và biến mãn đối tượng một cách rộng rãi. Ðây được gọi là tuệ vô lượng cảnh vô lượng.
Ðây là bốn cảnh.
[832] TRÍ THÀNH ÐẠO tức là trí biết lão tử, trí biết lão tử tập khởi, trí biết lão tử đoạn diệt, trí biết lão tử đoạn diệt đạo hành.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ TRÍ BIẾT LÃO TỬ?
Tức trí tuệ, sự hiểu biết… (trùng)… vô si, trạch pháp, chánh kiến sanh khởi bắt lấy cảnh già chết. Ðây được gọi là trí biết lão tử… (trùng)… bắt lấy sự tập khởi của già chết (làm cảnh)… (trùng)… bắt lấy sự đoạn diệt của già chết (làm cảnh).
Trí tuệ, sự hiểu biết… (trùng)… vô si, trạch pháp, chánh kiến sanh khởi bắt lấy cảnh là đường lối dẫn đến đoạn diệt già chết. Ðây được gọi là trí hiểu lão tử đoạn diệt đạo hành.
Trí thành đạo như là trí sanh… (trùng)… trí hữu… (trùng)… trí thủ… (trùng)… trí ái… (trùng)… trí thọ… (trùng)… trí xúc… (trùng)… trí lục nhập… (trùng)… trí danh sắc… (trùng)… trí thức… (trùng)… trí biết các hành, trí biết hành tập khởi, trí biết hành đoạn diệt, trí biết hành diệt đạo lộ.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ TRÍ BIẾT CÁC HÀNH?
Tức trí tuệ, sự hiểu biết… (trùng)… vô si, trạch pháp, chánh kiến sanh khởi bắt lấy các hành (làm cảnh).
…(trùng)… bắt lấy sự tập khởi của các hành (làm cảnh).
…(trùng)… bắt lấy sự đoạn diệt của các hành (làm cảnh).
Trí tuệ, sự hiểu biết… (trùng)… vô si, trạch pháp, chánh kiến sanh khởi bắt lấy cảnh là đường lối dẫn đến đoạn diệt các hành. Ðây được gọi là trí hành diệt đạo lộ.
Trí tông phân theo bốn loại là như vậy.
XIỂN MINH ÐỀ NĂM LOẠI (Pañcakaniddesa)
[833] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ CHÁNH ÐỊNH NĂM CHI PHẦN?
Tức là hỷ biến mãn, lạc biến mãn, tâm biến mãn, quang biến mãn, phản kháng tướng.
Tuệ trong hai thiền gọi là tuệ hỷ biến mãn; tuệ trong ba thiền gọi là tuệ lạc biến mãn; tuệ hiểu tâm người khác gọi là tuệ tâm biến mãn; thiên nhãn gọi là quang biến mãn; trí phản kháng của vị vừa xuất định ấy gọi là phản kháng tướng.
Ðây được gọi là chánh định năm chi phần.
[834] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ CHÁNH ÐỊNH NĂM TRÍ?
Tự mình trí phát sanh rằng: Ðịnh này đạt hiện tại, tưởng lai có quả lạc. Tự mình trí phát sanh rằng: Ðịnh này là thánh thiện ly vật chất. Tự mình trí phát sanh rằng: Ðịnh này hạng tiện nhân không hành được. Tự mình trí phát sanh rằng: Ðịnh này thanh tịnh, tinh lương, thành vắng lặng, đạt đến nhất hướng tâm và không do tâm hữu trợ chế ngăn phiền não. Tự mình trí phát sanh rằng: Ta đây cũng có nhập định này và cũng có xuất định này.
Ðây gọi là chánh định năm trí.
Trí tông theo năm loại là như vậy.
XIỂN MINH ÐỀ SÁU LOẠI (Chakkaniddesa)
[835] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ TUỆ TRONG LỤC THÔNG?
Tức là thần thông trí, nhĩ giới tịnh trí, tha tâm trí, túc mạng trí, chúng sanh tử trí và lậu tận trí. Ðây là tuệ lục thông.
Trí tông theo sáu loại là như vậy.
XIỂN MINH ÐỀ BẢY LOẠI (Sattakaniddesa)
[836] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ BẢY MƯƠI BẢY TRÍ TÔNG?
Trí hiểu rằng: Lão tử do duyên sanh. Trí hiểu rằng: không có sanh thời không có lão tử. Trí hiểu rằng: trong thời quá khứ cũng có lão tử do duyên sanh. Trí hiểu rằng: (quá khứ) không có sanh thời không có lão tử. Trí hiểu rằng: trong thời vị lai cũng có lão tử do duyên sanh. Trí hiểu rằng: (Vị lai) không có sanh thời không có lão tử. Trí hiểu rằng: có trí pháp trụ thời trí ấy hiển nhiên hoại, hiển nhiên biến, hiển nhiên lìa, hiển nhiên diệt.
Trí hiểu rằng: Sanh do duyên hữu… (trùng)…
Trí hiểu rằng: Hữu do duyên thủ… (trùng)…
Trí hiểu rằng: Thủ do duyên ái… (trùng)…
Trí hiểu rằng: Ái do duyên thọ… (trùng)…
Trí hiểu rằng: Thọ do duyên xúc… (trùng)…
Trí hiểu rằng: Xúc do duyên lục nhập… (trùng)…
Trí hiểu rằng: Lục nhập do duyên danh sắc… (trùng)…
Trí hiểu rằng: Danh sắc do duyên thức… (trùng)…
Trí hiểu rằng: Thức do duyên hành… (trùng)…
Trí hiểu rằng: Hành do duyên vô minh; trí hiểu rằng: không có vô minh thời không có hành; trí hiểu rằng: trong thời quá khứ cũng có hành do duyên vô minh; trí hiểu rằng: (quá khứ) không có vô minh thí không có hành; trí hiểu rằng: trong thời vị lai cũng không có hành do duyên vô minh; trí hiểu rằng: (vị lai) không có vô minh thì không có hành; trí hiểu rằng: có trí pháp trụ thời trí ấy hiển nhiên hoại, hiển nhiên biến, hiển nhiên lìa, hiển nhiên diệt.
Ðây là bảy mươi bảy trí tông.
Trí tông theo bảy loại là như vậy.
XIỂN MINH ÐỀ TÁM LOẠI (Aṭṭhakaniddesa)
[837] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ TUỆ TRONG BỐN ÐẠO BỐN QUẢ?
Tức là tuệ Dự lưu đạo, tuệ Dự lưu quả, tuệ Nhất lai đạo, tuệ Nhất lai quả, tuệ Bất lai đạo, tuệ Bất lai quả, tuệ Ưng cúng đạo, tuệ Ưng cúng quả. Ðây là tuệ trong bốn đạo bốn quả.
Trí tông theo tám loại là như vậy.
XIỂN MINH ÐỀ CHÍN LOẠI (Navakaniddesa)
[838] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ TUỆ TRONG CHÍN THỨ ÐỆ NHẬP THIỀN TRÚ?
Tức là tuệ nhập định Sơ thiền, tuệ nhập định Nhị thiền, tuệ nhập định Tam thiền, tuệ nhập định Tứ thiền, tuệ nhập định Không vô biên xứ, tuệ nhập định Thức vô biên xứ, tuệ nhập định Vô sở hữu xứ, tuệ nhập định Phi tưởng phi phi tưởng xứ, phản kháng trí của bậc xuất diệt thọ tưởng định. Ðây là tuệ trong chín thứ đệ thập thiền trú.
Trí tông theo chín loại là như vậy.
XIỂN MINH ÐỀ THEO MƯỜI LOẠI (Dasakaniddesa)
[839] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ NHƯ THẬT TRÍ CỦA ÐỨC NHƯ LAI BIẾT NGUYÊN LÝ LÀ NGUYÊN LÝ, PHI NGUYÊN LÝ LÀ PHI NGUYÊN LÝ?
Ở đây một điều phi lý vô duyên cớ như điều nói hạng kiến cụ túc có chấp hữu vi pháp là trường tồn; Ðức Như Lai biết rõ rằng nguyên lý đó không xảy ra. Còn một sự kiện này xảy ra như điều mà hạng phàm phu cố chấp hữu vi pháp là trường tồn, thì Ngài biết rõ rằng nguyên lý đó có xảy ra.
Một điều phi lý vô duyên cớ như điều nói hạng kiến cụ túc cố chấp hữu vi pháp là an lạc; Ngài biết rõ rằng nguyên lý đó không xảy ra. Còn một sự kiện này xảy ra như điều mà hạng phàm phu cố chấp hữu vi pháp là an lạc; thì Ngài biết rõ rằng nguyên lý đó có xảy ra.
Một điều vô lý vô duyên cớ như điều nói hạng kiến cụ túc cố chấp mọi pháp là hữu ngã; Ngài biết rõ rằng nguyên lý đó không xảy ra. Còn một sự kiện này xảy ra như điều mà hạng phàm phu cố chấp mọi pháp hữu vi là hữu ngã; thì Ngài biết rõ rằng nguyên lý đó xảy ra.
Một điều vô lý vô duyên cớ như điều nói hạng kiến cụ túc có thể giết mẹ; Ngài biết rõ rằng nguyên lý đó không xảy ra. Còn một sự kiện này xảy ra như điều mà hạng phàm phu có thể giết mẹ, thì Ngài biết rõ rằng nguyên lý đó có xảy ra.
Một điều vô lý vô duyên cớ như điều nói hạng kiến cụ túc có thể giết cha… (trùng)… có thể giết vị A-la-hán… (trùng)… có thể trích máu Ðức Như Lai bằng tâm sân… (trùng)… có thể chia rẽ Tăng… (trùng)… có thể y chỉ đạo sư khác… (trùng)… có thể sanh kiếp thứ tám; Ngài biết rõ rằng nguyên lý đó không xảy ra. Còn một sự kiện này xảy ra như điều mà hạng phàm phu có thể sanh kiếp thứ tám; thì Ngài biết rõ rằng nguyên lý đó có xảy ra.
Một điều vô lý vô duyên cứ như điều nói trong một thế giới có hai vị A-la-hán Chánh Ðẳng Giác xuất hiện cùng một lúc; Ngài biết rõ rằng nguyên lý đó không xảy ra. Còn một sự kiện này xảy ra như điều mà trong một thế giới chỉ có thể có một vị A-la-hán Chánh Ðẳng Giác xuất hiện; thì Ngài biết rõ rằng nguyên lý đó xảy ra.
Một điều vô lý vô duyên cứ như điều nói trong một thế giới có thể có hai vị Chuyển Luân vương xuất hiện cùng một lúc; Ngài biết rõ rằng nguyên lý đó không xảy ra. Còn một sự kiện này xảy ra như điều mà trong một thế giới chỉ có thể có một vị Chuyển Luân vương xuất hiện; thì Ngài biết rõ rằng nguyên lý đó có xảy ra.
Một điều vô lý vô duyên cớ như điều nói nữ nhân có thể là bậc A-la-hán Chánh Ðẳng Giác; Ngài biết rõ rằng nguyên lý đó không xảy ra. Còn một sự kiện này xảy ra như điều mà nam nhân có thể thành bậc A-la-hán Chánh Ðẳng Giác; thì Ngài biết rõ rằng nguyên lý đó có xảy ra.
Một điều vô lý vô duyên cớ như điều nói nữ nhân có thể thành bậc Chuyển Luân vương; Ngài biết rõ rằng nguyên lý đó không xảy ra. Còn một sự kiện này xảy ra như điều mà nam nhân có thể thành vị Chuyển Luân vương; thì Ngài biết rõ rằng nguyên lý đó có xảy ra.
Một điều vô lý vô duyên cớ như điều nói nữ nhân có thể làm Ðế Thích, có thể làm Thiên ma, có thể làm Phạm Thiên; Ngài biết rõ rằng nguyên lý đó không xảy ra. Còn một sự kiện này xảy ra như điều mà nam nhân có thể làm Ðế Thích, có thể làm Thiên ma, có thể làm Phạm Thiên; thì Ngài biết rõ rằng nguyên lý đó có xảy ra.
Một điều vô lý vô duyên cớ như điều nói rằng quả dị thục của thân ác hạnh có thể sanh lên tốt đẹp, khả hỷ, khả ý; Ngài biết rõ rằng nguyên lý đó không xảy ra. Còn một sự kiện này xảy ra như điều mà quả dị thục của thân ác hạnh có thể sanh lên không tốt đẹp, không khả hỷ, không khả ý; thì Ngài biết rõ rằng nguyên lý đó có xảy ra.
Một điều vô lý vô duyên cớ như điều nói rằng quả dị thục của khẩu ác hạnh, của ý ác hạnh có thể sanh lên tốt đẹp, khả hỷ, khả ý; Ngài biết rõ rằng nguyên lý đó không xảy ra. Còn một sự kiện này xảy ra như điều mà quả dị thục của khẩu ác hạnh, của ý ác hạnh có thể sanh lên là không tốt đẹp, không khả hỷ, không khả ý; thì Ngài biết rõ rằng nguyên lý đó có xảy ra.
Một điều vô lý vô duyên cớ như điều nói rằng quả dị thục của thân thiện hạnh có thể sanh lên là không tốt đẹp, không khả hỷ, không khả ý; Ngài biết rõ rằng nguyên lý đó không xảy ra. Còn một sự kiện này xảy ra như điều mà quả dị thục của khẩu thiện hạnh, của ý thiện hạnh có thể sanh lên là tốt đẹp, khả hỷ, khả ý; thì Ngài biết rõ rằng nguyên lý đó có xảy ra.
Một điều vô lý vô duyên cớ như điều nói người có thân ác hạnh, do nhân đó, do duyên ấy, khi thân hoại mệnh chung có thể sanh vào thiện thú, thiện giới; Ngài biết rõ rằng nguyên lý đó không xảy ra. Còn một sự kiện này xảy ra như điều mà người có thân ác hạnh, do nhân ấy, do duyên ấy, khi thân hoại mệnh chung có thể sanh vào khổ cảnh, ác thú, đọa xứ, địa ngục; thì Ngài biết rõ rằng nguyên lý đó có xảy ra.
Một điều vô lý vô duyên cớ như điều nói người có khẩu ác hạnh, ý ác hạnh, do nhân ấy, do duyên ấy, khi thân hoại mệnh chung được sanh về thiện thú, thiện giới; Ngài biết rõ rằng nguyên lý đó không xảy ra. Còn một sự kiện này xảy ra như điều mà người có khẩu ác hạnh, ý ác hạnh, do nhân ấy, do duyên ấy, khi thân hoại mệnh chung có thể sanh vào khổ cảnh, ác thú, đọa xứ, địa ngục; thì Ngài biết rõ rằng nguyên lý ấy có xảy ra.
Một điều vô lý vô duyên cớ như điều nói người có khẩu thiện hạnh, ý thiện hạnh, do nhân ấy, do duyên ấy, khi thân hoại mệnh chung bị sanh vào khổ cảnh, ác thú, đọa xứ, địa ngục; Ngài biết rõ rằng nguyên lý đó không xảy ra. Còn một sự kiện này xảy ra như điều mà người có khẩu thiện hạnh, có ý thiện hạnh, do nhân đó, do duyên đó, khi thân hoại mệnh chung được sanh về thiện thú, thiện giới; thì Ngài biết rõ rằng nguyên lý đó xảy ra.
Ở đây trí tuệ là sự hiểu biết… (trùng)… vô si, trạch pháp, chánh kiến biết rằng: Những pháp nào sanh ra có nhân có duyên của chúng thì những pháp ấy gọi là nguyên lý, những pháp nào sanh ra không có nhân, không có duyên của chúng thì những pháp ấy gọi là phi nguyên lý. Ðây là như thật trí của Ðức Như Lai biết nguyên lý là nguyên lý, phi nguyên lý là phi nguyên lý.
[840] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ NHƯ THẬT TRÍ CỦA ÐỨC NHƯ LAI HIỂU QUẢ DỊ THỤC CỦA CÁC NGHIỆP THỌ TRÌ THUỘC QUÁ KHỨ, VỊ LAI, HIỆN TẠI THEO NGUYÊN NHÂN?
Ở đây, Ðức Như Lai biết rõ rằng: Có một số ác nghiệp thọ trì bị trở ngại bởi sanh thú thuận lợi mà không trổ quả[3], có một số ác nghiệp thọ trì bị trở ngại bởi sanh y thuận lợi mà không trổ quả; có một số ác nghiệp thọ trì bị trở ngại bởi thời kỳ thuận lợi mà không trổ quả, có một số ác nghiệp thọ trì bị trở ngại bởi hành vi thuận lợi mà không trổ quả; có một số ác nghiệp thọ trì khi gặp phải[4] Sanh thú bất lợi thì trổ quả, có một số ác nghiệp thọ trì khi gặp phải sanh y bất lợi thì trổ quả, có một số ác nghiệp thọ trì khi gặp phải thời kỳ bất lợi thì trổ quả; có một số ác nghiệp thọ trì khi gặp phải hành vi bất lợi thì trổ quả. Có một số thiện nghiệp thọ trì bị trở ngại bởi sanh thú bất lợi mà không trổ quả, có một số thiện nghiệp thọ trì bị trở ngại bởi sanh y bất lợi mà không trổ quả, có một số thiện nghiệp thọ trì bị trở ngại bởi thời kỳ bất lợi mà không trổ quả, có một số thiện nghiệp thọ trì bị trở ngại bởi hành vi bất lợi mà không trổ quả; có một số thiện nghiệp thọ trì khi gặp phải sanh thú thuận lợi thì trổ quả, có một số thiện nghiệp thọ trì khi gặp phải sanh y thuận lợi thì trổ quả, có một số thiện nghiệp thọ trì khi gặp phải thời kỳ thuận lợi thì trổ quả, có một số thiện nghiệp thọ trì khi gặp phải hành vi thuận lợi thì trổ quả.
Trí tuệ nào là sự hiểu biết… (trùng)… vô si, trạch pháp, chánh kiến trong các nghiệp đó, đây là như thật trí của Ðức Như Lai hiểu quả dị thục của các nghiệp thọ trì thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại theo nguyên nhân.
[841] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ NHƯ THẬT TRÍ CỦA ÐỨC NHƯ LAI HIỂU HÀNH LỘ DẪN ÐẾN MỌI SANH THÚ?
Ở đây, Ðức Như Lai biết rõ con đường này, hành lộ này dẫn đến địa ngục; biết rõ con đường này, hành lộ này dẫn đến bàng sanh; biết rõ con đường này, hành lộ này dẫn đến ngạ quỷ; biết rõ con đường này, hành lộ này dẫn đến cõi người; biết rõ con đường này, hành lộ này dẫn đến cõi trời; biết rõ con đường này, hành lộ này dẫn đến Níp Bàn.
Trí tuệ nào là sự hiểu biết… (trùng)… vô si, trạch pháp, chánh kiến trong các hành lộ đó. Ðây là như thật trí của Ðức Như Lai biết hành lộ dẫn đến mọi sanh thú.
[842] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ NHƯ THẬT TRÍ CỦA ÐỨC NHƯ LAI HIỂU THẾ GIAN ÐA DẠNG BẢN CHẤT, DỊ BIỆT BẢN CHẤT?
Ở đây, Ðức Như Lai biết rõ uẩn dị biệt, biết rõ xứ dị biệt, biết rõ giới dị biệt, biết rõ thế gian đa dạng bản chất, dị biệt bản chất.
Trí tuệ nào là sự hiểu biết… (trùng)… vô si, trạch pháp, chánh kiến trong sự dị biệt đó. Ðây gọi là như thật trí của Ðức Như Lai hiểu thế gian đa dạng bản chất, dị biệt bản chất.
[843] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ NHƯ THẬT TRÍ CỦA ÐỨC NHƯ LAI HIỂU KHUYNH HƯỚNG DỊ BIỆT CỦA CHÚNG SANH?
Ở đây, Ðức Như Lai biết rõ có những chúng sanh khuynh hướng hạ liệt, có những chúng sanh khuynh hướng cao thượng; các chúng sanh có khuynh hướng hạ liệt thường giao thiệp, cộng tác, hầu cận với những chúng sanh có khuynh hướng hạ liệt, còn những chúng sanh có khuynh hướng cao thượng hay giao thiệp, cộng tác, hầu cận với những chúng sanh có khuynh hướng cao thượng.
Trong thời quá khứ cũng thế, các chúng sanh có khuynh hướng hạ liệt thường giao thiệp, cộng tác, hầu cận với những chúng sanh có khuynh hướng hạ liệt, còn những chúng sanh có khuynh hướng cao thượng hay giao thiệp, cộng tác, hầu cận với những chúng sanh có khuynh hướng cao thượng.
Trong thời vị lai cũng vậy, các chúng sanh có khuynh hướng hạ liệt thường giao thiệp, cộng tác, hầu cận với những chúng sanh có khuynh hướng hạ liệt, còn những chúng sanh có khuynh hướng cao thượng hay giao thiệp, cộng tác, hầu cận với những chúng sanh có khuynh hướng cao thượng.
Trí tuệ nào là sự hiểu biết… (trùng)… vô si, trạch pháp, chánh kiến trong các khuynh hướng đó. Ðây gọi là như thật trí của Ðức Như Lai hiểu khuynh hướng dị biệt của chúng sanh.
[844] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ NHƯ THẬT TRÍ CỦA ÐỨC NHƯ LAI HIỂU THƯỢNG HẠ CĂN[5] CỦA CHÚNG SANH KHÁC CỦA NGƯỜI KHÁC?
Ở đây, Ðức Như Lai biết rõ sở chấp của chúng sanh; biết rõ tiềm miên; biết rõ sở hành; biết rõ khuynh hướng; biết rõ chúng sanh ít trần lao, nhiều trần lao, lợi căn, độn căn, thiện hành tướng, ác hành tướng, dị giáo hóa, nan giáo hóa, hữu phần, vô phần.
SỞ CHẤP[6] CỦA CHÚNG SANH LÀ THẾ NÀO?
Là các chúng sanh chấp theo hữu kiến (bhavadiṭṭhi) hoặc phi hữu kiến (vibhavaditthi) như vầy, cho rằng: “thế gian tồn tại” hay thế gian không tồn tại “thế gian hữu biên” hay “thế gian vô biên” hay “linh hồn là đó thể xác là đó” hay “linh hồn là khác thể xác là khác” hay “Như Lai[7] còn sau khi chết” hay “Như Lai không còn sau khi chết” hay “Như Lai còn cũng không còn sau khi chết” hoặc giả mà có được tín ngưỡng hợp lý hoặc có sự hiểu như thật về các pháp duyên khởi y tương sinh. Ðây gọi là sở chấp của chúng sanh.
TIỀM MIÊN (ANUSAYA) CỦA CHÚNG SANH LÀ THẾ NÀO?
Là bảy pháp tiềm miên như dục ái tiềm miên, phẩn uất tiềm miên, ngã mạn tiềm miên, tà kiến tiềm miên, hoài nghi tiềm miên, hữu ái tiềm miên, vô minh tiềm miên.
Ở đời, chỗ mà sắc khả ái, sắc khả hỷ thì ở đây ái tiềm miên ngủ ngầm theo chúng sanh tại đấy. Ở đời, chỗ mà sắc bất khả ái, sắc bất khả hỷ thì ở đấy phẫn uất tiềm miên ngủ ngầm theo chúng sanh. Như thế thì vô minh xảy ra nơi hai pháp này; về ngã mạn, tà kiến và hoài nghi thì nên hiểu cũng là sanh chung với vô minh ấy. Ðây gọi là tiềm miên của chúng sanh.
SỞ HÀNH (carita) CỦA CHÚNG SANH LÀ THẾ NÀO?
Là phúc hành, phi phúc hành, bất động hành thuộc địa vức hy thiểu hay địa vức đáo đại. Ðây là sở hành của chúng sanh.
KHUYNH HƯỚNG (adhimutta) CỦA CHÚNG SANH LÀ THẾ NÀO?
Là có những chúng sanh khuynh hướng hạ liệt, có những chúng sanh có khuynh hướng cao thượng; các chúng sanh có khuynh hướng hạ liệt thường giao thiệp, cộng tác, hầu cận với những chúng sanh có khuynh hướng hạ liệt, còn những chúng sanh có khuynh hướng cao thượng hay giao thiệp, cộng tác, hầu cận với những chúng sanh có khuynh hướng cao thượng.
Trong thời quá khứ cũng thế, các chúng sanh có khuynh hướng hạ liệt thường giao thiệp, cộng tác, hầu cận với những chúng sanh có khuynh hướng hạ liệt, còn những chúng sanh có khuynh hướng cao thượng hay giao thiệp, cộng tác, hầu cận với những chúng sanh có khuynh hướng cao thượng.
Trong thời vị lai cũng vậy, các chúng sanh có khuynh hướng hạ liệt thường giao thiệp, cộng tác, hầu cận với những chúng sanh có khuynh hướng hạ liệt, còn những chúng sanh có khuynh hướng cao thượng hay giao thiệp, cộng tác, hầu cận với những chúng sanh có khuynh hướng cao thượng.
CÁC CHÚNG SANH NHIỀU TRẦN (mahārajakkha) LAO ẤY LÀ THẾ NÀO?
Mười món phiền não như tham, sân, si, ngã mạn, tà kiến, hoài nghi, hôn trầm, phóng dật, vô tàm và vô quý; đối với những chúng sanh nào có mười thứ phiền não này được cấu kết, được phát triển, được phát tấn, được phát huy. Ðây gọi là các chúng sanh ấy có nhiều trần lao.
CÁC CHÚNG SANH ÍT TRẦN LAO (apparajakkha) ẤY LÀ THẾ NÀO?
Ðối với những chúng sanh nào mà mười món phiền não này không được cấu kết, không được phát triển, không được phát tấn, không được phát huy. Ðây gọi là chúng sanh ấy ít trần lao.
NHỮNG CHÚNG SANH ÐỘI CĂN (mudindriya) ẤY LÀ THẾ NÀO?
Có năm quyền (indriya) là tín quyền, tấn quyền, niệm quyền, định quyền và tuệ quyền; đối với những chúng sanh nào mà năm quyền này không được cấu kết, không được phát triển, không được phát tấn, không được phát huy. Ðây gọi là những chúng sanh ấy độn căn.
NHỮNG CHÚNG SANH LỢI CĂN (Tikkhindriya) ẤY LÀ THẾ NÀO?
Ðối với những chúng sanh nào mà năm quyền này được cấu kết, được phát triển, được phát tấn, được phát huy. Ðây gọi là những chúng sanh ấy lợi căn.
CÁC CHÚNG SANH CÓ ÁC HÀNH TƯỚNG (dvākāra) ẤY LÀ THẾ NÀO?
Phàm những chúng sanh nào có sở chấp xấu, tiềm miên xấu, sở hành xấu, khuynh hướng xấu, nhiều trần lao, độn căn. Ðây gọi là những chúng sanh có ác hành tướng.
CÁC CHÚNG SANH CÓ THIỆN HÀNH TƯỚNG (dvākāra) ẤY LÀ THẾ NÀO?
Phàm những chúng sanh nào có sở chấp tốt, sở hành tốt, khuynh hướng tốt, ít trần lao, lợi căn. Ðây gọi là những chúng sanh ấy có thiện hành tướng.
CÁC CHÚNG SANH NAN GIÁO HÓA (dūvinnāpaya) ẤY LÀ THẾ NÀO?
Phàm những chúng sanh nào có ác hành tướng thì những chúng sanh ấy nan giáo hóa.
Còn những chúng sanh nào có thiện hành tướng, chính những chúng sanh ấy dị giáo hóa.
CÁC CHÚNG SANH VÔ PHẦN (abhabba) ẤY LÀ THẾ NÀO?
Phàm những chúng sanh nào bị nghiệp chướng, bị phiền não chướng, bị quả báo chướng, không có niềm tin, không có ước vọng, thiểu trí, không khả năng dự vào phần chánh cố định trong các thiện pháp. Ðây gọi là những chúng sanh ấy vô phần.
CÁC CHÚNG SANH HỮU PHẦN (bhabba) ẤY LÀ THẾ NÀO?
Phàm những chúng sanh nào không bị nghiệp chướng, không bị quả chướng, có đức tin, có ước vọng, có trí tuệ, có khả năng dự vào phần chánh cố định trong các thiện pháp. Ðây gọi là những chúng sanh ấy hữu phần.
Trí tuệ nào là sự hiểu biết… (trùng)… vô si, trạch pháp, chánh kiến trong các sự đó. Ðây là như thật trí của Ðức Như Lai biết thượng hạ căn của chúng sanh của người khác.
[845] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ NHƯ THẬT TRÍ CỦA ÐỨC NHƯ LAI HIỂU SỰ Ô NHIỄM, SỰ THANH TỊNH, SỰ XUẤT LY[8] CỦA THIỀN, GIẢI THOÁT, ÐỊNH VÀ NHẬP ÐỊNH?
Nói rằng “thiền giả”, có bốn hạng thiền giả như có số thiền giả nhận định khi có đắc cho rằng không đắc, có số thiền giả nhận định khi không đắc cho là có đắc, có số thiền giả nhận định khi có đắc cho là có đắc, có số thiền giả nhận định khi không đắc cho là không đắc. Ðây là bốn hạng thiền giả.
Lại có bốn hạng thiền giả khác, như có số thiền giả thiện xảo tâm định[9] trong pháp định mà không thiện xảo nhập thiền[10] trong pháp định, có số thiền giả thiện xảo nhập thiền trong pháp định mà không thiện xảo tâm định trong pháp định, có số thiền giả thiện xảo định trong pháp định cũng thiện xảo nhập thiền trong pháp định, có số thiền giả thiện xảo tâm định trong pháp định cũng không thiện xảo nhập định trong pháp định. Ðây là bốn hạng thiền giả.
Nói rằng “thiền”, có bốn loại thiền là Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền.
Nói rằng “giải thoát”, có tám sự giải thoát như là hành giả hữu sắc thấy rõ các sắc, đây là sự giải thoát thứ nhất; hành giả vô sắc tưởng nội phần thấy rõ các sắc ngoại phần, đây là sự giải thoát thứ hai; vị có khuynh hướng rằng tịnh hảo, đây là sự giải thoát thứ ba; do vượt qua hoàn toàn các sắc tưởng, dập tắt chướng ngại tưởng, không tác ý dị biệt tưởng, nhận rằng “hư không không cùng tột”, vị ấy chứng và trú không vô biên xứ, đây là giải thoát thứ tư; sau khi vượt qua hoàn toàn không vô biên xứ, nhận rằng: “thức tâm không cùng tột”, vị ấy chứng và trú thức vô biên xứ, đây là sự giải thoát thứ năm; sau khi hoàn toàn vượt qua thức vô biên xứ, nhận rằng “không có chi cả” vị ấy chứng và trú Vô sở hữu xứ, đây là sự giải thoát thứ sáu; sau khi vượt qua hoàn toàn Vô sở hữu xứ, vị ấy chứng và trú phi tưởng phi phi tưởng xứ, đây là sự giải thoát thứ bảy; sau khi vượt qua hoàn toàn phi tưởng phi phi tưởng xứ, vị ấy chứng và trú thiền diệt thọ tưởng; đây là sự giải thoát thứ tám.
Nói rằng “định”, có ba loại định tức là định hữu tầm hữu tứ, định vô tầm hữu tứ, định vô tầm vô tứ[11].
Nói rằng “nhập định”, có chín thứ đệ trú nhập định tức là nhập định Sơ thiền, nhập định Nhị thiền, nhập định Tam thiền, nhập định Tứ thiền, nhập định Không vô biên xứ, nhập định Thức vô biên xứ, nhập định Vô sở hữu xứ, nhập định Phi tưởng phi phi tưởng xứ, nhập định Diệt thọ tưởng.
Nói rằng “sự ô nhiễm”, tức là pháp thuộc phần thối thất.
Nói rằng “sự thanh tịnh”, tức là pháp thuộc phần thù thắng.
Nói rằng “sự xuất ly”, tức là sự trong sạch cũng gọi là xuất ly, mà sự xuất khỏi định nào đó cũng gọi là xuất ly.
Trí tuệ nào là sự hiểu biết… (trùng)… vô si, trạch pháp, chánh kiến trong mọi pháp đó. Ðây gọi là như thật trí của Ðức Như Lai biết sự ô nhiễm, sự thanh tịnh, sự xuất ly trong thiền, giải thoát, định và nhập định.
[846] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ NHƯ THẬT TRÍ CỦA ÐỨC NHƯ LAI VỀ TÚC MẠNG KÝ ỨC[12]?
Ở đây, Ðức Như Lai nhớ lại đa dạng tiền kiếp như sau: một kiếp, hai kiếp, ba kiếp, bốn kiếp, năm kiếp, mười kiếp, hai mươi kiếp, ba mươi kiếp, bốn mươi kiếp, một trăm kiếp, một ngàn kiếp, trăm ngàn kiếp, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều thành hoại kiếp, nhớ trong kiếp đó ta có tên như vậy, có họ như vậy, có dòng dõi như vậy, có vật thực như vậy, có cảm thọ lạc khổ như vậy, có giới hạn tuổi thọ như vậy; rồi từ kiếp ấy chết đã sanh lại chỗ kia, tại đấy ta có tên như vậy, có họ như vậy, có dòng dõi như vậy, có vật thực như vậy, có cảm thọ lạc khổ như vậy, có giới hạn tuổi thọ như vậy; và từ đó chết sanh lại ở đây… Ngài nhớ lại đa dạng tiền kiếp với nét đại cương và chi tiết như thế. Trí tuệ nào là sự hiểu biết… (trùng)… vô si, trạch pháp, chánh kiến trong việc đó. Ðây là như thật trí của Ðức Như Lai về túc mạng ký ức.
[847] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ NHƯ THẬT TRÍ CỦA ÐỨC NHƯ LAI VỀ SỰ SANH TỬ[13] CỦA CÁC CHÚNG SANH?
Ở đây, Ðức Như Lai với thiên nhãn thanh tịnh siêu nhân, Ngài thấy rõ các chúng sanh đang tử đang sanh, hiểu rõ các chúng sanh đạt đến hèn hạ, cao sang, đẹp sắc, xâu sắc, thiện thú, ác thú là tùy theo hạnh nghiệp, rằng: Những chúng sanh trưởng thành này hiệp thân ác hạnh, hiệp khẩu ác hạnh, hiệp ý ác hạnh, phỉ báng các Thánh Nhơn, có tà kiến, chấp hành nghiệp tà kiến, những chúng sanh ấy khi thân hoại mệnh chung hằng sanh vào khổ cảnh, ác thú, đọa xứ, địa ngục; hoặc giả những chúng sanh trưởng thành này hiệp thân thiện hạnh, hiệp khẩu thiện hạnh, hiệp ý thiện hạnh, không phỉ báng các Thánh Nhơn, có chánh kiến, chấp hành nghiệp chánh kiến, thì những chúng sanh ấy khi thân hoại mệnh chung hằg sanh về thiện thú, thiên giới; Ðức Như Lai với thiên nhãn thanh tịnh siêu nhân, Ngài thấy rõ chúng sanh đang tử đang sanh, Ngài hiểu rõ chúng sanh đạt đến hèn hạ, cao sang, đẹp sắc, xâu sắc, thiện thú, ác thú tùy theo hạnh nghiệp như thế.
Trí tuệ nào là sự hiểu biết… (trùng)… vô si, trạch pháp, chánh kiến trong sự kiện đó. Ðây là như thật trí của Ðức Như Lai về sự sanh tử của chúng sanh.
[848] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ NHƯ THẬT TRÍ CỦA ÐỨC NHƯ LAI VỀ SỰ ÐOẠN TẬN CÁC LẬU HOẶC[14]?
Ở đây, Ðức Như Lai do đoạn tận các lậu hoặc, ngay trong hiện tại tự mình thắng tri Vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát, sau khi chứng đạt Ngài an trú.
Trí tuệ nào là sự hiểu biết… (trùng)… vô si, trạch pháp, chánh kiến trong sự kiện đó. Ðây là như thật trí của Ðức Như Lai về sự đoạn tận các lậu hoặc.
Trí tông theo mười loại là như vậy.
TRỌN VẸN TRÍ PHÂN TÍCH
[1] Thức nương vật sinh tồn (uppannavatthukā) tức là thức có sắc vật làm chỗ để nương sanh; hay là thức nương sắc vật là pháp sanh tồn.
[2] Thức biết cảnh sinh tồn (Uppannārammanā) tức là thức có cảnh là chổ nương sanh; hay là thức biết đặng cảnh là pháp sinh tồn.
[3] Vipacati: Chín muồi trổ quả.
[4] Āgamma: đạt đến, gặp phải.
[5] Indriyaparopariyatta.
[6] Āsaya
[7] Như Lai (Tathāgata) “đi đến giống như trước, người trước như thế nào thì người đến sau cũng thế ấy”. Danh từ này chỉ cho hai nghĩa:
a) Ðức Phật (Bậc Toàn Giác như bao nhiêu vị Toàn Giác quá khứ).
b) Chúng sanh (loài có ngủ uẩn vận hành như từ xưa và mãi mãi). Ở đoạn này, danh từ NHƯ LAI chỉ cho “chúng sanh” chớ không chỉ riêng về Ðức Phật.
[8] Ô nhiễm – Sankilesa, thanh tịnh – Vodana, xuất ly – Vutthāna.
[9] Samādhikusalo: Thiện xảo tâm định. Hành giả rành mạch về chi thiền.
[10] Samāpattikusalo: Thiện xảo nhập thiền. Hành giả thông thạo về cách thức nhập định.
[11] Thiền tầng theo Vi diệu Pháp có năm là Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền và Ngũ thiền Sắc giới, vô sắc giới. Ở đây, định hữu tầm hữu tứ (savitakka–savicāro samādhi) là chỉ cho định Sơ thiền; Ðịnh vô tầm hữu tứ (avitakkavicāramatto samādhi) là chỉ cho định Nhị thiền; Ðịnh vô tầm vô tứ (avitakka–avicāro samādhi) là loại định từ Tam thiền trở lên.
[12] Cutūpapāta.
[13] Pubbenivāsānussati.
[14] Asavakkaya.
TIỂU TÔNG PHÂN TÍCH (Khuddakavatthuvibhanga)
ÐẦU ÐỀ
PHẦN MỘT CHI (Ekamātikā).
[849] Kiêu hãnh sanh chủng, kiêu hãnh họ tộc. Kiêu hãnh sức khỏe. Kiêu hãnh thanh niên. Kiêu hãnh đời sống. Kiêu hãnh lợi lộc. Kiêu hãnh sự lễ kính. Kiêu hãnh sự trọng vọng. Kiêu hãnh sự tôn vinh. Kiêu hãnh về tùy tùng. Kiêu hãnh về tài sản. Kiêu hãnh về dung sắc. Kiêu hãnh về học vấn. Kiêu hãnh về biện tài. Kiêu hãnh về bậc lão thành. Kiêu hãnh về khất thực. Kiêu hãnh về danh dự. Kiêu hãnh về oai nghi. Kiêu hãnh về thần thông. Kiêu hãnh về danh tiếng. Kiêu hãnh về giới hạnh. Kiêu hãnh về thiền chứng. Kiêu hãnh về nghề nghiệp. Kiêu hãnh về tài cao. Kiêu hãnh về tính khoáng đạt. Kiêu hãnh về địa vị. Kiêu hãnh về sự sung túc. Sự kiêu hãnh, sự dễ duôi, sự cương ngạnh, sự đấu tranh, sự ham muốn thái quá, đa dục, ác dục, sự nham hiểm, sự siểm nịnh, tánh chưng diện, thiếu phong cách. Bất mãn. Tiêu cực. Bực mình. Say thực. Tâm lười. Sự lừa đảo. Sự nịnh hót. Sự ám chỉ. Sự lờn khinh, sự lấy lợi câu lợi, sự ỷ mình hơn, sự ỷ mình bằng, sự ỷ mình thua. Sự hơn ỷ hơn, sự hơn ỷ bằng, sự hơn ỷ thua. Sự bằng ỷ hơn, sự bằng ỷ bằng, sự bằng ỷ thua. Sự thua ỷ hơn, sự thu ỷ bằng, sự thua ỷ thua. Kiêu mạn, quá mạn, mạn quá mạn, ti mạn, tăng thượng mạn, ngã sở mạn, tà chấp mạn. Sự nghĩ tưởng quyến thuộc. Sự nghĩ tưởng quê hương. Sự nghĩ tưởng huyền thoại. Sự nghĩ tưởng liên hệ ái tha nhân. Sự nghĩ tưởng liên hệ lợi đắc, lễ kính, danh vọng. Sự nghĩ tưởng liên hệ danh dự.
ÐẦU ÐỀ PHẦN HAI CHI (Dukamātikā)
[850] Sân hận và oán hận, quỉ quyệt và hiểm độc, ganh tỵ và bỏn xẻn, xảo trá và lường gạt, vô minh và hữu ái, hữu kiến và phi hữu kiến, thường kiến và đoạn kiến, hữu biên kiến và vô biên kiến. Tiền biên kiến và hậu biên kiến, vô tàm và vô quý, nan giáo và hữu ác hữu, không chánh trực và không nhu mì, không nhẫn nại và không nghiêm tịnh, không cam ngôn và không hậu đãi, không phòng hộ môn quyền và không tiết độ ẩm thực, thất niệm và thiếu tỉnh giác, giới hoại và kiến hoại. Nội triền và ngoại triền.
ÐẦU ÐỀ PHẦN BA CHI (Tikamātikā)
[851] BA BẤT THIỆN CĂN. Ba bất thiện tầm. Ba bất thiện tưởng. Ba bất thiện giới. Ba ác hạnh. Ba lậu hoặc. Ba triền phược. Ba ái tham. Ba ái tham khác. Ba ái tham khác nữa. Ba tầm cầu. Ba tỷ giáo. Ba hiểm nạn. Ba ám muội. Ba thuyết ngoại giáo. Ba chướng ngại. Ba cấu uế. Ba trần cấu. Ba bất bình. Ba bất bình khác nữa. Ba thứ lửa. ba khuyết tật. Ba khuyết tật khác. Hỷ lạc kiến, ngã chấp kiến và tà kiến. Bất mãn, não hại và hạnh phi pháp. Khó dạy, có bạn ác và tưởng dị biệt. Phóng dật, lười biếng và dễ duôi. Không tri túc, thiếu tỉnh giác và đa dục. Vô tàm, vô úyvà khinh suất. Bất cần, nan giáo và hữu ác hữu. Không tín ngưỡng, không hào phóng và giải đãi. Phóng dật, bất thu thúc và ác giới. Không muốn thấy bậc Thánh, không muốn nghe Chánh Pháp, có tâm cật vấn. Thất niệm, bất tỉnh giác và tán loạn tâm. Không khéo tác ý, hành tà đạo và tâm biếng nhác.
ÐẦU ÐỀ PHẦN BỐN CHI (Catukkamātikā)
[852] BỐN LẬU. Bốn phược. Bốn bộc. Bốn phối. Bốn thủ. Bốn ái sanh. bốn sự thiên vị. Bốn sự điên đảo. Bốn phi thánh ngôn. Bốn phi thánh ngôn khác nữa. Bốn ác hạnh. Bốn ác hạnh khác nữa. Bốn hiểm nạn. Bốn hiểm nạn khác. Bốn hiểm nạn khác. Bốn hiểm nạn khác nữa. Bốn quan kiến.
ÐẦU ÐỀ PHẦN NĂM CHI (Pañcakamātikā)
[853] Năm hạ phần phiền phược. Năm thượng phần phiền phược. Năm sự bỏn xẻn. Năm hệ lụy. Năm mũi tên. Năm tâm hoang vu. Năm nhiểm trước tâm. năm triền cái. Năm nghiệp vô gián. Năm quan kiến. Năm oan trái. Năm suy thoái. Năm khổ quả không kham nhẫn. Năm hiểm nạn. Năm luận chấp Níp Bàn hiện tại.
ÐẦU ÐỀ PHẦN SÁU CHI (Chakkamātikā)
[854] SÁU GỐC LUẬN TRANH. Sáu dục ái thế tục pháp. Sáu vi nghịch sự. Sáu thân ái. Sáu sự bất kính. Sáu pháp suy thoái. Sáu pháp suy thoái khác. Sáu hỷ vấn vương. Sáu ưu vấn vương. Sáu xả vấn vương. Sáu hỷ thế tục. Sáu ưu thế tục. Sáu xả thế tục. Sáu quan kiến.
ÐẦU ÐỀ PHẦN BẢY CHI (Sattakamātikā)
[855] BẢY TIỀM MIÊN. Bảy đột khởi. Bảy triền phược. Bảy phi diệu pháp. Bảy ác hạnh. Bảy mạn. Bảy quan kiến.
ÐẦU ÐỀ PHẦN TÁM CHI (Aṭṭhakamātikā)
[856] Tám PHIỀN NÃO SỰ. Tám giải đãi sự. Phản ứng tâm với tám thế pháp. Tám phi Thánh ngôn. Tám tà tánh. Tám lỗi bị cáo. Tám vô tưởng luận. Tám phi tưởng phi phi tưởng luận.
ÐẦU ÐỀ PHẦN CHÍN CHI (Navakamātikā)
[857] Chín hiềm khích sự. Chín trần cấu nhơn. Chín cách ngã mạn. Chín pháp ái căn. Chín chiều hướng. Chín hoang tưởng. Chín loạn tưởng. Chín hý tưởng. Chín hành tưởng.
ÐẦU ÐỀ PHẦN MUỜI CHI (Dasakamātikā)
[858] MUỜI PHIỀN NÃO SỰ. Muời hiềm khích sự. Muời bất thiện nghiệp đồ. Mười triền phược. Mười tà tánh. Mười tông tà kiến. Mười tông kết luận kiến.
ÐẦU ÐỀ PHẦN MƯỜI TÁM CHI (Aṭṭhārasakamātikā)
[859] MƯỜI TÁM ÁI DU NƯƠNG NỘI UẨN. Mười tám ái du nương ngoại uẩn. Tổng cộng gồm chung lại thành ba mươi sáu ái du.
Ba mươi sáu ái du như thế với ba mươi sáu ái du vị lai và ba mươi sáu ái du hiện tại, tổng cộng gồm chung lại thành một trăm lẻ tám ái du; là sáu mươi hai tà kiến mà được Ðức Thế Tôn nói đến trong bài kinh Phạm Võng (Brahmajāla).
DỨT PHẦN ÐẦU ÐỀ
XIỂN MINH
PHẦN MỘT CHI (Ekakaniddesa)
[860] TRONG PHẦN ẤY THẾ NÀO LÀ KIÊU HÃNH SANH CHỦNG (JĀTI)?
Dựa vào sanh chủng mà có sự kiêu căng, thái độ kiêu căng, tính cách kiêu căng, có sự ngã mạn, thái độ ngã mạn, tính cách ngã mạn, có sự hống hách, hãnh diện, cao kỳ [1], tự đề cao, sự mở cờ[2] trong tâm. Ðây gọi là kiêu hãnh sanh chủng.
[861] TRONG PHẦN ẤY, THẾ NÀO LÀ KIÊU HÃNH HỌ TỘC (GOTTA)?
Dựa vào dòng họ… (trùng)…
THẾ NÀO LÀ KIÊU HÃNH SỨC KHỎE (ĀROGYA)?
Dựa vào sự vô bệnh… (trùng)…
THẾ NÀO LÀ SỰ KIÊU HÃNH THANH NIÊN (YOBBANA)?
Dựa vào tuổi trẻ trung… (trùng)…
THẾ NÀO LÀ KIÊU HÃNH ÐỜI SỐNG (JĪVITA)?
Dựa vào sức sống… (trùng)…
THẾ NÀO LÀ KIÊU HÃNH LỢI LỘC (LĀBHA)?
Dựa vào lợi lộc… (trùng)…
THẾ NÀO LÀ KIÊU HÃNH SỰ LỄ KÍNH (SAKKĀRA)?
Dựa vào sự lễ kính… (trùng)…
THẾ NÀO LÀ KIÊU HÃNH SỰ TRỌNG VỌNG (GARUKĀRA)?
Dựa vào sự trọng vọng… (trùng)…
THẾ NÀO LÀ KIÊU HÃNH SỰ TÔN VINH (PUREKKHĀRA)?
Dựa vào sự tôn vinh… (trùng)…
THẾ NÀO LÀ KIÊU HÃNH TÙY TÙNG (PARIVĀRA)?
Dựa vào nhóm tùy tùng… (trùng)…
THẾ NÀO LÀ KIÊU HÃNH TÀI SẢN (BHOGA)?
Dựa vào tài sản… (trùng)…
THẾ NÀO LÀ KIÊU HÃNH DUNG SẮC (VAṆṆA)?
Dựa vào dung sắc… (trùng)…
THẾ NÀO LÀ KIÊU HÃNH HỌC VẤN (SUTTA)?
Dựa vào sự học vấn… (trùng)…
THẾ NÀO LÀ KIÊU HÃNH BIỆN TÀI (PATIBHĀNA)?
Dựa vào sự biện tài… (trùng)…
THẾ NÀO LÀ KIÊU HÃNH BẬC LÃO THÀNH (RATTAÑÑŪ)?
Dựa vào tư cách lão thành… (trùng)…
THẾ NÀO LÀ KIÊU HÃNH HẠNH KHẤT THỰC (PIṆḌAPĀTIKATTA)?
Dựa vào phẩm hạnh khất thực… (trùng)…
THẾ NÀO LÀ KIÊU HÃNH DANH DỰ (ANAVANNATTI)?
Dựa vào sự không bị khinh rẻ… (trùng)…
THẾ NÀO LÀ KIÊU HÃNH OAI NGHI (IRIYĀPATHA)?
Dựa vào cách oai nghi… (trùng)…
THẾ NÀO LÀ KIÊU HÃNH THẦN THÔNG (IDDHI)?
Dựa vào thần thông… (trùng)…
THẾ NÀO LÀ KIÊU HÃNH DANH TIẾNG (YASA)?
Dựa vào thanh danh… (trùng)…
THẾ NÀO LÀ KIÊU HÃNH GIỚI HẠNH (SĪLA)?
Dựa vào giới hạnh… (trùng)…
THẾ NÀO LÀ KIÊU HÃNH THIỀN CHỨNG (JHĀNA)?
Dựa vào thiền định… (trùng)…
THẾ NÀO LÀ KIÊU HÃNH NGHỀ NGHIỆP (SIPPA)?
Dựa vào nghề nghiệp… (trùng)…
THẾ NÀO LÀ KIÊU HÃNH TÀI CAO (ĀROHA)?
Dựa vào tài cao… (trùng)…
THẾ NÀO LÀ KIÊU HÃNH TÍNH KHOÁNG ÐẠT (PARINĀHA)?
Dựa vào tính cởi mở… (trùng)…
THẾ NÀO LÀ KIÊU HÃNH ÐỊA VỊ (SANTHĀNA)?
Dựa vào địa vị… (trùng)…
THẾ NÀO LÀ KIÊU HÃNH SỰ SUNG TÚC (PĀRIPŪRI)?
Dựa vào sự đầy đủ mà có sự kiêu căng, thái độ kiêu căng, tính cách kiêu căng, có sự ngã mạn, thái độ ngã mạn, tính cách ngã mạn, có sự hống hách, hãnh diện, cao kỳ, tự đề cao, sự mở cờ trong tâm. Ðây gọi là kiêu hãnh sự sung túc.
[862] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ KIÊU HÃNH (MADA)?
Sự kiêu căng, thái độ kiêu căng, tính cách kiêu căng, sự ngã mạn, thái độ ngã mạn, tính cách ngã mạn, sự hống hách, sự hãnh diện, cao kỳ, tự đề cao, như mở cờ trong tâm. Ðây gọi là kiêu hãnh.
[863] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ SỰ DỄ DUÔI (PAMĀDA)?
Sự buông thả tâm, sự mặc tâm buông thả theo thân ác hạnh hay khẩu ác hạnh hay ý ác hạnh hay năm dục dật hệ[3]; hoặc là đối với sự tu tiến các thiện pháp không cẩn thận làm, không hoan hỷ làm, không ưa thích làm, thái độ tiêu cực, để qua ước vọng, để qua phận sự, không năng hành, không phát tiển, không phát tấn, không thiết tha, không nỗ lực, giải đải, sự kiện nào là sự hưởn đải, thái độ hưởn đải, tính cách hưởn đải như vậy. Ðây gọi là sự dễ duôi.
[864] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ SỰ CƯƠNG NGẠNH (THAMBHA)?
Chi là sự cứng cỏi, thái độ cứng cỏi, tính cách cứng cỏi, bướng bỉnh, lố bịch, thẳng tánh, không nhu mì. Ðây gọi là sự cương ngạnh.
[865] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ SỰ ÐẤU TRANH (SĀRAMBHA)?
Chi là sự tranh đua, sự tranh hơn, thái độ tranh đua, thái độ tranh hơn, tính cách tranh giành. Ðây gọi là sự đấu tranh.
[866] TRONG KHI ẤY, THẾ NÀO LÀ SỰ HAM MUỐN THÁI QUÁ (ATICCHATĀ)?
Ðối với người không cùng tri túc, có thái độ ham muốn nhiều thêm về thứ này thứ kia như y phục, vật thực, sàng tọa, dược phẩm hoặc năm dục dật hệ. Sự mong muốn, thái độ mong muốn, tính cách rất mong muốn, tham lam, tham đắm… (trùng)… nhiểm đắm của tâm như vậy đó. Ðây gọi là sự ham muốn thái quá.
[867] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ SỰ ÐA DỤC (MAHICCHATĀ)?
Ðối với người không tri túc, có thái độ muốn nhiều thêm về thứ này thứ kia như y phục, vật thực, sàng tọa, dược phẩm hoặc năm dục dật hệ. Sự mong muốn, thái độ mong muốn, tính cách rất mong muốn lớn lao, tham lam, tham đắm… (trùng)… nhiểm đắm của tâm như vậy đó. Ðây gọi là sự đa dục.
[868] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ ÁI DỤC (PĀPICCHATĀ)?
Ở đây, có số người không có đức tin mà muốn rằng mọi người hãy biết đến ta là bậc đức tin. Họ ác giới mà muốn rằng mọi người hãy biết đến ta là bậc giới hạnh. Họ thiểu học mà muốn rằng mọi người hãy biết đến ta là bậc đa văn. Họ thích tụ tập mà muốn rằng mọi người hãy biết đến ta là bậc viễn ly. Họ lười biếng mà muốn rằng mọi người hãy biết đến ta là bậc chuyên cần. Họ thất niệm mà muốn rằng mọi người hãy biết đến ta là bậc trú niệm. Họ không định tỉnh mà muốn rằng mọi người hãy biết đến ta là bậc định tỉnh. Họ thiếu trí tuệ mà muốn rằng mọi người hãy biết đến ta là bậc trí tuệ. Họ chưa đoạn lậu mà muốn rằng mọi người hãy biết đến ta là bậc đã đoạn lậu. Sự mong muốn, thái độ mong muốn, tính cách rất mong muốn xấu xa, tham lam, tham đắm… (trùng)… nhiểm đắm của tâm như thế đó. Gọi là ác dục.
[869] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ SỰ NHAM HIỂM (SINGA)?
Sự mánh lới, sự mánh khóe, thái độ đóng kịch, tính cách giả vờ, tính cách quỷ quyệt, tính cách khôn lanh. Ðây gọi là nham hiểm.
[870] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ SỰ SIỂM NỊNH (TINTINA)?
Sự ton hót, thái độ ton hót, tính cách ton hót, sự tham lợi, thái độ tham lợi, tính cách tham lợi, hạ mình, muốn được vật tốt. Ðây gọi là siểm nịnh.
[871] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ CHƯNG DIỆN (CĀPALYA)?
Sự chung dọn y phục, sự chưng dọn bình bát, chưng dọn trú xứ, chưng dọn thân trược này hay các vật phụ thuộc ngoại thân, sự trang sức, sự vui chơi, nô đùa, sự khêu gợi, tính cách khêu gợi, sự sửa sang, thái độ sửa sang. Ðây gọi là chưng diện.
[872] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ SỰ THIẾU PHONG CÁCH (ASABHĀGAVUTTI)?
Lập trường chống đối, thái độ phản đối, tính bất cần, thái độ bất cần, thái độ bất kính, thái độ bất tuân đối với mẹ hoặc đối với cha, đối với người trưởng, với anh, với thầy dạy, với thầy tiếp độ, với Ðức Phật, với các bậc Thinh Văn, hay đối với các vị nào địa vị đáng trọng. Ðây gọi là thiếu phong cách
[873] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ SỰ BẤT MÃN (ARATI)?
Sự không vui mừng, không vui thích, không hân hoan, không hoan hỷ, ngao ngán, buồn chán trong những trú xứ vắng vẻ hoặc với một tối thiện pháp nào. Ðây gọi là sự bất mãn.
[874] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ TIÊU CỰC (TANDI)?
Sự uể oải, thái độ lừ đừ, tình trạng mệt mỏi, sự lười nhác, thái độ biếng nhác, tình trạng biếng lười. Ðây gọi là sự tiêu cực.
[875] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ SỰ BỰC MÌNH (VIJAMBHIKĀ)?
Thân có sự rắm rức, bực bội cúi mình, ngã mình, uốn mình, vặn mình, thân bịnh hoạn. Ðây gọi là sự bực mình.
[876] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ SỰ SAY THỰC (BHATTASAMMADA)?
Người ăn xong có sự bần thần do vật thực, mệt mỏi do vật thực, nóng nảy do vật thực, nặng nhọc thân thể. Ðây gọi là say thực.
[877] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ TÂM LƯỜI (CETASOLĪNATTAṂ)?
Tâm có sự không mạnh dạn, không thích nghi, sụt sè, co rút, lui sụt, thái độ lui sụt, tình trạng lui sụt, tâm hôn trầm, có thái độ hôn trầm, có tình trạng hôn trầm. Ðây gọi là tâm lười.
[878] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ SỰ LỪA ÐẢO (KUHANĀ)?
Ðối với người ham muốn đê tiện, mong mỏi xấu xa, hám theo lợi lộc lễ kính danh tiếng, mới có sự giữ oai nghi, lập oai nghi, chú trọng oai nghi bằng cách bảo rằng thọ dụng vật lễ hay bằng cách nói quanh co, sự chau mày, sự nhăn nhó, sự dối gạt, thái độ dối gạt, tính cách dối gạt. Ðây gọi là sự lừa đảo.
[879] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ SỰ NỊNH HÓT (LAPANĀ)?
Ðối với người ham muốn đê tiện, mong mỏi xấu xa, hám theo lợi lộc lễ kính danh tiếng mới có sự xưng tụng người khác, gọi mời, ton hót, bợ đỡ, tâng bốc, xu nịnh, siểm nịnh, khen tặng, tán thán, nói trìu mến, nói gợi cảm, nói ngọt bùi[4], hay là cách lãnh nuôi trẻ. Ðây gọi là sự nịnh hót.
[880] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ SỰ ÁM CHỈ (NEMITTIKATĀ)?
Ðối với người ham muốn đê tiện, mong mỏi xấu xa, hám theo lợi lộc lễ kính danh tiếng, mới có sự ra đấu, sự hành động như ra dấu, nói chuyện, hành động như nói chuyện, nói quanh quẩn, nói khóe cạnh. Ðây gọi là sự ám chỉ.
[881] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ SỰ LỜN KHINH (NIPPESIKATĀ)?
Ðối với người ham muốn đê tiện, mong mỏi xấu xa, hám theo lợi lộc lễ kính danh tiếng, mới mắng nhiếc kẻ khác, xỉ vã, chê trách, chỉ lỗi, kết tội, nhạo báng, chế giễu, lăng mạ, xuyên tạc, biếm nhẽ, chê sau lưng. Ðây gọi là sự lờn khinh.
[882] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ SỰ LẤY LỢI CÂU LỢI (LĀBHENA LĀBHAM JIGIMSANATĀ)?
Người ham muốn đê tiện, mong mỏi xấu xa, hám theo lợi lộc lễ kính danh tiếng, được tài lộc chỗ này mang đến chỗ kia hay được tài lộc chỗ kia mang lại chỗ này; sự tìm kiếm tài lộc bằng tài lộc, tham cầu, tầm cầu, ước vọng, tham vọng, tưởng vọng cách như thế đó. Ðây gọi là sự lấy lợi câu lợi.
[883] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ SỰ Ỷ MÌNH HƠN (SEYYOHAMASMĪ’TI MĀNO)?
Ở đây, có kẻ ưa so đo bằng một sự nào đó như do chủng sanh hoặc do họ tộc, do là con nhà gia thế, do vang danh thiên hạ, do tài sản, do tri thức, do nghiệp vụ, do tài nghề, do nghệ thuật, do học vấn hay do biện bác; sự ngã mạn, thái độ ngã mạn, tính cách ngã mạn, sự hống hách, sự hãnh diện, sự cao kỳ, sự tự cao, mở cờ trong tâm cách như thế đó. Ðây gọi là sự ỷ mình hơn.
