Đại Phẩm đọc online – Tập I
Đại Phẩm đọc online – Tập I
Tạng Luật (VINAYAPIṬAKA)
Dịch Việt: Tỳ khưu Indacanda Nguyệt Thiên
Nguồn: https://www.budsas.org
Tập I
GIỚI THIỆU[01a]
MAHĀVAGGA I (ĐẠI PHẨM 1)
I. CHƯƠNG TRỌNG YẾU (MAHĀKHANDHAKAṂ):
1. Tụng phẩm thứ nhất:
[1] Phần nói về sự Giác Ngộ
[4] Phần nói về cội cây si của những người chăn dê
[5] Phần nói về cội cây Mucalinda. Câu chuyện về rắn chúa Mucalinda
[6] Phần nói về cội cây Rājayatana. Câu chuyện về các thương buôn Tapussa và Bhallika. Bốn bình bát của bốn vị Đại Thiên Vương
[7] Đức Thế Tôn không có ý định thuyết giảng Giáo Pháp
[8] Sự thỉnh cầu của Phạm Thiên. Ví dụ về hoa sen
[11] Câu chuyện về đạo sĩ lõa thể Upaka
[12] Câu chuyện về các tỳ khưu nhóm năm vị
[13] Kinh Chuyển Pháp Luân: Hai điều cực đoan, bốn Chân Lý Cao Thượng, v.v…
[16] Koṇḍañña chứng Pháp nhãn
[18] Sự xuất gia của các tỳ khưu nhóm năm vị
[20] Kinh Vô Ngã Tướng
[24] Sự chứng đắc A-la-hán của các tỳ khưu nhóm năm vị
2. Tụng phẩm thứ nhì:
[25] Câu chuyện về người con trai nhà danh giá tên Yasa
[27] Cha của Yasa trở thành nam cư sĩ quy y Tam Bảo đầu tiên
[28] Sự chứng đắc A-la-hán và sự xuất gia của Yasa
[29] Mẹ và người vợ cũ thứ nhì của đại đức Yasa trở thành hai nữ cư sĩ đầu tiên
[30] Sự xuất gia của bốn người bạn của đại đức Yasa
[31] Sự xuất gia của năm mươi người bạn của đại đức Yasa
[32] 61 vị A-la-hán ra đi thuyết giảng.
[33] Ma Vương đến gặp đức Thế Tôn lần thứ nhất
[34] Phần nói về sự tu lên bậc trên bằng Tam Quy
[35] Ma Vương đến gặp đức Thế Tôn lần thứ nhì
[36] Câu chuyện về những người bạn thuộc nhóm các vương tử
3. Tụng phẩm thứ ba:
[37] Câu chuyện về các đạo sĩ bện tóc. Điều kỳ diệu thứ nhất
[40] Điều kỳ diệu thứ nhì. Điều kỳ diệu thứ ba. Điều kỳ diệu thứ tư
[42] Điều kỳ diệu thứ năm. Buổi đại lễ cúng tế
[44] Y paṃsukūla của đức Thế Tôn
[45] Những điều kỳ diệu khác
[51] Sự xuất gia của Uruvelakassapa, Nadīkassapa, Gayākassapa
[55] Bài kinh “Bị Cháy Rực“
[01b] 4. Tụng phẩm thứ tư:
[56] Đi đến thành Rājagaha. Đức vua Seniya Bimbisāra đi đến yết kiến
[58] Tế độ đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha và mười ngàn cư sĩ
[59] Năm điều ước nguyện của đức vua được thành tựu
[61] Bài kệ của chúa chư thiên Sakka
[63] Sự cúng dường Veḷuvana (Trúc Lâm)
[64] Câu chuyện về Sārīputta và Moggallāna. Câu chuyện về trưởng lão Assaji
[70] Sārīputta và Moggallāna đi đến với đức Thế Tôn
[73] Lời đồn đãi về đức Thế Tôn
5. Tụng phẩm thứ năm:
[77] Nguyên nhân dẫn đến việc quy định về thầy tế độ
[81] Phận sự đối với thầy tế độ
[82] Phận sự đối với đệ tử
[83] Giảng về sự đuổi đi đệ tử
[84] Năm điều kiện của người đệ tử
[85] Sự xuất gia của người bà-la-môn bằng tuyên ngôn
[86] Nghi thức cầu xin sự tu lên bậc trên. Tuyên ngôn tu lên bậc trên
[87] Cho phép giải thích về bốn vật nương nhờ
6. Tụng phẩm thứ sáu:
[88] Quy định về thời điểm giải thích bốn vật nương nhờ
[89] Quy định về việc tu lên bậc trên với nhóm mười tỳ khưu hoặc hơn
[90] Câu chuyện về vị tỳ khưu Upasena con trai của Vaṅganta
[91] Quy định về thầy tế độ
[92] Cho phép về thầy dạy học. Thỉnh cầu thầy dạy học
[93] Phận sự đối với thầy dạy học
[94] Phận sự đối với học trò
7. Tụng phẩm thứ bảy:
[95] Giảng về sự đuổi đi học trò. Năm điều kiện của người học trò
[96] Quy định về thầy dạy học
[97] Các trường hợp đình chỉ sự nương nhờ ở thầy tế độ và thầy dạy học
[98] Mười sáu nhóm năm của phần “Nên ban phép tu lên bậc trên“
[99] Mười sáu nhóm sáu của phần “Nên ban phép tu lên bậc trên“
[100] Giảng về Parivāsa cho người trước đây là ngoại đạo
[01c] 8. Tụng phẩm thứ tám:
[101] Câu chuyện về năm thứ bệnh
[102] Không nên cho xuất gia binh sĩ của đức vua
[103] Không nên cho xuất gia kẻ cướp có mang biểu tượng, kẻ cướp phá ngục, kẻ cướp bị cáo thị tầm nã, kẻ bị hành phạt đánh bằng roi, kẻ bị hành phạt đóng dấu, kẻ thiếu nợ, kẻ nô tỳ
[110] Thông báo đến hội chúng về việc cạo tóc (bhaṇḍukamma).
[111] Câu chuyện về nhóm mười bảy thiếu niên: không cho tu lên bậc trên người dưới hai mươi tuổi
[113] Cho xuất gia sa di đứa trẻ có thể đuổi được quạ
[114] Một vị không nên để cho hai sa di phục vụ
[115] Cho phép vị tỳ khưu kinh nghiệm đủ năng lực sống nương nhờ năm năm
[116] Năm điều kiện. Sáu điều kiện của vị sống không nương nhờ
9. Tụng phẩm thứ chín:
[118] Việc xuất gia sa di của Rāhula. Được phép của cha mẹ cho xuất gia
[119] Cho phép vị có khả năng để cho nhiều sa di phục vụ.
[120] Mười điều học của sa di
[121] Câu chuyện về hành phạt của các sa di
[124] Mười điều trục xuất sa di
[125] Chuyện về các hạng người không được tu lên bậc trên: Kẻ vô căn. Kẻ trộm tướng mạo (tỳ khưu). Kẻ bỏ theo ngoại đạo. Loài thú. Kẻ giết mẹ. Kẻ giết cha. Kẻ giết A-la-hán. Kẻ làm nhơ tỳ khưu ni. Kẻ chia rẽ hội chúng. Kẻ làm chảy máu đức Phật. Kẻ lưỡng căn.
[133] Các trường hợp không được làm thầy tế độ cho tu lên bậc trên.
[134] Y và bình bát của vị tu lên bậc trên
[135] Ba mươi hai trường hợp không nên cho xuất gia.
10. Tụng phẩm thứ mười:
[136] Giảng giải về sự nương nhờ
[140] Việc tu lên bậc trên của hai vị, ba vị
[141] Hai mươi tuổi tính theo thai bào
[142] Hành sự tu lên bậc trên
[143] Bốn vật nương nhờ
[144] Bốn điều không nên làm
[145] Trường hợp các vị bị án treo hoàn tục rồi tu lên bậc trên lại
[146] Bài kệ tóm lược
[02] II. CHƯƠNG LỄ UPOSATHA (UPOSATHAKKHANDHAKAṂ):
1. Tụng phẩm thứ nhất:
[147] Đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha và các ngoại đạo
[148] Việc thuyết giảng Giáo Pháp
[149] Việc đọc tụng giới bổn. Giảng giải về phần mở đầu
[153] Câu chuyện về trưởng lão Mahākappina
[154] Việc ấn định ranh giới. Các điểm mốc của ranh giới
[155] Ranh giới quá rộng lớn. Ranh giới đến bờ bên kia của giòng sông
[157] Chỉ định nhà hành lễ Uposatha
[158] Hủy bỏ nhà hành lễ Uposatha
[159] Ấn định mặt tiền của nhà hành lễ Uposatha
[162] Câu chuyện về trưởng lão Mahākassapa. Việc xa lìa ba y.
[163] Ấn định ranh giới. Hủy bỏ ranh giới
[164] Ranh giới của ngôi làng, của thị trấn
[165] Ấn định ranh giới sai Luật.
[166] Hai lễ Uposatha. Bốn loại hành sự Uposatha
[167] Năm cách đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Nghi thức tiến hành. Cho phép đọc tụng giới bổn Pātimokkha một cách tóm tắt khi có sự nguy hiểm
[170] Thỉnh ý trước khi buộc tội
[171] Phản đối. Bày tỏ quan điểm. Khẳng định về hành sự sai Pháp.
[172] Liên quan đến việc đọc tụng giới bổn Pātimokkha
2. Tụng phẩm thứ nhì:
[175] Giới bổn Pātimokkha là trách nhiệm của vị trưởng lão
[177] Việc tính toán (ngày) của nửa tháng, đếm số tỳ khưu
[178] Việc thông báo lễ Uposatha
[179] Các phận sự trước lễ Uposatha
[181] Giảng giải về việc chuyển đạt sự trong sạch của vị bệnh
[182] Giảng giải về việc chuyển đạt sự tùy thuận của vị bệnh
[183] Gìn giữ sự hợp nhất của hội chúng khi hành lễ Uposatha
[184] Câu chuyện về tỳ khưu Gagga. Sự đồng ý về bệnh điên
[185] Sự thực hiện lễ Uposatha bởi bốn, ba, hai, một vị
[186] Giảng giải về sự sám hối
3. Tụng phẩm thứ ba:
[191] Mười lăm trường hợp đọc tụng giới bổn được vô tội
[192] Mười lăm trường hợp phe nhóm lại tưởng là hợp nhất
[193] Mười lăm trường hợp nghi ngờ
[194] Mười lăm trường hợp có sự ngần ngại
[195] Mười lăm trường hợp có dự tính chia rẽ
[197] Lễ Uposatha liên quan đến các vị thường trú và vãng lai
[199] Nơi không nên đi đến vào ngày lễ Uposatha
[201] Không nên đọc tụng giới bổn Pātimokkha khi có tỳ khưu ni, v.v…
[204] Bài kệ tóm lược
[03] III. CHƯƠNG VÀO MÙA MƯA (VASSŪPANĀYIKAKKHANDHAKAṂ):
1. Tụng phẩm thứ nhất:
[205] Câu chuyện về nhiều vị tỳ khưu. Cho phép việc vào mùa (an cư) mưa
[206] Hai thời điểm vào mùa (an cư) mưa. Các vấn đề liên quan
[209] Đức vua Seniya Bimbisāra yêu cầu dời ngày vào mùa (an cư) mưa
[210] Câu chuyện về nam cư sĩ Udena. Việc đi trong bảy ngày có liên quan đến bảy hạng người
[211] Việc đi trong bảy ngày có liên quan đến năm hạng người và bảy hạng người
2. Tụng phẩm thứ nhì:
[214] Các trường hợp vô tội cho việc đứt mùa (an cư) mưa
[217] Việc vào mùa (an cư) mưa ở khu rào gia súc, trong xe tải, trong chiếc thuyền
[218] Các chỗ không được vào mùa (an cư) mưa
[220] Câu chuyện về người cháu trai của bà Visākhā mẹ của Migāra
[221] Câu chuyện về đại đức Upananda con trai dòng Sākya. Giảng giải về mùa (an cư) mưa thời điểm trước
[222] Giảng giải về mùa (an cư) mưa thời điểm sau
[223] Bài kệ tóm lược
[04]IV. CHƯƠNG LỄPAVĀRAṆĀ(PAVĀRAṆĀKKHANDHAKAṂ):
1. Tụng phẩm thứ nhất:
[224] Câu chuyện về nhiều vị tỳ khưu ở xứ Kosala
[226] Cho phép tiến hành lễ Pavāraṇā. Cách thức tiến hành lễ Pavāraṇā
[227] Giảng giải về cách thức tiến hành lễ Pavāraṇā
[228] Hai lễ Pavāraṇā. Bốn loại hành sự Pavāraṇā
[229] Giảng giải về việc chuyển đạt lời thỉnh cầu của vị bệnh
[230] Gìn giữ sự hợp nhất của hội chúng khi hành lễ Pavāraṇā
[231] Sự thực hiện lễ Pavāraṇā bởi năm, bốn, ba, hai, một vị
[232] Giảng giải về sự sám hối vào ngày lễ Pavāraṇā
2. Tụng phẩm thứ nhì:
[233] Mười lăm trường hợp được vô tội
[234] Mười lăm trường hợp phe nhóm lại tưởng là hợp nhất
[235] Mười lăm trường hợp nghi ngờ
[236] Mười lăm trường hợp có sự ngần ngại
[237] Mười lăm trường hợp có dự tính chia rẽ
[238] Lễ Pavāraṇā liên quan đến các vị thường trú và vãng lai
[241] Nơi không nên đi đến vào ngày lễ Pavāraṇā
[243] Không nên thỉnh cầu khi có tỳ khưu ni, cô ni tu tập sự, v.v…
3. Tụng phẩm thứ ba:
[244] Các trường hợp tiến hành lễ Pavāraṇā khi có sự bận rộn và nguy hiểm
[245] Đình chỉ lễ Pavāraṇā
[246] Lễ Pavāraṇā đã không bị đình chỉ, đã bị đình chỉ
[247] Giảng giải về sự đình chỉ lễ Pavāraṇā của vị tỳ khưu
[248] Các trường hợp sám hối tội trong ngày lễ Pavāraṇā
[250] Câu chuyện về các vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, v.v…
[251] Sự đồng thuận về lễ Pavāraṇā (Pavāranāsaṅgaha)
[252] Bài kệ tóm lược
[05] MAHĀVAGGA II (ĐẠI PHẨM 2)
V. CHƯƠNG DA THÚ (CAMMAKKHANDHAKAṂ):
[1] Câu chuyện về thanh niên Soṇa Koḷivisa, câu chuyện về trưởng lão Sāgata
[2] Thanh niên Soṇa Koḷivisa xin xuất gia, ví dụ về dây đàn
[3] Trưởng lão Soṇa Koḷivisa công bố sự chứng ngộ
[5] Quy định về dép
[8] Việc mang dép trong tu viện
[10] Quy định về guốc gỗ, giày
[14] Di chuyển bằng xe bò kéo
[15] Chỗ nằm cao và rộng lớn
[16] Giảng về da thú
[17] Câu chuyện về vị tỳ khưu xấu xa
[20] Câu chuyện về trưởng lão Soṇa Kuṭikaṇṇa
[21] Năm điều yêu cầu của ngài Mahākaccāna
[23] Đức Thế Tôn ban năm đặc ân cho các xứ thuộc vùng biên địa
[24] Bài kệ tóm lược
[06] VI. CHƯƠNG DƯỢC PHẨM (BHESAJJAKKHANDHAKAṂ):
1. Tụng phẩm thứ nhất:
[25] Giảng về năm loại dược phẩm
[27] Giảng về các loại dược phẩm: mỡ thú, rễ cây, nước sắc, lá cây, v.v…
[34] Câu chuyện về trưởng lão Velaṭṭhasīsa
[36] Bệnh liên quan đến phi nhân, bệnh ở mắt, thuốc bôi ở mắt, v.v…
[38] Các loại bệnh của trưởng lão Pilindavaccha: bệnh nóng đầu, bệnh gió, bệnh phong thấp, bệnh thấp khớp, bệnh chân nứt nẻ
[42] Một số bệnh và cách chữa trị: bệnh mụt nhọt, bị rắn cắn, bị độc dược, bị yếm bùa, bệnh trĩ, bệnh vàng da, v.v…
[45] Câu chuyện về trưởng lão Pilindavaccha và vua Seniya Bimbisāra: Sự cho phép về người giúp việc tu viện. Thị hiện thần thông. Thời hạn bảy ngày cho năm loại dược phẩm
2. Tụng phẩm thứ nhì:
[48] Câu chuyện về trưởng lão Kaṅkhārevata
[49] Bệnh đau bụng bão của đức Thế Tôn. Cấm tỳ khưu chuẩn bị và nấu thức ăn. Cho phép hâm thức ăn
[51] Một số quy định vào thời kỳ có khó khăn về vật thực.
[55] Câu chuyện về trưởng lão Sāriputta: bệnh sốt toàn thân
[57] Cấm mổ xẻ ở chỗ kín
[58] Câu chuyện về nữ cư sĩ Suppiyā.
[59] Chuyện liên quan đến thịt người, thịt voi, ngựa, chó, v.v…
3. Tụng phẩm thứ ba:
[61] Câu chuyện về người bà-la-môn. Mười lợi ích của cháo
[62] Kệ tùy hỷ về sự bố thí cháo
[64] Câu chuyện về vị quan đại thần mới có đức tin: chuyện cháo đặc
[65] Câu chuyện về Velaṭṭha Kaccāna: Sự bố thí đường
[67] Câu chuyện ở Pāṭaligàma. Năm lợi ích của việc giữ giới
[71] Câu chuyện về Sunīdha và Vassakāra
[75] Ở Koṭigāma. Giảng về Tứ Diệu Đế
[77] Câu chuyện về kỷ nữ Ambapālī. Câu chuyện về các vương tử dòng Licchavi. Sự cúng dường vườn xoài
4. Tụng phẩm thứ tư:
[78] Câu chuyện về tướng quân Sīha. Cá và thịt: ba điều thanh tịnh
[81] Hủy bỏ các sự cho phép trong thời kỳ có khó khăn về vật thực
[82] Chỉ định khu vực cho phép (kappiyabhūmi)
[83] Câu chuyện về gia chủ Meṇḍaka: Năng lực thần thông
[85] Cho phép sự tiên liệu về hành trình đường xa
[86] Câu chuyện về đạo sĩ bện tóc Keṇiya. Cho phép tám loại thức uống.
[87] Bài kệ về sự cúng dường
[88] Câu chuyện về Roja dòng Malla
[89] Câu chuyện về vị xuất gia lúc tuổi già nguyên là thợ cạo
[91] Phân chia sự thâu hoạch về trồng trọt
[92] Bốn pháp dung hòa
[93] Sử dụng các loại vật thực
[94] Bài kệ tóm lược
[07] VII. CHƯƠNGKAṬHINA(KAṬHINAKKHANDHAKAṂ):
1. Tụng phẩm thứ nhất:
[95] Câu chuyện về ba mươi vị tỳ khưu xứ Pāvā
[96] Sự cho phép Kaṭhina. Năm điều cho phép
[97] Hai mươi bốn điều Kaṭhina không thành tựu
[98] Mười lăm điều Kaṭhina được thành tựu
[99] Tám điều hết hiệu lực của Kaṭhina
[100] Giảng giải về sự hết hiệu lực của Kaṭhina
2. Tụng phẩm thứ nhì:
[113] Tiếp tục giảng giải về sự hết hiệu lực của Kaṭhina
[122] Giảng giải về sự hết hiệu lực của Kaṭhina bằng các câu chuyện
[126] Hai điều vướng bận và không vướng bận của Kaṭhina
[08] VIII. CHƯƠNG Y PHỤC (CĪVARAKKHANDHAKAṂ):
1. Tụng phẩm thứ nhất:
[128] Câu chuyện về thầy thuốc Jīvaka Komārabhacca
[130] Chữa bệnh cho người vợ nhà đại phú
[131] Chữa bệnh cho vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha
[132] Chữa bệnh cho nhà đại phú ở thành Rājagaha
[133] Chữa bệnh cho con trai nhà đại phú ở Bārāṇasī
[134] Chữa bệnh cho vua Pajjota xứ Ujjenī
[135] Chữa bệnh cho đức Thế Tôn
[136] Việc cho phép nhận y của gia chủ
2. Tụng phẩm thứ nhì:
[138] Cho phép về tấm mền len. Cho phép sáu loại y
[140] Chuyện các vị tỳ khưu đi vào bãi tha ma để kiếm vải dơ bị quăng bỏ
[141] Chỉ định vị tiếp nhận y (cīvarapaṭiggāhaka)
[142] Chỉ định vị cất giữ y (cīvaranidāhaka)
[143] Chỉ định nhà kho chứa đồ (bhaṇḍāgāraṃ)
[144] Chỉ định vị quản lý nhà kho (bhaṇḍāgārika)
[146] Chỉ định vị chia y (cīvarabhājaka)
[147] Giảng giải về việc nhuộm y
[149] Nhân duyên của việc y được cắt thành nhiều mảnh
[150] Sự cho phép ba y
[151] Quy định về y phụ trội
[153] Câu chuyện bà Visākhā mẹ của Migāra xin dâng tám vật trọn đời
3. Tụng phẩm thứ ba:
[156] Sự cho phép tọa cụ (nisīdanaṃ), ngọa cụ (paccattharanaṃ)
[157] Sự cho phép y đắp ghẻ (kaṇḍupaṭicchādī)
[158] Sự cho phép khăn lau mặt (mukhapuñchanacolakaṃ).
[159] Sự cho phép lấy do sự thân thiết
[160] Giảng giải về sự chú nguyện các loại y. Giảng giải về sự cắt y
[163] Đi vào làng với ba y
[164] Giảng giải về y phát sanh thuộc về hội chúng
[165] Câu chuyện về trưởng lão Upananda con trai dòng Sākya
[166] Giảng giải về việc phục vụ người bệnh. Giảng giải về sự thừa kế
[168] Giảng giải về xu hướng sai trái trong vấn đề phục sức
[170] Giảng giải về việc chia phần y phát sanh sau mùa (an cư) mưa
[171] Giảng giải về việc lấy y đúng đắn, về việc lấy y sai trái
[172] Tám tiêu đề về việc phát sanh y
[173] Bài kệ tóm lược
[09] IX. CHƯƠNG CAMPĀ (CAMPEYYAKKHANDHAKAṂ):
1. Tụng phẩm thứ nhất:
[174] Câu chuyện về vị tỳ khưu Kassapagotta ở làng Vāsabha
[175] Hành sự của các tỳ khưu ở Campā. Bốn loại hành sự
[178] Hành sự của các tỳ khưu nhóm Lục Sư. Sáu loại hành sự
[180] Giảng giải về sáu loại hành sự
[187] Năm loại hội chúng: bốn vị, năm vị, mười vị v.v…
[188] Hành sự liên quan đến năm loại hội chúng
[193] Giảng giải về các trường hợp: Phản đối, Mời ra, Phục hồi
2. Tụng phẩm thứ nhì:
[196] Giảng giải về các hành sự sai Pháp, đúng Pháp
[199] Những câu hỏi của ngài Upāli về hành sự đúng Pháp đúng Luật và hành sự sai Pháp sai Luật
[203] Giảng giải về các hành sự
3. Tụng phẩm thứ ba:
[204] Hành sự khiển trách
[209] Hành sự chỉ dạy.
[210] Hành sự xua đuổi
[211] Hành sự hòa giải.
[212] Hành sự án treo
[213] Thu hồi các hành sự: Khiển trách, Chỉ dạy, Xua đuổi, v.v…
[218] Tranh cãi về hành sự khiển trách
[223] Tranh cãi về hành sự chỉ dạy. Tranh cãi về hành sự xua đuổi, v.v…
[227] Tranh cãi về sự thu hồi hành sự khiển trách
[232] Tranh cãi về sự thu hồi các hành sự: Chỉ dạy, Xua đuổi, v.v…
[237] Bài kệ tóm lược
[10] X. CHƯƠNG KOSAMBĪ (KOSAMBIKKHANDHAKAṂ):
1. Tụng phẩm thứ nhất:
[238] Câu chuyện về vị tỳ khưu bị treo tội, khởi đầu về sự tranh cãi của các tỳ khưu ở Kosambī
[239] Không nên ban án treo nếu có quan tâm về sự chia rẽ
[240] Hai nền tảng của việc không đồng cộng trú và đồng cộng trú
[242] Sự tranh cãi đưa đến ẩu đả
[243] Câu chuyện về hoàng tử Dīghāvu
[244] Bài học của đức vua Dīghīti dạy hoàng tử Dīghāvu
2. Tụng phẩm thứ nhì:
[247] Các lời kệ của đức Thế Tôn trước khi ra đi
[248] Việc đi đến làng Bālakaloṇakāraka và khu vườn cây Pācīnavaṃsa.
[249] Đức Thế Tôn và con long tượng ở Pārileyyaka
[251] Phản ứng của các cư sĩ ở Kosambī
[252] Sự nhận biết người nói sai Pháp hoặc đúng Pháp do mười tám sự việc
[253] Sự quan tâm của các tỳ khưu trưởng lão ở thành Sāvatthi
[257] Các vị tỳ khưu ở Kosambī đi đến thành Sāvatthi để gặp đức Thế Tôn
[258] Sự phục hồi vị tỳ khưu bị án treo. Sự hợp nhất hội chúng
[259] Các câu hỏi của ngài Upāli về sự hợp nhất hội chúng
[260] Bài kệ của ngài Upāli
[261] Bài kệ tóm lược
PHẦN GIỚI THIỆU
******
Mahāvagga (Đại Phẩm) và Cullavagga (Tiểu Phẩm) thuộc Vinayapiṭaka (Tạng Luật) gồm các vấn đề có liên quan với nhau đã được sắp xếp thành từng chương. Tên gọi chung cho hai phẩm này là Khandhaka (Chúng tôi tạm gọi tên là Bộ Hợp Phần; khandha có nghĩa là khối, nhóm, uẩn, … Tiếp vĩ ngữ -ka trong trường hợp này có ý nghĩa là thuộc về, có liên quan, …).
Mahāvagga (Đại Phẩm) được chia làm mười chương:
1. Chương 1 nói về sự khởi đầu của Giáo Pháp được tính từ lúc đức Thế Tôn chứng đắc quả Vô Thượng Chánh Đẳng Giác và bao gồm quá trình hình thành nghi thức cho xuất gia và tu lên bậc trên trở thành tỳ khưu cùng một số vấn đề liên quan đến việc huấn luyện các vị xuất gia.
2. Chương 2 giảng giải về lễ Uposatha với nguyên nhân ban đầu là lời thỉnh cầu của đức vua Seniya Bimbisāra và nhiều vấn đề có liên quan đến việc tiến hành cuộc lễ như việc ấn định ranh giới (sīmā) và nhà hành lễ Uposatha, việc sám hối, việc đọc tụng giới bổn Pātimokkha, v.v… Việc gìn giữ sự hợp nhất của hội chúng là điểm được nhấn mạnh ở chương này.
3. Chương 3 giảng giải về việc vào mùa (an cư) mưa. Tuy chỉ được ghi lại trong hai tụng phẩm nhưng nội dung của chương này trình bày những sự việc có liên quan đến 1/3 thời gian sống và tu tập của vị tỳ khưu. Chương này cần được xem xét kỹ lưỡng vì có những tư liệu mới chưa được trình bày trong các tài liệu về Luật đã được phổ biến.