[884] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ SỰ Ỷ MÌNH BẰNG (SADISOHAMASMĪ’TI MĀNO)?
Ở đây, có kẻ ưa so đo bằng một sự nào đó như do chủng sanh hoặc do họ tộc, do là con nhà gia thế, do vang danh thiên hạ, do tài sản, do tri thức, do nghiệp vụ, do tài nghề, do nghệ thuật, do học vấn hay do biện bác; sự ngã mạn, thái độ ngã mạn, tính cách ngã mạn, sự hống hách, sự hãnh diện, sự cao kỳ, sự tự cao, mở cờ trong tâm cách như thế đó. Ðây gọi là sự ỷ mình bằng.
[885] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ SỰ Ỷ MÌNH THUA (HĪNOHAMASMĪ’TI MĀNO)?
Ở đây, có kẻ tự ti bằng một sự nào đó như do sanh chủng hoặc do họ tộc, do là con nhà gia thế, do danh vang thiên hạ, do tài sản, do tri thức, do nghiệp vụ, do tài nghề, do nghệ thuật, do học vấn, do biện bác; sự tự ti, thái độ ti mạn, sự mặc cảm, thái độ mặc cảm, tính cách mặc cảm, tính tự hạ mình, tính tự khinh khi, tính tự miệt thị cách như thế đó. Ðây gọi là sự ỷ mình thua.
[886] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ SỰ HƠN Ỷ MÌNH HƠN (SEYYASSA SEYYOHAMASMĪ’TI MĀNO)?
Ở đây, có kẻ được hơn người nhận cho mình hơn hẳn người khác về một sự nào đó như về chủng sanh hoặc về họ tộc, về con nhà gia thế, về vang danh thiên hạ, về tài sản, về tri thức, về nghiệp vụ, về tài nghề, về nghệ thuật, về học vấn, về biện bác; nó ưa ngã mạn dựa vào lẽ ấy. Sự ngã mạn, thái độ ngã mạn, tính cách ngã mạn, sự hống hách, sự hãnh diện, sự cao kỳ, sự tự cao, mở cờ trong tâm cách như thế đó. Ðây gọi là sự hơn ỷ mình hơn.
[887] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ SỰ HƠN Ỷ MÌNH BẰNG (SEYYASSA SADISOHAMASMĪ’TI MĀNO)?
Ở đây, có kẻ được hơn người lại nhận cho mình bằng với người khác về một sự nào đó như về chủng sanh hoặc về họ tộc, về con nhà gia thế, về vang danh thiên hạ, về tài sản, về tri thức, về nghiệp vụ, về tài nghề, về nghệ thuật, về học vấn, về biện bác; nó ưa ngã mạn dựa vào lẽ ấy. Sự ngã mạn, thái độ ngã mạn, tính cách ngã mạn, sự hống hách, sự hãnh diện, sự cao kỳ, sự tự cao, mở cờ trong tâm cách như thế đó. Ðây gọi là sự hơn ỷ mình bằng.
[888] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ SỰ HƠN Ỷ MÌNH THUA (SEYYASSA HĪNOHAMASMĪ’TI MĀNO)?
Ở đây, có kẻ hơn người lại tự nhận cho mình thua sút người khác về một sự nào đó như về chủng sanh hoặc về họ tộc, về con nhà gia thế, về vang danh thiên hạ, về tài sản, về tri thức, về nghiệp vụ, về tài nghề, về nghệ thuật, về học vấn, về biện bác; nó ưa tự ti dựa vào lẽ ấy. Sự tự ti, thái độ ti mạn, tính cách ti mạn, sự mặc cảm, thái độ mặc cảm, tính cách mặc cảm, tính tự hạ mình, tính tự khinh khi, tính tự miệt thị cách như thế đó. Ðây gọi là sự hơn ỷ mình thua.
[889] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ SỰ BẰNG Ỷ MÌNH HƠN (SADISASSA SEYYOHAMASMĪ’TI MĀNO)?
Ở đây, có kẻ bằng người lại nhận cho mình là hơn người khác về một sự nào đó như về chủng sanh hoặc về họ tộc, về con nhà gia thế… (trùng)… nó ưa ngã mạn dựa vào lẽ ấy. Sự ngã mạn, thái độ ngã mạn, tính cách ngã mạn, sự hống hách, sự hãnh diện, sự cao kỳ, sự tự cao, mở cờ trong tâm cách như thế đó. Ðây gọi là sự bằng ỷ mình hơn.
[890] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ SỰ BẰNG Ỷ MÌNH BẰNG (SADISASSA SADISOHAMASMĪ’TI MĀNO)?
Ở đây, có kẻ bằng người nhận cho mình là bằng người khác về một sự nào đó như về chủng sanh hoặc về họ tộc, về con nhà gia thế… (trùng)… nó ưa sự ngã mạn dựa vào lẽ ấy; sự ngã mạn, thái độ ngã mạn, tính cách ngã mạn, sự hống hách, sự hãnh diện, sự cao kỳ, sự tự cao, mở cờ trong tâm cách như thế đó. Ðây gọi là sự bằng ỷ mình bằng.
[891] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ SỰ BẰNG Ỷ MÌNH THUA (SADISASSA HĪNOHAMASMĪ’TI MĀNO)?
Ở đây, có kẻ bằng người lại nhận cho mình là thua sút người khác về một sự nào đó như về chủng sanh hoặc về họ tộc, về con nhà gia thế… (trùng)… nó ưa tự ti dựa vào lẽ ấy; sự tự ti, thái độ ti mạn, tính cách ti mạn, sự mặc cảm, thái độ mặc cảm, tính cách mặc cảm, tính tự hạ mình, tính tự khinh khi, tính tự miệt thị cách như thế đó. Ðây gọi là sự bằng ỷ mình thua.
[892] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ SỰ THUA Ỷ MÌNH HƠN (HĪNASSA SEYYOHAMASMĪ’TI MĀNO)?
Ở đây, có kẻ thua người lại nhận cho mình là hơn người khác về một sự nào đó như về chủng sanh hoặc về họ tộc, về con nhà gia thế… (trùng)… nó ưa ngã mạn dựa vào lẽ ấy; sự ngã mạn, thái độ ngã mạn, tính cách ngã mạn, sự hống hách, sự hãnh diện, sự cao kỳ, sự tự cao, mở cờ trong tâm cách như thế đó. Ðây gọi là sự thua ỷ mình hơn.
[893] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ SỰ THUA Ỷ MÌNH BẰNG (HĪNASSA SADISOHAMASMĪ’TI MĀNO)?
Ở đây, có kẻ thua người lại nhận cho mình là hơn người khác về một sự nào đó như về chủng sanh hoặc về họ tộc, về con nhà gia thế… (trùng)… nó ưa ngã mạn dựa vào lẽ ấy; sự ngã mạn, thái độ ngã mạn, tính cách ngã mạn, sự hống hách, sự hãnh diện, sự cao kỳ, sự tự cao, mở cờ trong tâm cách như thế đó. Ðây gọi là sự thua ỷ mình bằng.
[894] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ SỰ THUA Ỷ MÌNH THUA (HĪNASSA HĪNOHAMASMĪ’TI MĀNO)?
Ở đây, có kẻ thua người tự nhận cho mình là thua sút người khác về một sự nào đó như về chủng sanh hoặc về họ tộc, về con nhà gia thế… (trùng)… nó ưa tự ti dựa vào lẽ ấy; sự tự ti, thái độ ti mạn, tính cách ti mạn, sự mặc cảm, thái độ mặc cảm, tính cách mặc cảm, tính tự hạ mình, tính tự khinh khi, tính tự miệt thị cách như thế đó. Ðây gọi là sự thua ỷ mình thua.
[895] TRONG KHI ẤY, THẾ NÀO LÀ KIÊU MẠN (MĀNA)?
Chi là sự ngã mạn, thái độ ngã mạn, tính cách ngã mạn, sự hống hách, sự hãnh diện, sự cao kỳ, sự tự cao, sự mở cờ trong tâm. Ðây gọi là sự ngã mạn.
[896] TRONG KHI ẤY, THẾ NÀO LÀ QUÁ MẠN (ATIMĀNA)?
Ở đây, có kẻ khinh khi người khác do một sự nào đó như do chủng sanh hoặc do họ tộc, do là con nhà gia thế… (trùng)… sự ngã mạn, thái độ ngã mạn, tính cách ngã mạn, sự hống hách, sự hãnh diện, sự cao kỳ, sự tự cao, mở cờ trong tâm cách như thế đó. Ðây gọi là quá mạn.
[897] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ MẠN QUÁ MẠN (MĀNĀTIMĀNA)?
Ở đây, có kẻ lúc đầu nhận cho mình là bằng người khác, về sau lại nhận cho mình hơn người khác, không chịu nhận thua người khác về con nhà gia thế… (trùng)… sự ngã mạn, thái độ ngã mạn, tính cách ngã mạn, sự hống hách, sự hãnh diện, sự cao kỳ, sự tự cao, mở cờ trong tâm cách như thế đó. Ðây gọi là mạn quá mạn.
[898] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ TI MẠN (OMĀNA)?
Ở đây, có kẻ ưa tự ti do một sự nào đó như do sanh chủng hoặc do họ tộc, do là con nhà gia thế, do vang danh thiên hạ, do tài sản, do tri thức, do nghiệp vụ, do tài nghề, do nghệ thuật, do học vấn, do biện bác; sự tự ti, thái độ tự ti, tính cách tư ti, sự mặc cảm, thái độ mặc cảm, tính cách mặc cảm, tính tự hạ mình, tính tự khinh khi, tính tự miệt thị cách như thế đó. Ðây gọi là ti mạn.
[899] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ TĂNG THƯỢNG MẠN (ADHIMĀNA)?
Chưa đạt đến ngộ nhận đã đạt đến, chưa hành trọn ngộ nhận đã hành trọn, chưa đắc được ngộ nhận đã đắc được, chưa chứng ngộ ngộ nhận đã chứng ngộ; sự ngã mạn, thái độ ngã mạn, tính cách ngã mạn, sự hống hách, sự hãnh diện, sự cao kỳ, sự tự cao, mở cờ trong tâm cách như thế đó. Ðây gọi là tăng thượng mạn.
[900] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ NGÃ SỞ MẠN (ASMIMĀNA)?
Ðối với sắc, tâm đắc rằng “ta là”, hoài vọng rằng “ta là”, ngầm ý rằng “ta là”; đối với thọ… (trùng)… đối với tưởng… (trùng)… đối với hành… (trùng)… đối với thức, tâm đắc rằng “ta là”, hoài vọng rằng “ta là”, ngầm ý rằng “ta là”. Sự ngã mạn, thái độ ngã mạn, tính cách ngã mạn, sự hống hách, sự hãnh diện, sự cao kỳ, sự tự cao, mở cờ trong tâm cách như thế đó. Ðây gọi là ngã sở mạn.
[901] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ TÀ CHẤP MẠN (MICCHĀMĀNA)?
Ở đây, có kẻ ưa ngã mạn vì một sự nào đó như về nghiệp vụ xấu xa, hoặc là vì tài nghề xấu xa, hoặc vì nghệ thuật xấu xa, hoặc là vì học vấn xấu xa, hoặc vì biện bác xấu xa, hoặc vì giới hạnh xấu xa, hoặc vì hạnh tu xấu xa, hoặc vì cấm giới chấp xấu xa, hoặc vì kiến thức xấu xa; sự ngã mạn, thái độ ngã mạn, tính cách ngã mạn, sự hống hách, sự hãnh diện, sự cao kỳ, sự tự cao, mở cờ trong tâm cách như thế đó. Ðây gọi là tà chấp mạn.
[902] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ SỰ NGHĨ TƯỞNG QUYẾN THUỘC (NĀTIVITAKKA)?
Sự tơ tưởng trần tục nhớ đến các người thân, sự nghĩ ngợi… (trùng)… tà tư duy. Ðây gọi là sự nghĩ tưởng quyến thuộc.
[903] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ SỰ NGHĨ TƯỞNG QUÊ HƯƠNG (JANAPADAVITAKKA)?
Sự tơ tưởng trần tục nhớ đến xứ sở, sự nghĩ ngợi… (trùng)… tà tư duy. Ðây gọi là sự nghĩ tưởng quê hương.
[904] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ SỰ NGHĨ TƯỞNG HUYỀN THOẠI (AMARAVITAKKA)?
Sự tơ tưởng trần tục liên quan khổ hạnh hay liên quan tà kiến, sự nghĩ ngợi… (trùng)… tà tư duy. Ðây gọi là sự nghĩ tưởng huyền thoại.
[905] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ SỰ NGHĨ TƯỞNG LIÊN HỆ ÁI THA NHÂN (PARĀNUDA YATĀPATISAMYUTTO VITAKKO)?
Ở đây, có một số vị sống chung chạ cư sĩ, đồng vui, đồng buồn, khi họ an lạc thì an lạc, khi họ đau khổ thì đau khổ, khi khởi lên hữu sự thì tự mình lo giúp sức; trong việc đó, sự tơ tưởng thế tục, sự nghĩ ngợi… (trùng)… tà tư duy. Ðây gọi là sự nghĩ tưởng liên hệ ái tha nhân.
[906] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ SỰ NGHĨ TƯỞNG LIÊN HỆ LỢI LỘC LỄ KÍNH DANH VỌNG (LĀBHASAKKĀRASILOKAPATISAMYUTTO VITAKKO)?
Sự tơ tưởng trần tục nhắm đến lợi lộc, lễ kính, danh tiếng, sự nghĩ ngợi… (trùng)… tà tư duy. Ðây gọi là sự nghĩ tưởng liên hệ lợi lộc lễ kính danh vọng.
[907] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ SỰ NGHĨ TƯỞNG LIÊN HỆ DANH DỰ (ANAVANNATTI PATISAMYUTTO VITAKKO)?
Ở đây, có kẽ nghĩ rằng “mong người khác đừng khinh khi ta về một sự nào đó như về chủng sanh hoặc về họ tộc, về con nhà gia thế, về danh vang thiên hạ, về tài sản, về tri thức, về nghiệp vụ, về tài nghệ, về nghệ thuật, về học vấn, về biện bác; sự tơ tưởng trần tục trong việc ấy, sự nghĩ ngợi… (trùng)… tà tư duy. Ðây gọi là sự nghĩ tưởng liên hệ danh dự.
XIỂN MINH PHẦN HAI CHI (Dukaniddesa)
[908] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ SỰ SÂN GIẬN (KODHA)?
Chi là sự nóng giận, thái độ nóng giận, tính cách nóng giận, sự sân hận, thái độ sân hận, tính cách sân hận, sự độc ác, thái độ độc ác, tính cách độc ác, sự chống đối, sự phản kháng, sự hung dữ, sự lỗ mãng, sự bất bình trong tâm. Ðây gọi là sự sân giận.
TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ SỰ OÁN HẬN (UPANĀHA)?
Trước là sân giận sau đến oán hận; chi là sự kết oán, thái độ kết oán, tính cách kết oán, sự lưu lại, giữ lại, duy trì, tích tụ, cột chặt, chấp cứng sân giận như vậy đó. Ðây gọi là sự oán giận.
[909] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ SỰ QUỸ QUYỆT (MAKKHA)?
Chi là sự quỷ quyệt, thái độ quỷ quyệt, tính cách quỷ quyệt, tư cách nhám nhúa, hành động nhám nhúa. Ðây gọi là sự quỷ quyệt.
TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ SỰ HIỂM ÐỘC (PALĀSA)?
Chi là sự ác hiểm, thái độ ác hiểm, tính cách ác hiểm, dẫn đến thù hiềm, nguyên nhân đấu tranh, tranh chấp, không cởi mở. Ðây gọi là sự hiểm độc.
[910] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ GANH TỴ (ISSĀ)?
Chi là sự ganh tỵ, tính cách ganh tỵ, thái độ ganh tỵ, sự ganh ghét, thái độ ganh ghét, tính cách ganh ghét đối với lợi lộc, lễ kính, trọng vọng, tôn vinh, đãnh lễ, cúng dường cho người khác. Ðây gọi là ganh tỵ.
TRONG ẤY THẾ NÀO LÀ BỎN XẺN (MACCHARIYA)?
Có năm sự bỏn xẻn là bỏn xẻn chỗ ở, bỏn sẻn gia tộc, bỏn xẻn lợi lộc, bỏn xẻn thanh danh, bỏn xẻn pháp; sự bỏn xẻn, tính cách bỏn xẻn, thái độ bỏn xẻn, sự bón rít, sự keo kiệt, sự hà tiện, sự không nhiếp tâm. Ðây gọi là bỏn xẻn.
[911] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ SỰ XẢO TRÁ (MĀYĀ)?
Ở đây, có kẻ sau khi hành thân ác hạnh, hành khẩu ác hạnh, hành ý ác hạnh có nguyện vọng xấu xa vì nhân che dấu ác hạnh ấy; nó muốn rằng “mong đừng ai biết ta”, nó suy nghĩ rằng “mong đừng ai biết ta”, nó nói rằng “mong đừng ai biết ta”, nó hành động rằng “mong đừng ai biết ta”, sự kiện nào như thế đó là sự quỷ quyệt, tính cách xảo quyệt, trá hình, lừa phỉnh, phỉnh gạt, giả vờ, dối quanh, dối trá, dối gạt, dấu diếm, che đậy, hành động tinh vi, hành động mờ ám, khỏa lấp, hành vi xấu. Ðây gọi là xảo trá.
TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ SỰ LƯỜNG GẠT (SĀTHEYYA)?
Ở đây, có kẻ là người xảo trá mưu mẹo; sự kiện này chi là sự xảo trá, thái độ xảo trá, tình trạng xảo trá, thái độ nhám nhúa, tính cánh nhám nhúa, thái độ quỷ quyệt, tính cách khôn lanh. Ðây gọi là sự lường gạt.
[912] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ VÔ MINH (AVIJJĀ)?
Chi là sự không biết, không thấy… (trùng)… vô minh then chốt, si mê, bất thiện căn. Ðây là vô minh.
TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ HỮU ÁI (BHAVATANHĀ)?
Ðối với các hữu, pháp chi là ước muốn trong hữu, tham luyến trong hữu, hoan hỷ trong hữu, ái tham trong hữu, quyến luyến trong hữu, nôn nóng trong hữu, mê mẫn trong hữu, đắm say trong hữu. Ðây gọi là ái hữu.
[913] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ HỮU KIẾN (BHAVADIṬṬHI)?
Như chấp rằng “bản ngã và thế gian sẽ có”; kiến nào như vậy là thiên kiến… (trùng)… nghịch chấp. Ðây gọi là hữu kiến.
TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ PHI HỮU KIẾN (VIBHAVADIṬṬHI)?
Như chấp rằng “bản ngã và thế gian sẽ không có”; kiến nào như vậy là thiên kiến… (trùng)… nghịch chấp. Ðây gọi là phi hữu kiến.
[914] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ THƯỜNG KIẾN (SASSATADIṬṬHI)?
Như chấp rằng “bản ngã và thế gian là trường tồn”; kiến nào như vậy là thiên kiến… (trùng)… nghịch chấp. Ðây gọi là thường kiến.
TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ ÐOẠN KIẾN (UCCHEDADIṬṬHI)?
Như chấp rằng “bản ngã và thế gian sẽ bị chấm dứt”; kiến nào như vậy là thiên kiến… (trùng)… nghịch chấp. Ðây gọi là đoạn kiến.
[915] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ HỮU BIÊN KIẾN (ANTAVĀDIṬṬHI)?
Như chấp rằng “bản ngã và thế gian sẽ có tột cùng”; kiến nào như vậy là thiên kiến… (trùng)… nghịch chấp. Ðây gọi là hữu biên kiến.
TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ VÔ BIÊN KIẾN (ANANTAVĀDIṬṬHI)?
Như chấp rằng “bản ngã và thế gian sẽ không cùng tột”; kiến nào như vậy là thiên kiến… (trùng)… nghịch chấp. Ðây gọi là vô biên kiến.
[916] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ TIỀN BIÊN KIẾN (PUBBANTĀNUDIṬṬHI)?
Kiến nào sanh khởi chấp vào trước kia có giới hạn, là thiên kiến… (trùng)… nghịch chấp. Ðây gọi là tiền biên kiến.
TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ HẬU BIÊN KIẾN (APARANTĀNUDIṬṬHI)?
Kiến nào phát sanh chấp vào sau này có giới hạn, là thiên kiến… (trùng)… nghịch chấp. Ðây gọi là hậu biên kiến.
[917] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ VÔ TÀM (AHIRIKA)?
Sự mà không hổ thẹn với điều đáng hổ thẹn, không hổ thẹn với việc phạm các ác bất thiện pháp. Ðây gọi là vô tàm.
TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ VÔ UÝ (ANOTTAPPA)?
Sự mà không sợ hãi đối với điều đáng sợ hãi, không sợ hãi với việc phạm các bất thiện pháp. Ðây gọi là vô uý.
[918] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ NAN GIÁO (DOVACASSATĀ)?
Là khi được nhắc nhở đúng pháp lại có sự khó dạy, thái độ khó dạy, tính cách khó dạy, lập trường chống đối, thái độ phản đối, tính cách bất cần, thái độ bất cần, thái độ bất kính, thái độ bất tuân. Ðây là nan giáo.
TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ HỮU ÁC HỮU (PĀPAMITTATĀ)?
Những hạng người nào vô tín ngưỡng, ác giới, thiểu học, bỏn xẻn, thiếu trí; sự mà giao du, giao hiếu, kết giao, cộng sự, cộng tác, thân thiện, tương thân, xu hướng theo những hạng người ấy. Ðây gọi là hữu ác hữu.
[919] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ KHÔNG CHÁNH TRỰC (ANĀJJAVA)?
Sự mà không ngay thẳng, thái độ không ngay thẳng, thái độ quanh co, thái độ co gấp, thái độ cong vẹo. Ðây gọi là sự không chánh trực.
TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ SỰ KHÔNG NHU MÌ (AMADDAVA)?
Chi là thái độ không mềm mại; thái độ không nhu nhuyễn, tính cách cứng rắn, tính cách thô bỉ, thái độ cứng cỏi, thái độ thô thiển, thái độ trực tánh, thái độ không nhu thuận. Ðậy gọi là không nhu mì.
[920] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ KHÔNG NHẪN NẠI (AKKHANTI)?
Sự mà chịu không nổi, không kham nổi, không nhịn được, sự hung dữ, sự không đẹp ý, sự không bằng lòng trong tâm. Ðây gọi là sự không nhẫn nại.
TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ SỰ KHÔNG NGHIÊM TỊNH (ASORACCAM)?
Như là thân hành quá đáng, khẩu hành quá đáng, thân khẩu hành quá đáng. Ðây gọi là không nghiêm tịnh. Tất cả thái độ ác giới cũng gọi là không nghiêm tịnh.
[921] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ KHÔNG CAM NGÔN (ASĀKHALYAṂ)?
Lời nói nào gai góc, gút mắc, châm chích kẻ khác, gay gắt kẻ khác, chọc giận kẻ khác, dẫn đến không yên tâm, sự nói lời như vậy, ở đây nói là ngôn ngữ không tế nhị, ngôn ngữ không thân mật, ngôn ngữ độc ác. Ðây là không cam ngôn.
TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ KHÔNG HẬU ÐÃI (APPATISANTHĀRO)?
Có hai sự tiếp đãi là tiếp đãi bằng vật chất và tiếp bằng pháp. Ở đây, có kẻ không tiếp đãi bằng sự tiếp đãi vật chất hoặc bằng sự tiếp đãi pháp. Ðây gọi là sự không hậu đãi.
[922] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ SỰ KHÔNG PHÒNG HỘ MÔN QUYỀN (INDRIYESU AGUTTADVĀRATĀ)?
Ở đây, có kẻ với mắt thấy sắc, chấp tướng chung chấp tướng riêng; do nhân nào mà sự tham ưu ác bất thiện pháp có thể xâm nhiễm người sống không thu thúc nhãn quyền, thì nó lại không phòng ngừa nhân ấy, không hộ trì nhãn quyền, thành ra không thu thúc nhãn quyền; với tai tiếng… (trùng)… với mũi ngửi mùi… (trùng)… với lưỡi nếm vị… (trùng)… với thân đụng chạm cảm xúc… (trùng)… với ý suy nghĩ cảnh pháp chấp tướng chung chấp tướng riêng, do nhân nào mà sự tham ưu ác bất thiện pháp lôi cuốn người sống không thu thúc ý quyền, thành ra không thu thúc ý quyền. Sự mà không giữ gìn sáu quyền này, không chăn giữ, không bảo vệ, không thu thúc. Ðây gọi là sự không phòng hộ môn quyền.
TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ SỰ KHÔNG TIẾT ÐỘ ẨM THỰC?
Ở đây, có kẻ không quán tưởng, không khéo nghĩ, nó dùng vật thực để nô đùa, để đam mê, để bồi dưỡng, để tô điểm; trong việc ấy sự mà không tri túc, không tiết độ, không quán tưởng trong vật thực. Ðây gọi là sự không tiết độ ẩm thực.
[923] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ THẤT NIỆM (MUTTHASACCA)?
Sự mà không niệm, không nhớ theo, không nhớ ra, không nhớ lấy, không nhớ được, tình trạng không ghi nhận, tình trạng lơ đễnh, tình trạng quên lãng. Ðây gọi là thất niệm.
TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ THIẾU TỈNH GIÁC (ASAMPAJAÑÑA)?
Sự mà không hiểu, không thấy… (trùng)… vô minh then chốt, si mê, bất thiện căn. Ðây gọi là thiếu tỉnh giác.
[924] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ GIỚI HOẠI (SĪLAVIPATTI)?
Như là thân hành quá đáng, khẩu hành quá đáng, thân khẩu hành quá đáng. Ðây gọi là giới hoại.
TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ KIẾN HOẠI (DIṬṬHIVIPATTI)?
Như chấp rằng “không có quả bố thí, không có quả cúng dường… (trùng)… đã tự mình chứng ngộ, thắng tri rồi tuyên bố về đời này và đời khác” kiến nào như vậy là thiên kiến… (trùng)… nghịch chấp. Ðây gọi là kiến hoại. Tất cả tà kiến cũng đều là kiến hoại.
[925] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ NỘI TRIỀN (AJJHATTAṂ SANNO-JANAṂ)?
Năm hạ phần kiết sử là nội triền.
Năm thượng phần kiết sử là ngoại triền.
XIỂN MINH PHẦN BA CHI (Tikaniddesa)
[926] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ BA BẤT THIỆN CĂN (AKUSALA-MŪLA)?
Tức là tham, sân, si.
Ở ÐÂY, THAM LÀ THẾ NÀO?
Chi là sự tham luyến, sự tham đắm, vương vấn, thỏa thích, vui thích, hỹ tham, tâm luyến tham, ham muốn, say mê, quyến luyến, ràng buộc, trói buộc, dính líu, nhiểm đắm, khát vọng, ảo vọng, sản sanh, xuất sanh, ái diệt, ái võng, ái hà, khát ái, ái thằng, ái tỏa lan, trữ tình, tình bậu bạn, cầu vọng, cầu sanh hữu, ái sâm lâm, ái mật lâm, thân ái, tình thương, lưu luyến, kết buộc, ước muốn, mong mỏi, thái độ mong mỏi, muốn sắc, muốn thinh, muốn hương, muốn vị, muốn xúc, muốn lợi lộc, muốn tài sản, muốn con cái, muốn sống, mộng ước, thái độ mộng ước, tham cầu, mơ mộng, thái độ mơ mộng, tính cách mơ mộng, tham muốn, thái độ tham muốn, tính cách tham muốn, mê mẫn, mong tốt, luyến phi pháp, tham bồng bột, tham vọng, ước vọng, hoài vọng, hoan lạc, vọng cầu, ái dục, hữu ái, phi hữu ái, ái sắc, ái vô sắc, ái đoạn diệt, sắc ái, thinh ái, hương ái, vị ái, xúc ái, pháp ái, bộc, phối, phược, thủ, chướng, cái mái che, ngục tù, tùy phiền não, tùy miên, xâm nhập, ái thừng, ích kỷ[5], cội khổ, nhân khổ, nguồn khổ, bẩy ma, lưỡi câu ma, ma cảnh, ái như sông, ái như lưới, ái như xích, ái như biển, tham ác, tham bất thiện căn. Ðây gọi là tham.
Ở ÐÂY, SÂN LÀ THẾ NÀO?
Sanh hiềm khích rằng “nó đã làm bất lợi cho ta”, sanh hiềm khích rằng “nó đang làm bất lợi cho ta”, sanh hiềm khích rằng “nó sẽ làm bất lợi cho ta, sanh hiềm khích rằng “nó đã làm bất lợi cho người thân, người thương của ta”, sanh hiềm khích rằng “nó đang làm bất lợi, sẽ làm bất lợi cho người thân, người thương của ta”, sanh hiềm khích rằng “nó đã làm lợi, đang làm lợi, sẽ làm lợi cho người ta không thân, không thương”, hoặc là sanh hiềm khích trong sự vô lý, pháp nào như vậy là sự hiềm khích của tâm, phẩn nộ, phản kháng, phản đối, giận dữ, giận hờn, tức giận, nóng nảy, ám hại, quyết ám hại, tâm sân độc, ý ám hại sự hiềm hận, tính cách hiềm hận, thái độ hiềm hận, sự hãm hại, tính cách hãm hại, thái độ hãm hại, sự sân độc, tính cách sân độc, thái độ sân độc, sự đối lập, phản kháng, hung dữ, lỗ mãng, sự bất bình của tâm. Ðây gọi là sân.
Ở ÐÂY, SI LÀ THẾ NÀO?
Sự bất tri khổ, bất tri tri khổ tập, bất tri khổ diệt, bất tri khổ diệt hành lộ, bất tri quá khứ, bất tri vị lai, bất tri quá khứ vị lai, bất tri duyên tánh liên quan tương sinh; pháp nào như vậy là sự không biết, không thấy… (trùng)… vô minh then chốt, si bất thiện căn. Ðây gọi là si.
Những pháp này là ba bất thiện căn.
[927] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ BA BẤT THIỆN TẦM (AKUSALA-VITAKKA)?
Tức là dục tầm, sân tầm và hại tầm.
Ở ÐÂY, DỤC TẦM LÀ THẾ NÀO?
Sự tơ tưởng liên hệ với dục, sự nghĩ ngợi… (trùng)… tà tư duy. Ðây gọi là dục tầm.
Ở ÐÂY, SÂN TẦM LÀ THẾ NÀO?
Sự tơ tưởng liên hệ với phẫn nộ, sự nghĩ ngợi… (trùng)… tà tư duy. Ðây gọi là sân tầm.
Ở ÐÂY, HẠI TẦM LÀ THẾ NÀO?
Sự tơ tưởng liên hệ với não hại, sự nghĩ ngợi… (trùng)… tà tư duy. Ðây gọi là hại tầm.
Những pháp này là ba bất thiện tầm.
[928] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ BA BẤT THIỆN TƯỞNG (AKUSALA-SAÑÑĀ)?
Tức là dục tưởng, sân tưởng và hại tưởng.
Ở ÐÂY, DỤC TƯỞNG LÀ THẾ NÀO?
Sự nhớ tưởng, tính cách nhớ đến, thái độ nhớ đến liên hệ với dục. Ðây là dục tưởng.
Ở ÐÂY, SÂN TƯỞNG LÀ THẾ NÀO?
Sự nhớ đến, tính cách nhớ đến, thái độ nhớ đến liên hệ với phẫn nộ. Ðây gọi là sân tưởng.
Ở ÐÂY, HẠI TƯỞNG LÀ THẾ NÀO?
Sự nhớ đến, tính cách nhớ đến, thái độ nhớ đến liên hệ với não hại. Ðây gọi là hại tưởng.
Những pháp này là ba bất thiện tưởng.
[929] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ BA BẤT THIỆN GIỚI (AKUSALA-DHĀTU)?
Tức là dục giới (kāmadhātu), sân giới và hại giới.
Ở ÐÂY, DỤC GIỚI LÀ THẾ NÀO?
Dục tầm là dục giới, sân tầm là sân giới, hại tầm là hại giới.
DỤC TẦM RA SAO? Sự tơ tưởng liên hệ với dục, sự nghĩ ngợi… (trùng)… tà tư duy. Ðây gọi là dục tầm.
SÂN TẦM RA SAO? Sự tơ tưởng liên hệ với phẫn nộ, sự nghĩ ngợi… (trùng)… tà tư duy. Ðây gọi là sân tầm.
HẠI TẦM RA SAO? Sự tơ tưởng liên hệ với não hại, sự nghĩ ngợi… (trùng)… tà tư duy. Ðây gọi là hại tầm.
Những pháp này là ba bất thiện giới.
[930] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ BA ÁC HẠNH (DUCCARITA)?
Tức là thân ác hạnh, khẩu ác hạnh và ý ác hạnh.
Ở ÐÂY, THÂN ÁC HẠNH LÀ THẾ NÀO?
Sự sát sanh, sự trộm vật chưa cho, sự tà hạnh trong dục lạc. Ðây gọi là thân ác hạnh.
Ở ÐÂY, KHẨU ÁC HẠNH LÀ THẾ NÀO?
Sự nói dối, sự nói lời đâm thọc, nói lời độc ác, nói chuyện phiếm. Ðây gọi là khẩu ác hạnh.
Ở ÐÂY, Ý ÁC HẠNH LÀ THẾ NÀO?
Tham ác, sân độc, tà kiến. Ðây gọi là ý ác hạnh.
Ở ÐÂY, THÂN ÁC HẠNH LÀ THẾ NÀO? Thân ngiệp bất thiện là thân ác hạnh; khẩu nghiệp bất thiện là khẩu ác hạnh; ý nghiệp bất thiện là ý ác hạnh.
Ở ÐÂY, THÂN NGHIỆP BẤT THIỆN RA SAO? Thân tư niệm bất thiện là thân nghiệp bất thiện; khẩu tư niệm bất thiện là khẩu nghiệp bất thiện; ý tư niệm bất thiện là ý nghiệp bất thiện.
Những pháp này là ba ác hạnh.
[931] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ BA LẬU HOẶC (ĀSAVA)?
Tức dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu.
Ở ÐÂY DỤC LẬU LÀ THẾ NÀO?
Pháp chi đối với các dục là ước muốn dục… (trùng)… mê luyến dục. Ðây gọi là dục lậu.
Ở ÐÂY, HỮU LẬU LÀ THẾ NÀO?
Pháp chi đối với các hữu là ước muốn hữu… (trùng)… mê luyến hữu. Ðây gọi là hữu lậu.
Ở ÐÂY, VÔ MINH LẬU LÀ THẾ NÀO?
Sự bất tri khổ… (trùng)… vô minh then chốt, si bất thiện căn. Ðây gọi là vô minh lậu.
Những pháp này là ba lậu hoặc.
[932] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ BA TRIỀN PHƯỢC (SAÑÑOJANA)?
Tức là thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ.
Ở ÐÂY, THÂN KIẾN LÀ THẾ NÀO?
Ở đây, có kẻ vô văn phàm phu không thấy các bậc Thánh, không hiểu pháp bậc Thánh, không tu tập trong pháp bậc Thánh, không thấy các bậc Chân Nhân, không hiểu pháp bậc Chân Nhân, không tu tập trong pháp bậc Chân Nhân, nên nhận thấy sắc là ta hay ta là sắc, hay trong ta có sắc hay trong sắc có ta; thấy thọ… (trùng)… thấy tưởng… (trùng)… thấy hành… (trùng)… thấy thức là ta hay ta là thức, hay trong ta có thức hay trong thức có ta; kiến nào như vậy là thiên kiến… (trùng)… nghịch chấp. Ðây gọi là thân kiến.
Ở ÐÂY, HOÀI NGHI LÀ THẾ NÀO?
Tức là nghi hoặc, ngờ vực Bậc Ðạo Sư, nghi hoặc ngờ vực Giáo Pháp, nghi hoặc ngờ vực Tăng Chúng, nghi hoặc ngờ vực Học giới, nghi hoặc ngờ vực quá khứ, nghi hoặc ngờ vực vị lai, nghi hoặc ngờ vực quá khứ vị lai, nghi hoặc ngờ vực pháp Duyên tánh liên quan Tương Sinh; sự kiện nào như vậy là sự do dự, tính cách do dự, thái độ do dự… (trùng)… tình trạng lay động của tâm, rồi ý. Ðây gọi là hoài nghi.
Ở ÐÂY, GIỚI CẤM THỦ LÀ THẾ NÀO?
Các Sa môn, Bà la môn ngoài Giáo Pháp này nghĩ rằng thanh tịnh nhờ giới, thanh tịnh nhờ hạnh tu, thanh tịnh nhờ giới cấm; kiến nào như vậy là thiên kiến… (trùng)… nghịch chấp. Ðây gọi là Giới cấm thủ.
Những Pháp này là ba triền phược
[933] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ BA ÁI (TANHĀ)?
Tức dục ái, hữu ái và phi hữu ái.
Ở ÐÂY, HỮU ÁI LÀ THẾ NÀO?
Sự tham luyến câu hành hữu kiến, sự tham đắm… (trùng)… tâm tham luyến. Ðây gọi là hữu ái.
Ở ÐÂY, PHI HỮU ÁI LÀ THẾ NÀO?
Sự tham đắm câu hành đoạn kiến, sự tham đắm… (trùng)… tâm luyến tham. Ðây gọi là phi hữu ái.
Ái ngoài ra là dục ái.
Ở ÐÂY, DỤC ÁI LÀ THẾ NÀO?
Tức là sự tham luyến liên hệ dục giới (kāmadhātupatisamyutta), sự tham đắm… (trùng)… tâm luyến tham. Ðây gọi là dục ái.
Sự tham luyến liên hệ sắc giới và vô sắc giới (rūpadhātuarūpadhātu–patisamyutta), sự tham đắm… (trùng)… tâm luyến tham. Ðây gọi là hữu ái.
Sự tham luyến câu hành đoạn kiến, sự tham đắm… (trùng)…. Ðây gọi là phi hữu ái.
Những pháp này là ba ái.
[934] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ BA ÁI (TANHĀ) KHÁC NỮA?
Tức dục ái, sắc ái và vô sắc ái.
Ở ÐÂY, DỤC ÁI LÀ THẾ NÀO?
Sự tham luyến liên hệ dục giới, sự tham đắm… (trùng)… tâm luyến tham. Ðây gọi là dục ái.
Ở ÐÂY, SẮC ÁI LÀ THẾ NÀO?
Tức là sự tham luyến liên hệ sắc giới, sự tham đắm… (trùng)… tâm luyến tham. Ðây gọi là sắc ái.
Ở ÐÂY, VÔ SẮC ÁI LÀ THẾ NÀO?
Sự tham luyến liên hệ vô sắc giới, sự tham đắm… (trùng)… tâm luyến tham. Ðây gọi là vô sắc ái.
Những pháp này là ba ái.
[935] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ BA ÁI (TANHĀ) KHÁC NỮA?
Tức là sắc ái, vô sắc ái và đoạn diệt ái.
Ở ÐÂY, SẮC ÁI LÀ THẾ NÀO?
Sự tham luyến liên hệ sắc giới, sự tham đắm… (trùng)… tâm luyến tham. Ðây gọi là sắc ái.
Ở ÐÂY, VÔ SẮC ÁI LÀ THẾ NÀO?
Sự tham luyến liên hệ vô sắc giới, sự tham đắm… (trùng)… tâm luyến tham. Ðây gọi là vô sắc ái.
Ở ÐÂY, ÐOẠN DIỆT ÁI LÀ THẾ NÀO?
Sự tham luyến câu hành đoạn kiến, sự tham đắm… (trùng)… tâm luyến tham. Ðây gọi là đoạn diệt ái.
Những pháp này là ba ái.
[936] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ BA TẦM CẦU? (ESANĀ)?
Tức dục cầu, hữu cầu và phạm hạnh cầu.
Ở ÐÂY, DỤC CẦU LÀ THẾ NÀO?
Ðối với các dục, chỉ là sự ước muốn dục… (trùng)… mê luyến dục. Ðây gọi là dục cầu.
Ở ÐÂY, HỮU CẦU LÀ THẾ NÀO?
Ðối với các hữu, chỉ là sự ước muốn hữu… (trùng)… mê luyến hữu. Ðây gọi là hữu cầu.
Ở ÐÂY, PHẠM HẠNH CẦU LÀ THẾ NÀO?
Như chấp rằng: “thế gian là thường còn” hay “thế gian không thường còn”… (trùng)… hay “Như lai không còn cũng không phải không còn sau khi chết”; kiến nào như vậy là thiên kiến… (trùng)… nghịch chấp. Ðây gọi là phạm hạnh cầu.
Ở ÐÂY, DỤC CẦU LÀ THẾ NÀO?
Thân nghiệp, khầu nghiệp, ý nghiệp bất thiện chung qui tham luyến các dục. Ðây gọi là dục cầu.
Ở ÐÂY, HỮU CẦU LÀ THẾ NÀO?
Thân nghiệp, khầu nghiệp, ý nghiệp bất thiện chung qui tham luyến các hữu. Ðây gọi là hữu cầu. Còn thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý ngiệp bất thiện chung qui kiến biên chấp (antaggāhikādītthi)
Những pháp này là ba tầm cầu.
[937] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ BA TỶ GIẢO CÁCH (VIDHĀ)?
Tức là cách so sánh “ta hơn”, cách so sánh “ta bằng”, cách so sánh “ta thua”. Ðây là ba tỷ giảo cách.
[938] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ BA HIỂM NẠN (BHAYA)?
Tức hiểm nạn sanh, hiểm nạn già, hiển nạn chết.
Ở ÐÂY, HIỂM NẠN SANH LÀ THẾ NÀO?
Sự sợ hãi, kinh hoàng, khiếp đảm, lông tóc dựng ngược, tâm hoảng hốt vì sự sanh. Ðây gọi là hiểm nạn sanh.
Ở ÐÂY, HIỂM NẠN GIÀ LÀ THẾ NÀO?
Sự sợ hãi kinh hoàng, khiếp đảm, lông tóc dựng ngược, tâm hoảng hốt vì sự già. Ðây gọi là hiểm nạn già.
Ở ÐÂY, HIỂM NẠN CHẾT LÀ THẾ NÀO?
Sự sợ hãi, kinh hoàng, khiếp đảm, lông tóc dựng ngược, tâm hoảng hốt vì sự chết. Ðây gọi là hiểm nạn chết.
[939] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ ÁM MUỘI (TAMA)?
Là dựa vào thời quá khứ, ngờ vực, hoài nghi, không quyết tin, không tin tưởng. Dựa vào thời vị lai, ngờ vực, hoài nghi, không quyết tin, không tin tưởng. Dựa vào thời hiện tại, ngờ vực, hoài nghi, không quyết tin, không tin tưởng. Ðây là ba ám muội.
[940] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ BA THUYẾT NGOẠI GIÁO (TITTHĀYATANA)?
Ở đây, có một số Sa môn, Bà la môn luận thuyết như vầy, tri kiến như vầy, là “phàm con người cảm thọ lạc hoặc khổ hoặc phi khổ phi lạc, tất cả điều ấy đều do nhân tố kiếp trước”.
Ở đây, lại có một số Sa môn, Bà la môn luận thuyết như vầy, tri kiến như vầy, là “phàm con người cảm thọ lạc hoặc khổ hoặc phi khổ phi lạc, tất cả điều ấy đều do quyền năng tạo hóa”.
Ở đây, lại có một số Sa môn, Bà la môn luận thuyết như vầy, tri kiến như vầy, là “phàm con người cảm thọ lạc hoặc khổ, hoặc phi khổ phi lạc, tất cả điều ấy đều không do nhân không do duyên”.
Ðây là ba thuyết ngoại giáo.
[941] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ BA CHƯỚNG NGẠI (KIÑCANA) ?
Tức là tham chướng ngại, sân chướng ngại và si chướng ngại. Ðây là ba chướng ngại.
[942] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ BA CẤU UẾ (ANGANA)?
Tức là tham cấu uế, sân cấu uế và si cấu uế. Ðây là ba cấu uế.
[943] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ BA TRẦN CẤU (MALA)?
Tức là tham trần cấu, sân trần cấu và si trần cấu. Ðây là ba trần cấu.
[944] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ BA BẤT BÌNH (VISAMA)?
Tức là tham bất bình, sân bất bình và si bất bình. Ðây là ba bất bình.
[945] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ BA BẤT BÌNH (VISAMA) KHÁC NỮA?
Tức là thân bất bình, khẩu bất bình và ý bất bình. Ðây là ba bất bình.
[946] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ BA NGỌN LỬA (AGGI)?
Tức là lửa tham, lửa sân, lửa si. Ðây gọi là ba ngọn lửa.
[947] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ BA KHUYẾT TẬT (KASĀVA)?
Tức khuyết tật tham, khuyết tật sân, khuyết tật si. Ðây là ba khuyết tật.
[948] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ BA KHUYẾT TẬT (KASĀVA) KHÁC NỮA?
Tức khuyết tật thân, khuyết tật khẩu, khuyết tật ý. Ðây là ba khuyết tật.
[949] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ HỶ LẠC KIẾN (ASSĀDADIṬṬHI)?
Ở đây, lại có một số Sa môn, Bà la môn luận thuyết như vầy, tri kiến như vầy, là “không có tội lỗi trong dục lạc”, rồi họ sa ngã vào các dục lạc. Ðây gọi là hỷ lạc kiến.
TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ NGÃ CHẤP KIẾN (ATTĀNUDIṬṬHI)?
Ở đây, có kẻ vô văn phàm phu không thấy các bậc Thánh, không hiểu pháp bậc Thánh, không tu tập trong pháp bậc Thánh, không thấy các bậc Chân Nhân, không hiểu pháp bậc Chân Nhân, không tu tập trong pháp bậc Chân Nhân, nên nhận thấy sắc là ta hay ta là sắc, hay trong ta có sắc, hay trong sắc có ta; thấy thọ… (trùng)… thấy tưởng… (trùng)… thấy hành… (trùng)… thấy thức là ta hay ta là thức, hay trong ta có thức hay trong thức có ta. Kiến nào như vậy là thiên kiến… (trùng)… nghịch chấp. Ðây là ngã kiến chấp.
TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ TÀ KIẾN (MICCHĀDIṬṬHI)?
Chấp rằng “Không có quả bố thí, không có quả cúng dường… (trùng)… tự mình thắng tri chứng ngộ và tuyên thuyết về đời này và đời sau”, kiến nào như vậy là thiên kiến… (trùng)… nghịch chấp. Ðây gọi là tà kiến.
Thường kiến là hỷ lạc kiến, thân kiến là ngã chấp kiến. Ðoạn kiến là tà kiến.
[950] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ BẤT MÃN (ARATI)?
Sự không vui mừng, không vui thích, không hân hoan, không hoan hỷ, ngao ngán, buồn chán trong những trú xứ vắng vẻ hoặc với một tối thiện pháp nào đó. Ðây gọi là bất mãn.
TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ SỰ NÃO HẠI (VIHESĀ)?
Ở đây, có người nhiểu hại các chúng sanh bằng một cách nào như bằng tay, bằng cục đất, bằng đao kiếm, bằng dây trói, sự nào như vậy là sự nhiểu nhương, nhiểu hại, hảm hiếp, hảm hại, kích nộ, khiêu khích, đả thương người khác. Ðây gọi là sự não hại.
TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ HẠNH PHI PHÁP (ADHAMMACARIYA)?
Sự thực hành phi pháp, thực hành bồng bột bằng thân, sự thực hành phi pháp, thực hành bồng bột bằng khẩu, sự thực hành phi pháp, thực hành bồng bột bằng ý. Ðây là hạng phi pháp.
[951] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ SỰ KHÓ DẠY (DOVACASSATĀ)?
Là khi được nhắc nhở đúng pháp lại có sự khó dạy, thái độ khó dạy, tính cách khó dạy, lập trường chống đối, thái độ phản đối, tính cách bất cần, thái độ bất kể, thái độ bất kính, thái độ bất tuân. Ðây gọi là sự khó dạy.
TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ CÓ BẠN ÁC (PĀPAMITTATĀ)?
Những người nào vô tín ngưỡng, ác giới, thiểu học, bỏn xẻn, thiếu trí. Sự mà giao du, giao hiếu, kết giao, cộng sự, cộng tác, thân thiện, tương thân, xu hướng theo những hạng người ấy. Ðây gọi là có bạn ác.
TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ TƯỞNG DỊ BIỆT (NĀNATTASAÑÑĀ)?
Dục tưởng, sân độc tưởng, não hại tưởng. Ðây gọi là tưởng dị biệt. Tất cả bất thiện pháp cũng đều là tưởng dị biệt.
[952] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ PHÓNG DẬT (UDDHACCA)?
Pháp nào là sự phóng túng, không yên lặng của tâm, tâm lao chao, tâm tán loạn. Ðây gọi là phóng dật.
TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ SỰ LƯỜI BIẾNG (KOSAJJA)?
Sự buông thả tâm, sự mặc tâm buông thả theo thân ác hạnh hay khẩu ác hạnh hay ý ác hạnh hay năm dục dật hệ, hoặc là đối với sự tu tiến các thiện pháp, không cẩn thận làm, không hoan hỷ làm, không ưa thích làm, thái độ tiêu cực, để qua ước vọng, để qua phận sự, không năng hành, không phát triển, không phát tấn, không thiết tha, không nổ lực, giải đải. Ðây gọi là sự lười biếng.
TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ DỄ DUÔI (PAMĀDA)?
Sự buông thả tâm, sự mặc tâm buông thả theo thân ác hạnh hay khẩu ác hạnh, ý ác hạnh hay năm dục dật hệ, hoặc là đối với sự tu tiến các thiện pháp, không cẩn thận làm, không hoan hỷ làm, không ưa thích làm, thái độ tiêu cực, để qua ước vọng, để qua phận sự, không năng hành, không phát triển, không phát tấn, không thiết tha, không nổ lực, giải đải. Ðây gọi là dễ duôi.
[953] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ KHÔNG TRI TÚC (ASANTUṬṬHITĀ)?
Ðối với người không vừa lòng, có thái độ muốn nhiều thêm về thứ này thứ kia như y phục, vật thực, sàng tọa, dược phẩm hoặc năm dục dật hệ, sự nào như vậy là sự mong muốn, thái độ mong muốn, không thỏa mãn, tham lam, tham đắm… (trùng)… nhiểm đắm của tâm. Ðây gọi là sự không tri túc.
TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ SỰ THIẾU TỈNH GIÁC (ASAMPAJAÑÑATĀ)?
Sự mà không biết, không thấy… (trùng)… vô minh then chốt, si bất thiện căn. Ðây gọi là sự thiếu tỉnh giác.
TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ ÐA DỤC (MAHICCHATĀ)?
Ðối với người không vừa lòng, có thái độ muốn nhiều thêm về thứ này thứ kia như y phục, vật thực, sàng tọa, dược phẩm hoặc năm dục dật hệ; sự nào như vậy là sự mong muốn, thái độ mong muốn, tính cách mong muốn lớn lao, tham lam, tham đắm… (trùng)… nhiểm đắm của tâm. Ðây gọi là đa dục.
[954] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ VÔ TÀM (AHIRIKA)?
Sự mà không hổ thẹn với điều đáng hổ thẹn, không hổ thẹn với việc phạm các ác bất thiện pháp. Ðây gọi là vô tàm.
TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ VÔ ÚY (ANOTTAPPA)?
Sự mà không sợ hãi với điều đáng sợ hãi, không sợ hãi với việc phạm ác bất thiện pháp. Ðây gọi là vô úy.
TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ KHINH SUẤT (PAMĀDA)?
Sự buông thả tâm, sự mặc tâm buông thả theo thân ác hạnh, hay khẩu ác hạnh, hay ý ác hạnh hay năm dục dật hệ, hoặc đối với sự tu tiến các thiện pháp không cẩn thận làm, không hoan hỷ làm, không ưa thích làm, thái độ tiêu cực, để qua ước vọng, để qua phận sự, không năng hành, không phát triển, không phát tấn, không thiết tha, không nổ lực, giải đải. Ðây gọi là sự khinh suất.
[955] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ SỰ BẤT CẦN (ANĀDARIYA)?
Pháp nào là sự không quan tâm, thái độ không quan tâm, sự bất kính, sự bất tuân, sự không thu nhận, không thọ trì, thái độ không thọ trì, không theo nguyên tắc, không đặt nặng. Ðây gọi là sự bất cần.
TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ NAN GIÁO (DOVACASSATĀ)?
Là khi được nhắc nhở đúng pháp lại có sự khó dạy, thái độ khó dạy, tính cách khó dạy, lập trường chống đối, thái độ phản đối, tính cách bất cần, thái độ bất cần, thái độ bất kính, thái độ bất tuân. Ðây gọi là nan giáo.
TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ HỮU ÁC HỮU (PĀPAMITTATĀ)?
Những người nào vô tín ngưỡng, ác giới, thiểu học, bỏn xẻn, thiểu trí. Sự mà giao du, giao hiếu, kết giao, cộng sự, cộng tác, thân thiện, tương thân, xu hướng theo những hạng người ấy. Ðây gọi là hữu ác hữu.
[956] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ KHÔNG TÍN NGƯỠNG (ASSADDHIYAṂ)?
Ở đây, có kẻ vô tín ngưỡng không tin Phật hay Pháp hay Tăng, sự kiện nào như vậy là sự không tín ngưỡng, không tin cậy, không tín nhiệm, không tịnh tín. Ðây gọi là sự không tín ngưỡng.
TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ SỰ KHÔNG HÀO PHÓNG (AVADAÑÑUTĀ)?
Có năm sự bỏn xẻn là bỏn xẻn chỗ ở, bỏn sẻn gia tộc, bỏn xẻn lợi lộc, bỏn xẻn thanh danh, bỏn xẻn pháp; sự bỏn xẻn, tính cách bỏn xẻn, thái độ bỏn xẻn, sự ích kỷ, sự keo kiệt, sự hà tiện, sự không nhiếp tâm. Ðây gọi là sự không hào phóng.
TRONG KHI ẤY, THẾ NÀO LÀ SỰ GIẢI ÐẢI (KOSAJJA)?
Sự buông thả tâm, sự mặc tâm buông thả theo thân ác hạnh, hay khẩu ác hạnh, ý ác hạnh, năm dục dật hệ, hoặc là đối với sự tu tiến các thiện pháp không cẩn thận làm, không hoan hỷ làm, không ưa thích làm, thái độ tiêu cực, để qua ước vọng, để qua phận sự, không năng hành, không phát triển, không phát tấn, không thiết tha, không nổ lực, dễ duôi. Ðây gọi là sự giải đải.
[957] TRONG ẤY THẾ NÀO LÀ PHÓNG DẬT (UDDHACCA)?
Pháp nào là sự phóng túng không yên lặng của tâm, tâm lao chao, tâm tán loại. Ðây gọi là phóng dật.
TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ SỰ KHÔNG THU THÚC (ASAMVARA)?
Ở đây, có kẻ với mắt thấy sắc chấp tướng chung, chấp tướng riêng; do nhân nào mà sự tham ưu ác bất thiện pháp có thể xâm nhiễm người sống không thu thúc nhãn quyền; thì nó lại không phòng ngừa nhân ấy, không hộ trì nhãn quyền, thành ra không thu thúc nhãn quyền, với tai nghe tiếng… (trùng)… với mũi ngửi mùi… (trùng)… với lưỡi nếm vị… (trùng)… với thân chạm cảnh xúc… (trùng)… với ý nghĩ cảnh pháp chấp tướng chung, chấp tướng riêng; do nhân nào mà sự tham ưu ác bất thiện pháp có thể xâm nhiểm người sống không thu thúc ý quyền; thì nó lại không phòng ngừa nhân ấy, không hộ trì ý quyền, thành ra không thu thúc ý quyền. Ðây gọi là sự không thu thúc.
TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ ÁC GIỚI (DUSSĪLYAM)?
Tức là thân hành quá đáng, khẩu hành quá đáng, thân khẩu hành quá đáng. Ðây gọi là ác giới.
[958] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ SỰ KHÔNG MUỐN THẤY BẬC THÁNH (ARIYĀNAṂ ADASSANA KAMYATĀ)?
Ở ÐÂY BẬC THÁNH LÀ SAO? Gọi là bậc Thánh tức Ðức Phật và Thinh Văn Giác. Sự mà không muốn nhìn thấy các bậc Thánh này, không muốn diện kiến, không muốn hội ngộ, không muốn hội tụ. Ðây gọi là sự không muốn thấy bậc Thánh.
TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ SỰ KHÔNG MUỐN NGHE CHÁNH PHÁP (SADDHAMMAṂ ASOTUKAMYATĀ)?
Ở ÐÂY CHÁNH PHÁP LÀ CHI? Tức Tứ niệm xứ, tứ chánh cần, tứ thần túc, ngũ quyền, ngũ lực, thất giác chi, bát Thánh đạo chi. Ðây gọi là Chánh pháp; sự mà không muốn nghe Chánh pháp này, không muốn dự thính, không muốn học tập, không muốn thọ trì. Ðây gọi là không muốn nghe Chánh pháp.
TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ CÓ TÂM CẬT VẤN (UPĀRAMBHACITTATĀ)?
Ở ÐÂY CẬT VẤN LÀ SAO? Chi là sự vấn nạn, hay sự cật nạn, sự bắt bẻ, sự chuyên bắt bẻ, thái độ chuyên bắt bẻ, sự khinh lờn, sự khi dễ, sự tìm lỗi. Ðây gọi là có tâm vấn nạn.
[959] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ THẤT NIỆM (MUTTHASACCA)?
Sự mà không niệm, không nhớ theo, không nhớ ra, không nhớ lấy, không nhớ được, tình trạng không ghi nhận, tình trạng lơ đễnh, tình trạng quên lãng. Ðây gọi là sự thất niệm.
TRONG KHI ẤY, THẾ NÀO LÀ BẤT TỈNH GIÁC (ASANPAJAÑÑA)?
Chi là sự không biết, sự không thấy… (trùng)… vô minh then chốt, si bất thiện căn. Ðây gọi là bất tỉnh giác.
TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ TÁN LOẠN TÂM (CETASO VIKKHEPO)?
Chi là sự phóng túng không yên tỉnh của tâm, tâm lao chao, tâm tán loạn. Ðây gọi là tán loạn tâm.
[960] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ KHÔNG KHÉO TÁC Ý (AYONISO MANASIKĀRA)?
Vô thường mà không khéo tác ý nghĩ là thường, khổ mà không khéo tác ý nghĩ là lạc, vô ngã mà không khéo tác ý nghĩ là hữu ngã, bất tịnh mà không khéo tác ý nghĩ là thanh tịnh, hay là sự hướng tâm, sự suy xét, sự suy tư, sự tập trung, tác ý bằng cách sai với sự thật. Ðây gọi là không khéo tác ý.
TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ HÀNH TÀ ÐẠO (KUMMAGGASEVĀNA)?
Ở ÐÂY TÀ ÐẠO LÀ SAO? Tức là tà kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà tinh tấn, tà niệm, tà định. Ðây gọi là tà đạo. Sự mà thực hiện theo đuổi, chuyên chú, hợp tác, cộng tác, khắn khít, miệt mài, xu hướng theo đường lối sai lầm này. Ðây gọi là hành tà đạo.
TRONG KHI ẤY, THẾ NÀO LÀ TÂM BIẾNG NHÁC (CETASOLĪNATTA)?
Chi là sự không mạnh dạn của tâm, sự không thích nghi, sự chần chừ, sự trầm lắng, thụ động, thái độ thụ động, tình trạng thụ động, tâm có sự dã dượi, có thái độ dã dượi, có tình trạng dã dượi. Ðây gọi là tâm biếng nhác.
XIỂN MINH PHẦN BỐN CHI (Catukkaniddesa)
[961] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ BỐN LẬU (ĀSAVA)?
Tức dục lậu, hữu lậu, kiến lậu, vô minh lậu.
Ở ÐÂY DỤC LẬU LÀ SAO? Ðối với các dục, chi là sự ước muốn dục… (trùng)… sự mê luyến dục. Ðây gọi là dục lậu.
Ở ÐÂY HỮU LẬU LÀ SAO? Ðối với các hữu, chi là sự ước muốn hữu… (trùng)… sự mê luyến hữu. Ðây gọi là hữu lậu.
Ở ÐÂY KIẾN LẬU LÀ SAO? Chấp rằng “thế gian là thường còn… (trùng)… Như Lai không còn cũng không phải không còn sau khi chết”, kiến nào như vậy là thiên kiến… (trùng)… nghịch chấp. Ðây gọi là tà kiến lậu.
Ở ÐÂY VÔ MINH LẬU LÀ SAO? Sự bất tri khổ… (trùng)… vô minh then chốt, si bất thiện căn. Ðây gọi là vô minh lậu.
Những pháp này là bốn lậu.
[962] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ BỐN PHƯỢC (GANTHA)?
Tức là tham ái thân phược, sân độc thân phược, giới cấm thủ thân phược, thử thực chấp thân phược.
Ở ÐÂY THAM ÁI THÂN PHƯỢC LÀ SAO? Chi là sự tham đắm, sự tham luyến… (trùng)… sự tham ái, tham bất thiện căn. Ðây gọi là tham ái thân phược.
Ở ÐÂY SÂN ÐỘC THÂN PHƯỢC LÀ SAO? Sanh hiềm khích rằng “nó đã làm bất lợi cho ta”… (trùng)… sự hung dữ, sự lỗ mãng, sự bất bình trong tâm. Ðây gọi là sân độc thân phược.
Ở ÐÂY GIỚI CẤM THỦ THÂN PHƯỢC LÀ SAO? Có các Sa môn, Bà la môn ngoài Giáo pháp này, nghĩ rằng thanh tịnh nhờ giới, thanh tịnh nhờ hạnh tu, thanh tịnh nhờ giới cấm; kiến nào như vậy là thiên kiến… (trùng)… nghịch chấp. Ðây gọi là giới cấm thủ thân phược.
Ở ÐÂY THỦ THỰC CHẤP THÂN PHƯỢC LÀ SAO? Là chấp rằng “thế gian thường còn” chỉ đây là sự thật, ngoài ra là giả; hay chấp rằng “thế gian không thường còn – chỉ đây là thật, còn ngoài ra là giả”… (trùng)… hay chấp rằng “Như Lai không còn cũng không phải không còn sau khi chết – chỉ đây là thật, ngoài ra là giả”; kiến nào như vậy là thiên kiến… (trùng)… nghịch chấp. Ðây gọi là thử thực chấp thân phược.
Ngoại trừ giới cấm thủ thân phược, tất cả tà kiến đều là thử thực chấp thân phược.
Những pháp này là bốn phược.
[963] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ BỐN BỘC LƯU (OGHA)?… (trùng)… BỐN PHỐI (YOGA)… (trùng)… BỐN THỦ (UPĀDĀNA)?
Tức dục thủ, kiến thủ, giới cấm thủ, ngã chấp thủ.
Ở ÐÂY DỤC THỦ LÀ SAO? Ðối với các dục, chi là sự ước muốn dục… (trùng)… sự mê luyến dục. Ðây gọi là dục thủ.
Ở ÐÂY KIẾN THỦ LÀ SAO? Chấp rằng “không có quả bố thí, không có quả cúng dường… (trùng)… đã tự mình thắng tri, chứng ngộ và tuyên bố về đời này và đời sau”, kiến nào như vậy là thiên kiến… (trùng)… nghịch chấp. Ðây gọi là kiến thủ.
Ngoại trừ giới cấm thủ và ngã chấp thủ, tất cả tà kiến đều là kiến thủ.
Ở ÐÂY GIỚI CẤM THỦ LÀ SAO? Có các Sa môn, Bà la môn ngoài Giáo pháp này chấp rằng “thanh tịnh nhờ giới, thanh tịnh nhờ hạnh tu, thanh tịnh nhờ giới cấm”, kiến nào như vậy là thiên kiến… (trùng)… nghịch chấp. Ðây gọi là giới cấm thủ.
Ở ÐÂY NGÃ CHẤP THỦ LÀ SAO? Ở đây có kẻ vô văn phàm phu không thấy các bậc Thánh, không hiểu pháp bậc Thánh, không tu tập trong pháp bậc Thánh, không thấy các bậc Chân Nhân, không hiểu pháp bậc Chân Nhân, không tu tập pháp bậc Chân Nhân, mới nhận thấy rằng sắc là ta hay ta là sắc, hay trong ta có sắc hay trong sắc có ta; thấy thọ… (trùng)… thấy tưởng… (trùng)… thấy hành… (trùng)… thấy thức là ta hay ta là thức, hay trong ta có thức hay trong thức có ta; kiến nào như vậy là thiên kiến… (trùng)… nghịch chấp. Ðây gọi là ngã kiến thủ. Những pháp này là bốn thủ.
[964] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ BỐN ÁI SANH (TAṆHUPPĀDĀ)?
Khi ái sanh cho vị tỳ khưu thì sanh khởi do nhân y phục, hoặc ái sanh cho vị tỳ khưu thì sanh khởi do nhân vật thực, hoặc ái sanh cho vị tỳ khưu thì sanh khởi do nhân trú xứ, hoặc ái sanh cho vị tỳ khưu thì sanh khởi do nhân không phải sự kiện như thế. Ðây là bốn ái sanh.
[965] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ BỐN SỰ THIÊN VỊ (AGATIGAMANA)?
Tức là thiên vị vì thương, thiên vị vì ghét, thiên vị vì ngu, thiên vị vì sợ; sự thiên vị như thế là sự hành không tương ứng, sự hành ích kỷ, sự hành theo phe phái, lưu chuyển như nước. Ðây là bốn sự thiên vị.
[966] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ BỐN SỰ ÐIÊN ÐẢO (VIPARIYESA)?
Trong vô thường mà nghĩ là thường, một tưởng điên đảo, tâm điên đảo, kiến điên đảo. Trong khổ mà nghĩ là lạc, một tưởng điên đảo, một tâm điên đảo, kiến điên đảo. Trong vô ngã mà nghĩ là hữu ngã, một tưởng điên đảo, tâm điên đảo, kiến điên đảo. Trong bất tịnh mà nghĩ là tịnh, một tưởng điên đảo, tâm điên đảo, kiến điên đảo. Ðây là bốn sự điên đảo.
[967] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ BỐN PHI THÁNH NGÔN (ANARIYAVOHĀRA)?
Tức là khi không thấy nói thấy, khi không nghe nói nghe, khi không biết nói biết, khi không hiểu nói hiểu. Ðây là bốn phi Thánh ngôn.
[968] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ BỐN PHI THÁNH NGÔN (ANARIYAVOHĀRA) KHÁC NỮA?
Tức là khi thấy nói không thấy, khi nghe nói không nghe, khi biết nói không biết, khi hiểu nói không hiểu. Ðây là bốn phi thánh ngôn.
[969] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ BỐN ÁC HẠNH (DUCCARITA)?
Tức là sát sanh, trộm lấy vật chưa cho, tà hạnh trong dục lạc, nói dối. Ðây là bốn ác hạnh.
[970] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ BỐN ÁC HẠNH (DUCCARITA) KHÁC NỮA?
Tức là nói dối, nói lời đâm thọc, nói lời độc ác, nói chuyện phiếm. Ðây là bốn ác hạnh.
[971] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ BỐN HIỂM NẠN (BHAYA)?
Tức là hiểm nạn về sanh, hiểm nạn về già, hiểm nạn về bịnh, hiểm nạn về chết. Ðây là bốn hiểm nạn.
[972] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ BỐN HIỂM NẠN (BHAYA) KHÁC NỮA?
Tức là hiểm nạn do vua, hiểm nạn do cướp, hiểm nạn do lửa, hiểm nạn do nước. Ðây là bốn hiểm nạn.
[973] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ BỐN HIỂM NẠN (BHAYA) KHÁC NỮA?
Tức là hiểm nạn do sóng, hiểm nạn do cá sấu, hiểm nạn do nước xoáy, hiểm nạn do cá mập. Ðây là bốn hiểm nạn.
[974] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ BỐN HIỂM NẠN (BHAYA) KHÁC NỮA?
Tức là hiểm nạn do tự chê trách, hiểm nạn do người chê trách, hiểm nạn do hình phạt, hiểm nạn do ác thú. Ðây là bốn hiểm nạn.
[975] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ BỐN QUAN KIẾN (DIṬṬHI)?
Tức là có tri kiến sanh khởi một cách chắc thật cả quyết rằng “lạc hay khổ do tự mình tạo ra”. Có tri kiến sanh khởi một cách chắc thật quả quyết rằng “lạc hay khổ do người khác tạo cho”, có tri kiến sanh khởi một cách chắc thật cả quyết rằng “lạc hay khổ là vừa do tự tạo vừa do người khác tạo cho”, có tri kiến sanh khởi một cách chắc thật cả quyết rằng “lạc hay khổ tự nhiên phát sanh, không do tự tạo hay người khác tạo”. Ðây là bốn quan kiến.
XIỂN MINH PHẦN NĂM CHI (Pañcakaniddesa)
[976] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ NĂM HẠ PHẦN TRIỀN PHƯỢC (ORAMBHĀGIYASAÑÑOJANA)?
Tức là thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ, dục dục, sân độc. Ðây là năm hạ phần triền phược.
[977] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ NĂM THƯỢNG PHẦN TRIỀN PHƯỢC (UDDHAMBHĀGIYASAÑÑOJANA)?
Tức là sắc ái, vô sắc ái, ngã mạn, phóng dật và vô minh. Ðây là năm thượng phần triền phược.
[978] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ NĂM SỰ BỎN XẺN (MACCHARIYA)?
Tức là bỏn xẻn chổ ở, bỏn xẻn gia tộc, bỏn xẻn lợi lộc, bỏn xẻn thanh danh, bỏn xẻn pháp. Ðây gọi là năm sự bỏn xẻn.
[979] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ NĂM HỆ LỤY (SANGA)?
Tức là tham hệ lụy, sân hệ lụy, si hệ lụy, mạn hệ lụy, kiến hệ lụy. Ðây là năm hệ lụy.
[980] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ NĂM MŨI TÊN (SALLA)?
Tức là mũi tên tham, mũi tên sân, mũi tên si, mũi tên mạn, mũi tên kiến. Ðây là năm mũi tên.
[981] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ NĂM HOANG VU TÂM (CETOKHILA)?
Tâm là ngờ vực, hoài nghi, không tin tưởng, không tịnh tín Bậc Ðạo Sư, ngờ vực hoài nghi không tin tưởng, không tịnh tín Giáo pháp; ngờ vực hoài nghi, không tin tưởng, không tịnh tín Tăng chúng; ngờ vực hoài nghi, không tin tưởng, không tịnh tín Học giới; sân hận, bất bình, tâm đả kích, cương ngạnh đối với các bạn đồng phạm hạnh. Ðây là năm tâm hoang vu.
[982] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ NĂM TÂM NHIỄM TRƯỚC (CETASO VINIBANDHA)?
Ðối với dục lạc chưa lìa tham đắm, chưa lìa dục vọng, chưa lìa thương mến, chưa lìa khát khao, chưa lìa nhiệt tình, chưa lìa ái luyến.
Ðối với thân chưa lìa tham đắm, chưa lìa dục vọng, chưa lìa thương mến, chưa lìa khát khao, chưa lìa nhiệt tình, chưa lìa ái luyến.
Ðối với sắc chưa lìa tham đắm, chưa lìa dục vọng, chưa lìa thương mến, chưa lìa khát khao, chưa lìa nhiệt tình, chưa lìa ái luyến.
Khi ăn đã thỏa mãn căng bụng rồi đắm mình trong khoái lạc nằm nghỉ trong khoái lạc, lăn trở trong khoái lạc, ngủ say.
Hành Phạm hạnh với nguyện vọng sanh thiên hạng nào đó, nghĩ rằng “giới đức này hay với hạnh tu này hay với khổ hành này hay với phạm hạnh này, mong rằng ta sẽ là thiên chủ hoặc vị thiên tử[6]”. Ðây là năm tâm nhiểm trước.
[983] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ NĂM TRIỀN CÁI (NĪVARANA)?
Là dục dục cái, sân độc cái, hôn thụy cái, trạo hối cái, hoài nghi cái. Ðây là năm triền cái.
[984] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ NĂM NGHIỆP VÔ GIÁN (KAMMĀNI ĀNANTARIKĀNI)?
Là đoạt mạng mẹ, đoạt mạng cha, đoạt mạng vi A-la-hán, gây đổ máu Ðức Như Lai bằng tâm ác, chia rẽ Tăng. Ðây là năm nghiệp vô gián.
[985] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ NĂM QUAN KIẾN (DIṬṬHI)?
Một số người tuyên bố điều này: “tự ngã hữu tưởng không hoại sau khi chết”.
Một số người tuyên bố điều này: “tự ngã vô tưởng không hoại sau khi chết”.
Một số người tuyên bố điều này: “tự ngã vô tưởng phi vô tưởng không hoại sau khi chết”.
Cũng có những vị giả thuyết sự đoạn tận, sự tiêu diệt, sự mất hết của chúng sanh hiện hữu.
Hoặc giả một số vị tuyên thuyết về hiện tại Níp Bàn. Ðây là năm quan kiến.
[986] TRONG KHI ẤY, THẾ NÀO LÀ NĂM OAN TRÁI (VERA)?
Là sát sanh, lấy vật chưa cho, tà hạnh trong các dục, nói dối, dễ duôi uống rượu ngâm, rượu cất. Ðây là năm oan trái.
[987] TRONG KHI ẤY, THẾ NÀO LÀ NĂM SUY THOÁI (BYASANA)?
Là suy thoái thân quyến, suy thoái tài sản, suy thoái binh hoạn, suy thoái giới hạnh, suy thoái tri kiến. Ðây là năm suy thoái.
[988] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ NĂM KHỔ QUẢ KHÔNG KHAM NHẪN (AKKHANTIYĀ ĀDĪNAVĀ)?
Thành chỗ ghét bỏ bất mãn của nhiều người. Là kẻ có lắm thù nghịch. Là kẻ có nhiều tội lỗi. Là kẻ chết bị hôn mê. Khi thân hoại mệnh chung hằng sanh vào khổ cảnh, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Ðây là năm khổ quả không kham nhẫn.
[989] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ NĂM HIỂM NẠN (BHAYA)?
Là hiểm nạn do nuôi mạng, hiểm nạn do tai tiếng, hiểm nạn do dính líu hội chúng, hiểm nạn do chết, hiểm nạn sanh khổ thú. Ðây là năm hiểm nạn.
[990] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ NĂM LUẬN CHẤP NÍP BÀN HIỆN TẠI (DIṬṬHIDHAM-MANIBBĀNAVĀDA)?
Ở đây, một số Sa môn hay Bà la môn có luận thuyết như vầy, có quan điểm như vầy: “Khi nào bản ngã này tận hưởng sung mãn với năm món dục lạc, chỉ mức độ ấy bản ngã này mới đạt đến tối thượng hiện tại Níp Bàn”. Một số vị chủ trương tối thượng hiện tại Níp Bnà của chúng sanh như thế.
Một vị khác lại nói rằng “Nầy ông, thật có bản ngã đó như ông nói; tôi không bảo rằng bản ngã đó không có; nhưng bản ngã này trong mức độ như vậy chưa phải đạt đến tối thượng hiện tại Níp Bàn. Vì cớ sao? Vì lẽ các dục là vô thường, khổ đau, biến hoại; do tình trạng biến hoại chuyển hóa nên sầu, bi, khổ, ưu, não phát sanh. Nầy ông, chỉ khi nào bản ngã này ly dục… (trùng)… chứng và trú Sơ thiền; đến mức độ ấy bản ngã này mới đạt đến tối thượng hiện tại Níp Bàn”. Một số vị chủ trương tối thượng hiện tại Níp Bàn của chúng sanh như thế.
Một số vị khác lại nói rằng: “Nầy ông, thật có bản ngã đó như ông nói, tôi không bảo rằng bản ngã đó không có; nhưng bản ngã này trong mức độ như vậy chưa phải đạt đến tối thượng hiện tại Níp Bàn. Vì cớ sao? Vì trong bất cứ tình trạng nào còn tầm còn tứ, thì được xem là còn thô thiển. Nầy ông, chỉ khi nào bản ngã này vắng lặng tầm tứ… (trùng)… chứng và trú Nhị thiền; đến mức độ ấy bản ngã này mới đạt đến tối thượng hiện tại Níp Bàn”. Một số vị chủ trương tối thượng hiện tại Níp Bàn của chúng sanh như thế.
Một số vị khác lại nói rằng: “Nầy ông, thật có bản ngã đó như ông nói, tôi không bảo rằng bản ngã đó không có; nhưng bản ngã này trong mức độ như vậy chưa phải đạt đến tối thượng hiện tại Níp Bàn. Vì cớ sao? Vì trong bất cứ tình trạng nào tâm còn hoan hỷ, còn bị phấn khích thì được xem là còn thô thiển. Nầy ông, chỉ khi nào bản ngã này ly hỷ… (trùng)… chứng và trú Tam thiền; đến mức độ ấy bản ngã này mới đạt đến tối thượng hiện tại Níp Bàn”. Một số vị chủ trương tối thượng hiện tại Níp Bàn của chúng sanh như thế.
Một vị khác lại nói rằng: “Nầy ông, thật có bản ngã đó như ông nói, tôi không bảo rằng bản ngã đó không có; nhưng bản ngã này trong mức độ như vậy chưa phải đạt đến tối thượng hiện tại Níp Bàn. Vì cớ sao? Vì trong bất cứ tình trạng nào tâm tư còn lạc tưởng thì được xem là còn thô thiển. Nầy ông, chỉ khi nào bản ngã này đoạn trừ lạc… (trùng)… chứng và trú Ðệ Tứ thiền; đến mức độ ấy bản ngã này mới đạt đến tối thượng hiện tại Níp Bàn”. Một số vị chủ trương tối thượng hiện tại Níp Bàn của chúng sanh như thế.
XIỂN MINH PHẦN SÁU CHI (Chakkaniddesa)
[991] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ SÁU GỐC LUẬN TRANH (VIVĀDA-MŪLA)?
Tức sân hận, gièm pha, ganh tỵ, dối trá, ác dục, cố chấp, tư kiến. Ðây là sáu gốc luận tranh.
[992] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ SÁU DỤC ÁI THẾ TỤC PHÁP (CHANDARĀGA GEHASITA)?
Là sự tham luyến thế tục, sự tham đắm… tâm luyến tham đối với các sắc vừa ý… (trùng)… đối với các tiếng vừa ý… (trùng)… đối với các mùi vừa ý… (trùng)… đối với các vị vừa ý… (trùng), đối với các xúc vùa ý; sự tham luyến thế tục, sự tham đắm… tâm luyến tham đối với các pháp vừa ý. Ðây là sáu dục ái thế tục pháp.
[993] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ SÁU VI NGHỊCH SỰ (VIRODHA-VATTHU)?
Là sự hiền khích trong tâm, sự phẩn nộ… sự hung dữ, lổ mãng, không hài lòng của tâm đối với các sắc pháp không vừa ý… (trùng).
Ðối với các tiếng không vừa ý… (trùng)… đối với các mùi không vừa ý… (trùng)… đối với các vị không vừa ý… (trùng)… đối với các xúc không vừa ý; sự hiềm khích trong tâm, sự phẩn nộ… sự hung dữ, lổ mãng, không hài lòng của tâm đối với các pháp không vừa ý. Ðây là sáu vi nghịch sự.
[994] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ SÁU THÂN ÁI (TANHĀKĀYA)?
Là sắc ái, thinh ái, hương ái, vị ái, xúc ái và pháp ái. Ðây là sáu thân ái.
[995] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ SÁU SỰ BẤT KÍNH (AGĀRAVA)?
Là sống không cung kính, không vâng thuận theo Bậc Ðạo Sư… (trùng)… theo Giáo pháp… (trùng)… theo Tăng chúng… (trùng)… theo Học giới… (trùng)… theo hạnh chuyên cần; sống không cung kính, không vâng thuận theo pháp tiếp đãi. Ðây là sáu sự bất kính.
[996] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ SÁU PHÁP SUY THỐI (PARIHĀNIYĀ)?
Là thích làm việc, thích nói chuyện, thích ngủ nghỉ, thích hội chúng, thích chung chạ, thích hưởn đải. Ðây là sáu pháp suy thối.
[997] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ SÁU PHÁP SUY THỐI KHÁC (APAREPI PARIHĀNIYĀ)?
Là thích làm việc, thích nói chuyện, thích ngủ nghỉ, thích hội chúng, tính khó dạy, có bạn ác. Ðây là sáu pháp suy thối.
[998] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ SÁU HỶ VẤN VƯƠNG (SOMANASSU-PAVICĀRĀ)?
Là mắt khi thấy sắc thì vương vấn sắc đáng chổ vui; khi tai nghe tiếng… (trùng)… khi mũi đã ngữi mùi… (trùng)… khi lưỡi đã nếm vị… (trùng)… khi thân đã đụng cảnh xúc… (trùng)… khi ý đã suy nghĩ cảnh pháp thì vương vấn cảnh pháp đáng chổ vui. Ðây là sáu hỷ vấn vương.
[999] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ SÁU ƯU VẤN VƯƠNG (DOMANASSU-PAVICĀRĀ)?
Là mắt khi thấy sắc thì vương vấn sắc đáng chổ buồn; khi tai nghe tiếng… (trùng)… khi mũi đã ngữi mùi… (trùng)… khi lưỡi đã nếm vị… (trùng)… khi thân đã đụng chạm cảnh xúc… (trùng)… khi ý đã suy nghĩ cảnh pháp thì vương vấn cảnh pháp đáng chổ buồn. Ðây là sáu chỗ ưu vấn vương.
[1000] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ SÁU XẢ VẤN VƯƠNG (UPEKKHŪPA-VICĀRĀ)?
Là mắt khi thấy sắc thì vương vấn sắc đáng chổ xả; khi tai nghe tiếng… (trùng)… khi mũi đã ngữi mùi… (trùng)… khi lưỡi đã nếm vị… (trùng)… khi thân đã đụng cảnh xúc… (trùng)… khi ý đã suy nghĩ cảnh pháp thì vương vấn cảnh pháp đáng chổ xả. Ðây là sáu xả vấn vương.
[1001] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ SÁU HỶ THẾ TỤC (GEHASITA SOMANASSA)?
Là đối với các sắc trông vừa ý, có sự sảng khoái tâm tư thuộc thế tục, có sự dễ chịu tâm tư, có cảm giác sảng khoái dễ chịu sanh từ tâm xúc, có cảm thọ sảng khoái dễ chịu sanh từ tâm xúc. Ðối với các tiếng vừa ý… (trùng)… Ðối với các mùi vừa ý… (trùng)… Ðối với các vị vừa ý… (trùng)… Ðối với các xúc vừa ý… (trùng)… Ðối với các pháp vừa ý, có sự sảng khoái tâm tư thuộc thế tục, có sự dễ chịu tâm tư, có cảm giác sảng khoái dễ chịu sanh từ tâm xúc, có cảm thọ sảng khoái dễ chịu sanh từ tâm xúc. Ðây là sáu hỷ thế tục.
[1002] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ SÁU ƯU THẾ TỤC (GEHASITA DOMANASSA)?
Là đối với các sắc không vừa ý, có sự bất an tâm tư thuộc thế tục, có sự khó chịu tâm tư, có cảm giác bất an khó chịu sanh từ tâm xúc, có cảm thọ bất an sanh từ tâm xúc. Ðối với các tiếng không vừa ý… (trùng)… Ðối với các mùi không vừa ý… (trùng)… Ðối với các vị không vừa ý… (trùng)… Ðối với các xúc không vừa ý… (trùng)… Ðối với các pháp không vừa ý, có sự bất an tâm tư thuộc thế tục, có sự khó chịu tâm tư, có cảm giác bất an khó chịu sanh từ tâm xúc. Ðây là sáu ưu thế tục.
[1003] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ SÁU XẢ THẾ TỤC (GEHASITA UPEKKHĀ)?
Là đối với sắc đáng xem thường, có sự không vui không buồn tâm tư thuộc thế tục, có cảm giác phi khổ phi lạc sanh từ tâm xúc, có cảm thọ giác phi khổ phi lạc sanh từ tâm xúc. Ðối với các tiếng đáng xem thường… (trùng)… Ðối với các mùi đáng xem thường… (trùng)… Ðối với các vị đáng xem thường… (trùng)… Ðối với các xúc đáng xem thường… (trùng)… Ðối với các pháp đáng xem thường, có sự không vui không buồn tâm tư thế tục, có cảm giác phi khổ phi lạc sanh từ tâm xúc, có cảm thọ phi khổ phi lạc sanh từ tâm xúc. Ðây là sáu xả thế tục.
[1004] TRONG ẤY THẾ NÀO LÀ SÁU QUAN KIẾN (DIṬṬHI)?
Có tri kiến phát sanh cho người kia một cách chắc thật cả quyết rằng: “trong tôi có bản ngã”.
Có tri kiến sanh khởi cho người kia một cách chắc thật cả quyết rằng: “Trong tôi không có bản ngã”.
Hoặc có tri kiến sanh khởi cho người kia một cách chắc thật cả quyết rằng: “Tôi biết rõ tự ngã bằng tự ngã”.
Hoặc có tri kiến sanh khởi cho người kia một cách chắc thật cả quyết rằng: “Tôi biết rõ các vô ngã bằng các tự ngã”.
Hoặc có tri kiến sanh khởi cho người kia một cách chắc thật cả quyết rằng: “Bản ngã này của tôi biết nói, biết cảm thọ, nó nhận lãnh quả của điều tốt điều xấu qua thời gian dài ở chỗ này chỗ kia; nó không phải đã sanh; nó không phải sẽ sanh; nó là thường còn, vững chắc, tồn tại, không bị biến chuyển”. Ðây là sáu quan kiến.
XIỂN MINH PHẦN BẢY CHI (Sattakaniddesa)
[1005] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ BẢY TIỀM MIÊN (ANUSAYA)?
Tức là dục tham tiềm miên, phẩn nộ tiềm miên, kiêu mạn tiềm miên, tà kiến tiềm miên, hoài nghi tiềm miên, hữu tham tiềm miên, vô minh tiềm miên. Ðây là bảy tiềm miên.
[1006] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ BẢY ÐỘT KHỞI (PARIYUTTHĀNA)?
Tức là dục tham đột khởi, phẩn nộ đột khởi, kiêu mạn đột khởi, tà kiến đột khởi, hoài nghi đột khởi, hữu tham đột khởi, vô minh đột khởi. Ðây là bảy đột khởi.
[1007] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ BẢY TRIỀN PHƯỢC (SAÑÑOJANA)?
Là dục tham triền phược, phẩn nộ triền phược, kiêu mạn triền phược, tà kiến triền phược, hoài nghi triền phược, hữu tham triền phược, vô minh triền phược. Ðây là bảy triền phược.
[1008] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ BẢY PHI DIỆU PHÁP (ASADDHAMMA)?
Tức là không có đức tin, không có lòng tàm, không có tâm quý, thiếu học, lười biếng, thất niệm và ác tuệ. Ðây là bảy phi diệu pháp.
[1009] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ BẢY ÁC HẠNH (DUCCARITA)?
Là sát sanh, trộm vật chưa cho, tà hạnh dục lạc, nói dối, nói đâm thọc, nói độc ác, nói chuyện phiếm. Ðây là bảy ác hạnh.
[1010] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ BẢY MẠN (MĀNA)?
Tức là kiêu mạn, quá mạn, mạn quá mạn, ti mạn, tăng thượng mạn, ngã sở mạn, tà chấp mạn. Ðây là bảy mạn.
[1011] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ BẢY QUAN KIẾN (DIṬṬHI)?
Ở đây, một số Sa môn, Bà la môn có luận thuyết như vầy, có quan điểm như vầy: “Nầy ông, khi mà bản ngã hữu sắc này do bốn đại hợp thành, do cha mẹ sinh ra, nên lúc thân hoại bị hủy nát, bị tiêu diệt, không còn sau khi chết; nầy ông. Ðến mức độ đó, bản ngã này hoàn toàn đoạn bị diệt”. Một số vị chủ trương sự đoạn diệt, sự hủy hoại, sự tiêu mất của chúng sanh như thế.
Một vị khác lại nói rằng: “Nầy ông, thật có bản ngã đó như ông nói, tôi không bảo rằng bản ngã đó không có; nhưng bản ngã này trong mức độ như vậy chưa phải là hoàn toàn đoạn diệt. Nầy ông, có một thứ bản ngã khác thuộc thiên tánh hữu sắc dục giới, vẫn ăn đoàn thực, ông không biết không thấy bản ngã ấy, còn tôi biết tôi thấy bản ngã ấy; bản ngã ấy khi thân hoại, bị hủy nát, bị tiêu diệt, không còn sau khi chết; nầy ông, đến mức độ đó, bản ngã này hoàn toàn đoạn diệt”. Một số vị chủ trương sự đoạn diệt, sự hủy hoại, sự tiêu mất của chúng sanh như thế.
Một vị khác lại nói rằng: “Nầy ông, thật có bản ngã đó như ông nói, tôi không bảo rằng bản ngã đó không có; nhưng bản ngã này trong mức độ như vậy chưa phải là hoàn toàn đoạn diệt. Nầy ông, có một thứ bản ngã khác thuộc thiên tánh hữu sắc do ý tạo thành, đủ mọi chi thể chính phụ, căn quyền không khuyết tật, ông không biết không thấy bản ngã ấy, còn tôi biết tôi thấy bản ngã ấy; bản ngã ấy khi thân hoại, bị hủy nát, bị tiêu diệt, không còn sau khi chết; nầy ông, đến mức độ đó, bản ngã này hoàn toàn đoạn diệt”. Một số vị chủ trương sự đoạn diệt, sự hủy hoại, sự tiêu mất của chúng sanh như thế.
Một vị khác lại nói rằng: “Nầy ông, thật có bản ngã đó như ông nói, tôi không bảo rằng bản ngã đó không có; nhưng bản ngã này trong mức độ như vậy chưa phải là hoàn toàn đoạn diệt. Nầy ông, có một thứ bản ngã khác hoàn toàn vượt qua các sắc tưởng, diệt trừ các chướng ngại tưởng, không tác ý các dị biệt tưởng, đạt đến không vô biên xứ thấy rằng “hư không không cùng tận”, ông không biết không thấy bản ngã ấy, còn tôi biết tôi thấy bản ngã ấy; bản ngã ấy khi thân hoại, bị hủy nát, bị tiêu diệt, không còn sau khi chết; nầy ông, đến mức độ đó, bản ngã này hoàn toàn đoạn diệt”. Một số vị chủ trương sự đoạn diệt, sự hủy hoại, sự tiêu mất của chúng sanh như thế.
Một vị khác lại nói rằng: “Nầy ông, thật có bản ngã như ông nói, tôi không bảo rằng bản ngã đó không có; nhưng bản ngã này trong mức độ như vậy chưa phải là hoàn toàn đoạn diệt; Nầy ông, có thứ bản ngã khác hoàn toàn vượt qua Không vô biên xứ, đạt đến Thức vô biên xứ, thấy rằng “Thức vô cùng tận”, ông không biết không thấy bản ngã ấy, còn tôi biết tôi thấy bản ngã ấy; bản ngã ấy khi thân hoại, bị hủy nát, bị tiêu diệt, không còn sau khi chết; nầy ông, đến mức độ đó, bản ngã này hoàn toàn đoạn diệt”. Một số vị chủ trương sự đoạn diệt, sự hủy hoại, sự tiêu mất của chúng sanh như thế.
Một vị khác lại nói rằng: “Nầy ông, thật có bản ngã đó như ông nói, tôi không bảo rằng bản ngã đó không có; nhưng bản ngã này trong mức độ như vậy chưa phải là hoàn toàn đoạn diệt. Nầy ông, có thứ bản ngã khác hoàn toàn vượt qua Thức vô biên xứ, đạt đến Vô sở hữu xứ, thấy rằng “không có chi cả”, ông không biết không thấy bản ngã ấy, còn tôi biết tôi thấy bản ngã ấy; bản ngã ấy khi thân hoại, bị hủy nát, bị tiêu diệt, không còn sau khi chết; nầy ông, đến mức độ đó, bản ngã này hoàn toàn đoạn diệt”. Một số vị chủ trương sự đoạn diệt, sự hủy hoại, sự tiêu mất của chúng sanh như thế.
Một vị khác lại nói rằng: “Nầy ông, thật có bản ngã đó như ông nói, tôi không bảo rằng bản ngã đó không có; nhưng bản ngã này trong mức độ như vậy chưa phải là hoàn toàn đoạn diệt. Nầy ông, có thứ bản ngã khác hoàn toàn vượt qua Vô sở hữu xứ, đạt đến phi tưởng phi phi tưởng xứ, ông không biết không thấy bản ngã ấy, còn tôi biết tôi thấy bản ngã ấy; bản ngã ấy khi thân hoại, bị hủy nát, bị tiêu diệt, không còn sau khi chết; nầy ông, đến mức độ đó, bản ngã này hoàn toàn đoạn diệt”. Một số vị chủ trương sự đoạn diệt, sự hủy hoại, sự tiêu mất của chúng sanh như thế.
Ðây là bảy quan kiến.
XIỂN MINH PHẦN TÁM CHI (Aṭṭhakaniddesa)
[1012] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ TÁM PHIỀN NÃO SỰ (KILESA-VATTHU)?
Tức là tham, sân, si, mạn, tà kiến, hoài nghi, hôn trầm, phóng dật. Ðây là tám phiền não sự.
[1013] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ TÁM GIẢI ÐẢI SỰ (KUSITAVATTHU)?
Ở đây, vị tỳ khưu có việc cần phải làm, nhưng vị ấy nghĩ như sau: “Nay ta sẽ có công việc cần làm, nhưng trong lúc làm việc thân thể ta mệt nhọc, thế nên ta hãy ngủ đã”. Vị ấy nằm ngủ, không có cố gắng để đạt cái chưa đạt, để thành cái chưa thành, để chứng cái chưa chứng. Ðây là sự giải đải sự thứ nhất.
Một lẽ nữa, vị tỳ khưu có việc đã làm xong, vị ấy nghĩ như sau: “Ta đã làm xong công việc, trong lúc làm việc thân thể ta mệt nhọc, vậy thì ta hãy nằm ngủ đã”. Vị ấy nằm ngủ, không có cố gắng để đạt cái chưa đạt, để thành cái chưa thành, để chứng cái chưa chứng. Ðây là giải đải sự thứ hai.
Một lẽ nữa, vị tỳ khưu cần đi đường xa, vị ấy nghĩ như sau: “Ta sẽ đi đuờng xa, nhưng trong lúc đi đường thân thể ta mệt nhọc, vậy thì ta hãy nằm ngủ đã”. Vị ấy nằm ngủ, không có cố gắng để đạt cái chưa đạt, để thành cái chưa thành, để chứng cái chưa chứng. Ðây là giải đải sự thứ ba.
Một lẽ nữa, vị tỳ khưu vừa đã đi đường xa, vị ấy nghĩ như sau: “Ta vừa đã đi đuờng xa, nhưng trong lúc đi đường thân thể ta mệt nhọc, vậy ta hãy nằm ngủ đã”. Vị ấy nằm ngủ, không có cố gắng để đạt cái chưa đạt, để thành cái chưa thành, để chứng cái chưa chứng. Ðây là giải đải sự thứ tứ.
Một lẽ nữa, vị tỳ khưu trong lúc đi vào làng hay thị trấn khất thực, không nhận được thức ăn dù ngon hoặc dở một cách đầy đủ thỏa mãn; vị ấy nghĩ như sau: “Ta vào làng hay thị trấn khất thực chẳng nhận được thức ăn dù ngon hoặc dở một cách đầy đủ thỏa mãn; thân thể ta mệt mỏi không thích nghi, vậy thì ta hãy nằm ngủ đã”. Vị ấy nằm ngủ, không có cố gắng để đạt cái chưa đạt, để thành cái chưa thành, để chứng cái chưa chứng. Ðây là giải đải sự thứ năm.
Một lẽ nữa, vị tỳ khưu khi vào làng hay thị trấn khất thực nhận được đồ ăn ngon hay dở một cách đầy đủ thỏa mãn, vị ấy nghĩ như sau: “Ta vào làng hay thị trấn khất thực được thức ăn ngon hay dở một cách đầy đủ thỏa mãn; thân thể ta nặng nề, không thích nghi như thể đậu ngâm vậy, thế thì ta hãy nằm ngủ đã”. Vị ấy nằm ngủ, không có cố gắng để đạt cái chưa đạt, để thành cái chưa thành, để chứng cái chưa chứng. Ðây là giải đải sự thứ sáu.
Một lẽ nữa, vị tỳ khưu có bịnh chút ít phát sanh, vị ấy nghĩ như sau: “Có bịnh chút ít đã phát sanh cho ta, có dịp để ngủ nghỉ, vậy thì ta hãy nằm nghĩ đã”. Vị ấy nằm ngủ, không có cố gắng để đạt cái chưa đạt, để thành cái chưa thành, để chứng cái chưa chứng. Ðây là giải đải sự thứ bảy.
Một lẽ khác nữa, vị tỳ khưu vừa khỏi bịnh, bịnh khỏi không bao lâu; vị ấy nghĩ như sau: “Ta vừa khỏi bịnh, bịnh khỏi không bao lâu, thân thể ta còn yếu, không thích nghi, vậy thì ta hãy nằm nghỉ đã”. Vị ấy nằm ngủ, không có cố gắng để đạt cái chưa đạt, để thành cái chưa thành, để chứng cái chưa chứng. Ðây là giải đải sự thứ tám. Những điều nầy là tám giải đải sự.
[1014] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ PHẢN ỨNG TÂM ÐỐI VỚI TÁM THẾ PHÁP (LOKADHAMMESU CITTASSA PATIGHĀTO)?
Tức là vui mừng khi được lợi, bực tức khi thất lợi; vui mừng khi có danh, bực tức khi mất danh; vui mừng khi được khen, bực tức khi bị chê; vui mừng khi hạnh phúc, bực tức khi đau khổ. Ðây là phản ứng tâm đối với tám thế pháp.
[1015] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ PHI THÁNH NGÔN (ANARIYAVO-HĀRA)?
Tức là không thấy nói thấy, không nghe nói nghe, không biết nói biết, không hiểu nói hiểu, thấy nói không thấy, nghe nói không nghe, biết nói không biết, hiểu nói không hiểu. Ðây là tám phi Thánh ngôn.
[1016] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ TÁM TÀ TÁNH (MICCHATĀ)?
Tức là tà kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà tinh tấn, tà niệm, tà định. Ðây là tám tà tánh.
[1017] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ TÁM LỖI BỊ CÁO (PURISADOSA)?
Ở đây, chư tỳ khưu tố cáo tội lỗi một vị tỳ khưu; vị tỳ khưu ấy khi bị chư tỳ khưu tố cáo tội lỗi bèn chạy tội bằng cách thất niệm, nói rằng: “Tôi không nhớ, tôi không nhớ”. Ðây là điều thứ nhất lỗi bị cáo.
Lại nữa, chư tỳ khưu tố cáo tội lỗi một vị tỳ khưu; vị tỳ khưu ấy khi bị chư tỳ khưu tố cáo tội lỗi, bèn phản kháng bên nguyên cáo rằng: “Có ích chi với lời nói của người ngu xuẩn dốt nát như ông chứ? Chắc ông tưởng là cần phải nói đến tôi à”. Ðây là điều thứ hai lỗi bị cáo.
Lại nữa, chư tỳ khưu tố cáo tội lỗi, một vị tỳ khưu; vị tỳ khưu ấy khi bị chư tỳ khưu tố cáo tội lỗi, bèn phản kháng cáo tố vị nguyên cáo rằng: “Chính ông cũng phạm tội này, ông hãy sám hối trước đi”. Ðây là điều thứ ba lỗi bị cáo.
Lại nữa, chư tỳ khưu tố cáo tội lỗi, một vị tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy khi bị chư tỳ khưu tố cáo tội lỗi, bèn tránh né vấn đề bằng vấn đề khác, nói lãng qua chuyện ngoài lề, bộc lộ sự giận dữ, sân hận và bực bội. Ðây là điều thứ tư lỗi bị cáo.
Lại nữa, chư tỳ khưu tố cáo tội lỗi một vị tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy khi bị chư tỳ khưu tố cáo tội lỗi, ở giữa Tăng chúng lại nói chuyện múa tay, quơ chân. Ðây là điều thứ năm lỗi bị cáo.
Lại nữa, chư tỳ khưu tố cáo tội lỗi một vị tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy khi bị chư tỳ khưu tố cáo tội lỗi, bèn im lặng làm phiền Tăng chúng. Ðây là điều thứ sáu lỗi bị cáo.
Lại nữa, chư tỳ khưu tố cáo tội lỗi một vị tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy khi bị chư ỳ khưu tố cáo tội lỗi, lại bất cần đến Tăng chúng, bất cần đến vị nguyên cáo, là kẻ có tội nhưng muốn đi thì bỏ đi. Ðây là điều thứ bảy lỗi bị cáo.
Lại nữa, chư tỳ khưu tố cáo tội lỗi một vị tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy khi bị chư tỳ khưu tố cáo tội lỗi đã nói lời như sau: “Tại sao các Tôn giả, các ông lại chú ý đến tôi nhiều quá thế? Nay tôi sẽ xả bỏ điều học và sống đời thế tục”. Vị ấy, sau khi xả bỏ Học giới, sống đời thế tục, mới nói như vầy nữa: “Các Tôn Giả, nay ông chắc là vừa lòng”. Ðây là điều thứ tám lỗi bị cáo.
Những điều này là tám lỗi bị cáo.
[1018] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ TÁM VÔ TƯỞNG LUẬN (ASAÑÑI-VĀDA)?
Cho rằng: “Bản ngã có sắc, bất hoại sau khi chết” nên họ chủ trương bản ngã này vô tưởng.
Cho rằng: “Bản ngã này không sắc, bất hoại sau khi chết” nên họ chủ trương bản ngã này vô tưởng.
Cho rằng: “Bản ngã này có sắc và không có sắc, bất hoại sau khi chết” nên họ chủ trương bản ngã này vô tưởng.
Cho rằng: “Bản ngã này không phải có sắc cũng không phải không có sắc, bất hoại sau khi chết” nên họ chủ trương bản ngã này vô tưởng.
Cho rằng: “Bản ngã này có cùng tột, bất hoại sau khi chết” nên họ chủ trương bản ngã này vô tưởng.
Cho rằng: “Bản ngã này không cùng tột, bất hoại sau khi chết” nên họ chủ trương bản ngã này vô tưởng.
Cho rằng: “Bản ngã không phải có cùng tột cũng không phải không cùng tột, bất hoại sau khi chết”, nên họ chủ trương bản ngã này vô tưởng. Ðây là tám vô tưởng luận.
[1019] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ TÁM PHI TƯỞNG PHI PHI TƯỞNG LUẬN (NEVASAÑÑINĀSAÑÑIVĀDA)?
Cho rằng: “Bản ngã có sắc, bất hoại sau khi chết” nên họ chủ trương bản ngã này phi tưởng phi phi tưởng.
Cho rằng: “Bản ngã không sắc, bất hoại sau khi chết”, nên họ chủ trương bản ngã này phi tưởng phi phi tưởng.
Cho rằng: “Bản ngã có sắc và không có sắc, bất hoại sau khi chết”, nên họ chủ trương bản ngã này phi tưởng phi phi tưởng.
Cho rằng: “Bản ngã không phải có sắc cũng không phải không sắc, bất hoại sau khi chết”, nên họ chủ trương bản ngã này phi tưởng phi phi tưởng.
Cho rằng: “Bản ngã có cùng tột, bất hoại sau khi chết”, nên họ chủ trương bản ngã này phi tưởng phi phi tưởng.
Cho rằng: “Bản ngã không cùng tột, bất hoại sau khi chết”, nên họ chủ trương bản ngã này phi tưởng phi phi tưởng.
Cho rằng: “Bản ngã có cùng tột và không cùng tột, bất hoại sau khi chết”, nên họ chủ trương bản ngã này phi tưởng phi phi tưởng.
Cho rằng: “Bản ngã không phải cùng tột cũng không phải không cùng tột, bất hoại sau khi chết”, nên họ chủ trương bản ngã này phi tưởng phi phi tưởng.
Ðây là tám phi tưởng phi phi tưởng luận.
XIỂN MINH PHẦN CHÍN CHI (Navakaniddesa)
[1020] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ CHÍN HIỀM KHÍCH SỰ (ĀGHĀTA-VATTHU)?
Sanh hiềm khích do nghĩ rằng: “Nó đã làm bất lợi cho tôi”.
Sanh hiềm khích do nghĩ rằng: “Nó đang làm bất lợi cho tôi”.
Sanh hiềm khích do nghĩ rằng: “Nó sẽ làm bất lợi cho tôi”.
Sanh hiềm khích do nghĩ rằng: “Nó đã làm bất lợi cho người thân, người yêu của ta”.
Sanh hiềm khích do nghĩ rằng: “Nó đang làm bất lợi cho người thân, người yêu của ta”.
Sanh hiềm khích do nghĩ rằng: “Nó sẽ làm bất lợi cho người thân, người yêu của ta”.
Sanh hiềm khích do nghĩ rằng: “Nó đã làm lợi ích cho người ghét, người nghịch của ta”.
Sanh hiềm khích do nghĩ rằng: “Nó đang làm lợi ích cho người ghét, người nghịch của ta”.
Sanh hiềm khích do nghĩ rằng: “Nó sẽ làm lợi ích cho người ghét, người nghịch của ta”.
Ðây là chín hiềm khích sự.
[1021] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ CHÍN TRẦN CẤU NHƠN (PURISA-MALA)?
Tức là sân hận, phản phúc, ganh tỵ, bỏn xẻn, gian lận, xảo quyệt, vọng ngôn, ác dục và tà kiến. Ðây là chín trần cấu nhơn.
[1022] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ CHÍN CÁCH NGÃ MẠN (NAVAVIDHĀ MĀNĀ)?
Hơn ỷ lại “ta hơn”, hơn ỷ lại “ta bằng”, hơn ỷ lại “ta thua”. Bằng ỷ lại “ta hơn”, bằng ỷ lại “ta bằng”, bằng ỷ lại “ta thua”. Thua ỷ lại “ta hơn”, thua ỷ lại “ta bằng”, thua ỷ lai “ta thua”. Ðây là chín cách ngã mạn.
[1023] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ CHÍN PHÁP ÁI CĂN (TANHĀMŪLA-KADHAMMA)?
Dựa vào ái sanh ra tầm cầu, dựa vào tầm cầu sanh ra lợi đắc, dựa vào lợi đắc sanh ra phân biệt, dựa vào phân biệt sanh ra dục tham, dựa vào dục tham sanh ra đam mê, dựa vào đam mê sanh ra chấp trước, dựa vào chấp trước sanh ra bỏn xẻn, dựa vào bỏn xẻn sanh ra bảo thủ; vì do bảo thủ nên sanh khởi nhiều ác bất thiện pháp như cầm gậy, trượng, cầm đao kiếm, luận tranh, phân tranh, đấu tranh, xung đột, vu khống, nói dối. Ðây là chín pháp ái căn.
[1024] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ CHÍN CHIỀU HƯỚNG (IÑJITA)?
Cho rằng “ta có”, đó là một chiều hướng.
Cho rằng “ta là”, đó là một chiều hướng.
Cho rằng “cái này là ta”, đó là một chiều hướng.
Cho rằng “Ta sẽ thành”, đó là một chiều hướng.
Cho rằng “Ta sẽ thành người hữu sắc”, đó là một chiều hướng.
Cho rằng “Ta sẽ thành người vô sắc”, đó là một chiều hướng.
Cho rằng “Ta sẽ thành người hữu tưởng”, đó là một chiều hướng.
Cho rằng “Ta sẽ thành người vô tưởng”, đó là một chiều hướng.
Cho rằng “Ta sẽ thành người phi tưởng phi phi tưởng”, đó là một chiều hướng.
Ðây là chín chiều hướng.
[1025] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ CHÍN HOANG TƯỞNG (MAÑÑITA) – CHÍN LOẠN TƯỞNG (PHANDITA) – CHÍN HÝ TƯỞNG (PAPAÑCITA) – CHÍN HÀNH TƯỞNG (SANKHATA)?
Cho rằng “ta có”, đó là một hành tưởng.
Cho rằng “ta là”, đó là một hành tưởng.
Cho rằng “cái này là ta”, đó là một hành tưởng.
Cho rằng “Ta sẽ thành”, đó là một hành tưởng.
Cho rằng “Ta sẽ thành người hữu sắc”, đó là một hành tưởng.
Cho rằng “Ta sẽ thành người vô sắc”, đó là một hành tưởng.
Cho rằng “Ta sẽ thành người hữu tưởng”, đó là một hành tưởng.
Cho rằng “Ta sẽ thành người vô tưởng”, đó là một hành tưởng.
Cho rằng “Ta sẽ thành người phi tưởng phi phi tưởng”, đó là một hành tưởng.
Ðây là chín hành tưởng.
XIỂN MINH PHẦN MƯỜI CHI (Dasakaniddesa)
[1026] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ MƯỜI PHIỀN NÃO SỰ (KILESAVATTHU)?
Tức là tham, sân, si, mạn, tà kiến, hoài nghi, hôn trầm, phóng dật, vô tầm vô quý. Ðây là mười phiền não sự.
[1027] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ MƯỜI HIỀM KHÍCH SỰ (ĀGHĀTAVATTHU)?
Nghĩ rằng: “Nó đã làm bất lợi cho ta” rồi sanh hiềm khích sự.
Nghĩ rằng: “Nó đang làm bất lợi cho ta” rồi sanh hiềm khích sự.
Nghĩ rằng: “Nó sẽ làm bất lợi cho ta” rồi sanh hiềm khích sự.
Nghĩ rằng: “Nó đã làm bất lợi, nó đang làm bất lợi, nó sẽ làm bất lợi cho người thân, người yêu của ta” rồi sanh hiềm khích sự.
Nghĩ rằng: “Nó đã làm ích lợi, nó đang làm ích lợi, nó sẽ làm ích lợi cho người ghét, người nghịch của ta” rồi sanh hiềm khích sự.
Hoặc giả sanh hiềm khích đối với sự kiện không thích hợp. Ðây là 10 hiềm khích sự.
[1028] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ MƯỜI BẤT THIỆN NGHIỆP ÐỒ (AKUSALAKAMMAPATHA)?
Tức là sát sanh, lấy vậy chưa cho, tà hạnh dục lạc, nói dối, nói đâm thọc, nói độc ác, nói nhảm nhí, tham ác, sân ác, tà kiến ác. Ðây là mười bất thiện nghiệp đồ.
[1029] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ MƯỜI TRIỀN PHƯỢC (SAÑÑOJANA)?
Tức là dục tham triền, sân hận triền, ngã mạn triền, tà kiến triền, hoài nghi triền, giới cấm thủ triền, hữu tham triền, tật triền, lận triền, vô minh triền. Ðây là mười triền phược.
[1030] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ MƯỜI TÀ TÁNH (MICCHATĀ)?
Tức là tà kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà tinh tấn, tà niệm, tà định, tà trí, tà giải thoát. Ðây là mười tà tánh.
[1031] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ MƯỜI TÔNG TÀ KIẾN (DASAVAT-THUKĀMICCHĀDIṬṬHI)?
Không có quả bố thí, không có quả hiến tế, không có quả cúng dường, dị thục quả của các nghiệp thiện hành ác hành không có, không có đời này, không có đời sau, không có mẹ, không có cha, không có hữu tình hóa sanh, không có các Sa môn Bà la môn chánh hướng chánh hạnh trong thế gian, là những vị đã tự mình thắng tri giác ngộ và tuyên bố về đời này và đời sau. Ðây là mười tông tà kiến.
[1032] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ MƯỜI TÔNG KẾT LUẬN KIẾN (DASAVATTHUKĀ ANTAGGĀHIKĀ DIṬṬHI)?
Cho rằng “thế gian thường còn” hay cho rằng “thế gian không tồn tại” hay cho rằng “thế gian hữu biên” hay cho rằng “thế gian vô biên” hay cho rằng “sinh mạng và thân thể là một” hay cho rằng “sinh mạng là khác, thân thể là khác”, hay cho rằng “Như Lai chúng còn sau khi chết” hay cho rằng “Như Lai chúng không còn sau khi chết” hay cho rằng “Như Lai chúng còn và không còn sau khi chết” hay là cho rằng “Như Lai chúng không còn cũng không không còn sau khi chết”. Ðây là mười tông kết luận kiến.
XIỂN MINH PHẦN MƯỜI TÁM CHI (Aṭṭhārasakaniddesa)
[1033] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ MƯỜI TÁM ÁI DU NƯƠNG NỘI UẨN (TANHĀVICARITĀNI AJJHATTIKASSA UPĀDĀYA)?
Nghĩ rằng là ta. Nghĩ rằng « Ta là thế này ». Nghĩ rằng « Ta là như vậy ». Nghĩ rằng « Ta là thế khác ». Nghĩ rằng « Ta sẽ la »ø. Nghĩ rằng « Ta sẽ là thế này ». Nghĩ rằng « Ta sẽ là như vậy ». Nghĩ rằng « Ta sẽ là thế khác ». Nghĩ rằng « Ta còn ». Nghĩ rằng « Ta mất ». Nghĩ rằng « Ta phải là ». Nghĩ rằng « Ta phải là thế này ». Nghĩ rằng « Ta phải là như vậy ». Nghĩ rằng « Ta phải là thế khác ». Nghĩ rằng « Ta cũng có thể là ». Nghĩ rằng « Ta cũng có thể là thế này ». Nghĩ rằng « Ta cũng có thể là như vậy ». Nghĩ rằng « Ta cũng có thể là khác ».
[1034] NGHĨ RẰNG “TA LÀ” (ASMĪ’TI) LÀ SAO?
Sắc, thọ, tưởng, hành thức không phân định được pháp chi, rồi khởi muốn rằng “Ta là”, khởi mạn rằng “ta là”, khởi kiến rằng “ta là”, chi có sự kiện ấy là có những pháp trở ngại này. Cũng là câu nói rằng “Ta là thế này” hay “Ta là như vậy” hay “Ta là cách khác”.
[1035] NGHĨ RẰNG “TA LÀ THẾ NÀY” (ITTHASMĪ’TI) TỨC LÀ SAO?
Tức nghĩ rằng “Ta là Hoàng Tộc” hay “Ta là Phạm Chí” hay “Ta là thương nhân” hay “ta là tiện nhân” hay “Ta là cư sĩ” hay “Ta là tu sĩ” hay “Ta là vị trời” hay “Ta là con người” hay “Ta là loài hữu sắc” hay “ta là loài vô sắc” hay “Ta là loài hữu tưởng” hay “Ta là loài Vô tưởng” hay “Ta là loài phi tưởng phi phi tưởng”. Câu “nghĩ rằng ta là thế này” ý như vậy.
[1036] NGHĨ RẰNG “TA LÀ NHƯ VẬY” (EVASMĪ’TI) TỨC LÀ SAO?
Tức là so sánh với người khác rồi nghĩ rằng “người ấy là Hoàng Tộc thế nào, ta cũng là Hoàng Tộc thế đó” hay nghĩ rằng “người ấy là Phạm Chí thế nào, ta cũng là Phạm Chí thế đó”; “người ấy là thương nhân thế nào, ta cũng là thương nhân thế đó”; “người ấy là tiện dân thế nào, ta cũng là tiện dân thế đó”; “người ấy là cư sĩ thế nào, ta cũng là cư sĩ thế đó”; “người ấy là tu sĩ thế nào, ta cũng là tu sĩ thế đó”; “người ấy là vị Trời như thế nào, ta cũng là vị Trời như thế đó”; “người ấy là con người như thế nào, ta cũng là con người thế đó”; “người ấy là loài hữu sắc thế nào, ta cũng là loài hữu sắc thế đó”; “người ấy là loài vô sắc thế nào, ta cũng là loài vô sắc thế đó”; “người ấy là loài hữu tưởng thế nào, ta cũng là loài hữu tưởng thế đó”; “người ấy là loài vô tưởng thế nào, ta cũng là loài vô tưởng thế đó”; “người ấy là loại phi tưởng phi phi tưởng thế nào, ta cũng là loài phi tưởng phi phi tưởng như thế đó”. Câu “nghĩ rằng ta là như vậy” ý như thế.
[1037] NGHĨ RẰNG “TA LÀ THẾ KHÁC” (AÑÑATHĀSMĪ’TI) TỨC LÀ SAO?
Tức là so sánh với người khác rồi nghĩ rằng “người ấy là Hoàng Tộc, ta không là Hoàng Tộc như thế” hay nghĩ rằng “người ấy là Phạm Chí, ta không là Phạm Chí như thế”, “người ấy là thương nhân, ta không là thương nhân như thế”, “người ấy là tiện dân, ta không là tiện dân như thế”, “người ấy là cư sĩ, ta không là cư sĩ như thế”, “người ấy là tu sĩ, ta không là tu sĩ như thế”, “người ấy là vị Trời như, ta không là vị Trời như như thế”, “người ấy là con người như, ta không là con người như thế”, “người ấy là loài hữu sắc, ta không là loài hữu sắc như thế”, “người ấy là loài vô sắc, ta không là loài vô sắc như thế”, “người ấy là loài hữu tưởng, ta không là loài hữu tưởng như thế”, “người ấy là loài vô tưởng, ta không là loài vô tưởng như thế”, “người ấy là loài phi tưởng phi phi tưởng, ta không là loài phi tưởng phi phi tưởng như như thế”. Câu “nghĩ rằng ta là thế khác” ý như vậy.
[1038] NGHĨ RẰNG “TA SẼ LÀ” (BHAVISSAN’TI) TỨC LÀ SAO?
Sắc, thọ, tưởng, hành, thức, không phân định được pháp chi, rồi khởi muốn rằng “ta sẽ là”, khởi mạn rằng “ta sẽ là”, khởi kiến là “ta sẽ là”, chi có sự kiện ấy là có những pháp trở ngại này. Cũng câu nói rằng “ta sẽ là thế này” hay “ta sẽ là như vậy” hay “ta sẽ là thế khác”.
[1039] NGHĨ RẰNG “TA SẼ LÀ THẾ NÀY” (ITTHAMBHAVISSAN’TI) TỨC LÀ SAO?
Tức là nghĩ rằng “ta sẽ là Hoàng Tộc” hoặc sẽ là Phạm Chí, hoặc sẽ là thương nhân, hoặc sẽ là tiện dân, hoặc sẽ là cư sĩ, hoặc sẽ là tu sĩ, hoặc sẽ là vị Trời, hoặc sẽ là loài người, hoặc sẽ là loài hữu sắc, hoặc sẽ là loài vô sắc, hoặc sẽ là loài hữu tưởng, hoặc sẽ là loài vô tưởng, hoặc sẽ là loài phi tưởng phi phi tưởng”. Câu “nghĩ rằng ta sẽ là thế này” ý như vậy.
[1040] NGHĨ RẰNG “TA SẼ LÀ NHƯ VẬY” (EVAM BHAVISSAN’TI) TỨC LÀ SAO?
Tức là so sánh với người khác rồi nghĩ rằng “người ấy là Hoàng Tộc thế nào, thì ta cũng sẽ là Hoàng Tộc thế ấy”, hay “người ấy là Phạm Chí thế nào, thì ta cũng sẽ là Phạm Chí như thế ấy”… (trùng)… người ấy là loài phi tưởng phi phi tưởng như thế nào, thì ta cũng sẽ là loài phi tưởng phi phi tưởng như thế ấy”. Câu “nghĩ rằng ta sẽ là như vậy” ý như thế.
[1041] NGHĨ RẰNG “TA SẼ LÀ THẾ KHÁC” (AÑÑATTĀ BHAVISSAN’TI) TỨC LÀ SAO?
Tức là so sánh với người khác rồi nghĩ rằng “người này là Hoàng Tộc, còn ta sẽ không là Hoàng Tộc như thế” hay “người ấy là Phạm Chí, còn ta sẽ không là Phạm Chí như thế”… (trùng)… hay “người ấy là loài phi tưởng phi phi tưởng, còn ta sẽ không là loài phi tưởng phi phi tưởng như thế”. Câu “nghĩ rằng ta sẽ là thế khác” ý như vậy.
[1042] NGHĨ RẰNG “TA CÒN” (ASASMĪTI), TỨC LÀ SAO?
Sắc, thọ, tưởng, hành, thức không phân định được pháp chi, rồi nghĩ rằng “ta thường còn, ta thường hằng, ta vĩnh cửu, ta đương nhiên không biến đổi”. Câu “ta còn” ý như vậy.
[1043] NGHĨ RẰNG “TA MẤT” (SĀTASMĪ’TI) TỨC LÀ SAO?
Sắc, thọ, tưởng, hành, thức không phân định được pháp chi rồi nghĩ rằng “ta sẽ bị đoạn diệt, sẽ bị tiêu hủy, sẽ không còn nữa”. Câu “ta mất” ý như vậy.
[1044] NGHĨ RẰNG “TA PHẢI LÀ” (SIYAN’TI) TỨC LÀ SAO?