4. Chương 4 giảng giải về lễ Pavāraṇā (Tự Tứ) tức là một trong những hình thức góp ý nhau về đời sống tu tập có liên quan đến giới luật. Hành sự của lễ Pavāraṇā tuy chỉ được tiến hành một lần trong năm sau ba tháng cư trú mùa mưa nhưng có tầm quan trọng tương đương với lễ Uposatha nhằm bảo tồn sự trong sạch đồng thời tính hợp nhất của hội chúng.
5. Chương 5 nói về da thú có liên quan đến đời sống của các vị tỳ khưu ví dụ như giày dép, v.v… Câu chuyện xuất gia của thanh niên Soṇa Koḷivisa ở đầu chương giới thiệu về sự nỗ lực tinh tấn của vị tỳ khưu trẻ tuổi này, dẫu rằng do chính sự tinh tấn quá mức này đã là chướng ngại cho sự đắc chứng của vị ấy nhưng cũng là một ví dụ để chúng ta thấy được động cơ tu tập của các vị xuất gia vào thời đức Phật còn tại tiền.
6. Chương 6 nói về dược phẩm và các cách thức chữa bệnh. Chương này gồm có 4 tụng phẩm đề cập đến cách thức chữa trị một số bệnh thông thường, về một số quy định đã được áp dụng trong thời kỳ khó khăn về vật thực, về đức tin vững chắc của nữ cư sĩ Suppiyā, về vấn đề thọ dụng cá và thịt trong Phật Giáo, ngoài ra còn có câu chuyện về kỷ nữ Ambapālī và một số vấn đề khác vẫn còn có được sự ứng dụng thực tiễn trong thời hiện tại.
7. Chương 7 giảng giải về lễ dâng y Kaṭhina. Đây là cuộc phước thí có tầm vóc quan trọng vì sự thành tựu của Kaṭhina không những có ảnh hưởng đến phước báu của người thí chủ mà còn có liên quan đến sự tu tập của các vị tỳ khưu. Sự giảng giải chi tiết với những sự việc tương phản của chương này có lẽ không ngoài mục đích trình bày một số điểm tế nhị cần đến sự chú tâm suy xét.
8. Chương 8 là chương về Y Phục giảng giải về loại y và các vấn đề có liên quan về nhiều phương diện. Điểm thú vị ở chương này là tụng phẩm mở đầu với câu chuyện về thầy thuốc Jīvaka Komārabhacca và tài năng chữa bệnh của vị này, đáng ngạc nhiên là việc giải phẩu ở đầu và ở bụng đã được tiến hành vào thời gian cách đây hơn 2,500 năm.
9. Chương 9 được đặt tên theo một sự kiện xảy ra ở Campā nêu lên một tiền lệ không tốt đẹp về việc sử dụng sức mạnh tập thể để áp đặt hành phạt sai trái lên cá nhân. Thời bấy giờ còn có đức Phật là vị quan tòa để phân xử, trong thời hiện tại trách nhiệm xem xét lại sự việc được trao cho các hội chúng tỳ khưu ở những trú xứ khác nếu có sự thỉnh cầu. Các điều giảng giải trong chương này không ngoài việc trình bày khuôn mẫu trong việc tiến hành các hành sự, khả năng thực hiện của hội chúng đối với các loại hành sự khác nhau tùy thuộc vào số lượng tỳ khưu hiện diện, và một số nguyên tắc cần được áp dụng để bảo đảm tính chất đúng Pháp đúng Luật của hành sự. Các hành sự của hội chúng cùng với việc thâu hồi các hành sự ấy cũng được trình bày ở chương này gồm có: hành sự khiển trách, hành sự chỉ dạy, hành sự xua đuổi, hành sự hòa giải, và ba loại hành sự án treo.
10. Chương thứ 10 nói về sự việc chia rẽ hội chúng ở Kosambī từ lúc khởi đầu đến hồi kết thúc. Mầm mống chia rẽ trong câu chuyện này chỉ là một sự tranh cãi về một điều Luật không quan trọng, từ sự xung đột cá nhân đã lan rộng đến tập thể và trở nên căng thẳng không những đưa đến ẩu đả giữa các tỳ khưu mà còn khiến cho đức Phật đã bỏ đi vào rừng sâu sống với sự phục vụ của voi và khỉ. Yếu tố đưa đến việc giải quyết sự chia rẽ này là hành động tẩy chay tích cực của các cư sĩ ở thành Kosambī, cuối cùng sự tranh tụng được giải quyết do sự phục thiện của vị tỳ khưu sai trái. Câu chuyện về hoàng tử Dīghāvu và nếp sống sinh hoạt của ba vị đại đức Anuruddha, Nandiya, Kimbila nhằm đề cao sự sống chung hòa ái và không thù hận lẫn nhau là yếu tố quan trọng cần được xây dựng và duy trì trong đời sống tập thể.
*
Bản dịch của chúng tôi được thực hiện và trình bày theo văn bản Pali La tinh từ Compact Disk BUDSIR IV của trường đại học Mahidol ở thủ đô Bangkok, Thái Lan. Phần mục lục chúng tôi thực hiện theo các chữ số đánh dấu ở đầu mỗi vấn đề; trình bày theo cách này sẽ giúp quý vị tiết kiệm được thời gian trong việc xác định vấn đề cần tham khảo.
Bản dịch này được hoàn thành là một sự nỗ lực học tập của bản thân. Chúng tôi cố ý ghi lại lời văn tiếng Việt rất gần với cấu trúc Pāli nhằm phục vụ các độc giả đang tiến hành nghiên cứu lời dạy của Đức Phật dựa vào văn bản gốc. Tài liệu này sẽ giảm bớt nỗi khó nhọc trong việc tra cứu từ điển đồng thời gợi ý cho quý vị phương thức giải quyết một số cấu trúc của câu văn Pāli. Các độc giả đã học xong phần văn phạm Pāli Sơ Cấp được khuyến khích nên đọc tài liệu này đối chiếu với văn bản gốc, tức là Vinayapiṭaka. Kiến thức về văn phạm Pāli của quý vị sẽ được trau giồi thêm mỗi khi đối diện vấn đề. Đối với quý độc giả phổ thông, hy vọng lời văn tiếng Việt tạm đủ phần trong sáng để giúp quý vị hiểu được vấn đề đang được trình bày. Xin quý vị lượng thứ về văn phong tiếng Việt vì việc đó nằm ngoài mục tiêu của chúng tôi. Ngưỡng mong sẽ nhận được những lời chỉ dạy của các bậc cao minh và các sự khuyến khích góp ý của quý độc giả. Xin quý vị email về: dinda@u.washington.edu
Động cơ chính cho việc thực hiện bản dịch Đại Phẩm – Mahāvagga này nhờ vào sự khuyến khích và góp ý của các vị: Ven. Khánh Hỷ, Ven. Giác Nguyên, Ven. Chánh Kiến, Đại đức Tiến sĩ Trí Quảng, Đại đức Tâm An, Sư cô Liễu Pháp, Dr. Bình Anson, đạo hữu Lương Xuân Lộc, bà Diệu Đài, gia đình Nguyễn Ngọc Vivian. Không có sự khích lệ của quý vị, bản dịch này không thể hoàn thành. Phước báu này hoàn toàn thuộc về các vị. Mong sao các ước nguyện của quý vị sẽ được thành tựu như ý và nhanh chóng y như việc chúng tôi đã hoàn tất bản dịch này.
Xin chân thành ghi nhận công đức của Thượng Tọa Tiến Sĩ Bửu Chánh về CD Tam Tạng BUDSIR IV, Ven. Bodhinando (Canada), Đại đức Hộ Phạm, Đại đức Giác Hạnh, và Sư cô Nguyên Hương về CD Tam Tạng Chaṭṭha Saṅgāyana và các bản dịch Anh ngữ, cũng như những sự động viên và ý kiến đóng góp trong thời gian chúng tôi thực hiện bản dịch này.
Công đức này xin dâng đến Hòa Thượng trụ trì và chư Tăng chùa Sri Jayawardhanaramaya, Colombo, Tích Lan đã bảo bọc và tạo điều kiện thuận lợi cho chúng tôi trong công việc học tập và nghiên cứu Phật Pháp trong thời gian qua.
Mong sao hết thảy chúng sanh đều được tấn hóa trong ánh hào quang của Chánh Pháp.
Colombo, ngày 27 tháng 10 năm 2003
Bhikkhu Indacanda(Trương đình Dũng)
(Hiệu đính lần thứ nhất hoàn tất ngày 05/09/2004)
ĐẠI PHẨM – TẬP I
I. CHƯƠNG TRỌNG YẾU (MAHĀKHANDHAKAṂ):
[1] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại Uruvelā bên bờ sông Nerañjarā (Ni Liên Thiền) nơi cội cây bồ đề và vừa mới hoàn toàn giác ngộ. Khi ấy, đức Thế Tôn đã ngồi với thế kiết già ở cội cây bồ đề trong bảy ngày, hưởng niềm an lạc của sự giải thoát.
Khi ấy vào canh một của đêm, đức Thế Tôn đã suy nghiệm về sự sanh khởi tùy thuận theo điều kiện(paṭiccasamuppāda) thuận chiều và nghịch chiều rằng: “Vô Minh duyên cho các Hành (sanh khởi), các Hành duyên cho Thức (sanh khởi), Thức duyên cho Danh Sắc (sanh khởi), Danh Sắc duyên cho Sáu Xứ (sanh khởi), Sáu Xứ duyên cho Xúc (sanh khởi), Xúc duyên cho Thọ (sanh khởi), Thọ duyên cho Ái (sanh khởi), Ái duyên cho Thủ (sanh khởi), Thủ duyên cho Hữu (sanh khởi), Hữu duyên cho Sanh (sanh khởi), Sanh duyên cho Lão, Tử, Sầu, Bi, Khổ, Ưu, Não sanh khởi; như thế là sự sanh khởi của toàn bộ khổ uẩn này. Nhưng chính do sự diệt tận của Vô Minh hoàn toàn không còn tham ái (đưa đến) sự diệt tận của các Hành, do sự diệt tận của các Hành (đưa đến) sự diệt tận của Thức, do sự diệt tận của Thức (đưa đến) sự diệt tận của Danh Sắc, do sự diệt tận của Danh Sắc (đưa đến) sự diệt tận của Sáu Xứ, do sự diệt tận của Sáu Xứ (đưa đến) sự diệt tận của Xúc, do sự diệt tận của Xúc (đưa đến) sự diệt tận của Thọ, do sự diệt tận của Thọ (đưa đến) sự diệt tận của Ái, do sự diệt tận của Ái (đưa đến) sự diệt tận của Thủ, do sự diệt tận của Thủ (đưa đến) sự diệt tận của Hữu, do sự diệt tận của Hữu khiến Lão, Tử, Sầu, Bi, Khổ, Ưu, Não bị diệt tận; như thế là sự diệt tận của toàn bộ khổ uẩn này.”
Sau đó, khi đã hiểu được ý nghĩa sự việc ấy, rồi chính vào lúc ấy đức Thế Tôn đã thốt lên lời cảm hứng này:
Quả vậy, vào thời điểm
các pháp hiện rõ ràng
đến vị bà-la-môn
tinh cần tu thiền định,
và vị ấy rũ sạch
tất cả điều nghi hoặc
từ đó thấu hiểu được
(mọi) việc có nguyên nhân.
[2] Sau đó vào canh giữa của đêm, đức Thế Tôn đã suy nghiệm về sự sanh khởi tùy thuận theo điều kiện thuận chiều và nghịch chiều rằng: “Vô Minh duyên cho các Hành (sanh khởi), các Hành duyên cho Thức (sanh khởi), Thức duyên cho Danh Sắc (sanh khởi), Danh Sắc duyên cho Sáu Xứ (sanh khởi), Sáu Xứ duyên cho Xúc (sanh khởi), Xúc duyên cho Thọ (sanh khởi), Thọ duyên cho Ái (sanh khởi), Ái duyên cho Thủ (sanh khởi), Thủ duyên cho Hữu (sanh khởi), Hữu duyên cho Sanh (sanh khởi), Sanh duyên cho Lão, Tử, Sầu, Bi, Khổ, Ưu, Não sanh khởi; như thế là sự sanh khởi của toàn bộ khổ uẩn này. Nhưng chính do sự diệt tận của Vô Minh hoàn toàn không còn tham ái (đưa đến) sự diệt tận của các Hành, do sự diệt tận của các Hành (đưa đến) sự diệt tận của Thức, do sự diệt tận của Thức (đưa đến) sự diệt tận của Danh Sắc, do sự diệt tận của Danh Sắc (đưa đến) sự diệt tận của Sáu Xứ, do sự diệt tận của Sáu Xứ (đưa đến) sự diệt tận của Xúc, do sự diệt tận của Xúc (đưa đến) sự diệt tận của Thọ, do sự diệt tận của Thọ (đưa đến) sự diệt tận của Ái, do sự diệt tận của Ái (đưa đến) sự diệt tận của Thủ, do sự diệt tận của Thủ (đưa đến) sự diệt tận của Hữu, do sự diệt tận của Hữu khiến Lão, Tử, Sầu, Bi, Khổ, Ưu, Não bị diệt tận; như thế là sự diệt tận của toàn bộ khổ uẩn này.”
Sau đó, khi đã hiểu được ý nghĩa sự việc ấy, rồi chính vào lúc ấy đức Thế Tôn đã thốt lên lời cảm hứng này:
Quả vậy, vào thời điểm
các pháp hiện rõ ràng
đến vị bà-la-môn
tinh cần tu thiền định,
rồi vị ấy rũ sạch
tất cả điều nghi hoặc
từ đó đã hiểu được
sự tiêu hoại các duyên.
[3] Sau đó vào canh cuối của đêm, đức Thế Tôn đã suy nghiệm về sự sanh khởi tùy thuận theo điều kiện thuận chiều và nghịch chiều rằng: “Vô Minh duyên cho các Hành (sanh khởi), các Hành duyên cho Thức (sanh khởi), Thức duyên cho Danh Sắc (sanh khởi), Danh Sắc duyên cho Sáu Xứ (sanh khởi), Sáu Xứ duyên cho Xúc (sanh khởi), Xúc duyên cho Thọ (sanh khởi), Thọ duyên cho Ái (sanh khởi), Ái duyên cho Thủ (sanh khởi), Thủ duyên cho Hữu (sanh khởi), Hữu duyên cho Sanh (sanh khởi), Sanh duyên cho Lão, Tử, Sầu, Bi, Khổ, Ưu, Não sanh khởi; như thế là sự sanh khởi của toàn bộ khổ uẩn này. Nhưng chính do sự diệt tận của Vô Minh hoàn toàn không còn tham ái (đưa đến) sự diệt tận của các Hành, do sự diệt tận của các Hành (đưa đến) sự diệt tận của Thức, do sự diệt tận của Thức (đưa đến) sự diệt tận của Danh Sắc, do sự diệt tận của Danh Sắc (đưa đến) sự diệt tận của Sáu Xứ, do sự diệt tận của Sáu Xứ (đưa đến) sự diệt tận của Xúc, do sự diệt tận của Xúc (đưa đến) sự diệt tận của Thọ, do sự diệt tận của Thọ (đưa đến) sự diệt tận của Ái, do sự diệt tận của Ái (đưa đến) sự diệt tận của Thủ, do sự diệt tận của Thủ (đưa đến) sự diệt tận của Hữu, do sự diệt tận của Hữu khiến Lão, Tử, Sầu, Bi, Khổ, Ưu, Não bị diệt tận; như thế là sự diệt tận của toàn bộ khổ uẩn này.”
Sau đó, khi đã hiểu được ý nghĩa sự việc ấy, rồi chính vào lúc ấy đức Thế Tôn đã thốt lên lời cảm hứng này:
Quả vậy, vào thời điểm
các pháp hiện rõ ràng
đến vị bà-la-môn
tinh cần tu thiền định,
tồn tại, tiêu diệt sạch
binh đội của Ma Vương
giống như ánh mặt trời
đang rọi sáng không gian.
Dứt phần nói về sự Giác Ngộ.
[4] Sau đó khi bảy ngày trôi qua, đức Thế Tôn đã xuất khỏi định ấy rồi từ cội cây Bồ Đề đã đi đến bên cội cây si của những người chăn dê, [1] sau khi đến đã ngồi xuống với thế kiết già ở gốc cây si của những người chăn dê trong bảy ngày, hưởng niềm an lạc của sự giải thoát.
Khi ấy, có vị bà-la-môn nọ thuộc nhóm chuyên luyện về âm “hum, hum” đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã tỏ vẻ thân thiện với đức Thế Tôn, sau khi trao đổi lời xã giao thân thiện rồi đã đứng ở một bên. Khi đã đứng một bên, vị bà-la-môn ấy đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Này ngài Gotama, (khả năng) đến đâu (mới gọi) là bà-la-môn? Việc trở thành bà-la-môn có bao nhiêu điều kiện?
Sau khi hiểu được ý nghĩa sự việc ấy, rồi chính vào lúc ấy đức Thế Tôn đã thốt lên lời cảm hứng này:
Vị bà-la-môn nào
ác pháp đã ngăn trừ
vị thoát điều ô nhiễm
không làm tiếng “hum hum,”
bản thân đã thu thúc
thông thạo bộ Vệ Đà
sống theo đời Phạm hạnh,
đúng pháp, vị ấy thuyết
lời nói của Phạm Thiên,
không gì trong thế giới
vượt qua được vị ấy.
Dứt phần nói về cội cây si của những người chăn dê.
[5] Sau đó khi bảy ngày trôi qua, đức Thế Tôn đã xuất khỏi định ấy rồi từ gốc cây si của những người chăn dê đã đi đến cội cây Mucalinda, sau khi đến đã ngồi xuống với thế kiết già ở gốc cây Mucalinda trong bảy ngày, hưởng niềm an lạc của sự giải thoát.
Vào lúc bấy giờ, có đám mây đen lớn sái mùa xuất hiện. Trong bảy ngày, trời mưa có gió lạnh và đầy mây. Khi ấy, rồng chúa Mucalinda đã rời khỏi chỗ ngụ của mình dùng đuôi quấn quanh cơ thể của đức Thế Tôn bảy vòng và phồng lớn mang (che) phía trên đầu của đức Thế Tôn rồi giữ nguyên tư thế (nghĩ rằng): “Chớ để đức Thế Tôn bị lạnh, chớ để đức Thế Tôn bị nóng, chớ để đức Thế Tôn bị xúc chạm bởi ruồi, muỗi, gió, nắng, và các loài bò sát.” Sau đó khi bảy ngày trôi qua, rồng chúa Mucalinda sau khi biết rằng bầu trời đã trở nên trong sáng và mây đã tan nên đã nới lỏng thân khỏi cơ thể của đức Thế Tôn, rồi thay đổi hình dạng của chính bản thân và biến thành hình dạng của người thanh niên đứng ở phía trước đức Thế Tôn, chắp tay, bày tỏ thái độ cung kính đến đức Thế Tôn.
Sau khi đã hiểu được ý nghĩa sự việc ấy, rồi chính vào lúc ấy đức Thế Tôn đã thốt lên lời cảm hứng này:
Vị có được an lạc,
(sống) cách ly, hoan hỷ,
vị ấy đã thấy được
Pháp đã được lắng nghe,
vị ấy đã thu thúc
việc hại mạng chúng sanh
và lạc thú cuộc đời.
Việc dứt được ái tình
là an lạc trên đời,
vượt lên trên các dục,
và bỏ rơi tự ngã
ấy an lạc tối thượng.
Dứt phần nói về cội cây Mucalinda.
[6] Sau đó khi bảy ngày trôi qua, đức Thế Tôn đã xuất khỏi định ấy rồi từ gốc cây Mucalinda đã đi đến cội cây Rājāyatana, sau khi đến đã ngồi xuống với thế kiết già ở gốc cây Rājāyatana trong bảy ngày, hưởng niềm an lạc của sự giải thoát.
Vào lúc bấy giờ, có các thương buôn Tapussa và Bhallika đang đi đường xa đến khu vực ấy. Khi ấy, vị thiên thần là thân quyến cùng huyết thống của các thương buôn Tapussa và Bhallika đã nói với các thương buôn Tapussa và Bhallika điều này:
– Này các bác, đức Thế Tôn này đang ngự ở gốc cây Rājāyatana là vị vừa mới hoàn toàn giác ngộ. Hãy đi và bày tỏ lòng thành kính đến đức Thế Tôn ấy với bánh bột gạo và mật viên, điều ấy sẽ đem lại cho các bác sự lợi ích và sự an vui lâu dài.
Khi ấy, các thương buôn Tapussa và Bhallika đã mang theo bánh bột gạo và mật viên đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi đứng ở một bên. Khi đã đứng một bên, các thương buôn Tapussa và Bhallika đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, xin đức Thế Tôn hãy thọ lãnh bánh bột gạo và mật viên của chúng tôi, điều ấy sẽ đem lại cho chúng tôi sự lợi ích và sự an vui lâu dài.
Khi ấy, đức Thế Tôn đã khởi ý điều này: “Các đức Như Lai không thọ nhận ở trong (hai) tay, vậy ta nên thọ lãnh bánh bột gạo và mật viên bằng vật gì?” Khi ấy, bốn vị Đại Thiên Vương dùng tâm biết được ý nghĩ suy tầm của đức Thế Tôn nên đã dâng lên đức Thế Tôn bốn cái bình bát làm bằng đá từ ở bốn phương (nói rằng):
– Bạch ngài, xin đức Thế Tôn hãy thọ lãnh bánh bột gạo và mật viên ở đây.
Đức Thế Tôn đã thọ lãnh bánh bột gạo và mật viên trong bình bát mới[2] làm bằng đá, và sau khi thọ lãnh đã thọ dụng.
Sau đó, các thương buôn Tapussa và Bhallika đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, chúng con đây xin quy y đức Thế Tôn và Giáo Pháp. Xin đức Thế Tôn chấp nhận chúng con là các nam cư sĩ đã được quy y kể từ hôm nay cho đến trọn đời.
Và họ đã trở thành những nam cư sĩ chỉ đọc hai câu (dvevācikā)[3] đầu tiên ở thế gian.
Dứt phần nói về cội cây Rājāyatana.
[7] Sau đó khi bảy ngày trôi qua, đức Thế Tôn đã xuất khỏi định ấy rồi từ gốc cây Rājāyatana đã đi đến bên cội cây si của những người chăn dê. Ở nơi ấy, đức Thế Tôn ngụ tại gốc cây si của những người chăn dê.
Sau đó, trong khi đức Thế Tôn đang thiền tịnh ở nơi thanh vắng, có ý nghĩ suy tầm như vầy đã sanh khởi: “Pháp này đã được ta chứng ngộ là (Pháp) thâm sâu, khó lĩnh hội, khó nhận thức, thanh tịnh, cao quý, vượt trên lý luận, tinh tế, nên được hiểu biết bởi các bậc trí. Hơn nữa, chúng sanh đời này có sự thỏa thích trong ngũ dục, được thỏa thích trong ngũ dục, được vui sướng trong ngũ dục, đối với chúng sanh có sự thỏa thích trong ngũ dục, được thỏa thích trong ngũ dục, được vui sướng trong ngũ dục thì vấn đề này khó lĩnh hội tức là quy luật nhân quả và sự sanh khởi tùy thuận theo điều kiện (idappaccayatāpaṭiccasamuppāda); có vấn đề này còn khó lĩnh hội hơn nữa tức là sự yên lặng của tất cả các Hành (sabbasaṅkhāra), sự dứt bỏ tất cả gốc rễ của sự tái sanh (sabbūpadhi), sự diệt tận ái (taṇhā), sự không còn dục tình (virāgo), sự tịch diệt, Niết Bàn. Nếu ta thuyết giảng Pháp và những người khác không hiểu được ta, điều ấy sẽ đem lại cho ta sự mệt mỏi và sự phiền toái.” Rồi những lời kệ kỳ diệu này chưa từng được nghe trước đây trong thời quá khứ đã hiện khởi đến đức Thế Tôn:
Khó khăn ta chứng ngộ
nay thuyết giảng, thôi đi!
Bởi những kẻ chìm đắm
trong ái dục, sân hận
không ngộ được Pháp này
Pháp đi ngược giòng (đời),
tinh tế, và thâm sâu,
khó lĩnh hội, vi diệu,
những kẻ mê ái dục
lắm si mê bao phủ
không thể nào lĩnh hội.
Trong khi đắn đo cân nhắc như thế ấy, tâm của đức Thế Tôn thiên về (khuynh hướng) không ra sức nỗ lực và không thuyết giảng Giáo Pháp.
[8] Khi ấy, vị Phạm thiên Sahampati dùng tâm biết được ý nghĩ suy tầm của đức Thế Tôn nên đã khởi ý điều này: “Như thế này thì thế gian bị tiêu diệt! Như thế này thì thế gian bị hủy hoại! Bởi vì tâm của đức Như Lai, bậc A-la-hán, đấng Chánh Biến Tri thiên về (khuynh hướng) không ra sức nỗ lực và không thuyết giảng Giáo Pháp.” Sau đó, cũng giống như người đàn ông có sức mạnh có thể duỗi ra cánh tay đã được co lại hoặc có thể co lại cánh tay đã được duỗi ra, tương tợ như thế vị Phạm thiên Sahampati đã biến mất ở cõi Phạm thiên và hiện ra ở phía trước đức Thế Tôn. Khi ấy, vị Phạm thiên Sahampati đã đắp thượng y một bên vai, quỳ đầu gối bên phải trên mặt đất, rồi chắp tay hướng về đức Thế Tôn và đã nói điều này:
– Bạch ngài, xin đức Thế Tôn hãy thuyết giảng Giáo Pháp, xin đấng Thiện Thệ hãy thuyết giảng Giáo Pháp. Có những hạng người sanh lên bị ít ô nhiễm[4] sẽ là những người hiểu được Giáo Pháp, (nhưng) do việc không nghe Giáo Pháp sẽ bị thoái hóa.
Phạm thiên Sahampati đã nói điều ấy, sau khi nói điều ấy còn nói thêm điều khác nữa:
Đã xuất hiện trước đây
trong xứ Ma Kiệt Đà
pháp không được thanh tịnh
đã được suy nghiệm ra
bởi những người ô nhiễm.
Cửa bất tử mở ra
hãy lắng nghe Giáo Pháp
bậc vô nhiễm chứng ngộ.
Như người đứng ở trên
đỉnh đầu hòn núi đá
nhìn quanh xem nhân loại,
cũng thế hỡi bậc trí,
hãy bước lên lầu đài
được xây bằng Giáo Pháp.
Hỡi bậc thông hiểu rộng,
vị thoát khỏi buồn đau
nhìn xuống xem nhân loại
đắm chìm trong sầu khổ,
bị sanh, già hành hạ.
Hỡi người thắng chiến trận,
người hùng, hãy đứng lên,
người hướng dẫn đoàn xe
không bị vướng nợ nần,
hãy đi khắp thế gian.
Xin đức Thế Tôn hãy thuyết giảng Giáo Pháp, sẽ có nhiều người hiểu được.
[5](Khi được nói như thế, đức Thế Tôn đã nói với Phạm thiên Sahampati điều này:
– Này Phạm thiên, ta đã khởi ý điều này: “Pháp này đã dược ta chứng ngộ là (Pháp) thâm sâu, …(như trên)… sẽ đem lại cho ta sự mệt mỏi và sự phiền toái.” Này Phạm thiên, rồi những lời kệ kỳ diệu này chưa từng được nghe trước đây trong thời quá khứ đã hiện khởi đến ta: “Khó khăn ta chứng ngộ …(như trên)… không thể nào lĩnh hội.” Này Phạm thiên, trong khi đắn đo cân nhắc như thế ấy tâm ta thiên về (khuynh hướng) không ra sức nỗ lực và không thuyết giảng Giáo Pháp.