Sắc, thọ, tưởng, hành, thức, không phân định được pháp chi rồi khởi muốn rằng “ta phải là”, khởi mạn rằng “ta phải là”, khởi kiến là “ta phải là”, khi có sự kiện ấy là có những pháp trở ngại này. Cũng là câu “ta phải là thế này” hay “ta phải là như vậy” hay “ta phải là thế khác”.
[1045] NGHĨ RẰNG “TA PHẢI LÀ THẾ NÀY” (ITTHAM SIYAN’TI) TỨC LÀ SAO?
Tức là nghĩ rằng “Ta phải là Hoàng Tộc” hay “Ta phải là Phạm Chí” hay “Ta phải là thương nhân” hay “Ta phải là tiện dân” hay “Ta phải là cư sĩ” hay “Ta phải là tu sĩ” hay “Ta phải là vị Trời” hay “Ta phải là loài người” hay “Ta phải là loài hữu sắc” hay “Ta phải là loài vô sắc” hay “Ta phải là loài hữu tưởng” hay “Ta phải là loài vô tưởng” hay “Ta phải là loài phi tưởng phi phi tưởng”. Câu “Ta phải là thế này” ý như vậy.
[1046] NGHĨ RẰNG “TA PHẢI LÀ NHƯ VẬY” (EVAM SIYAN’TI) TỨC LÀ SAO?
Tức là so sánh với người khác rồi nghĩ rằng “người ấy là Hoàng Tộc thế nào, ta phải là Hoàng Tộc như thế đó” hay “người ấy là Phạm Chí thế nào, ta phải là Phạm Chí thế đó”… (trùng)… hay “người ấy là loài phi tưởng phi phi tưởng như thế nào, ta phải là loài phi tưởng phi phi tưởng thế đó”. Câu “Ta phải là như vậy” ý như vậy.
[1047] NGHĨ RẰNG “TA PHẢI LÀ THẾ KHÁC” (AÑÑATHĀ SIYAN’TI) TỨC LÀ SAO?
Tức là so sánh với người khác rồi nghĩ rằng “người ấy là Hoàng Tộc, ta phải không là Hoàng Tộc như thế” hay “người ấy là Phạm Chí, ta phải không là Phạm Chí như thế”… (trùng)… hay “người ấy là loài phi tưởng phi phi tưởng, ta phải không là loài phi tưởng phi phi tưởng thế đó”. Câu “Ta phải làm như vậy” ý như vậy.
[1048] NGHĨ RẰNG “TA CŨNG CÓ THỂ LÀ” (APĀHAM SIYAN’TI) TỨC LÀ SAO?
Tức sắc, thọ, tưởng, hành, thức không phân định được pháp chi rồi khởi muốn rằng “ta cũng có thể là”, khởi mạn rằng “ta cũng có thể là”, khởi kiến rằng “ta cũng có thể là”; khi có sự kiện ấy là có những pháp trở ngại này. Cũng là câu “ta cũng có thể là thế này” hay “ta cũng có thể là như vậy” hay “ta cũng có thể là thế khác”.
[1049] NGHĨ RẰNG “TA CŨNG CÓ THỂ LÀ THẾ NÀY” (APĀHAM ITTHAM SIYAN’TI) TỨC LÀ SAO?
Tức là nghĩ rằng “Ta cũng có thể là Hoàng Tộc” hay “Ta cũng có thể là Phạm Chí” hay “Ta cũng có thể là thương nhân” hay “Ta cũng có thể là tiện dân” hay “Ta cũng có thể là cư sĩ” hay “Ta cũng có thể là tu sĩ” hay “Ta cũng có thể là vị Trời” hay “Ta cũng có thể là loài người” hay “Ta cũng có thể là loài hữu sắc” hay “Ta cũng có thể là loài vô sắc” hay “Ta cũng có thể là loài hữu tưởng” hay “Ta cũng có thể là loài vô tưởng” hay “Ta cũng có thể là loài phi tưởng phi phi tưởng”. Câu “Ta cũng có thể là thế này” ý như vậy.
[1050] NGHĨ RẰNG “TA CŨNG CÓ THỂ LÀ NHƯ VẬY” (APĀHAM EVAM SIYAN’TI) TỨC LÀ SAO?
Tức là so sánh với người khác rồi nghĩ rằng “người ấy là Hoàng Tộc thế nào, thì ta cũng có thể là Hoàng Tộc thế đó” hay “người ấy là Phạm Chí thế nào, thì ta cũng có thể là Phạm Chí thế đó”… (trùng)… hay “người ấy là loài phi tưởng phi phi tưởng thế nào, thì ta cũng có thể là loài phi tưởng phi phi tưởng thế đó”. Câu “Ta cũng có thể là như vậy” ý như thế.
[1051] NGHĨ RẰNG “TA CŨNG CÓ THỂ LÀ THẾ KHÁC” (APĀHAM AÑÑATHĀ SIYAN’TI) TỨC LÀ SAO?
Tức là so sánh với người khác rồi nghĩ rằng “người ấy là Hoàng Tộc, còn ta không thể là Hoàng Tộc như thế” hay “người ấy là Phạm Chí, còn ta không thể là Phạm Chí như thế”… (trùng)… hay “người ấy là loài phi tưởng phi phi tưởng, còn ta không thể là loài phi tưởng phi phi tưởng như thế”. Câu “Ta cũng có thể là khác” ý như vậy.
Ðây là mười tám ái du nương nội uẩn.
[1052] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ MƯỜI TÁM ÁI DU NƯƠNG NGOẠI UẨN (TANHĀVICARITĀNI BĀHIRASSA UPĀDĀYA)?
Nghĩ rằng “Ta là với hình thức nầy”
Nghĩ rằng “Ta là thế ấy với hình thức nầy”
Nghĩ rằng “Ta là như vậy với hình thức nầy”
Nghĩ rằng “Ta là thế khác với hình thức nầy”
Nghĩ rằng “Ta sẽ là với hình thức nầy”
Nghĩ rằng “Ta sẽ là thế ấy với hình thức nầy”
Nghĩ rằng “Ta sẽ là như vậy với hình thức nầy”
Nghĩ rằng “Ta sẽ là thế khác với hình thức nầy”
Nghĩ rằng “Ta sẽ còn với hình thức nầy”
Nghĩ rằng “Ta sẽ mất với hình thức nầy”
Nghĩ rằng “Ta phải là với hình thức nầy”
Nghĩ rằng “Ta phải là thế ấy với hình thức nầy”
Nghĩ rằng “Ta phải là như vậy với hình thức nầy”
Nghĩ rằng “Ta phải là thế khác với hình thức nầy”
Nghĩ rằng “Ta có thể là với hình thức nầy”
Nghĩ rằng “Ta có thể là thế ấy với hình thức nầy”
Nghĩ rằng “Ta có thể là như vậy với hình thức nầy”
Nghĩ rằng “Ta có thể là thế khác với hình thức nầy”
[1053] NGHĨ RẰNG “TA LÀ VỚI HÌNH THỨC NẦY” (IMINĀ ASMĪTI) TỨC LÀ SAO?
Sắc, thọ, tưởng, hành thức, sau khi phân định được một pháp chi, rồi khởi muốn rằng “Ta là với hình thức nầy”, khởi mạn rằng “Ta là với hình thức nầy”, khởi kiến rằng “Ta là với hình thức nầy”, khi có sự kiện ấy là có những chướng ngại nầy, cũng là câu “Ta là thế ấy với hình thức nầy” hay “Ta là như vậy với hình thức nầy” hay “Ta là thế khác với hình thức nầy”.
[1054] NGHĨ RẰNG “TA LÀ THẾ ẤY VỚI HÌNH THỨC NÀY” (IMINĀ ITTHASMĪTI) TỨC LÀ SAO?
Tức là nghĩ rằng “Ta là Hoàng Tộc với hình thức nầy” hay “Ta là Phạm Chí với hình thức nầy” hay “Ta là thương nhân với hình thức nầy” hay “Ta là tiện dân với hình thức nầy” hay “Ta là cư sĩ với hình thức nầy” hay “Ta là tu sĩ với hình thức nầy” hay “Ta là vị Trời với hình thức nầy” hay “Ta là loài người với hình thức nầy” hay “Ta là loài hữu sắc với hình thức nầy” hay “Ta là loài vô sắc với hình thức nầy” hay “Ta là loài hữu tưởng với hình thức nầy” hay “Ta là loài vô tưởng với hình thức nầy” hay “Ta là loài phi tưởng phi phi tưởng với hình thức nầy”. Câu “Ta là thế ấy với hình thức nầy” ý như vậy.
[1055] NGHĨ RẰNG “TA LÀ NHƯ VẬY VỚI HÌNH THỨC NẦY” (IMINĀ EVAMASMĪTI) TỨC LÀ SAO?
Tức là so sánh với người khác rồi nghĩ rằng “người ấy là Hoàng Tộc thế nào, thì ta cũng là Hoàng Tộc thế ấy với hình thức này” hay “người ấy là Phạm Chí thế nào, thì ta cũng là Phạm Chí thế ấy với hình thức này”… (trùng)… hay “người ấy là loài phi tưởng phi phi tưởng thế nào, thì ta cũng là loài phi tưởng phi phi tưởng thế ấy với hình thức này”. Câu “Ta cũng là như vậy với hình thức này” ý như vậy.
[1056] NGHĨ RẰNG “TA LÀ THẾ KHÁC VỚI HÌNH THỨC NẦY” (IMINĀ AÑÑATHĀSMĪTI) TỨC LÀ SAO?
Tức là so sánh với người khác rồi nghĩ rằng “người ấy là Hoàng Tộc, ta không là Hoàng Tộc như thế với hình thức này” hay “người ấy là Phạm Chí, ta không là Phạm Chí như thế với hình thức này”… (trùng)… hay “người ấy là loài phi tưởng phi phi tưởng, ta không phải là loài phi tưởng phi phi tưởng với hình thức này”. Câu “Ta là thế khác với hình thức nầy” ý như vậy.
[1057] NGHĨ RẰNG “TA SẼ LÀ VỚI HÌNH THỨC NẦY” (IMINĀ BHAVISSAN’TI) TỨC LÀ SAO?
Sắc, thọ, tưởng, hành thức, sau khi phân định được một pháp chi, rồi khởi muốn rằng “Ta sẽ là với hình thức nầy”, khởi mạn rằng “Ta sẽ là với hình thức nầy”, khởi kiến rằng “Ta sẽ là với hình thức nầy”, khi có sự kiện đó là có các chướng ngại nầy. Cũng là câu “Ta sẽ là thế ấy với hình thức nầy” hay “Ta sẽ là như vậy với hình thức nầy” hay “Ta sẽ là thế khác với hình thức nầy”.
[1058] NGHĨ RẰNG “TA SẼ LÀ THẾ ẤY VỚI HÌNH THỨC NÀY” (IMINĀ ITTHAM BHAVISSAN’TI) TỨC LÀ SAO?
Tức là nghĩ rằng “Ta sẽ là Hoàng Tộc với hình thức nầy” hay “Ta sẽ là Phạm Chí với hình thức nầy” hay “Ta sẽ là thương nhân với hình thức nầy” hay “Ta sẽ là tiện dân với hình thức nầy” hay “Ta sẽ là cư sĩ với hình thức nầy” hay “Ta sẽ là tu sĩ với hình thức nầy” hay “Ta sẽ là vị Trời với hình thức nầy” hay “Ta sẽ là loài người với hình thức nầy” hay “Ta sẽ là loài hữu sắc với hình thức nầy” hay “Ta sẽ là loài vô sắc với hình thức nầy” hay “Ta sẽ là loài hữu tưởng với hình thức nầy” hay “Ta sẽ là loài vô tưởng với hình thức nầy” hay “Ta sẽ là loài phi tưởng phi phi tưởng với hình thức nầy”. Câu “Ta sẽ là thế ấy với hình thức nầy” ý như vậy.
[1059] NGHĨ RẰNG “TA SẼ LÀ NHƯ VẬY VỚI HÌNH THỨC NẦY” (IMINĀ EVAM BHAVISSAN’TI) TỨC LÀ SAO?
Tức là so sánh với người khác rồi nghĩ rằng “người ấy là Hoàng Tộc thế nào, thì ta cũng là Hoàng Tộc thế ấy với hình thức này” hay “người ấy là Phạm Chí thế nào, thì ta cũng là Phạm Chí thế ấy với hình thức này”… (trùng)… hay “người ấy là loài phi tưởng phi phi tưởng thế nào, thì ta cũng là loài phi tưởng phi phi tưởng thế ấy với hình thức này”. Câu “Ta cũng sẽ là như vậy với hình thức này” ý như thế.
[1060] NGHĨ RẰNG “TA SẼ LÀ THẾ KHÁC VỚI HÌNH THỨC NẦY” (IMINĀ AÑÑATHĀ BHAVISSAN’TI) TỨC LÀ SAO?
Tức là so sánh với người khác rồi nghĩ rằng “người ấy là Hoàng Tộc, ta sẽ không là Hoàng Tộc như thế với hình thức này” hay “người ấy là Phạm Chí, ta sẽ không là Phạm Chí với hình thức này”… (trùng)… hay “người ấy là loài phi tưởng phi phi tưởng, ta sẽ không là loài phi tưởng phi phi tưởng như thế với hình thức này”. Câu “Ta sẽ là thế khác với hình thức nầy” ý như vậy.
[1061] NGHĨ RẰNG “TA CÒN VỚI HÌNH THỨC NẦY” (IMINĀ ASASMĪ’TI) TỨC LÀ SAO?
Tức là sắc, thọ, tưởng, hành, thức, phân định được một pháp chi rồi nghĩ rằng “Ta thường còn, ta thường hằng, ta vĩnh cửu, ta đương nhiên không biến đổi với hình thức này”. Câu “Ta còn với hình thức nầy” ý như vậy.
[1062] NGHĨ RẰNG “TA MẤT VỚI HÌNH THỨC NẦY” (IMINĀ SĀTASMĪ’TI) TỨC LÀ SAO?
Tức là sắc, thọ, tưởng, hành, thức phân định được một pháp chi rồi nghĩ rằng “Ta sẽ bị đoạn diệt, sẽ bị tiêu hủy, sẽ không còn nữa với hình thức nầy”. Câu “Ta mất với hình thức nầy” ý như vậy.
[1063] NGHĨ RẰNG “TA PHẢI LÀ VỚI HÌNH THỨC NẦY” (IMINĀ SIYAN’TI) TỨC LÀ SAO?
Tức là sắc, thọ, tưởng, hành thức, phân định được một pháp chi rồi khởi muốn rằng “Ta phải là với hình thức nầy”, khởi mạn rằng “Ta phải là với hình thức nầy”, khởi kiến rằng “Ta phải là với hình thức nầy”, khi có sự kiện ấy là có những chướng ngại nầy. Cũng là câu “Ta phải là thế ấy với hình thức nầy” hay “Ta phải là như vậy với hình thức nầy” hay “Ta phải là thế khác với hình thức nầy”.
[1064] NGHĨ RẰNG “TA PHẢI LÀ THẾ ẤY VỚI HÌNH THỨC NÀY” (IMINĀ ITTHAM SIYAN’TI) TỨC LÀ SAO?
Tức là nghĩ rằng “Ta phải là Hoàng Tộc với hình thức nầy” hay “Ta phải là Phạm Chí với hình thức nầy” hay “Ta phải là thương nhân với hình thức nầy” hay “Ta phải là tiện dân với hình thức nầy” hay “Ta phải là cư sĩ với hình thức nầy” hay “Ta phải là tu sĩ với hình thức nầy” hay “Ta phải là vị Trời với hình thức nầy” hay “Ta phải là loài người với hình thức nầy” hay “Ta phải là loài hữu sắc với hình thức nầy” hay “Ta phải là loài vô sắc với hình thức nầy” hay “Ta phải là loài hữu tưởng với hình thức nầy” hay “Ta phải là loài vô tưởng với hình thức nầy” hay “Ta phải là loài phi tưởng phi phi tưởng với hình thức nầy”. Câu “Ta phải là thế ấy với hình thức nầy” ý như vậy.
[1065] NGHĨ RẰNG “TA PHẢI LÀ NHƯ VẬY VỚI HÌNH THỨC NẦY” (IMINĀ EVAM SIYAN’TI) TỨC LÀ SAO?
Tức là so sánh với người khác rồi nghĩ rằng “người ấy là Hoàng Tộc thế nào, thì ta phải là Hoàng Tộc thế ấy với hình thức này” hay “người ấy là Phạm Chí thế nào, thì ta phải là Phạm Chí thế ấy với hình thức này”… (trùng)… hay “người ấy là loài phi tưởng phi phi tưởng thế nào, thì ta phải là loài phi tưởng phi phi tưởng thế ấy với hình thức này”. Câu “Ta phải là như vậy với hình thức này” ý như vậy.
[1066] NGHĨ RẰNG “TA PHẢI KHÁC VỚI HÌNH THỨC NẦY” (IMINĀ AÑÑATHĀ SIYAN’TI) TỨC LÀ SAO?
Tức là so sánh với người khác rồi nghĩ rằng: “người ấy là Hoàng Tộc, ta phải không là Hoàng Tộc như thế với hình thức này” hay “người ấy là Phạm Chí, ta phải không là Phạm Chí với hình thức này”… (trùng)… hay “người ấy là loài phi tưởng phi phi tưởng, ta phải không phải là loài phi tưởng phi phi tưởng như thế với hình thức này”. Câu “Ta phải là khác với hình thức nầy” ý như vậy.
[1067] NGHĨ RẰNG “TA CÓ THỂ LÀ VỚI HÌNH THỨC NẦY” (IMINĀ APĀHAṂ SIYAN’TI) TỨC LÀ SAO?
Sắc, thọ, tưởng, hành, thức, khi đã phân định được một pháp chi, rồi khởi muốn rằng “Ta cũng có thể là với hình thức nầy”, khởi mạn rằng “Ta cũng có thể là với hình thức nầy”, khởi kiến rằng “Ta cũng có thể là với hình thức nầy”, khi có sự kiện ấy là có những chướng ngại nầy, cũng là câu “Ta cũng có thể là thế ấy với hình thức nầy”; cũng là câu “Ta cũng có thể là như vậy với hình thức nầy” hay “Ta cũng có thể là khác với hình thức nầy”.
[1068] NGHĨ RẰNG “TA CŨNG CÓ THỂ LÀ THẾ ẤY VỚI HÌNH THỨC NÀY” (IMINĀ APĀHAM IṬṬHAṂ SIYAN’TI) TỨC LÀ SAO?
Tức là nghĩ rằng “Ta cũng có thể là Hoàng Tộc với hình thức nầy” hay “Ta cũng có thể là Phạm Chí với hình thức nầy” hay “Ta cũng có thể là thương nhân với hình thức nầy” hay “Ta cũng có thể là tiện dân với hình thức nầy” hay “Ta cũng có thể là cư sĩ với hình thức nầy” hay “Ta cũng có thể là tu sĩ với hình thức nầy” hay “Ta cũng có thể là loài người với hình thức nầy” hay “Ta cũng có thể là vị Trời với hình thức nầy” hay “Ta cũng có thể là loài hữu sắc với hình thức nầy” hay “Ta cũng có thể là loài vô sắc với hình thức nầy” hay “Ta cũng có thể là loài hữu tưởng với hình thức nầy” hay “Ta cũng có thể là loài vô tưởng với hình thức nầy” hay “Ta cũng có thể là loài phi tưởng phi phi tưởng với hình thức nầy”. Câu “Ta cũng có thể là thế ấy với hình thức nầy” ý như vậy.
[1069] NGHĨ RẰNG “TA CŨNG CÓ THỂ LÀ NHƯ VẬY VỚI HÌNH THỨC NẦY” (IMINĀ EVAṂ APAHĀṂ SIYAN’TI) TỨC LÀ SAO?
Tức là so sánh với người khác rồi nghĩ rằng: “Người ấy là Hoàng Tộc thế nào, thì ta cũng có thể là Hoàng Tộc thế ấy với hình thức này” hay “người ấy là Phạm Chí thế nào, thì ta cũng có thể là Phạm Chí thế ấy với hình thức này”… (trùng)… hay “người ấy là loài phi tưởng phi phi tưởng thế nào, thì ta cũng có thể là loài phi tưởng phi phi tưởng thế ấy với hình thức này”. Câu “Ta cũng có thể là như vậy với hình thức này” ý như vậy.
[1070] NGHĨ RẰNG “TA CŨNG CÓ THỂ LÀ THẾ KHÁC VỚI HÌNH THỨC NẦY” (IMINĀ APĀHAṂ AÑÑATHĀ SIYAN’TI) TỨC LÀ SAO?
Tức là so sánh với người khác rồi nghĩ rằng: “Người ấy là Hoàng Tộc nhưng ta không thể là Hoàng Tộc thế ấy với hình thức này” hay “người ấy là Phạm Chí nhưng ta không thể là Phạm Chí thế ấy với hình thức này”… (trùng)… hay “người ấy là loài phi tưởng phi phi tưởng nhưng ta không thể là loài phi tưởng phi phi tưởng như thế với hình thức này”. Câu “Ta cũng có thể là khác với hình thức nầy” ý như vậy.
Ðây là mười tám ái du nương ngoại uẩn.
[1071] MƯỜI TÁM ÁI DU NƯƠNG NỘI UẨN cộng chung với mười tám ái du nương ngoại uẩn đây, tổng kết là ba mươi sáu ái du. Thành thử, ba mươi sáu ái du quá khứ như vậy cộng chung với ba mươi sáu ái du vị lai là ba mươi sáu ái du hiện tại, tổng kết là một trăm lẻ tám ái du.
[1072] TRONG ẤY, THẾ NÀO LÀ SÁU MƯƠI HAI TÀ KIẾN (DVĀSATTHIDIṬṬHIGATA) ÐÃ ÐƯỢC ÐỨC THẾ TÔN THUYẾT TRONG BÀI KINH PHẠM VÕNG?
Tức là bốn thường luận[7], bốn nhất phần thường luận[8], bốn hữu biên vô biên luận[9], bốn ngụy biện luận[10], hai vô nhân luận[11], mười sáu tưởng luận[12], tám vô tưởng luận[13], tám phi tưởng phi phi tưởng luận[14], bảy đoạn luận[15], năm Níp Bàn hiện tại luận[16]. Ðây là sáu mươi hai tà kiến đã được Ðức Thế Tôn nói đến trong bài Kinh Phạm Võng (Brahmajāla).
TRỌN VẸN PHẦN TIỂU TÔNG PHÂN TÍCH
[1] Dhaja: “cây cờ”. Ý nói sự khoe khoang, phách lối.
[2] Ketukamyatā: “muốn trương cờ”. Ý nói sự phô trương thanh thế
[3] Kāmaguna, dục dật hệ. Guna ngoài nghĩa “ân đức, công đức”, còn có nghĩa là “chồng chất”, “sợi dây”. Ở đây Kāmaguna có thể dịch là “dục trưởng dưởng”, vì rằng ngũ trần sẽ hấp dẫn làm tăng trưởng lòng tham; có thể dịch là “dục dật hệ”, vì rằng ngũ trần có sức quyến rũ cột buộc lòng tham như sợi đây. ND.
[4] Muggasūpatā: Lời như “chè đậu”.
[5] Vericchaṃ, ích kỷ.
[6] Devo và Devaññataro và, vị thiên chủ hoặc vị thiên nhân. Tập Sớ giải thích là Devarāja (Thiên chủ) và Devaputta (Thiên tử).
[7] Sassatavādā.
[8] Ekaccasassatikā.
[9] Antānantikā.
[10] Amarāvikkhepikā.
[11] Adhiccasamuppannikā.
[12] Saññivādā.
[13] Asaññvādā.
[14] Nevasaññināsaññivādā.
[15] Ucchedavādā.
[16] Diṭṭhadhammanibbānavādā.
PHÁP TÂM PHÂN TÍCH (DHAMMAHADAYAVIBHANGA)
PHẦN HÀM TẬN YẾU HIỆP (Sabbasangāhikavāra)
[1073] CÓ BAO NHIÊU UẨN? Có bao nhiêu xứ? Có bao nhiêu giới? Có bao nhiêu Ðế? Có bao nhiêu quyền? Có bao nhiêu nhân? Có bao nhiêu thực? Có bao nhiêu xúc? Có bao nhiêu thọ? Có bao nhiêu tưởng? Có bao nhiêu tư? Có bao nhiêu tâm?
[1074] CÓ NĂM UẨN. Có mười hai xứ. Có mười tám giới. Có bốn đế. Có hai mươi hai quyền. Có chín nhân. Có bốn thực. Có bảy xúc. Có bảy thọ. Có bảy tưởng. Có bảy tư. Có bảy tâm.
[1075] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ NĂM UẨN (khandha)?
Tức là sắc uẩn, thọ uần, tưởng uần, hành uẩn, thức uẩn. Ðây gọi là năm uẩn.
[1076] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ MƯỜI HAI XỨ (Āyatana)?
Tức là nhãn xứ, sắc xứ, nhĩ xứ, thinh xứ, tỷ xứ, khí xứ, thiệt xứ, vị xứ, thân xứ, xúc xứ, ý xứ, pháp xứ. Ðây gọi là mười hai xứ.
[1077] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ MƯỜI TÁM GIỚI (Dhātu)?
Tức là nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới, nhĩ giới, thinh giới, nhĩ thức giới, tỷ giới, khí giới, tỷ thức giới, thiệt giới, vị giới, thiệt thức giới, thân giới, xúc giới, thân thức giới, ý giới, pháp giới, ý thức giới. Ðây gọi là mười tám giới.
[1078] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ BỐN ÐẾ (Sacca)?
Tức là khổ đế, tập đế, diệt đế, đạo đế. Ðây gọi là bốn đế.
[1079] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ HAI MƯƠI HAI CHI QUYỀN (Indriya)?
Tức là nhãn quyền, nhĩ quyền, tỷ quyền, thiệt quyền, thân quyền, ý quyền, nữ quyền, nam quyền, mạng quyền, lạc quyền, khổ quyền, hỷ quyền, ưu quyền, xả quyền, tín quyền, tấn quyền, niệm quyền, định quyền, tuệ quyền, tri vị tri quyền, tri dỉ tri quyền, tri cụ tri quyền. Ðây gọi là hai mươi hai quyền.
[1080] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ CHÍN NHÂN (Hetu)?
Có ba nhân thiện, có ba nhân bất thiện, có ba nhân vô ký.
TRONG ẤY, BA NHÂN THIỆN LÀ THẾ NÀO?
Tức là vô tham thiện nhân, vô sân thiện nhân, vô si thiện nhân. Ðây là ba nhân thiện.
TRONG ẤY, BA NHÂN BẤT THIỆN LÀ THẾ NÀO?
Tức là tham bất thiện nhân, sân bất thiện nhân, si bất thiện nhân. Ðây là ba bất thiện nhân.
TRONG ẤY, BA NHÂN VÔ KÝ LÀ THẾ NÀO?
Tức là vô tham, vô sân, vô si thuộc dị thục quả của các thiện pháp hoặc trong pháp vô ký tố. Ðây là ba nhân vô ký. Những nhân nầy gọi là chín nhân.
[1081] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ BỐN THỰC (Āhāra)?
Tức là đoàn thực, xúc thực, tư niệm thực, thức thực. Ðây gọi là bốn thực.
[1082] Ở ÐÂY, THẾ NÀO GỌI LÀ BẢY XÚC (Phassa)?
Tức là nhãn xúc, nhĩ xúc, tỷ xúc, thiệt xúc, thân xúc, ý giới xúc, ý thức giới xúc. Ðây gọi là bảy xúc.
[1083] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ BẢY THỌ (Vedanā)?
Tức là thọ sanh từ nhãn xúc, thọ sanh từ nhĩ xúc, thọ sanh từ tỷ xúc, thọ sanh từ thiệt xúc, thọ sanh từ thân xúc, thọ sanh từ ý giới xúc, thọ sanh từ ý thức giới xúc. Ðây gọi là bảy thọ.
[1084] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ BẢY TƯỞNG (Saññā)?
Tức là tưởng sanh từ nhãn xúc, tưởng sanh từ nhĩ xúc, tưởng sanh từ tỷ xúc, tưởng sanh từ thiệt xúc, tưởng sanh từ thân xúc, tưởng sanh từ ý giới xúc, tưởng sanh từ ý thức giới xúc. Ðây gọi là bảy tưởng.
[1085] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ BẢY TƯ (Cetanā)?
Tức là tư sanh từ nhãn xúc, tư sanh từ nhĩ xúc, tư sanh từ tỷ xúc, tư sanh từ thiệt xúc, tư sanh từ thân xúc, tư sanh từ ý giới xúc, tư sanh từ ý thức giới xúc. Ðây gọi là bảy tư.
[1086] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ BẢY TÂM (Citta)?
Tức là nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý giới và ý thức giới. Ðây gọi là bảy tâm.
PHẦN SANH BẤT SANH (Uppattānuppattivāra)
[1087] TRONG DỤC GIỚI (KĀMADHĀTU) CÓ BAO NHIÊU UẨN?… (trùng)… CÓ BAO NHIÊU TÂM?
Trong Dục giới có năm uẩn, mười hai xứ, mười tám giới, ba đế, hai mươi hai quyền, chín nhân, bốn thực, bảy xúc, bảy thọ, bảy tưởng, bảy tư, bảy tâm.
Ở ÐÂY, NĂM UẨN TRONG DỤC GIỚI LÀ THẾ NÀO?
Tức là sắc uẩn… (trùng)… thức uẩn. Ðây gọi là năm uẩn trong Dục giới.
Ở ÐÂY, MƯỜI HAI XỨ TRONG DỤC GIỚI LÀ THẾ NÀO?
Tức là nhãn xứ, sắc xứ… (trùng)… ý xứ, pháp xứ. Ðây gọi là mười hai xứ trong dục giới.
Ở ÐÂY, MƯỜI TÁM GIỚI TRONG DỤC GIỚI LÀ THẾ NÀO?
Tức là nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới… (trùng)… ý giới, pháp giới, ý thức giới. Ðây gọi là mười tám giới trong dục giới.
Ở ÐÂY, BA ÐẾ TRONG DỤC GIỚI LÀ THẾ NÀO?
Tức là khổ đế, tập đế, đạo đế. Ðây gọi là ba đế trong dục giới.
Ở ÐÂY, HAI MƯƠI HAI QUYỀN TRONG DỤC GIỚI LÀ THẾ NÀO?
Tức là nhãn quyền… (trùng)… cụ tri quyền. Ðây gọi là hai mươi hai quyền trong Dục giới.
Ở ÐÂY, CHÍN NHÂN TRONG DỤC GIỚI LÀ THẾ NÀO?
Tức là ba thiện nhân, ba bất thiện nhân, ba vô ký nhân. Ðây gọi là chín nhân trong Dục giới.
Ở ÐÂY, BỐN THỰC TRONG DỤC GIỚI LÀ THẾ NÀO?
Tức là đoàn thực, xúc thực, tư niệm thực và thức thực. Ðây là bốn thực trong dục giới.
Ở ÐÂY, BẢY XÚC TRONG DỤC GIỚI LÀ THẾ NÀO?
Tức là nhãn xúc… (trùng)… ý thức giới xúc. Ðây gọi là bảy xúc trong dục giới.
Ở ÐÂY, BẢY THỌ… BẢY TƯỞNG… BẢY TƯ… BẢY TÂM TRONG DỤC GIỚI LÀ THẾ NÀO?
Tức là nhãn thức… (trùng)… ý giới, ý thức giới. Ðây gọi là bảy tâm trong dục giới.
[1088] TRONG SẮC GIỚI CÓ BAO NHIÊU UẨN… (trùng)… CÓ BAO NHIÊU TÂM?
Trong sắc giới có năm uẩn, sáu xứ, chín giới, ba đế, mười bốn quyền, tám nhân, ba thực, bốn xúc, bốn thọ, bốn tưởng, bốn tư, bốn tâm.
Ở ÐÂY, NĂM UẨN TRONG SẮC GIỚI LÀ THẾ NÀO?
Tức là sắc uẩn… (trùng)… thức uẩn. Ðây gọi là năm uẩn trong sắc giới.
Ở ÐÂY, SÁU XỨ TRONG SẮC GIỚI LÀ THẾ NÀO?
Tức là nhãn xứ, sắc xứ, nhĩ xứ, thinh xứ, ý xứ, pháp xứ. Ðây gọi là sáu xứ trong sắc giới.
Ở ÐÂY, CHÍN GIỚI TRONG SẮC GIỚI LÀ THẾ NÀO?
Tức là nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới, nhĩ giới, thinh giới, nhĩ thức giới, ý giới, pháp giới, ý thức giới. Ðây gọi là chín giới trong sắc giới.
Ở ÐÂY, BA ÐẾ TRONG SẮC GIỚI LÀ THẾ NÀO?
Tức là khổ đế, tập đế, đạo đế. Ðây gọi là ba đế trong sắc giới.
Ở ÐÂY, MƯỜI BỐN QUYỀN TRONG SẮC GIỚI LÀ THẾ NÀO?
Tức là nhãn quyền, nhĩ quyền, ý quyền, mạng quyền, hỷ quyền, xả quyền, tín quyền, tấn quyền, niệm quyền, định quyền, tuệ quyền, tri vị tri quyền, tri dĩ tri quyền, tri cụ tri quyền. Ðây gọi là mười bốn quyền trong sắc giới.
Ở ÐÂY, TÁM NHÂN TRONG SẮC GIỚI LÀ THẾ NÀO?
Tức là ba nhân thiện, hai nhân bất thiện, ba nhân vô ký?
BA NHÂN THIỆN ẤY LÀ GÌ? Tức là vô tham thiện nhân, vô sân thiện nhân, vô si thiện nhân. Ðây là ba thiện nhân.
HAI BẤT THIỆN NHÂN ẤY LÀ GÌ? Tức là tham bất thiện nhân, si bất thiện nhân. Ðây là hai nhân bất thiện.
BA NHÂN VÔ KÝ ẤY LÀ GÌ? Là vô tham, vô sân, vô si thuộc quả của thiện pháp hay trong pháp vô ký tố đây là ba nhân vô ký. Những nhân nầy gọi là tám nhân trong sắc giới.
Ở ÐÂY, BA THỰC TRONG SẮC GIỚI LÀ THẾ NÀO?
Tức là xúc thực, tư niệm thực, thức thực. Ðây gọi là ba thực trong sắc giới.
Ở ÐÂY, BỐN XÚC TRONG SẮC GIỚI LÀ THẾ NÀO?
Tức là nhãn xúc, nhĩ xúc, ý giới xúc, ý thức giới xúc. Ðây gọi là bốn xúc trong sắc giới.
Ở ÐÂY, BỐN THỌ… BỐN TƯỞNG… BỐN TƯ… BỐN TÂM TRONG SẮC GIỚI LÀ THẾ NÀO?
Tức là nhãn thứ, nhĩ thức, ý giới, ý thức giới. Ðây là bôn tâm trong sắc giới.
[1089] TRONG VÔ SẮC GIỚI CÓ BAO NHIÊU UẨN… (trùng)… CÓ BAO NHIÊU TÂM?
Trong vô sắc giới có bốn uẩn, hai xứ, hai giới, ba đế, mười một quyền, tám nhân, ba thực, một xúc, một thọ, một tưởng, một tư, một tâm.
Ở ÐÂY, BỐN UẨN TRONG VÔ SẮC GIỚI LÀ THẾ NÀO?
Tức là thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn. Ðây gọi là bốn uẩn trong Vô sắc giới.
Ở ÐÂY, HAI XỨ TRONG VÔ SẮC GIỚI LÀ THẾ NÀO?
Tức là ý xứ và pháp xứ. Ðây gọi là hai xứ trong Vô sắc giới.
Ở ÐÂY, HAI GIỚI TRONG VÔ SẮC GIỚI LÀ THẾ NÀO?
Tức là ý thức giới và pháp giới. Ðây gọi là hai giới trong Vô sắc giới.
Ở ÐÂY, BA ÐẾ TRONG VÔ SẮC GIỚI LÀ THẾ NÀO?
Tức là khổ đế, tập đế, đạo đế. Ðây gọi là ba đế trong Vô sắc giới.
Ở ÐÂY, MƯỜI MỘT QUYỀN TRONG VÔ SẮC GIỚI LÀ THẾ NÀO?
Tức là ý quyền, mạng quyền, xả quyền, tín quyền, tấn quyền, niệm quyền, định quyền, tuệ quyền, tri vị tri quyền, tri dĩ tri quyền, tri cụ tri quyền. Ðây là mười một quyền trong vô sắc giới.
Ở ÐÂY, TÁM NHÂN TRONG VÔ SẮC GIỚI LÀ THẾ NÀO?
Tức là ba nhân thiện, hai nhân bất thiện, ba nhân vô ký. Ðây gọi là tám nhân trong vô sắc giới.
Ở ÐÂY, BA THỰC TRONG VÔ SẮC GIỚI LÀ THẾ NÀO?
Tức là xúc thực, tư niệm thực, và thức thực. Ðây gọi là ba thực trong Vô sắc giới.
Ở ÐÂY, MỘT XÚC TRONG VÔ SẮC GIỚI LÀ THẾ NÀO?
Tức là ý thức giới xúc. Ðây gọi là một xúc trong Vô sắc giới.
Ở ÐÂY, MỘT THỌ… MỘT TƯỞNG… MỘT TƯ… MỘT TÂM TRONG VÔ SẮC GIỚI LÀ THẾ NÀO?
Tức là ý thức giới. Ðây gọi là một tâm trong Vô sắc giới.
[1090] TRONG PHÁP PHI HỆ THUỘC[1] CÓ BAO NHIÊU UẨN… (trùng)… CÓ BAO NHIÊU TÂM?
Trong pháp phi hệ thuộc có bốn uẩn, hai xứ, hai giới, hai đế, mười hai quyền, sáu nhân, ba thực, một xúc, một thọ, một tưởng, một tư, một tâm.
Ở ÐÂY, BỐN UẨN TRONG PHÁP PHI HỆ THUỘC LÀ THẾ NÀO?
Tức là thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn. Ðây gọi là bốn uẩn trong pháp phi hệ thuộc.
Ở ÐÂY, HAI XỨ TRONG PHÁP PHI HỆ THUỘC LÀ THẾ NÀO?
Tức là ý xứ và pháp xứ. Ðây gọi là hai xứ trong pháp phi hệ thuộc.
Ở ÐÂY, HAI GIỚI TRONG PHÁP PHI HỆ THUỘC LÀ THẾ NÀO?
Tức là ý thức giới và pháp giới. Ðây gọi là hai giới trong pháp phi hệ thuộc.
Ở ÐÂY, HAI ÐẾ TRONG PHÁP PHI HỆ THUỘC LÀ THẾ NÀO?
Tức là đạo đế và Diệt đế. Ðây gọi là hai đế trong pháp phi hệ thuộc.
Ở ÐÂY, MƯỜI HAI QUYỀN TRONG PHÁP PHI HỆ THUỘC LÀ THẾ NÀO?
Tức là ý quyền, mạng quyền, hỷ quyền, xả quyền, tín quyền, tấn quyền, niệm quyền, định quyền, tuệ quyền, tri vị tri quyền, tri dĩ tri quyền, tri cụ tri quyền. Ðây gọi là mười hai quyền trong pháp phi hệ thuộc.
Ở ÐÂY, SÁU NHÂN TRONG PHÁP PHI HỆ THUỘC LÀ THẾ NÀO?
Tức là ba thiện nhân và ba vô ký nhân.
BA THIỆN NHÂN ẤY RA SAO?
Tức là vô tham thiện nhân, vô sân thiện nhân, vô si thiện nhân. Ðây là ba thiện nhân.
BA VÔ KÝ NHÂN ẤY RA SAO?
Tức là vô tham, vô sân, vô si thuộc quả của thiện. Ðây là ba nhân vô ký. Những nhân nầy gọi là sáu nhân trong pháp phi hệ thuộc.
Ở ÐÂY, BA THỰC TRONG PHÁP PHI HỆ THUỘC LÀ THẾ NÀO?
Tức là xúc thực, tư niệm thực và thức thực. Ðây gọi là ba thực trong pháp phi hệ thuộc.
Ở ÐÂY, MỘT XÚC TRONG PHÁP PHI HỆ THUỘC LÀ THẾ NÀO?
Tức là ý thức giới xúc. Ðây gọi là một xúc trong pháp phi hệ thuộc.
Ở ÐÂY, MỘT THỌ… MỘT TƯỞNG… MỘT TƯ… MỘT TÂM TRONG PHÁP PHI HỆ THUỘC LÀ THẾ NÀO?
Tức là ý thức giới. Ðây gọi là một tâm trong pháp phi hệ thuộc.
PHẦN QUAN HỆ BẤT QUAN HỆ (Pariyāpannāpariyāpannavāra)
[1091] TRONG NĂM UẨN CÓ BAO NHIÊU UẨN QUAN HỆ DỤC GIỚI? Có bao nhiêu uẩn không quan hệ dục giới?… (trùng)… trong bảy tâm có bao nhiêu tâm quan hệ dục giới? Có bao nhiêu tâm không quan hệ dục giới?
Sắc uẩn quan hệ dục giới; bốn uẩn (danh) có thể quan hệ dục giới, có thể không quan hệ dục giới.
Mười xứ quan hệ dục giới; hai xứ có thể là quan hệ dục giới, có thể là không quan hệ dục giới.
Mười sáu giới quan hệ dục giới; hai giới có thể là quan hệ dục giới, có thể là không quan hệ dục giới.
Tập đế quan hệ dục giới; hai đế không quan hệ dục giới; khổ đế có thể là quan hệ dục giới, có thể là không quan hệ dục giới.
Mười quyền quan hệ dục giới; ba quyền không quan hệ dục giới; chín quyền có thể là quan hệ dục giới, có thể là không quan hệ dục giới.
Ba nhân bất thiện quan hệ dục giới; sáu nhân có thể là quan hệ dục giới, có thể là không quan hệ dục giới.
Ðoàn thực quan hệ dục giới; ba thực có thể là quan hệ dục giới, có thể là không quan hệ dục giới.
Sáu xúc quan hệ dục giới; ý thức giới xúc có thể là quan hệ dục giới, có thể là không quan hệ dục giới.
Sáu thọ… sáu tưởng… sáu tư… sáu tâm quan hệ dục giới; ý thức giới có thể là quan hệ dục giới, có thể là không quan hệ dục giới.
[1092] TRONG NĂM UẨN CÓ BAO NHIÊU UẨN QUAN HỆ SẮC GIỚI? Có bao nhiêu uẩn không quan hệ sắc giới?… (trùng)… trong bảy tâm có bao nhiêu tâm quan hệ sắc giới? Có bao nhiêu tâm không quan hệ sắc giới.
Sắc uẩn không quan hệ sắc giới; bốn uẩn có thể là quan hệ sắc giới, có thể là không quan hệ sắc giới.
Mười xứ không quan hệ sắc giới; hai xứ có thể là quan hệ sắc giới, có thể là không quan hệ sắc giới.
Mười sáu giới không quan hệ sắc giới; hai giới có thể là quan hệ sắc giới, có thể là không quan hệ sắc giới.
Ba đế không quan hệ sắc giới; khổ đế có thể là quan hệ sắc giới, có thể là không quan hệ sắc giới.
Mười ba quyền không quan hệ sắc giới; chín quyền có thể là quan hệ sắc giới, có thể là không quan hệ sắc giới.
Ba nhân bất thiện không quan hệ sắc giới; sáu nhân có thể là quan hệ sắc giới, có thể là không quan hệ sắc giới.
Ðoàn thực không quan hệ sắc giới; ba thực có thể là quan hệ sắc giới, có thể là không quan hệ sắc giới.
Sáu xúc không quan hệ sắc giới; ý thức giới xúc có thể là quan hệ sắc giới, có thể là không quan hệ sắc giới.
Sáu thọ… sáu tưởng… sáu tư..ṣáu tâm không quan hệ sắc giới, ý thức giới có thể là quan hệ sắc giới, có thể là không quan hệ sắc giới.
[1093] TRONG NĂM UẨN CÓ BAO NHIÊU UẨN QUAN HỆ VÔ SẮC GIỚI? Có bao nhiêu uẩn không quan hệ vô sắc giới?… (trùng)… trong bảy tâm có bao nhiêu tâm quan hệ vô sắc giới? Có bao nhiêu tâm không quan hệ vô sắc giới?
Sắc uẩn không quan hệ vô sắc giới; bốn uẩn có thể quan hệ vô sắc giới, có thể không quan hệ vô sắc giới.
Mười xứ không quan hệ vô sắc giới; hai xứ có thể quan hệ vô sắc giới, có thể không quan hệ vô sắc giới.
Mười sáu giới không quan hệ vô sắc giới; hai giới có thể quan hệ vô sắc giới, có thể không quan hệ vô sắc giới.
Ba đế không quan hệ vô sắc giới; khổ đế có thể là quan hệ vô sắc giới, có thể là không quan hệ vô sắc giới.
Mười bốn quyền không quan hệ vô sắc giới; tám quyền có thể quan hệ vô sắc giới, có thể không quan hệ vô sắc giới.
Ba nhân bất thiện không quan hệ vô sắc giới; sáu nhân có thể quan hệ vô sắc giới, có thể không quan hệ vô sắc giới.
Ðoàn thực không quan hệ vô sắc giới; ba thực có thể quan hệ vô sắc giới, có thể không quan hệ vô sắc giới.
Sáu xúc không quan hệ vô sắc giới; ý thức giới có thể quan hệ vô sắc giới, có thể là không quan hệ vô sắc giới.
Sáu thọ… sáu tưởng… sáu tư..ṣáu tâm không quan hệ vô sắc giới, ý thức giới có thể là quan hệ vô sắc giới, có thể là không quan hệ vô sắc giới.
[1094] TRONG NĂM UẨN CÓ BAO NHIÊU UẨN THÀNH PHÁP HỆ THUỘC?
Có bao nhiêu uẩn thành pháp phi hệ thuộc?… (trùng)… Trong bảy tâm có bao nhiêu tâm thành pháp hệ thuộc? Có bao nhiêu tâm thành pháp phi hệ thuộc?
Sắc uẩn thành pháp hệ thuộc; bốn uẩn có thể là pháp hệ thuộc, có thể là pháp phi hệ thuộc.
Mười xứ thành pháp hệ thuộc; hai xứ có thể là pháp hệ thuộc, có thể là pháp phi hệ thuộc.
Mười sáu giới thành pháp hệ thuộc; hai giới có thể là pháp hệ thuộc, có thể là pháp phi hệ thuộc.
Hai đế thành pháp hệ thuộc; hai đế thành pháp phi hệ thuộc.
Mười quyền thành pháp hệ thuộc; ba quyền thành pháp phi hệ thuộc; chín quyền có thể là pháp hệ thuộc, có thể là pháp phi hệ thuộc.
Ba nhân bất thiện thành pháp hệ thuộc; sáu nhân có thể là pháp hệ thuộc, có thể là pháp phi hệ thuộc.
Ðoàn thực thành pháp hệ thuộc; ba thực có thể là pháp hệ thuộc, có thể là pháp phi hệ thuộc.
Sáu xúc thành pháp hệ thuộc; ý thức giới xúc có thể thành pháp hệ thuộc, có thể thành pháp phi hệ thuộc.
Sáu thọ… sáu tưởng… sáu tư… sáu tâm thành pháp hệ thuộc; ý thức giới có thể thành pháp hệ thuộc, có thể thành pháp phi hệ thuộc.
PHẦN HIỂN LỘ BẤT HIỂN LỘ (Vijjamānāvijjamānavāra)
[1095] TRONG DỤC GIỚI, THỜI TỤC SINH CÓ BAO NHIÊU UẨN HIỆN KHỞI?… (trùng)… CÓ BAO NHIÊU TÂM HIỆN KHỞI?
Trong dục giới thời tục sinh, năm uẩn khởi đủ cho mọi loài.
Một số loài hiện khởi mười một xứ, một số loài hiện khởi mười xứ, một số loài hiện khởi mười xứ khác, một số loài hiện khởi chín xứ, một số loài hiện khởi bảy xứ.
Một số loài hiện khởi mười một giới, một số loài hiện khởi mười giới, một số loài hiện khởi mười giới khác, một số loài hiện khởi chín giới, một số loài hiện khởi bảy giới.
Mọi loài đều hiện khởi một đế.
Một số loài hiện khởi mười bốn quyền, một số loài hiện khởi mười ba quyền, một số loài hiện khởi mười ba quyền khác, một số loài hiện khởi mười hai quyền, một số loài hiện khởi mười quyền, một số loài hiện khởi chín quyền, một số loài hiện khởi chín quyền khác, một số loài hiện khởi tám quyền, một số loài hiện khởi tám quyền khác, một số loài hiện khởi bảy quyền, một số loài hiện khởi năm quyền, một số loài hiện khởi bốn quyền.
Một số loài hiện khởi ba nhân, một số loài hiện khởi hai nhân, một số loài hiện khởi vô nhân.
Mọi loài đều hiện khởi bốn thực.
Mọi loài đều hiện khởi một xúc.
Mọi loài đều hiện khởi một thọ, một tưởng, một tư, một tâm.
[1096] TRONG DỤC GIỚI, THỜI TỤC SINH NĂM UẨN NÀO HIỆN KHỞI CHO MỌI LOÀI?
Tức là sắc uẩn… (trùng)… thức uẩn. Ðây là năm uẩn hiện khởi cho mọi loài trong dục giới thời tục sinh.
TRONG DỤC GIỚI THỜI TỤC SINH, MƯỜI MỘT XỨ HIỆN KHỞI CHO LOÀI NÀO?
Ðối với chư thiên Dục giới, nhơn loại Sơ kiếp, ngạ quỷ hóa sanh, A-tu-la hóa sanh, loài thú hóa sanh và loài địa ngục những hạng đầy đủ xứ trong thời tục sinh, có mười một xứ hiện khởi là nhãn xứ, sắc xứ, nhĩ xứ, tỷ xứ, khí xứ, thiệt xứ, vị xứ, thân xứ, xúc xứ, ý xứ và pháp xứ. Ðây là mười một xứ hiện khởi cho các loài đó trong dục giới thời tục sinh.
TRONG DỤC GIỚI THỜI TỤC SINH, MƯỜI XỨ HIỆN KHỞI CHO LOÀI NÀO?
Ðối với ngạ quỷ hóa sanh, A-tu-la hóa sanh, loài thú hóa sanh, loài địa ngục, những hạng sinh ra mù, thì trong thời tục sinh có mười xứ hiện khởi là sắc xứ, nhĩ xứ, tỷ xứ, khí xứ, thiệt xứ, vị xứ, thân xứ, xúc xứ, ý xứ và pháp xứ. Ðây là mười xứ hiện khởi cho những loài đó trong Dục giới tục sinh.
TRONG DỤC GIỚI THỜI TỤC SINH MƯỜI XỨ KHÁC HIỆN KHỞI CHO LOÀI NÀO?
Ðối với ngạ quỷ hóa sanh, A-tu-la hóa sanh, loài thú hóa sanh, loài địa ngục, những hạng sinh ra điếc thì trong thời tục sinh có mười xứ hiện khởi là nhãn xứ, sắc xứ, tỷ xứ, khí xứ, thiệt xứ, vị xứ, thân xứ, xúc xứ, ý xứ và pháp xứ. Ðây là mười xứ hiện khởi cho những loài đó trong Dục giới thời tục sinh.
TRONG DỤC GIỚI THỜI TỤC SINH CHÍN XỨ HIỆN KHỞI CHO LOÀI NÀO?
Ðối với ngạ quỷ hóa sanh, A-tu-la hóa sanh, loài thú hóa sanh, loài địa ngục, những hạng sinh ra đã mù điếc thì trong thời tục sinh có chín xứ hiện khởi là sắc xứ, tỷ xứ, khí xứ, thiệt xứ, vị xứ, thân xứ, xúc xứ, ý xứ và pháp xứ. Ðây là chín xứ hiện khởi cho loài đó trong Dục giới thời tục sinh.
TRONG DỤC GIỚI THỜI TỤC SINH, BẢY XỨ HIỆN KHỞI CHO LOÀI NÀO?
Ðối với loài hữu tình thai sanh trong thời tục sinh có bảy xứ hiện khởi là sắc xứ, khí xứ, vị xứ, thân xứ, xúc xứ, ý xứ và pháp xứ. Ðây là bảy xứ hiện khởi cho loài đó trong Dục giới thời tục sinh.
TRONG DỤC GIỚI THỜI TỤC SINH, MƯỜI MỘT GIỚI HIỆN KHỞI CHO LOÀI NÀO?
Ðối với chư Thiên Dục giới, nhân loại Sơ kiếp, ngạ quỷ hóa sanh, A-tu-la hóa sanh, loài thú hóa sanh, loài địa ngục, những hạng đầy đủ xứ, thì trong thời tục sinh có mười một giới hiện khởi là nhãn giới, sắc giới, nhĩ giới, tỷ giới, khí giới, thiệt giới, vị giới, thân giới, xúc giới, ý giới và pháp giới. Ðây là mười một giới hiện khởi cho các loài đó trong Dục giới thời tục sinh.
TRONG DỤC GIỚI THỜI TỤC SINH, MƯỜI GIỚI HIỆN KHỞI CHO LOÀI NÀO?
Ðối với ngạ quỷ hóa sanh, A-tu-la hóa sanh, loài thú hóa sanh, loài địa ngục, những hạng sinh ra mù, thì trong thời tục sinh có mười giới hiện khởi là sắc giới, nhĩ giới, tỷ giới, khí giới, thiệt giới, vị giới, thân giới, xúc giới, ý thức giới và pháp giới. Ðây là mười giới hiện khởi cho các loài đó trong Dục giới thời tục sinh.
TRONG DỤC GIỚI THỜI TỤC SINH, MƯỜI GIỚI KHÁC HIỆN KHỞI CHO LOÀI NÀO?
Ðối với ngạ quỷ hóa sanh, A-tu-la hóa sanh, loài thú hóa sanh, loài địa ngục, những hạng sinh ra điếc, thì trong thời tục sinh có mười giới hiện khởi là nhãn giới, sắc giới, tỷ giới, khí giới, thiệt giới, vị giới, thân giới, xúc giới, ý thức giới và pháp giới. Ðây là mười giới hiện khởi cho các loài đó trong Dục giới thời tục sinh.
TRONG DỤC GIỚI THỜI TỤC SINH, CHÍN GIỚI HIỆN KHỞI CHO LOÀI NÀO?
Ðối với ngạ quỷ hóa sanh, A-tu-la hóa sanh, loài thú hóa sanh, loài địa ngục, những hạng sanh ra đã mù điếc thì trong thời tục sinh có chín giới hiện khởi là sắc giới, tỷ giới, khí giới, thiệt giới, vị giới, thân giới, xúc giới, ý thức giới và pháp giới. Ðây là chín giới hiện khởi cho các loài đó trong Dục giới thời tái tục.
TRONG DỤC GIỚI THỜI TỤC SINH BẢY GIỚI HIỆN KHỞI CHO LOÀI NÀO?
Ðối với loài hữu tình thai sanh trong thời tục sinh có bảy giới hiện khởi là sắc giới, khí giới, vị giới, thân giới, xúc giới, ý thức giới và pháp giới. Ðây là bảy giới hiện khởi cho các loài đó trong Dục giới thời tục sinh.
TRONG DỤC GIỚI THỜI TỤC SINH MỘT ÐẾ NÀO HIỆN KHỞI CHO MỌI LOÀI?
Tức là khổ đế. Ðây là một đế hiện khởi cho mọi loài trong dục giới thời tục sinh.
TRONG DỤC GIỚI THỜI TỤC SINH MƯỜI BỐN QUYỀN HIỆN KHỞI CHO LOÀI NÀO?
Ðối với chư Thiên Dục giới hạn hữu nhân tưởng ưng trí, trong thời tục sinh có mười bốn quyền hiện khởi là nhãn quyền, nhĩ quyền, tỷ quyền, thiệt quyền, thân quyền, ý quyền, nữ quyền hoặc nam quyền, mạng quyền, hỷ quyền hoặc xả quyền, tín quyền, tấn quyền, niệm quyền, định quyền, tuệ quyền. Ðây là mười bốn quyền hiện khởi cho loài đó trong dục giới thời tục sinh.
TRONG DỤC GIỚI THỜI TỤC SINH MƯỜI BA QUYỀN HIỆN KHỞI CHO LOÀI NÀO?
Ðối với Chư Thiên dục giới hạng hữu nhân bất tương ưng trí trong thời tục sinh có mười ba quyền hiện khởi là nhãn quyền, nhĩ quyền, tỷ quyền, thiệt quyền, thân quyền, ý quyền, nữ quyền hoặc nam quyền, mạng quyền, hỷ quyền hoặc xả quyền, tín quyền, tấn quyền, niệm quyền, định quyền. Ðây là mười ba quyền hiện khởi cho loài đó trong dục giới thời tục sinh.
TRONG DỤC GIỚI THỜI TỤC SINH MƯỜI BA QUYỀN KHÁC NỮA HIỆN KHỞI CHO LOÀI NÀO?
Ðối với nhân loại Sơ kiếp hạng hữu nhân tương ưng trí, trong thời tục sinh có mười ba quyền hiện khởi là nhãn quyền, nhĩ quyền, tỷ quyền, thiệt quyền, thân quyền, ý quyền, mạng quyền, hỷ quyền, hoặc xả quyền, tín quyền, tấn quyền, niệm quyền, định quyền, tuệ quyền. Ðây là mười ba quyền khác nữa hiện khởi cho loài đó trong dục giới thời tục sinh.
TRONG DỤC GIỚI THỜI TỤC SINH MƯỜI HAI QUYỀN HIỆN KHỞI CHO LOÀI NÀO?
Ðối với nhân loại Sơ kiếp hạng hữu nhân bất tương ưng trí, trong thời tục sinh có mười hai quyền hiện khởi là nhãn quyền, nhĩ quyền, tỷ quyền, thiệt quyền, thân quyền, ý quyền, mạng quyền, hỷ quyền hoặc xả quyền, tín quyền, tấn quyền, niệm quyền, định quyền. Ðây là mười hai quyền hiện khởi cho loài đó trong dục giới thời tục sinh.
TRONG DỤC GIỚI THỜI TỤC SINH MƯỜI QUYỀN HIỆN KHỞI CHO LOÀI NÀO?
Ðối với loài hữu tình thai sanh hạng hữu nhân tương ưng trí, trong thời tục sinh có mười quyền hiện khởi là thân quyền, ý quyền, nữ quyền hoặc nam quyền, mạng quyền, hỷ quyền hoặc xả quyền, tín quyền, tấn quyền, niệm quyền, định quyền, tuệ quyền. Ðây là mười quyền hiện khởi cho loài đó trong dục giới thời tục sinh.
TRONG DỤC GIỚI THỜI TỤC SINH, CHÍN QUYỀN HIỆN KHỞI CHO LOÀI NÀO?
Ðối với loài hữu tình thai sanh hữu nhân bất tương ưng trí trong thời tục sinh, có chín quyền hiện khởi là thân quyền, ý quyền, nữ quyền hoặc nam quyền, hỷ quyền hoặc xả quyền, tín quyền, tấn quyền, niệm quyền, định quyền. Ðây là chín quyền hiện khởi cho loài đó trong dục giới thời tục sinh.
TRONG DỤC GIỚI THỜI TỤC SINH CHÍN QUYỀN KHÁC NỮA HIỆN KHỞI CHO LOÀI NÀO?
Ðối với ngạ quỷ hóa sanh, A-tu-la hóa sanh, loài thú hóa sanh, loài địa ngục, hạng đầy đủ xứ trong thời tục sinh có chín quyền hiện khởi là nhãn quyền, nhĩ quyền, tỷ quyền, thiệt quyền, thân quyền, ý quyền, nữ quyền hoặc nam quyền, mạng quyền, xả quyền. Ðây là chín quyền hiện khởi cho loài đó trong Dục giới thời tục sinh.
TRONG DỤC GIỚI THỜI TỤC SINH, TÁM QUYỀN HIỆN KHỞI CHO LOÀI NÀO?
Ðối với ngạ quỷ hóa sanh, A-tu-la hóa sanh, loài thú hóa sanh, loài địa ngục, hạng sanh ra mù, thì trong thời tục sinh có tám quyền hiện khởi là nhĩ quyền, tỷ quyền, thiệt quyền, thân quyền, ý quyền, nữ quyền hoặc nam quyền, mạng quyền, xả quyền. Ðây là tám quyền hiện khởi cho loài đó trong Dục giới thời tục sinh.
TRONG DỤC GIỚI THỜI TỤC SINH, TÁM QUYỀN KHÁC NỮA HIỆN KHỞI CHO LOÀI NÀO?