Đến lần thứ nhì, Phạm thiên Sahampati đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, xin đức Thế Tôn hãy thuyết giảng Giáo Pháp, …(như trên)… sẽ có nhiều người hiểu được.
Đến lần thứ nhì, đức Thế Tôn đã nói với Phạm thiên Sahampati điều này:
– Này Phạm thiên, ta đã khởi ý điều này: “Pháp này đã dược ta chứng ngộ là (Pháp) thâm sâu, …(như trên)… sẽ đem lại cho ta sự mệt mỏi và sự phiền toái.” Này Phạm thiên, rồi những lời kệ kỳ diệu này chưa từng được nghe trước đây trong thời quá khứ đã hiện khởi đến ta: “Khó khăn ta chứng ngộ …(như trên)… không thể nào lĩnh hội.” Này Phạm thiên, trong khi đắn đo cân nhắc như thế ấy tâm ta thiên về (khuynh hướng) không ra sức nỗ lực và không thuyết giảng Giáo Pháp.
Đến lần thứ ba, Phạm thiên Sahampati đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, xin đức Thế Tôn hãy thuyết giảng Giáo Pháp, …(như trên)… sẽ có nhiều người hiểu được.)
[9] Khi ấy, sau khi hiểu được yêu cầu của vị Phạm thiên, đức Thế Tôn thuận theo lòng thương tưởng chúng sanh đã dùng Phật nhãn quán xét thế gian. Trong khi dùng Phật nhãn quán xét thế gian, đức Thế Tôn đã nhìn thấy những chúng sanh bị ít ô nhiễm và bị nhiều ô nhiễm, có giác quan sắc sảo và có giác quan cùn lụt, có tánh khí tốt và có tánh khí tồi, có thể hiểu được một cách nhanh chóng và có thể hiểu được một cách khó khăn, (và nhìn thấy được) một số ít chúng sanh trong khi sống thấy được sự tội lỗi và sợ hãi trong sự (tái sanh) vào những đời sống khác. Cũng giống như trong hồ sen xanh hoặc trong hồ sen hồng hoặc trong hồ sen trắng, có một số sen xanh, hoặc sen hồng, hoặc sen trắng được sanh ra ở trong nước, được sanh trưởng ở trong nước, không vươn ra khỏi nước, và được nuôi dưỡng chìm bên dưới (mặt nước); có một số sen xanh, hoặc sen hồng, hoặc sen trắng được sanh ra ở trong nước, được sanh trưởng ở trong nước, sống ngang bằng mặt nước; và có một số sen xanh, hoặc sen hồng, hoặc sen trắng được sanh ra ở trong nước, được sanh trưởng ở trong nước, vươn lên ra khỏi nước, và tồn tại không bị thấm nước; tương tợ như thế, đức Thế Tôn trong khi dùng Phật nhãn quán xét thế gian đã nhìn thấy những chúng sanh bị ít ô nhiễm và bị nhiều ô nhiễm, có giác quan sắc sảo và có giác quan cùn lụt, có tánh khí tốt và có tánh khí tồi, có thể hiểu được một cách nhanh chóng và có thể hiểu được một cách khó khăn, (và nhìn thấy được) một số ít chúng sanh trong khi sống thấy được sự tội lỗi và sợ hãi trong sự (tái sanh) vào những đời sống khác; sau khi nhìn thấy, đức Thế Tôn đã nói với vị Phạm thiên Sahampati bằng bài kệ này:
Nghĩ về việc tổn hại,
này Phạm thiên, ta đã
không thuyết cho nhân loại
Pháp chứng ngộ cao thượng.
Các cánh cửa bất tử
(nay) đã được mở ra,
cho những người có tai
hãy bỏ đi tà tín.
Khi ấy, vị Phạm thiên Sahampati (nghĩ rằng): “Yêu cầu của ta về việc thuyết giảng Giáo Pháp đã được đức Thế Tôn chấp thuận” nên đã đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, và đã biến mất ngay tại chỗ ấy.
Dứt phần nói về việc thỉnh cầu của vị Phạm thiên.
[10] Sau đó, đức Thế tôn đã khởi ý điều này: “Ta nên thuyết giảng Giáo Pháp đến ai trước tiên? Ai sẽ hiểu được Giáo Pháp này một cách thật nhanh chóng?” Khi ấy, đức Thế tôn đã khởi ý điều này: “Vị Āḷāra Kālāma này là vị thông thái, kinh nghiệm, sáng suốt, đã lâu nay bản thể bị ít ô nhiễm, hay là ta nên nên thuyết giảng Giáo Pháp đến Āḷāra Kālāma trước tiên? Vị ấy sẽ hiểu được Giáo Pháp này một cách thật nhanh chóng.” Khi ấy, có vị thiên thần không hiện hình đã thông báo đến đức Thế Tôn rằng:
– Bạch ngài, vị Āḷāra Kālāma đã từ trần được bảy ngày rồi.
Và trí tuệ của đức Thế Tôn cũng đã khởi lên rằng: “Vị Āḷāra Kālāma đã từ trần được bảy ngày rồi.” Khi ấy, đức Thế tôn đã khởi ý điều này: “Vị Āḷāra Kālāma thuộc hạng người cao cả, bởi vì nếu nghe được Giáo Pháp này vị ấy có thể hiểu được một cách thật nhanh chóng.”
Sau đó, đức Thế tôn đã khởi ý điều này: “Ta nên thuyết giảng Giáo Pháp đến ai trước tiên? Ai sẽ hiểu được Giáo Pháp này một cách thật nhanh chóng?” Khi ấy, đức Thế tôn đã khởi ý điều này: “Vị Uddaka Rāmaputta này là vị thông thái, kinh nghiệm, sáng suốt, đã lâu nay bản thể bị ít ô nhiễm, hay là ta nên nên thuyết giảng Giáo Pháp đến Uddaka Rāmaputta trước tiên? Vị ấy sẽ hiểu được Giáo Pháp này một cách thật nhanh chóng.” Khi ấy, có vị thiên thần không hiện hình đã thông báo đến đức Thế Tôn rằng:
– Bạch ngài, vị Uddaka Rāmaputta đã từ trần vào đêm qua.
Và trí tuệ của đức Thế Tôn cũng đã khởi lên rằng: “Vị Uddaka Rāmaputta đã từ trần vào đêm qua.” Khi ấy, đức Thế tôn đã khởi ý điều này: “Vị Uddaka Rāmaputta thuộc hạng người cao cả, bởi vì nếu nghe được Giáo Pháp này vị ấy có thể hiểu được một cách thật nhanh chóng.”
Sau đó, đức Thế tôn đã khởi ý điều này: “Ta nên thuyết giảng Giáo Pháp đến ai trước tiên? Ai sẽ hiểu được Giáo Pháp này một cách thật nhanh chóng?” Khi ấy, đức Thế tôn đã khởi ý điều này: “Các tỳ khưu nhóm năm vị có nhiều công đức đối với ta, các vị này đã phục vụ ta trong khi bản thân ta nỗ lực tinh tấn,[6] hay là ta nên nên thuyết giảng Giáo Pháp đến các tỳ khưu nhóm năm vị trước tiên?” Khi ấy, đức Thế Tôn đã khởi ý điều này: “Giờ đây, các tỳ khưu nhóm năm vị này trú ngụ ở nơi nào?” Với thiên nhãn thanh tịnh vượt trội loài người, đức Thế Tôn đã nhìn thấy các tỳ khưu nhóm năm vị đang trú ngụ tại thành Bārāṇasī (Ba La Nại), ở Isipatana, nơi vườn nai. Sau đó, khi đã ngự tại Uruvelā theo như ý thích, đức Thế Tôn đã ra đi du hành về phía thành Bārāṇasī.
[11] Đạo sĩ lõa thể Upaka đã nhìn thấy đức Thế Tôn đang đi bộ đường xa ở khoảng giữa Gayā và cội bồ đề, sau khi nhìn thấy đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Này đạo hữu (āvuso), các giác quan của đạo hữu được trầm tĩnh, màu da được thanh tịnh và trong sáng. Này đạo hữu, nhờ ai mà đạo hữu đã xuất gia? Ai là thầy của đạo hữu? Đạo hữu hoan hỷ với pháp của vị nào?
Khi được nói như thế, đức Thế Tôn đã nói với đạo sĩ lõa thể Upaka bằng những lời kệ này:
Ta vượt trên tất cả
hiểu biết được toàn bộ,
không còn bị vướng mắc
trong tất cả các Pháp,
đã đoạn tận tất cả,
ái diệt, đã giải thoát,
do tự mình chứng đắc
còn ai dạy được ta?
Không có ai thầy ta,
bằng ta, tìm chẳng thấy,
trong thế giới người trời
bằng được ta, không ai.
Vì ta bậc Ứng Cúng
Vô Thượng Sư đời này
là bậc Chánh Đẳng Giác
ta tịch lặng Niết Bàn.
Ta đi thành Kāsī
vận hành bánh xe Pháp
đánh tiếng trống bất tử
trong thế gian người mù.
– Này đạo hữu, theo như đạo hữu cho biết thì đạo hữu xứng đáng là vị Jina (Chiến Thắng) vô biên.
(Đức Phật đáp lại rằng):
– Này Upaka,
các Jina giống ta,
các vị đạt lậu tận,
chiến thắng các ác pháp,
vậy ta là Jina.
Khi được nói như thế, đạo sĩ lõa thể Upaka đã nói rằng:
– Này đạo hữu, có thể là như vậy. Rồi đã gục gặc cái đầu, rẽ sang con đường khác, và bỏ đi.
[12] Sau đó, trong khi tuần tự du hành đức Thế Tôn đã ngự đến thành Bārāṇasī, Isipatana, nơi vườn nai và đã đi đến gặp các tỳ khưu nhóm năm vị. Các tỳ khưu nhóm năm vị đã nhìn thấy đức Thế Tôn từ đàng xa đang đi lại, sau khi nhìn thấy các vị đã bàn bạc với nhau rằng:
– Này các vị, Sa-môn Gotama ấy đang đi đến. Ông ta là kẻ lợi dưỡng, đã bỏ dở dang việc nỗ lực và quay trở lại cuộc sống sung túc. Ông ta không đáng để đảnh lễ, không đáng để đứng dậy chào, y bát của ông ta không đáng để đón nhận, và chỗ ngồi cũng không cần đặt thêm, nếu ông ta muốn thì ông ta cứ việc ngồi.
Nhưng khi đức Thế Tôn càng đi đến gần thì các tỳ khưu nhóm năm vị ấy không còn tuân theo điều bàn bạc của họ nữa và đã đi ra tiếp đón đức Thế Tôn, một vị đã nhận lấy y bát của đức Thế Tôn, một vị đã sắp đặt chỗ ngồi, một vị đã đem lại nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân. Đức Thế Tôn đã ngồi xuống trên chỗ ngồi được sắp đặt sẵn. Sau khi ngồi xuống, đức Thế Tôn đã rửa hai chân. Tuy nhiên, các vị vẫn xưng hô với đức Thế Tôn bằng tên và bằng tiếng gọi “Đạo hữu” (āvuso). Khi được xưng hô như thế, đức Thế Tôn đã nói với các tỳ khưu nhóm năm vị điều này:
– Này các tỳ khưu, chớ có xưng hô với đức Như Lai bằng tên và bằng tiếng gọi “Đạo hữu.” Này các tỳ khưu, đức Như Lai là vị A-la-hán Chánh Đẳng Giác. Này các tỳ khưu, hãy lắng tai nghe, ta sẽ chỉ dạy pháp Bất Tử đã đạt được, ta sẽ thuyết giảng Giáo Pháp. Trong khi thực hành theo như đã được chỉ dạy thì chẳng bao lâu sau ngay trong kiếp hiện tại này, các vị nhờ vào thắng trí sẽ tự mình thực chứng, đạt đến, và an trú vào điểm tối thượng ấy là đích cuối cùng của Phạm hạnh, vì mục đích này mà những người con trai của các gia đình cao quý rời nhà xuất gia một cách chân chánh sống không nhà.
Khi được nói như thế, các tỳ khưu nhóm năm vị đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Này đạo hữu Gotama, bằng hạnh kiểm ấy, bằng sự thực hành ấy, bằng việc theo đuổi khổ hạnh ấy còn không đạt đến pháp thượng nhân và sự siêu việt của tri kiến xứng đáng với bậc thánh, còn giờ đây là kẻ lợi dưỡng, đã bỏ dở dang việc nỗ lực, và quay trở lại cuộc sống sung túc, làm thế nào đạo hữư lại đạt đến pháp thượng nhân và sự siêu việt của tri kiến xứng đáng với bậc thánh?
Khi được nói như thế, đức Thế Tôn đã nói với các tỳ khưu nhóm năm vị điều này:
– Này các tỳ khưu, đức Như Lai không phải là kẻ lợi dưỡng, không bỏ dở dang việc nỗ lực, và không quay trở lại cuộc sống sung túc. Này các tỳ khưu, đức Như Lai là vị A-la-hán Chánh Đẳng Giác. Này các tỳ khưu, hãy lắng tai nghe, ta sẽ chỉ dạy pháp Bất Tử đã đạt được, ta sẽ thuyết giảng Giáo Pháp. Trong khi thực hành theo như đã được chỉ dạy thì chẳng bao lâu sau ngay trong kiếp hiện tại này, các vị nhờ vào thắng trí sẽ tự mình thực chứng, đạt đến, và an trú vào điểm tối thượng ấy là đích cuối cùng của Phạm hạnh, vì mục đích này mà những người con trai của các gia đình cao quý rời nhà xuất gia một cách chân chánh sống không nhà.
Đến lần thứ nhì, các tỳ khưu nhóm năm vị đã nói với đức Thế Tôn điều này:
…(như trên)…
Đến lần thứ nhì, đức Thế Tôn đã nói với các tỳ khưu nhóm năm vị điều này:
…(như trên)…
Đến lần thứ ba, các tỳ khưu nhóm năm vị đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Này đạo hữu Gotama, bằng hạnh kiểm ấy, bằng sự thực hành ấy, bằng việc theo đuổi khổ hạnh ấy còn không đạt đến pháp thượng nhân và sự siêu việt của tri kiến xứng đáng với bậc thánh, còn giờ đây là kẻ lợi dưỡng, đã bỏ dở dang việc nỗ lực, và quay trở lại cuộc sống sung túc, làm thế nào đạo hữư lại đạt đến pháp thượng nhân và sự siêu việt của tri kiến xứng đáng với bậc thánh?
Khi được nói như thế, đức Thế Tôn đã nói với các tỳ khưu nhóm năm vị rằng:
– Này các tỳ khưu, các vị có nhận ra rằng điều này đã không được ta nói ra trước đây hay không?
– Bạch ngài, điều này không có (được nói).
– Này các tỳ khưu, đức Như Lai là vị A-la-hán Chánh Đẳng Giác. Này các tỳ khưu, hãy lắng tai nghe, ta sẽ chỉ dạy pháp Bất Tử đã đạt được, ta sẽ thuyết giảng Giáo Pháp. Trong khi thực hành theo như đã được chỉ dạy thì chẳng bao lâu sau ngay trong kiếp hiện tại này, các vị nhờ vào thắng trí sẽ tự mình thực chứng, đạt đến, và an trú vào điểm tối thượng ấy là đích cuối cùng của Phạm hạnh, vì mục đích này mà những người con trai của các gia đình cao quý rời nhà xuất gia một cách chân chánh sống không nhà.
Đức Thế Tôn đã có thể thuyết phục các tỳ khưu nhóm năm vị. Sau đó, các tỳ khưu nhóm năm vị đã lắng nghe, đã lắng tai, đã phục vụ bằng tâm ý khác.
[13] Khi ấy, đức Thế Tôn đã bảo các tỳ khưu nhóm năm vị rằng:
– Này các tỳ khưu, đây là hai cực đoan mà bậc xuất gia không nên thực hành: Đây là sự say đắm về dục lạc trong các dục, kém cỏi, thô thiển, tầm thường, không cao thượng, không đem lại lợi ích, và đây là sự gắn bó với việc hành hạ bản thân, đau khổ, không cao thượng, không đem lại lợi ích. Này các tỳ khưu, sau khi không tiếp cận cả hai cực đoan ấy, lối thực hành trung hòa đã được đức Như lai tự mình giác ngộ khiến cho mắt được thấy, khiến cho trí được sáng, dẫn đến tịch tịnh, thắng trí, hoàn toàn giác ngộ, Niết Bàn. Này các tỳ khưu, lối thực hành trung hòa ấy đã được đức Như lai tự mình giác ngộ khiến cho mắt được thấy, khiến cho trí được sáng, dẫn đến tịch tịnh, thắng trí, hoàn toàn giác ngộ, Niết Bàn là thế nào? Đó chính là Thánh Đạo Tám Chi Phần tức là sự hiểu biết chân chánh, suy nghĩ chân chánh, nói lời chân chánh, nghề nghiệp chân chánh, nuôi mạng chân chánh, tinh tấn chân chánh, ghi nhớ chân chánh, định tâm chân chánh.[7] Này các tỳ khưu, lối thực hành trung hòa ấy đã được đức Như lai tự mình giác ngộ khiến cho mắt được thấy, khiến cho trí được sáng, dẫn đến tịch tịnh, thắng trí, hoàn toàn giác ngộ, Niết Bàn.
[14] Này các tỳ khưu, đây là Chân Lý Cao Thượng tức là sự Khổ: Sanh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, sự gắn bó với những gì không ưa thích là khổ, sự chia lìa với những gì ưa thích là khổ, không đạt được điều ước muốn là khổ, một cách tóm tắt năm thủ uẩn là khổ.
Này các tỳ khưu, đây là Chân Lý Cao Thượng tức là Nguyên Nhân của Khổ. Điều ấy chính là Ái đưa đến tái sanh, liên kết với khoái lạc và say đắm, có sự thỏa thích ở nơi này nơi khác tức là: Dục Ái, Hữu Ái, Phi Hữu Ái.
Này các tỳ khưu, đây là Chân Lý Cao Thượng tức là sự Diệt Khổ. Điều ấy là sự dứt bỏ, sự dứt ra khỏi, sự giải thoát, sự không còn chỗ nương tựa, sự diệt tận và dứt bỏ lòng say đắm không còn dư sót của chính Ái ấy.
Này các tỳ khưu, đây là Chân Lý Cao Thượng tức là sự Thực Hành theo Con Đường đưa đến sự Diệt Khổ. Đó chính là Thánh Đạo Tám Chi Phần tức là sự hiểu biết chân chánh, …(như trên)…, định tâm chân chánh.
[15] Này các tỳ khưu, ta có được (Pháp) nhãn đã sanh khởi, trí đã sanh khởi, tuệ đã sanh khởi, minh đã sanh khởi, ánh sáng đã sanh khởi đối với các Pháp trước đây chưa từng được nghe: “Đây là Chân Lý Cao Thượng tức là sự Khổ.” Này các tỳ khưu, ta có được …(như trên)… “Đây là Chân Lý Cao Thượng tức là sự Khổ cần được hiểu rõ.” Này các tỳ khưu, ta có được (Pháp) nhãn đã sanh khởi, trí đã sanh khởi, tuệ đã sanh khởi, minh đã sanh khởi, ánh sáng đã sanh khởi đối với các Pháp trước đây chưa từng được nghe: “Đây là Chân Lý Cao Thượng tức là sự Khổ đã được hiểu rõ.”
Này các tỳ khưu, ta có được (Pháp) nhãn đã sanh khởi, trí đã sanh khởi, tuệ đã sanh khởi, minh đã sanh khởi, ánh sáng đã sanh khởi đối với các Pháp trước đây chưa từng được nghe: “Đây là Chân Lý Cao Thượng tức là Nguyên Nhân của Khổ.” Này các tỳ khưu, ta có được …(như trên)… “Đây là Chân Lý Cao Thượng tức là Nguyên Nhân của Khổ cần được dứt bỏ.” Này các tỳ khưu, ta có được (Pháp) nhãn đã sanh khởi, trí đã sanh khởi, tuệ đã sanh khởi, minh đã sanh khởi, ánh sáng đã sanh khởi đối với các Pháp trước đây chưa từng được nghe: “Đây là Chân Lý Cao Thượng tức là Nguyên Nhân của Khổ đã được dứt bỏ.”
Này các tỳ khưu, ta có được (Pháp) nhãn đã sanh khởi, trí đã sanh khởi, tuệ đã sanh khởi, minh đã sanh khởi, ánh sáng đã sanh khởi đối với các Pháp trước đây chưa từng được nghe: “Đây là Chân Lý Cao Thượng tức là sự Diệt Khổ.” Này các tỳ khưu, ta có được …(như trên)… “Đây là Chân Lý Cao Thượng tức là sự Diệt Khổ cần được chứng ngộ.” Này các tỳ khưu, ta có được (Pháp) nhãn đã sanh khởi, trí đã sanh khởi, tuệ đã sanh khởi, minh đã sanh khởi, ánh sáng đã sanh khởi đối với các Pháp trước đây chưa từng được nghe: “Đây là Chân Lý Cao Thượng tức là sự Diệt Khổ đã được chứng ngộ.”
Này các tỳ khưu, ta có được (Pháp) nhãn đã sanh khởi, trí đã sanh khởi, tuệ đã sanh khởi, minh đã sanh khởi, ánh sáng đã sanh khởi đối với các Pháp trước đây chưa từng được nghe: “Đây là Chân Lý Cao Thượng tức là sự Thực Hành theo Con Đường đưa đến sự Diệt Khổ.” Này các tỳ khưu, ta có được …(như trên)… “Đây là Chân Lý Cao Thượng tức là sự Thực Hành theo Con Đường đưa đến sự Diệt Khổ cần được tu tập.” Này các tỳ khưu, ta có được (Pháp) nhãn đã sanh khởi, trí đã sanh khởi, tuệ đã sanh khởi, minh đã sanh khởi, ánh sáng đã sanh khởi đối với các Pháp trước đây chưa từng được nghe: “Đây là Chân Lý Cao Thượng tức là sự Thực Hành theo Con Đường đưa đến sự Diệt Khổ đã được tu tập.”
[16] Này các tỳ khưu, và cho đến khi nào tri kiến thấy đúng thực chất của ta về ba Luân (ba vòng xoay tròn) và mười hai Thể (tính chất) trong Bốn Chân Lý Cao Thượng này chưa được thực sự thanh tịnh; này các tỳ khưu, cho đến khi ấy ta chưa công bố về sự tối thượng Chánh Đẳng Giác: “Ta đã hoàn toàn giác ngộ” ở trong thế gian tính luôn cõi của chư thiên, cõi Ma Vương, cõi Phạm thiên, cho đến dòng dõi sa-môn, bà-la-môn, các hạng chư thiên và loài người. Và này các tỳ khưu, bởi vì tri kiến thấy đúng thực chất của ta về ba Luân và mười hai Thể trong Bốn Chân Lý Cao Thượng này đã được thực sự thanh tịnh; này các tỳ khưu, khi ấy ta đã công bố về sự tối thượng Chánh Đẳng Giác: “Ta đã hoàn toàn giác ngộ” ở trong thế gian tính luôn cõi của chư thiên, cõi Ma Vương, cõi Phạm thiên, cho đến dòng dõi sa-môn, bà-la-môn, các hạng chư thiên và loài người. Hơn nữa, trí tuệ và sự thấy biết của ta đã sanh khởi: “Sự giải thoát của ta không thể thay đổi, đây là lần sanh cuối cùng, từ nay không có việc tái sanh nữa.”
Trong khi bài kinh này được thuyết giảng, Pháp nhãn không nhiễm bụi trần, không vết nhơ đã sanh khởi đến đại đức Koṇḍañña: “Điều gì có bản tánh được sanh lên, toàn bộ điều ấy đều có bản tánh hoại diệt.”
[17] Khi bánh xe Pháp được chuyển vận bởi đức Thế Tôn, chư thiên ở địa cầu đã đồn đãi lời rằng: “Bánh xe Pháp tối thượng ấy đã được đức Thế Tôn chuyển vận ở Bārāṇasī, tại Isipatana, nơi vườn nai không thể bị chuyển vận nghịch lại bởi sa-môn, bà-la-môn, Thiên nhân, Ma Vương, Phạm thiên, hoặc bất cứ ai ở trên đời.” Sau khi nghe được tiếng đồn của chư thiên ở địa cầu, chư thiên ở cõi Tứ Đại Thiên Vương đã đồn đãi lời rằng: …(như trên)… Sau khi nghe được tiếng đồn của chư thiên ở cõi Tứ Đại Thiên Vương, chư thiên ở cõi Đạo Lợi đã đồn đãi lời rằng: …(như trên)… chư thiên ở cõi Dạ Ma …(như trên)… chư thiên ở cõi Đẩu Suất …(như trên)… chư thiên ở cõi Hóa Lạc Thiên …(như trên)… chư thiên ở cõi Tha Hóa Tự Tại …(như trên)… chư thiên thuộc hàng Phạm thiên đã đồn đãi lời rằng: “Bánh xe Pháp tối thượng ấy đã được đức Thế Tôn chuyển vận ở Bārāṇasī, tại Isipatana, nơi vườn nai không thể bị chuyển vận nghịch lại bởi sa-môn, bà-la-môn, thiên nhân, Ma Vương, Phạm thiên, hoặc bất cứ ai ở trên đời.” Vào thời khắc ấy, vào giây phút ấy, lời đồn đãi ấy đã đi đến các cõi trời Phạm thiên. Và mười ngàn thế giới này đã bị lay chuyển, rung động, chấn động. Và ánh sáng tuyệt vời không thể đo lường đã hiện ra ở thế gian, vượt quá hào quang siêu phàm của chư thiên.
Khi ấy, đức Thế Tôn đã thốt lên lời cảm hứng rằng: “Koṇḍañña đã hiểu được! Koṇḍañña đã hiểu được!” Do đó, đại đức Koṇḍañña đã có tên là “Aññākoṇḍañña.”[8]
[18] Sau đó, khi đã thấy được Pháp, đã thành tựu được Pháp, đã hiểu được Pháp, đã thấm nhuần Pháp, hoài nghi đã không còn, sự lưỡng lự đã dứt hẳn, đã thành tựu niềm tin vào Giáo Pháp của bậc Đạo Sư, không còn cần sự trợ duyên của người khác, đại đức Aññākoṇḍañña đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, con có thể xuất gia trong sự hiện diện của đức Thế Tôn không? Con có thể tu lên bậc trên không?
Đức Thế Tôn đã nói rằng:
– Này tỳ khưu, hãy đến. Pháp đã được khéo thuyết giảng, hãy thực hành Phạm hạnh một cách đúng đắn để chấm dứt khổ đau.
Chính điều ấy đã là sự tu lên bậc trên của đại đức ấy.
[19] Sau đó, đức Thế Tôn đã giáo huấn, đã chỉ dạy các vị tỳ khưu còn lại bằng bài Pháp thoại. Khi ấy, trong khi đang được giáo huấn, chỉ dạy bởi đức Thế Tôn bằng bài Pháp thoại, Pháp nhãn không nhiễm bụi trần, không vết nhơ đã sanh khởi đến đại đức Vappa và đại đức Bhaddiya: “Điều gì có bản tánh được sanh lên, toàn bộ điều ấy đều có bản tánh hoại diệt.” Khi đã thấy được Pháp, đã thành tựu được Pháp, đã hiểu được Pháp, đã thấm nhuần Pháp, hoài nghi đã không còn, sự lưỡng lự đã dứt hẳn, đã thành tựu niềm tin vào Giáo Pháp của bậc Đạo Sư, không còn cần sự trợ duyên của người khác, các vị ấy đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, chúng con có thể xuất gia trong sự hiện diện của đức Thế Tôn không? Chúng con có thể tu lên bậc trên không?
Đức Thế Tôn đã nói rằng:
– Này các tỳ khưu, hãy đến. Pháp đã được khéo thuyết giảng, hãy thực hành Phạm hạnh một cách đúng đắn để chấm dứt khổ đau.
Chính điều ấy đã là sự tu lên bậc trên của các đại đức ấy.
Sau đó, với bữa ăn đã được mang lại, đức Thế Tôn đã giáo huấn, đã chỉ dạy các vị tỳ khưu còn lại bằng bài Pháp thoại. Nhóm sáu vị sống bằng vật mà ba vị tỳ khưu đã đi khất thực và mang về. Khi ấy, trong khi đang được giáo huấn, chỉ dạy bởi đức Thế Tôn bằng bài Pháp thoại, Pháp nhãn không nhiễm bụi trần, không vết nhơ đã sanh khởi đến đại đức Mahānāma và đại đức Assaji: “Điều gì có bản tánh được sanh lên, toàn bộ điều ấy đều có bản tánh hoại diệt.” Khi đã thấy được Pháp, đã thành tựu được Pháp, đã hiểu được Pháp, đã thấm nhuần Pháp, hoài nghi đã không còn, sự lưỡng lự đã dứt hẳn, đã thành tựu niềm tin vào Giáo Pháp của bậc Đạo Sư, không còn cần sự trợ duyên của người khác, các vị ấy đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, chúng con có thể xuất gia trong sự hiện diện của đức Thế Tôn không? Chúng con có thể tu lên bậc trên không?
Đức Thế Tôn đã nói rằng:
– Này các tỳ khưu, hãy đến. Pháp đã được khéo thuyết giảng, hãy thực hành Phạm hạnh một cách đúng đắn để chấm dứt khổ đau.
Chính điều ấy đã là sự tu lên bậc trên của các đại đức ấy.
[20] Sau đó, đức Thế Tôn đã bảo các tỳ khưu nhóm năm vị rằng:
– Này các tỳ khưu, Sắc là Vô Ngã (anattā). Này các tỳ khưu, bởi vì nếu Sắc này là Ngã thì Sắc này không thể đi đến bệnh hoạn và có thể đạt được ở Sắc (theo ý muốn) rằng: “Sắc của ta hãy là như vầy, Sắc của ta đừng trở thành như vầy.” Này các tỳ khưu, chính vì Sắc là Vô Ngã do đó Sắc đi đến bệnh hoạn và không thể đạt được ở Sắc (theo ý muốn) rằng: “Sắc của ta hãy là như vầy, Sắc của ta đừng trở thành như vầy.”
Này các tỳ khưu, Thọ là Vô Ngã (anattā). Này các tỳ khưu, bởi vì nếu Thọ này là Ngã thì Thọ này không thể đi đến bệnh hoạn và có thể đạt được ở Thọ (theo ý muốn) rằng: “Thọ của ta hãy là như vầy, Thọ của ta đừng trở thành như vầy.” Này các tỳ khưu, chính vì Thọ là Vô Ngã do đó Thọ đi đến bệnh hoạn và không thể đạt được ở Thọ (theo ý muốn) rằng: “Thọ của ta hãy là như vầy, Thọ của ta đừng trở thành như vầy.”
Này các tỳ khưu, Tưởng là Vô Ngã (anattā). Này các tỳ khưu, bởi vì nếu Tưởng này là Ngã thì Tưởng này không thể đi đến bệnh hoạn và có thể đạt được ở Tưởng (theo ý muốn) rằng: “Tưởng của ta hãy là như vầy, Tưởng của ta đừng trở thành như vầy.” Này các tỳ khưu, chính vì Tưởng là Vô Ngã do đó Tưởng đi đến bệnh hoạn và không thể đạt được ở Tưởng (theo ý muốn) rằng: “Tưởng của ta hãy là như vầy, Tưởng của ta đừng trở thành như vầy.”
Này các tỳ khưu, các Hành là Vô Ngã (anattā). Này các tỳ khưu, bởi vì nếu các Hành này là Ngã thì các Hành này không thể đi đến bệnh hoạn và có thể đạt được ở các Hành (theo ý muốn) rằng: “Các Hành của ta hãy là như vầy, các Hành của ta đừng trở thành như vầy.” Này các tỳ khưu, chính vì các Hành là Vô Ngã do đó các Hành đi đến bệnh hoạn và không thể đạt được ở các Hành (theo ý muốn) rằng: “Các Hành của ta hãy là như vầy, các Hành của ta đừng trở thành như vầy.”
Này các tỳ khưu, Thức là Vô Ngã (anattā). Này các tỳ khưu, bởi vì nếu Thức này là Ngã thì Thức này không thể đi đến bệnh hoạn và có thể đạt được ở Thức (theo ý muốn) rằng: “Thức của ta hãy là như vầy, Thức của ta đừng trở thành như vầy.” Này các tỳ khưu, chính vì Thức là Vô Ngã do đó Thức đi đến bệnh hoạn và không thể đạt được ở Thức (theo ý muốn) rằng: “Thức của ta hãy là như vầy, Thức của ta đừng trở thành như vầy.”
[21] Này các tỳ khưu, các vị nghĩ gì về Sắc ấy, là thường hay vô thường?
– Bạch ngài, là vô thường.
– Vậy cái gì (đã) là vô thường thì cái ấy là khổ hay lạc?
– Bạch ngài, là khổ.
– Vậy cái gì (đã) là vô thường, khổ, có trạng thái thay đổi, có phải là đúng đắn khi quán xét về cái ấy rằng: “Cái này là của ta, cái này là ta, cái này là tự ngã của ta”?
– Bạch ngài, điều ấy không đúng.
Này các tỳ khưu, Thọ là thường hay vô thường?
– Bạch ngài, là vô thường.
– Vậy cái gì (đã) là vô thường thì cái ấy là khổ hay lạc?
– Bạch ngài, là khổ.
– Vậy cái gì (đã) là vô thường, khổ, có trạng thái thay đổi, có phải là đúng đắn khi quán xét về cái ấy rằng: “Cái này là của ta, cái này là ta, cái này là tự ngã của ta”?
– Bạch ngài, điều ấy không đúng.
Này các tỳ khưu, Tưởng là thường hay vô thường?
– Bạch ngài, là vô thường.
– Vậy cái gì (đã) là vô thường thì cái ấy là khổ hay lạc?
– Bạch ngài, là khổ.
– Vậy cái gì (đã) là vô thường, khổ, có trạng thái thay đổi, có phải là đúng đắn khi quán xét về cái ấy rằng: “Cái này là của ta, cái này là ta, cái này là tự ngã của ta”?
– Bạch ngài, điều ấy không đúng.
Này các tỳ khưu, các Hành là thường hay vô thường?
– Bạch ngài, là vô thường.
– Vậy cái gì (đã) là vô thường thì cái ấy là khổ hay lạc?
– Bạch ngài, là khổ.
– Vậy cái gì (đã) là vô thường, khổ, có trạng thái thay đổi, có phải là đúng đắn khi quán xét về cái ấy rằng: “Cái này là của ta, cái này là ta, cái này là tự ngã của ta”?
– Bạch ngài, điều ấy không đúng.
Này các tỳ khưu, Thức là thường hay vô thường?
– Bạch ngài, là vô thường.
– Vậy cái gì (đã) là vô thường thì cái ấy là khổ hay lạc?
– Bạch ngài, là khổ.
– Vậy cái gì (đã) là vô thường, khổ, có trạng thái thay đổi, có phải là đúng đắn khi quán xét về cái ấy rằng: “Cái này là của ta, cái này là ta, cái này là tự ngã của ta”?
– Bạch ngài, điều ấy không đúng.
[22] Này các tỳ khưu, như thế trong trường hợp này, bất cứ Sắc nào thuộc về quá khứ, hiện tại, vị lai, là trong thân, hay ngoài thân, hay thô kệch, hay vi tế, hay kém cỏi, hay cao quý, nên thấy được toàn bộ Sắc ấy, dầu ở xa hay ở gần, đúng như bản chất thật sự bằng trí tuệ chân chánh (như vầy): “Cái này không phải là của ta, cái này không phải là ta, cái này không phải là tự ngã của ta.”
Này các tỳ khưu, như thế trong trường hợp này, bất cứ Thọ nào thuộc về quá khứ, hiện tại, vị lai, là trong thân, hay ngoài thân, hay thô kệch, hay vi tế, hay kém cỏi, hay cao quý, nên thấy được toàn bộ Thọ ấy, dầu ở xa hay ở gần, đúng như bản chất thật sự bằng trí tuệ chân chánh (như vầy): “Cái này không phải là của ta, cái này không phải là ta, cái này không phải là tự ngã của ta.”
Này các tỳ khưu, như thế trong trường hợp này, bất cứ Tưởng nào thuộc về quá khứ, hiện tại, vị lai, là trong thân, hay ngoài thân, hay thô kệch, hay vi tế, hay kém cỏi, hay cao quý, nên thấy được toàn bộ Tưởng ấy, dầu ở xa hay ở gần, đúng như bản chất thật sự bằng trí tuệ chân chánh (như vầy): “Cái này không phải là của ta, cái này không phải là ta, cái này không phải là tự ngã của ta.”
Này các tỳ khưu, như thế trong trường hợp này, bất cứ các Hành nào thuộc về quá khứ, hiện tại, vị lai, là trong thân, hay ngoài thân, hay thô kệch, hay vi tế, hay kém cỏi, hay cao quý, nên thấy được toàn bộ các Hành ấy, dầu ở xa hay ở gần, đúng như bản chất thật sự bằng trí tuệ chân chánh (như vầy): “Cái này không phải là của ta, cái này không phải là ta, cái này không phải là tự ngã của ta.”
Này các tỳ khưu, như thế trong trường hợp này, bất cứ Thức nào thuộc về quá khứ, hiện tại, vị lai, là trong thân, hay ngoài thân, hay thô kệch, hay vi tế, hay kém cỏi, hay cao quý, nên thấy được toàn bộ Thức ấy, dầu ở xa hay ở gần, đúng như bản chất thật sự bằng trí tuệ chân chánh (như vầy): “Cái này không phải là của ta, cái này không phải là ta, cái này không phải là tự ngã của ta.”
[23] Này các tỳ khưu, khi đã thấy được như thế, vị Thinh Văn Thánh đệ tử không còn hứng thú trong Sắc, không còn hứng thú trong Thọ, không còn hứng thú trong Tưởng, không còn hứng thú trong các Hành, không còn hứng thú trong Thức; khi đã không còn hứng thú, vị ấy không còn say đắm; do không còn say đắm vị ấy được giải thoát; trong khi được giải thoát, trí khởi lên rằng: “Đã được giải thoát.” Vị ấy biết được rằng: “Sự tái sanh đã cạn kiệt, Phạm hạnh đã sống, việc cần làm đã làm, không còn (đưa đến) bản ngã nào khác (tương tợ) như vầy nữa.”
[24] Đức Thế Tôn đã giảng về điều ấy. Các tỳ khưu nhóm năm vị đã hoan hỷ thâu nhận lời dạy của đức Thế Tôn. Và trong khi bài kinh này được thuyết giảng, các tâm của các tỳ khưu nhóm năm vị đã không còn chấp thủ và đã được giải thoát khỏi các lậu hoặc.
Vào lúc bấy giờ, trên thế gian có sáu vị A-la-hán.
Tụng phẩm thứ nhất.
[25] Vào lúc bấy giờ, ở Bārāṇasī có người con trai gia đình danh giá tên Yasa. Yasa là con trai nhà đại phú và có vóc dáng mảnh mai. Chàng trai có ba tòa lâu đài: một dành cho mùa lạnh, một dành cho mùa nóng, và một dành cho mùa mưa. Vào bốn tháng mùa mưa ở trong tòa lâu đài, chàng luôn được vây quanh bởi các nữ công tấu nhạc và không bước xuống phía dưới của tòa lâu đài. Khi ấy, trong lúc được phú cho, được thừa hưởng, được phục vụ bởi năm phần dục lạc,[9] người con trai gia đình danh giá Yasa đã nằm xuống ngủ trước rồi sau đó đám hầu thiếp mới nằm xuống ngủ. Và cây đèn dầu thường được đốt thâu đêm.
Khi ấy, người con trai gia đình danh giá Yasa sau khi thức dậy trước đã nhìn thấy đám hầu thiếp của mình đang ngủ, cây đàn ở khuỷu tay của nàng nọ, cái trống con ở cổ của nàng kia, cái trống ở đùi của nàng khác, nàng nọ có (đầu tóc) xổ ra, nàng kia nhễu nước dãi, các nàng khác thì nói lảm nhảm, chàng nghĩ rằng bãi tha ma như đang ở đâu đây.[10] Sau khi nhìn thấy, chàng trai đã khởi lên sự chán nản và đã lập tâm từ bỏ. Khi ấy, người con trai gia đình danh giá Yasa đã thốt lên lời cảm thán rằng: “Thật là chán nản! Thật là khổ sở!” Sau đó, người con trai gia đình danh giá Yasa đã mang vào đôi hài bằng vàng và đi đến cánh cửa lớn của dinh thự. Các phi nhân đã mở cánh cửa ra (nghĩ rằng): “Chớ có ai gây trở ngại đến việc rời nhà xuất gia sống không nhà của người con trai gia đình danh giá Yasa.” Sau đó, người con trai gia đình danh giá Yasa đã đi đến cổng thành phố. Các phi nhân đã mở cánh cửa ra (nghĩ rằng): “Chớ có ai gây trở ngại đến việc rời nhà xuất gia sống không nhà của người con trai gia đình danh giá Yasa.” Sau đó, người con trai gia đình danh giá Yasa đã đi đến Isipatana, chỗ vườn nai.
[26] Vào lúc bấy giờ, đức Thế Tôn sau khi thức dậy vào lúc hừng sáng của đêm đang đi kinh hành ở ngoài trời. Đức Thế Tôn đã nhìn thấy người con trai gia đình danh giá Yasa từ đàng xa đang đi lại, sau khi nhìn thấy đã rời đường kinh hành và ngồi xuống trên chỗ ngồi được sắp đặt sẵn. Khi ấy, ở không xa đức Thế Tôn lắm người con trai gia đình danh giá Yasa đã thốt lên lời cảm thán rằng: “Thật là chán nản! Thật là khổ sở!” Khi ấy, đức Thế Tôn đã nói với người con trai gia đình danh giá Yasa điều này:
– Này Yasa, việc này không chán nản, việc này không khổ sở. Này Yasa, hãy đến và ngồi xuống. Ta sẽ thuyết giảng Giáo Pháp cho ngươi.
Khi ấy, người con trai gia đình danh giá Yasa (nghĩ rằng): “Nghe nói việc này không chán nản, việc này không khổ sở” nên mừng rỡ phấn chấn rồi đã cởi ra đôi hài bằng vàng và đi đến gần đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Đức Thế Tôn đã thuyết Pháp theo thứ lớp đến người con trai gia đình danh giá Yasa đang ngồi một bên. Tức là ngài đã giảng giải bài thuyết về bố thí, bài thuyết về giới cấm, bài thuyết về cõi trời, sự ô nhiễm hạ liệt tai hại của các dục, sự lợi ích của việc xuất ly. Khi đức Thế Tôn biết được tâm của người con trai gia đình danh giá Yasa đã sẵn sàng, dễ uốn nắn, không còn chướng ngại, hướng thượng, tĩnh lặng, ngài đã phô bày Pháp thuyết giảng đã được chư Phật khai mở là: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Cũng giống như tấm vải sạch chưa bị vết nhơ có thể nhuộm màu một cách toàn vẹn; tương tợ như thế, ngay tại chỗ ngồi ấy Pháp nhãn không nhiễm bụi trần, không vết nhơ đã sanh khởi đến người con trai gia đình danh giá Yasa: “Điều gì có bản tánh được sanh lên, toàn bộ điều ấy đều có bản tánh hoại diệt.”
[27] Sau đó, mẹ của người con trai gia đình danh giá Yasa đã đi lên tòa lâu đài và không thấy người con trai gia đình danh giá Yasa nên đã đi đến gặp người gia chủ đại phú, sau khi đến đã nói với người gia chủ đại phú điều này:
– Gia chủ ơi, không có nhìn thấy con trai ông là Yasa.
Khi ấy, người gia chủ đại phú đã phân công cho các sứ giả phi ngựa bốn phương còn chính bản thân đã đi đến Isipatana, chỗ vườn nai. Người gia chủ đại phú đã nhìn thấy dấu vết in (xuống đất) của đôi hài bằng vàng nên đã đi theo dấu vết ấy. Đức Thế Tôn đã nhìn thấy người gia chủ đại phú từ đàng xa đang đi lại, sau khi nhìn thấy đức Thế Tôn đã khởi ý điều này: “Hay là ta nên thực hiện thần thông để cho người gia chủ đại phú ngồi ở đây không thể nhìn thấy người con trai gia đình danh giá Yasa đang ngồi ở đây.” Rồi đức Thế Tôn đã thực hiện thần thông như thế ấy. Sau đó, người gia chủ đại phú đã đi đến gần đức Thế Tôn, sau khi đến đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, vậy chớ đức Thế Tôn có thể nhìn thấy người con trai gia đình danh giá Yasa không?
– Này gia chủ, như thế thì ông hãy ngồi xuống đi. Có lẽ khi ông ngồi xuống ở đây, ông có thể nhìn thấy người con trai gia đình danh giá Yasa đang ngồi ở đây.
Khi ấy, người gia chủ đại phú (nghĩ rằng): “Nghe nói khi ta ngồi xuống ở chính nơi đây, ta sẽ nhìn thấy người con trai gia đình danh giá Yasa đang ngồi ở đây” nên mừng rỡ phấn chấn rồi đã đảnh lễ đức Thế Tôn và ngồi xuống ở một bên. Đức Thế Tôn đã thuyết Pháp theo thứ lớp đến người gia chủ đại phú đang ngồi một bên. Tức là ngài đã giảng giải bài thuyết về bố thí, bài thuyết về giới cấm, bài thuyết về cõi trời, sự ô nhiễm hạ liệt tai hại của các dục, sự lợi ích của việc xuất ly. Khi đức Thế Tôn biết được tâm của người gia chủ đại phú đã sẵn sàng, dễ uốn nắn, không còn chướng ngại, hướng thượng, tĩnh lặng, ngài đã phô bày Pháp thuyết giảng đã được chư Phật khai mở là: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Cũng giống như tấm vải sạch chưa bị vết nhơ có thể nhuộm màu một cách toàn vẹn; tương tợ như thế, ngay tại chỗ ngồi ấy Pháp nhãn không nhiễm bụi trần, không vết nhơ đã sanh khởi đến người gia chủ đại phú: “Điều gì có bản tánh được sanh lên, toàn bộ điều ấy đều có bản tánh hoại diệt.”
Sau đó, khi đã thấy được Pháp, đã thành tựu được Pháp, đã hiểu được Pháp, đã thấm nhuần Pháp, hoài nghi đã không còn, sự lưỡng lự đã dứt hẳn, đã thành tựu niềm tin vào Giáo Pháp của bậc Đạo Sư, không còn cần sự trợ duyên của người khác, người gia chủ đại phú đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, thật là tuyệt vời! Bạch ngài, thật là tuyệt vời! Bạch ngài, giống như người có thể lật ngửa vật đã được úp lại, mở ra vật đã bị che kín, chỉ đường cho kẻ lạc lối, đem lại cây đèn dầu nơi bóng tối (nghĩ rằng): “Những người có mắt sẽ nhìn thấy được các hình dáng;” tương tợ như thế, Pháp đã được đức Thế Tôn giảng rõ bằng nhiều phương tiện. Bạch ngài, con đây xin quy y đức Thế Tôn, Giáo Pháp, và Hội chúng tỳ khưu. Xin đức Thế Tôn chấp nhận con là nam cư sĩ đã được quy y kể từ hôm nay cho đến trọn đời.
Và ông ta đã trở thành vị nam cư sĩ đọc ba câu (tevāciko)[11] đầu tiên ở thế gian.
[28] Sau đó, khi đang được giảng giải Giáo Pháp và trong khi quán sát bản chất như đã được thấy như đã được biết, tâm của người cha của người con trai gia đình danh giá Yasa đã không còn chấp thủ và đã được giải thoát khỏi các lậu hoặc. Khi ấy, đức Thế Tôn đã khởi ý điều này: “Khi đang được giảng giải Giáo Pháp và trong khi quán sát bản chất như đã được thấy như đã được biết, tâm của người cha của người con trai gia đình danh giá Yasa đã không còn chấp thủ và đã được giải thoát khỏi các lậu hoặc. Còn người con trai gia đình danh giá Yasa không thể nào quay lui đời sống thấp kém để thọ hưởng các dục lạc giống như trước đây khi còn ở tại gia, hay là ta nên thu hồi sự thể hiện thần thông ấy?”
Sau đó, đức Thế Tôn đã thu hồi sự thể hiện thần thông ấy. Người gia chủ đại phú đã nhìn thấy người con trai gia đình danh giá Yasa đang ngồi, sau khi nhìn thấy đã nói với người con trai gia đình danh giá Yasa điều này:
– Này Yasa yêu quý, mẹ của con bị sầu khổ đã than vãn. Hãy đem lại cho mẹ cuộc sống.
Khi ấy, người con trai gia đình danh giá Yasa đã nhìn lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn đã nói với người gia chủ đại phú điều này:
– Này gia chủ, ngươi nghĩ gì về việc ấy đối với người con trai gia đình danh giá Yasa? Cũng giống như việc ngươi đã nhìn thấy Pháp bằng trí của vị hữu học, bằng sự hiểu biết của vị hữu học, chàng trai ấy trong khi quán sát bản chất như đã được thấy như đã được biết, tâm đã không còn chấp thủ và đã được giải thoát khỏi các lậu hoặc. Này gia chủ, có thể nào Yasa quay lui đời sống thấp kém để thọ hưởng các dục lạc giống như trước đây khi còn ở tại gia hay không?
– Bạch ngài, điều ấy không thể nào.
– Này gia chủ, đối với người con trai gia đình danh giá Yasa cũng giống như việc ngươi đã nhìn thấy Pháp bằng trí của vị hữu học bằng sự hiểu biết của vị hữu học, chàng trai ấy trong khi quán sát bản chất như đã được thấy như đã được biết, tâm đã không còn chấp thủ và đã được giải thoát khỏi các lậu hoặc. Này gia chủ, Yasa không thể nào quay lui đời sống thấp kém để thọ hưởng các dục lạc giống như trước đây khi còn ở tại gia.
– Bạch ngài, thật là lợi ích cho người con trai gia đình danh giá Yasa! Thật khéo thành tựu cho người con trai gia đình danh giá Yasa! Như là việc tâm của người con trai gia đình danh giá Yasa đã không còn chấp thủ và đã được giải thoát khỏi các lậu hoặc. Bạch ngài, xin đức Thế Tôn nhận lời con về bữa thọ trai ngày mai cùng với người con trai gia đình danh giá Yasa làm sa-môn thị giả.
Đức Thế Tôn đã nhận lời bằng thái độ im lặng. Khi ấy, người gia chủ đại phú hiểu được sự nhận lời của đức Thế Tôn nên đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi.
Sau đó, khi người gia chủ đại phú ra đi không lâu, người con trai gia đình danh giá Yasa đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, con có thể xuất gia trong sự hiện diện của đức Thế Tôn không? Con có thể tu lên bậc trên không?
Đức Thế Tôn đã nói rằng:
– Này tỳ khưu, hãy đến. Pháp đã được khéo thuyết giảng, hãy thực hành Phạm hạnh một cách đúng đắn để chấm dứt khổ đau.
Chính điều ấy đã là sự tu lên bậc trên của đại đức ấy.
Vào lúc bấy giờ, trên thế gian có bảy vị A-la-hán.
Dứt sự xuất gia của Yasa.
[29] Khi ấy vào buổi sáng, đức Thế Tôn đã mặc y, cầm y bát, đi đến tư gia của người gia chủ đại phú cùng với đại đức Yasa làm sa-môn thị giả, sau khi đến đã ngồi xuống chỗ ngồi được sắp đặt sẵn. Khi ấy, người mẹ và người vợ cũ thứ nhì của đại đức Yasa đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Đức Thế Tôn đã thuyết Pháp theo thứ lớp đến các người nữ ấy. Tức là ngài đã giảng giải bài thuyết về bố thí, bài thuyết về giới cấm, bài thuyết về cõi trời, sự ô nhiễm hạ liệt tai hại của các dục, sự lợi ích của việc xuất ly. Khi đức Thế Tôn biết được tâm của các người nữ ấy đã sẵn sàng, dễ uốn nắn, không còn chướng ngại, hướng thượng, tĩnh lặng, ngài đã phô bày Pháp thuyết giảng đã được chư Phật khai mở là: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Cũng giống như tấm vải sạch chưa bị vết nhơ có thể nhuộm màu một cách toàn vẹn; tương tợ như thế, ngay tại chỗ ngồi ấy Pháp nhãn không nhiễm bụi trần, không vết nhơ đã sanh khởi đến các người nữ ấy: “Điều gì có bản tánh được sanh lên, toàn bộ điều ấy đều có bản tánh hoại diệt.”
Sau đó, khi đã thấy được Pháp, đã thành tựu được Pháp, đã hiểu được Pháp, đã thấm nhuần Pháp, hoài nghi đã không còn, sự lưỡng lự đã dứt hẳn, đã thành tựu niềm tin vào Giáo Pháp của bậc Đạo Sư, không còn cần sự trợ duyên của người khác, các người nữ ấy đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, thật là tuyệt vời! Bạch ngài, thật là tuyệt vời! Bạch ngài, giống như người có thể lật ngửa vật đã được úp lại, mở ra vật đã bị che kín, chỉ đường cho kẻ lạc lối, đem lại cây đèn dầu nơi bóng tối (nghĩ rằng): “Những người có mắt sẽ nhìn thấy được các hình dáng;” tương tợ như thế, Pháp đã được đức Thế Tôn chỉ rõ bằng nhiều phương tiện. Bạch ngài, chúng con đây xin quy y đức Thế Tôn, Giáo Pháp, và Hội chúng tỳ khưu. Xin đức Thế Tôn chấp nhận chúng con là các nữ cư sĩ đã được quy y kể từ hôm nay cho đến trọn đời.
Và các người nữ ấy đã trở thành những nữ cư sĩ đọc ba câu (tevācikā) đầu tiên ở thế gian.
Sau đó, khi đã tự tay làm hài lòng và thỏa mãn hội chúng tỳ khưu có đức Phật đứng đầu với thức ăn thượng hạng loại cứng loại mềm, đến khi đức Thế Tôn đã thọ thực xong bàn tay đã rời khỏi bình bát, người mẹ người cha và người vợ cũ thứ nhì của đại đức Yasa đã ngồi xuống ở một bên Khi ấy, đức Thế Tôn đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho người mẹ người cha và người vợ cũ thứ nhì của đại đức Yasa bằng bài Pháp thoại, rồi đã từ chỗ ngồi đứng dậy, và ra đi.