Ðối với ngạ quỷ hóa sanh, A-tu-la hóa sanh, loài thú hóa sanh, loài địa ngục, hạng sanh ra điếc trong thời tục sinh có tám quyền hiện khởi là nhãn quyền, tỷ quyền, thiệt quyền, thân quyền, ý quyền, nữ quyền hoặc nam quyền, mạng quyền, xả quyền. Ðây là tám quyền hiện khởi cho loài đó trong Dục giới thời tục sinh.
TRONG DỤC GIỚI THỜI TỤC SINH, BẢY QUYỀN HIỆN KHỞI CHO LOÀI NÀO?
Ðối với ngạ quỷ hóa sanh, A-tu-la hóa sanh, loài thú hóa sanh, loài địa ngục, hạng sanh ra đã mù điếc, thì trong thời tục sinh có bảy quyền hiện khởi là tỷ quyền, thiệt quyền, thân quyền, ý quyền, nữ quyền hoặc nam quyền, xả quyền, mạng quyền. Ðây là bảy quyền hiện khởi cho loài đó trong Dục giới thời tục sinh.
TRONG DỤC GIỚI THỜI TỤC SINH, NĂM QUYỀN HIỆN KHỞI CHO LOÀI NÀO?
Ðối với loài hữu tình thai sanh vô nhân, ngoài hạng trung tính, trong thời tục sinh có năm quyền hiện khởi là thân quyền, ý quyền, nữ quyền hoặc nam quyền, mạng quyền, xả quyền. Ðây là năm quyền hiện khởi cho loài đó trong Dục giới thời tục sinh.
TRONG DỤC GIỚI THỜI TỤC SINH, BỐN QUYỀN HIỆN KHỞI CHO LOÀI NÀO?
Ðối với loài hữu tình thai sanh vô nhân thuộc trung tính, trong thời tục sinh có bốn quyền hiện khởi là thân quyền, ý quyền, mạng quyền, xả quyền. Ðây là bốn quyền hiện khởi cho loài đó trong Dục giới thời tục sinh.
TRONG DỤC GIỚI THỜI TỤC SINH, BA NHÂN HIỆN KHỞI CHO LOÀI NÀO?
Ðối với chư Thiên giới, nhân loại sơ kiếp, loài hữu tình thai sanh, hạng hữu nhân tương ưng trí, trong thời tục sinh có ba nhân hiện khởi là vô tham dị thục nhân, vô sân dị thục nhân, vô si dị thục nhân. Ðây là ba nhân hiện khởi cho loài đó trong dục giới thời tục sinh.
TRONG DỤC GIỚI THỜI TỤC SINH HAI NHÂN HIỆN KHỞI CHO LOÀI NÀO?
Ðối với chư Thiên dục giới, nhân loại sơ kiếp, loài hữu tình thai sanh, hạng hữu nhân bất tương ưng trí, trong thời tục sinh có hai nhân hiện khởi là vô tham dị thục nhân, vô sân dị thục nhân. Ðây là hai nhân hiện khởi cho loài đó trong dục giới thời tục sinh.
Ðối với loài hữu tình ngoài ra thì vô nhân hiện khởi.
TRONG DỤC GIỚI THỜI TỤC SINH, BỐN THỰC NÀO HIỆN KHỞI CHO MỌI LOÀI?
Tức là đoàn thực, xúc thực, tư niệm thực, thức thực. Ðây là bốn thực hiện khởi cho mọi loài trong dục giới thời tục sinh.
TRONG DỤC GIỚI THỜI TỤC SINH MỘT XÚC NÀO HIỆN KHỞI CHO MỌI LOÀI?
Tức là ý thức giới xúc. Ðây là một xúc hiện khởi cho mọi loài trong dục giới thời tục sinh.
TRONG DỤC GIỚI THỜI TỤC SINH MỘT THỌ… MỘT TƯỞNG… MỘT TƯ… MỘT TÂM NÀO HIỆN KHỞI CHO MỌI LOÀI?
Tức là ý thức giới. Ðây là một tâm hiện khởi cho mọi loài trong dục giới thời tục sinh.
[1097] TRONG SẮC GIỚI THỜI TỤC SINH CÓ BAO NHIÊU UẨN HIỆN KHỞI?… (trùng)… CÓ BAO NHIÊU TÂM HIỆN KHỞI?
Trong Sắc giới thời tục sinh, ngoại trừ chư thiên chúng sanh vô tưởng, còn thì có năm uẩn hiện khởi, có năm xứ hiện khởi, có năm giới hiện khởi, có một đế hiện khởi, có mười quyền hiện khởi, có ba nhân hiện khởi, có ba thực hiện khởi, có một xúc hiện khởi, có một thọ… một tưởng… một tư… một tâm hiện khởi.
[1098] TRONG SẮC GIỚI THỜI TỤC SINH NĂM UẨN THẾ NÀO HIỆN KHỞI?
Tức là sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn. Ðây là năm uẩn hiện khởi trong cõi dục giới thời tục sinh.
TRONG SẮC GIỚI THỜI TỤC SINH NĂM XỨ THẾ NÀO HIỆN KHỞI?
Tức là nhãn xứ, sắc xứ, nhĩ xứ, ý xứ và pháp xứ. Ðây là năm xứ hiện khởi trong sắc giới thời tục sinh.
TRONG SẮC GIỚI THỜI TỤC SINH NĂM GIỚI THẾ NÀO LÀ HIỆN KHỞI?
Tức là nhãn giới, sắc giới, nhĩ giới, ý thức giới, pháp giới. Ðây là năm giới hiện khởi trong sắc giới thời tục sinh.
TRONG SẮC GIỚI THỜI TỤC SINH, MỘT ÐẾ THẾ NÀO HIỆN KHỞI?
Tức là khổ đế. Ðây là một đế thể hiện khởi trong Sắc giới thời tục sinh.
TRONG SẮC GIỚI THỜI TỤC SINH, MƯỜI QUYỀN THẾ NÀO HIỆN KHỞI?
Tức là nhãn quyền, nhĩ quyền, ý quyền, mạng quyền, hỷ quyền, hoặc xả quyền, tín quyền, tấn quyền, niệm quyền, định quyền, tuệ quyền. Ðây là mười quyền hiện khởi trong Sắc giới thời tục sinh.
TRONG SẮC GIỚI THỜI TỤC SINH, BA NHÂN THẾ NÀO HIỆN KHỞI?
Tức là vô tham dị thục nhân, vô sân dị thục nhân, vô si dị thục nhân. Ðây là ba nhân hiện khởi trong sắc giới thời tục sinh.
TRONG SẮC GIỚI THỜI TỤC SINH, BA THỰC THẾ NÀO HIỆN KHỞI?
Tức là xúc thực, tư niệm thực, thức thực. Ðây là ba thực hiện khởi trong Sắc giới thời tục sinh.
TRONG SẮC GIỚI THỜI TỤC SINH, MỘT XÚC THẾ NÀO HIỆN KHỞI?
Tức là ý thức giới xúc. Ðây là một xúc hiện khởi trong sắc giới thời tục sinh.
TRONG SẮC GIỚI THỜI TỤC SINH MỘT THỌ… MỘT TƯỞNG… MỘT TƯ… MỘT TÂM THẾ NÀO HIỆN KHỞI?
Tức là ý thức giới. Ðây là một tâm hiện khởi trong sắc giới thời tục sinh.
[1099] TRONG THỜI TỤC SINH CỦA CHƯ THIÊN CHÚNG SANH VÔ TƯỞNG CÓ BAO NHIÊU UẨN HIỆN KHỞI?… (trùng)… CÓ BAO NHIÊU TÂM HIỆN KHỞI?
Ðối với Chư Thiên chúng sanh Vô tưởng trong thời tục sinh chỉ có một uẩn hiện khởi là sắc uẩn. Chỉ có hai xứ hiện khởi là sắc xứ và pháp xứ. Chỉ có hai giới hiện khởi là sắc giới và pháp giới. Chỉ có một đế hiện khởi là khổ đế. Chỉ có một quyền hiện khởi là sắc mạng quyền. Chư Thiên chúng sanh Vô tưởng không nhân, không thực, không xúc, không tưởng, không tư, không tâm hiện khởi.
[1100] TRONG VÔ SẮC GIỚI THỜI TỤC SINH CÓ BAO NHIÊU UẨN HIỆN KHỞI?… (trùng)… CÓ BAO NHIÊU TÂM HIỆN KHỞI?
Trong Vô sắc giới thời tục sinh có bốn uẩn hiện khởi, có hai xứ hiện khởi, có hai giới hiện khởi, có một đế hiện khởi, có tám quyền hiện khởi, có ba nhân hiện khởi, có ba thực hiện khởi, có một xúc hiện khởi, có một thọ… có một tưởng… có một tư… một tâm hiện khởi.
[1101 TRONG VÔ SẮC GIỚI THỜI TỤC SINH BỐN UẨN THẾ NÀO LÀ HIỆN KHỞI?
Tức là thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn. Ðây là bốn uẩn hiện khởi trong Vô sắc giới thời tục sinh.
TRONG VÔ SẮC GIỚI THỜI TỤC SINH HAI XỨ THẾ NÀO HIỆN KHỞI?
Tức là ý xứ và pháp xứ. Ðây là hai xứ hiện khởi trong Vô sắc giới thời tục sinh.
TRONG VÔ SẮC GIỚI THỜI TỤC SINH, HAI GIỚI THẾ NÀO HIỆN KHỞI?
Tức là ý thức giới và Pháp giới. Ðây là hai giới hiện khởi trong Vô sắc giới thời tục sinh.
TRONG VÔ SẮC GIỚI THỜI TỤC SINH MỘT ÐẾ NÀO HIỆN KHỞI?
Tức là khổ đế. Ðây là một đế hiện khởi trong Vô sắc giới thời tục sinh.
TRONG VÔ SẮC GIỚI THỜI TỤC SINH, TÁM QUYỀN THẾ NÀO HIỆN KHỞI?
Tức là ý quyền, mạng quyền, xả quyền, tín quyền, tấn quyền, niệm quyền, định quyền và tuệ quyền. Ðây là tám quyền hiện khởi trong Vô sắc giới thời tục sinh.
TRONG VÔ SẮC GIỚI THỜI TỤC SINH BA NHÂN THẾ NÀO HIỆN KHỞI?
Tức là vô tham dị thục nhân, vô sân dị thục nhân, vô si dị thục nhân. Ðây là ba nhân hiện khởi trong Vô sắc giới thời tục sinh.
TRONG VÔ SẮC GIỚI THỜI TỤC SINH BA THỰC THẾ NÀO HIỆN KHỞI?
Tức là xúc thực, tư niệm thực và thức thực. Ðây là ba thực hiện khởi trong Vô sắc giới thời tục sinh.
TRONG VÔ SẮC GIỚI THỜI TỤC SINH MỘT XÚC THẾ NÀO HIỆN KHỞI?
Tức là ý thức giới xúc. Ðây là một xúc trong Vô sắc giới thời tục sinh.
TRONG VÔ SẮC GIỚI THỜI TỤC SINH MỘT THỌ… MỘT TƯỞNG… MỘT TƯ… MỘT TÂM THẾ NÀO HIỆN KHỞI?
Tức là ý thức giới. Ðây là một tâm hiện khởi trong Vô sắc giới thời tục sinh.
PHẦN ÐỊA VỰC (Bhummantaravāra)
[1102] CÁC PHÁP DỤC GIỚI, các pháp phi dục giới, các pháp sắc giới, các pháp phi sắc giới, các pháp vô sắc giới, các pháp phi vô sắc giới, các pháp hệ thuộc, các pháp phi hệ thuộc.
[1103] THẾ NÀO LÀ CÁC PHÁP DỤC GIỚI?
Chỗ về phía dưới lấy tận cùng là địa ngục A-Tỳ, còn phía trên lấy cao tột là Tha Hóa Tự Tại thiên. Trong khoảng không gian đó, cái chi là uẩn, xứ, giới liên quan lãnh vực ấy, chỗ ấy, như sắc, thọ, tưởng, hành, thức thì đây gọi là pháp dục giới.
THẾ NÀO LÀ CÁC PHÁP PHI DỤC GIỚI?
Tức là sắc giới, vô sắc giới và pháp phi hệ thuộc. Ðây gọi là pháp phi dục giới.
THẾ NÀO LÀ CÁC PHÁP SẮC GIỚI?
Chỗ về phía dưới lấy tận cùng là cõi Phạm Chúng thiên, còn phía trên lấy cao tột là cõi Sắc Cứu Cánh thiên. Trong khoảng không gian đó chi là pháp tâm và sở hữu tâm của bậc nhập thiền hay bậc đã sanh lên hay bậc hiện tại lạc trú, có liên quan lãnh vực ấy, chỗ ấy. Ðây gọi là Pháp Sắc giới.
THẾ NÀO LÀ CÁC PHÁP PHI SẮC GIỚI?
Tức là dục giới, Vô sắc giới và pháp phi hệ thuộc. Ðây gọi là pháp phi sắc giới.
THẾ NÀO LÀ CÁC PHÁP VÔ SẮC GIỚI?
Chỗ về phía dưới lấy tận cùng là cõi Không vô biên xứ, còn về phía trên lấy cao tột là cõi Phi tưởng phi phi tưởng xứ thiên; trong khoảng không gian đó, chi là pháp tâm và sở hữu tâm của bậc nhập thiền hay bậc đã sanh lên hay bậc hiện tại lạc trú, có liên quan lãnh vực ấy, chỗ ấy. Ðây gọi là pháp vô sắc giới.
THẾ NÀO LÀ PHÁP PHI VÔ SẮC GIỚI?
Tức là dục giới, sắc giới và pháp phi hệ thuộc. Ðây gọi là pháp phi vô sắc giới.
THẾ NÀO LÀ CÁC PHÁP HỆ THUỘC?
Tức là các pháp thiện, bất thiện, vô ký hữu lậu, thành dục giới – sắc giới – vô sắc giới như sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn. Ðây gọi là pháp hệ thuộc.
THẾ NÀO LÀ CÁC PHÁP PHI HỆ THUỘC?
Tức là Ðạo, quả đạo và Vô vi giới. Ðây là pháp phi hệ thuộc.
PHẦN NGHIỆP SANH VÀ LƯỢNG TUỔI THỌ (Uppādakamma – Āyuppamānavāra)
[1104] NÓI RẰNG CHƯ THIÊN: Có ba hạng chư thiên là giả định thiên (sammatideva), Hóa sanh thiên (upattideva) và Thanh tịnh thiên (visuddhideva).
Hoàng đế, Hoàng Hậu, Hoàng tử gọi là giả định thiên; chư thiên thuộc cõi trên như kể từ chư thiên Tứ Ðại Vương, gọi là Hóa sanh thiên; chư vị A-la-hán được gọi là Thanh tịnh thiên.
[1105] NHỮNG NGƯỜI BỐ THÍ, TRÌ GIỚI, HẠNH TRAI SẼ SANH VỀ ÐÂU?
Những người bố thí, trì giới, hạnh trai rồi thì có một số sanh kết hợp với vua chúa hào phú; một số sanh kết hợp với hạng Bà la môn hào phú; một số sanh kết hợp với hạng gia chủ hào phú; có một số sanh kết hợp với chư thiên Tứ Ðại Vương; có một số sanh kết hợp với chư thiên Ðạo Lợi; có một số sanh kết hợp với chư thiên Dạ Ma; có một số sanh kết hợp với chư thiên Ðẩu Suất; có một số sanh kết hợp với chư thiên Hóa Lạc; có một số sanh kết hợp với chư thiên Tha Hóa Tự Tại.
[1106] SỐ LƯỢNG TUỔI THỌ CỦA NHÂN LOẠI CHỪNG BAO NHIÊU?
Chừng một trăm năm, hoặc ít hơn, hoặc nhiều hơn.
LƯỢNG TUỔI THỌ CỦA CHƯ THIÊN TỨ ÐẠI VƯƠNG CHỪNG BAO NHIÊU?
Cứ năm mươi năm cõi người đó là một ngày đêm của chư thiên Tứ Ðại Vương; ba mươi ngày đêm của chư thiên ấy là một tháng, mười hai tháng là một năm. Năm trăm năm cõi trời ấy là số lượng tuổi thọ của chư thiên Tứ Ðại Vương. Tính theo nhân loại chừng bao nhiêu? Ðược chín triệu năm (9.000.000).
LƯỢNG TUỔI THỌ CỦA CHƯ THIÊN ÐẠO LỢI CHỪNG BAO NHIÊU?
Cứ một trăm năm cõi nhân loại, đó là một ngày đêm của chư thiên cõi Ðạo Lợi; ba mươi ngày đêm ấy là một tháng, mười hai tháng ấy là một năm, một ngàn năm cõi Trời ấy là số lượng tuổi thọ của chư thiên Ðạo Lợi. Tính theo nhân loại chừng bao nhiêu? Ðược ba mươi sáu triệu năm (36.000.000).
LƯỢNG TUỔI THỌ CỦA CHƯ THIÊN DẠ MA CHỪNG BAO NHIÊU?
Cứ hai trăm năm cõi nhân loại, đó là một ngày đêm của chư thiên cõi Dạ Ma; ba mươi ngày đêm ấy là một tháng, mười hai tháng ấy là một năm, hai ngàn năm cõi Trời ấy là số lượng tuổi thọ của chư thiên cõi Dạ Ma. Tính theo nhân loại chừng bao nhiêu? Ðược một trăm bốn mươi bốn triệu năm (144.000.000).
LƯỢNG TUỔI THỌ CỦA CHƯ THIÊN ÐẨU SUẤT CHỪNG BAO NHIÊU?
Cứ bốn trăm năm cõi nhân loại, đó là một ngày đêm của chư thiên cõi Ðẩu Suất; ba mươi ngày đêm ấy là một tháng, mười hai tháng ấy là một năm, bốn ngàn năm cõi Trời ấy là số lượng tuổi thọ của chư thiên Ðẩu Suất. Tính theo nhân loại chừng bao nhiêu? Ðược năm trăm bảy mươi sáu triệu năm (576.000.000).
LƯỢNG TUỔI THỌ CỦA CHƯ THIÊN HÓA LẠC CHỪNG BAO NHIÊU?
Cứ tám trăm năm cõi nhân loại, đó là một ngày đêm của chư thiên cõi Hóa Lạc; ba mươi ngày đêm ấy là một tháng, mười hai tháng ấy là một năm, tám ngàn năm cõi Trời ấy là số lượng tuổi thọ của chư thiên Hóa Lạc. Tính theo nhân loại chừng bao nhiêu? Ðược hai tỷ ba trăm lẻ bốn triệu năm (2.304.000.000).
LƯỢNG TUỔI THỌ CỦA CHƯ THIÊN THA HÓA TỰ TẠI CHỪNG BAO NHIÊU?
Cứ một ngàn sáu trăm năm cõi nhân loại, đó là một ngày đêm của chư thiên cõi Tha Hóa Tự Tại; ba mươi ngày đêm ấy là một tháng, mười hai tháng ấy là một năm, mười sáu ngàn năm cõi Trời ấy là số lượng tuổi thọ của chư thiên Tha Hóa Tự Tại. Tính theo nhân loại được bao nhiêu? Ðược chín tỷ hai trăm mười sáu triệu năm (9.216.000.000).
Sáu dục giới thiên ấy
Sung mãn mọi dục lạc
Tuổi thọ của tất cả
Kể chung được bao nhiêu?
Ðược chừng mười hai tỷ
Hai trăm tám lăm triệu
Trình bày về niên kỷ.
[1107] HẠNG TU TIẾN SƠ THIỀN CẤP HY THIỂU SẼ SANH VỀ ÐÂU?
Hạng tu tiến Sơ thiền cấp hy thiểu sẽ sanh kết hợp với Phạm Chúng thiên (Brahmaparisajjā)
LƯỢNG TUỔI THỌ CỦA CÁC HẠNG ẤY CHỪNG BAO NHIÊU?
Chừng phần ba, phần tư đại kiếp.
HẠNG TU TIẾN SƠ THIỀN CẤP TRUNG BÌNH SẼ SANH VỀ ÐÂU?
Hạng tu tiến Sơ thiền cấp trung bình sẽ sanh kết hợp với Phạm Phụ thiên (Brahmapurohita)
LƯỢNG TUỔI THỌ CỦA HẠNG ẤY CHỪNG BAO NHIÊU?
Chừng phân nữa đại kiếp.
HẠNG TU TIẾN SƠ THIỀN CẤP TINH LƯƠNG SẼ SANH VỀ ÐÂU?
Hạng tu tiến Sơ thiền cấp tinh lương sẽ sanh kết hợp với Ðại Phạm Thiên (Mahābrahma).
LƯỢNG TUỔI THỌ CỦA HẠNG ẤY CHỪNG BAO NHIÊU?
Chừng một đại kiếp.
HẠNG TU TIẾN NHỊ THIỀN CẤP HY THIỂU SẼ SANH VỀ ÐÂU?
Hạng tu tiến Nhị thiền cấp hy thiểu sẽ sanh kết hợp với cõi Thiểu Quang Thiên (Parittābhā).
LƯỢNG TUỔI THỌ CỦA HẠNG ẤY CHỪNG BAO NHIÊU?
Chừng hai đại kiếp.
HẠNG TU TIẾN NHỊ THIỀN CẤP TRUNG BÌNH SẼ SANH VỀ ÐÂU?
Hạng tu tiến Nhị thiền cấp trung bình sẽ sanh kết hợp với cõi Vô lượng Quang thiên (Appamānābhā).
LƯỢNG TUỔI THỌ CỦA HẠNG ẤY CHỪNG BAO NHIÊU?
Chừng bốn đại kiếp.
HẠNG TU TIẾN NHỊ THIỀN CẤP TINH LƯƠNG SẼ SANH VỀ ÐÂU?
Hạng tu tiến Nhị thiền cấp tinh lương sẽ sanh kết hợp với cõi Quang Âm thiên (Abhassara).
LƯỢNG TUỔI THỌ CỦA HẠNG ẤY CHỪNG BAO NHIÊU?
Chừng tám đại kiếp.
HẠNG TU TIẾN TAM THIỀN CẤP HY THIỂU SẼ SANH VỀ ÐÂU?
Hạng tu tiến Tam thiền cấp hy thiểu sẽ sanh kết hợp với cõi Thiểu Tịnh Thiên (Parittasubha).
LƯỢNG TUỔI THỌ CỦA HẠNG ẤY CHỪNG BAO NHIÊU?
Chừng mười sáu đại kiếp.
HẠNG TU TIẾN TAM THIỀN CẤP TRUNG BÌNH SẼ SANH VỀ ÐÂU?
Hạng tu tiến Tam thiền cấp trung bình sẽ sanh kết hợp với cõi Vô lượng tịnh thiên (Appamānasubha).
LƯỢNG TUỔI THỌ CỦA HẠNG ẤY CHỪNG BAO NHIÊU?
Chừng ba mươi hai đại kiếp.
HẠNG TU TIẾN TAM THIỀN CẤP TINH LƯƠNG SẼ SANH VỀ ÐÂU?
Hạng tu tiến Tam thiền cấp tinh lương sẽ sanh kết hợp với cõi Biến Tịnh thiên (Subhakiṇhā).
LƯỢNG TUỔI THỌ CỦA HẠNG ẤY CHỪNG BAO NHIÊU?
Chừng sáu mươi bốn đại kiếp.
HẠNG TU TIẾN TỨ THIỀN do tình trạng cảnh khác nhau, do tác ý khác nhau, do ước vọng khác nhau, do bổn nguyện khác nhau, do chủ đích khác nhau, do hoài bão khác nhau, do tuệ khác nhau nên có một số sanh kết hợp cõi Vô Tưởng thiên ( Asaññasatta), có một số sanh kết hợp với cõi Quảng Quả thiên (Vehapphala), có một số sanh kết hợp với cõi Vô Phiền thiên (Avihā), có một số sanh kết hợp với cõi Vô Nhiệt thiên (Atappa), có một số sanh kết hợp với cõi Thiện Kiến thiên (Sudassa), có một số sanh kết hợp với cõi Thiện Hiện thiên (Sudassī), có một số sanh kết hợp với cõi Sắc Cứu Cánh thiên (Akanittha), có một số sanh kết hợp với cõi Không Vô biên xứ thiên (Ākāsānañcāyatanūpaga), có một số sanh kết hợp với cõi thức Vô biên xứ thiên (Viññanañcāyatanūpaga), có một số sanh kết hợp với Vô Sở Hữu xứ thiên (Ākiñcaññāyatanūpaga), có một số sanh kết hợp với cõi Phi tưởng phi phi tưởng thiên (Nevasaññānāsaññāyata-nūpaga).
LƯỢNG TUỔI THỌ CỦA HẠNG VÔ TƯỞNG THIÊN VÀ HẠNG QUẢNG QUẢ THIÊN LÀ BAO NHIÊU? Là năm trăm đại kiếp.
LƯỢNG TUỔI THỌ CỦA HẠNG VÔ PHIỀN THIÊN LÀ BAO NHIÊU? Là một ngàn đại kiếp.
LƯỢNG TUỔI THỌ CỦA HẠNG VÔ NHIỆT THIÊN LÀ BAO NHIÊU? Là hai ngàn đại kiếp.
LƯỢNG TUỔI THỌ CỦA HẠNG THIỆN KIẾN THIÊN LÀ BAO NHIÊU? Là bốn ngàn đại kiếp.
LƯỢNG TUỔI THỌ CỦA HẠNG THIỆN HIỆN THIÊN LÀ BAO NHIÊU? Là tám ngàn đại kiếp.
LƯỢNG TUỔI THỌ CỦA HẠNG SẮC CỨU CÁNH THIÊN LÀ BAO NHIÊU? Là mười sáu ngàn đại kiếp.
LƯỢNG TUỔI THỌ CỦA HẠNG KHÔNG VÔ BIÊN XỨ THIÊN LÀ BAO NHIÊU? Là hai mươi ngàn ngàn đại kiếp.
LƯỢNG TUỔI THỌ CỦA HẠNG THỨC VÔ BIÊN XỨ THIÊN LÀ BAO NHIÊU? Là bốn mươi ngàn đại kiếp.
LƯỢNG TUỔI THỌ CỦA HẠNG VÔ SỞ HỮU XỨ THIÊN LÀ BAO NHIÊU? Là sáu mươi ngàn đại kiếp.
LƯỢNG TUỔI THỌ CỦA HẠNG PHI TƯỞNG PHI PHI TƯỞNG THIÊN LÀ BAO NHIÊU? Là tám mươi bốn ngàn đại kiếp.
Dù được phước nâng đỡ
Sanh cõi Dục, cõi Sắc.
Hay đạt sanh hữu tột[2]
Cũng trở lại khổ thú.
Chúng sanh dù trường thọ
Hết tuổi thọ cũng chết.
Không có gì trường cửu
Bậc Ðại Sĩ nói vậy.
Bởi thế người trí tuệ
Khôn khéo suy nghĩ lý
Tu tập đạo tối thượng
Hầu thoát khỏi già chết.
Khi tu tập tịnh đạo
Lối dẫn chứng Níp Bàn
Liểu tri mọi lậu hoặc
Bậc vô lậu viên tịch.
PHẦN PHÁP CẦN THẮNG TRI v.v… (Abhiññeyyādivāro)
[1108] ÐỐI VỚI NĂM UẨN CÓ BAO NHIÊU PHÁP CẦN THẮNG TRI? CÓ BAO NHIÊU PHÁP CẦN BIẾN TRI? CÓ BAO NHIÊU PHÁP CẦN ÐOẠN TRỪ? CÓ BAO NHIÊU PHÁP CẦN TU TẬP? CÓ BAO NHIÊU PHÁP CẦN TÁC CHỨNG? CÓ BAO NHIÊU PHÁP KHÔNG CẦN ÐOẠN TRỪ? KHÔNG CẦN TU TẬP? KHÔNG CẦN TÁC CHỨNG?… (trùng)… ÐỐI VỚI BẢY TÂM CÓ BAO NHIÊU PHÁP CẦN THẮNG TRI? CÓ BAO NHIÊU PHÁP CẦN BIẾN TRI? CÓ BAO NHIÊU PHÁP CẦN TU TẬP? CÓ BAO NHIÊU PHÁP CẦN TÁC CHỨNG? CÓ BAO NHIÊU PHÁP KHÔNG CẦN ÐOẠN TRỪ? KHÔNG CẦN TU TẬP? KHÔNG CẦN TÁC CHỨNG?
Sắc uẩn cần được thắng tri, cần được biến tri, không cần đoạn trừ, không cần tu tập, không cần tác chứng. Bốn danh uẩn cần thắng tri, cần biến tri, có thể cần đoạn trừ, có thể cần tu tập, có thể cần tác chứng, có thể không cần đoạn trừ, có thể không cần tu tập, không cần tác chứng.
Mười xứ cần phải thắng tri, cần phải biến tri, không cần đoạn trừ, không cần tu tập, không cần tác chứng. Hai xứ cần phải thắng tri, cần phải biến tri, có thể cần đoạn trừ, có thể cần tu tập, có thể cần tác chứng, có thể không cần đoạn trừ, không cần tu tập, không cần tác chứng.
Mười sáu giới cần phải thắng tri, cần phải biến tri, không cần đoạn trừ, không cần tu tập, không cần tác chứng. Hai giới cần phải thắng tri, cần phải biến tri, có thể cần đoạn trừ, có thể cần tu tập, có thể cần tác chứng, có thể không cần đoạn trừ, có thể không cần tu tập, không cần tác chứng.
Tập đế cần phải thắng tri, cần phải biến tri, cần phải đoạn trừ, không cần tu tập, không cần tác chứng. Ðạo đế cần phải thắng tri, cần phải biến tri, không cần đoạn trừ, cần phải tu tập, không cần tác chứng. Diệt đế cần phải thắng tri, cần phải biến tri, không cần đoạn trừ, cần tu tập, cần tác chứng. Khổ đế cần thắng tri, cần biến tri, có thể cần đoạn trừ, không cần tu tập, không cần tác chứng, có thể không cần đoạn trừ.
Chín quyền cần thắng tri, cần biến tri, không cần đoạn trừ… không cần tu tập không cần tác chứng. Ưu quyền cần thắng tri, cần biến tri, cần đoạn trừ, không cần tu tập, không cần tác chứng. Tri vị tri quyền cần thắng tri, cần biến tri, không cần đoạn trừ, cần tu tập, không cần tác chứng. Tri dĩ tri quyền cần thắng tri, cần biến tri, không cần đoạn trừ, có thể cần tu tập, có thể cần tác chứng. Tri cụ tri quyền cần thắng tri, cần biến tri, không cần đoạn trừ, không cần tu tập, cần tác chứng. Ba quyền cần thắng tri, cần biến tri, không cần đoạn trừ, có thể cần tu tập, có thể cần tác chứng, có thể không cần tu tập, không cần tác chứng. Sáu quyền cần thắng tri, cần biến tri, có thể cần đoạn trừ, có thể cần tu tập, có thể cần tác chứng, có thể không cần đoạn trừ, không cần tu tập, không cần tác chứng.
Ba nhân bất thiện cần thắng tri, cần biến tri, cần đoạn trừ, không cần tu tập, không cần tác chứng. Ba nhân thiện cần thắng tri, cần biến tri, không cần đoạn trừ, có thể cần tu tập, không cần tác chứng, có thể không cần tu tập. Ba nhân vô ký cần thắng tri, cần biến tri, không cần đoạn trừ, không cần tu tập, có thể cần tác chứng, có thể không cần tác chứng.
Ðoàn thực cần thắng tri, cần biến tri, không cần đoạn trừ, không cần tu tập, không cần tác chứng. Ba thực (danh) cần thắng tri, cần biến tri, có thể cần đoạn trừ, có thể cần tu tập, có thể cần tác chứng, có thể không cần đoạn trừ, không cần tu tập, không cần tác chứng.
Sáu xúc cần thắng tri, cần biến tri, không cần đoạn trừ, không cần tu tập, không cần tác chứng. Ý thức giới xúc cần thắng tri, cần biến tri, có thể cần đoạn trừ, có thể cần tu tập, có thể cần tác chứng, có thể không cần đoạn trừ, không cần tu tập, không cần tác chứng.
Sáu thọ… sáu tưởng… sáu tư… sáu tâm cần thắng tri, cần biến tri, không cần đoạn trừ, không cần tu tập, không cần tác chứng. Ý thức giới cần thắng tri, cần biến tri, có thể cần đoạn trừ, có thể cần tu tập, có thể cần tác chứng, có thể không cần đoạn trừ, không cần tu tập, không cần tác chứng.
PHẦN CẢNH (Ārammanavāra)
[1109] ÐỐI VỚI NĂM UẨN CÓ BAO NHIÊU UẨN HỮU TRI CẢNH? CÓ BAO NHIÊU UẨN BẤT TRI CẢNH?… (trùng)… ÐỐI VỚI BẢY TÂM CÓ BAO NHIÊU TÂM HỮU TRI CẢNH? CÓ BAO NHIÊU TÂM BẤT TRI CẢNH?
Sắc uẩn bất tri cảnh[3]; bốn uẩn (danh) hữu tri cảnh[4].
Mười xứ bất tri cảnh; ý xứ hữu tri cảnh; pháp xứ có thể là hữu tri cảnh, có thể là bất tri cảnh.
Mười giới bất tri cảnh; bảy giới là hữu tri cảnh; pháp giới có thể là hữu tri cảnh, có thể là bất tri cảnh.
Hai đế hữu tri cảnh, diệt đế, bất tri cảnh; khổ đế có thể là hữu tri cảnh, có thể là bất tri cảnh.
Bảy quyền là bất tri cảnh; mười bốn quyền là hữu tri cảnh; mạng quyền có thể là hữu tri cảnh, có thể là bất tri cảnh.
Chín nhân là hữu tri cảnh.
Ðoàn thực là bất tri cảnh; ba thực (danh) là hữu tri cảnh.
Bảy xúc, bảy thọ, bảy tưởng, bảy tư, bảy tâm là hữu tri cảnh.
[1110] ÐỐI VỚI NĂM UẨN BAO NHIÊU UẨN CÓ ÐỐI TƯỢNG HỮU TRI CẢNH? BAO NHIÊU UẨN CÓ ÐỐI TƯỢNG BẤT TRI CẢNH? BAO NHIÊU UẨN KHÔNG CÓ ÐÔI TƯỢNG?… (trùng)… ÐỐI VỚI BẢY TÂM BAO NHIÊU TÂM CÓ ÐỐI TƯỢNG HỮU TRI CẢNH? BAO NHIÊU TÂM CÓ ÐỐI TƯỢNG BẤT TRI CẢNH? BAO NHIÊU TÂM KHÔNG CÓ ÐÔI TƯỢNG?
Sắc uẩn không có đối tượng[5]. Bốn uẩn (danh) có thể có đối tượng hữu tri cảnh[6], có thể có đối tượng bất tri cảnh[7].
Mười xứ không có đối tượng; ý xứ có thể có đối tượng hữu tri cảnh, có thể có đối tượng bất tri cảnh; pháp xứ có thể có đối tượng hữu tri cảnh, có thể có đối tượng bất tri cảnh, có thể không có đối tượng.
Mười giới không có đối tượng; sáu giới có đối tượng bất tri cảnh; ý thức giới có thể có đối tượng hữu tri cảnh, có thể có đối tượng bất tri cảnh; pháp giới có thể có đối tượng hữu tri cảnh, có thể có đối tượng bất tri cảnh, có thể không có đối tượng.
Diệt đế không có đối tượng; Ðạo đế có đối tượng bất tri cảnh; Tập đế có thể có đối tượng hữu tri cảnh, có thể có đối tượng bất tri cảnh; Khổ đế có thể có đối tượng hữu tri cảnh, có thể có đối tượng bất tri cảnh, có thể không có đối tượng.
Bảy quyền không có đối tượng; Năm quyền có đối tượng bất tri cảnh; chín quyền có thể có đối tượng hữu tri cảnh, có thể có đối tượng bất tri cảnh; Mạng quyền có thể có đối tượng hữu tri cảnh, có thể có đối tượng bất tri cảnh, có thể không có đối tượng.
Chín nhân có thể có đối tượng hữu tri cảnh, có thể có đối tượng bất tri cảnh.
Ðoàn thực không có đối tượng; ba thực (danh) có thể có đối tượng hữu tri cảnh, có thể có đối tượng bất tri cảnh.
Sáu xúc có đối tượng bất tri cảnh; ý thức giới xúc có thể có đối tượng hữu tri cảnh, có thể có đối tượng bất tri cảnh.
Sáu thọ… sáu tưởng… sáu tư… sáu tâm có đối tượng bất tri cảnh; ý thức giới có thể có đối tượng hữu tri cảnh, có thể có đối tượng bất tri cảnh.
PHẦN BỊ THẤY v.v… (Diṭṭhādivāro)
[1111] ÐỐI VỚI NĂM UẨN BAO NHIÊU UẨN BỊ THẤY? BAO NHIÊU UẨN BỊ NGHE? BAO NHIÊU UẨN BỊ NHẬN? BAO NHIÊU UẨN BỊ BIẾT? BAO NHIÊU UẨN KHÔNG BỊ THẤY? KHÔNG BỊ NGHE? KHÔNG BỊ NHẬN? KHÔNG BỊ BIẾT?… (trùng)… ÐỐI VỚI BẢY TÂM BAO NHIÊU TÂM BỊ THẤY? BAO NHIÊU TÂM BỊ NGHE? BAO NHIÊU TÂM BỊ NHẬN? BAO NHIÊU TÂM BỊ BIẾT? BAO NHIÊU TÂM KHÔNG BỊ THẤY? KHÔNG BỊ NGHE? KHÔNG BỊ NHẬN? KHÔNG BỊ BIẾT?
Sắc uẩn có thể bị thấy, có thể bị nghe, có thể bị nhận, có thể bị biết, có thể không bị thấy, không bị nghe, không bị nhận, chỉ bị biết. Bốn uẩn (danh) không bị thấy, không bị nghe, không bị nhận, chỉ bị biết.
Sắc xứ chỉ bị thấy, bị biết, không bị nghe, không bị nhận; thinh xứ chỉ bị nghe, bị biết, không bị thấy, không bị nhận; khí xứ, vị xứ, xúc xứ không bị thấy, không bị nghe, chỉ bị nhận, bị biết; bảy xứ không bị thấy, không bị nghe, không bị nhận, chỉ bị biết.
Sắc giới chỉ bị thấy, bị biết, không bị nghe, không bị nhận; thinh giới chỉ bị nghe, bị biết, không bị thấy, không bị nhận; khí giới, vị giới, xúc giới không bị thấy, không bị nghe, chỉ bị nhận, bị biết; mười ba giới không bị thấy, không bị nghe, không bị nhận, chỉ bị biết.
Ba đế không bị thấy, không bị nghe, không bị nhận, chỉ bị biết; khổ đế có thể bị thấy, có thể bị nghe, có thể bị nhận, có thể không bị thấy, có thể không bị nghe, có thể không bị nhận, chỉ bị biết.
Hai mươi hai quyền không bị thấy, không bị nghe, không bị nhận, chỉ bị biết.
Chín nhân không bị thấy, không bị nghe, không bị nhận, chỉ bị biết.
Bốn thực không bị thấy, không bị nghe, không bị nhận, chỉ bị biết
Bảy xúc không bị thấy, không bị nghe, không bị nhận, chỉ bị biết.
Bảy thọ… bảy tưởng… bảy tư… bảy tâm không bị thấy, không bị nghe, không bị nhận, chỉ bị biết.
PHẦN THEO MẪU ÐỀ TAM
[1112] ÐỐI VỚI NĂM UẨN CÓ BAO NHIÊU UẨN THIỆN? CÓ BAO NHIÊU UẨN BẤT THIỆN? CÓ BAO NHIÊU UẨN VÔ KÝ?… (trùng)… ÐỐI VỚI BẢY TÂM CÓ BAO NHIÊU TÂM THIỆN? CÓ BAO NHIÊU TÂM BẤT THIỆN? CÓ BAO NHIÊU TÂM VÔ KÝ?
Sắc uẩn là vô ký; bốn uẩn (danh) có thể là thiện, có thể là bất thiện, có thể là vô ký.
Mười xứ là vô ký; hai xứ có thể là thiện, có thể là bất thiện, có thể là vô ký.
Mười sáu giới là vô ký, hai giới có thể là thiện, có thể là bất thiện, có thể là vô ký.
Tập đế là bất thiện; đạo đế là thiện; diệt đế là vô ký; khổ đế có thể là bất thiện, có thể là thiện, có thể là vô ký.
Mười quyền là vô ký; ưu quyền là bất thiện; tri vị tri quyền là thiện; bốn quyền có thể là thiện, có thể là vô ký; sáu quyền có thể là thiện, có thể là bất thiện, có thể là vô ký.
Ba nhân bất thiện là bất thiện; ba nhân thiện là thiện; ba nhân vô ký là vô ký.
Ðoàn thực là vô ký; ba thực (danh) có thể là thiện, có thể là bất thiện, có thể là vô ký.
Sáu xúc là vô ký; ý thức giới xúc có thể là thiện, có thể là bất thiện, có thể là vô ký.
Sáu thọ… sáu tưởng… sáu tư… sáu tâm là vô ký; ý thức giới có thể là thiện, có thể là bất thiện, có thể là vô ký.
[1113] ÐỐI VỚI NĂM UẨN CÓ BAO NHIÊU UẨN TƯƠNG ƯNG LẠC THỌ? CÓ BAO NHIÊU UẨN TƯỞNG ƯNG KHỔ THỌ? CÓ BAO NHIÊU UẨN TƯƠNG ƯNG PHI KHỔ PHI LẠC THỌ?… (trùng)… ÐỐI VỚI BẢY TÂM CÓ BAO NHIÊU TÂM TƯƠNG ƯNG LẠC THỌ? BAO NHIÊU TÂM TƯỞNG ƯNG KHỔ THỌ? BAO NHIÊU TÂM TƯƠNG ƯNG PHI KHỔ PHI LẠC THỌ?
Hai uẩn không nên nói là tương ưng lạc thọ hay tương ưng khổ thọ hay tương ưng phi khổ phi lạc thọ; ba uẩn có thể là tương ưng lạc thọ, có thể là tương ưng khổ thọ, có thể là tương ưng phi khổ phi lạc thọ.
Mười xứ không nên nói là tương ưng lạc thọ hay tương ưng khổ thọ hay tương ưng phi khổ phi lạc thọ; ý xứ có thể là tương ưng lạc thọ, có thể là tương ưng khổ thọ, có thể là tương ưng phi khổ phi lạc thọ; Pháp xứ có thể là tương ưng lạc thọ, có thể là tương ưng khổ thọ, có thể là tương ưng phi khổ phi lạc thọ, có thể không nên nói là tương ưng lạc thọ, hay tương ưng khổ thọ, hay tương ưng phi khổ phi lạc thọ.
Mười giới không nên nói là tương ưng lạc thọ hay tương ưng khổ thọ hay tương ưng phi khổ phi lạc thọ; năm giới tương ưng phi khổ phi lạc thọ; thân thức giới có thể là tương ưng lạc thọ, có thể là tương ưng khổ thọ; ý thức giới có thể là tương ưng lạc thọ, có thể là tương ưng khổ thọ, có thể là tương ưng phi khổ phi lạc thọ.
Hai đế có thể là tương ưng lạc thọ, có thể là tương ưng phi khổ phi lạc thọ; Diệt đế không nên nói là tương ưng lạc thọ hay tương ưng khổ thọ hay tương ưng phi khổ phi lạc thọ; Khổ đế có thể là tương ưng lạc thọ, có thể là tương ưng khổ thọ, có thể là tương ưng phi khổ phi lạc thọ, có thể không nên nói là tương ưng lạc thọ, hay tương ưng khổ thọ, hay tương ưng phi khổ phi lạc thọ.
Mười hai quyền không nên nói là tương ưng lạc thọ hay tương ưng khổ thọ hay tương ưng phi khổ phi lạc thọ; sáu quyền có thể là tương ưng lạc thọ, có thể là tương ưng phi khổ phi lạc thọ; ba quyền có thể là tương ưng lạc thọ, có thể là tương ưng khổ thọ, có thể là tương ưng phi khổ phi lạc thọ; mạng quyền có thể là tương ưng lạc thọ, có thể là tương ưng khổ thọ, có thể là tương ưng phi khổ phi lạc thọ, có thể không nên nói là tương ưng lạc thọ, hay tương ưng khổ thọ, hay tương ưng phi khổ phi lạc thọ.
Sân bất thiện nhân chỉ tương ưng khổ thọ; bảy nhân có thể là tương ưng lạc thọ, có thể là tương ưng phi khổ phi lạc thọ; si bất thiện nhân có thể là tương ưng lạc thọ, có thể là tương ưng khổ thọ, có thể là tương ưng phi khổ phi lạc thọ.
Ðoàn thực không nên nói là tương ưng lạc thọ, hay tương ưng khổ thọ, hay tương ưng phi khổ phi lạc thọ; ba thực (danh) có thể là tương ưng lạc thọ, có thể là tương ưng khổ thọ, có thể là tương ưng phi khổ phi lạc thọ.
Năm xúc chỉ tương ưng phi khổ phi lạc thọ; thân xúc có thể tương ưng lạc thọ hay tương ưng khổ thọ; ý thức giới xúc có thể tương ưng lạc thọ, có thể tương ưng khổ thọ, có thể tương ưng phi khổ phi lạc thọ.
Bảy thọ không nên nói là tương ưng lạc thọ, hay tương ưng khổ thọ hay tương ưng phi khổ phi lạc thọ.
Năm tưởng… năm tư… năm tâm chỉ tương ưng phi khổ phi lạc thọ; thân thức có thể tương ưng lạc thọ hay tương ưng khổ thọ; ý thức giới có thể là tương ưng lạc thọ, có thể là tương ưng khổ thọ, có thể là tương ưng phi khổ phi lạc thọ.
[1114] ÐỐI VỚI NĂM UẨN CÓ BAO NHIÊU UẨN LÀ QUẢ? CÓ BAO NHIÊU UẨN LÀ NHÂN QUẢ? CÓ BAO NHIÊU UẨN LÀ PHI QUẢ PHI NHÂN QUẢ?… (trùng)… ÐỐI VỚI BẢY TÂM CÓ BAO NHIÊU TÂM LÀ QUẢ? CÓ BAO NHIÊU TÂM LÀ NHÂN QUẢ? CÓ BAO NHIÊU TÂM LÀ PHI QUẢ PHI NHÂN QUẢ?
Sắc uẩn là phi quả phi nhân quả; bốn uẩn (danh) có thể là quả, có thể là nhân quả, có thể là phi quả phi nhân quả.
Mười xứ là phi quả phi nhân quả; hai xứ có thể là quả, có thể là nhân quả, có thể là phi quả phi nhân quả.
Mười giới là phi quả phi nhân quả; năm giới là quả; ý giới có thể là quả, có thể là phi quả phi nhân quả; hai giới có thể là quả, có thể là nhân quả, có thể là phi quả phi nhân quả.
Hai đế là nhân quả; Diệt đế là phi quả phi nhân quả; Khổ đế có thể là quả, có thể là nhân quả, có thể là phi quả phi nhân quả.
Bảy quyền là phi quả phi nhân quả; ba quyền là quả; hai quyền là nhân quả; tri dĩ tri quyền có thể là quả, có thể là nhân quả; chín quyền có thể là quả, có thể là nhân quả, có thể là phi quả phi nhân quả.
Sáu nhân là nhân quả; ba nhân vô lý có thể là quả, có thể là phi quả phi nhân quả.
Ðoàn thực là phi quả phi nhân quả; ba thực (danh) có thể là quả, có thể là nhân quả, có thể là phi quả phi nhân quả.
Năm xúc là quả; ý giới xúc có thể là quả, có thể là phi quả phi nhân quả; ý thức giới xúc có thể là quả, có thể là nhân quả, có thể là phi quả phi nhân quả.
Năm thọ… năm tưởng… năm tư… năm tâm là quả; ý giới có thể là quả, có thể là phi quả phi nhân quả; ý thức giới có thể là quả, có thể là nhân quả, có thể là phi quả phi nhân quả.
[1115] ÐỐI VỚI NĂM UẨN CÓ BAO NHIÊU UẨN BỊ THỦ CẢNH THỦ? CÓ BAO NHIÊU UẨN KHÔNG BỊ THỦ CẢNH THỦ? CÓ BAO NHIÊU UẨN PHI BỊ THỦ PHI CẢNH THỦ?… (trùng)… ÐỐI VỚI BẢY TÂM CÓ BAO NHIÊU TÂM LÀ BỊ THỦ CẢNH THỦ? CÓ BAO NHIÊU TÂM LÀ PHI BỊ THỦ CẢNH THỦ? CÓ BAO NHIÊU TÂM PHI BỊ THỦ PHI CẢNH THỦ?
Sắc uẩn có thể là bị thủ cảnh thủ, có thể là phi bị thủ cảnh thủ; bốn uẩn (danh) có thể là bị thủ cảnh thủ, có thể là phi bị thủ cảnh thủ, có thể là phi bị thủ phi cảnh thủ.
Năm xứ là bị thủ cảnh thủ; thinh xứ là phi bị thủ cảnh thủ; bốn xứ có thể là bị thủ cảnh thủ, có thể là phi bị thủ cảnh thủ; hai xứ có thể là bị thủ cảnh thủ, có thể là phi bị thủ cảnh thủ, có thể là phi bị thủ phi cảnh thủ.
Mười giới là bị thủ cảnh thủ; thinh giới là phi bị thủ cảnh thủ; năm giới có thể là bị thủ cảnh thủ, có thể là phi bị thủ cảnh thủ, có thể là phi bị thủ phi cảnh thủ.
Tập đế là phi bị thủ cảnh thủ; hai đế là phi bị thủ phi cảnh thủ; khổ đế có thể là bị thủ cảnh thủ, có thể là phi bị thủ phi cảnh thủ.
Chín quyền là bị thủ cảnh thủ; ưu quyền là phi bị thủ cảnh thủ; ba quyền là phi bị thủ phi cảnh thủ; chín quyền có thể là bị thủ cảnh thủ, có thể là phi bị thủ cảnh thủ, có thể là phi bị thủ phi cảnh thủ.
Ba nhân bất thiện là phi bị thủ cảnh thủ; ba nhân thiện có thể là phi bị thủ cảnh thủ, có thể là phi bị thủ phi cảnh thủ; ba nhân vô ký có thể là bị thủ cảnh thủ, có thể là phi bị thủ cảnh thủ, có thể là phi bị thủ phi cảnh thủ.
Ðoàn thực có thể là bị thủ cảnh thủ, có thể là phi bị thủ cảnh thủ; ba thực (danh) có thể là bị thủ cảnh thủ, có thể là phi bị thủ cảnh thủ, có thể là phi bị thủ phi cảnh thủ.
Năm xúc là bị thủ cảnh thủ; ý giới xúc có thể là bị thủ cảnh thủ, có thể là phi bị thủ cảnh thủ; ý thức giới xúc có thể là bị thủ cảnh thủ, có thể là phi bị thủ cảnh thủ, có thể là phi bị thủ phi cảnh thủ.
Năm thọ… năm tưởng… năm tư… năm tâm là bị thủ cảnh thủ; ý giới có thể là bị thủ cảnh thủ, có thể là phi bị thủ cảnh thủ; ý thức giới có thể là bị thủ cảnh thủ, có thể là phi bị thủ cảnh thủ, có thể là phi bị thủ phi cảnh thủ.
[1116] ÐỐI VỚI NĂM UẨN BAO NHIÊU UẨN HỮU TẦM HỮU TỨ? BAO NHIÊU UẨN VÔ TẦM HỮU TỨ? BAO NHIÊU UẨN VÔ TẦM VÔ TỨ?… (trùng)… ÐỐI VỚI BẢY TÂM BAO NHIÊU TÂM HỮU TẦM HỮU TỨ? BAO NHIÊU TÂM VÔ TẦM HỮU TỨ? BAO NHIÊU TÂM VÔ TẦM VÔ TỨ?
Sắc uẩn là vô tầm vô tứ; ba uẩn có thể là hữu tầm hữu tứ, có thể là vô tầm hữu tứ, có thể là vô tầm vô tứ; hành uẩn có thể là hữu tầm hữu tứ, có thể là vô tầm hữu tứ, có thể là vô tầm vô tứ, có thể không nên nói là hữu tầm hữu tứ hay vô tầm hữu tứ hay vô tầm vô tứ.
Mười xứ là vô tầm vô tứ; ý xứ có thể là hữu tầm hữu tứ, có thể là vô tầm hữu tứ, có thể là vô tầm vô tứ; pháp xứ có thể là hữu tầm hữu tứ, có thể là vô tầm hữu tứ, có thể là vô tầm vô tứ, có thể không nên nói là hữu tầm hữu tứ, hay vô tầm hữu tứ, hay vô tầm vô tứ.
Mười lăm giới là vô tầm vô tứ; ý giới hữu tầm hữu tứ; ý thức giới có thể là hữu tầm hữu tứ, có thể là vô tầm hữu tứ, có thể là vô tầm vô tứ; pháp giới có thể là hữu tầm hữu tứ, có thể là vô tầm hữu tứ, có thể là vô tầm vô tứ, có thể không nên nói là hữu tầm hữu tứ, hay vô tầm hữu tứ, hay vô tầm vô tứ.
Tập đế là hữu tầm hữu tứ; Diệt đế là vô tầm vô tứ; đạo đế có thể là hữu tầm hữu tứ, có thể là vô tầm hữu tứ, có thể là vô tầm vô tứ; khổ đế có thể là hữu tầm hữu tứ, có thể là vô tầm hữu tứ, có thể là vô tầm vô tứ, có thể không nên nói là hữu tầm hữu tứ, hay vô tầm hữu tứ, hay vô tầm vô tứ.
Chín quyền là vô tầm vô tứ; ưu quyền là hữu tầm hữu tứ; xả quyền có thể là hữu tầm hữu tứ, có thể là vô tầm vô tứ; mười một quyền có thể là hữu tầm hữu tứ, có thể là vô tầm hữu tứ, có thể là vô tầm vô tứ.
Ba nhân bất thiện là hữu tầm hữu tứ; sáu nhân có thể là hữu tầm hữu tứ, có thể là vô tầm hữu tứ, có thể là vô tầm vô tứ.
Ðoàn thực là vô tầm vô tứ; ba thực (danh) có thể là hữu tầm hữu tứ, có thể là vô tầm hữu tứ, có thể là vô tầm vô tứ.
Năm xúc là vô tầm vô tứ; ý giới xúc là hữu tầm hữu tứ; ý thức giới xúc có thể là hữu tầm hữu tứ, có thể là vô tầm hữu tứ, có thể là vô tầm vô tứ.
Năm thọ… năm tưởng… năm tư… năm tâm là vô tầm vô tứ; ý giới là hữu tầm hữu tứ; ý thức giới có thể là hữu tầm hữu tứ, có thể là vô tầm hữu tứ, có thể là vô tầm vô tứ.
[1117] ÐỐI VỚI NĂM UẨN BAO NHIÊU UẨN THÀNH SẮC? BAO NHIÊU UẨN THÀNH PHI SẮC?… (trùng)… ÐỐI VỚI BẢY TÂM BAO NHIÊU TÂM THÀNH SẮC? BAO NHIÊU TÂM THÀNH PHI SẮC?
Sắc uẩn thành sắc; bốn uẩn (danh) thành phi sắc.
Mười xứ thành sắc; ý xứ thành phi sắc; pháp xứ có thể thành sắc, có thể thành phi sắc.
Mười giới thành sắc; bảy giới thành phi sắc; pháp giới có thể thành sắc, có thể thành phi sắc.
Ba đế thành phi sắc; khổ đế có thể thành sắc, có thể thành phi sắc.
Bảy quyền thành sắc; mười bốn quyền thành phi sắc; mạng quyền có thể thành sắc, có thể thành phi sắc.
Chín nhân thành phi sắc.
Ðoàn thực thành sắc; ba thực (danh) thành phi sắc.
Bảy xúc thành phi sắc.
Bảy thọ… bảy tưởng… bảy tư… bảy tâm thành phi sắc.
[1118] ÐỐI VỚI NĂM UẨN BAO NHIÊU UẨN THÀNH HIỆP THẾ? BAO NHIÊU UẨN THÀNH SIÊU THẾ?… (trùng)… ÐỐI VỚI BẢY TÂM BAO NHIÊU TÂM THÀNH HIỆP THẾ? BAO NHIÊU TÂM THÀNH SIÊU THẾ?
Sắc uẩn thành hiệp thế; bốn uẩn (danh) có thể thành hiệp thế, có thể thành siêu thế.
Mười xứ thành hiệp thế; hai xứ có thể thành hiệp thế, có thể thành siêu thế.
Mười sáu giới thành hiệp thế; hai giới có thể thành hiệp thế, có thể thành siêu thế.
Hai đế thành hiệp thế; hai đế thành siêu thế.
Mười quyền thành hiệp thế; ba quyền thành siêu thế; chín quyền có thể thành hiệp thế, có thể thành siêu thế.
Ba nhân bất thiện thành hiệp thế; sáu nhân có thể thành hiệp thế, có thể thành siêu thế.
Ðoàn thực thành hiệp thế; ba thực (danh) có thể thành hiệp thế, có thể thành siêu thế.
Sáu xúc thành hiệp thế; ý thức giới xúc có thể thành hiệp thế, có thể thành siêu thế.
Sáu thọ… sáu tưởng… sáu tư… sáu tâm thành hiệp thế; ý thức giới có thể thành hiệp thế, có thể thành siêu thế.
Phần thắng tri, nhị cảnh
Phần thấy, đề thiện, thọ
Ðề quả và đề thủ
Ðề tầm, sắc, hiệp thế.
TRỌN VẸN CHƯƠNG PHÁP TÂM PHÂN TÍCH
DỨT BỘ PHÂN TÍCH LUẬN
[1] Apariyāpanna.
[2] Bhavaggam: cõi sanh cao nhất, là chỉ cho cõi vô sắc giới.
[3] Sārammanam.
[4] Anārammanam.
[5] Anārammaṇa.
[6] Sārammanārammana.
[7] Anārammanārammana.
PHẦN TRÍCH CÚ TỪ ÐIỂN
(PADABHĀJANĪYĀNUKKAMO)
Akata. 899 không làm, chưa làm, chưa tạo, chưa hành, chưa thực hiện.
Akathaṅkathī 599.646. không ngờ vực, không nghi ngờ, không còn nghi nan, người chẳng nghi hoặc.
Akanittha deva 1103.1107. Sắc Cứu Cánh thiên, một trong năm cõi Tịnh Cư thiên.
Akanta 6.154.839. Không đáng ham thích, không khả hỷ.
Akappiya 638. Sự không thích đáng, việc không đáng, không thích hợp, không hợp lẽ.
Akappiyasaññitā 638. Nghĩ là không đáng.
Akammañña 1013. Không thích nghi.
Akammaññatā 633. 877. 960. Sự không thích hợp việc làm, không thích nghiệp, không thích nghi.
Akaraṇa 178. 583. 768. Không hành động, không hợp tác.
Akalyatā 633. 877. 960. Sự không khéo léo, không bén nhạy, sự không mạnh dạn.
Akarisa 830. Không nhọc nhằn, không khó.
Akāpurisasevita 834. Ðược thực hành bởi bậc phi thiện nhân.
Akicca 830. Không khó khăn, dễ làm.
Akiriyā 178. 583. 768. Không làm, không hợp tác.
Akuppa 601. Không rung động, không chuyển đổi, sự nhất định, nhất thiết.
Akusala 44. 85. nakevalam. Bất thiện, không lành, chẳng lành.
Akusala citta 291. 785. Tâm bất thiện.
Akusala mūla 912. Bất thiện căn, căn bất thiện.
Akusalamūlapaccaya 416. Duyên căn bất thiện, do căn bất thiện trợ.
Akusalasaññā 951. Bất thiện tưởng, tưởng bất thiện.
Akusalahetu 1080. Nhân bất thiện.
Akovida 932. 949. 963. Không thông suốt, không hiểu rành.
Akkosaka 604. Mạ lỵ, phỉ báng, mắng nhiếc.
Akkosanā 881. Sự mạ lỵ, sự phỉ báng, sự mắng nhiếc.
Akkhanti 850. Không nhẫn nại, không kham nhẫn.
Akkhamanatā 920. Thái độ không chịu đựng.
Akkhāyati 990. Biểu hiện, hiện bày, được xem là.
Akhīnāsava 868. Chưa đoạn tận lậu hoặc, chưa đoạn lậu.
Agati 965. Thiên vị, tây vị.
Agatigamana 965. Sự thiên vị, sự tây vị.
Aganthaniya 46. 90. 796. 803. nakevalam. Phi cảnh phược.
Agārava 995. Không kính trọng, không tôn kính, bất kính.
Agāravatā 872. 918. 951. 955. Thái độ không tôn trọng, không cung kính, thái độ bất kính.