[30] Bốn người bạn tại gia của đại đức Yasa (tên) Vimala, Subāhu, Puṇṇaji, Gavampati là những người con trai của các gia đình đại phú và khá giả ở thành Bārāṇasī đã nghe được rằng: “Nghe nói người con trai gia đình danh giá Yasa đã cạo bỏ râu tóc, khoác lên các tấm vải màu ca-sa, và rời nhà xuất gia sống không nhà.” Sau khi nghe, các người ấy đã khởi ý điều này: “Pháp và Luật ấy chắc chắn không phải là tầm thường! Việc xuất gia ấy không phải là tầm thường khi mà người con trai gia đình danh giá Yasa đã cạo bỏ râu tóc, khoác lên các tấm vải màu ca-sa, và rời nhà xuất gia sống không nhà!” Các người ấy đã đi đến gặp đại đức Yasa, sau khi đến đã đảnh lễ đại đức Yasa rồi đứng ở một bên. Khi ấy, đại đức Yasa đã dẫn bốn người bạn tại gia ấy đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, đại đức Yasa đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, bốn người bạn tại gia này của con (tên) Vimala, Subāhu, Puṇṇaji, Gavampati là những người con trai của các gia đình đại phú và khá giả ở thành Bārāṇasī. Xin đức Thế Tôn hãy giáo huấn và chỉ dạy cho những người này.
Đức Thế Tôn đã thuyết Pháp theo thứ lớp đến những người ấy. Tức là ngài đã giảng giải bài thuyết về bố thí, bài thuyết về giới cấm, bài thuyết về cõi trời, sự ô nhiễm hạ liệt tai hại của các dục, sự lợi ích của việc xuất ly. Khi đức Thế Tôn biết được tâm của những người ấy đã sẵn sàng, dễ uốn nắn, không còn chướng ngại, hướng thượng, tĩnh lặng, ngài đã phô bày Pháp thuyết giảng đã được chư Phật khai mở là: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Cũng giống như tấm vải sạch chưa bị vết nhơ có thể nhuộm màu một cách toàn vẹn; tương tợ như thế, ngay tại chỗ ngồi ấy Pháp nhãn không nhiễm bụi trần, không vết nhơ đã sanh khởi đến những người ấy: “Điều gì có bản tánh được sanh lên, toàn bộ điều ấy đều có bản tánh hoại diệt.”
Sau đó, khi đã thấy được Pháp, đã thành tựu được Pháp, đã hiểu được Pháp, đã thấm nhuần Pháp, hoài nghi đã không còn, sự lưỡng lự đã dứt hẳn, đã thành tựu niềm tin vào Giáo Pháp của bậc Đạo Sư, không còn cần sự trợ duyên của người khác, những người ấy đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, chúng con có thể xuất gia trong sự hiện diện của đức Thế Tôn không? Chúng con có thể tu lên bậc trên không?
Đức Thế Tôn đã nói rằng:
– Này các tỳ khưu, hãy đến. Pháp đã được khéo thuyết giảng, hãy thực hành Phạm hạnh một cách đúng đắn để chấm dứt khổ đau.
Chính điều ấy đã là sự tu lên bậc trên của các đại đức ấy.
Sau đó, đức Thế Tôn đã giáo huấn và chỉ dạy cho các vị tỳ khưu ấy bằng bài Pháp thoại. Trong khi được đức Thế Tôn giáo huấn và chỉ dạy bằng bài Pháp thoại, tâm của các vị ấy đã không còn chấp thủ và đã được giải thoát khỏi các lậu hoặc.
Vào lúc bấy giờ, trên thế gian có mười một vị A-la-hán.
Dứt sự xuất gia của bốn người bạn tại gia.
[31] Những người bạn tại gia của đại đức Yasa có số lượng năm mươi (người) là những người con trai của các gia đình đầu tiên hoặc kế tục trong xứ sở đã nghe được rằng: “Nghe nói người con trai gia đình danh giá Yasa đã cạo bỏ râu tóc, khoác lên các tấm vải màu ca-sa, và rời nhà xuất gia sống không nhà.” Sau khi nghe, các người ấy đã khởi ý điều này: “Pháp và Luật ấy chắc chắn không phải là tầm thường! Việc xuất gia ấy không phải là tầm thường khi mà người con trai gia đình danh giá Yasa đã cạo bỏ râu tóc, khoác lên các tấm vải màu ca-sa, và rời nhà xuất gia sống không nhà!” Các người ấy đã đi đến gặp đại đức Yasa, sau khi đến đã đảnh lễ đại đức Yasa rồi đứng ở một bên. Khi ấy, đại đức Yasa đã dẫn các người bạn tại gia có số lượng là năm mươi (người) ấy đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, đại đức Yasa đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, những người bạn tại gia này của con có số lượng năm mươi (người) là những người con trai của các gia đình đầu tiên hoặc kế tục trong xứ sở. Xin đức Thế Tôn hãy giáo huấn và chỉ dạy cho những người này.
Đức Thế Tôn đã thuyết Pháp theo thứ lớp đến những người ấy. Tức là ngài đã giảng giải bài thuyết về bố thí, bài thuyết về giới cấm, bài thuyết về cõi trời, sự ô nhiễm hạ liệt tai hại của các dục, sự lợi ích của việc xuất ly. Khi đức Thế Tôn biết được tâm của những người ấy đã sẵn sàng, dễ uốn nắn, không còn chướng ngại, hướng thượng, tĩnh lặng, ngài đã phô bày Pháp thuyết giảng đã được chư Phật khai mở là: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Cũng giống như tấm vải sạch chưa bị vết nhơ có thể nhuộm màu một cách toàn vẹn; tương tợ như thế, ngay tại chỗ ngồi ấy Pháp nhãn không nhiễm bụi trần, không vết nhơ đã sanh khởi đến những người ấy: “Điều gì có bản tánh được sanh lên, toàn bộ điều ấy đều có bản tánh hoại diệt.”
Sau đó, khi đã thấy được Pháp, đã thành tựu được Pháp, đã hiểu được Pháp, đã thấm nhuần Pháp, hoài nghi đã không còn, sự lưỡng lự đã dứt hẳn, đã thành tựu niềm tin vào Giáo Pháp của bậc Đạo Sư, không còn cần sự trợ duyên của người khác, những người ấy đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, chúng con có thể xuất gia trong sự hiện diện của đức Thế Tôn không? Chúng con có thể tu lên bậc trên không?
Đức Thế Tôn đã nói rằng:
– Này các tỳ khưu, hãy đến. Pháp đã được khéo thuyết giảng, hãy thực hành Phạm hạnh một cách đúng đắn để chấm dứt khổ đau.
Chính điều ấy đã là sự tu lên bậc trên của các đại đức ấy.
Sau đó, đức Thế Tôn đã giáo huấn và chỉ dạy cho các vị tỳ khưu ấy bằng bài Pháp thoại. Trong khi được đức Thế Tôn giáo huấn và chỉ dạy bằng bài Pháp thoại, tâm của các vị ấy đã không còn chấp thủ và đã được giải thoát khỏi các lậu hoặc.
Vào lúc bấy giờ, trên thế gian có sáu mươi mốt vị A-la-hán.
[32] Sau đó, đức Thế Tôn đã bảo các vị tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, ta đã thoát khỏi tất cả các sự trói buộc thuộc về cõi trời và loài người. Này các tỳ khưu, các ngươi cũng đã thoát khỏi tất cả các sự trói buộc thuộc về cõi trời và loài người. Này các tỳ khưu, hãy cất bước du hành vì lợi ích của nhiều người, vì an lạc của nhiều người, vì lòng thương xót thế gian, vì sự tiến hóa, sự lợi ích, sự an vui của chư thiên và nhân loại, chớ đi hai người chung một (đường). Này các tỳ khưu, hãy thuyết giảng Giáo Pháp toàn hảo ở đoạn đầu, toàn hảo ở đoạn giữa, và toàn hảo ở đoạn kết, thành tựu về ý nghĩa, thành tựu về văn tự, giảng giải về Phạm hạnh thanh tịnh một cách trọn vẹn và đầy đủ. Có những hạng người sanh lên bị ít ô nhiễm sẽ là những người hiểu được Giáo Pháp, (nhưng) do việc không nghe Giáo Pháp sẽ bị thoái hóa. Này các tỳ khưu, ta cũng sẽ đi đến ngôi làng của Senāni ở Uruvelā cho việc thuyết giảng Giáo Pháp.
[33] Sau đó, Ma Vương đầy tội lỗi đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã nói với đức Thế Tôn bằng những lời kệ này:
– Các cạm bẫy trời người
đã trói buộc ngài rồi,
ngài đã bị trói buộc
bởi gông cùm vĩ đại.
Hỡi này vị sa-môn,
người không thoát khỏi ta!
(Đức Thế Tôn đáp lại rằng):
– Các cạm bẫy trời người,
ta đây thoát ra rồi,
gông cùm dầu vĩ đại
ta đã tự do rồi.
Ngươi đã bị thua rồi,
hỡi kẻ gây tử vong.
– Di chuyển khắp bầu trời
bẫy này chiếm ngự tâm
ta sẽ dùng vật ấy
trói buộc chặt ngài lại.
Hỡi này vị sa-môn
người không thoát khỏi ta!
– Sắc đẹp, thinh, hương thơm
vị nếm, và cảm xúc,
tuyệt duyệt ở chốn này
ta không còn mong mỏi.
Ngươi đã bị bại rồi
hỡi kẻ gây tử vong.
Khi ấy, Ma Vương đầy tội lỗi (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn đã nhận ra ta rồi! Đấng Thiện Thệ đã nhận ra ta rồi!” nên xấu hổ, bực bội, rồi đã biến mất ngay tại chỗ ấy.
Dứt phần nói về Ma Vương.
[34] Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu thuộc nhiều phương khác nhau, thuộc nhiều xứ sở khác nhau đã dẫn di theo những người có ý muốn xuất gia và những người có ý muốn tu lên bậc trên (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn sẽ cho họ xuất gia và sẽ cho tu lên bậc trên.” Trong trường hợp ấy, chính các vị tỳ khưu luôn cả những người có ý muốn xuất gia và những người có ý muốn tu lên bậc trên đều mệt nhọc.
Khi ấy, trong lúc đức Thế Tôn thiền tịnh ở nơi thanh vắng, có ý nghĩ suy tầm như vầy đã sanh khởi: “Hiện nay, các vị tỳ khưu thuộc nhiều phương khác nhau, thuộc nhiều xứ sở khác nhau đã dẫn di theo những người có ý muốn xuất gia và những người có ý muốn tu lên bậc trên (nghĩ rằng): ‘Đức Thế Tôn sẽ cho họ xuất gia và sẽ cho tu lên bậc trên.’ Trong trường hợp ấy, chính các vị tỳ khưu luôn cả những người có ý muốn xuất gia và những người có ý muốn tu lên bậc trên đều mệt nhọc; hay là ta nên cho phép các vị tỳ khưu rằng: ‘Này các tỳ khưu, kể từ nay ở trong mọi phương ở trong mọi xứ sở, chính các ngươi hãy cho xuất gia, hãy cho tu lên bậc trên’?” Sau đó vào lúc chiều tối, đức Thế Tôn đã xuất khỏi thiền tịnh rồi nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội chúng tỳ khưu lại, đã thuyết Pháp thoại, và đã bảo các vị tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, ở đây trong lúc ta thiền tịnh ở nơi thanh vắng, có ý nghĩ suy tầm như vầy đã sanh khởi: “Hiện nay, các vị tỳ khưu thuộc nhiều phương khác nhau, thuộc nhiều xứ sở khác nhau đã dẫn di theo những người có ý muốn xuất gia và những người có ý muốn tu lên bậc trên (nghĩ rằng): ‘Đức Thế Tôn sẽ cho họ xuất gia và sẽ cho tu lên bậc trên.’ Trong trường hợp ấy, chính các vị tỳ khưu luôn cả những người có ý muốn xuất gia và những người có ý muốn tu lên bậc trên đều mệt nhọc; hay là ta nên cho phép các vị tỳ khưu rằng: ‘Này các tỳ khưu, kể từ nay ở trong mọi phương ở trong mọi xứ sở, chính các ngươi hãy cho xuất gia, hãy cho tu lên bậc trên’?” Này các tỳ khưu, ta cho phép kể từ nay ở trong mọi phương ở trong mọi xứ sở, chính các ngươi hãy cho xuất gia, hãy cho tu lên bậc trên.
Và này các tỳ khưu, nên cho xuất gia như vầy, nên cho tu lên bậc trên như vầy:
Trước tiên, nên bảo cạo bỏ râu tóc, bảo khoác lên các tấm vải màu ca-sa, bảo đắp thượng y một bên vai, bảo đảnh lễ ở chân các vị tỳ khưu, bảo ngồi chồm hổm, bảo chắp tay lên, và nên bảo rằng: “Ngươi hãy nói như vầy:
Tôi đến với đức Phật là nơi nương nhờ (Tôi xin quy y Phật).
Tôi đến với đức Pháp là nơi nương nhờ (Tôi xin quy y Pháp).
Tôi đến với đức Tăng là nơi nương nhờ (Tôi xin quy y Tăng).[12]
Lần thứ nhì, tôi đến với đức Phật là nơi nương nhờ.
Lần thứ nhì, tôi đến với đức Pháp là nơi nương nhờ.
Lần thứ nhì, tôi đến với đức Tăng là nơi nương nhờ.
Lần thứ ba, tôi đến với đức Phật là nơi nương nhờ.
Lần thứ ba, tôi đến với đức Pháp là nơi nương nhờ.
Lần thứ ba, tôi đến với đức Tăng là nơi nương nhờ.”
Này các tỳ khưu, ta cho phép sự xuất gia, sự tu lên bậc trên bằng Tam Quy (ba sự đi đến nương nhờ) này.
Dứt phần nói về sự tu lên bậc trên bằng Tam Quy.
[35] Sau đó, khi đã sống qua mùa mưa, đức Thế Tôn đã bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, ta có sự tác ý đúng đắn, có sự tinh tấn chân chánh đúng đắn, đã đạt đến sự giải thoát tối thượng, đã chứng ngộ sự giải thoát tối thượng. Này các tỳ khưu, các ngươi cũng có sự tác ý đúng đắn, có sự tinh tấn chân chánh đúng đắn, (các ngươi) hãy đạt đến sự giải thoát tối thượng, hãy chứng ngộ sự giải thoát tối thượng.
Sau đó, Ma Vương đầy tội lỗi đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã nói với đức Thế Tôn bằng bài kệ này:
– Các cạm bẫy Ma Vương
các loại thuộc cung trời
và thuộc về nhân loại
đã trói buộc ngài rồi.
Ngài đã bị trói buộc
bởi gông cùm vĩ đại,
hỡi này vị sa-môn
người không thoát khỏi ta!
(Đức Thế Tôn đáp lại rằng):
– Các cạm bẫy Ma Vương
các loại thuộc cung trời
và thuộc về nhân loại
ta đây thoát ra rồi.
Gông cùm dầu vĩ đại
ta đã tự do rồi,
ngươi đã bị thua rồi,
hỡi kẻ gây tử vong.
Khi ấy, Ma Vương đầy tội lỗi (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn đã nhận ra ta rồi! Đấng Thiện Thệ đã nhận ra ta rồi!” nên xấu hổ, bực bội, rồi đã biến mất ngay tại chỗ ấy.
[36] Sau đó, khi đã ngự tại thành Bārāṇasī theo như ý thích, đức Thế Tôn đã ra đi du hành về phía Uruvelā. Khi ấy, đức Thế Tôn đã rời đường lộ đi đến khu rừng rậm nọ, sau khi đến đã đi sâu vào trong khu rừng rậm ấy và đã ngồi xuống ở gốc cây nọ.
Vào lúc bấy giờ, những người bạn thuộc nhóm các vương tử có số lượng ba mươi (người) cùng với những người vợ đang du ngoạn ở trong khu rừng rậm ấy. Một người không có vợ. Cô gái điếm đã được dẫn đến cho nhu cầu của vị ấy. Rồi trong khi những người ấy đang lơ đễnh du ngoạn, cô gái điếm ấy đã cầm lấy gói đồ rồi tẩu thoát. Sau đó, những người bạn ấy trong lúc giúp đỡ bạn bè và trong lúc tìm kiếm người đàn bà ấy, đã lang thang đi đến khu rừng rậm ấy và đã nhìn thấy đức Thế Tôn đang ngồi ở gốc cây nọ, sau khi nhìn thấy đã đi đến gần đức Thế Tôn, sau khi đến đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, vậy chớ đức Thế Tôn có nhìn thấy người đàn bà không?
– Này các vương tử, các vị có điều gì với người đàn bà?
– Bạch ngài, trường hợp chúng tôi là những người bạn thuộc nhóm các vương tử có số lượng ba mươi (người) đã cùng với những người vợ du ngoạn ở trong khu rừng rậm này. Một người không có vợ. Cô gái điếm đã được dẫn đến cho nhu cầu của vị ấy. Bạch ngài, rồi trong khi chúng tôi đang lơ đễnh du ngoạn, cô gái điếm ấy đã cầm lấy gói đồ rồi tẩu thoát. Bạch ngài, vì thế trong lúc giúp đỡ bạn bè và trong lúc tìm kiếm người đàn bà ấy chúng tôi đã lang thang đi đến khu rừng rậm này.
– Này các vương tử, các vị nghĩ thế nào về việc các vị nên tìm kiếm người đàn bà và việc các vị nên tìm kiếm lấy chính mình, đối với các vị việc nào quan trọng hơn?
– Bạch ngài, đối với chúng tôi việc quan trọng hơn là việc chúng tôi nên tìm kiếm lấy chính mình.
– Này các vương tử, chính vì việc ấy các vị hãy ngồi xuống, ta sẽ thuyết giảng Giáo Pháp cho các vị.
– Bạch ngài, xin vâng.
Rồi những người bạn thuộc nhóm các vương tử ấy đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Đức Thế Tôn đã thuyết Pháp theo thứ lớp đến các vị ấy. Tức là ngài đã giảng giải bài thuyết về bố thí, bài thuyết về giới cấm, bài thuyết về cõi trời, sự ô nhiễm hạ liệt tai hại của các dục, sự lợi ích của việc xuất ly. Khi đức Thế Tôn biết được tâm của các vị ấy đã sẵn sàng, dễ uốn nắn, không còn chướng ngại, hướng thượng, tĩnh lặng, ngài đã phô bày Pháp thuyết giảng đã được chư Phật khai mở là: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Cũng giống như tấm vải sạch chưa bị vết nhơ có thể nhuộm màu một cách toàn vẹn; tương tợ như thế, ngay tại chỗ ngồi ấy Pháp nhãn không nhiễm bụi trần, không vết nhơ đã sanh khởi đến các vị ấy: “Điều gì có bản tánh được sanh lên, toàn bộ điều ấy đều có bản tánh hoại diệt.”
Sau đó, khi đã thấy được Pháp, đã thành tựu được Pháp, đã hiểu được Pháp, đã thấm nhuần Pháp, hoài nghi đã không còn, sự lưỡng lự đã dứt hẳn, đã thành tựu niềm tin vào Giáo Pháp của bậc Đạo Sư, không còn cần sự trợ duyên của người khác, các vị ấy đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, chúng con có thể xuất gia trong sự hiện diện của đức Thế Tôn không? Chúng con có thể tu lên bậc trên không?
Đức Thế Tôn đã nói rằng:
– Này các tỳ khưu, hãy đến. Pháp đã được khéo thuyết giảng, hãy thực hành Phạm hạnh một cách đúng đắn để chấm dứt khổ đau.
Chính điều ấy đã là sự tu lên bậc trên của các đại đức ấy.
Dứt câu chuyện về những người bạn thuộc nhóm các vương tử.
Tụng phẩm thứ nhì.
[37] Sau đó, trong khi tuần tự du hành đức Thế Tôn đã ngự đến Uruvelā. Vào lúc bấy giờ, có ba vị đạo sĩ bện tóc đang cư trú ở Uruvelā là Uruvelakassapa, Nadīkassapa, và Gayākassapa. Trong số các vị ấy, đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa là vị lãnh đạo, vị hướng dẫn, vị quan trọng nhất, vị đứng đầu, vị thủ lĩnh của năm trăm đạo sĩ bện tóc. Đạo sĩ bện tóc Nadīkassapa là vị lãnh đạo, vị hướng dẫn, vị quan trọng nhất, vị đứng đầu, vị thủ lĩnh của ba trăm đạo sĩ bện tóc. Đạo sĩ bện tóc Gayākassapa là vị lãnh đạo, vị hướng dẫn, vị quan trọng nhất, vị đứng đầu, vị thủ lĩnh của hai trăm đạo sĩ bện tóc. Khi ấy, đức Thế Tôn đã đi đến khu ẩn cư của đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa, sau khi đến đã nói với đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa điều này:
– Này Kassapa, nếu không trở ngại cho ngươi thì chúng ta[13] có thể ngụ một đêm trong nhà thờ lửa.
– Này vị đại sa-môn, không trở ngại cho tôi, tuy nhiên có con rồng chúa dữ tợn, có pháp thuật, là con rắn có nọc độc khủng khiếp, không thể để cho nó hại ngài được.
Đến lần thứ nhì, đức Thế Tôn đã nói với đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa điều này:
– Này Kassapa, nếu không trở ngại cho ngươi thì chúng ta có thể ngụ một đêm trong nhà thờ lửa.
– Này vị đại sa-môn, không trở ngại cho tôi, tuy nhiên có con rồng chúa dữ tợn, có pháp thuật, là con rắn có nọc độc khủng khiếp, không thể để cho nó hại ngài được.
Đến lần thứ ba, đức Thế Tôn đã nói với đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa điều này:
– Này Kassapa, nếu không trở ngại cho ngươi thì chúng ta có thể ngụ một đêm trong nhà thờ lửa.
– Này vị đại sa-môn, không trở ngại cho tôi, tuy nhiên có con rồng chúa dữ tợn, có pháp thuật, là con rắn có nọc độc khủng khiếp, không thể để cho nó hại ngài được.
– Biết đâu nó có thể không hại tôi. Này Kassapa, ngươi hãy cho phép (ta cư ngụ) nhà thờ lửa đi.
– Này vị đại sa-môn, vậy thì hãy cư ngụ một cách thoải mái.
Sau đó, đức Thế Tôn đã đi vào nhà thờ lửa, sắp đặt tấm thảm trải bằng cỏ, rồi ngồi xuống, xếp (chân) thế kiết già, giữ thân thẳng, tập trung niệm ở phía trước.
[38] Khi ấy, con rồng ấy đã nhìn thấy đức Thế Tôn đi vào, sau khi nhìn thấy trở nên không vui, bực bội, nên đã phun khói. Khi ấy, đức Thế Tôn đã khởi ý điều này: “Có lẽ ta không nên làm thương tổn đến lớp vỏ, làn da, thịt, gân, xương, tủy của con rồng này mà chỉ nên dùng lửa (của ta) làm cho lửa (của nó) bị kiệt quệ thôi.” Sau đó, đức Thế Tôn đã thực hiện phép thần thông có hình thức tương tợ và đã phun khói. Khi ấy, con rồng không còn đè nén được cơn giận nên đã phun ra lửa. Đức Thế Tôn cũng đã nhập thiền đề mục lửa và đã phun ra lửa. Trong khi cả hai bên đều ở trong trạng thái rực sáng, ngôi nhà thờ lửa cũng ở trong trạng thái rực sáng như đang bị đốt cháy sáng rực vậy. Khi ấy, những đạo sĩ bện tóc ấy đã vây xung quanh nhà thờ lửa và nói như vầy:
– Quả thật vị đại sa-môn có vóc dáng xinh đẹp đã bị con rồng hãm hại!
Sau đó, khi trải qua đêm ấy đức Thế Tôn đã không làm thương tổn đến lớp vỏ, làn da, thịt, gân, xương, tủy của con rồng này mà đã dùng lửa (của ngài) làm cho lửa (của nó) bị kiệt quệ, rồi bỏ vào trong bình bát, và đưa cho đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa xem (nói rằng):
– Này Kassapa, đây là con rồng của ngươi. Lửa của nó đã bị lửa (của ta) làm cho kiệt quệ.
Khi ấy, đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa đã khởi ý điều này: “Vị đại sa-môn quả thật có đại thần lực, có đại oai lực bởi vì vị ấy đã dùng lửa (của vị ấy) làm cho lửa của con rồng chúa dữ tợn, có pháp thuật, là con rắn có nọc độc khủng khiếp bị kiệt quệ nhưng vị ấy không phải là vị A-la-hán giống như ta đây.”
[39]
Ở Nerañjarā
đức Thế Tôn đã nói
với đạo sĩ bện tóc
xứ Uruvela
tên Kassapa rằng:
– Hỡi này Kassapa,
nếu không trở ngại
ngươi hãy cho ta ngụ
trong giảng đường thờ lửa
vào trong đêm trăng này.
– Này vị đại sa-môn,
tôi chẳng khó khăn gì
giúp ngài được an lạc.
Có rồng chúa dữ tợn
là rắn có pháp thuật,
nọc độc thật khủng khiếp
không để nó hại ngài.
– Biết đâu nó không thể
hãm hại được ta đây.
Hỡi này Kasspa,
thuận cho nhà thờ lửa.Được biết “Đã cho phép”đi vào, không khiếp đảm,hãi sợ đã không còn.Thấy ẩn sĩ đi vào,rồng chúa thành bực bộiđã phun ra đám khói.Vị chúa của loài ngườitâm hòa dịu, thản nhiên,tại đó, phun khói lại.Không nén nỗi bực tứcrồng chúa đã phun lửanhư là đám hỏa hoạn.Vị chúa của loài ngườithiện xảo đề mục lửa,tại đó, phun lửa lại.Cả hai chìm trong lửanhà thờ lửa rực lửatoàn bộ đều sáng rựcvới ánh sáng chói chang.Các đạo sĩ bện tócbàn bạc: “Thật tuấn túlà vị đại sa-mônđã bị loài rắn hại!”Rồi đêm đã qua đi,lửa rồng chúa chẳng còn,nhiều ngọn lửa đủ màucủa vị có thần lựcxanh, đỏ, hồng, vàng chói,màu trong suốt từ thânvị Aṅgirasa.Bỏ rồng vào bình bát,vị ấy đã đưa racho bà-la-môn thấy:- Hỡi này bà-la-môn,đây là rồng của ngươilửa nó bị kiệt quệvì ngọn lửa của ta.[14]
Khi ấy, đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa vô cùng hoan hỷ với sự kỳ diệu của thần thông này của đức Thế Tôn nên đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Này vị đại sa-môn, hãy cư ngụ ngay tại đây, tôi có thức ăn trường kỳ cho ngài.
Điều kỳ diệu thứ nhất.
[40] Sau đó, đức Thế Tôn đã cư ngụ trong khu rừng rậm nọ không xa chỗ ẩn cư của đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa. Khi ấy vào lúc đêm khuya, bốn vị Đại Thiên Vương với hào quang rực rỡ đã làm chói sáng toàn bộ khu rừng rậm rồi đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi đứng ở bốn phương giống như là những khối lửa khổng lồ. Sau đó, khi trải qua đêm ấy đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Này vị đại sa-môn, đã đến giờ, thức ăn đã chuẩn bị xong. Này vị đại sa-môn, trong lúc đêm khuya những ai có hào quang rực rỡ đã làm chói sáng toàn bộ khu rừng rậm rồi đi đến gặp ngài, sau khi đến đã đảnh lễ ngài rồi đứng ở bốn phương giống như là những khối lửa khổng lồ vậy?
– Này Kassapa, những vị ấy là bốn vị Đại Thiên Vương đã đi đến gặp ta để nghe Pháp.