Aguttadvāratā 607. 850. 922. Sự không phòng hộ căn môn.
Agutti 922. Sự không phòng hộ, không gìn giữ.
Agocara 604. Phi hành xứ.
Agopanā 922. Sự không bảo hộ, không gìn giữ, không trông coi.
Agga 601. Tối thắng.
Aggahitatta 910. 956. Thái độ không chiếu cố, không thu nhiếp tâm.
Aggi 946. Lửa.
Aggibhaya 972. Sự sợ hãi về lửa, hiểm nạn về lửa.
Aggisantāpa 117. Sức nóng của lửa.
Agha 119. 691. Trống rỗng, trống không.
Aghagata 119. 691. Hiện tượng trống không, trống rỗng.
Aṅgana 962. Sự cấu uế, sự nhơ bẩn.
Aṅgamaṅgānusārī vāta 118. Gió toàn thân, gió khắp chi thể.
Acari 926. 1020. 1027. Ðã gây ra, đã làm nên, đã hành động.
Acarima 795. 802. 839. Không sau cùng, không ở sau, không có sau.
Acitikāra 955. Không quí kính, không đặt nặng, không quan trọng hóa.
Acitīkata 6. Không ái mộ.
Acittaka 1099. Vô tâm, người không có tâm.
Aciravutthita 1013. Khỏi (bệnh) không bao lâu.
Acetanaka 1099. Vô tư, hạng người không có tư tưởng.
Acetasika 93. 795. 801. nakevalam (nhiều đoạn) phi sở hữu tâm, phi tâm sở.
Accāsarā 911. Sự trá hình.
Acchandika 844. Không hoài bảo, không nguyện vọng, không ước vọng.
Ajāta 3. 9. 15. 21. 27. Chưa sanh.
Ajjhatta 4. 45. 85. 115. 432. 641. 797. 850. nakevalam, nội phần, phần bên trong, nội triền.
Ajjkattabahiddha 45. 85. nakevalam, nội ngoại phần.
Ajjhattabahiddhā 434. 443. 447. 451. Nội ngoại phần.
Ajjhattabahiddhārammana 45. 85. nakevalam, có cảnh nội ngoại phần.
Ajjkattārammana 45. 85. 797. nakevalam có cảnh nội phần.
Ajjhattika 93. 115. 859. nakevalam thuộc nội phần, nội uẩn.
Ajjhattikavatthukā 795. 802. Vật nội phần, vật thuộc trong thân.
Ajjhupagata 601. Sự thọ trì, sự chấp hành.
Ajjhupekkhanā 560. 670. Sự ngó lơ, sự lơ là, sự thờ ơ.
Ajjhupekkhitā 543. Thái độ lơ là, sự dững dưng, sự bình thản.
Ajjhena 883 nakevalam sự học thức, tri thức.
Ajjhosāna 926. 1023. Sự mê đắm, sự quyến luyến.
Aññathā 1037. 1056 nakevalam thành cách khác, theo thế khác.
Aññamañña 795. 802. Lẫn nhau, cùng nhau.
Aññā 241. Khác nhau.
Aññāna 256. 912. 926. 959. Bất tri, không hiểu, không biết rõ, không hiểu biết.
Aññatā 241. Không từng biết, chưa từng biết.
Aññatāvindriya 236. 241. 1079. Tri cụ tri quyền.
Aññatāvī 241. Bậc tri cụ, sự đã biết rõ, biết đầy đủ.
Aññindriya 236. 241. 1079. Dĩ tri quyền, sự biết điều đã biết.
Aṭṭa 614. Nhà chòi.
Aṭṭhapanā 878. 908. Cách trì oai nghi, giữ oai nghi, sự lưu lại.
Aṭṭhāna 800. 889. 1027. Phi lý, phi vị trí, sự vô lý, sự phi nguyên lý, sự kiện không thích hợp, sự vô nguyên do.
Aṭṭhi 115. 432. 433. 434. Xương, hài cốt.
Aṭṭhimiñja 115. 434. Tủy, cốt tủy.
Aḍḍhayoga 614. Căn chái, mái nhà.
Anumatta 599. 605. Sự nhỏ nhặt, tiểu tiết.
Aṅḍaka 921. Cục, hòn, sự nói gai góc.
Atappa deva 1107. Vô nhiệt thiên, một trong năm cõi Tịnh cư thiên.
Atikkanta 688. 695. Vượt qua, vượt khỏi.
Atikkantamānusaka 847. Siêu nhân, vượt khỏi loài người.
Aticchatā 849. 867. Thái độ ham muốn, thái quá, quá dục, sự ham muốn thái quá.
Atibāḷha 1017. Quá chừng, quá đổi, nhiều quá.
Atimāna 849. 896. 1010. Ý hơn, so sánh phần hơn, quá mạn.
Atīta 3. 45. 85. 800. 836. 843. 859. 939. nakevalam quá khứ, đã qua.
Atītārammana 45. 85. 797. 819. nakevalam có cảnh quá khứ.
Atta 839. 913. 949. 960. 966. 1004. 1011. 1018. Tự ngã, bản ngã.
Attaparibhava 885. 888. 891. 894. Tự miệt thị.
Attamana 1017. Vừa lòng, thỏa thích, thích ý, sự hoan hỷ.
Attamanatā 557. 654. Thái độ vừa ý, vui lòng.
Attavādupādāna 963. Ngã chấp thủ.
Attānudiṭṭhi 851. 949. Ngã kiến, ngã chấp kiến.
Attānuvādabhaya 974. Sợ tự khiển trách, hiểm nạn, tự khiển trách.
Attāvaññā 885. 888. 891. 894. Tính tự khinh thường, tự khinh khi.
Attuññā 885. 888. 891. 894. Tính tự hạ mình.
Attha 777. 829. 926. 1020. 1027. Nghĩa, ý nghĩa, lợi ích, ích lợi.
Atthakāma 155. 604. Mong lợi ích, muốn lợi lạc, muốn đem lợi lạc.
Atthaṅgata 3. 440. 625. 659. 662. 669. 681. Dập tắt, biến mất, biến diệt.
Atthangama 599. 681. 689. Sự dập tắt, sự biến mất.
Atthacintaka 1107. Sự tư lợi ích, nghĩ đến điều lợi ích; suy xét nghĩa lý.
Atthajāpikā paĩĩà 796. 803. Tuệ sanh lợi ích, tuệ sanh lợi.
Atthajokata 784. Giải lý, làm sáng tỏ ý nghĩa.
Atthapatisambhidā 777. 788. 829. Nghĩa đạt thông, nghĩa vô ngại giải.
Adaṭṭhukamyatā 958. Không muốn diện kiến, không muốn gặp.
Adassanakamyatā 851. 958. Không muốn thấy, không muốn nhìn thấy.
Adassāvī 932. 949. Người không thấy.
Adiṭṭha 241. 967. 1015. Chưa từng thấy, không được thấy.
Adinnādāna 166. 573. 767. 930. 969. 986. 1009. 1028. Sự trộm cắp, sự lấy vật chưa cho, lấy vật chưa cho.
Adukkhamasukha 121. 363. 441. 599. 682. 940. Phi khổ phi lạc, sự không khổ không lạc.
Adukkhamasukhasahagata 829. Câu hành phi khổ phi lạc.
Adūsanā 359. Không sân, không hờn giận.
Adūsitatta 359. Thái độ không hờn giận.
Adosa 359. 1080. Vô sân, sự không phiền giận.
Addhā 836. 843. 939. Thời gian, thời giờ, thì lúc.
Adhammacariyā 851. 950. Sự thực hành phi pháp, hạnh phi pháp, phi pháp hạnh.
Adhammarāga 926. Tham phi pháp, luyến phi pháp.
Adhāranatā 923. 955. Sự không nắm giữ, không ghi nhận.
Adhāretukamyatā 959. Không muốn thọ trì.
Adhikarana 1023. Sự đấu tranh, tranh tụng.
Adhikusala 873. 950. Tối thiện.
Adhigatasaññitā 899. Sự ngộ nhận đã đắc, tưởng lầm đã đắc.
Adhigama 1013. Sự đắc thành.
Adhicitte paññā 797. 806. Tuệ tăng thượng tâm.
Adhiccasamuppanna 975. Tự nhiên phát sanh.
Adhiccasamuppannika 1072. Vô nhân luận, luận thuyết cho rằng “tự nhiên sanh”.
Adhipaññāya paññā 797. 806. Tuệ tăng thượng trí.
Adhipati 506. Trưởng, pháp lớn trội, pháp trọng yếu.
Adhimatta vāta 118. Gió mạnh, gió lớn.
Adhimāna 849. 1010. Tăng thượng mạn, sự ngộ nhận.
Adhimuccanā 348. 357. 359. Cách quyết đoán, cách xác quyết.
Adhimuccitvā 734. Hướng đến, hướng về.
Adhimutta 845. Khuynh hướng, thiên hướng.
Adhimutti 844. Khuynh hướng.
Adhimokkha 347. 351. 356. 359. 1107. Thắng giải, chủ đích.
Adhimokkhapaccaya 358. 400. Duyên thắng giải.
Adhivacana 618. Ðặt tên, gọi tên, chỉ cho.
Adhisīla paññā 797. 806. Tuệ tăng thượng giới.
Adho 432. 433. 434. 743. Ở dưới, phía dưới.
Adhogama vāta 118. Gió thổi xuống, gió phía dưới, hạ phong.
Adhobhāga 119. Hạ phần, phần dưới.
Anajjhāpatti 178. 583. 768. Không vi phạm, không phạm đến.
Anaññataññassāmītindriya 236. 241. 1079. Tri vị tri quyền, trí biết điều chưa từng biết.
Anaṭṭhitakiriyatā 863. 952. 952. 954. 956. Không ưa thích làm.
Anatta 960. 966. 1004. Vô ngã; phi ngã.
Anattamana 981. Sự bất bình, không hài lòng, không vừa ý.
Anattamanatā 122. 353. 629. 632. 908. 926. 993. Không hài lòng.
Anattha 926. 1026. 1027. Vô ích, bất lợi, tai hại.
Anatthakāma 154. 604. Muốn gây bất lợi.
Anadhigata 899. 1013. Sự chưa đắc chứng.
Anadhiṭṭhāna 863. 952. 954. 956. Không thiết tha.
Anadhivāsanatā 920.
Ananuyoga 863. 952. 954. 956. Không nổ lực, không năng nổ.
Ananulomika 604. Không thuận lý, không thích hợp.
Ananussati 923. Không nhớ theo, không tùy niệm.
Ananta 599. 691. 696. Không cùng, vô biên, không giới hạn.
Anantavā 844. 915. 1018. 1032. Vô biên.
Anantavāditthi 850. Vô biên kiến, nhận thấy thế gian không giới hạn.
Anabhijjhā 359. Vô tham ác.
Anabhinibbatta 3.9.15.21.27. Chưa phát khởi, chưa sanh lên.
Anabhirati 2.837.950. Không hân hoan.
Anabhiramanā 873.950. Sự không hoan hỷ.
Anavakārī 1034.1038.1042. Không phân định.
Anavakāsa 839. Phi duyên cớ, vô cớ, không duyên cớ, không cơ hội.
Anavajjatā 608. Vô tội vạ, không lỗi lầm.
Anavaññatti 861. Không khinh khi, danh dự.
Anavaññattipatisaṃyutta 849. Liên hệ về danh dự.
Anavaññattimada 849. Kiêu hãnh về danh dự.
Anavaññāta 6. Không bị khinh khi.
Anākiṅṅa 613. Không lẩn lộn, không náo nhiệt, không quấy rầy.
Anāgata 3.45.85.800.836.843.859.939. Vị lai, chưa đến, chưa xẩy đến.
Anāgatārammaṅa 45.85. Có cảnh vị lai, biết cảnh vị lai.
Anāgāmimagga 837. Bất lai Ðạo, A-na-hàm Ðạo.
Anāgāmiphala 837. Bất lai Quả, A-na-hàm Quả.
Anācāra 604. Phi hạnh kiểm, phi phẩm hạnh.
Anājjava 850. Sự không ngay thẳng, không chánh trực.
Anājjavatā 919. Thái độ không ngay thẳng.
Anādaratā 972.918.951. Thái độ không quan tâm, thái độ bất kể.
Anādariya 851.827.918.954. Sự bất cần, sự không quan tâm, tính cách bất cần.
Anādā 955. Sự không thụ nhận, không tiếp thu.
Anādāyanā 955. Sự không thọ trì, không chấp nhận.
Anādāvitatta 955. Thái độ không thọ trì, không lãnh hội.
Anābhoga 795.802. Không phải sự suy nghĩ.
Anārakkha 922. Không hộ trì, không gìn giữ.
Anārammaṅa 85.93.1109.1110 nakevalam. Vô cảnh, bất tri cảnh, không biết cảnh.
Anārammaṅārammaṅa 1110. Hữu cảnh, bất tri cảnh, có đối tượng bất tri cảnh.
Anālaya 160. Sự bất luyến, không ưa thích.
Anāvajjanā 960. Sự suy xét.
Anāvikamma 911. Hành động mờ ám, sự mờ ám, sự làm không rõ ràng.
Anāsanna 7. Phi cận, chẳng gần, không cận kề, không gần kề.
Anāsava 46.88.796.803.848.1107 nakevalam. Vô lậu, phi cảnh lậu, không bị pháp lậu biết.
Anāsevanā 863. 952. Không năng hành.
Anāsevita 844. Không được cấu kết.
Anāhāra 1099. Vô thực, không có sắc vật thực.
Anikkhittacchandatā 240.486.507. Sự để qua nguyện vọng, gát qua ước vọng, đặt xuống ước vọng.
Anikkhittadhuratā 240.886.507. Sự để qua phận sự, đặt xuống bổn phận.
Anica 33.98.795.801.804.960.966.990. Sự vô thường, không thường có, không vĩnh hằng.
Aniccatā 303.339. Tình trạng vô thường, đặc tính vô thường, trạng thái vô thường.
Aniṭṭha 6.154.839. Không đáng ưa chuộng.
Anidassana 85.87.100.130. nakevalam, vô kiến.
Anibbatta 3.9.15.21.27. Chưa xuất hiện.
Aniyata 45.96.795.796. nekavalam Phi cố định, pháp bất định.
Aniyyānika 46.96.795.796. nakevalam phi dẫn xuất, pháp không đưa khỏi luân hồi.
Không phải đưa khỏi luân hồi.
Anuggahetukamyatā 957. Không muốn học tập.
Anuññāta 6. Không bị khinh thường.
Anuṭṭhita 3.9.15.21.27. Chưa khởi dậy.
Anuttara 46.96.445.796.825. nakevalam. Vô thượng.
Anuttānīkamma 911. Hành động tinh vi.
Anuddhato 599.639. Vô phóng dật.
Anunaya 299.926. Sự vướng vấn.
Anupakkaṭṭha 7. Không tiếp giáp.
Anupagamma 844. Không thiên chấp, không vịn vào.
Anupatita 844. Xẩy ra, hiện ra.
Anupavādaka 847. Không phỉ báng.
Anupassanā 435.452. Năng quán, thường quán.
Anupādāniya 45.46.85.94. nakevalam phi cảnh thủ.
Anupādinna 45.93.796. nakevalam phi thành do thủ, không bị thủ.
Anupekkhanatā 652. Thái độ xem xét.
Anuppadāna 863.952.954.956. phóng xả, buông ra, bỏ ra, để mặc, bỏ mặc.
Anuppanna 3.45.85.449.478. nakevalam chưa sanh khởi.
Anuppabandhanā 908. Sự cột chặt.
Anuppāda 449.483.502.506. Sự chưa sanh khởi, sự không sanh khởi.
Anuppiyabhāṅitā 879. Nói trìu mến.
Anubyañjanaggāhī 607.922.957. Chấp tướng riêng.
Anuyutta 982. Thực hiện, dấn thân vào, đắm mình vào.
Anurodha 299.926. Sự thỏa thích.
Anulomika 804.844. Thuận lý, hợp lẽ.
Anuvicāra 652. Sự bám sát.
Anusaya 844.900.926.1005. Tiềm miên, tùy miên, sự ngủ ngầm.
Anusandhanatā 652. Trạng thái khắn khít.
Anusaṃsandanā 908. Sự tích tụ.
Anusseti 844. Ngủ ngầm, tiềm ẩn theo.
Anussati 240.459.612.959. Sự không nhớ theo, tùy niệm.
Anussadagata 844. Không được phát huy.
Anussarati 846. Nhớ lại.
Anussaritā 543. Nhớ lại.
Anūpārambha 958. Sự cật nạn.
Anūpārambhanā 958. Sự bắt bẻ.
Anūpārambhitatta 958. Thái độ chuyên bắt bẻ.
Anekadhātu 800.842. Ða giới, đa dạng bản chất.
Anekavihita 846. Ða dạng, nhiều nét, nhiều vẽ.
Anekaṃsagāha 355.643. Sự không nhất quyết.
Anokappanā 956. Không tín nhiệm.
Anoghaniya 46.796.803. Phi cảnh bộc.
Anottappa 844.850.954.1026. Vô quý, sự không ghê sợ, không có tâm quý.
Anottappī 1008. Vô quý.
Anopānabhūta 604. Không là giếng nước.
Anta 115.432.844.1103. Cực đoan, sự cùng tận, sự tột cùng, ruột già.
Antaguṅa 115.402.844.1103. Ruột con.
Antaggāhikā diṭṭhi 936. Kiến biên chấp, kết luận kiến.
Antara 1103. Khoảng cách, khoảng không, không gian.
Antaradhāna 148.267.303.339. Sự biến mất, sự tiêu mất.
Antaradhāpeti 701. Tiêu mất.
Antalikkha udaka 116. Nước trên hư không.
Antavā 844.915.1018.1032. Hữu biên.
Antavādiṭṭhi 850. Hữu biên kiến.
Antānantikā 1072. Hữu biên vô biên luận.
Antoparisoka 149.268. Sự não ruột trong lòng.
Antosamorodha 633. Sự bít ngăn nội tâm, bên trong ngăn bít.
Antosoka 149.268. Sự buồn bực trong lòng.
Anvaye ñānaṃ 798.825. Loại trí.
Anvassaveyyuṃ 607.822.57. Có thể xâm chiếm.
Apaccaya 759.826. Sự tịch diệt, sự không còn tích tập, Níp Bàn.
Apaccayagāmi 45.85.370. nakevalam nhân tịch diệt, pháp dẫn xuất đến Níp Bàn.
Apanāmeti 1017. Nói lảng qua, bỏ lảng, tảng lờ.
Aparakata 957. Không do người khác tạo.
Aparakāla 897.908. Lúc sau, sau đó.
Aparanta 916.926.932. Sau có giới hạn, vị lai.
Aparantānudiṭṭhi 850.916. Hậu biên kiến, kiến chấp sau có giới hạn.
Aparāmaṭṭha 46.92.796. nakevalam phi cảnh khinh thị.
Aparibhūta 6. Không bị khinh miệt.
Apariyāpanna 46.96.796.798.1090.1094. Phi hệ thuộc, không phải liên quan luân hồi.
Apariyogāhanā 155.643. Sự không quyết đoán.
Apātubhūta 3.9.15.21.27. Chưa hiện khởi.
Apāya 839.847.988. Khổ cảnh.
Apāyakosalla 797.707. Sự thông thạo điều thối hóa.
Apāsiṃ 846(api+àsim) ta cũng có.
Apilāpanatā 240.612. Thái độ không lơ đểnh.
Apuññābhisaṅkhāra 257.265.844. Phi phúc hành.
Apubba 795.802.839. Không trước, không có trước.
Apekkhā 926. Lưu luyến.
Appa 1106. Ít.
Appaccaya 940.1017. Vô duyên cớ, không do duyên, không có duyên trợ, chuyện ngoài lề, sự bực bội.
Appaṭigha 85.87.100.130. nekevalam Vô đối chiếu, không tiếp chạm nhau.
Appaṭinissagga 909. Không cởi mở.
Appaṭisaṅkhā 608.922. Không quán tưởng.
Appaṭisanthāra 850.921. Không hậu đãi.
Appaṭisanthāraka 921. Người không tiếp đãi.
Appaṭissa 995. Không vâng thuận.
Appaṭissati 923.959. Không nhớ ra.
Appaṭissavatā 872.918.951.955. Sự bất tuân, thái độ không vâng lời, thái độ bất tuân.
Appatta 241.899.1013. Sự chưa đạt đến.
Appanā 122.522.652. Sự chuyên chú, sự chăm chú.
Appanigghosa 599.620. Chỗ ít náo động.
Appamattaka 605.1013. Chừng chút ít, sơ sài.
Appamāṅa 45.85.741.743.831. nekevalam Vô lượng, không hạn lượng.
Appamāṅārammana 45.85.741.831. nakevalam Có cảnh vô lượng, biết cảnh vô lượng.
Appamāṅasubha deva 1107. Vô lượng tịnh thiên, một trong ba cõi Tam thiền Sắc giới.
Appamāṅābha deva 1107. Vô lượng quang thiên, một trong ba cõi Nhị thiền Sắc giới.
Apparajakkha 844. Ít trần lao, “có mắt ít bụi trần”.
Appamāda 995. Sự không dễ duôi.
Appasadda 599.619. Ít tiếng ồn, chỗ ít tiếng ồn.
Appasanna 604. Không tín ngưỡng.
Appassuta 868.918.851.1008. Thiểu học, thiểu văn, ít nghe.
Appita 440.625.659.662.669.681. Sự đình chỉ.
Appiya 145.926.988.1020. Không thân ái, đáng ghét bỏ, thành người ghét bỏ.
Appiyarūpa 844. Sắc bất khả ái.
Appītika 46.96.796. nakevalam vô hỷ, không có pháp hỷ.
Aphassaka 1099. Không có xúc.
Aphāsukāma 154.604. Muốn gây bất an.
Abahulīkata 844. Không được phát tấn.
Abahulīkamma 863. Không phát tấn.
Abbokiṇṇa 795.802. Không xen lẫn.
Abbhatthaṅgata 3.440.625.659.662.669.681. Sự diệt tắt, sự biến hoại.
Abbhūtadhamma 783. Vị Tăng hữu kinh.
Abbhokāsa 599.617. Chỗ ở trống trải.
Abyatta 1017. Sự dốt nát, không thông hiểu.
Abyākata 44.85.795. nakevalam Vô ký.
Abyāpajja 359. Sự không sân ác.
Abyāpajjha 741. Không sân.
Abyāpanna 630. Không có sân độc.
Abyāpannacitta 599.630. Tâm vô sân độc.
Abyāpāda 359. Vô sân độc, không oán hận.
Abyāpādadhātu 122. Vô sân giới.
Abyāpādapatisaṃyutta 122. Liên hệ vô sân độc.
Abyāpādasankappa 164.571. Vô sân tư duy.
Abhabba 844. Vô phần.
Abhāvanā 863.952. Không phát triển.
Abhāvita 844. Không được tu tập, không được phát triển.
Abhikkanta 599.612. Bước tới.
Abhijappā 926. Tham cầu.
Abhjjhā 169.431.599.625.922.926.930.957.962.1028. Tham ác.
Abhiññā 545.803.827.845.924.1031. Diệu trí, thần thông, thắng trí.
Abhiññeyya 1108. Cần thắng tri, đáng được thắng tri.
Abhinipātamatta 795.802. Vịn vào, dựa vào.
Abhinibbatta 3.653.663.780. Ðang phát khởi.
Abhinibbatti 146.266.302.338. Sự phát sanh ra.
Abhinibbatteti 467.485. Khởi xướng.
Abhiniropanā 122.582.652. Sự đem tâm khắn khít cảnh, sự khắn khít.
Abhinivera 312. Thiên chấp.
Abhinihāra 1107. Sự hoài bão.
Abhippanāda 240.359.660.956. Sự tín mộ, sự tịnh tín.
Abhivadanti 985 nakevalam tuyên bố.
Abhisaṅkhipitvā 2.859. nakevalam tóm lại.
Abhisaññūhitvā 2.859. nakevalam gồm chung.
Abhūta 3.9.15.21.27. Chưa có.
Amacca 155. Cận thần, thân hữu.
Amattaññutā 618.650.922. Sự không tiết độ.
Amaddava 850. Không nhu mì.
Amaddavatā 919. Thái độ không nhu nhuyễn.
Amanasikārā 599.690.795.802. Không tác ý.
Amanāpa 6.154.748.839.926.988.1020. Ghét, không vừa ý, bất bình, bất mãn, không đáng vừa lòng.
Amanāpika 993.1002. Không vừa ý.
Amaravitakka 849. Không nghĩ tưởng huyền thoại.
Amarāvikkhepika 1072. Ngụy biện luận.
Amahaggata 445.825. Không đáo đại, phi đáo đại.
Amissībhāva 155. Không hòa mình.
Amuta 967.1015. Không biết.
Amutra 882. Tại chỗ này… chỗ kia.
Amudutā 864.919. Không nhu mì.
Amoha 240.359.612.1080. Vô si.
Aya 115. Sắt.
Ayasa 1014. Mất danh, không có danh tiếng.
Ayahamasmīti 1024. Cho rằng “cái này là ta”.
Ayogakkhemakāma 154.604. Muốn cho không thoát khổ ách, không muốn an ổn khổ ách.
Ayoganiya 46.796.803. nakevalam.
Ayoniso 608.922. Không khéo léo, không như lý.
Ayonisomanasikāra 851.960. Không khéo tác ý.
Araja vāta 118. Gió không cuốn bụi, gió thường.
Arañña 599.616. Khu rừng.
Araññagata 599.621. Sự đi đến khu rừng.
Arana 46.96. nakevalam vô tranh.
Arati 849.851.873.950. Sự bất mãn, không vui mừng.
Aratikā 873. 950. Không vui thích.
Arahattaphala 813. 837. A-la-hán quả, quả Ứng Cúng.
Arahattamagga 837. A-la-hán dạo, Ðạo Ứng Cúng.
Arahanta 803. 839. 984. 1104. Bậc A-la-hán, bậc Ứng Cúng.
Ariya 674. 834. 847. 851. 932. Bậc Thánh, bậc cao thượng.
Ariyadhamma 932. 949. 963. Pháp của bậc Thánh.
Ariyasāvaka 574. Bậc Thánh đệ tử.
Arūpa 795. 801. Vô sắc, phi sắc.
Arūpataṇhā 926. 934. Ái vô sắc, vô sắc ái.
Arūpadhātu 1089. 1100. Vô sắc giới (bản chất).
Arūpadhātupatisaṃyutta 934. Liên hệ vô sắc giới.
Arūpadhātupariyāpannā 1093. Quan hệ vô sắc giới.
Arūpabhava 265. Vô sắc hữu.
Arūparāga 977. Vô sắc ái, tham vô sắc.
Arūpasaññī 845. Vô sắc tưởng.
Arūpāvacara 46. 96. 796. 1103. nakevalam. Vô sắc giới (lĩnh vực).
Arūpī 1018. 1024. 1035. 1054. Không có sắc, vô sắc, người vô sắc.
Arūpūpapatti 368. 388. 407. 414. 720. 784. Ðạt đến vô sắc giới.
Aroga 98. 1018. Không hoại.
Alattam 1013. Chẳng nhận được, không nhận được.
Alābha 1014. Thất lợi.
Alubbhanā 359. Không nhiểm đắm.
Alubbhitatta 359. Không tham đắm.
Alobha 359. 1080. Không tham muốn, vô tham.
Avakārī 1053. 1057. 1061. Sự phân định.
Avajāniṃsu 907. Ðã khinh khi.
Avajja 639. Không tội lỗi, không lỗi lầm.
Avajjasaññitā 638. Nghĩ là không tội.
Avaññā 958. Sự khinh dễ.
Avaññāta 6. Bị khinh khi.
Avatthiti 240. 507. Sự vững vàng.
Avaṇṇahārikā 881. Sự biếm nhẽ.
Avatthapeti 432. 441. 445. 449. Nhận định.
Avadaññutā 851. 956. Sự không hào phóng.
Avikkhepa 240. 507. 768. Bất phóng dật.
Avigatacchanda 982. Chưa lìa dục vọng.
Avigatataṇhā 982. Chưa lìa luyến ái.
Avigataparilāha 982. Chưa lìa nhiệt tình.
Avigatapipāsa 982. Chưa lìa khát khao.
Avigatapema 982. Chưa lìa thương mến.
Avicāra 45. 96. 599. 662. 796 nakevalam Vô tứ.
Avijjā 256. 844. 850. 977. nakevalam. Vô minh.
Avijjādhātu 521. Vô minh giới.
Avijjānusaya 844. 1005. Vô minh tiềm miên.
Avijjāpaccaya 255. 274. 286. 290. 400. 836. Duyên vô minh.
Avijjāpariyuṭṭhāna 1006. Vô minh đột khởi.
Avijjālaṅgī 912. nakevalam. Vô minh then chốt.
Avijjāsaññojana 1007. 1029. Vô minh triền.
Avijjāsaṃpayutta 282. Tương ưng vô minh.
Avijjāsava 961. Vô minh lậu.
Avijjāhetuka 278. Có vô minh làm nhân.
Aviññāta 967. 1015. Không hiểu.
Avitakka 46. 85. 599. 662. 795. nakevalam. Vô tầm.
Avitakka-avicàra 845. Vô tầm-vô tứ.
Avitakkavicāramatta 845. Vô tầm hữu tứ.
Avitakkasahagata 828. Câu hành vô tầm.
Avidita 241. Chưa từng hiểu.
Avidūra 7. Không xa.
Aviṇīta 932. 949. Không tụ tập, không luyện tập.
Aviparināmadhamma 1004. 1042. 1061. Ðương nhiên không biến đổi, tánh bất biến.
Avimutta 445. 825. Chưa giải thoát.
Avisāhatamānasatā 240. 507. Tính cách tâm không xao xuyến.
Avisāhāra 240. 507. Sự không tán loạn.
Aviha deva 1107. Cõi Vô phiền thiên.
Avihiṃsādhātu 122. Bất hại giới.
Avihiṃsāpatisamyutta 122. Liên hệ sự bất hại.
Avihiṃsāsaṅkappa 164. 571. Bất hại tư duy.
Avīciniraya 1103. Ðịa ngục A Tỳ, Vô gián địa ngục.
Avītarāga 982. Chưa lìa tham.
Avītikkama 602. 604. Không vượt qua, không thái quá.
Avūpasama 357. 638. 952. 959. Sự không yên lặng.
Avedanaka 1099. Không có thọ.
Avera 741. 743. Không hận, không thù nghịch.
Asa 1042. 1061. Là, trở thành.
Aṃsa 3. 9. 15. 21. 27. Chi nhánh, thành phần.
Asakkaccakiriyatā 863. 952. 956. Không cẩn thận làm.
Asakhilavācatā 921. Ngôn ngữ không thân mật.
Asankiliṭṭha 45. 46. 85. 95. 795. nakevalam phi phiền toái.
Asaṅkilesika 45. 46. 85. 95. 795. nakevalam phi cảnh phiền não.
Asaṅkhata 100. 130. 1103. Vô vi.
Asaṅgati 155. Không được hội ngộ.
Asacchikata 241. 899. 1013. Sự chưa tác chứng, chưa chứng ngộ.
Asañjāta 3. 9. 15. 21. 27. Chưa thành, chưa sanh thành.
Asaññaka 1099. Không có tưởng.
Asaññasatta 1097. 1099. 1107. Vô tưởng hữu tình, cõi vô tưởng thiên.
Asaññābhava 265. Vô tưởng hữu.
Asaññivāda 1072. Vô tưởng luận.
Asaññī 1018. 1024. 1035. 1054. Không có tưởng, vô tưởng, người vô tưởng.
Asaññojaniya 46. 89. 796. nakevalam phi cảnh triền.
Asaṃhavācatā 921. Ngôn ngữ không tế nhị.
Asati 1017. Sự thất niệm.
Asaddahanā 956. Không tin cậy.
Asaddha 1008. Không có đức tin.
Asaddhiya 956. Không tin tưởng.
Asanta 449. Không có, hiện không có.
Asantika 7. Không gần.
Asantuṭṭha 867. Người không biết vừa lòng.
Asantuṭṭhitā 608. 922. 953. Không tri túc, không thỏa mãn.
Asabhāgavutti 849. 872. Thiếu phong cách.
Asamannāhāra 795. 802. Không nhiếp thâu.
Asamāgantukamyatā 958. Không muốn hợp tụ.
Asamāgama 155. Không đượ trùng phùng.
Asamādhisaṃvattanika 921. Dẫn đến không yên.
Asamāhita 445. 825. 868. Sự không định tỉnh.
Asamuṭṭhita 3. 9. 15. 21. 27. Chưa ứng khởi.
Asamuppanna 3. 9. 15. 21. 27. Chưa tương sanh.
Asametukamyatā 958. Không muốn hội ngộ.
Asamodhāna 155. Không được chung sống.
Asampajañña 850. 851. 959. Thiếu tỉnh giác, bất tỉnh giác.
Asampajaññatā 953. Thái độ thiếu tỉnh giác.
Asamphuṭṭha 119. 691. Không xúc chạm.
Asambhinnavatthuka 795. 802. Vật bất hoại.
Asambhinnārammaṇa 795. 802. Cảnh bất hoại.
Asammusanatā 240. 612. Thái độ không lãng quên.
Asammosa 168. 465. 481. 506. Không cho sút giảm.
Asayaṃkata 975. Không do tự mình tạo.
Asaraṇatā 923. 959. Không nhớ được, tình trạng không nhớ được.
Asaṃvara 851. 975. Sự không thu thúc.
Asaṃvuta 922. 957. Không thu thúc.
Asassata 844. 1002. Không tồn tại.
Asākhalya 850. Không cam ngôn.
Asāta 121. 151. 239. 270. Sự bất an, buồn.
Asātaccakiriyatā 863. 952. 954. 956. Không hoan hỷ làm, không thích thú làm.
Asātarūpa 844. Sắc bất mãn ý, sắc không đẹp ý.
Asārajjanā 359. Không quyến luyến.
Asārajjitatta 359. Thái độ không quyến luyến.
Asārāga 459. Không tham luyến.
Asita 117. 119. 599. 612. Ăn.
Asithilaparakkamatā 240. 486. 507. Không nhủn chí.
Asilokabhaya 980. Hiểm nạn do tai tiếng.
Asīlya 955. Không theo nguyên tắc.
Asuci 432. 433. 434. Bát tịnh thể, thể trược.
Asuta 967. 1015. Vô văn, không nghe, không học.
Asubha 960. 966. Bất tịnh, không sạch.
Asura 1096. A-tu-la.
Assuropa 122. 353. 629. 908. 926. Sự lỗ mãng.
Asekkha 45. 85. 601. nakevalam Vô học, pháp vô học, bậc vô học, không cần học nữa.
Asesa 743. Không thừa ra.
Asesavirāganirodha 160. Hoàn toàn đoạn ly, sự đoạn diệt ly tham hoàn toàn.
Asotukamyatā 851. 958. Không muốn nghe.
Asoracca 850. Sự không nghiêm tịnh.
Assa 839. Có thể là.
Assati 923. 959. Không nhớ lấy, không niệm.
Assaddha 604. 844. 868. 918. 956. Vô tín ngưỡng, không có niềm tin.
Assaddhiya 851. 956. Không tín ngưỡng.
Assavanakamyatā 958. Không muốn nghe, không muốn dự thính.
Assādadiṭṭhi 851. 849. Hỷ lạc kiến.
Assāsa 118. Hơi thở ra.
Assu 116. 432. Nước mắt.
Assutavā 932. 949. 963. Không nghe được.
Assutvā 804. Không nhờ nghe, không do nghe.
Asmimāna 849. 1010. Ngã mạn, ngã sở mạn.
Asmīti 849. 1024. 1034. 1042. 1053. Cho rằng “ta có”.
Ahamasmīti 1024. Cho rằng “ta là”.
Ahitakāma 154. 604. Muốn gây bất hạnh.
Ahirika 844.850.1008.1026. Vô tàm, sự không hổ thẹn, không có lòng tàm.
Ahīnindriya 1011. Căn quyền không khuyết tật.
Ahīlita 6. Không bị khinh bỉ.
Ahetuka 44.86.795.940.1096.1099. Vô nhân, không có nhân.
Ākāsa 119.599.691.696. Hư không, khoảng trống.
Ākāsagata 119.691. hiện tượng khoảng trống.
Ākāsānañcāyatana 692.828.838.845. Không vô biên xứ.
Ākāsānañcāyatanūpaga 1011.1103.1107. Ðạt đến Không vô biên xứ thiền.
Ākiñcaññāyatana 368.702.720.784.828.838.845. Vô sở hữu xứ.
Ākiñcaññāyatanūpaga 1011.1107. Ðạt đến Vô sở hữu xứ thiên.
Āgamma 800.840. Ðạt đến, gặp phải.
Āghāta 122.353.629.926.993.1020.1027. Sự hiềm khích, sự kết oán.
Ācaya 798.826. Sự tích tập, sự chứa để.
Ācayagāmi 45.85. nekavalam nhân tích tập, pháp dẫn đến luân hồi.
Ācayagāminī pañña 797.812. Tuệ nhân tích tập.
Ācariya 872. Thầy dạy, Giáo thọ sự, Giáo sư.
Ācāra 604. Phẩm hạnh.
Ācāragocarasampanna 599.604. Thành tựu phẩm hạnh và hành xứ.
Ācikkhanti 674. Nó đến, trình bày.
Ājīvakabhaya 989. Hiểm nạn do nuôi mạng.
Ātappa 437.454. sự nhiệt tâm.
Ātāpī 169.431.437.454 người nhiệt tâm.
Ādāya 600 lập trường
Ādīnavadasssāvi 605 thấy sự nguy hiểm, thấy khổ quả, thấy tội khổ, thấy nạn.
Ādeva 150.269. Sự khóc lóc.
Ādevanā 150.269. Sự khóc than
Ādevitatta 150.269. Thái độ than khóc.
Ānamanā 875 sự cúi mình
Āneñjābhisaṅkhārā 257.265.844 bất động hành.
Āpa 116 nước, thủy, sự tươm ướt
Āpajjati 543.905.922. chịu, chấp nhận
Āpatti 1017 tội lỗi
Āpanna 1011 bị phạm, vi phạm, hành phạm
Āpāthamatta 802 chỉ có giới hạn trong
Āpogata 116 cách tương ướt
Āpodhātu 116.119 thủy giới, nguyên tố nước
Ābādha 1013 bệnh, bệnh chứng, căn bệnh
Ābhassara deva 1107 Quan âm thiên
Ābhujitvā 599.622 ngồi xếp bằng, ngồi co chân lại
Ābhoga 802.960.990 sự tư niệm
Āmisa 882 tài vật, vật chất
Āmisapaṭisanthāra 921 Sự tiếp đãi bằng vật chất
Āmodanā 557.654 sự hân hoan
Āyakosalla 797.807 Sự thông thạo điều tiến hóa
Āyatana 146 xứ, nhập
Āyatanānatta 842 xứ sai biệt, xứ dị biệt
Āyartiṃ 449.804 trong tương lai
Āyāsa 153.272 thái độ ai bi
Āyu 147.238.267.1106 tuổi thọ, thọ mạng
Āyuppamāṇa 1106 lượng tuổi thọ
Āyusaṅkhyā 1107 sự hết tuổi thọ
Āyūhanī 926 trử tình
Ārakkha 1023 sự bảo thủ
Ārati 178.583.768 sự chừa bỏ
Āraddha 543 sự chuyên cần
Āraddhaviriya 543.868 Sự chuyên cần, người chuyên cần, tinh cần
Ārabhati 465.469.506.1013 bắt đầu, đi vào, khởi sự
Ārammana 802.831.1107 cảnh, đối tượng.
Ārogya 861 sức khỏe, sự không bệnh tật
Ārogyamada 849 kiêu hãnh saức khỏe
Āroha 861 tài cao.
Ārohamada 849 kiêu hãnh tài cao
Ālapanā 879 xưng tụng
Ālasāyanā 874 thái độ biếng nhác
Ālasāyitatta 874 tình trạng lười biếng
Ālasya 874 sự lười nhác
Āloka 635 quang ánh sáng
Ālokapharaṇatā 833 Quang biến mãn.
Ālokasaññī 635 có tưởng quang minh
Ālokita 599.612 nhìn tới
Āvajjanā 802.960 sự khai môn, sự khai tâm
Āvaṭṭabhaya 973 hiểm họa nước xoáy.
Āvaraṇa 926 chướng, chướng ngại
Āvaraṇiya 609 Pháp chướng ngại
Āvāsamacchariya 910.956.979 bỏn xẻn chỗ ở
Āsanna 7. Cận kề
Āsappanā 355.643 tính vớ vẫn, nghĩ vẫn
Āsabhaṇṭhāna 800 địa vị Ngưu vương
Āsaya 844 sở chấp, quan điểm chấp nhận
Āsava 46.88.835.848.931 nekavalam Lậu, lậu hoặc
Āsavavippayutta 46.88 nakevalam bất tương ưng lậu
Āsavasaṃpayutta 116N88 nakevalam tương ưng lậu
Āsā 926 ước muốn
Āsiṃsanā 926 sự mang mỏi
Āsiṃsitatta 926 thái độ mang mỏi
Āsevati 432.469.508.611 thực hành, áp dụng
Āsevita 844 được cấu kết
Āhatacitta 981 tâm đả kích
Āhāra 608.922 vật thực, thực
Āhāreti 608.922 ăn vào, thọ dùng, tiêu hóa
Icchati 868.922 muốn
Icchā 156.867.911.926.953 sự ham muốn, sự mong muốn, ước vọng
Icchāgata 867.868.953 thái độ mng muốn
Icchāpakata 878.882 mang mỏi xấu xa
Ijjhanā 508.521 sự thành công
Iñjita 1024 chiều hướng
Iṭṭha 6.155.839 đáng ưa chuộng
Itaritara 867.953 thứ này, thứ kia
Itibhavābhavahetu 964 do nhân ngoài sự kiện như thế
Itivuttaka 783 Như thị thuyết
Ittham 958.1011.1035.1054 thế ấy
Itthannāma 1013 có tên này, tên như vậy, tên thế ấy
Itthākappa 238 thái độ nữ
Itthitta 238 Tính hạnh nữ
Itthindriya 236.238.1079 nữ quyền, sắc nữ tính
Itthī 839 nữ nhân, người nữ
Itthikutta 238 nữ nết tánh
Itthīnimitta 238 nữ tướng dạng
Itthībhāva 238 trạng thái nữ
Itthīliṅga 238 nữ căn
Idaṃsaccābhinivesa 962 Thử thực chấp
Idappaccayatā 844.932 duyên khởi, duyên pháp này
Iddhi 508.521.861 thần thông, phép màu, sự như ý
Iddhipāda 505.518.512.958 tần túc, như ý túc
Iddhimada 849 kiêu hãnh thần thông
Iddhividha 835 thần thông
Idha 600 ở đây
Indakhila 616 thềm nhà
Indaggi 117 lửa sấm sét
Indriya 147.599.607.850 quyền, căn quyền
Indriyaparopariyatta 800.844 thượng hạ căn
Iriyati 436.603.675 cử động
Iriyanā 238 sự tiếp diễn
Iriyāpatha 802.861.878 Oai nghi, cung cách
Iriyāpathamada 849 kiêu hãnh oai nghi
Isivātapativāta 604 vãng lai đến hạng ẩn sĩ, viếng thăm hạng ẩn sĩ
Issaranimmānahetu 940 nhân quyền năng tạo hóa
Issā 850.991.1021.1029 tật, tật đố, sự ganh tỵ
Issāyanā 910 tính cách ganh tỵ
Issāyitatta 910 thái độ gang tỵ
Ukkaṇṭhita 873.950 ngao ngán
Ukkāpanā 879 khen tặng
Ukkhitta 1107 đã nâng đỡ, được nâng đỡ
Ukkhepanā 881 sự chỉ lối
Uccārapassāvakamma 599.612 việc đại tiện, tiểu tiện
Ucchijjati 1011 bị hủy hoại
Uccheda 985.1011 sự đoạn tận, sự đoạn diệt
Ucchedadiṭṭhi 850.949 đoạn kiến
Ucchedadiṭṭhisahagata 933 câu hành đoạn kiến
Ucchedavāda 1072 đoạn luận
Uju 599.223 ngay ngắn, thẳng đứng, ngay thẳng.
Ujuka 623 ngay ngắn, thẳng lưng
Ujucittatā 864.919 thái độ trực tánh, thẳng tánh
Uññā 958 sự khinh lờn.
Uññāta 6. Bị khinh thường
Uṭṭhānasaññā 609 khởi sàng tưởng, tưởng đến sự thức giấc
Uṭṭhāpeti 467.485 khởi dậy
Uṭṭhita 3.9.15.21.27 đang khởi dậy
Uṇṇati 860.886.892 nakevalam sự hống hách
Uṇṇāma 883.889.895 sự hãnh diện
Uṇha vāta 118 gió nóng
Uttara 118.743 cao thượng, hướng bắc
Uttiṇṇa 644 vượt qua
Uttānīkaronti 674 bày tỏ
Utrāsa 938 sự hốt hoảng
Udakabhaya 972 hiểm nạn do nước
Udapādiṃ 846 ta đã sanh lại
Udarāvadehaka 982 no bụng, căn bụng
Udariya 115.432 vật thực mới
Udāna 783 cảm hứng ngữ
Uddisseyya 839 xu hướng, hướng về, y chỉ theo
Uddhaṃ 432.743 trên, phía trên, hướng trên
Uddhaṅgama vāta 118 gió thổi lên
Uddhacca 449.599.638.951977.983.1012.1026 phóng dật, điệu cử, trạo cử, sự tán tâm, sự phóng túng
Uddhaccasaṃpayutta 356.785 tương ưng điệu cử
Uddhamadho 741 trên dưới, hướng trên hướng dưới.
Unnahanā 579 xu nịnh
Upakkaṭṭha 7 tiếp giáp
Upakkilesa 599.649.926 tùy não, điều nhơ bẩn.
Upagaccheyya 839 cố chấp, chấp theo
Upacaya 308 sự tích tập
Upacitatta 372.409.416.786 tích lũy
Upaccheda 148.267 cắt đứt, dứt đi
Upajjhāya 872 thầy tiếp độ
Upaṭṭhita 624 được giữ lại
Upaṭṭhitassati 868 sự trú niệm, người trú niệm
Upaḍḍhakappa 1107 phân nửa đại kiếp
Upatthambheti 470.488 ủng hộ
Upadhivipatti 840 sanh y bất lợi
Upadhisampatti 840 sanh y thuận lợi
Upanahanā 850.908 thái độ kết oán
Upanāha 750.908 sự kết oán, sự oán hận
Upanāhitatta 908 tính cách kết oán
Upanidhāya 1036.1040.1046.1050.1055 so sánh
Upapattikkhaṇa 1004 sát na tục sinh, thời tục sinh.
Upapattideva 1159 Hóa sanh thiên
Upapattibhava 265 Sanh hữu
Upapanna 435.507.602.468.1103 sanh vào, dự đắc
Upaparikkhā 612 sự nghiên cứu
Upariṭṭhima 813 cao tột, tột đỉnh
Upalakkhaṇā 612 sự phân định
Upavādaka 847 phỉ báng
Upavicarati 998 vương vấn
Upasampajja 599.657.708 Chứng, thành tựu
Upavicāra 652 vấn vương, sự vướng bận; sự chăm nom
Upasampadā 508.512.657.678 Thành tựu
Upasampanna 601 thành tựu giới, đắc giới, thọ cụ túc giới.
Upasaṃharati 432.441.445.449 chăm chú, chuyện chú vào
Upāgata 435.468.507.602 Dự đáo, đi vào
Upādā 93 nekevalam sắc y sinh
Upādāna 94.255.300.782.798.926 thủ
Upādānakkhandha 440.457 thủ uẩn
Upādānapaccaya 255.274.286.290 Duyên thủ
Upādānavippayutta 46.94 nakevalam bất tương ưng thủ
Upādānasaṃpayutta 46.94 nakevalam tương ưng thủ
Upādāniya 45.94.795 nakevalam cảnh thủ.
Upādāya 859 y cứ, nương theo, dựa vào, so sánh với
Upādinna 4.45.93.115.796.1115 nakevalam bị thủ, thành do thủ
Upādinnupādāniya 795.797 pháp thành do thủ cảnh thủ
Upāyakosalla 797.807 sự thông thạo phương chước
Upāyāsa 145.150.255.272.990 ai, ai oán, sự não nùng
Upāyasitatta 153.272 thái độ ai oán
Upārambha 958 sự vấn nạn
Upārambhacittatā 851.958 có tâm cật vấn
Upārambhanā 958 sự bắt bẻ
Upāsaka 604.606 cận sự nam
Upāsikā 604.606 cận sự nữ
Upekkhaka 599.670.675.748 thản nhiên
Upekkhaṭṭhānika 1003 đáng xem thường, đáng dững dưng
Upekkhaṭṭhāniya 1000 đáng chổ xả, đáng phải bình thản
Upekkhanā 560.670 sự dững dưng
Upekkhā 551.560.671.675.685.714.719.749 xả, sự lơ là, sự thản nhiên
Upekkhādhātu 121 xả giới, nguyên tố thọ xả
Upekkhāyanā 749.754 sự bình thản
Upekkhāyitatta 749.754 thái độ bình thản
Upekkhāvippayutta 803 bất tương ưng xả
Upekkhāsatipārisuddhi 599.683 xả niệm thanh tịnh
Upekkhāsaṃpayutta 803 tương ưng xả
Upekkhāsambojjhaṅga 449.542.551.560 xả giác chi
Upekkhāsahagata 65.96.349.741.759.796.828 nakevalam câu hành xả
Upekkhindriya 236.1079 xả quyền
Upeta 435.452.468.507.602 Bậc Dự nhập
Uposathakamma 1105 trì trai, thọ trai giới.
Uppanna 3.45.85.385.797.905.1013 nakevalam phát sanh, sanh lên, đã sanh khởi, đang sanh lại.
Uppannavatthuka 795.802 vật sinh tồn, vật sở nương
Uppannārammaṇa 795.802 cảnh sinh tồn, cảnh sở nương
Uppalakavāta 118 gió qua tim
Uppāda 449.465.506 sự sanh khởi.
Uppādita 984. Gây ra, làm đổ ra, khiến sanh ra
Uppādī 45.85 nakevalam chuẩn sanh, sẳn sàng khởi sanh.
Uppādeyya 839 trích ra, làm sanh khởi, gây ra
Ubbilāvita 990 bị phấn khích
Uyyāma 240.486.507 sự chuyên cần
Ullapanā 879 bợ đở
Usuma 117 sự ấm áp
Usumagata 117 cách ấm áp
Usūyanā 910 thái độ ganh ghét
Usūyā 910 sự ganh ghét
Usūyitatta 910 tánh cách ganh ghét
Ussadagata 844 được phát huy
Ussāha 240.486.507 sự nổ lực
Ussolhi 240.486.507 sự nổ lực.
Usmā 117 sự nực nội
Usmāgata 117 cách nực nội
Ūmibhaya 973 sự sợ sóng, hiển nạn sóng nước
Eka disa 743 một phương, một hướng.
Ekakkhaṇa 802 cùng một sát na, một thời điểm, đồng thời.
Ekaggatā 506.653.711 nakevalam nhất hành định tâm
Ekaccasassatika 1072 nhất phần thường luận.
Ekavokārabhava 265 nhất uẩn hữu
Ekasaṅkhāta 1106 kể chung, đếm thành một
Ekodibhāva 599.661 nhất tâm
Ekodibhāvādhigata 834 đạt đến nhất hướng tâm
Ejā 926 khát vọng
Eṭṭhi 882 tìm kiếm
Ettāvatā 990.1011 đến mức độ đó
Etthāvacara 1103 lãnh vực ấy
Evaṃ 103.1036.1052 như vầy, như vậy, như sau
Evaṃgotta 846 có họ như vậy
Evaṃdiṭṭhi 940.949.990.1011 có tri kiến như vậy.
Evaṃnāma 846 có tên như vậy
Evaṃāhāra 846 có vật thực như vậy
Evaṃāyupariyanta 846 có hạn tuổi thọ như vậy
Evaṃvaṇṇa 846 có dung sắc như vậy, có dòng dõi
Evaṃvādī 940.990.949.1011 luận thuyết như vầy
Evaṃsukhadukkhapatisaṃvedī 846 có cảm thọ lạc khổ như vậy
Esanā 882.936 tầm cầu, ước vọng
Okappanā 240.359.660 sự tín nhiệm
Okkanti 146.266 sự hiện ra
Ogha 91.926 nakevalam bộc, bộc lưu
Oghaniya 46.795.796 cảnh bộc
Oghavippayutta 46 bất tương ưng bộc
Oghasamyutta 46 tương ưng bộc
Omaññitatta 885.888.891.894 tính cách ti mạn
Ottappati 917.954 sợ hãi
Ottappitabba 917.954 đáng sợ hãi
Odagya 557.654 sự thích thú
Onāha 633 sự che lấp
Opapātika 1031.1096 hóa sanh
Opānabhūta 604. Trở thành giếng nước
Obhāsa 880 nói chuyện
Obhāsakamma 880 hành động như nói chuyện
Omannanā 885.888.891.894 thái độ ti mạn
Omāna 849.885.1010 ti mạn, sự tự ti
Oramattaka 605 thấp thỏi, tầm thường
Olīnavuttitā 863.952.954.956 thái độ tiêu cực
Olīyanā 633.878.960 sự chần chừ
Ohīlanā 885.888.891.894. sự mặc cảm
Ohīlitatta 885.888.891.894 thái độ mặc cảm
Olārika 5.990 thô, sự thô thiển
Kakkasā 921 gút mắc, sự nói gút mắc
Kakkaḷa 115 sự thô rắn, sự cứng sượng
Kakkhaḷatā 911.919 sự nhám nhúa, tình trạng khô nhám; thái độ cứng cỏi
Kakkhaḷatta 115 tính chất cứng sượng
Kakkaḷabhāva 115 trạng thái cứng sượng
Kakkhaḷiya 864.911.919 bướng bỉnh, tính cách thô nhám, tính cách nhám nhúa, tính cách cứng rắn.
Kaṅkhati 932.981 ngờ vực
Kaṅkhā 355.643.932 sự do dự
Kaṅkhāyanā 355.643.952 cách do dự
Kaṅkhāyitatta 355.643.932 thái độ do dự
Kaṭukañcukatā 910.956 sự hà tiện
Kaṭṭha 115 cây gỗ
Kaṭṭhaggi 117 lửa cũi
Kaṭṭhasannicayasantāpa 117 chất nóng của đống cây
Kaṇṇacchidda 119 lỗ tai
Kata 1013 đã làm xong
Katattā 372.409.416.876 do tạo tác
Katasaññitā 899 sự ngộ nhận đã hành rồi, tưởng lầm đã làm rồi
Katahetu 940 nhân tố
Kati (idam yebhuyyikam) bao nhiêu?
Kattabba 1013 cần phải làm
Katukamyā 467.507.502 muốn làm, muốn tạo ra
Kathalā 115 gạch
Kathā 1017 lời nói, câu chuyện diễn văn
Kathinatā 919 thái độ thô thiển
Kadariya 910.956 sự keo kiết
Kanta 6.155.839 đáng ham thích, khả hỷ
Kandara 599.617 thạch động
Kappa 1013.1107 kiếp, thời gian dài, dịp, cơ hội
Kappiya 638 việc thích hợp, chính đáng
Kappiyasaññitā 638 nghĩ là chính đáng
Kappeti 574.604.795. điều hành, hành dộng, sinh kế, nuôi mạng
Kabaliṅkārāhārabhakkha 1011 thức ăn đoàn thực.
Kamma 1013 nghiệp, sự hành động, công việc
Kammabhava 265 nghiệp hữu
Kammavipāka 396 quả nghiệp
Kammasamādāna 800.840 nghiệp chấp trì, sự chấp trì nghiệp, nghiệp thọ trì.
Kammassakatā 798.804.822 nghiệp sở hữu, diệt sở nghiệp
Kammāyatana 804.883.888 công việc, nghiệp vụ
Kammārāmatā 996 thích làm việc
Kammāvaraṇa 844 nghiệp chướng
Karīsa 115.432.433.434 phẩn, bả phân
Karuṇā 122.745.752 sự thượng xót, bi, bi mẫn
Karuṇāyitatta 122.745.752 thái độ trắc ấn, thái độ xót thương.
Karuṇāyeyya 745 thương xót
Karunāsahagata 741.744.757 câu hành với bi
Kareyya 839 tạo, làm, hành động, đóng vai, thực hiện
Kalaha 1023 luận tranh, tranh luận
Kalyāna 840.1004 điều tốt
Kalyānacarita 844 sở hành tốt
Kalyānādhimuttika 844 khuynh hướng tốt
Kalyānāsaya 844 sở chấp tốt
Kasāva 947.948 khuyết tật, nước chát
Kasira 830 sự khó khăn
Kaḷevara 148.267 Xác thân
Kāma 166.590.651.949.982.1017 muốn, thích, dục lạc, cõi dục
Kāmaguṇa 863.867.952 dục dật hệ, dục trưởng dưởng.
Kāmacchanda 449.651.976.983 dục dục, sự ước muốn dục, dục vọng
Kāmajjhosāna 961.962 sự mê luyến dục
Kāmataṇhā 158.926 dục ái, ái dục
Kāmadhātu 122.929.1087.1095 dục giới
Kāmadhātupaṭisaṃyutta 933 liên hệ dục giới
Kāmadhātupariyāpanna 1091 liên quan dục giới
Kāmapatisaṃyutta 122.927 liên hệ dục
Kāmabhava 265 Dục hữu
Kāmarāga 936.1005.1007.1029 dục tham
Kāmarāgānusaya 844 dục tham tiềm miên
Kāmārūpagati 1107 sanh cõi dục cõi sắc
Kāmavitakka 927 dục tầm
Kāmasaññā 928.951 dục tưởng
Kāmāsahagata 828 câu hành dục
Kāmāvacara 46.96.795.1011.1103.1106 dục giới
Kāmāvacarakusala 788 thiện dục giới
Kāmāvacara deva 1096 dục giới thiên, chư thiên dục giới
Kāmāvacarā paññā 796.798 Tuệ dục giới
Kāmāsava 916 dục lậu
Kāmupādāna 264.963 dục thủ
Kāmesanā 936 dục cầu
Kāya 98.159.431.543.623.875.921.1011 nakevalam, thân, thân thể, thân xác
Kāyakamma 466.472.795.930.936 thân nghiệp
Kāyakasāva 948 khuyết tật thân
Kāyagantha 962 thân phược
Kāyaduccarita 839.847.863.952.954 thân ác hạnh
Kāyaduccaritasamaṅgī 839 có thân ác hạnh, thành tựu thân ác hạnh
Kāyaduṭṭhulla 876 nặng nhọc thân thể
Kāyadhātu 1077 thân giới
Kāyappassaddhi 549 thân khinh an, tịnh thân
Kāyaviññāna 159.377.1086 thân thức
Kāyaviññānadhātu 1071 thân thức giới
Kāyavisama 945 Thân bất bình
Kāyasaṅkhāra 257 thân hành
Kāyasañcetanā 257.930 thân tư
Kāyasamphassa 159.161.1028 thân xúc
Kāyasamphassaja 121.239.1083 nakevalam thân xúc sở sanh, sanh từ thân xúc
Kāyasucarita 839.847 thân thiện hạnh
Kāyasucaritasamangī 839 có thân thiện hạnh
Kāyānupassī 432.459.462 thân quán, quán thân
Kāyāyatana 100.1076 thân xứ, thân nhập
Kāyika 121.239.920.957 thuộc về thân
Kāyindriya 236 thân quyền
Kāla 988 thời, lúc, thời gian, thời giờ
Kālakiriya 143.267 sự quá vảng
Kālavipatti 840 thời kỳ bất lợi
Kāsāvappajjota 640 nghinh tiếp tu sĩ, nghinh tiếp vị mặc Cà sa
Kāla vāta 118 gió độ thấp
Kiccakaraṇīya 905 hữu sự, có việc cần làm
Kiccha 830 sự khó khăn
Kiñcana 941 chướng ngại
Kittaka 1106 chừng bao nhiêu
Kiriyā 396.788 tố, duy tác, tâm hạnh
Kiriyābyākata 1080 tố vô ký, vô ký tố
Kilanta 1013 mệt nhọc, mệt mỏi
Kilesa 95.466.472 nakevalam phiền não
Kilesavippayutta 46.95 nakevalam bất tương ưng phiền não
Kilesasampayutta 46.95 nakevalam tương ưng phiền não
Kilesāvaraṇa 844 phiền não chướng
Kilomaka 115.432.433.434 mạng mở
Kukkucca 449.599.638.642.983 hối, hối hận
Kukkuccāyanā 638 cách hối hận
Kukkuccāyitatta 638 thái độ hối hận
Kucchisaya vāta 118 gió trong bụng
Kujjhanā 122.629.908 tính cách hiềm hận, tính cách nóng giận
Kujjhitatta 122.623.923 thái độ hiềm hận, thái độ nóng giận
Kuṭilatā 919 thái độ cong vẹo
Kupita 981 sân hận
Kumāra 1104 Hoàng tử, cậu bé trai
Kumbhilabhaya 933 hiểm họa cá sấu
Kummagga 312.960 sái đường
Kummaggasevanā 851.960 hành tà đạo
Kulamacchariya 910.956.968 sự bỏn xẻn gia tộc, sự bỏn xẻn gia thế
Kusala 44.85.465.477 nakevalam thiện, thiện sự, thiện tánh
Kusala citta 358.400.768.784 tâm thiện
Kusalamūlapaccaya 358.409 duyên căn thiện
Kusala hetu 1080 nhân thiện, thiện nhân
Kusalā cetanā 257 tư thiện, thiện tư
Kusīta 868.1008 sự biếng nhác, sự giải đải, lười biếng, người lười biếng
Kusītavatthu 1013 giải đải sự, điều kiện biếng nhác
Kuhanā 849.878 sự lừa đảo, sự dối gạt
Kuhāyanā 878 thái độ dối gạt
Kuhitatta 878 tính cách dối gạt
Ketukamyatā 860.883.896 sự mở cờ, thái độ như mở cờ
Kevala 255.273.303.340.371 toàn bộ
Kesa 115.432.434 tóc
Kesamatthaka 432.433.434 ngọn tóc, đầu sợi tóc.
Kelanā 871 sự vui chơi
Koṭṭhasayavāta 118 gió trong ruột
Kodha 122.629.632.850.908.926.991.1021 sự hiềm hận, sự sân giận, sự nóng giận
Kodhasāmanta 921 chọc giận
Kopa 122.629.632.926.1017 giận dữ
Kolaputtīya 883.894.898 con nhà gia thế
Kosajja 851.952.956 sự lười biếng, sự giải đải
Kosalla 612 sự rành rẽ
Khaṇḍicca 147.267 răng long
Khattiya 1035.1055 hạng vua chúa, Hoàng tộc
Khattiyamahāsāla 1105 Vua chúa hào phú
Khanti 600.804.844 Sự nhẫn nại, sự chịu đựng, tín ngưỡng
Khandha 146 uẩn
Khandhadhātu – āyatana – 1103 Uẩn – giới – xứ
Khandhanānatta 842 uẩn dị biệt
Khandharasa 116 vị chất thân cây
Khaya 303.339.800.835.848 đoạn trừ, sự hoại tận
Khayadhamma 115 tình trạng thô rắn
Khāyita 117.119.599.612 nhai ăn
Khipanā 881 sự nhạo báng
Khippa 830.845 nhanh, mau
Khippābhiññā 830 đắc cấp, chứng ngộ mau
Khilajāta 981 cương ngạnh
Khīnāsava 868 người có lậu đoạn tận, bậc đoạn lậu
Khīra 116 sữa tươi
Khurakavāta 118 gió như dao cạo
Khela 116.432.434 nước miếng, nước dãi
Gaṇanā 1106 tính toán
Gaṇanānupubba 655.665.676.684 sự đếm tuần tự
Gata 599.612.1013 đi
Gativipatti 840 sanh thú bất lợi
Gatisampatti 840 sanh thú thuận lợi
Gantabba 1013 cần đi xa
Gantha 926 phược
Ganthaniya 795.796.803 cảnh phược
Gandha 98.159.922.998 khí, hơi, mùi
Gandhataṇhā 159.161.926.994 Ái hương
Gandhadhātu 1107 khí giới
Gandhavicāra 159.161 hương tứ
Gandhavitakka 159.161 hương tầm
Gandhasañcetanā 159.161 hương tư, khí tư
Gandhasaññā 159.161.689 hương tưởng, khí tưởng
Gandhāyatana 100.1076 khí xứ
Gandhārammaṇa 291.418.785 cảnh khí, cảnh hương
Gandhāsā 926 muốn hương
Gabbhaseyyakasalta 1056 loài hữu tình thai sanh
Gamana 802 sự đi
Garahaṇā 881 sự chê trách
Garuka 1013 sự nặng nề, nặng nhọc
Garukāra 861.910 sự trọng vọng, sự tôn kính, sự tôn vinh
Garukāramada 849 kiêu hãnh sự trọng vọng
Garuṭṭhānika 872 người có địa vị đáng trọng, bậc khả kính
Gaveṭṭhi 882 tham cầu
Gavesanā 882 tham vọng
Gahaṭṭha 613.1035.1054 cư sĩ, người tại gia
Gahapatimahāsāla 1105 gia chủ phú hào
Gāthā 783 kệ ngôn
Gāma 1013 làng, xóm, thôn ấp
Gāha 312 chấp trước
Giddhikatā 881 sự khiêu gợi
Giddhikatta 871 tính cách khiêu gợi
Giriguha 599.617 hang núi, sơn cốc
Gilāna 1013 sự bệnh hoạn
Gilānapaccaya 867.953 dành cho người bệnh, để trị bệnh
Gihisaṃsagga 604 sự chung đụng cư sĩ
Gihisaṃsaṭṭha 905 sự chung chạ cư sĩ
Guttadvāra 599.607 phòng hộ môn
Guttadvāratā 607 phòng hộ môn
Guhanā 911 sự dối trá
Guhā 614 hang động, khe hở
Gedha 926 sự ràng buộc
Geyya 783 ứng tụng
Gelañña 1013 sự bệng hoạn, tình trạng đau bệnh
Gehasita 992.1001 thế tục
Gocara 604 hành xứ, cảnh giới, phạm vi hoạt động
Gocaravisaya 795.802 cảnh vức, phạm vi cảnh
Gotta 861.883.897 họ tộc, dòng họ
Gottamada 849.861 kiêu mạn về dòng họ, kiêu mạn về họ tộc, kiêu hãnh họ tộc
Gomayaggi 117 lửa phân bò
Ghāna 98.159.922.998 tỷ, lỗ mũi
Ghānadhātu 1077 tỷ giới
Ghānaviññāna 159.377.411.786.1089 tỷ thức
Ghānaviññānadhātu 1077 tỷ thức giới
Ghānasamphassa 159.161.1082 tỷ xúc
Ghānasamphassaja 159.161.1083 sanh từ tỷ xúc
Ghānāyatana 100.1076 tỷ xứ
Ghānindriya 236.1079 tỷ quyền
Cakkavatti 839 vị Chuyển Luân Vương
Cakkāyatana 100.1076 nhãn xứ
Cakkhu 98.159.161.947.998 nhãn, con mắt
Cakkhudhātu 1077 nhãn giới
Cakkhundriya 237.922.1079 nhãn quyền
Cakkhuviññāna 159.372.786.1086 nhãn thức
Cakkhuviññānadhātu 1077 nhãn thức giới
Cakkhusamphassa 159.161.1082 nhãn xúc
Cakkhusamphassaja 159.161.1083 sanh từ nhãn xúc
Caṅkama 609 kinh hành, đi qua lại
Caṇḍikka 122.629.908.026 sự hung dữ
Catuttha 684 thứ tư
Catutthajjhāna 838 Tứ thiền
Caturatā 869 thái độ đóng kịch
Catuvokārabhava 265 tứ uẩn hữu
Cattatta 634.639 đã dứt bỏ
Capalatā 871 sự sửa sang
Carita 844 hạnh kiểm, sự thực hành, sở hành
Cavati 795.802 tử, chết
Cavanatā 148.267 sự đổi dời
Cavamāna 847 đang chết
Cāga 160 sự xả bỏ
Cātummahābhūtika 1011 Do bốn đại hiển hợp thành
Cātummahārājika deva 1104 Tứ đại thiên vương, cõi trời Tứ đại vương
Cāturiya 869 tính cách giả vờ
Cāpalya 849.871 chưng diện, tính cách sử sang
Cāra 652 sự giữ gìn cảnh
Citīkata 6 được ái mộ
Citta (idam yebhuyyikaṃ) tâm
Cittacetasika 692.707.1103 tâm và sở hữu tâm
Cittaja 308 do tâm sanh
Cittappassaddhi 543 tịnh tâm, tâm yên tịnh
Cittavipariyesa 966 tâm điên đảo, sự điên đảo của tâm
Cittavippayutta 93 nakevalam bất tương ưng tâm
Cittavisaṃsaṭṭha 93 nakevalam bất hòa với tâm
Cittasaṅkhāra 257 tâm hành
Cittasamādhi 512 tam định, định tâm
Cittasamādhipadhānasaṅkhāra 512 tâm định cần hanh
Cittasamuṭṭhāna 93.308 nakevalam có tâm làm sở sanh
Cittasampayutta 93 nakevalam tương ưng tâm
Cittasaṃsaṭṭha 93 nakevalam hòa với tâm
Cittasahabhū 93 nakevalam đồng hiện hữu với tâm
Cittahetuka 308 có tâm làm nhân
Cittādhipateyya 771 tâm trưởng
Cittānuparivatti 93 nakevalam tùy chuyển với tâm
Cittānupassī 445.459.462 tâm quán, quán tâm (trong niệm xứ)
Cittiddhipāda 531.534 tâm thần túc, tâm như ý túc
Cittuppāda 788 tâm sanh khởi, sự sanh của tâm
Cittuppādakaraṇīya 605 cần phải sanh tâm
Cintā 612 sự suy xét
Cintāmayā pāññā 797.804 trí tư, tuệ tư
Cirakata 543 hành vi đã lâu
Cirabhāsita 543 lời nói đã lâu
Cīvara 867.953 y phục, y ca sa
Ciraramandanā 781 sự chưng dọn y phục
Cīvarahetu 904 vì nhân y phục, do nhân y phục
Cuta 846 đã chết
Cuti 148.267 chết, sự chuyển biến
Cutūpapāta 800.835.847 sanh tử, sanh ra và chết đi
Ceta 122.149.268 tâm, tư tưởng
Cetanā 259.293.768 tư, sự cố ý, sự tính toán
Cetasika 93.121 nakevalam thuộc về tâm, sở hữu tâm, tâm sở
Cetopharanatā 833 tâm biến mãn
Cetokhila 981 hoang vu tâm
Cetovimutti 122.743.751.848 tâm giải thoát
Cetosamphassa 654 tâm xúc
Cetosamphassaja 121.298 sanh từ tâm xúc
Cokada 1017 nguyên cáo, người khởi tố
Codiyamāna 1017 khi bị tố cáo
Corabhaya 972 hiểm nạn trộm cướp
Chaṭṭhāyatana 274 nakevalam nhập đệ lục, xứ thứ sáu
Chanda 168.1034 nakevalam dục, ước muốn, sự muốn, sự hoài bảo
Chandagamana 965 thiên vị vì thương
Chandarāga 651.1023 dục tham, dục ái
Chandasamādhi 506 dục định
Chandasamādhipadhānasaṅkhāra 506 Dục định cần hành
Chandāgati 965 thiên vị vì thương
Chandādhipateyya 771 dục tưởng
Chandika 844 có ước vọng
Chandiddhipāda 531.532 dục thần túc, dục như ý túc
Chambhitatta 939 sự khiếp đảm
Chādana 926 mái che
Chādanā 911 sự dấu diếm
Jaṅghapesanika 604 làm tay sai
Jaccandha 1096 mù khi mới sinh, sanh ra đã mù
Jaccabadhira 1096 điếc khi mới sinh, sanh ra đã điếc
Jaññā 911 hay biết
Janapadavitakka 849 sự nghĩ tưởng quê hương
Janikā 926 sản sanh
Janeti 465.467.487.506 làm sanh lên, khiến sanh, sản sanh
Jappanā 926 thái độ mơ mộng
Jappā 926 sự mơ mộng, sự mộng ước
Jappitatta 926 tính cách mơ mộng
Jappeti 883.891 so đo, ỷ lại
Jambhanā 875 sự ray rứt
Jarā 145.147.267.303.339 sự già nua
Jarādhamma 156 sự già, hiện trạng già
Jarābhaya 971.938 hiểm họa do sự già
Jarābhibhūta 33.795.801 bị già chi phối
Jarāmaraṇa 267.303.781.836 lão tử, già chết
Jarāmaraṇanirodha 781.798.832 sự đoạn diệt lão tử
Jarāmaraṇanirodha gamini 781.798 nhân đoạn diệt lão tử
Jarāmaraṇamokkha 1107 sự thoát khỏi già chết, giải thoát lão tử
Jāgarita 599.612 thức dậy
Jāgariyānuyogamanuyutta 599.609 chuyên tâm tỉnh thức
Jāta 3.653.663.780.1004 đã sanh, sanh ra rồi
Jātaka 783 Bổn sanh kinh
Jātarūpa 115 vàng
Jāti 146.255.302.782.798.846.860.883 sự sanh ra, sanh, sanh chủng, kiếp sống
Jātipaccaya 255.274.836 duyên sanh
Jātibhaya 938.971 hiểm nạn sanh
Jātimada 849.860 kiêu hãnh về sanh chủng, kiêu hãnh về chủng sanh
Jātisata 846 một trăm kiếp sống
Jātisatasahassa 846 một trăm ngàn kiếp sống
Jānātu 868 hãy biết đến, hãy hiểu rằng
Jātitatthā paññā 796.803 tuệ lợi sanh
Jāyati 926 sanh khởi, phát sanh
Jālinī 926 ái võng
Jigiṃsanatā 849.882 Sự mong được, sự cầu được
Jimhatā 919 thái độ quanh co
Jivhā 98.159.922 thiệt, lưỡi
Jivhādhātu 1077 thiệt giới
Jivhāyatana 100.1076 thiệt xứ
Jivhāviññāna 159.377.411.786.1086 thiệt thức
Jivhāviññānadhātu 1077 thiệt thức giới
Jivhāsamphassa 159.161.1082 thiệt xúc
Jivhāsamphassaja 159.161.1082 sanh từ thiệt xúc, do thiệt xúc sanh
Jivhindriya 236.1079 thiệt quyền
Jīranatā 147.267.303.339 sự cũ kỹ
Jīva 844.1032 sinh mạng
Jīvita 238.574.604.839.861.984 đời sống, sinh mạng, mạng sống, mạng, sống còn
Jīvitamada 849 kiêu hãnh đời sống
Jīvitāsā 926 muốn sống
Jīvitindriya 148.236.1079 mạng quyền, quyền sống còn
Jeṭṭha 872 bậc trưởng thượng
Jhāna 599.656.800.845.1107 nakevalam thiền, thiền na, thiền định
Jhānamada 849 kiêu hãnh về thiền chứng
Jhāyī 845 thiền giả, người tham thiền
Ñatticatutthakamma 601 tứ tuyên ngôn tác bạch
Ñāna 163.777.798 nakevalam trí, sự hiểu biết
Ñānavippayutta 360.405.768.784.1096 bất tương ưng trí
Ñāta 241.825 trí hiểu
Ñātibyasana 149.248.987 quyến thuộc suy vong, sự suy sụp thân quyến, suy vong thân quyến
Ñātivitakka 849 sự nghĩ quyến thuộc
Ñātisālohita 155 bà con huyết thống
Ṭhapanā 878.908 sự giữ lại, lập oai nghi
Ṭhapeti 691 đặt, để
Ṭhāna 800.802.839 sự đứng, nguyên lý, sự kiện
Ṭhānaso 800.840 theo lý do, theo điều kiện, theo nguyên do
Ṭhānāraha 601 đúng điều kiện, hợp lý
Ṭhita 599.612.423 đứng
Ṭhiti 168.238.240.465.481.468.570.608 sự duy trì, sự đình trụ
Ṭhitibhāginī paññā 798.828 Trụ phần tuệ
Takka 122.582.652 sự tìm cảnh, sự nghĩ ngợi
Taca 115.432.433.434 Da, bì
Tacapariyanta 432.433.434 có da bao bọc
Tacarasa 116 vị chất da cây
Taṇhā 158.263.299…789.933.964.1023 ái
Taṇhākāya 944 thân ái
Taṇhāgaddula 926 ái như xích, xích ái
Taṇhājāla 926 ái như lưới, lưới ái
Taṇhānadī 926 ái như sông, sông ái
Taṇhāpaccaya 255.274.286.290 duyên ái, do ái làm duyên
Taṇhāvicarita 859 ái du
Taṇhāsamudda 926 ái như biển, biển ái
Taṇhāsampayutta 282 tương ưng ái
Taṇhāhetuka 278 có ái làm nhân
Taṇhuppāda 964 ái sanh
Tatiya 676 thứ ba, đệ tam
Tatiyajjhāna 838 Tam thiền
Tatratatrābhinandinī 158 quyến luyến cảnh này cảnh kia
Tathā 743 cũng vậy, cũng thế ấy
Tathāgata 800.839.984 Ðức Như Lai, Ðức Phật, chúng sanh Như lai, Như lai hữu tình
Tathāgato parammaraṇā 844.961 Như Lai sau khi chết
Tathārūpī 921 như vậy, như thế ấy
Tathāsata 543 niệm như thế
Tathāsamāhita 543 tâm định như thế
Tadadhimuttatā 348.357.359 tình trạng quyết đoán cảnh
Tananudhammatā 828 thuộc khuynh hướng ấy
Tadupari 1104 cõi trên
Tadekajjha 2.859 chung thành một, sự tồng kết
Tadekaṭṭha 844.36 sanh chung pháp ấy, đồng với pháp ấy
Tandi 849.874 Tiêu cực, sự uể oải
Tandiyanā 874 sự lừ đừ
Tandimanakatā 874 sự mệt mỏi
Tannidāna 839 nhân ấy
Tapa 982 một hình thức tu hành xác, khổ hạnh
Tappaccaya 939 do duyên ấy
Tama 939 ám muội, bóng tối
Talavaṇṭavāta 118 do gió quạt
Tāvatiṃsa deva 1105.1106 Ðạo Lợi thiên
Tāvadīghāyukā 1107 cho đến loài trường thọ
Tikkhindriya 844 lợi căn
Tiṇa 115 cỏ, thảo mộc
Tiṇaggi 117 lửa cỏ
Tiṇasannicayasantāpa 117 chất nóng của đống cỏ
Tiṇṇa 644 vượt khỏi, đi qua
Tiṇṇavicikiccha 599.644 vượt khỏi hoài nghi
Titthāyatana 300.312.336 thuyết ngoại giáo, ngoại đạo xứ
Titthiya 604 ngoại đạo
Titthiyasāvaka 604 đệ tử ngoại đạo
Tintina 849.870 siễm nịnh, nịnh bợ, sự ton hót
Tintināyanā 870 thái độ ton hót
Tintināyitatta 870 tính cách nịnh hót
Tipu 115 chì (kim loại) trắng
Tiracchānagata 1096 súc sanh, bàng sanh, loài thú
Tiracchānagāminī 841 dẫn đến bàng sanh
Tiriyaṃ 741.743 bề ngang, hướng ngang
Tuṇhībhāva 599.611 im lặng
Tuṇhībhūta 1017 im lặng
Tuvaṃtuvaṃ 1023 xung đột
Tusita deva 1105.1106 Ðẩu Suất thiên, cõi trời Ðẩu Suất
Teja 117 lửa, hỏa, lửa nóng, sự nóng bỏng
Tejogata 117 cách nóng bỏng
Tejudhātu 117 hỏa giới
Tela 116 dầu
Thambha 849.864 sự cương ngạnh, sự cứng đầu, sự cứng cỏi
Thambhanā 864 thái độ cứng cỏi
Thambhitatta 118.355.643.864 tính cách cứng cỏi, tình trạng lay chuyển, tính lay động
Thāma 240.486.507 sự dốc lòng
Thīna 633.844.877 hôn trầm, sự dã dượi
Thīnamiddha 449.599.651.983 hôn trầm và thụy miên, hôn thụy (cái)
Thīyanā 633.877.960 thái độ hôn trầm, tính cách dã dượi
Thīyitatta 633.877.960 tình trạng hôn trầm, tình trạng dã dượi
Thullakumārīgocara 604 hành xứ gái già, chỗ ở gái già
Thusaggi 117 lửa trấu
Theta 975.1004 sự cả quyết, sự quả quyết
Thoka 831 ít, kém
Dakkhiṇa 118.609.743 phía hữu, phía tay mặt, hướng nam
Daṇḍa 650 cây gậy, hình phạt, sự phạt vạ, gậy trượng, gậy gộc
Daṇḍabhaya 974 hiểm nạn về hình phạt
Daṇḍādāna 1023 cầm gậy, chấp trượng
Dadhi 116 sữa đặc
Danta 115.423.434 răng
Dantakaṭṭhadāna 604 cho bàn chải răng
Dandha 830.845 mù, đui, chậm chạp
Dandhābhiññā 370.830 nakevalamđắc trì, chứng ngộ chậm
Dava 608.922 sự nô đùa
Dassana 45.97 nakevalam kiến đạo, sự nhận thấy, sự giác ngộ
Dahati 886.888.890.893 tự nhận, nhận chịu
Daḷhīkamma 908 sự chấp cứng
Dāna 1105 bố thí, sự cho, sự thí
Dānamaya 257.797.805 bố thí thành, thí thành, sự do bố thí
Diṭṭha 241.825.848.967.1111 thấy, kiến
Diṭṭhadhammanibbāna 985 Níp Bàn hiện tại
Diṭṭhadhammanibbānavāda 1072 Luận chấp Níp Bàn hiện tại, Níp Bàn hiện tại luận
Diṭṭhadhammasukhavigāra 398.787 hiện tại lạc trú
Diṭṭhānusaya 844.1005 kiến tiềm miên, tà kiến ngủ ngầm
Diṭṭhāsava 961 kiến lậu
Diṭṭhi 312.600.804.844.975.1012.1034 nakevalamquan kiến, sự thấy, sự quan niệm, kiến, kiến thức
Diṭṭhikantāra 312 kiến trù lâm
Diṭṭhigata 312.370.859.961 thiên kiến, tà kiến
Diṭṭhigatapatisamyutta 904 liên hệ thiên kiến, liên quan tà kiến
Diṭṭhigatavippayutta 785 bất tương ưng tà kiến
Diṭṭhigatasampayutta 291.785 tương ưng tà kiến
Diṭṭhigahana 312 kiến chấp
Diṭṭhibyasana 149.268.987 suy thoái tri kiến, suy vong tri kiến, suy thoái kiến thức
Diṭṭhivipatti 850 kiến hoại
Diṭṭhivipariyesu 966 kiến điên đảo, sự điên đảo về kiến thức
Diṭṭhivihandita 312 kiến tranh chấp
Diṭṭhivisūkāyika 312 kiến hý luận
Diṭṭhisanga 979 kiến hệ lụy
Diṭṭhisannojana 312 kiến triền, tà kiến triền
Diṭṭhisampanna 839 kiến cụ túc, hạng người thành tựu tri kiến
Diṭṭhisalla 980 mũi tên tà kiến
Diṭṭhupādāna 264.963 kiến thủ
Dinna 949.1031 công đức thí, sự bố thí
Dibba 1011.1106 thiên, thuộc về cõi trời
Dibbacakkhu 833.847 thiên nhãn
Divasa 609 ban ngày
Disa 741.743 phương hướng
Dīgharatta 1004 lâu dài
Dukkata 1031 ác hành
Dukkarakārikāpatisamyutta 904 liên quan khổ hạnh
Dukkha 98.121.239.255.441.570.599.798.940.966.990.1014 nakevalam sự khó chịu, sự khổ
Dukkhakkhandha 255.273.303.340 khổ uẩn
Dukkhadhamma 149.268 nổi khổ, hiện trạng khổ đau
Dukkhadhātu 121 khổ giới
Dukkhanidāna 926 nhân khổ
Dukkhanirodha 160.176.256.570 nakevalam khổ diệt
Dukkhanirodhagāmanī 162.175.256.570 nakevalam khổ diệt hành lộ
Dukkhappabhava 926 nguồn khổ
Dukkhamūla 926 gốc khổ, khổ căn, cội khổ
Dukkhasamudaya 158.172.256.570 nakevalam khổ tập, nhân sanh khổ
Dukkhasacca 1078 khổ đế
Dukkhāpaṭipadā 370.459.830 nakevalam hành nan, thực hành khắc khổ, hành khó khăn
Dukkhita 905 bị đau khổ
Dukkhindriya 216.1079 khổ quyền
Duggata 744.547 cùng cực, ác thú
Duggati 839.847.988.1107 ác thú, khổ cảnh, khổ thú
Duggatibhaya 974.989 hiểm họa khổ thú, hiểm nạn sanh khổ cảnh
Duccarita 1009 ác hạnh
Duṭṭhacitta 539.984 ác tâm, tâm ác, dã tâm
Dutiya 665 thứ hai, đệ nhị
Dutiyajjhāna 838 Nhị thiền
Dutiyā 926 tình bậu, ái thứ đệ
Duppañña 844.868.951.1008 ác tuệ, thiểu trí
Dubbaṇṇa 847 xấu sắc
Dubbala 1013 yếu, yếu sức, yếu kém
Durabhisambhava 618 khó tìm đến
Durupeta 744 khốn khổ
Dussīla 868.951.955 ác giới
Dussīlya 604.851.920.957 ác giới
Dūra 7.613.618 viễn, xa, xa vắng
Dūviññāpaya 844 nan giáo hóa, khó cảm hóa
Dūsanā 122.632.908 tính cách hãm hại
Dūsitatta 629.632.908 thái độ hãm hại
Deva 982.1035.1104 chư thiên, vị trời
Devakāya 982 thân chư thiên, một hạng chư thiên
Devaññatara 982 vị chư thiên hạng thấp, thiên tử (= Devaputta)
Devalokagāminī 841 dẫn lộ thiên giới, đưa đến cõi Trời
Devī 1103 Hoàng Hậu
Desenti 674 thuyết giảng
Domanassa 145.149.152.431.599.922.957.990 ưu buồn, ưu tư
Domanassaṭṭhāniya 999 đáng chỗ buồn
Domanassadhātu 121 ưu giới
Domanassasahagata 352.782 câu hành ưu
Domanassindriya 236.1079 ưu quyền
Dovacassatā 850.955.997 nan giáo, tình trạng khó dạy, sự khó dạy, tính cách khó dạy
Dovacassāya 918.951 sự khó dạy
Dovacassiya 918.951 thái độ khó dạy
Dosa 122.466.844.908.941.4.949.1017.1080 sân, sự nóng nảy, sự hãm hại
Dosakasāva 947 khuyết tật sân
Dosakkhaya 100.130 sự đoạn tận sân
Dosaggi 946 lửa sân
Dosasaṅga 979 sân hệ lụy
Dosasalla 980 sân tiển, mũi tên sân hận
Dosāgati 965 thiên vị vì giận, thiên vị vì ghét, thiên vị vì sân
Dvākāra 844 ác hành tướng
Dvedhāpatha 355.643 sự phân vân
Dvelhaka 355.643 sự lưỡng ước
Dhaja 860.880.896.996 cao kỳ
Dhaññasannicayasantāpa 117 sức nóng từ đống lúa
Dhana 883.888 tài sản
Dhanāsā 926 muốn tài sản
Dhamma (idam yebhuyyikam) pháp
Dhammacchanda 467.495.507.520.532 pháp dục, sự ước nguyện trong pháp
Dhammaṭṭhitiñāna 836 trí pháp tụ
Dhammataṇhā 159.161.926.994 pháp ái
Dhammadhātu 122.1077 pháp giới
Dhammanijjhānakkhanti 804 kiên nhẫn nghiệm pháp
Dhammaniruttābhilāpa 777.829 pháp ngữ đối thoại
Dhammapaṭisanthāra 921 sự tiếp đãi pháp
Dhammapatisambhidā 777.829 pháp đạt thông
Dhammamacchariya 910.956.978 bỏn xẻn pháp
Dhammavicaya 240.612 trạch pháp
Dhammavicayasambojjhaṅga 241.449.543 trạch pháp giác chi
Dhammavicāra 159.161 pháp tứ
Dhammavitakka 159.161 pháp tầm
Dhammavinaya 600 pháp luật
Dhammasañcetanā 159.601 pháp tư
Dhammasaññā 159.161 pháp tưởng
Dhammānupassī 449.459.462 pháp quán, vị năng quán pháp
Dhammāyatana 100.1076 pháp xứ
Dhammāyatanapariyāpanna 100.130 liên quan pháp xứ
Dhammārammaṇa 291.358.400.768.784 cảnh pháp
Dhātu 926 giới, bản chất
Dhātunānatta 842 dị diệt bản chất, bản chất sai khác
Dhāraṇatā 240.612 thái độ ghi nhận
Dhiti 240.507 nghị lực
Dhīra 1107 người trí tuệ, bậc trí
Dhurasampaggāha 240.484.507 phò trì trách nhiệm, nhận lãnh trọng trách
Dhuva 1004.1042.1061 vững chắc
Nakha 115.432.433.434 móng tay…
Natthi 949.1031 không có, vô hữu
Natthikiñci 599.701 không có cái chi, không có chi cả
Nadati 800 rống lên, gầm lên
Nandirāgasahagata 158 câu hành hỷ tham
Nandī 299.926 sự vui thích
Nandīrāga 299.926 hỷ tham
Napuṃsakan 1096 trung tính
Nava 608 chín, số chín (9)
Navanīta 116 bơ tươi
Nhāru 115.832.433.434 gân
Nādhimuccati 981 không quyết tin
Nānattatā 1107 khác biệt, sai biệt, sai khác
Nānattasaññā 599.690.851.951 dị biệt tưởng, tưởng dị biệt
Nānappakāra 432.433.434 thể dị biệt
Nānādhātu 800.842 dị biệt giới, dị biệt bản chất, bản chất khác nhau
Nānādhimuttikatā 800.843 khuynh hướng dị biệt, khuynh hường sai khác
Nānārammaṇa 795.802 biết cảnh dị biệt
Nānāvatthuka 795.802 vật dị biệt
Nāma 259.295.802 danh, tên
Nāmapaccaya 279.275.286.687.290.358.372.400.402 duyên danh
Nāmarūpa 255.259.782.798 danh sắc
Nāmarūpapaccaya 255.276.1881.403 duyên danh sắc
Nāmarūpahetuka 280.281 có danh sắc làm nhân
Nāmasampayutta 282.375 tương ưng danh
Nāmahetu 275.279.374 có danh làm nhân, có nhân là danh
Nāsacchidda 119 lỗ mũi
Nāsikagga 624 chót mũi, chót sóng mũi
Nikati 911 sự phỉnh gạt
Nikanti 926 tham vọng
Nikāmanā 926 ước vọng
Nikāmalābhī 831 dễ dàng đắc chứng
Nikkathaṅkatha 646 chẳng nghi ngờ
Nikkama 240.486.507 sự cần cố
Nikkhittacchandatā 863.952.954.956 để qua ước vọng, đặt xuống ước vọng
Nikkhittadhuratā 863.952.954 để qua phận sự, đặt xuống phận sự
Nikkhepa 148.267 bỏ lại
Nigama 1013 thị trấn
Nicca 839.960.966.1042.1107 thường, sự tồn tại, sự trường cửu
Niṭṭhuriya 900 tư cách nhám nhúa
Niṭṭhuriyakamma 909 hành động nhám nhúa
Nittiṇṇa 644 vượt khỏi
Niddārāmatā 996 thích ngủ nghỉ
Nindā 1014 sự chê bai
Nipaka 1107 người khôn ngoan, sự khôn ngoan
Nipuṇa 1107 sự khéo léo, người khéo léo
Nippesikatā 849.881 sự lờn khinh
Nibatta 3.653.663.780 đang xuất hiện, đang hiện ra
Nibbatti 302.338 sự sanh ra
Nibbatteti 467.484 khởi sanh
Nibbatteyya 839 có thể sanh
Nibbāna 545 Níp Bàn
Nibbānogadhagāmī 1107 lối dẫn nhập Níp Bàn
Nibbidā 798.827 sự yếm ly, sự yếm ố, sự nhàm chán
Nibbidāsahagata 828 câu hành yếm ly
Nibbeṭheti 1017 tránh né tội, chạy tội
Nibbedhabhāginī paĩĩà 798.828 quyết trạch phần tuệ
Nimitta 432.445.449.880 sự ra dấu, tướng, tướng dạng, ấn tướng
Nimittakamma 880 hành động ra dấu
Nimittaggāhī 677.922.957 chấp tướng chung
Nimmānaratī deva 1105 Hóa lạc thiên
Niyaka 4.10.16.22.28 tư hữu, của riêng
Niyata 46.96.796 nakevalam sự cố định, pháp cố định
Niyāma 844 cố định, nhất định
Niyyānika 46.96.370.796 nakevalam pháp dẫn xuất
Niraya 839.847.988 địa ngục
Nirāyagaminī 841 nhân dẫn đến địa ngục
Nirāmisa 441.543.834 không thuộc vật chất
Nirutti 784 ngôn từ, ngôn ngữ
Niruttipaṭisambhidā 777.829 ngữ đạt thông
Niruddha 7.9.15.21.27 đã tiêu diệt
Nirodhataṇhā 926 ái diệt, ái đoạn diệt
Nirodhadhamma 836 hiển nhiên diệt
Nirodhanissita 552.570 y cứ đoạn diệt
Nirodhasacca 1078 Diệt đế
Nisajja 802 sự ngồi, an tọa
Nisinna 599.612 ngồi, đã ngồi
Nisīdati 599.622 ngồi
Nisevati dụng nạp
Nisevanā 918.951.960 sự giao hiếu, sự đeo đuổi
Nissaraṇadassāvī 605 thấy xuất ly, thấy thoát ly
Nissesa 743 không dư sót
Nīvaraṇa 91.599.648.926.983 triền cái, pháp cái
Nīvaraṇavippayutta 46.91 nakevalam bất tương ưng cái
Nīvaraṇasampayutta 46.91 nakevalam tương ưng cái
Nīvaranīya 46.91.795.803 nakevalam cảnh cái
Nekkhammadhātu 122 xuất ly giới
Nekkhammapaṭisaṃyuttam 112 liên hệ với sự xuất ly
Nekkhammasaṅkappa 164.571 xuất ly tư duy
Nepakka 599 thận trọng
Nepuñña 912 sự khôn ngoan
Nemittikatā 849.880 sự ám chỉ
Nerayika 1096 loài địa ngục
Nevasaññānāsaññābhava 265 Phi tưởng phi phi tưởng hữu
Nevasaññānāsaññāyatana 707.828.838.845 Phi tưởng phi phi tưởng xứ
Nevasaññānāsaññāyatanasaññāsahagata 368 nakevalam câu hành tưởng phi tưởng phi phi tưởng xứ
Nevasaññināsaññivāda 1072 phi tưởng phi phi tưởng luận
Nevasaññānāsaññāyatanūpaga 1011.1103.1107 đạt đến phi tưởng phi phi tưởng thiên
Nevasaññānāsaññī 706.985.1021.1034 hạng người phi tưởng phi phi tưởng
Pakāsita 1106 tuyên thuyết, được trình bày, được công bố
Pakāsenti 674 tuyên thuyết
Pakopa 122.629.632.926 sự giận hờn
Pakkhavātā 118 gió do cách chim
Paggaṇhāti 465.470.483.488.502.506 kiên trì, bám giữ, nắm chặc
Paggāha 768 chiếu cố
Paṅka 926 sự nhiểm đắm
Pacalāyikā 633 sự mơ màng, thiu thỉu ngủ
Paccakkhāya 1071 xả bỏ
Paccatta 4.648.834 phần riêng, tư nội
Paccanubhoti 1104 nhận lãnh
Paccanubhonti 795.802 hưởng cảnh
Paccaya 838 duyên
Paccayapaṭisevanasaṅkhatā 878 bảo rằng thọ dụng lễ vật
Paccavekkhaṇāñāṇa 833.838 phản khán tuệ, trí phản khán
Paccavekkhaṇanimitta 833 phản khán tướng
Paccuppatthambheti 470.488 hổ trợ
Paccuppalakkhanā 612 sự khảo sát
Paccuppanna 3.45.85.800.840.859.939 hiện tại, đang sinh tồn, đang tồn tại
Paccuppannasukha 834 hiện tại, an vui hiện tại
Paccuppannārammana 45.85 nakevalam có cảnh hiện tại, biết cảnh hiện tại
Pacceti 845 nhận định
Pacchima 118.743 cuối, cuối cùng, sau rốt, hướng tây
Pajappā 926 thái độ mộng ước
Pajānanā 240.612 sự biết rõ, sự hiểu biết
Pajānāti 800.839 hiểu rõ
Pañcavokārabhava 265 ngũ uẩn hữu
Pañcama 719.730 thứ năm, đệ ngũ
Pañcupādānakkhandha 145.157 ngũ thủ uẩn
Paññatti 784 chế định, sự giả thiết, giả thiết
Paññavā 844.868 có trí tuệ, người có trí, bậc trí tuệ
Paññā 240.612.830.839.1107 trí tuệ, sự hiểu rõ
Paññā–āloka 612 tuệ như ánh sáng
Paññā–obhāsa 612 tuệ như hào quang
Paññāpajjota 612 tuệ như đèn
Paññāpāsāda 612 tuệ ngư lâu đài
Paññāpenti 674.1011 giải thích, giả thuyết, chủ trương
Paññābala 612 tuệ lực
Paññādubbalīkaraṇa 599.650 muội lược trí tuệ
Paññāratana 612 tuệ như báu vật
Paññāvimuti 848 tuệ giải thoát
Paññāsattha 612 tuệ như vũ khí
Paññindriya 236.612.844.1079 tuệ quyền
Paṭikkanta 599.612 bước lui
Paṭiggāha 312 cố chấp
Paṭigha 122.352.629.926.1005.1029 phản kháng
Paṭighasaññā 599.689 đối ngại tưởng, chướng ngại tưởng
Paṭisampayutta 352.785 tương ưng phẩn nhuế
Paṭighāta 122.353.629.632.926.993.1014 sự phẩn nộ, sự phản kháng
Paṭighānusaya 844 phẩn uất tiềm miên
Paṭicarati 1017 tránh né vấn đề
Paṭicca 860.861 dựa vào, căn cứ vào
Paṭiccasamuppanna 844.932 Y tương sinh
Paṭicchādanahetu 911 nhân che dấu
Paṭijānāti 800 tự nhận
Paṭiññā 601 sự tự nhận
Paṭinissagga 160 sự dứt bỏ
Paṭinissaṭṭhatta 634.639 đã phóng xả
Paṭipajjati 922 thực hành, thực hiện
Paṭipadā 256.570.830.841 sự thực hành
Paṭippassaddhi 558 sự tỉnh lặng
Paṭippassaddhiladdha 834 đạt đến vắng lặng
Paṭippassambhanā 558 sự an tịnh
Paṭippassambhitatta 558 trạng thái an tịnh
Paṭippharati 1017 phản kháng
Paṭibandhu 926 sự kết buộc
Paṭibāḷha 840 bị trở ngại
Paṭibujjhati 795.802 thức dậy, thức giấc, tỉnh thức
Paṭibhāṇa 361.883.888 biện tài, trí kiến luận
Paṭibhāṇapaṭisambhidā 777.829 biện tài đạt thông
Paṭibhāṇamada 849 kiêu hãnh biện tài
Paṭiladdha 844 đắc được, có được, thành tựu
Paṭilābha 146.266.508.521.657.678 viên đắc, sự thành tựu
Paṭivijjhati 827 thấu triệt
Paṭivinīta 440.457 bị tẩy trừ
Paṭivirati 178.583.768 sự ngăn trừ
Paṭivirodha 122.632.903.926.1014 sự phản kháng, sự chống đối, sự phản đối, sự bực tức
Paṭivedha 798.828 sự triệt ngộ
Paṭisaṅkhā 608 quán tưởng
Paṭisanthāra 995 sự tiếp đãi
Paṭisallānasārūpa 599.620 chổ thích hợp thiền tịnh
Paṭisamvedeti 940 cảm thọ
Paṭisārambha 865 sự tranh hơn
Paṭisārambhanā 865 thái độ tranh hơn
Paṭisārambhitatta 865 tính cách tranh hơn, tính cách tranh giành
Paṭissati 240.612 tưởng niệm
Paṭṭhapenti 674.795.802 xác minh, thực hiện tạo thành
Paṭhama 655.711.715.722.726 thứ nhất, trước tiên
Paṭhamakappika manussa 1096 loài người sơ kiếp, nhân loại sơ kiếp
Paṭhamajjhāna 838 Sơ thiền
Paṭhamasamannāhāra 130 thu cảnh sơ khởi
Paṭhavīkasiṇa 366.711 đề mục đất, biến xứ đất
Paṭhavīdhātu 115 địa giới
Paṇamanā 875 sự văn minh
Paṇidahati 911 nguyện cầu
Paṇidhāya 599.623.982 giữ lại, kiềm chế, với ước vọng, với nguyện vọng
Paṇidhi 926.1107 sự cầu vọng, bổn nguyện
Paṇihita 623 kềm giữ
Paṇita 6.45.85.834.847.1013.1107 tốt, tốt đẹp, ngon, tinh lương, cao thượng, cao sang
Paṇitamata 6 biết là tốt đẹp
Paṇitasammata 6 cho là tốt đẹp
Paṇitādhimuttika 843 có khuynh hướng cao thượng
Paṇḍakagocara 604 hành xứ người lại cái, hành xứ người bộ nấp
Paṇḍara 125.170.294.743 bạch tịnh
Paṇḍicca 612 sự thông thái
Patoda 612 sự sắc xảo
Patta 241.825 sự đạt đến
Pattadāna 604 cho lá cây
Pattamaṇḍanā 871 sự chưng dọn bình bát
Pattasaññitā 899 ngộ nhận đã đạt đến, tưởng lầm đã đạt đến
Pattarasa 116 vị chất lá cây
Patti 370.508.521.657.678.1013 sự chứng đạt, sự đạt đến
Patthanā 926 hoài vọng
Padahati 465.471.506 phấn đấu
Padosa 122.629.926 sự ám hại
Padhāna 471 sự phấn đấu
Padhānasaṅkhāra 506.507.520 cần hành, hành vi nổ lực
Panta 873.950 vắng vẻ
Papañcārāmatā 992 thích hưởn đải
Papañcita 1034.1038.1044.1048.1053 hý tưởng, chướng ngại
Papphāsa 115.432.433.434 phế, phổi
Pabbajita 613.1035 tu sĩ, vị xuất gia
Pabbata 115.599.617 triền núi, núi non
Pamajjanā 863.952.954 thái độ hưởn đải
Pamajjitatta 952.954.863 tính cách hưởn đải
Pamāda 849.863.952.956 sự dễ duôi, sự khinh suất, sự buông lung, sự giải đải, sự hưởn đải
Pamodanā 557.654 sự hỷ diệt
Payirūpāsati 604.843 liên hệ, quan hệ
Payogavipatti 840 hành vi bất lợi
Payogasampatti 840 hành vi thuận lợi
Parakaṭuka 921 sự châm chích kẻ khác
Parakata 975 do người khác tạo
Parakkama 240.486.507 sự ráng sức
Parakkamati 911 hành động
Paracitta 833.835 tha tâm, tâm của người khác
Paranimmitavasavattī deva 1103.1105.1106 cõi Tha Hóa Tự Tại
Parapuggala 800.825.844 nhân vật khác, người khác, tha nhân
Parama 543 cao siêu
Paramadiṭṭhadhammanibbāna 990 tối thượng hiện tại Níp Bàn
Paralābha 910 lợi lộc của kẻ khác
Parasatta 900.825.844 chúng sanh khác, loài hữu tình khác
Parānudayatāpaṭisaṃyutta 849.905 liên hệ ái tha nhân
Parānuvādabhaya 974 hiểm nạn do người khác chê trách
Parābhisajjanī 921 sự gay gắt kẻ khác
Parāmaṭṭha 46.92.795.803 nakevalam cảnh khinh thị
Parāmāsa 92.312 nakevalam khinh thị
Parāmāsavippayutta 46.92 nakevalam bất tương ưng khinh thị
Parāmāsasampayutta 46.92 nakevalam tương ưng khinh thị
Parikathā 880 nói khóe cạnh, nói mánh khóe
Parikelanā 871 sự nô đùa
Parikkhatatā 869.911 sự quỷ quyệt, tính cách quỷ quyệt
Parikkhāra 871 vật phụ thuộc
Pariguhanā 911 sự dối gạt
Pariggaha 1023 cố chấp, chấp trước
Paricāreti 990 tận hưởng
Paricca 798.825 chú ý
Paricchādanā 911 che đậy
Parijjhāyanā 149.268 sự nóng, sự đốt nóng
Pariññā 1107 sự liểu tri, sự rõ biết
Pariññeyya 1108 cần biến tri
Pariṇāma 117 sự biến chuyển, sự tiêu hóa
Pariṇāyikā 612 sự hồi quang
Pariṇāha 861 sự khoáng đạt, sự phóng khóang, sự hào phóng
Paritasitā 873.950 buồn chán
Paritta 45.85.118.795.814.831.1107 hy thiểu, chấp kém, nhỏ
Parittabhūmaka 844 thuộc cõi hy thiểu
Parittasabha deva 1107 Thiểu tịnh thiên
Parittābha deva 1107 Thiểu quang thiên
Parittārammaṇa 45.85.797.831 có cảnh hy thiểu, biết cảnh hy thiểu
Parideva 145.255.269.980 sự khóc kể, bi lụy
Paridevanā 150.269 sự la khóc
Paridevitatta 150.269 thái độ khóc than
Parinibbanti 1107 viên tịch
Paripāka 147.267 chín muồi, hư hao
Paripiṭṭhimaṃsikatā 881 sự chê sau lưng
Paripuṇṇāyatana 1096 đầy đủ xứ
Parrbhava 958 sự khinh miệt
Paribhāsaka 604 sự chưởi rủa
Paribhūta 6 bị khinh miệt
Paribheda 303.339 sự phân tán
Parimukha 599.624 trước mặt
Parimoceti 628 giải thoát
Pariyanta 618.1103 giới hạn, tận cùng
Pariyādāya 743 gồm cả
Pariyāpanna 46.96.795.803.1094.1103 liên quan, quan hệ, hệ thuộc
Pariyuṭṭhāna 926.1006 đột khởi, ái xâm nhập
Pariyeṭṭhi 882 tầm cầu
Pariyesanā 882.1023 sự tầm cầu, tưởng vọng
Pariyogāḷha 825 sự thâm nhập
Pariyodāta 635.683 sự tinh khiết
Pariyonāha 633 đậy khuất
Parivāra 861 tùy tùng, người đi theo
Parivāramada 849 kiêu hãnh tùy tùng
Parivīmamsa 543 thẩm sát
Parisa 800 hội chúng
Parisatha 911 mưu mẹo
Parisappanā 355.643 sự lẩn quẩn
Parisasārajjabhaya 989 hiểm nạn do dính líu hội chúng
Parisuddha 635.693 sự thanh tịnh
Parisodheti 599.628.632.637.642.647 thanh lọc, gội rửa, gội sạch
Pariharanā 911 sự dối quanh
Parihāniya 996 sự suy thối, thoái thất
Parūpaghāta 122.950 đã thương người khác
Palāpa 150.269 sự kể lễ
Palālapuñja 599.617 chổ đống rơm
Palāsā 850.909 hiểm độc, ác hiểm
Palāsāyanā 909 thái độ ác hiểm
Palāsāyitatta 909 tính cách ác hiểm
Palāsāhāra 909 dẫn đến thù hiềm
Paligedha 926 sự trói buộc
Pallaṅka 599.622 ngồi kiết già, thế ngồi kiết già hoặc bán già
Pavatteti 800 vận chuyển, chuyển lăn
Pavāḷa 115 san hô
Pavicaya 240.546.612 cân nhắc
Pavicinati 543 cân phân
Pavivitta 968 bậc viễn ly, sự viễn ly
Pavedenti 924.1031 tuyên bố
Pasanna 604 có tín ngưỡng
Pasaṃsā 1014 sự khen ngợi, sự ca tụng
Pasāda 358.359.400 sự tịnh tín
Pasādapaccaya 358.400 duyên tịnh tín
Pasārita 599.612 duổi ra
Passa 609 nghiêng qua
Passati 701.847 thấy, trông thấy, quán thấy, nhận thấy
Passaddhakāya 543 thân an tịnh
Passaddhi 558 sự yên lặng
Passaddhisambojjhaṅga 449.542.549.558 Tịnh giác chi
Passambhati 543 an tịnh
Passambhanā 558 sự lắng dịu
Passasukha 982 khoái lạc nằm lăn trở
Passāsa 118 hơi thở vào
Pahātabba 45.96.1108 cần đoạn trừ, ưng trừ
Pahātabbahetuka 45.46.85.96 nakevalam hữu nhân ưng trừ
Pahāna 349.465.601.680 sự đoạn trừ
Pahāya 599.625.648 sau khi đoạn trừ
Pahāsa 557.654 sự vui vẻ
Pahīnatta 634.639 đã đoạn trừ
Pahīnapaṭinissaṭṭhatta 634.639 đã xả trừ
Pāṭipuggalika 4.10.16.22.28 thuộc cá nhân
Pāṇātipāta 116.573.767.930.969.982.1009.1028 sát sinh
Pāṇi 920 bàn tay
Pātabyatā 949 sự sa ngã
Pātimokkha 602 Giới bổn Ba la đề mộc xoa, Biệt biệt giải thoát giới
Pātimokkhasaṃvarasaṃvuta 599.602.806 sự thúc liểm trong Biệt biệt giải thoát thu thúc giới
Pātukamyatā 604.879 nói gợi cảm
Pātukarotti 1017 bộc lộ, tỏ lộ, bày tỏ
Pātubhavanti 1095 hiện khởi
Pātubhāva 146.273 nakevalam sự xuất hiện, sự hiện khởi, sự hiển lộ
Pāda 609 cái chân, bàn chân
Pādatala 432.433.434 bàn chân, gót chân
Pānāgāragocara 604 hành xứ quán nước
Pāpaka 466.506.840.901.957.1004.1023 ác, ác xấu
Pāpakiriyā 911 hành vi xấu, hành động xấu
Pāpacarita 844 sở hành xấu
Pāpanā 881 sự lăng mạ
Pāpamittatā 850.918.951.997 hữu ác hữu, có bạn ác
Pāpādhimuttika 844 khuynh hướng xấu
Pāpānusaya 844 ác tùy miên, tùy miên xấu
Pāpāsaya 844 sở chấp xấu
Pāpikā 901 sự xấu xa
Pāpiccha 878.881 ham muốn đê tiện
Pāpicchatā 849.868.991 ác dục
Pāpicchā 1021 ác dục
Pāmojja 557.654 sự no vui, sự hân hoan
Pāragata 644 đi đến bờ kia, đáo bỉ ngạn
Pāramanuppatta 644 đạt đến bờ kia, đắc bỉ ngạn
Pārikkhatiya 869.911 sự khôn lanh, tính cách khôn lanh
Pāripūri 168.465.506.807.961.1013 sự sung túc, sự trù mật, sự trù phú, sự đầy đủ, sự bổ túc
Pāripūrimada 849.861 kiêu hãnh sự sung túc
Pāribhatyatā 879 cách lãnh nuôi trẻ
Pālanā 238 sự gìn giữ
Pālicca 147.267 tóc bạc
Pāleti 436.603.675 trông nom
Pāvacana 600 kinh điển
Pāsāna 115 đá
Pāsāda 614 lâu đài
Piṇḍa 1013 khất thực
Piṇḍapāta 867.953 vật thực
Piṇḍapātahetu 964 do nhân vật thực
Piṇḍapātikatta 861 hạnh khất thực
Piṇḍapātikamada 849 kiêu hãnh hạnh khất thực
Pitā 155.839.872.984.1031 cha
Pitta 116.432.433.434 mật, túi mật
Pittivisayagāminā 841 dẫn đến ngạ quỷ
Piya 145.155.742.746.926.1020.1027 sự thương yêu, người đáng thương yêu, khả ái, vật yêu thương
Piyarūpa 159.161.844 sắc khả ái
Pilāpamatā 923.959 tình trạng lơ đểnh
Pisuṇā 165.572.930.970.1009.1028 nói đâm thọc
Pihaka 115.432.433.434 dạ dày
Pihanā 926 hoan lạc
Piṭha 614 cái ghế ngồi
Pīta 117.119.599.612 màu vàng, uống
Pīti 653.669.711.543.548.557 hỷ, sự mừng vui
Pītigata 990 hoan hỷ
Pītipharaṇatā 833 hỷ biến mãn
Pītimana 543 ý hỷ
Pītivippayutta 803 bất tương ưng hỷ
Pītisampayutta 803 tương ưng hỷ
Pītisambojjhaṅga 449.542.547.552.557.561 hỷ giác chi
Pītisahagata 55.96.796.797.828 câu hành hỷ
Pītisukha 599.654.664 hỷ lạc
Puñcikatā 970.926 sự mê mẫn, sự hạ mình
Puññateja 1107 oai lực phước báu
Puññābhisaṅkhāra 257.265.844 phúc hành
Puttāsā 926 muốn con cái
Puthujjana 839.932.949.963 phàm phu, phàm nhân
Pupphadāna 604 cho bông hoa
Puppharasa 116 vị chất hoa
Pubba 116.432.433.434 mủ
Pubbakāla 897.908 lúc trước, trước tiên
Pubbanta 916.926.932 trước có giới hạn, quá khứ
Pubbantānuditthi 850.916 tiền biên kiến, kiến chấp trước có giới hạn
Pubbantāparanta 926.932 quá khứ và vị lai, trước và sau
Pubbarattāpararatta 599.609 đầu hôm đến cuối hôm
Pubbenivāsa 846 tiền kiếp
Pubbenivāsānussati 800.846 Túc mạng ký ức
Pubbenivāsānussatiñāna 835 Túc mạng trí
Puratthima 118.743 hướng đông
Purāna 608 cũ, lâu rồi
Purisa 839 người nam, đàn ông
Purisakutta 238 nam nết hạnh
Purisatta 237 tính cách nam
Purisadosa 1017 lỗi bị cáo, lỗi lầm của người bị kiện
Purisanimitta 238 nam tướng
Purisapuggala 940 con người
Purisabhāva 238 trạng thái nam
Purisamala 1021 Trần cấu nhơn, bụi nhơ của người
Purisalinga 238 nam căn
Purisākappa 238 thái độ nam
Purisindriya 236.138.1079 nam quyền
Purekkhāra 861 sự tôn vinh
Purekkhāramada 849 kiêu hãnh sự tôn vinh
Purejātavatthuka 795.802 nương vật tiền sanh
Purejātārammana 795.802 biết cảnh tiền sanh
Purejātārammana 795.802 có cảnh tiền sanh
Pūra 532.433.434 đầy đủ
Pūjanā 910 sự cúng dường
Pūtikāya 871 thân trược
Pekkha 804 sự quan sát, cảm quan
Peta 1096 ngạ quỷ
Pesuñña 1023 ly gián ngữ, lời nói đâm thọc, sự thọc mạch, vu khống
Ponobbhavikā tanhà 158 ái thành điều kiện tái sanh
Phandita 1025 loạn tưởng
Pharati 691.742 biến mãn
Phritvā 743 biến mãn, tỏa khắp
Pharusa 165.572.930.970.1009.1028 nói độc ác
Pharusavācatā 921 ngôn ngữ độc ác
Phala 788 quả, trái cây
Phaladāna 604 cho trái cây, bố thí quả
Phalarasa 116 vị chất trái
Phalavipāka 1031 dị thục quả
Phalasamangī 798.822 thành quả, hội quả
Phassa 259.261.297.768.782.798 xúc, sự đụng chạm
Phassapaccaya 255.274.286.290.358.372.400 duyên xúc
Phassasampayutta 282.375 tương ưng xúc
Phassahetuka 278.374 có xúc làm nhân
Phassāhāra 1081 xúc thực
Phāṇita 116 đường mía
Phārusiya 864.919 tính cách thô bỉ, sự lố bịch
Phāsu 608 an lạc, sự thoải mái
Phāsukāma 155.604 muốn đem an vui
Phuṭṭha 149.268 đụng chạm, va chạm, gặp phải
Phusanā 297.333.508.521.657.678 đắc chứng, sự va chạm
Phusitvā 922 chạm, đụng
Phoṭṭhabba 98.159.161.922.957.1003 xúc, cảnh xúc
Phoṭṭhabbataṇhā 159.161.926.944 xúc ái
Phoṭṭhabbadhātu 1077 xúc giới
Phoṭṭhabbavicāra 159.161 xúc tứ
Phoṭṭhabbavitakka 159.161 xúc tầm
Phoṭṭhabbasancetanā 159.161 xúc tư
Phoṭṭhabbasaññā 159.161 xúc tưởng
Phoṭṭhabbāyatana 100.1076 xúc xứ
Phoṭṭhabbārammaṇa 291.377.785 cảnh xúc
Phoṭṭhabbāsā 926 muốn xúc
Bandhana 926 ngục tù
Bandhanatta 116 trạng thái khắn dính
Bala 800.958 lực, sức mạnh
Bahiddha 45.55.65.75.85 ngoại phần, phần bên ngoài
Bahiddhā 4.115.433.850.1017 ngoại phần, bên ngoài
Bahiddhārammana 45.85 nakevalam có cảnh ngoại phần, biết cảnh ngoại phần
Bahujana 988 phần đông, quần chúng, nhiều người
Bahulīkata 844 được phát tấn
Bahulīkamma 952.954.956 sự phát tấn, sự làm sung mãn
Bahulīkaroti 432.469.487.508.521.611 làm sung mãn, phát tấn
Bahussuta 868 đa văn, nghe nhiều, bậc đa văn, bậc học nghe nhiều
Bāla 1017 người ngu, sư ngu si, sự ngu xuẩn
Bāhāvikkhepa 1017 khoa tay, múa tay, múa máy tay chân, múa tay quơ chân, khoa tay múa chân
Bāhira 93.115.859 nakevalam bên ngoài, ngoại phần, ngoại uẩn
Bāhirārammana 795.802 biết cảnh ngoại phần, biết cảnh bên ngoài
Bimbohana 614 gối kê
Buddha 872.956.958 Ðức Phật, vị giác ngộ
Buddhapaṭikuṭṭha 604 bị Ðức Phật quở trách, bị chỉ trích bởi Ðức Phật
Buddhasāvaka 958 đệ tử Phật
Bojjhanga 958 giác chi
Bodhipakkhika 599.611 Pháp Ðảng giác
Byantikata 440.625.659.662.669.681 sự tận diệt
Byappanā 122.582.652 sự hướng tâm
Byappita 440.625.659.662.681 sự cấm chỉ
Byasana 149.268 sự suy vong, suy sụp, suy thoái
Byāvata 1017 chú ý đến
Byādhidhamma 156 sự bệnh, hiện trạng bệnh
Byādhibhaya 971 hiểm nạn bệnh tật
Byādhiyaka 875 thân bệnh hoạn
Byāpajjanā 122.629.632.908.926 thái độ sân độc
Byāpatti 122.629.632.908.926 sự sân độc
Byāpāda 449.629.632.651.930.962.976.983.1028 sân độc, sân ác
Byāpādadhātu 128.929 sân giới
Byāpādapatisaṃyutta 122.927 liên hệ sân độc
Byāpādadosa 229.599 sân độc hại
Byāpādavitakka 927 sân tầm
Byāpādasaññā 928.951 sân tưởng
Brahmacakka 800 Phạm Luân
Brahmacariya 600.982 Phạm hạnh
Brahmacariyānuggaha 608 hổ trợ phạm hạnh
Brahmacariyesanā 936 phạm hạnh cầu
Brahmajāla 859.1072 Kinh Phạm Võng
Brahmatta 839 vai trò Phạm thiên
Brahmapārisajja deva 1107 Phạm chúng thiên, cõi Phạm thiên Sơ thiền Phạm chúng
Brahmapurohita deva 1107 Phạm Phụ thiên, cõi trời Phạm thiên Phạm phụ thuộc cõi Sơ thiền
Brahmaloka 1103 Phạm thiên giới, cõi Phạm thiên
Brāhmana 940.949.990.1011.1035 Vị Bà la môn, hạng Bà la môn, Phạm Chí
Brāhmanamahāsāla 1105 Bà la môn phú hào
Bhagavā 1072 Ðức Thế Tôn
Bhaginī 115 người chị, người em gái, chị em gái
Bhajati 599.604.615.843 sử dụng, cộng tác, thân cận
Bhajanā 918.951.955.960 cộng sự, hợp tác
Bhaṇati 1017 nói chuyện
Bhaṇita 1017 nói ra, phát ngôn, lời nói
Bhattakilamatha 876 sự mệt mỏi do vật thực
Bhattapariḷāha 876 sự nóng nảy do vật thực
Bhattamucchā 876 sự bần thần do vật thực
Bhattasammada 849.876 sự say thực, sự mệt vì vật thực, sự dã dượi vì vật thực
Bhatti 918.951.955.960 thân thiện, khắn khít
Bhadra 601 hiền thiện
Bhantatta 357.638.952 sự tán loạn
Bhabba 844 hữu phần
Bhaya 938.939.971.974.989 sự sợ hãi, hiểm nạn
Bhayadassāvī 599.605 thấy sợ hãi
Bhayāgati 965 thiên vị vì sợ
Bhayānaka 938 sự kinh hoàng
Bhava 255.265.301.337.782.798.912.1107 hữu
Bhavagāmikamma 265 nghiệp đưa đến hữu
Bhavagga 1107 sanh hữu tột cùng, cao tột sanh hữu
Bhavacchanda 912.961 sự ước muốn hữu
Bhavajjhosāna 912.961 sự mê luyến hữu, sự đắm say trong hữu
Bhavataṇha 158.750.926 ái hữu, hữu ái, ái tham trong hữu
Bhavadiṭṭhi 850 hữu kiến