Khi ấy, đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa đã khởi ý điều này: “Vị đại sa-môn quả thật có đại thần lực, có đại oai lực bởi vì ngay cả bốn vị Đại Thiên Vương còn đi đến gặp để nghe Pháp, nhưng vị ấy không phải là vị A-la-hán giống như ta đây.”
Sau đó, đức Thế Tôn đã thọ thực bữa ăn của vị đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa rồi đã cư ngụ ở ngay trong khu rừng rậm ấy.
Điều kỳ diệu thứ nhì.
[41] Sau đó, trong lúc đêm khuya vị chúa của chư thiên Sakka với hào quang rực rỡ đã làm chói sáng toàn bộ khu rừng rậm rồi đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi đứng ở một bên giống như là khối lửa khổng lồ còn rực rỡ hơn và thù thắng hơn những hào quang đầy màu sắc trước đây nữa. Sau đó, khi trải qua đêm ấy đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Này vị đại sa-môn, đã đến giờ, thức ăn đã chuẩn bị xong. Này vị đại sa-môn, trong lúc đêm khuya ai có hào quang rực rỡ đã làm chói sáng toàn bộ khu rừng rậm rồi đi đến gặp ngài, sau khi đến đã đảnh lễ ngài rồi đứng ở một bên giống như là khối lửa khổng lồ còn rực rỡ hơn và thù thắng hơn những hào quang đầy màu sắc trước đây nữa vậy?
– Này Kassapa, vị ấy là chúa của chư thiên Sakka đã đi đến gặp ta để nghe Pháp.
Khi ấy, đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa đã khởi ý điều này: “Vị đại sa-môn quả thật có đại thần lực, có đại oai lực bởi vì ngay cả chúa của chư thiên Sakka còn đi đến gặp để nghe Pháp, nhưng vị ấy không phải là vị A-la-hán giống như ta đây.”
Sau đó, đức Thế Tôn đã thọ thực bữa ăn của vị đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa rồi đã cư ngụ ở ngay trong khu rừng rậm ấy.
Điều kỳ diệu thứ ba.
[42] Sau đó, trong lúc đêm khuya vị Phạm thiên Sahampati với hào quang rực rỡ đã làm chói sáng toàn bộ khu rừng rậm rồi đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi đứng ở một bên giống như là khối lửa khổng lồ còn rực rỡ hơn và thù thắng hơn những hào quang đầy màu sắc trước đây nữa. Sau đó, khi trải qua đêm ấy đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Này vị đại sa-môn, đã đến giờ, thức ăn đã chuẩn bị xong. Này vị đại sa-môn, trong lúc đêm khuya ai có hào quang rực rỡ đã làm chói sáng toàn bộ khu rừng rậm rồi đi đến gặp ngài, sau khi đến đã đảnh lễ ngài rồi đứng ở một bên giống như là khối lửa khổng lồ còn rực rỡ hơn và thù thắng hơn những hào quang đầy màu sắc trước đây nữa vậy?
– Này Kassapa, vị ấy là Phạm thiên Sahampati đã đi đến gặp ta để nghe Pháp.
Khi ấy, đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa đã khởi ý điều này: “Vị đại sa-môn quả thật có đại thần lực, có đại oai lực bởi vì vị Phạm thiên Sahampati còn đi đến gặp để nghe Pháp, nhưng vị ấy không phải là vị A-la-hán giống như ta đây.”
Sau đó, đức Thế Tôn đã thọ thực bữa ăn của vị đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa rồi đã cư ngụ ở ngay trong khu rừng rậm ấy.
Điều kỳ diệu thứ tư.
[43] Vào lúc bấy giờ, buổi đại lễ cúng tế của đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa đã đến. Toàn bộ dân chúng ở Aṅga và Magadha đem lại nhiều thức ăn loại cứng loại mềm có ý muốn tham dự. Khi ấy, đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa đã khởi ý điều này: “Lúc này đây buổi đại lễ cúng tế của ta đã đến, toàn bộ dân chúng ở Aṅga và Magadha sẽ đem lại nhiều thức ăn loại cứng loại mềm và tham dự, nếu vị đại sa-môn thực hiện sự kỳ diệu của thần thông trước đám đông thì lợi lộc và cung kỉnh sẽ tăng trưởng cho vị đại sa-môn còn lợi lộc và cung kỉnh của ta sẽ bị giảm đi; vậy thì vị đại sa-môn không nên đi đến vào ngày mai.” Khi ấy, đức Thế Tôn dùng tâm biết được ý nghĩ suy tầm của đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa nên đã đi đến xứ Kuru ở phương Bắc, rồi đem đồ ăn khất thực ở nơi ấy đến hồ Anotatta, sau khi thọ thực xong đã trú ngay tại nơi ấy trọn ngày.
Sau đó, khi trải qua đêm ấy đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Này vị đại sa-môn, đã đến giờ, thức ăn đã chuẩn bị xong. Này vị đại sa-môn, việc gì khiến ngài đã không đi đến ngày hôm qua? Tuy nhiên, chúng tôi cũng có nhớ đến ngài rằng: “Việc gì khiến vị đại sa-môn không đi đến?” và phần san sẽ về thức ăn đã được để dành cho ngài.
– Này Kassapa, thế không phải ngươi đã khởi ý điều này: “Lúc này đây buổi đại lễ cúng tế của ta đã đến, toàn bộ dân chúng ở Aṅga và Magadha sẽ đem lại nhiều thức ăn loại cứng loại mềm và tham dự, nếu vị đại sa-môn thực hiện sự kỳ diệu của thần thông trước đám đông thì lợi lộc và cung kỉnh sẽ tăng trưởng cho vị đại sa-môn còn lợi lộc và cung kỉnh của ta sẽ bị giảm đi, vậy thì vị đại sa-môn không nên đi đến vào ngày mai.” Này Kassapa, ta đây dùng tâm biết được ý nghĩ suy tầm của ngươi nên đã đi đến xứ Kuru ở phương Bắc, rồi đem đồ ăn khất thực ở nơi ấy đến hồ Anotatta, sau khi thọ thực xong đã trú ngay tại nơi ấy trọn ngày.
Khi ấy, đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa đã khởi ý điều này: “Vị đại sa-môn quả thật có đại thần lực, có đại oai lực bởi vì vị ấy còn biết được tâm bằng tâm, nhưng vị ấy không phải là vị A-la-hán giống như ta đây.”
Sau đó, đức Thế Tôn đã thọ thực bữa ăn của vị đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa rồi đã cư ngụ ở ngay trong khu rừng rậm ấy.
Điều kỳ diệu thứ năm.
[44] Vào lúc bấy giờ, có vải paṃsukūla[15] đã phát sanh đến đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn đã khởi ý điều này: “Ta có thể giặt vải paṃsukūla ở đâu?” Khi ấy, vị chúa của chư thiên Sakka dùng tâm biết được ý nghĩ suy tầm của đức Thế Tôn nên đã dùng tay đào thành cái hồ nước rồi nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, xin đức Thế Tôn hãy giặt vải paṃsukūla ở đây.
Sau đó, đức Thế Tôn đã khởi ý điều này: “Ta có thể nhồi vải paṃsukūla ở trên vật gì?” Khi ấy, vị chúa của chư thiên Sakka dùng tâm biết được ý nghĩ suy tầm của đức Thế Tôn nên đã mang lại tảng đá lớn rồi nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, xin đức Thế Tôn hãy nhồi vải paṃsukūla ở đây.
Sau đó, đức Thế Tôn đã khởi ý điều này: “Ta có thể nắm vào vật gì và bước lên?” Khi ấy, vị thiên thần ngụ ở cây Kakudha dùng tâm biết được ý nghĩ suy tầm của đức Thế Tôn nên đã uốn cong cành cây xuống rồi nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, xin đức Thế Tôn hãy nắm vào đây và bước lên.
Sau đó, đức Thế Tôn đã khởi ý điều này: “Ta có thể phơi khô vải paṃsukūla ở trên vật gì?” Khi ấy, vị chúa của chư thiên Sakka dùng tâm biết được ý nghĩ suy tầm của đức Thế Tôn nên đã mang lại tảng đá lớn rồi nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, xin đức Thế Tôn hãy phơi khô vải paṃsukūla ở đây.
Sau đó, khi trải qua đêm ấy đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Này vị đại sa-môn, đã đến giờ, thức ăn đã chuẩn bị xong. Này vị đại sa-môn, có phải trước kia ở đây không có cái hồ nước này, giờ ở đây lại có cái hồ nước này? Trước kia hòn đá này không được đem lại, do ai mà hòn đá này đã được đem lại? Trước kia cành của cây Kakudha này không bị uốn cong xuống, giờ cành cây này đã bị uốn cong xuống?
– Này Kassapa, trường hợp này là có vải paṃsukūla đã phát sanh đến ta. Sau đó, ta đây đã khởi ý điều này: “Ta có thể giặt vải paṃsukūla ở đâu?” Khi ấy, vị chúa của chư thiên Sakka dùng tâm biết được ý nghĩ suy tầm của ta nên đã dùng tay đào thành cái hồ nước rồi nói với ta điều này: “Bạch ngài, xin đức Thế Tôn hãy giặt vải paṃsukūla ở đây.” Chính cái hồ này đã được đào bằng tay bởi hạng không phải là người. Sau đó, ta đây đã khởi ý điều này: “Ta có thể nhồi vải paṃsukūla ở trên vật gì?” Khi ấy, vị chúa của chư thiên Sakka dùng tâm biết được ý nghĩ suy tầm của ta nên đã mang lại tảng đá lớn: “Bạch ngài, xin đức Thế Tôn hãy nhồi vải paṃsukūla ở đây.” Chính hòn đá này đã được đem lại bởi hạng không phải là người. Sau đó, ta đây đã khởi ý điều này: “Ta có thể nắm vào vật gì và bước lên?” Khi ấy, vị thiên thần ngụ ở cây Kakudha dùng tâm biết được ý nghĩ suy tầm của ta nên đã uốn cong cành cây xuống: “Bạch ngài, xin đức Thế Tôn hãy nắm vào đây và bước lên.” Chính cây Kakudha này là vật để tay nắm vào. Sau đó, ta đây đã khởi ý điều này: “Ta có thể phơi khô vải paṃsukūla ở trên vật gì?” Khi ấy, vị chúa của chư thiên Sakka dùng tâm biết được ý nghĩ suy tầm của ta nên đã mang lại tảng đá lớn: “Bạch ngài, xin đức Thế Tôn hãy phơi khô vải paṃsukūla ở đây.” Chính hòn đá này đã được đem lại bởi hạng không phải là người.
Khi ấy, đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa đã khởi ý điều này: “Vị đại sa-môn quả thật có đại thần lực, có đại oai lực bởi vì vị chúa của chư thiên Sakka còn phải phục vụ, nhưng vị ấy không phải là vị A-la-hán giống như ta đây.”
Sau đó, đức Thế Tôn đã thọ thực bữa ăn của vị đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa rồi đã cư ngụ ở ngay trong khu rừng rậm ấy.
[45] Sau đó, khi trải qua đêm ấy đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Này vị đại sa-môn, đã đến giờ, thức ăn đã chuẩn bị xong.
– Này Kassapa, ngươi hãy đi rồi ta theo sau.
Sau khi bảo vị đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa đi, ngài đã hái trái cây từ cây Jambu, do cây Jambu mà Jambudīpa[16] được biết tiếng, rồi đã đi đến trước và ngồi ở nhà thờ lửa. Vị đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa đã nhìn thấy đức Thế Tôn ngồi trong nhà thờ lửa, sau khi nhìn thấy đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Này vị đại sa-môn, ngài đã đi đến bằng con đường nào? Tôi đã ra đi trước ngài, vậy mà ngài đây đã đi đến trước và ngồi ở nhà thờ lửa.
– Này Kassapa, trong trường hợp này, sau khi bảo ngươi đi, ta đã hái trái cây từ cây Jambu, do cây Jambu mà Jambudīpa được biết tiếng, rồi đã đi đến trước và ngồi ở nhà thờ lửa. Này Kassapa, trái cây Jambu này đạt được màu sắc, đạt được hương thơm, đạt được mùi vị, nếu ngươi thích thì hãy ăn đi.
– Này vị đại sa-môn, thôi đi. Chính ngài đã mang nó lại thì chính ngài hãy ăn nó.
Khi ấy, đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa đã khởi ý điều này: “Vị đại sa-môn quả thật có đại thần lực, có đại oai lực bởi vì sau khi bảo ta đi, vị ấy đã hái trái cây từ cây Jambu, do cây Jambu mà Jambudīpa được biết tiếng, rồi đi đến trước và ngồi ở nhà thờ lửa, nhưng vị ấy không phải là vị A-la-hán giống như ta đây.”
Sau đó, đức Thế Tôn đã thọ thực bữa ăn của vị đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa rồi đã cư ngụ ở ngay trong khu rừng rậm ấy.
Sau đó, khi trải qua đêm ấy đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Này vị đại sa-môn, đã đến giờ, thức ăn đã chuẩn bị xong.
– Này Kassapa, ngươi hãy đi rồi ta theo sau.
Sau khi bảo vị đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa đi, ngài đã hái trái xoài không xa cây Jambu lắm, do cây Jambu mà Jambudīpa được biết tiếng, …(như trên)… trái Āmalakī không xa cây Jambu lắm, …(như trên)… trái Harītakī không xa cây Jambu lắm, …(như trên)… đã đi đến cõi trời Đạo Lợi hái bông hoa của cây san hô, rồi đã đi đến trước và ngồi ở nhà thờ lửa. Vị đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa đã nhìn thấy đức Thế Tôn ngồi trong nhà thờ lửa, sau khi nhìn thấy đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Này vị đại sa-môn, ngài đã đi đến bằng con đường nào? Tôi đã ra đi trước ngài vậy mà ngài đã đi đến trước và ngồi ở nhà thờ lửa.
– Này Kassapa, trong trường hợp này, sau khi bảo ngươi đi ta đã đi đến cõi trời Đạo Lợi hái bông hoa của cây san hô, rồi đã đi đến trước và ngồi ở nhà thờ lửa. Này Kassapa, bông hoa của cây san hô này đạt được màu sắc, đạt được hương thơm, nếu ngươi thích thì hãy lấy đi.
Khi ấy, đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa đã khởi ý điều này: “Vị đại sa-môn quả thật có đại thần lực, có đại oai lực bởi vì sau khi bảo ta đi, vị ấy đã đi đến cõi trời Đạo Lợi hái bông hoa của cây san hô, rồi đã đi đến trước và ngồi ở nhà thờ lửa, nhưng vị ấy không phải là vị A-la-hán giống như ta đây.”
[46] Vào lúc bấy giờ, các vị đạo sĩ bện tóc ấy có ước nguyện chăm sóc các ngọn lửa không thể chẻ nhỏ các thanh củi được. Khi ấy, các vị đạo sĩ bện tóc ấy đã khởi ý điều này: “Chắc chắn là do năng lực thần thông của vị đại sa-môn nên chúng ta không thể nào chẻ nhỏ các thanh củi được!” Khi ấy, đức Thế Tôn đã nói với vị đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa điều này:
– Này Kassapa, hãy làm các thanh củi được chẻ nhỏ.
– Này vị đại sa-môn, hãy làm các thanh củi được chẻ nhỏ.
Ngay lập tức, năm trăm thanh củi đã được chẻ nhỏ. Khi ấy, đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa đã khởi ý điều này: “Vị đại sa-môn quả thật có đại thần lực, có đại oai lực bởi vì các thanh củi đã được chẻ nhỏ, nhưng vị ấy không phải là vị A-la-hán giống như ta đây.”
[47] Vào lúc bấy giờ, các vị đạo sĩ bện tóc ấy có ước nguyện chăm sóc các ngọn lửa không thể đốt lên các ngọn lửa được. Khi ấy, các vị đạo sĩ bện tóc ấy đã khởi ý điều này: “Chắc chắn là do năng lực thần thông của vị đại sa-môn nên chúng ta không thể nào đốt lên các ngọn lửa được!” Khi ấy, đức Thế Tôn đã nói với vị đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa điều này:
– Này Kassapa, hãy làm các ngọn lửa được đốt lên.
– Này vị đại sa-môn, hãy làm các ngọn lửa được đốt lên.
Ngay lập tức, năm trăm ngọn lửa đã được đốt lên. Khi ấy, đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa đã khởi ý điều này: “Vị đại sa-môn quả thật có đại thần lực, có đại oai lực bởi vì các ngọn lửa đã được đốt lên, nhưng vị ấy không phải là vị A-la-hán giống như ta đây.”
[48] Vào lúc bấy giờ, các vị đạo sĩ bện tóc ấy có ước nguyện chăm sóc các ngọn lửa không thể dập tắt các ngọn lửa được. Khi ấy, các vị đạo sĩ bện tóc ấy đã khởi ý điều này: “Chắc chắn là do năng lực thần thông của vị đại sa-môn nên chúng ta không thể nào dập tắt các ngọn lửa được!” Khi ấy, đức Thế Tôn đã nói với vị đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa điều này:
– Này Kassapa, hãy làm các ngọn lửa được dập tắt.
– Này vị đại sa-môn, hãy làm các ngọn lửa được dập tắt.
Ngay lập tức, năm trăm ngọn lửa đã được dập tắt. Khi ấy, đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa đã khởi ý điều này: “Vị đại sa-môn quả thật có đại thần lực, có đại oai lực bởi vì các ngọn lửa đã được dập tắt, nhưng vị ấy không phải là vị A-la-hán giống như ta đây.”
[49] Vào lúc bấy giờ, trong khoảng thời gian tám đêm của mùa đông lạnh lẽo vào những lúc tuyết rơi, các vị đạo sĩ bện tóc ấy hụp xuống và trồi lên trong giòng sông Nerañjarāđã rồi lại thực hiện những hành động trồi lên hụp xuống. Khi ấy, đức Thế Tôn đã làm hiện ra các chảo lửa có số lượng năm trăm ở tại chỗ các vị đạo sĩ bện tóc ấy đã lội lên và sưởi ấm.
Khi ấy, các vị đạo sĩ bện tóc ấy đã khởi ý điều này: “Chắc chắn là do năng lực thần thông của vị đại sa-môn cho nên các chảo lửa này đã được hiện ra.”
Khi ấy, vị đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa đã khởi ý điều này: “Vị đại sa-môn quả thật có đại thần lực, có đại oai lực bởi vì vị ấy còn làm hiện ra các chảo lửa nhiều đến mức này, nhưng vị ấy không phải là vị A-la-hán giống như ta đây.”
[50] Vào lúc bấy giờ, có đám mây đen lớn sái mùa đã đổ mưa tạo thành trận lũ lụt lớn. Trong khu vực nào đức Thế Tôn cư ngụ thì nước không tràn đến khu vực ấy. Khi ấy, đức Thế Tôn đã khởi ý điều này: “Hay là ta nên đẩy nước ra xung quanh rồi đi kinh hành ở khoảng giữa trên mặt đất được phủ đầy bụi?” Sau đó, đức Thế Tôn đã đẩy nước ra xung quanh rồi đi kinh hành ở khoảng giữa trên mặt đất được phủ đầy bụi. Khi ấy, vị đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa (nghĩ rằng): “Chỉ mong sao vị đại sa-môn không bị nước cuốn trôi đi!” rồi đã cùng nhiều vị đạo sĩ bện tóc đi thuyền đến khu vực đức Thế Tôn cư ngụ. Vị đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa đã nhìn thấy đức Thế Tôn đang đi kinh hành ở khoảng giữa trên mặt đất được phủ đầy bụi sau khi đã đẩy nước ra xung quanh, sau khi nhìn thấy đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Này vị đại sa-môn, ngài có ở đây không?
– Này Kassapa, có ta đây.
Rồi đức Thế Tôn đã bay lên không trung và hạ xuống đứng trên chiếc thuyền. Khi ấy, vị đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa đã khởi ý điều này: “Vị đại sa-môn quả thật có đại thần lực, có đại oai lực bởi vì nước không cuốn trôi đi, nhưng vị ấy không phải là vị A-la-hán giống như ta đây.”
[51] Khi ấy, đức Thế Tôn đã khởi ý điều này: “Đã lâu ngay, gã khờ dại này chỉ khởi ý rằng: ‘Vị đại sa-môn quả thật có đại thần lực, có đại oai lực, nhưng vị ấy không phải là vị A-la-hán giống như ta đây.’ Hay là ta nên làm cho vị đạo sĩ bện tóc này phải nao núng? ”
Sau đó, đức Thế Tôn đã nói với vị đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa điều này:
– Này Kassapa, ngươi chẳng phải là A-la-hán và cũng chẳng đạt được con đường đưa đến quả vị A-la-hán. Ngay cả đường lối thực hành để ngươi có thể trở thành A-la-hán hoặc đạt được con đường đưa đến quả vị A-la-hán ngươi cũng không có.
Khi ấy, vị đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa đã quỳ xuống đê đầu ở hai bàn chân của đức Thế Tôn và đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, con có thể xuất gia trong sự hiện diện của đức Thế Tôn không? Con có thể tu lên bậc trên không?
– Này Kassapa, ngươi là vị lãnh đạo, vị hướng dẫn, vị quan trọng nhất, vị đứng đầu, vị thủ lĩnh của năm trăm đạo sĩ bện tóc. Ngươi hãy thông báo đến các vị ấy và các vị ấy sẽ làm theo như điều các vị suy nghĩ.
Sau đó, vị đạo sĩ bện tóc Uruvelakassapa đã đi đến gặp các đạo sĩ bện tóc ấy, sau khi đến đã nói với các đạo sĩ bện tóc ấy điều này:
– Này các ông, ta muốn thực hành Phạm hạnh theo vị đại sa-môn, các ông hãy làm theo như điều các ông suy nghĩ.
– Ngài ơi, chúng tôi có niềm tin với vị đại sa-môn đã lâu nay. Nếu ngài thực hành Phạm hạnh theo vị đại sa-môn, hết thảy tất cả chúng tôi sẽ thực hành Phạm hạnh theo vị đại sa-môn.
Sau đó, các vị đạo sĩ bện tóc ấy đã quăng trôi theo giòng nước các chùm tóc, các bện tóc, các đồ đạc, các dụng cụ thờ lửa rồi đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã quỳ xuống đê đầu ở hai bàn chân của đức Thế Tôn và đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, chúng con có thể xuất gia trong sự hiện diện của đức Thế Tôn không? Chúng con có thể tu lên bậc trên không?
Đức Thế Tôn đã nói rằng:
– Này các tỳ khưu, hãy đến. Pháp đã được khéo thuyết giảng, hãy thực hành Phạm hạnh một cách đúng đắn để chấm dứt khổ đau.
Chính điều ấy đã là sự tu lên bậc trên của các đại đức ấy.
[52] Đạo sĩ tóc bện Nadīkassapa đã nhìn thấy giòng nước đang cuốn trôi đi các chùm tóc, các bện tóc, các đồ đạc, các dụng cụ thờ lửa. Sau khi nhìn thấy, vị ấy đã khởi ý điều này: “Chớ có việc gì nguy hiểm đã xảy ra cho anh trai của ta!” rồi đã phái các đạo sĩ bện tóc (nói rằng): “Các vị hãy đi và tìm hiểu xem anh trai của ta thế nào!” còn bản thân cùng với ba trăm đạo sĩ bện tóc đã đi đến gặp đại đức Uruvelakassapa, sau khi đến đã nói với đại đức Uruvelakassapa điều này:
– Này Kassapa, điều này là tốt hơn hay sao?
– Này đệ, đúng vậy. Điều này là tốt hơn.
Sau đó, các đạo sĩ bện tóc ấy đã quăng trôi theo giòng nước các chùm tóc, các bện tóc, các đồ đạc, các dụng cụ thờ lửa rồi đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã quỳ xuống đê đầu ở hai bàn chân của đức Thế Tôn và đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, chúng con có thể xuất gia trong sự hiện diện của đức Thế Tôn không? Chúng con có thể tu lên bậc trên không?
Đức Thế Tôn đã nói rằng:
– Này các tỳ khưu, hãy đến. Pháp đã được khéo thuyết giảng, hãy thực hành Phạm hạnh một cách đúng đắn để chấm dứt khổ đau.
Chính điều ấy đã là sự tu lên bậc trên của các đại đức ấy.
[53] Đạo sĩ tóc bện Gayākassapa đã nhìn thấy giòng nước đang cuốn trôi đi các chùm tóc, các bện tóc, các đồ đạc, các dụng cụ thờ lửa. Sau khi nhìn thấy, vị ấy đã khởi ý điều này: “Chớ có việc gì nguy hiểm đã xảy ra cho các anh trai của ta!” rồi đã phái các đạo sĩ bện tóc (nói rằng): “Các vị hãy đi và tìm hiểu xem các anh trai của ta thế nào!” còn bản thân cùng với hai trăm đạo sĩ bện tóc đã đi đến gặp đại đức Uruvelakassapa, sau khi đến đã nói với đại đức Uruvelakassapa điều này:
– Này Kassapa, điều này là tốt hơn hay sao?
– Này đệ, đúng vậy. Điều này là tốt hơn.
Sau đó, các đạo sĩ bện tóc ấy đã quăng trôi theo giòng nước các chùm tóc, các bện tóc, các đồ đạc, các dụng cụ thờ lửa rồi đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã quỳ xuống đê đầu ở hai bàn chân của đức Thế Tôn và đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, chúng con có thể xuất gia trong sự hiện diện của đức Thế Tôn không? Chúng con có thể tu lên bậc trên không?
Đức Thế Tôn đã nói rằng:
– Này các tỳ khưu, hãy đến. Pháp đã được khéo thuyết giảng, hãy thực hành Phạm hạnh một cách đúng đắn để chấm dứt khổ đau.
Chính điều ấy đã là sự tu lên bậc trên của các đại đức ấy.
[54] Do nguyện lực của đức Thế Tôn, năm trăm thanh củi không chẻ ra được đã được chẻ ra, các ngọn lửa không đốt lên được đã được đốt lên, không dập tắt được đã được dập tắt, năm trăm chảo lửa đã được làm cho hiện ra. Theo cách thức ấy, có được ba ngàn năm trăm điều kỳ diệu.
[55] Sau đó, khi đã ngự tại Uruvelā theo như ý thích, đức Thế Tôn đã ra đi du hành về phía đỉnh Gayā cùng với đại chúng tỳ khưu gồm có một ngàn vị tỳ khưu, hết thảy tất cả đều là đạo sĩ bện tóc trước đây. Tại nơi đó ở Gayā, đức Thế Tôn ngự tại đỉnh Gayā cùng với một ngàn vị tỳ khưu. Tại đó, đức Thế Tôn đã bảo các vị tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, tất cả đều bị cháy rực. Và này các tỳ khưu, cái gì là tất cả đều bị cháy rực? Này các tỳ khưu, mắt bị cháy rực, các sắc bị cháy rực, sự nhận thức của mắt bị cháy rực, sự tiếp xúc của mắt bị cháy rực, tức là sự cảm thọ được sanh lên do duyên tiếp xúc của mắt là lạc, hay là khổ, hoặc không khổ không lạc cũng đều bị cháy rực. Bị cháy rực bởi điều gì? Ta nói rằng: “Bị cháy rực bởi lửa tham, bởi lửa sân, bởi lửa si. Bị cháy rực bởi sanh, bởi già và chết, bởi buồn rầu, bởi ta thán, bởi khổ đau, bởi bất mãn, bởi thất vọng.” Tai bị cháy rực, các âm thanh bị cháy rực, …(như trên)… Mũi bị cháy rực, các mùi bị cháy rực, …(như trên)… Lưỡi bị cháy rực, các vị nếm bị cháy rực, …(như trên)… Thân bị cháy rực, các sự xúc chạm bị cháy rực, …(như trên)… Ý bị cháy rực, các đối tượng của ý (dhammā) bị cháy rực, sự nhận thức của ý bị cháy rực, sự tiếp xúc của ý bị cháy rực, tức là sự cảm thọ được sanh lên do duyên tiếp xúc của ý là lạc, hay là khổ, hoặc không khổ không lạc cũng đều bị cháy rực. Bị cháy rực bởi điều gì? Ta nói rằng: “Bị cháy rực bởi lửa tham, bởi lửa sân, bởi lửa si. Bị cháy rực bởi sanh, bởi già và chết, bởi buồn rầu, bởi ta thán, bởi khổ đau, bởi bất mãn, bởi thất vọng.” Này các tỳ khưu, trong khi thấy như thế vị Thánh đệ tử có học hỏi không còn hứng thú đến mắt, không còn hứng thú đến các sắc, không còn hứng thú đến sự nhận thức của mắt, không còn hứng thú đến sự tiếp xúc của mắt, tức là không còn hứng thú đến sự cảm thọ được sanh lên do duyên tiếp xúc của mắt là lạc, hay là khổ, hoặc không khổ không lạc, không còn hứng thú đến tai, không còn hứng thú đến các âm thanh, …(như trên)…, không còn hứng thú đến mũi, không còn hứng thú đến các mùi, …(như trên)…, không còn hứng thú đến lưỡi, không còn hứng thú đến các vị nếm, …(như trên)…, không còn hứng thú đến thân, không còn hứng thú đến các sự xúc chạm, …(như trên)…, không còn hứng thú đến ý, không còn hứng thú đến các đối tượng của ý, không còn hứng thú đến sự nhận thức của ý, không còn hứng thú đến sự tiếp xúc của ý, tức là không còn hứng thú đến sự cảm thọ được sanh lên do duyên tiếp xúc của ý là lạc, hay là khổ, hoặc không khổ không lạc; khi đã không còn hứng thú, vị ấy không còn say đắm; do không còn say đắm vị ấy được giải thoát; trong khi được giải thoát, trí khởi lên rằng: “Đã được giải thoát.” Vị ấy biết được rằng: “Sự tái sanh đã cạn kiệt, Phạm hạnh đã sống, việc cần làm đã làm, không còn (đưa đến) bản ngã nào khác (tương tợ) như vầy nữa.” Và trong khi bài kinh này được thuyết giảng, các tâm của một ngàn vị tỳ khưu ấy đã không còn chấp thủ và đã được giải thoát khỏi các lậu hoặc.
Dứt phần giảng về “Bị Cháy Rực.”
Dứt tụng phẩm “Sự Kỳ Diệu ở Uruvelā” là phần thứ ba.
[1] Bản dịch tiếng Anh của Rhys Davids and Hermann Oldenberg dẫn chứng tài liệu và giải thích rằng: 1. Các người chăn dê dùng bóng mát của cây si (nigrodha) để nghỉ ngơi nên được gọi là cây si của những người chăn dê. 2. Cây si đã được một đứa bé chăn dê trồng trong thời gian Bồ-tát Siddhattha hành khổ hạnh sáu năm.
[2] Ngài Buddhaghosa giải thích rằng đức Phật đã chú nguyện thành một bình bát mới từ bốn bình bát bằng đá ấy.
[3] Chỉ tuyên bố quy y đức Thế Tôn và quy y Giáo Pháp vì Tăng Bảo chưa được hình thành.
[4] Apparajakkha = appa–raja–akkha = mắt có ít bụi.
[5] Phần trong ngoặc đơn cho đến hết phần [8] ở Tam Tạng của Thái Lan được ghi vào phần chú thích ở cuối trang.
[6] Đức Thế Tôn đề cập đến sự phục vụ của năm vị này trong thời gian Ngài hành khổ hạnh sáu năm. Điểm cần lưu ý là đức Thế Tôn dùng từ “bhikkhu” dịch là “tỳ khưu” để gọi năm vị này dầu các vị chưa trở thành đệ tử và chưa tu tập theo Giáo Pháp của Ngài (Chú thích của người dịch).
[7] Nói cho gọn hơn là Bát Chánh Đạo gồm có: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh cần, chánh niệm, chánh định.
[8] “Aññākoṇḍañña”= Aññā + koṇḍañña nghĩa làKoṇḍañña đã hiểu. Aññā được trích từ lời nói của đức Phật là: “Aññāsi vata bho Koṇḍañño, aññāsi vata bho Koṇḍañño” rồi ghép vào phía trước tên Koṇḍañña.
[9] Khoái lạc sanh lên do năm giác quan: mắt, tai, mũi, lưỡi, và thân.
[10] … bãi tha ma đạt được trong tầm tay (dịch sát từ).
[11] Lúc ấy trên thế gian này đã có sáu vị tỳ khưu A-la-hán đại diện cho Tăng Bảo. Và người gia chủ này quy Tam Bảo vì đọc ba câu là: “Quy y đức Thế Tôn, Quy y Giáo Pháp, và Quy y Hội chúng tỳ khưu,” không như hai người thương buôn trước đây chỉ quy y Nhị Bảo là Phật Bảo và Pháp Bảo (chú thích của người dịch).
[12] Tăng (trong chữ Tăng-già) được ghi âm từ chữ “saṅgha” có ý nghĩa thông thường là hội chúng, tập thể, v.v… và được thiêng liêng hóa khi đề cập đến ba ngôi báu Phật, Pháp, Tăng (Tam Bảo). Điều cần lưu ý ở đây là từ saṅgha cũng được dùng cho tỳ khưu ni (bhikkhunīsaṅgha = hội chúng tỳ khưu ni, Tăng tỳ khưu ni; tương tợ như ở bhikkhusaṅgha = hội chúng tỳ khưu, Tăng tỳ khưu). Tuy nhiên, hiện nay có khuynh hướng dùng chữ “Tăng” chỉ dành riêng cho phái Nam ví dụ như: “Tứ chúng gồm có Tăng, Ni, Thiện Nam, Tín Nữ”.hoặc “Kính bạch chư đại đức Tăng Ni,” hoặc bình dân hơn như “ông Tăng bà Ni,” v.v… Chữ “Tăng” này chỉ tương đương với từ “bhikkhu = tỳ khưu” chứ không phải là “saṅgha” như ở trên.
[13] vaseyyāma: ngôi thứ nhất số nhiều.
[14] Ngài Buddhaghosa cho biết các bài kệ như vầy được lưu truyền về sau này.
[15] Chủ yếu là vải quấn thây người chết được đem bỏ ở bãi tha ma hoặc là vải nhặt ở các đống rác (chú thích của người dịch). Ở các nơi khác, chúng tôi dịch là “vải dơ bị quăng bỏ.”
[16] Jambudīpa, dịch là đảo Jambu, tức là bán đảo Ấn Độ (chú thích của người dịch).
I. CHƯƠNG TRỌNG YẾU (MAHĀKHANDHAKAṂ) (tt)
Tụng phẩm thứ tư
[56] Sau đó, khi đã ngự tại Uruvelā theo như ý thích, đức Thế Tôn đã ra đi du hành về phía thành Rājagaha (Vương Xá) cùng với đại chúng tỳ khưu gồm có một ngàn vị tỳ khưu, hết thảy tất cả đều là đạo sĩ bện tóc trước đây. Trong khi tuần tự du hành, ngài đã ngự đến thành Rājagaha. Tại nơi đó ở thành Rājagaha, đức Thế Tôn ngự ở khu rừng Laṭṭhi, nơi điện thờ Suppatiṭṭha.
[57] Đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha (Ma Kiệt Đà) đã nghe được rằng: “Chắc chắn là ngài Sa-môn Gotama, con trai dòng Sākya (Thích Ca), từ dòng dõi Sākya đã xuất gia, đã ngự đến thành Rājagaha và trú ở khu rừng Laṭṭhi, nơi điện thờ Suppatiṭṭha. Tiếng tăm tốt đẹp về ngài Gotama ấy đã được lan rộng ra như vầy: ‘Đức Thế Tôn ấy là bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Tối Thượng Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.’ Vị ấy sau khi tự mình chứng ngộ thắng trí đã công bố về thế gian này tính luôn cõi chư thiên, cõi Ma Vương, cõi Phạm thiên, cho đến dòng dõi sa-môn, bà-la-môn, chư thiên, và loài người. Vị ấy thuyết giảng Giáo Pháp toàn hảo ở đoạn đầu, toàn hảo ở đoạn giữa, và toàn hảo ở đoạn kết, thành tựu về ý nghĩa, thành tựu về văn tự, giảng giải về Phạm hạnh thanh tịnh một cách trọn vẹn và đầy đủ. Tốt thay cho việc diện kiến các vị A-la-hán như thế ấy!”
Sau đó, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha được tháp tùng bởi một trăm hai mươi ngàn[1] bà-la-môn và gia chủ người xứ Magadha đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Còn một trăm hai mươi ngàn bà-la-môn và gia chủ người xứ Magadha ấy, một số đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên, một số đã tỏ vẻ thân thiện với đức Thế Tôn sau khi trao đổi lời xã giao thân thiện rồi ngồi xuống ở một bên, một số đã chắp tay cúi chào đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên, một số đã xưng tên họ trước đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên, một số có thái độ im lặng rồi ngồi xuống ở một bên. Khi ấy, một trăm hai mươi ngàn bà-la-môn và gia chủ người xứ Magadha ấy đã khởi ý điều này: “Vị đại sa-môn thực hành Phạm hạnh theo Uruvelakassapa hay là Uruvelakassapa thực hành Phạm hạnh theo vị đại sa-môn?” Khi ấy, đức Thế Tôn dùng tâm biết được ý nghĩ suy tầm của một trăm hai mươi ngàn bà-la-môn và gia chủ người xứ Magadha ấy nên đã nói với đại đức Uruvelakassapa bằng bài kệ này:
– Sau khi đã thấy gì
dân Uruvelā
nổi danh người chuộc tội
đã từ bỏ lửa thần?
Hỡi này Kassapa
ta hỏi ngươi điều này:
“Tại sao ngươi từ bỏ
việc thờ lửa của ngươi?”
– Việc cúng tế nói về
các hình sắc, âm thanh,
rồi đến các mùi vị,
dục lạc, và đàn bà.
Nhận thức các trói buộc
“Việc ấy là ghê tởm;”
vì thế, con chẳng thích
việc hy sinh cúng tế.
Đức Thế Tôn nói rằng:
– Ở đây Kassapa,
tâm ngươi không thích thú
các sắc, tiếng, mùi vị,
như thế có điều gì
ở thế giới nhân thiên
tâm ngươi được thỏa thích
nói ta nghe điều ấy.
– Đã thấy được lối đi
thanh tịnh, không tái sanh
không tội, không trói buộc
trong dục lạc, hiện hữu,
không còn sanh cõi khác,
chẳng gì lôi kéo được;
vì thế, con chẳng thích
việc hy sinh cúng tế.
[58] Sau đó, đại đức Uruvelakassapa đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp thượng y một bên vai, quỳ xuống đê đầu ở hai bàn chân của đức Thế Tôn và nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, đức Thế Tôn là bậc Đạo Sư của con, con là người đệ tử. Bạch ngài, đức Thế Tôn là bậc Đạo Sư của con, con là người đệ tử.
Khi ấy, một trăm hai mươi ngàn bà-la-môn và gia chủ người xứ Magadha ấy đã khởi ý điều này: “Uruvelakassapa thực hành Phạm hạnh theo vị đại sa-môn.”
Sau đó, đức Thế Tôn dùng tâm biết được ý nghĩ suy tầm của một trăm hai mươi ngàn bà-la-môn và gia chủ người xứ Magadha ấy nên đã thuyết Pháp theo thứ lớp đến những người ấy. Tức là ngài đã giảng giải bài thuyết về bố thí, bài thuyết về giới cấm, bài thuyết về cõi trời, sự ô nhiễm hạ liệt tai hại của các dục, sự lợi ích của việc xuất ly. Khi đức Thế Tôn biết được tâm của những người ấy đã sẵn sàng, dễ uốn nắn, không còn chướng ngại, hướng thượng, tĩnh lặng, ngài đã phô bày Pháp thuyết giảng đã được chư Phật khai mở là: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Cũng giống như tấm vải sạch chưa bị vết nhơ có thể nhuộm màu một cách toàn vẹn; tương tợ như thế, ngay tại chỗ ngồi ấy Pháp nhãn không nhiễm bụi trần, không vết nhơ đã sanh khởi đến một trăm hai mươi ngàn bà-la-môn và gia chủ người xứ Magadha ấy có đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đứng đầu: “Điều gì có bản tánh được sanh lên, toàn bộ điều ấy đều có bản tánh hoại diệt.”
Mười ngàn (ekanahutaṃ) người đã tuyên bố bản thân là cư sĩ.
[59] Sau đó, khi đã thấy được Pháp, đã thành tựu được Pháp, đã hiểu được Pháp, đã thấm nhuần Pháp, hoài nghi đã không còn, sự lưỡng lự đã dứt hẳn, đã thành tựu niềm tin vào Giáo Pháp của bậc Đạo Sư, không còn cần sự trợ duyên của người khác, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, trước đây khi còn là hoàng tử trẫm đã có năm điều ước nguyện, giờ đây trẫm đã được toại nguyện các điều ấy. Bạch ngài, trước đây khi còn là hoàng tử trẫm đã khởi ý điều này: “Ước gì người ta tấn phong ta làm vua!” Bạch ngài, đó là điều ước nguyện thứ nhất của trẫm, giờ đây trẫm đã được toại nguyện điều ấy. “Ước gì bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác đi vào vương quốc của ta!” Bạch ngài, đó là điều ước nguyện thứ nhì của trẫm, giờ đây trẫm đã được toại nguyện điều ấy. “Ước gì ta được tỏ lòng tôn kính đến đức Thế Tôn ấy!” Bạch ngài, đó là điều ước nguyện thứ ba của trẫm, giờ đây trẫm đã được toại nguyện điều ấy. “Ước gì đức Thế Tôn ấy thuyết giảng Giáo Pháp cho ta!” Bạch ngài, đó là điều ước nguyện thứ tư của trẫm, giờ đây trẫm đã được toại nguyện điều ấy. “Ước gì ta có thể hiểu được Giáo Pháp của đức Thế Tôn ấy!” Bạch ngài, đó là điều ước nguyện thứ năm của trẫm, giờ đây trẫm đã được toại nguyện điều ấy. Bạch ngài, trước đây khi còn là hoàng tử, trẫm đã có năm điều ước nguyện này; giờ đây trẫm đã được toại nguyện các điều ấy. Bạch ngài, thật là tuyệt vời! Bạch ngài, thật là tuyệt vời! Bạch ngài, giống như người có thể lật ngửa vật đã được úp lại, mở ra vật đã bị che kín, chỉ đường cho kẻ lạc lối, đem lại cây đèn dầu nơi bóng tối (nghĩ rằng): “Những người có mắt sẽ nhìn thấy được các hình dáng;” tương tợ như thế, Pháp đã được đức Thế Tôn chỉ rõ bằng nhiều phương tiện. Bạch ngài, trẫm đây xin quy y đức Thế Tôn, Giáo Pháp, và Hội chúng tỳ khưu. Xin đức Thế Tôn chấp nhận trẫm là nam cư sĩ đã được quy y kể từ hôm nay cho đến trọn đời. Bạch ngài, xin đức Thế Tôn nhận lời trẫm về bữa thọ trai vào ngày mai cùng với hội chúng tỳ khưu.
Đức Thế Tôn đã nhận lời bằng thái độ im lặng. Khi ấy, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha hiểu được sự nhận lời của đức Thế Tôn nên đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi.
[60] Sau đó, khi trải qua đêm ấy đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã cho người chuẩn bị thức ăn thượng hạng loại cứng loại mềm rồi sai người thông báo thời giờ đến đức Thế Tôn:
– Bạch ngài, đã đến giờ, thức ăn đã chuẩn bị xong.
Khi ấy vào buổi sáng, đức Thế Tôn đã mặc y, cầm y bát, đi vào thành Rājagaha cùng với đại chúng tỳ khưu gồm có một ngàn vị tỳ khưu, hết thảy tất cả đều là đạo sĩ bện tóc trước đây
[61] Vào lúc bấy giờ, chúa của chư thiên Sakka đã biến thành hình dáng của người thanh niên đi phía trước hội chúng tỳ khưu có đức Phật đứng đầu ngâm nga những lời kệ này:
Vị đã tự điều phục
đã hoàn toàn giải thoát
cùng những vị trước đây
là đạo sĩ bện tóc
giờ đã được điều phục,
được hoàn toàn giải thoát.
Với sắc màu vàng khối,
đức Thế Tôn đi vào
thành Rājagaha.
Vị đã được tự do
đã hoàn toàn giải thoát
cùng những vị trước đây
là đạo sĩ bện tóc
giờ đã được tự do,
được hoàn toàn giải thoát.
Với sắc màu vàng khối,
đức Thế Tôn đi vào
thành Rājagaha.
Vị đã tự vượt qua
đã hoàn toàn giải thoát
cùng những vị trước đây
là đạo sĩ bện tóc
giờ đã được vượt qua,
được hoàn toàn giải thoát.
Với sắc màu vàng khối,
đức Thế Tôn đi vào
thành Rājagaha.
Vị đã được thanh tịnh
đã hoàn toàn giải thoát
cùng những vị trước đây
là đạo sĩ bện tóc
giờ đã được thanh tịnh,
được hoàn toàn giải thoát.
Với sắc màu vàng khối,
đức Thế Tôn đi vào
thành Rājagaha.
Đấng Thập Trú,[2] Thập Lực,vị thông hiểu mười pháp,[3]và thành đạt mười điều.[4]một ngàn vị tháp tùngThế Tôn ấy đi vàothành Rājagaha.
[62] Dân chúng khi nhìn thấy chúa của chư Thiên Sakka đã nói như vầy:
– Chàng thanh niên trẻ này thật đẹp trai! Chàng thanh niên trẻ này thật duyên dáng! Chàng thanh niên trẻ này thật dễ mến! Chàng thanh niên trẻ này là (thị giả) của ai vậy?
Khi được nói như thế, chúa của chư thiên Sakka đã nói với đám người ấy bằng bài kệ này:
Vị nào bậc trí tuệ
đã điều phục vẹn toàn,
thanh tịnh, chẳng ai bằng,
là vị A-la-hán,
đấng Thiện Thệ ở đời,
ta thị giả vị ấy.
[63] Sau đó, đức Thế Tôn đã đi đến tư dinh của đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha, sau khi đến đã ngồi xuống trên chỗ ngồi được sắp đặt sẵn cùng với hội chúng tỳ khưu. Khi ấy, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã tự tay làm hài lòng và thỏa mãn hội chúng tỳ khưu có đức Phật đứng đầu với thức ăn thượng hạng loại cứng loại mềm. Đến khi đức Thế Tôn đã thọ thực xong bàn tay đã rời khỏi bình bát, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã khởi ý điều này: “Đức Thế Tôn nên ngụ ở nơi nào đây? Đối với ngài, chỗ ấy không nên xa làng mạc lắm, cũng không quá gần, thuận tiện cho việc tới lui, dân chúng có thể đi đến khi nào có ước muốn, ban ngày không đông đảo, ban đêm ít tiếng động, không nhiều gió, tách biệt với dân chúng, thích hợp cho việc thiền tịnh.” Rồi đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã khởi ý điều này: “Khu vườn Veḷuvana (Trúc Lâm) này của chúng ta là không xa làng mạc lắm, cũng không quá gần, thuận tiện cho việc tới lui, dân chúng có thể đi đến khi nào có ước muốn, ban ngày không đông đảo, ban đêm ít tiếng động, không nhiều gió, tách biệt với dân chúng, thích hợp cho việc thiền tịnh, hay là ta nên dâng khu vườn Veḷuvana đến hội chúng tỳ khưu có đức Phật đứng đầu?”
Sau đó, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã cầm lấy bình nước làm bằng vàng rưới nước lên tay đức Thế Tôn (nói rằng):
– Bạch ngài, trẫm dâng khu vườn Veḷuvana này đến hội chúng tỳ khưu có đức Phật đứng đầu. Xin đức Thế Tôn thọ lãnh khu vườn.
Khi ấy, đức Thế Tôn đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha bằng bài Pháp thoại rồi đã từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi.
Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, ta cho phép khu vườn (ārāma).
[64] Vào lúc bấy giờ, vị du sĩ Sañjaya cư trú tại thành Rājagaha cùng với tập thể du sĩ đông đảo gồm có hai trăm năm chục vị du sĩ. Vào lúc bấy giờ, Sārīputta và Moggallāna thực hành Phạm hạnh theo du sĩ Sañjaya. Họ đã giao ước với nhau rằng: “Người nào chứng đạt sự bất tử trước phải thông báo cho vị kia hay.”
Khi ấy vào buổi sáng, đại đức Assaji đã mặc y cầm y bát đi vào thành Rājagaha để khất thực. Vị ấy có phong cách chững chạc, mắt nhìn xuống, với vẻ chăm chú khi đi tới bước lui, lúc nhìn ngắm, khi cử động co duỗi. Du sĩ Sārīputta đã nhìn thấy đại đức Assaji có phong cách chững chạc, mắt nhìn xuống, với vẻ chăm chú khi đi tới bước lui, lúc nhìn ngắm, khi cử động co duỗi đang đi khất thực trong thành Rājagaha, sau khi nhìn thấy đã khởi ý điều này: “Đây chính là vị tỳ khưu trong số các vị thật sự là A-la-hán trên thế gian hoặc là đã đạt được con đường đưa đến quả vị A-la-hán. Hay là ta nên đến gần vị tỳ khưu này và hỏi rằng: ‘Thưa đại đức, đại đức đã được xuất gia có liên quan đến vị nào?’ hoặc là ‘Ai là thầy của đại đức?’ hoặc là ‘Đại đức giảng giải pháp của vị nào?’”Khi ấy, du sĩ Sārīputta đã khởi ý điều này: “Không phải lúc để hỏi vị tỳ khưu này, vị ấy đã đi vào xóm nhà và đang đi khất thực, hay là ta nên đi sát theo sau vị tỳ khưu này là vị có đạo lộ đang được tầm cầu bởi những kẻ mong mỏi sự lợi ích?”
Sau đó, khi đã đi khất thực ở trong thành Rājagaha xong đại đức Assaji đã cầm lấy đồ ăn khất thực đi trở về. Khi ấy, du sĩ Sārīputta đã đi đến gần đại đức Assaji, sau khi đến đã tỏ vẻ thân thiện với đại đức Assaji, sau khi trao đổi lời xã giao thân thiện rồi đã đứng ở một bên. Khi đã đứng ở một bên, du sĩ Sārīputta đã nói với đại đức Assaji điều này:
– Thưa đại đức, các giác quan của ngài thật thanh tịnh, màu sắc cơ thể thật trong sáng và thuần khiết. Thưa đại đức, đại đức đã được xuất gia có liên quan đến vị nào? Ai là thầy của đại đức? Đại đức giảng giải pháp của vị nào?
– Này đạo hữu, có vị đại sa-môn con trai dòng Sākya, từ dòng họ Sākya đã xuất gia. Ta đã được xuất gia có liên quan đến đức Thế Tôn ấy. Đức Thế Tôn ấy là đạo sư của ta và ta giảng giải Pháp của đức Thế Tôn ấy.
– Vị đạo sư của đại đức thuyết về điều gì? Giảng về điều gì?
– Này đạo hữu, ta là vị mới tu, được xuất gia chưa bao lâu, vừa mới đến với Pháp và Luật này, ta không thể thuyết giảng Giáo Pháp một cách chi tiết; tuy nhiên ta sẽ nói cho đạo hữu ý nghĩa một cách tóm tắt.
Khi ấy, du sĩ Sārīputta đã nói với đại đức Assaji điều này:
– Thưa đại đức, hãy là vậy đi.
Xin nói ít hoặc nhiều,
giảng ý nghĩa cho tôi.
Tôi chỉ cần ý nghĩa
nói nhiều từ làm chi?
[65] Khi ấy, đại đức Assaji đã nói với du sĩ Sārīputta lời dạy này thuộc về Giáo Pháp:
Pháp sanh lên do nhân
Như Lai giảng nhân ấy,
nhân diệt thời Pháp diệt
đại sa-môn nói vậy.
[66] Sau đó, khi đã nghe được lời dạy này thuộc về Giáo Pháp thì Pháp nhãn không nhiễm bụi trần, không vết nhơ đã sanh khởi đến du sĩ Sārīputta: “Điều gì có bản tánh được sanh lên, toàn bộ điều ấy đều có bản tánh hoại diệt.”
Chính đây là Giáo Pháp
nếu chỉ bấy nhiêu thôi
ngài cũng đã chỉ ra
con đường không sầu muộn
đã không được nhìn thấy,
đã không được nói ra
bởi muôn ngàn kiếp sống
(số lượng) nhiều vô số.
[67] Sau đó, du sĩ Sārīputta đã đi đến gặp du sĩ Moggallāna. Du sĩ Moggallāna đã nhìn thấy du sĩ Sārīputta từ đàng xa đang đi lại, sau khi nhìn thấy đã nói với du sĩ Sārīputta điều này:
– Này bạn, các giác quan của bạn thật thanh tịnh, màu sắc cơ thể thật trong sáng và thuần khiết. Này bạn, chắn hẳn là bạn đã chứng đạt sự bất tử?
– Này bạn, đúng vậy. Tôi đã chứng đạt sự bất tử.
– Này bạn, bạn đã chứng đạt sự bất tử bằng cách như thế nào?
– Này bạn, ở đây tôi đã nhìn thấy vị tỳ khưu Assaji có phong cách chững chạc, mắt nhìn xuống, với vẻ chăm chú khi đi tới bước lui, lúc nhìn ngắm, khi cử động co duỗi đang đi khất thực trong thành Rājagaha, sau khi nhìn thấy đã khởi ý điều này: “Đây chính là vị tỳ khưu trong số các vị thật sự là A-la-hán trên thế gian hoặc là đã đạt được con đường đưa đến quả vị A-la-hán. Hay là ta nên đến gần vị tỳ khưu này và hỏi rằng: ‘Thưa đại đức, đại đức đã được xuất gia có liên quan đến vị nào?’ hoặc là ‘Ai là thầy của đại đức?’ hoặc là ‘Đại đức giảng giải pháp của vị nào?’” Này bạn, khi ấy tôi đây đã khởi ý điều này:“Không phải lúc để hỏi vị tỳ khưu này, vị ấy đã đi vào xóm nhà và đang đi khất thực, hay là ta nên đi sát theo sau vị tỳ khưu này là vị có đạo lộ đang được tầm cầu bởi những kẻ mong mỏi sự lợi ích?” Này bạn, sau khi đi khất thực ở trong thành Rājagaha xong, vị tỳ khưu Assaji đã cầm lấy đồ ăn khất thực đi trở về. Này bạn, khi ấy tôi đã đi đến gần vị tỳ khưu Assaji, sau khi đến đã tỏ vẻ thân thiện với vị tỳ khưu Assaji, sau khi trao đổi lời xã giao thân thiện rồi đã đứng ở một bên. Này bạn, khi đã đứng một bên tôi đã nói với vị tỳ khưu Assaji điều này: “Thưa đại đức, các giác quan của ngài thật thanh tịnh, màu sắc cơ thể thật trong sáng và thuần khiết. Thưa đại đức, đại đức đã được xuất gia có liên quan đến vị nào? Ai là thầy của đại đức? Đại đức giảng giải pháp của vị nào?” “Này đạo hữu, có vị đại sa-môn con trai dòng Sākya, từ dòng họ Sākya đã xuất gia. Ta đã được xuất gia có liên quan đến đức Thế Tôn ấy. Đức Thế Tôn ấy là đạo sư của ta và ta giảng giải Pháp của đức Thế Tôn ấy.” “Vị đạo sư của đại đức thuyết về điều gì? Giảng về điều gì?” “Này đạo hữu, ta là vị mới tu, được xuất gia chưa bao lâu, vừa mới đến với Pháp và Luật này, ta không thể thuyết giảng Giáo Pháp một cách chi tiết; tuy nhiên ta sẽ nói cho đạo hữu ý nghĩa một cách tóm tắt.” Này bạn, khi ấy tôi đã nói với đại đức Assaji điều này: “Thưa đại đức, hãy là vậy đi.