Bhavadiṭṭhisannissita 844 chấp theo hữu kiến
Bhavadiṭṭhisahagata 933 câu hành hữu kiến
Bhavanandī 912 hoan hỷ trong hữu
Bhavanetti 926 cầu sanh hữu, muốn có
Bhavapaccaya 255.274.358.372.400 duyên hữu
Bhavapariḷāha 912 nôn nóng trong hữu
Bhavamucchā 912 mê mẫn trong hữu
Bhavarāga 912.936.1029 hữu tham, tham luyến trong hữu
Bhavarāgapariyuṭṭhāna 1006 hữu tham đột khởi
Bhavarāgasaññojana 1007 hữu tham triền, ái hữu triền
Bhavarāgānusaya 844.1005 hữu tham tiềm miên
Bhavasiñcha 912 quyến luyến trong hửu
Bhavāsava 961 hữu lậu
Bhavissanti 1024.1038.1057 cho rằng “ta sẽ thành”
Bhavesanā 936 hữu cầu
Bhassārāmatā 996 thích nói chuyện
Bhasmāsannicayasantāpa 117 chất nóng trong đống tro
Bhākuṭikā 878 sự chau mày
Bhākuṭiya 878 sự nhăn nhó
Bhāga 1107 một phần
Bhātā 155.872 đàn anh, người anh, người em trai, anh em trai
Bhāvanā 45.96.168.465.481.506.807 nakevalam sự tu tiến, sự tu tập, sự phát triển
Bhāvanānuyogamanuyutta 599.611 sự chuyên chú tu tập
Bhāvanāpāripūri 449 bổ túc phát triển, tu bổ
Bhāvanāmaya 257.797.804.805 tu tiến thành
Bhāvita 844 được tu tập, được phát triển
Bhāvetabba 1108 cần phải tu tập, cần tu tiến
Bhāveti 432.469.508.611 tu tập
Bhāsati 911 nói
Bhāsita 599.612.921 nói, ngạn ngữ, lời nói
Bhikkhata 601 người khất thực, người xin ăn
Bhikkhati 601 khất thực, xin ăn
Bhikkhācāriya 601 hạnh khất thực, hạnh xin ăn
Bhikkhu 601.604.606.964.1013.1017 vị tỳ khưu, tỷ kheo
Bhikkhunī 604.606 vị tỳ khưu ni, tỷ kheo ni
Bhikkhunigochara 604 Hành xứ tỳ khưu ni
Bhindati 601 cắt lìa
Bhindeyya 839 chia rẽ, phá vỡ
Bhinna 984 chia rẽ, phá vỡ
Bhinnaṭta 601 đã cắt đoạn, đã đoạn lìa
Bhinnapatadhara 601 mang vải cắt manh, mang y khiếu mảnh
Bhiyyo 1106 nhiều hơn
Bhiyyokamyatā 867.953 thái độ tham muốn nhiều thêm
Bhiyyobhāva 168.465.481.506.807 gia tăng
Bhiṃsanaka 618 có sự kinh hoàng
Bhisi 614 nệm lót
Bhuttāvī 876 người đã ăn, đã thọ thực
Bhumma udaka 116 nước trong đất
Bhūta 3.9.15.21.27.780 hiện có, đang có
Bhūmi 115.370 nakevalam địa vức, lãnh vực, cõi, đất
Bhūrī 612 sự minh mẫn
Bheda 148.267.303.339.1011 sự tiêu tan, sự hư hoại, sự tan rã
Bhesajjaparikkhāra 867.953 dược phẩm, dược liệu
Bho 990.1011 nầy ông, hỡi bạn
Bhoga 861 tài sản
Bhogabyasana 149.268.987 sự suy vong tài sản, tài sản suy sụp
Bhogamada 849 kiêu hãnh tài sản
Bhojana 599.608.850.1013 vật thực, thức ăn, việc ẩm thực
Bhonto 847 trưởng thành
Makkha 850.909.991.1021 phản phúc, gièm pha, sự quỷ quyệt
Makkhiyanā 909 thái độ quỷ quyệt
Makkhiyitatta 909 tính cách quỷ quyệt
Magga 366.788.841.958.1013.1103.1107 con đường đạo
Maggaṅga 178.459.520.594 chi đạo, đạo chi
Maggapariyāpanna 241.486.583 liên quan đạo
Maggaphala 403 đạo quả
Maggamuttama 1107 đạo tối thượng
Maggasacca 1078 đạo đế
Maggarammaṇa 45.85.797 có đạo thành cảnh
Maggasamaṅgī 232.798 thành đạo, hội đạo
Maccu 148.267 sự chết
Maccharāyanā 910.956 tính cách bỏn xẻn
Maccharāyitatta 910.956 thái độ bỏn xẻn
Macchariya 850.1021.1023.1029 sự bỏn xẻn, bỏn xẻn
Maccharī 951.955 bỏn xẻn
Macchera 910.956 sự bỏn xẻn
Majjanā 860.861.862 thái độ kiên căng
Majjitatta 860.861.862 tính cách kiêu căng
Majjhattatā 560.670 sự quân bình
Majjhima 45.85.771.1107 trung bình, ở giữa
Mañca 614 giường
Maññanā 860.883.896 tính cách ngã mạn
Maññita 1025 hoang tưởng
Maññitatta 860 tính cách ngã mạn
Maññe 1013 như thể là
Mani 115 Ngọc Ma-ni, ngọc ước
Manda 601 sự tinh khiết
Mandanā 608.871.922 sự chưng dọn, sự bồi dưỡng
Mattaññutā 608 tri độ, biết tri độ
Mattaññū 599.608 tri độ, biết tiết độ
Mada 608.849.860.862.922 kiêu hãnh, tự kiêu, kiêu căng, hãnh diện, sự đam mê
Madhu 116 mật ngọt, mật ong, mật đường
Mana 98.130.159.294.743.957.988 ý, tâm tư
Manasikāra 259.802.960.1107 sự tác ý
Manasikārapaṭibaddha 605 liên hệ tác ý
Manāpa 6.155.742.839.926 đáng vừa lòng
Manāpika 992.1001 có sự vừa ý
Manāyatana 100.125.294.743.1076 ý xứ
Manindriya 125.236.294.743.957.1079 ý quyền
Manussa 1035.1054.1106 con người
Manussarahaseyyaka 599.620 chỗ vắng người
Manussalokagāminī 841 dẫn đến cõi người
Manussupacāra 618 lân cận loài người
Manokamma 466.472.930.936 ý nghiệp
Manokasāva 948 khuyết tật ý
Manoduccarita839.847.863.952 ý ác hạnh
Manoduccaritasamaṅgī 839 có ý ác hạnh, thành tựu ý ác hạnh
Manodhātu 130.379.396.802.1077.1086 ý giới
Manodhātusamaṅgī 690 tâm thuộc ý giới
Manodhātusamphassa 1082 ý giới xúc
Manodhātusamphassaja 1083 sanh từ ý giới xúc
Manopadosa 122.629.632.926 ý ám hại, sự hãm hại trong ý tưởng
Manomaya 1011 do ý tạo, làm bằng ý
Manoviññāna 1011 do ý tạo, ý thức
Manoviññānadhātu 130.294.381.743 ý thức giới
Manoviññānadhātusamaṅgī 690 tâm thuộc ý thức giới
Manoviññānadhātusamphassa 1082.1083 ý thức giới xúc
Manoviññānaviññeyya 795.801 ý thức giới ứng tri
Manovilekha 355.638.643.932 sự rối ý
Manovisama 945 ý bất bình
Manosañcetanā 257.930 ý tư
Manosañcetanāhāra 1081 ý tư thực, tư niệm thực
Manosamphassa 159.161 ý xúc
Manosamphassaja 159.161 sanh từ ý xúc
Manosucarita839.847 ý thiện hạnh
Manosucaritasamaṅgī 839.847 ý thiện hạnh thành tựu, có ý thiện hạnh
Maraṇa 145.148.267.303.339 tử, sự chết, sự tán vong
Maraṇadhamma 157 sự chết, hiện trạng chết
Maranabhaya 938.971.989 hiểm nạn do chết
Mala 943 trần cấu
Maṃsa 115.432.433.434 thịt
Maṃsalohita 119 máu thịt
Masāragalla 115 ngọc thạch
Mahaggata 45.85.445.741.825 đáo đại, quảng đại
Mahaggatārammaṇa 45.85 nakevalam có cảnh đáo đại, biết cảnh đáo đại
Mahābrahma deva 1107 Ðại phạm thiên, cõi trời Ðại phạm (sơ thiền)
Mahābhūta 259.691 Ðại hiển
Mahārajakkha 844 nhiều trần lao, có mắt nhiều bụi trần
Mahicchatā 849.867.953 sự đa dục, sự ham muốn nhiều
Mahesī 1107 Bậc Ðại sĩ
Mātā 155.839.872.984.1013 mẹ, mẫu thân
Mātāpetikasambhava 1011 do mẹ cha sanh ra
Māna 844.849.860.883.896.977.1010.1012.1034 mạn, sự ngã mạn, sự ỷ mình, sự sánh mình, kiêu mạn
Mānana 910 sự tôn vinh
Mānapariyuṭṭhāna 1006 kiêu mạn đột khởi
Mānasa 125.130.294.330.743 tâm địa
Mānasaṅga 979 mạn hệ lụy
Mānasaññojana 1007.1029 mạn triền, ngã mạn triền
Mānasalla 980 mũi tên kiêu mạn, mạn tiển
Mānātimāna 849.1010 mạn quá mạn
Mānānusaya 844.1005 mạn tùy miên, mạn tiềm miên
Mānusaka 1106 cõi người
Māyā 850.926.1021 ảo vọng, gian lận, sự xảo trá
Māyāvitā 911 tính cách xảo quyệt
Māratta 839 vai trò Thiên ma, vai trò Ma vương
Mārapāsa 926 bẩy ma
Mārabalisa 926 lưỡi câu ma
Māravisaya 926 ma cảnh
Māla 614 phòng ốc
Māsa 1106 nguyệt, một tháng
Māsaàcita 1013 đậu ngâm nước
Micchatta 312 tà tánh
Micchattaniyata 45.85 nakevalam pháp cố định phận tà
Micchā–ājivā 167.574.604 tà mạng
Micchākammanta 960.1016.1030 tà nghiệp
Micchā cāra 165.573.767.930.969.1009 tà hạnh
Micchānāna 1030 tà trí
Micchādiṭṭhi 851.858.949.1021.1028 tà kiến
Micchādiṭṭhika 847 có tà kiến
Micchādiṭṭhikammassmādāna 847 chấp hành nghiệp kiến
Micchāpatha 312 tà đạo
Micchāmāna 849.1010 tà chấp mạn
Micchāvācā 960.1016.1030 tà ngữ
Micchāvāyāma 960.1016.1030 tà tinh tấn
Micchāvimutti 1030 tà giải thoát
Micchāsaṅkappa 122.902.1016 tà tư duy
Micchāsati 960.1016 tà niệm
Micchāsamādhi 960.1030 tà định
Mitta 155 người bạn, bạn bè
Middha 633 sự hôn mê
Middha-sukha 982 khoái lạc ngủ say
Missībhāva 154 sự chung sống
Mukhadvāra 119 cửa miệng
Mukhanimitta 624 môi, hiện tượng cái miệng
Muggasūpatā 604.879 nói ngọt bùi, lời nói như “chè đậu”
Mucchā 926 sự say mê
Muṭṭhasacca 850.851.959 thất niệm, tình trạng thất niệm
Muṭṭhasati 868.1008 sự thất niệm
Muta 967.1015.1111 sự biết, sự cảm nhận (của tỷ, thiệt, thân)
Muti 804 sự cảm nhận, tri giác
Mutta 116.432.433.434 nước tiểu, nước đái
Muttatta 634.639 đã giải thoát
Muttā 115 ngọc trai
Mutti 160 sự giải thoát
Mudita 746 hỷ, tùy hỷ, sự hoan hỷ
Muditā 747.753 tùy hỷ, sự hoan hỷ, sự vui vẻ
Muditāyanā 747.753 sự tùy hỷ
Muditāyitatta 747.753 thái độ tùy hỷ
Muditàsahagata 741.746.758 câu hành tùy hỷ
Mudindriya 844 trì căn, độn căn
Musāvāda 165.572.767.969.986.1021.1023.1028 sự nói dối, vọng ngôn, nói dối
Mūlarasa 116 vị chất rễ cây
Medhā 612 sự mẫn tiệp
Meda 116.432.433.434 mở động vật
Mettā 122.742.743.751 tâm từ
Mettāyanā 122.743.751 sự hài hòa, mát mẻ
Mettāyitatta 122.743.751 thái độ hài hòa, mát mẻ
Mattāyeyya 742 thiện cảm
Mattāsahagata 741.742.751.756 câu hành từ, câu hữu từ tâm
Metti 122.743.751 sự thân thiện, sự từ hòa
Mogha 962 rỗng không, giả tạo, hư ngụy
Moceti 628 giải tỏa
Moha 466.941.944.653.961.1026.1080 si
Mohakasāva 947 khuyết tật si
Mohakkhaya 100.13 sự đoạn tận si
Mohaggi 946 lửa si
Mohasanga 979 si hệ lụy
Mohasalla 980 mũi tên si
Mohāgati 965 thiên vị vì ngu si
Yakana 115.432.433.434 gan
Yato kho 990.1011 khi nào mà
Yathākammupaga 847 tùy theo hạnh nghiệp
Yathābhūta 800.839 như thật
Yatvādhikarana 607.922.957 nguyên nhân chi, nguyên nhân nào mà
Yapanā 238 sự nuôi sống
Yapeti 436.603.675.743 duy trì
Yasa 861.1014 danh tiếng, tiếng tăm, có danh
Yasamada 849 kiêu hãnh danh tiếng
Yātrā 608 như thế nào để
Yāthāvakavatthuvibhāvanā 795.802 sự giải lý theo chuẩn xác
Yāpanā 238.608 sự nuôi dưỡng
Yāpeti 453.627.709.743 sinh sống
Yāma 609 canh giờ
Yāma deva 1105.1106 Dạ ma thiên, cõi Dạ ma
Yāvadattha 1013 thỏa mãn, đến tùy thích
Yiṭṭha 949.969.1031 quả hiến tế
Yugaggāha 909 tranh chấp
Yoga 91.905.926 nakevalam phối, kết, pháp kết buộc, ách phược
Yogakkhemakāma 155.604 muốn cho thoát khỏi khổ ách, muốn cho an ổn khổ ách
Yoganiya 46.795.803 cảnh phối
Yogavippayutta 46 bất tương ưng phối
Yogavibrita 804 sự sắp xếp
Yogasampayutta 46 tương ưng phối
Yoniso 608 khéo léo, như lý
Yobbana 861 thanh niên, tuổi trẻ
Yobbanamada 849 kiêu hãnh thanh niên
Rakkhati 922 hộ trì
Rajatta 115 bạc
Rajju 950 dây trói
Rattaññuta 861 bậc lão thành
Rattaññumada 849 kiêu hãnh bậc lão thành
Ratti 609 đêm, ban đêm, đêm hôm
Rattindiva 1106 đêm ngày, ngày đêm
Randhagavesitā 958 sự tìm lỗi
Rasa 98.159.922.992.998.993.1003 vị, vị chất, phận sự
Rasataṇhā 161.926.994 vị ái
Rasadhātu 1077 vị giới
Rasavicāra 159.161 vị tứ
Rasavitakka 159.161 vị tầm
Rasasañcetanā 159.161 vị tư
Rasasaññā 159.161.689 vị tưởng
Rasāyatana 100.1076 vị xứ
Rasārammaṇa 291.377.411.418.789 cảnh vị
Rasāsā 926 sự muốn vị
Rāga 29.335.651.867.916.941.944.953.992 ái, tham, tham luyến
Rāgakasāva 947 khuyết tật tham
Rāgakkhaya 100.130 sự đoạn tận tham
Rāgaggi 946 lửa tham
Rāgasanga 979 tham hệ lụy
Rāgasalla 980 mũi tên tham ái
Rāja 604.893.1104 Ðức vua
Rājabhaya 972 hiểm nạn do vua
Rājamahāmatta 604 Quan đại thần, đại thần của vua
Rukkhamūla 599.614.617 gốc cây
Rukkhamūlagata 599.621 đi đến gốc cây
Ruci 804.600 khuynh hướng, lập trường
Rūpa 98.100.159.259.900.957.982.992.998.1130.1117 sắc, sắc tướng, hình sắc, cảnh sắc
Rūpakkhandha 2.33.43.1075.1103 sắc uẩn
Rūpatanhā 159.926.934.994 sắc ái
Rūpadhātu 1077.1088.1097 sắc giới
Rūpadhātu–arūpadhātupatisamyutta 933 liên hệ sắc giới và vô sắc giới
Rūpadhātupariyāpanna 1092 liên hệ sắc giới, liên quan sắc giới
Rūpabhava 265 sắc hữu
Rūparāga 977 tham sắc, sắc tham
Rūpavanta 932.949 có sắc
Rūpavicāra 159.161 sắc tứ
Rūpavitakka 159.161 sắc tầm
Rūpasañcetanā 159.161 sắc tư
Rūpāasaññā159.161.599.688.689 sắc tưởng
Rūpāyatana 100.1076 sắc xứ
Rūpārammaṇa 291.358.372.400.768.784 cảnh sắc
Rūpāvacara 46.96.796.824.1103 sắc giới
Rūpāvacarasamāpatti 688 thiền nhập sắc giới
Rūpāsā 926 sự muốn sắc
Rūpī 845.1011.1018.1024.1035 nakevalam hữu sắc, có sắc, người hữu sắc
Rūpūpapatti 366.387.406.413.711.751.784 đạt đến Sắc giới
Rogabyasana 149.268.987 suy sụp do bệnh hoạn, suy vong bệnh tật, suy thoái về bệnh tật
Rosanā 122.950 sự kích nộ
Latā 926 ái thừng
Laddha 882 được
Lāpanā 849.879 sự nịnh hót, sự gọi mời
Lasikā 46.432.433.434 nước nhớt, chất nhờn
Lahusa 605 nhẹ nhàng, nhẹ thể
Lahusammata 605 được cho là nhẹ thể
Lābha 508.521.657.678.849.861.878.882.1014.1023 sự đắc thành, lợi đắc, lợi lộc, sự được lợi
Lābhamacchariya 910.956.978 bỏn xẻn lợi lộc
Lābhamada 849 kiêu hãnh về lợi lộc
Lābhāsā 926 muốn lợi lộc
Lālapa 150.269 sự thút thít
Lālapanā 150.269 sự than van
Lālapitatta 150.269 thái độ than van
Līna 633.877.960 sự lui sụt, sự thụ động
Līnatta 849.851.960 sự biếng nhác
Liyanā 633.877.960 thái độ lui sụt, thái độ thụ động
Liyitatta 633.877.960 tình trạng lui sụt, tình trạng thụ động
Lūkha 1013 thô xấu, dỡ tệ
Leḍḍu 950 cục đất
Lena 614 thạch động
Loka 159.169.431.625.800.842.913.949.1031 đời, thế giới, thế gian
Lokadhātu 839 thế giới, bản chất thế giới
Lokiya 46.87.795.803.1108 hiệp thế, thuộc về đời
Lokuttara 46.87.796 nakevalam Siêu thế, vượt khỏi đời
Lokuttarajhāna 370.459.484.522.553.530.722 Thiền Siêu thế
Lobha 466.472.844.1012.1026.1080 tham
Loma 115.432.433.434 lông, mao
Lomahamsa 938 tóc lông dựng ngược, rỡn lông ốc
Loluppa 870.926 sự tham muốn, sự tham lợi
Loluppāyanā 870.926 thái độ tham muốn, thái độ tham lợi
Loluppāyitatta 870.926 tính cách tham muốn, tính cách tham lợi
Loha 115 đồng
Lohita 116.432.434.899.884 máu, huyết, màu đỏ
Lohitanga 115 ngọc Ru-bi
Vakka 115.432.433.434 thận, cật
Vaggagamana 965 hành theo phe phái
Vankatā 919 thái độ co gấp
Vacīkamma 466.795.903.936 khẩu nghiệp
Vacīkasāva 948 khuyết tật khẩu
Vacīduccarita 839.847.863.952.954 khẩu ác hạnh
Vacīduccaritasamaṅgī 839 có khẩu ác hạnh
Vacīvisama 945 khẩu bất bình
Vacīsaṅkhāra 257 khẩu hành
Vacīsañcetanā 257.930 khẩu tư, khẩu cố tư, khẩu tư niệm
Vacīsucarita 839.847 khẩu thiện hạnh
Vacīsucarita samaígì 839 có khẩu Thiện hạnh
Vajja 599.605.638 lổi lầm, tội lỗi
Vajjadassāvī 605 người thấy lỗi lầm, có nhiều tội lỗi
Vajjasaññitā 638 nghĩ là lỗi lầm, tưởng là lỗi lầm
Vañcanā 911 sự lừa phỉnh
Vaṇṇa 861 dung sắc, sắc đẹp
Vaṇṇapokkharatā 883.888.907 danh vọng thiên hạ
Vaṇṇamacchariya 910.956.978 bỏn xẻn thanh danh
Vaṇṇamada 849 kiêu hãnh danh tiếng
Vata 901.932.962.982 hạnh tu, một giới cấm
Vattati 436.603.627.675.709 xử sự
Vattanā 238 sự tồn tại
Vatthu 802.883.891 sự, tông, điều kiện, sự kiện, sự việc, câu chuyện
Vada 1004 nói được
Vana 926 ái sâm lâm
Vanatha 926 ái mật lâm
Vanapattha 599.618 chổ ở nơi rừng.
Vanasanda 618 (trú xứ) trong rừng rậm, thuộc rừng rậm
Vantatta 634.639 đã đào thải
Vandana 910 sự đãnh lễ
Vambhanā 881 sự sỉ vã
Vaya 303.339 sự biến hoại
Vayadhamma 836 hiển nhiên biến
Valittacatā 147.267 da nhăn
Vasā 116.432.433.434 dầu da
Vassagga 1106 niên kỷ, tuổi
Vācasika 920.957 thuộc về khẩu
Vācā 150.269.572 lời nói, sự phát ngôn
Vāditā 968.1015 nói là
Vāya 118 gió, sự thổi phồng
Vāyamati 465.468.486.506 tinh tấn
Vāyāma 240.468.486.507 sự tinh cần
Vāyogata 118 sự căng phồng
Vāyodhātu 118 phong giới, nguyên tố gió
Vārigamana 965 lưu chuyển như nước
Vikīranā 911 sự giả vờ
Vikkhitta 445.825 phóng dật
Vikkhepa 357.638.952.959 tán loạn, sự lao chao
Vigata 3.9.15.20.27 đã lìa mất
Vigatakathankatha 646 lìa bỏ hoài nghi
Vagatathīnamiddha 634 ly hôn thụy, ly hôn trầm thụy miên
Vigatābhijjha ceta 599.626 Tâm ly tham ác
Viggaha 1023 phân tranh
Vicaya 240.612 lựa chọn
Vicāra 652.653.711.715.716 Tứ, sự quan sát cảnh
Vicāramatta 45.85 nakevalam hữu tứ, còn tứ
Vicāravippayutta 803 bất tương ưng tứ
Vicārasampayutta 803 tương ưng tứ
Vicārita 990 còn tứ
Vicikicchati 932.981 hoài nghi, do dự
Vicikicchā 355.449.599.651.844.932.976.1026 hoài nghi, sự không xác quyết
Vicikicchānīyaraṇa 983 hoài nghi cái
Vicikicchānusaya 844.1005 hoài nghi tiềm miên
Vicikicchāpariyuṭṭhāna 1006 hoài nghi đột khởi
Vicikicchāsaññojana 1007.1029 hoài nghi triền
Vicikicchāsampayutta 354.785 tương ưng hoài nghi
Vicinati 543 chọn lựa
Vijanavāta 599.620 chổ hiu quạnh
Vijambhanā 875 dự bực bội
Vijambhikā 849.875 sự bực mình
Vijjatthāna 804.883.888 tài học, nghệ thuật
Vijjati 839 xẩy ra, xuất hiện, hiện hữu
Viññāna 125.258.294.696.798.900.949.1034.1103 thức
Viññānakkhandha 26.74 nakevalam thức uẩn
Viññāṇañcāyatana 697.828.838.845 Thức vô biên xứ
Viññāṇañcāyatanūpaga 1011.1107 đạt đến Thức Vô biên xứ thiên
Viññāṇadhātu 120 thức giới
Viññāṇapaccaya 255.274.286.290.358.372.400 duyên thức
Viññāṇavanta 932.949 có thức
Viññāṇasampayutta 282.375 tương ưng thức
Viññāṇahetuka 278.374 có thức làm nhân
Vinānāhāra 1081 thức thực
Viññāta 967.1015.1111 hiểu được
Viññāya 922 suy nghĩ
Viññeyya 46.87 nakevalam thức tri, ứng tri
Vitakka 122.582.652.653.711.715.927.1116 tầm, sự nghĩ tưởng, sự nghĩ ngợi, sự suy tư
Vitakkavicāra 599.659.990 tầm tứ
Vitakkavippayutta 803 bất tương ưng tầm
Vitakkasampayutta 803 tương ưng tầm
Vitakkasahagata 828 câu hành với tầm
Vitakkita 990 còn tầm
Vitti 557.654 sự phấn khởi
Vidita 241.825 sự hiểu biết
Vidisa 743 hướng phụ, phương hướng phụ cận
Vidhavāgacara 604 nơi ở đàn bà góa, hành xứ gái góa
Vidhā 937 Tỷ giảo cách
Vidhūpanavāta 118 gió do thổi
Vinamanā 875 sự ngã mình
Vinaya 600 luật, luật pháp
Vinassati 1011 bị tiêu diệt
Vināsa 985.1011 sự tiêu diệt, sự hủy hoại
Vinicchaya 1023 sự phân biệt
Vinipāta 839.847.988 Ðọa xứ
Vinibandha 989 sự nhiểm trước
Vinīta 440.457 bị hạn chế
Vineyya 440.457 trừ khử, diệt trừ
Vipacanti 840 chín mùi, trổ quả
Vipaccanīkasātatā 872.918.951 thái độ phản đối
Vipatti 840.845 bất lợi, sự không đắc thành, sự bất đắc
Vipattipatibāḷha 840 bị trờ ngại bởi điều bất lợi
Vipariṇata 3.9.15.21.27 đã chuyển biến chuyển
Vipariṇāmaññathābhāva 990 tình trạng biến hoại chuyển hóa
Vipariṇāmadhamma 98.990 biến hoại
Vipariyesa 966 sự điên đảo
Vipariyesaggāha 300.913.949 nghịch chấp
Vipassanā 612 sự chiếu kiến, minh sát
Vipāka 45.85.372.784.795.808.839.840.1004.1080 quả, dị thục
Vipākadhammadhamma 45.85 nakevalam dị thục nhân, nhân của quả
Vipākahetu 1096 nhân quả, nhân của quả dị thục
Vipākāvaraṇa 844 quả báo chướng
Vipula 741.743.831 rộng lớn
Vippaṭikūlagāhitā 872.918.951 lập trường chấp đối
Vippaṭisāra 638 sự ăn năn
Vippayoga 145.155 sự ly biệt, sự xa lìa
Vippalāpa 150.269 sự kêu gào
Vibhajanti 674 phân tích
Vibhava 985.1011 phi hữu, sự mất hết, sự tiêu mất
Vibhavataṇhā 158.926 ái phi hữu, phi hữu ái
Vibhavadiṭṭhi 850 vô hữu kiến, phi hữu kiến
Vibhavaditthisannissita 844 chấp theo phi hữu kiến
Vibhāveti 701 không hiện hữu
Vibhūsanā 608.871.922 sự trang sức, sự tô điểm
Vimati 355.643 sự dị nghị
Vimutta 445.825 sự giải thoát
Vimokkha 800.845 sự giải thoát
Vimoceti 628 giải phóng
Virati 178.583.768 sự cử kiêng
Virāga 599.659.669 lìa xa, ly, tách rời
Virāgadhamma 336 hiển nhiên lìa
Virāganissita 552.579 y cứ ly tham
Virāgūpasañhitā 828 hợp trợ ly tham
Viriya 168.240.465.483.502 nakevalam cần, tinh tấn, cố gắng
Viriyabala 240.486.507 tấn lực, cần lực
Viriyasamādhi 509 tấn định, định do tinh tấn
Viriyasamādhipadhānasaṅkhāra 509 tấn định cần hành
Viriyasambojjhaṅga 449.486.520.542.552.561 Cần giác chi
Viriyādhipateyya 771 cần trưởng
Viriyārambha 240.468.507 cần cố, sự cố gắng
Viriyiddhipāda 531.533 Cần như ý túc, cần thần túc
Viriyindriya 236.240.486.507.854.1079 tấn quyền, cần quyền
Virodha 122.629.632.908.926 sự đối lập, vi nghịch
Virosanā 122.950 sự khiêu khích
Vilokita 599.612 nhìn lui
Vivaṇa 635.683 sự mở mang
Vivaṭṭakappa 846 thành kiếp
Vivara 119.691 kẻ hở
Vivaragata 119.691 hiện tượng kẻ hở
Vivaranti 674 khai thị
Vivāda 1023 luận tranh, tranh luận, đấu tranh
Vivādaṭṭhāna 909 nhuyên nhân đấu tranh
Vivicca 599.651 ly, lìa bỏ
Vivitta 899.613.651 vắng vẻ, thanh vắng
Viveka 653 sự viễn ly
Vivekaja 599.653 do viễn ly sanh
Vivekanissita 552.579 y cứ viễn ly
Visatā 926 ái tỏa lan
Visattikā 926 khát ái
Visama 944 bất bình
Visamacariyā 950 sự thực hành bồng bột
Visamalobha 926 tham bồng bột, sự đèo bồng
Visuddha 847 thanh tịnh, sự trong sạch, sự tinh khiết
Visuddhideva 1104 thanh tịnh thiên
Vesesabhāginī paññā 798.828 Thắng phần tuệ
Visosita 440.457.625.659.662.669.681 sự tàn rụi
Viharati 436.453.599.603.627.675.709.743 trú ngụ, an trú
Vihāra 608.614 tịnh thất
Vihiṃsanā 122.950 sự hãm hại
Vihiṃsādhātu 122.929 hại giới, tính chất não hại
Vihiṃsāvitakka 927 hại tầm
Vihiṃsāsaññā 928.951 hại tưởng
Vihiṃsuparati 608 tránh khỏi thương tổn
Viheṭṭhanā 122.950 sự nhiểu hại
Viheṭheti 950 nhiểu hại
Vihesā 851.950 sự não hại
Viheseti 1017 làm phiền
Vītadosa 445.825 ly sân
Vītarāga 445.825.827 ly tham
Vītikkama 604.920.957 sự thái quá, sự quá đáng
Vītikkanta 688.695 sự vượt khỏi
Vīmaṃsā 515.516.529 thẩm, sự thẩm sát
Vīmamsādhipateyya 771 thẩm trưởng
Vīmaṃsāsamādhi 515 thẩm định
Vīmaṃsāsamādhipadhānasaṅkhāra 515 Thẩm định cần hành
Vīmaṃsiddhipāda 531.535 thẩm như ý túc
Vuccamāna 918 khi được nhắc nhở, được nhắc bảo
Vuṭṭhāti 795.802.845 xuất khỏi, xuất thiền
Vuṭṭhāna 800.845 sự xuất ly, sự xuất khỏi, sự ra khỏi
Vūpasanta 440.457.625.641.659.662.669.681 sự tịnh chỉ
Vūpasama 599.689 vắng lặng
Vedanā 121.239.334.441.608.798.900.1103.1034 nakevalam thọ, cảm giác
Vedanākkhandha 8.44 nakevalam thọ uẩn
Vedanānupassānā 441.549.462 thọ quán, năng quán thọ
Vedanāpaccaya 255.274.286.290.358.372.400 duyên thọ
Vedanāsampayutta 282 tương ưng thọ
Vedanāhetuka 278 có thọ làm nhân
Vedayita 121.151.239.270.298.334.684 sự cảm thọ, tình trạng cảm thọ
Vedalla 783 Phương Quảng kinh
Vedeyya 1004 cảm thọ được
Vepulla 168.465.481.506.807 tiến triển
Vebhabyā 612 sự sáng suốt
Veyyākaraṇa 783.859.1072 ký thuyết
Verabahula 988 có nhiều kẻ thù, có lắm thù nghịch
Veramaṇī 165.178.572.583.768 sự kiêng tránh
Verambhavāta 118 gió độ cao
Velā–anatikkama 178.583.768 không quá hạn
Veviccha 910.926.956 ích kỷ
Vesiyāgocara 604 hành xứ kỹ nữ, chổ gái điếm, hành xứ gái điếm
Vessa 1035.1039.1045.1049.1054 thương nhân, thương gia
Vehapphala deva 1107. Quảng quả thiên, cõi Quảng quả thuộc tứ thiền
Veḷugumba 614 bụi tre
Veḷudāna 604 cho tre, cho cây tre
Veḷuriya 115 ngọc lưu ly
Vocchādanā 911 sự khỏa lấp
Vodāna 800.845 sự trong sạch, sự thanh tịnh
Voropeyya 839 đoạt, đoạn lìa, đánh mất
Voropita 984 đoạt, đoạn lìa, đánh mất
Voropeyya 839 đoạt hại, giết
Vossagga 863.952.954.956 hết sự buôn thả, sự phóng xả tâm
Vossaggaparināmī 552.570 hướng đến xả ly
Sa-uttara 46.96.445.796.825 nakevalam hữu thượng
Sa-uddesa 846 nét chi tiết
Sakadāgāmiphala 837 Tư đà Hàm quả, quả Nhất Lai
Sakadāgāmimagga 837 Tư Ðà Hàm đạo, đạo Nhất Lai
Sakalikaggi 117 lửa đá
Sakkatta 839 vai trò Ðức Trời Ðế Thích
Sakkāyadiṭṭhi 932.949.936 thân kiến
Sakkāra 849.861.878.882.910 sự lễ kính, vật lễ
Sakkarā 115 sỏi, đá cuội
Sagga loka 839.847 Cõi Trời, Thiên giới
Saṅkappa 122.582.651.652 sự suy xét, tư duy
Saṅkappati 911 suy nghĩ
Saṅkapparāga 651 tham tư duy
Saṅkāraggi 117 lửa rác rưởi
Saṅkilittha 45.46.85.95 nakevalam phiền toái
Saṅkilesa 800.845 sự ô nhiểm, sự phiền não
Saṅkilesika 45.95.795.803 nakevalam cảnh phiền não
Saṅkha 115 xa cừ
Saṅkhata 87.795.801 nakevalam hành tướng, hữu vi
Saṅkhāra 257.293.782.798.839.900.940.1034.1103 hành, hữu vi
Sankhārakkhandha 20.64.100.103.295.301.331.466.508.551.673.1075.1103 hành uẩn
Saṅkhāranirodha 782.798.832 hành diệt
Saṅkhāranirodhagaminī 872.798.832 hành diệt lộ
Saṅkhārapaccaya 255.274.286.290.358.372.500 duyên hành
Saṅkhārasamudaya 782.798.832 hành tập khởi, tập khởi của hành
Saṅkhārasampayutta 282.375 tương ưng hành
Saṅkhārahetuka 278.374 có hành làm nhân
Saṅkhāravasesasamāpatti 706 thiền nhập hữu dư hành
Saṅkhitta 145.157.445.825 tóm lược, hôn trầm, sự muội lược
Saṅkhipanā 881 sự chế giểu, chế rễu
Saṅkhyā 506 định danh, sự đặt tên, sự gọi tên
Saṅga 926 sự dính líu
Saṅganikārāma 860 sự thích tích tụ
Saṅganikārāmatā 996 thích hội chúng
Saṅgati 154.273.303.340.371 hiệp hội
Saṅgahita 3.9.15.21.27 gom lại, gom thành
Saṅgha 601.839.932.956.984.994.1017 Tăng già, Tăng chúng, Tăng lữ
Saṅghamajjha 1017 giữa Tăng chúng
Saṅghātipattacīvaradhārana 599.612 mang y bát và Tăng già lê
Sacca 827.962.975.1004 Ðế, sự chân thật, sự chắc thật
Saccavipaṭikūla 960 sai với sự thật
Saccānulomika 798.804.822 lý luận theo Thánh Ðế
Sacchikata 241 đã chứng ngộ, đã xác chứng
Sacchikatasaññitā 899 ngộ nhận đã chứng ngộ, tưởng lầm
Sacchikatvā 924 sau khi chứng ngộ, sau khi tác chứng, sau khi giác ngộ
Sacchikātabba 1108 cần phải tác chứng
Sacchikiriyā 241.508.521.657.1013 tác chứng, chứng ngộ
Sajjhu 115 bạch kim
Sañcetanā 293.329.373 sự cố quyết
Sañcetayitatta 293.359.768 thái độ cố quyết
Sañjananī 926 sự xuất sanh
Sañjaneti 467.1185sinh thành
Sañjāta 3.653.663.780 đang thành, đang sanh thành
Sañjāti 266.302.338.146 sự sanh khởi
Sañjānanā 635.688.928 tưởng tri
Sañjānitatta 635.688.928 trạng thái tướng tri
Saññamakaranīya 605 nên chế ngự, cần phải chế ngự
Saññā 259.635.688.900.926.949.1034.1103 sự tưởng nhận, tưởng nhớ
Saññākkhandha 14.54.100 nakevalam Tưởng uẩn
Saññābhava 265 tưởng hữu
Saññāmanasikāra 828 tác ý tưởng
Saññāvipariyesa 966 tưởng điên đảo, sự điên đảo trong tưởng
Saññāvedayitanirodha 838.845 sự diệt thọ tưởng, thiền diệt thọ tưởng
Saññivāda 1072 tưởng luận
Saññī 985.1024.1035 nakevalam có tưởng, hữu tưởng, người hữu tưởng
Saññojana 98.850.1007 nakevalam triền, sự ràng buộc, triền phược
Saññojanavippayutta 46.89 nakevalam bất tương ưng triền
Saññojanasampayutta 46.98 nakevalam tương ưng triền
Saññojaniya 46.89.795.803 nakevalam cảnh triền
Saṇṭapanā 878.908 sự duy trì, chú trọng oai nghi
Saṇṭhapeti 691 an lập
Saṇṭāma 861 địa vị, vị trí, vị thế, chỗ đứng
Saṇṭānanada 849 kiêu hãnh địa vị
Saṇṭhiti 240.507 sự vững trú
Sata 609.612.636.834.990 ức niệm, có chánh niệm
Sati 240.459.545.599.612.677.685.828 niệm, ức niệm, chánh niệm, nhớ lại
Satinepakka 543 tuệ niệm
Satindriya 236.240.612.844.1079 niệm quyền
Satipaṭṭhāna 459.642.958 Niệm xứ
Satipaṭṭhānasampayutta 459 tương ưng niệm xứ
Satibala 240.612 niệm lực
Satimā 169.431.434.439.443.456.462.543.599.675 có chánh niệm
Satisambojjhaṅga 449.959.543.545.552.554.561 niệm giác chi
Sattanikāya 146.266 thân hữu tình
Satthā 839.932.981.995 Bậc Ðạo Sư
Satthādāna 123 cầm đao kiếm, chấp kiếm
Satthusāsana 800 Giáo lý Bậc Ðạo Sư
Satha 911 xảo trá
Sathatā 911 thái độ xảo trá
Sadisa 849.884.889.891.937.1022 bằng, ngang bằng, bằng nhau
Sadosa 445.825 hữu sân, có sân
Sadda 98.159.957.992.998.1003 thinh, tiếng
Saddataṇhā 161.926.994 thinh ái
Saddadhātu 1077 thinh giới
Saddavicāra 159.161 thinh tứ
Saddavitakka 159.161 thinh tầm
Saddasañcetanā 159.161 thinh tư
Saddasaññā 159.161.689 thinh tưởng
Saddahati 956 tin tưởng
Saddahanā 240.359.660 sự tin cậy
Saddāyatana 100.1076 thinh xứ
Saddārammaṇa 291.377.411.785 cảnh thinh
Saddāsā 926 muốn thinh, muốn nghe tiếng
Saddha 604.844.868 có đức tin
Saddhamma 851.958 chánh pháp diệu pháp
Saddhā 240.359.660 tín, đức tin, niềm tin, sự tin tưởng
Saddhābala 240 tín lực
Saddhindriya 236.240.844.1079 tín quyền
Sanidassana 85.87 nakevalam hữu kiến
Santa 440.449.641.659.662.669.681.834 sự yên lặng, đang có
Santi 843 có, hiện có, đang có
Santika 7.13.19.25.31.613 gần, cận
Santiṭṭhati 828.119 an lập, thiết lập, chứa đựng
Satuṭṭhitā 608 tư cách tri túc
Santhava 926 thân ái
Sandithiparāmāsitā 991 cố chấp tư kiến
Sannamanā 785 sự uốn mình
Sannissita 844.878.882 nương theo, bám theo, bám vào, hám mùi
Sappaccaya 87.795.801 nakevalam hữu duyên
Sappatigha 85.87 nakevalam hữu đối chiếu, hữu đối kháng.
Sappi 116 bơ sữa, bơ trong
Sappītika 46.96.796 nakevalam hữu hỷ
Sappurisa 932.949 Bậc Chân Nhân
Sappurisadhamma 932.949 pháp Bậc Chân nhân
Sabba 742.744 tất cả, mọi loài
Sabbakāmasamiddhī 1106 sung mãn mọi dục lạc
Sabbaṅgapaccaṅgī 1011 đủ mọi chi thể chính phụ
Sabbattatā 741.743 cùng khắp
Sabbatthagāminī 800.841 dẫn đến mọi sanh thú
Sabbathā 743 mọi nơi
Sabbadhi 741.743 mọi phương xứ
Sabbapānabhūtahitānukampī 599 thương tưởng vì lợi ích mọi loài
Sabbāvanta loka 741.743 hết thảy thế giới
Sabbāsava 1107 nhất thiết lậu hoặc, mọi lậu hoặc
Samagga 601 sự hòa hợp
Samaṅgībhūta 990 thỏa mãn
Samaññā 601 sự ấn định, sự chỉ định
Samaṇa 940.949.990.1011 vị Sa môn, tịnh giả
Samatikkanta 688.695 thoát khỏi
Samatikkama 599.688.965.700.705 vượt khỏi, vượt qua
Samatha 240.507 chỉ tịnh
Samanantāra 795.802 sự tiếp theo, sự liên tục
Samanupassati 932.949.963 nhận thấy
Samannāgata 149.435.452.468.486.507.543 Bậc hội đủ, bậc thành đạt, sự có được, hay bị
Samannāhāra 802.960 sự thu nhiếp, sự chuyên niệm
Samappita 990 sung túc
Samāgrama 154.273.303.340.371 trùng phùng
Samādāya 599.606 thọ trì
Samādiyati 795.802 chấp trì, chấp hành
Samādhi 507.550.800.830.845 định
Samādhikusala 845 thiện xảo tâm định
Samādhija 599.663 do định sanh
Samādhindriya 236.240.507.844.1079 định quyền
Samādhibala 240.507 định lực
Samādhiyati 543 định tỉnh, định vững vàng
Samādhisambojjhaṅga 449.520.542.550.559 định giác chi
Samāna 845.868 có, thường, có, hiện có
Samāpajjati 795.802.845 nhập thiền
Sāmapatti 800.805.845.945 sư phạm, sự vi phạm, sự nhập định
Samāpattikusala 845 thiện xảo nhập thiền
Samāpanna 804.1103 nhập thiền
Samārabhati 469.847 khởi xướng
Samāhita 445.825.868 sự định tỉnh, người định tỉnh
Samijjhanā 508.521 sự thành mãn
Samita 440.625.641.659.662.669.681 sự vắng lặng
Samiddhi 508.521 sự hoàn thành
Samukkāpanā 879 tán thán
Samukkhepanā 881 sự kết tội
Samicchinna 1011 bị đoạn diệt
Samuṭṭhāpeti 467.485 ứng khởi
Samuṭṭhita 3.9.15.21.27 đang ứng khởi
Samudaya 252.237.303.340.371 tập khởi
Samudayasacca 1078 Tập đế
Samudācaranti 828 chi phối
Samunnahanā 879 siểm nịnh
Samupapanna 435.468.508 hoàn đắc, thành đạt hoàn toàn
Samupāgata 452.486.602 mãn đáo, đi đến trọn vẹn
Samupeta 435.452 nakevalam biến nhập, đạt đến hoàn toàn
Samuppanna 3.9.15.21.27 đang tương sanh
Samullapanā 879 tâng bốc
Samodhāna 154.273.303.340.371 tao ngộ
Samoha 445.825 hữu si, có si
Sampakopa 122.629.632.926 sự tức giận
Sampaggaṇhāti 470.488 bảo trì
Sampaggāha 860.883.896 sự đề cao, sự nâng cao, sự đưa lên
Sampajañña 438.455.612.672.667 sự lương tri
Sampajāna 169.431.438.455.609.612.636.672 tỉnh giác
Sampajānakārī 599.912 bậc tỉnh giấc
Sampatta 1107 thành tựu, đạt đến
Sampatti 508.521.657.678.840.845 thành đạt, sự đắc thành, sự thành tựu, sự thuận lợi
Sampatti palibālha 840 bị trờ ngại bởi điều thuận lợi
Sampatthanā 926 vọng cầu
Sampadosa 122.629.632.926 sự quyết ám hại
Sampayutta 654.664.743 tương ưng
Sampayoga 145.154 hội họp – kết hợp
Sampavaṅkatā 918.951.955.960 sự xu hướng
Sampasāda 663 đặng tịnh, yên tịnh
Sampasādana 599.560 tỉnh, tỉnh lặng, thanh tịnh
Sampasīdati 981 tịnh tín, tín ngưỡng, tin tưởng
Sampāpanā 881 sự xuyên tạc
Samphappalāpa 165.572.930.970.1009.1028 ỷ ngữ, tạp uế ngữ, nói nhảm nhí, nói vô ích
Samphusanā 297.333 sự đối xúc
Samphusitatta 297.333 trạng thái đối xúc
Sambodha 545 giác ngộ, đẳng giác
Sambhajati 615 thọ dụng
Sambhajanā 918.951.961 sự cộng tác
Sambhatti 918.951.960 sự tương thân, sự miệt mài, sự tôn sùng
Sambhavanti 1023 hiện hữu, hiện diện, có mặt, xuất hiện
Sammaggata 1031 đi đến chân chánh, chánh hướng
Sammatiñāna 798.825 tịnh trí, chế định trí
Sammatideva Chế định thiên, qui ước thiên, Giả định thiên
Sammatta 844 Sự chính xác, chánh tánh, phần chánh
Sammattaniyata 45.85 nakevalam cố định phần chánh
Sammappadhāna 489.501.958 chánh tinh cần, chánh cần
Sammā 1011 chánh, đúng, hoàn toàn, toàn thiện, trọn cả
Sammā ājīva 162.167.180.574.579.585 chánh mạng
Sammākammanta 166.179.569.573.584.594 chánh nghiệp
Sammādiṭṭhi 163.176.240.570.581.589.612 chánh kiến
Sammādiṭṭhika 847 người có chánh kiến
Sammādiṭṭhikammasamādāna 874 thọ trì theo nghiệp chánh kiến
Sammāpaṭipanna 1031 chánh hạnh, chánh hành
Sammāvācā 162.165.178.572.583 chánh ngữ
Sammāvāyāma 168.181.468.486.507.575.579 chánh cần, chánh tinh tấn
Sammāsaṅkappa 122.164.177.569.571.582.652 chánh tư duy
Sammāsati 169.240.459.587.612 chánh niệm
Sammāsamādhi 170.240.577.589.594 chánh định
Sammāsambuddha 839 chánh giác, chánh đẳng giác
Sammiñjita 599.612 co vào
Sammusanatā 923.959 tình trạng quên lãng, sự quên lãng
Sammūlha 988 bị hôn mê
Sayaṃkata 975 do tự mình tạo
Sarajavāta 118 gió cuốn bụi, gió trốt
Saraṇa 46.96 nakevalam hữu y, hữu tranh
Saraṇatā 240.612 thái độ nhớ lại
Sarāga 445.325 có tham, hữu tham
Saritā 926 ái hà 543 nhớ được
Sarīra 844.1032 thân thể
Salomahaṃsa 618 có sự rỡn lông ốc, mọc lông ốc
Salakkhanā 612 sự tham khảo
Sallapanā 879 ton hót
Sallīyanā 633.877.960 sự trầm lặng
Savicāra 45.96.652.796 nakevalam hữu tứ
Savitakka 45.96.652.796 nakevalam hữu tầm
Savitakkasavicāra 797.810.845 hữu tầm hữu tứ
Sasaṅkhāra 347.360.405.768.784.785 hữu trợ
Sasaṅkhāranigāyhavaritavata 834 hữu tâm trợ thế ngăn phiền não
Sassata 844.961.1004.1032.1042.1061 thường còn
Sassatadiṭṭhi 850.949 thường kiến
Sassatavāda 1072 thường luận
Sahagata 654.664 câu hành, đi chung
Sahajāta 654.644.743 câu sanh, đồng sanh
Sahadhammika 918.951 đúng pháp
Sahanandi 905 đồng vui
Sahabyatā 1105 kết hợp với, đồng loại với
Sahasokī 905 đồng buồn
Sahetuka 44.86.1096 nakevalam hữu nhân
Saḷāyatana 255.260.277.782.788 lục nhập, sáu xứ
Saḷāyatanapaccaya 255.266.277.782.798 duyên lục nhập
Saḷāyatanasampayutta 825 tương ưng lục nhập
Saḷāyatanahetuka 281 có lục nhập làm nhân
Saṃvacchara 1106 niên, một năm
Saṃvattakappa 846 hoại kiếp
Saṃvattati 545 dẫn đến, tiến đến
Saṃvara 602.922.957 sự thu thúc, điều giới thu thúc
Saṃvarakaranīya 605 nên thu thúc, cần thu thúc
Saṃvuta 602 thu thúc, phòng hộ
Saṃhāni 147.267.303.339 sự giảm thiểu, sự tổn giảm
Svavatthita 432.441.445.449 sự chuẩn xác, sự chính xác
Svākāra 844 thiện thành tướng
Saṃsaggārāmatā 996 thích chung chạ
Saṃmaṭṭha 604.654.664 lẫn lộn, hòa lẫn, hòa hợp
Saṃsaya 355.643 sự ngờ vực
Saṃsevati 615 sự tiếp nhận
Saṃsevanā 918.951.960 sự kết giao
Sākāra 846 nét đại cương
Sāta 121.239.298.334.359.654.1043.1062 sự sảng khoái, sự vui, sư vừa ý
Sātacca 599.610 kiên trì
Sātarūpa 159.161.844 sắc mãn ý, sắc vừa lòng
Sātheyya 850.991.1021 xảo quyệt, dối trá, sự lừa gạt, tình trạng xảo trá
Sādhuka 543 khéo
Sādhukamyāta 870.926 mong tốt, sự mong muốn được vật tốt
Sāpattika 1017 người có tội
Sāmantajappā 880 nói quanh quẩn
Sāmantajappita 878 nói quanh co
Sāmisa 441 thuộc vật chất
Sāyita 117.119.599.612 nếm vị
Sāyitvā 922 nếm vị
Sāra 601 cốt lỏi, người có cốt lỏi, hạng pháp lỏi
Sārambha 849.855 sự đấu tranh, sự tranh đua
Sārambhanā 865 thái độ tranh đua
Sārammana 93.795.1109 nakevalam hữu tri cảnh, có biết cảnh
Sārammanārammana 1110 có đối tượng hữu tri cảnh
Sārāga 299.335.867.926.953.992.1014 sự luyến tham, sự tham đắm, sự vui mừng, thỏa thích
Sāvaka 872 thinh văn, hàng đệ tử
Sāsava 795.803.1103 cảnh lậu
Sikkhati 599.606 học tập
Sikkhā 606.773.932.981.995.1017 học giới
Sikkhāpada 599.606.767 điều học, học giới
Siṅga 349.869 sự nham hiểm, sự mánh lới
Siṅgāratā 869 sự mánh khóe
Singhānikā 116.432.433.434 nước mũi
Sinānadāna 604 cho phấn tắm
Siñcha 926 tình thương
Sippa 861 nghề nghiệp, tài nghề
Sippamada 849 kiêu hãnh nghề nghiệp
Sippāyatana 808.883.888 nghề nghiệp, lãnh vực nghề nghiệp, tài nghệ
Sibbinī 926 ái diệt
Siyanti 1044.1048.1063.1067 (siyam iti) rằng “ta có thể là”
Siyā (idam yebhuyyikam) có thể là
Silā 115 đá, cẩm thạch
Siloka 849.878.882 tai tiếng, tiếng đồn đại, danh tiếng, tiếng tăm, danh vọng
Sīta vāta 118 gió lạnh
Sīla 861.932.962.982.1105 giới hạnh, luật cấm chế, giới đức
Sīlabbata 901.932.962 giới cấm
Sīlabbataparāsama 932.962.976.1029 giới cấm trì, sự có chấp theo giới cấm
Sīlabbatupādāna 264.963 giới cấm thủ
Sīlabyasana 149.269.987 sự suy thoái giới hạnh, sự suy vong giới hạnh
Sīlamada 849 kiêu hãnh giới hạnh
Sīlamaya 257.797.805 trì giới thành, do trì giới tạo ra
Sīlavipatti 850 giới hoại
Sīlasamvara 604 thu thúc giới
Sīsa 115 chì đen
Sīhanāda 800 tiếng rống sư tử
Sīhaseyya 609 dáng sư tử ngọa, dáng nằm con sư tử
Sukatadukkata 1031 thiện hành ác hành
Sukha 121.298.441.653.656.663.673.677.711.839.940.960.966.990.1014 lạc, sự dễ chịu
Sukhadukka 975 lạc khổ
Sukhadhātu 121 lạc giới
Sukhapharanatā 833 lạc biến mãn
Sukhavipāka 834 quả lạc
Sukhavippayutta 803 bất tương ưng lạc
Sukhavihārī 599.675 lạc trú
Sukhasampayutta 803 tương ưng lạc
Sukhasahagata 46.85.377.797.803.828 câu hành lạc
Sukhāpatipadā 830 hành dị, sự thực hành dễ
Sukhita 905 được an lạc
Sukhindriya 236.239.1079 lạc quyền
Sukhī 543 thường lạc
Sukhumā 5.11.17.23.29 tế, sự tinh tế, sự tinh vi, tế nhị
Sugata 847 thiện thú
Sugati 839.847 thiện thú
Suci 1107 trong sạch, vật tịnh, thanh tịnh
Suññata 389 không tánh
Suññāgāragata 899.621 đi đến ngôi nhà trống
Suta 861.883.888.967.1015.1111 được nghe, văn, học vấn
Sutamada 849 kiêu hãnh học vấn
Sutamayā paññā 797.804 trí văn, tuệ do nghe
Sutta 599.612.783.926 ái thằng, nằm ngủ, Khế Kinh
Sudassa deva 1107 thiện kiến thiên
Sudassī deva 1107 Thiện hiện thiên
Sudda 1035.1039.1049.1054 giai cấp nô lệ, hạng tiện dân
Suddhi 932.962.963 thanh tịnh
Supaṭṭhita 624 được đặt lại
Supaṇṇavāta 118 gió do Ðại Bàng
Supati 795.802 ngủ, ngủ nghỉ
Supanā 663 cánh say ngủ
Supitatta 633 thái độ say ngủ
Supina 795.802 sự chiêm bao, sự mộng mị
Subha 845.960.966 thanh tịnh, tốt đẹp
Subhakiṇha deva 1107 Biến Tịnh thiên
Surāmerayamajjapamādaṭṭhāna 767.769.986 dễ duôi uống rượu ngâm rượu cất
Suriyasantāpa 117 sức nóng mặt trời
Suvaṇṇa 847 đẹp sắc
Suviññāpaya 844 dị giáo hóa, dễ cảm hóa
Susāna 599.617 nghĩa địa
Susukābhaya 973 hiểm họa cá mập
Sekkha 45.85.601.797 nakevalam Bậc Hữu Học
Setughāta 178.583.768 sự trừ khử
Seda 116.432.433.434 mồ hôi
Senāsana 614.867.950.953.873 trú xứ, sàng tọa
Senāsanamaṇḍanā 871 sự chưng dọn trú xứ
Semha 116.432.434 đàm, đàm nhớt
Seyya 802.849.883.937.1022 sự nằm, sự hơn, sự trội hơn, sự tốt hơn
Seyyasukha 982 khoái lạc nằm ngủ
Sevatti 604.615.843 giao du, hưởng thụ
Sevanā 918.951.955.960 sự giao du, sự thực hiện
Soka 145.149.255.268.990 sầu, sự lo buồn, sự sầu muộn
Sokaparidevadukkhadomanassupāyāsadhamma 156 sự sầu bi khổ ưu ai
Sokasalla 149.268 mũi tên sầu
Socanā 149.268 sự buồn rầu
Socitatta 149.268 thái độ buồn rầu
Sota 98.159.922.957.998 nhĩ, lỗ tai
Sōtadhātu 1077 nhỉ giới
Sotadhātuvisuddhi 836 nhĩ giới tịnh
Sotaviññāna 161.377.1086 nhĩ thức
Sotaviññānadhātu 1077 nhĩ thức giới
Sotasamphassa 159.161.1082 nhĩ xúc
Sotasamphassaja 159.161.1083 sanh từ nhĩ xúc
Sotāpattimagga 837 Dự lưu đạo, đạo Tu Ðà Hườn
Sotāpattiphala 837 Dự lưu quả, quả Tu Ðà Hườn
Sotāyatana 100.1076 nhĩ xứ
Sotindriya 236.1076 nhĩ quyền
Sodheti 628 rửa sạch
Soppa 633 sự bần thần, sự say ngủ
Somanassa 599.681 hỷ, sự vui, thọ vui
Somanassaṭṭhāniya 998 đáng chổ vui
Somanassadhātu 121 hỷ giới
Somanassasahagata 291.358.381.400.768.784.785 câu hành hỷ
Somanassindriya 236.1079 hỷ quyền
Sosita 440.625 nakevalam sự kiệt quệ
Sneha 116 sự quến dẻo
Snehagata 116 cách quến dẻo
Svavatthita 432.441.445.449 sự chuẩn xác
Svākāra 844 thiện hành tướng
Hadaya 115.125.130.294.743 tim, tâm tạng
Handa 1013 thế nên
Hānabhāginī paññā 798.828 tuệ thối phần, thối phần tuệ
Hāsa 557.654 sự hài lòng
Hitakāma 155.604 muốn đem may mắn
Hiriyati 917.954 hổ thẹn, hổ ngươi
Hiriyitabba 917.954 đáng hổ thẹn
Himsanā 122.950 sự hãm hiếp
Hīna 6.45.85.771.847.849.885.937.1017.1022 xấu, hạ liệt, ty hạ, thua, xấu xa, hèn hạ, đời thế tục
Hīnamata 6 biết là xấu
Hīnasammata 6 cho là xấu
Hīnādhimuttika 843 có khuynh hướng hạ liệt
Hīḷanā 885.888.891.894 sự tự cảm
Hīḷita 6 bị khinh bỉ
Huta 1031 quả cúng dường
Heṭhanā 122.950 sự nhiểu nhương
Hetu 46.86.779.839 nakevalam nhân
Hetuphala 779 nhân quả, quả của nhân
Hetuvippayutta 46.86.975.801 nakevalam bất tương ưng nhân
Hetusampayutta 46.86 nakevalam tương ưng nhân
Hetuso 800.840 do nhân, theo nhân, theo nguyên nhân.
EVAMNIṬṬHITAṂ