Xin nói ít hoặc nhiều,
giảng ý nghĩa cho tôi.
Tôi chỉ cần ý nghĩa
nói nhiều từ làm chi?”
[68] Này bạn, khi ấy vị tỳ khưu Assaji đã nói với tôi lời dạy này thuộc về Giáo Pháp:
“Pháp sanh lên do nhân
Như Lai giảng nhân ấy,
nhân diệt thời Pháp diệt
đại sa-môn nói vậy.”
[69] Sau đó, khi đã nghe được lời dạy này thuộc về Giáo Pháp thì Pháp nhãn không nhiễm bụi trần, không vết nhơ đã sanh khởi đến du sĩ Moggallāna: “Điều gì có bản tánh được sanh lên, toàn bộ điều ấy đều có bản tánh hoại diệt.”
Chính đây là Giáo Pháp
nếu chỉ bấy nhiêu thôi
bạn cũng đã chỉ ra
con đường không sầu muộn
đã không được nhìn thấy,
đã không được nói ra
bởi muôn ngàn kiếp sống
(số lượng) nhiều vô số.
[70] Sau đó, du sĩ Moggallāna đã nói với du sĩ Sārīputta điều này:
– Này bạn, chúng ta hãy đi đến với đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn ấy là bậc Đạo Sư của chúng ta.
– Này bạn, hai trăm năm mươi du sĩ này sống ở đây đang nương tựa vào chúng ta và biết rõ chúng ta, chúng ta hãy thông báo đến các vị ấy và các vị ấy sẽ làm theo như điều các vị suy nghĩ.
Sau đó, Sārīputta và Moggallāna đã đi đến gặp các vị du sĩ ấy, sau khi đến đã nói với các vị du sĩ ấy điều này:
– Này các đạo hữu, chúng tôi đi đến với đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn ấy là bậc Đạo Sư của chúng tôi.
– Này các đại đức, chúng tôi sống ở đây nương tựa vào các đại đức và biết rõ các đại đức, nếu các đại đức sẽ thực hành Phạm hạnh theo vị đại sa-môn hết thảy tất cả chúng tôi sẽ thực hành Phạm hạnh theo vị đại sa-môn.
Sau đó, Sārīputta và Moggallāna đã đi đến gặp du sĩ Sañjaya, sau khi đến đã nói với du sĩ Sañjaya điều này:
– Này đại đức, chúng tôi đi đến với đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn ấy là bậc Đạo Sư của chúng tôi.
– Này các đại đức, thôi đủ rồi. Chớ có đi. Chính tất cả ba chúng ta sẽ quản trị nhóm người này.
Đến lần thứ nhì, …(như trên)…
Đến lần thứ ba, Sārīputta và Moggallāna đã nói với du sĩ Sañjaya điều này:
– Này đại đức, chúng tôi đi đến với đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn ấy là bậc Đạo Sư của chúng tôi.
– Này các đại đức, thôi đủ rồi. Chớ có đi. Chính tất cả ba chúng ta sẽ quản trị nhóm người này.
Sau đó, Sārīputta và Moggallāna đã đưa hai trăm năm mươi du sĩ ấy đi đến Veḷuvana. Về phần du sĩ Sañjaya, ngay tại chỗ ấy máu nóng đã ứa ra từ miệng.
[71] Khi ấy, đức Thế Tôn đã nhìn thấy Sārīputta và Moggallāna từ đàng xa đang đi lại, sau khi nhìn thấy đã bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, hai người bạn là Kolita và Upatissa này đang đi đến. Hai người này sẽ trở thành một cặp đệ tử của ta và là một cặp (đệ tử) xuất sắc, đứng đầu.
Họ đã được giải thoát,
đã cạn nguồn tái sanh,
là những vị hàng đầu
về trí tuệ thâm sâu,
dẫu chưa vào Trúc Lâm
bậc Đạo Sư đã nói:
“Đây hai người bạn hữu
(tên là) Kolita
và Upatissa,
đang đi đến (nơi đây),
đệ tử ta cặp này
sẽ trở thành một cặp
xuất sắc, đứng hàng đầu.
[72] Sau đó, Sārīputta và Moggallāna đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã quỳ xuống đê đầu đảnh lễ ở hai bàn chân của đức Thế Tôn và đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, chúng con có thể xuất gia trong sự hiện diện của đức Thế Tôn không? Chúng con có thể tu lên bậc trên không?
Đức Thế Tôn đã nói rằng:
– Này các tỳ khưu, hãy đến. Pháp đã được khéo thuyết giảng, hãy thực hành Phạm hạnh một cách đúng đắn để chấm dứt khổ đau.
Chính điều ấy đã là sự tu lên bậc trên của các đại đức ấy.
[73] Vào lúc bấy giờ, những người con trai gia đình danh giá ở xứ Magadha là những người có nhiều tiếng tăm thực hành Phạm hạnh theo đức Thế Tôn. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Sa-môn Gotama đã tạo ra khuynh hướng không con cái, Sa-môn Gotama đã gây nên cảnh vợ không chồng, Sa-môn Gotama đã gây nên sự đổ vỡ của các gia đình. Hiện nay, một ngàn vị đạo sĩ bện tóc đã xuất gia theo ông ta, hai trăm năm mươi du sĩ này của Sañjaya đã xuất gia (theo ông ta), và những người con trai gia đình danh giá này ở xứ Magadha là những người có nhiều tiếng tăm thực hành Phạm hạnh theo Sa-môn Gotama.
Hơn nữa, khi gặp các vị tỳ khưu họ đã quở trách bằng bài kệ này:
Đại Sa-môn đã đến
thành Giribbaja
thuộc xứ Magadha,
sau khi đã dẫn đi
toàn bộ Sañjaya,
giờ sẽ dẫn ai đây?
[74] Các tỳ khưu đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế tôn.
– Này các tỳ khưu, tiếng đồn đãi ấy sẽ không tồn tại lâu, chỉ tồn tại được bảy ngày, khi trải qua bảy ngày thì sẽ biến mất. Này các tỳ khưu, chính vì việc ấy những người nào quở trách các ngươi bằng bài kệ này:
“Đại Sa-môn đã đến
thành Giribbaja
thuộc xứ Magadha,
sau khi đã dẫn đi
toàn bộ Sañjaya,
giờ sẽ dẫn ai đây?”
[75] Các ngươi hãy quở trách lại họ bằng bài kệ này:
“Thật sự các Như Lai
là những bậc Đại Hùng
dẫn đi bằng Chánh Pháp,
trong khi được dẫn đi
bằng Pháp của bậc trí,
ganh tỵ với ai đây?”
Vào lúc bấy giờ, dân chúng khi gặp các vị tỳ khưu đã quở trách bằng bài kệ này:
Đại Sa-môn đã đến
thành Giribbaja
thuộc xứ Magadha,
sau khi đã dẫn đi
toàn bộ Sañjaya,
giờ sẽ dẫn ai đây?
Các vị tỳ khưu đã quở trách lại những người ấy bằng bài kệ này:
Thật sự các Như Lai
là những bậc Đại Hùng
dẫn đi bằng Chánh Pháp,
trong khi được dẫn đi
bằng Pháp của bậc trí,
ganh tỵ với ai đây?
[76] Dân chúng đã nói như vầy:
– Nghe nói các sa-môn Thích tử dẫn dắt bằng Chánh Pháp không phải bằng Phi Pháp.
Tiếng đồn ấy đã tồn tại chỉ có bảy ngày và đã biến mất sau khi trải qua bảy ngày.
Dứt sự xuất gia của Sārīputta và Moggallāna.
Dứt tụng phẩm thứ tư.
[77] Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu không có thầy tế độ, trong khi không được giáo huấn và không được chỉ dạy nên mặc y luộm thuộm, trùm y luộm thuộm, hoàn toàn không đúng quy cách rồi đi khất thực. Khi dân chúng đang ăn, các vị đưa bình bát đã mở ra (uttiṭṭhapattaṃ) ở phía trên thức ăn loại mềm (của dân chúng), các vị đưa bình bát đã mở ra ở phía trên thức ăn loại cứng, các vị đưa bình bát đã mở ra ở phía trên thức ăn có hương vị, các vị đưa bình bát đã mở ra ở phía trên thức uống, các vị tự mình yêu cầu xúp và cơm rồi thọ thực, và các vị sống (thường xuyên) gây nên sự náo nhiệt, sự ồn ào ở trong nhà ăn. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Tại sao các sa-môn Thích tử lại mặc y luộm thuộm, trùm y luộm thuộm, hoàn toàn không đúng quy cách rồi đi khất thực, và khi dân chúng đang ăn các vị lại đưa bình bát đã mở ra ở phía trên thức ăn loại mềm (của dân chúng), các vị lại đưa bình bát đã mở ra ở phía trên thức ăn loại cứng, các vị lại đưa bình bát đã mở ra ở phía trên thức ăn có hương vị, các vị lại đưa bình bát đã mở ra ở phía trên thức uống, các vị tự mình yêu cầu xúp và cơm rồi thọ thực, các vị sống (thường xuyên) gây nên sự náo nhiệt, sự ồn ào ở trong nhà ăn giống như các bà-la-môn trong bữa ăn của các bà-la-môn vậy?
[78] Các tỳ khưu đã nghe được dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, tự biết đủ, khiêm tốn, có hối hận, ưa thích sự học tập, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Vì sao các vị tỳ khưu lại mặc y luộm thuộm, trùm y luộm thuộm, hoàn toàn không đúng quy cách rồi đi khất thực, và khi dân chúng đang ăn, các vị lại đưa bình bát đã mở ra ở phía trên thức ăn loại mềm (của dân chúng), các vị lại đưa bình bát đã mở ra ở phía trên thức ăn loại cứng, các vị lại đưa bình bát đã mở ra ở phía trên thức ăn có hương vị, các vị lại đưa bình bát đã mở ra ở phía trên thức uống, các vị tự mình yêu cầu xúp và cơm rồi thọ thực, các vị sống (thường xuyên) gây nên sự náo nhiệt, sự ồn ào ở trong nhà ăn vậy?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
[79] Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội chúng tỳ khưu lại và hỏi các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu mặc y luộm thuộm, trùm y luộm thuộm, hoàn toàn không đúng quy cách rồi đi khất thực, và khi dân chúng đang ăn, các vị đưa bình bát đã mở ra ở phía trên thức ăn loại mềm (của dân chúng), các vị đưa bình bát đã mở ra ở phía trên thức ăn loại cứng, các vị đưa bình bát đã mở ra ở phía trên thức ăn có hương vị, các vị đưa bình bát đã mở ra ở phía trên thức uống, các vị tự mình yêu cầu xúp và cơm rồi thọ thực, các vị sống (thường xuyên) gây nên sự náo nhiệt, sự ồn ào ở trong nhà ăn, có đúng không vậy?
– Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
– Này các tỳ khưu, thật không đúng đắn cho những kẻ rồ dại ấy, thật không hợp lẽ, không tốt đẹp, không xứng pháp sa-môn, không được phép, không nên làm! Này các tỳ khưu, vì sao những kẻ rồ dại ấy lại mặc y luộm thuộm, trùm y luộm thuộm, hoàn toàn không đúng quy cách rồi đi khất thực, và khi dân chúng đang ăn, các vị lại đưa bình bát đã mở ra ở phía trên thức ăn loại mềm (của dân chúng), các vị lại đưa bình bát đã mở ra ở phía trên thức ăn loại cứng, các vị lại đưa bình bát đã mở ra ở phía trên thức ăn có hương vị, các vị lại đưa bình bát đã mở ra ở phía trên thức uống, các vị tự mình yêu cầu xúp và cơm rồi thọ thực, các vị sống (thường xuyên) gây nên sự náo nhiệt, sự ồn ào ở trong nhà ăn? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. Này các tỳ khưu, hơn nữa chính sự việc này đem lại sự không có niềm tin ở những kẻ chưa có đức tin và làm thay đổi (niềm tin) của một số người đã có đức tin.
[80] Sau đó, đức Thế Tôn đã khiển trách các vị tỳ khưu ấy bằng nhiều phương thức. Ngài đã chê trách về sự khó khăn trong việc cấp dưỡng, sự khó khăn trong việc ăn uống, sự tầm cầu quá nhiều, sự không biết đủ, sự kết phe nhóm, sự biếng nhác; và bằng nhiều phương thức ngài đã ngợi khen về sự dễ dàng trong việc cấp dưỡng, sự dễ dàng trong việc ăn uống, sự ít tầm cầu, sự biết đủ, sự từ khước, sự tiết chế, sự thân thiện, sự không gom góp, sự ra sức nỗ lực. Ngài đã thuyết Pháp thoại thích đáng và phù hợp cho các tỳ khưu rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, ta cho phép vị thầy tế độ. Này các tỳ khưu, vị thầy tế độ sẽ gợi lên ở người đệ tử[5] tâm của người con và người đệ tử sẽ gợi lên ở vị thầy tế độ tâm của người cha. Như thế, trong khi sống cùng nhau có sự kính trọng, có sự vâng lời, có sự tiếp xúc với nhau, họ sẽ đạt đến sự lớn mạnh, sự tăng trưởng, sự phát triển trong Pháp và Luật này. Và này các tỳ khưu, vị thầy tế độ nên được xác định như vầy:
(Người đệ tử) nên đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy: “Bạch ngài, xin ngài hãy là thầy tế độ của con. Bạch ngài, xin ngài hãy là thầy tế độ của con. Bạch ngài, xin ngài hãy là thầy tế độ của con.”
(Vị thầy tế độ nên nói rằng): “Tốt rồi!” hay là “Được nhẹ nhàng rồi!” hay là “Đúng rồi!” hay là “Được phù hợp rồi!” hay là “Hãy tiếp tục với sự hoan hỷ!”
(Nếu) vị (thầy tế độ) bày tỏ bằng thân, bày tỏ bằng lời nói, bày tỏ bằng thân và lời nói, thì vị thầy tế độ đã được xác định. (Nếu) vị ấy không bày tỏ bằng thân, không bày tỏ bằng lời nói, không bày tỏ bằng thân và lời nói, vị thầy tế độ đã không được xác định.
[81] Này các tỳ khưu, người đệ tử nên thực hành phận sự đúng đắn đối với vị thầy tế độ. Đây là phận sự đúng đắn trong trường hợp này:
Nên thức dậy vào lúc sáng sớm, cởi dép ra, đắp thượng y một bên vai, rồi nên dâng lên gỗ chà răng, nên dâng nước súc miệng, và nên sắp xếp chỗ ngồi. Nếu có cháo, nên rửa sạch tô rồi dâng cháo. Khi thầy đã uống cháo xong, nên dâng nước, nên nhận lại tô để ở chỗ thấp, rửa một cách cẩn thận không chà xát mạnh, rồi đem cất. Khi thầy tế độ đứng dậy, nên thu xếp chỗ ngồi. Nếu khu vực ấy có rác thì nên quét khu vực ấy.
Nếu thầy tế độ có ý định đi vào làng, nên trao y lót trong, và nhận lại y lót trong (khác từ vị thầy), nên trao dây thắt lưng, nên gấp y hai lớp gọn gàng rồi dâng lên. Nên trao bình bát còn đẫm nước (patto saudako) sau khi đã rửa sạch. Nếu thầy tế độ muốn có thị giả đi theo, vị ấy nên mặc y nội tròn đều với sự che phủ ba vòng tròn, buộc dây thắt lưng, sửa sang cho tề chỉnh rồi đắp y hai lớp lên, thắt lại dây buộc, rửa ráy, cầm lấy bình bát, rồi nên đi theo làm thị giả cho thầy tế độ. Không nên đi quá xa, không nên đi quá gần. Nên nhận lấy bình bát (của vị thầy) và vật được chứa đựng (trong đó). Khi thầy tế độ đang nói, không nên cắt ngang lời nói nửa chừng. Khi thầy tế độ có khả năng phạm tội lúc đang nói thì nên nhắc nhở.
Khi quay trở về, nên đi về trước tiên. Nên sắp xếp chỗ ngồi. Nên đem lại nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân. Nên đi ra rước y và bình bát. Nên trao y lót trong (trước đây) và nhận lại y lót trong (mặc lúc đi). Nếu y bị thấm mồ hôi, nên phơi ở chỗ nắng trong chốc lát. Và không nên phơi y ở chỗ nắng quá lâu. Nên gấp y lại. Khi gấp y nên lùi phần góc vào bốn ngón tay rồi gấp y lại (nghĩ rằng): “Không nên để nếp gấp ở phần chính giữa.”[6] Nên đặt dây thắt lưng ở phía trong rồi gấp lại.
Nếu có đồ ăn khất thực và thầy tế độ có ý muốn thọ dụng thì nên dâng nước (rửa) và đem đồ ăn khất thực để gần bên. Nên dâng lên thầy tế độ nước uống. Khi thầy ăn xong nên dâng nước (rửa). Nên nhận lại bình bát rồi đem để ở chỗ thấp, rửa một cách cẩn thận không chà xát mạnh, nên làm ráo nước, rồi đem phơi ở chỗ nắng trong chốc lát. Không nên phơi bình bát ở chỗ nắng quá lâu. Nên đem cất y và bình bát. Trong khi đặt bình bát xuống, nên dùng một tay ôm bình bát, tay kia sờ ở phía dưới giường hoặc phía dưới ghế rồi nên đặt bình bát xuống. Và không nên đặt bình bát trên mặt đất không có vật kê. Khi máng y, nên dùng một tay cầm y, tay kia vuốt sào treo y hoặc dây phơi y, nên để mép y phía bên kia, còn chỗ gấp y lại ở bên này, rồi căng y ra. Khi thầy tế độ đứng dậy, nên thu xếp chỗ ngồi. Nên dọn dẹp nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân. Nếu khu vực ấy có rác thì nên quét khu vực ấy.
Nếu thầy tế độ có ý muốn tắm, nên chuẩn bị việc tắm. Nếu (thầy tế độ) thích nước lạnh, nên chuẩn bị nước lạnh; nếu thích nước nóng, nên chuẩn bị nước nóng. Nếu thầy tế độ có ý muốn đi vào nhà tắm hơi, nên trộn bột tắm, nên tẩm ướt đất sét. Nên lấy ghế ngồi của nhà tắm hơi rồi đi đến từ phía sau lưng, nên trao ghế ngồi của nhà tắm hơi cho thầy tế độ, nên nhận lấy y và để ở một bên. Nên trao bột tắm, nên trao đất sét. Nếu có nỗ lực, nên đi vào nhà tắm hơi. Khi đi vào nhà tắm hơi, nên thoa đất sét lên mặt, nên đắp lên cả phía trước lẫn phía sau rồi đi vào nhà tắm hơi. Không nên chen vào (chỗ) các tỳ khưu trưởng lão rồi ngồi xuống. Không nên xua đuổi các tỳ khưu mới tu khỏi chỗ ngồi. Ở trong nhà tắm hơi nên kỳ cọ cho thầy tế độ. Khi rời khỏi nhà tắm hơi, nên cầm lấy cái ghế ngồi của nhà tắm hơi, nên che kín cả phía trước lẫn phía sau rồi rời khỏi nhà tắm hơi. Nên kỳ cọ cho thầy tế độ lúc ở trong nước. Khi tắm xong nên đi ra trước, nên lau khô nước ở thân thể của mình. Sau khi quấn y, nên lau khô nước ở thân thể của thầy tế độ. Nên trao y lót trong. Nên trao y hai lớp. Nên cầm lấy ghế ngồi của nhà tắm hơi, đi về trước, và sắp xếp chỗ ngồi. Nên đem lại nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân. Nên dâng nước uống đến thầy tế độ. Nếu có ý muốn thỉnh (thầy) đọc tụng, nên thỉnh (thầy) đọc tụng. Nếu có ý muốn vấn đạo, nên thỉnh (thầy) vấn đạo.
Ở trú xá nào thầy tế độ cư ngụ, nếu trú xá ấy có rác rến, nên làm sạch sẽ nếu có nỗ lực. Khi làm sạch sẽ, trước tiên nên đem y bát ra ngoài rồi để xuống ở một góc, nên đem tọa cụ và ngọa cụ ra ngoài rồi để xuống ở một góc, nên đem nệm gối ra ngoài rồi để xuống ở một góc, nên hạ thấp cái giường rồi đem ra ngoài một cách khéo léo không làm trầy hoặc va chạm vào phần dưới của cánh cửa lớn và để xuống ở một góc, nên hạ thấp cái ghế rồi đem ra ngoài một cách khéo léo không làm trầy hoặc va chạm vào phần dưới của cánh cửa lớn và để xuống ở một góc, nên đem khung giường ra ngoài rồi để xuống ở một góc, nên đem ống nhổ ra ngoài rồi để xuống ở một góc, nên đem tấm ván gối đầu ra ngoài rồi để xuống ở một góc, nên xem xét tấm trải nền được xếp đặt như thế nào rồi đem ra ngoài và để xuống ở một góc. Nếu có mạng nhện ở trú xá, khi phát hiện trước tiên nên dời (chúng) khỏi lỗ hổng, nên lau chùi các cửa sổ và các hốc kẹt. Nếu tường được sơn màu đỏ và bị đốm loang lỗ nên thấm khăn ướt chà xát mạnh rồi lau sạch. Nếu nền được sơn màu đen và bị đốm loang lỗ nên thấm khăn ướt chà xát mạnh rồi lau sạch. Nếu nền không được thực hiện, nên rải nước rồi quét (nghĩ rằng): “Không nên để trú xá bị tràn ngập bụi bặm.” Sau khi gom rác lại rồi nên đem đổ bỏ ở một góc.
Sau khi phơi nắng tấm trải nền, nên làm sạch sẽ, đập giũ, rồi đem vào trong và sắp đặt như đã được sắp đặt (trước đây). Sau khi phơi nắng khung giường, nên lau chùi, rồi đem vào trong và để lại ở vị trí như cũ. Sau khi phơi nắng giường, nên làm sạch sẽ, đập giũ, hạ thấp xuống, rồi đem vào trong một cách khéo léo không làm trầy hoặc va chạm vào phần dưới của cánh cửa lớn, và sắp đặt như đã được sắp đặt (trước đây). Sau khi phơi nắng ghế, nên làm sạch sẽ, đập giũ, hạ thấp xuống, rồi đem vào trong một cách khéo léo không làm trầy hoặc va chạm vào phần dưới của cánh cửa lớn, và sắp đặt như đã được sắp đặt (trước đây). Sau khi phơi nắng nệm gối, nên làm sạch sẽ, đập giũ, rồi đem vào trong và sắp đặt như đã được sắp đặt (trước đây). Sau khi phơi nắng tọa cụ và ngọa cụ, nên làm sạch sẽ, đập giũ, rồi đem vào trong và sắp đặt như đã được sắp đặt (trước đây). Sau khi phơi nắng ống nhổ, nên lau chùi, rồi đem vào trong và để lại ở vị trí như cũ. Sau khi phơi nắng tấm ván gối đầu, nên lau chùi, rồi đem vào trong và để lại ở vị trí như cũ. Nên đem cất y và bình bát. Trong khi đặt bình bát xuống, nên dùng một tay ôm bình bát, tay kia sờ ở phía dưới giường hoặc phía dưới ghế rồi nên đặt bình bát xuống. Không nên đặt bình bát trên mặt đất không có vật kê. Khi máng y, nên dùng một tay cầm y, tay kia vuốt sào treo y hoặc dây phơi y, nên để mép y phía bên kia, còn chỗ gấp y lại ở bên này, rồi căng y ra.
Nếu các cơn gió có bụi thổi từ hướng đông, các cửa sổ hướng đông nên được khép lại. Nếu các cơn gió có bụi thổi từ hướng tây, các cửa sổ hướng tây nên được khép lại. Nếu các cơn gió có bụi thổi từ hướng bắc, các cửa sổ hướng bắc nên được khép lại. Nếu các cơn gió có bụi thổi từ hướng nam, các cửa sổ hướng nam nên được khép lại. Nếu thời tiết lạnh, các cửa sổ nên mở ra vào ban ngày và khép lại vào ban đêm. Nếu thời tiết nóng, các cửa sổ nên khép lại vào ban ngày và mở ra vào ban đêm.
Nếu phòng có rác rến, nên quét phòng. Nếu cổng có rác rến, nên quét cổng. Nếu phòng hội họp có rác rến, nên quét phòng hội họp. Nếu nhà để đốt lửa có rác rến, nên quét nhà để đốt lửa. Nếu nhà vệ sinh có rác rến, nên quét nhà vệ sinh. Nếu nước uống không có, nên đem nước uống lại. Nếu nước rửa không có, nên đem nước rửa lại. Nếu hũ nước súc miệng không có nước, nên đổ nước vào hũ nước súc miệng.
Nếu sự không hoan hỷ sanh khởi ở thầy tế độ, người đệ tử nên làm cho dịu đi hoặc nhờ vị khác làm cho dịu đi, hoặc nên tiến hành việc giảng Pháp cho vị thầy. Nếu mối nghi ngờ sanh khởi ở thầy tế độ, người đệ tử nên làm cho tan biến hoặc nhờ vị khác làm cho tan biến, hoặc nên tiến hành việc giảng Pháp cho vị thầy. Nếu tà kiến sanh khởi ở thầy tế độ, người đệ tử nên phân giải hoặc nhờ vị khác phân giải, hoặc nên tiến hành việc giảng Pháp cho vị thầy. Nếu thầy tế độ bị phạm tội nặng xứng đáng hành phạt parivāsa, người đệ tử nên nỗ lực: “Làm thế nào để hội chúng có thể ban hành phạt parivāsa cho thầy tế độ?” Nếu thầy tế độ xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu, người đệ tử nên nỗ lực: “Làm thế nào để hội chúng có thể cho thầy tế độ (thực hành) trở lại từ đầu?” Nếu thầy tế độ xứng đáng hành phạt mānatta, người đệ tử nên nỗ lực: “Làm thế nào để hội chúng có thể ban hành phạt mānatta cho thầy tế độ?” Nếu thầy tế độ xứng đáng sự giải tội, người đệ tử nên nỗ lực: “Làm thế nào để hội chúng có thể giải tội cho thầy tế độ?” Nếu hội chúng có ý định thực thi hành sự khiển trách, hoặc chỉ dạy, hoặc xua đuổi, hoặc hòa giải, hoặc án treo đối với thầy tế độ, người đệ tử nên nỗ lực: “Làm thế nào để hội chúng có thể không thực thi hành sự đối với thầy tế độ, hoặc đổi thành nhẹ hơn?” Khi hội chúng đã thực thi hành sự khiển trách, hoặc chỉ dạy, hoặc xua đuổi, hoặc hòa giải, hoặc án treo đối với thầy tế độ, người đệ tử nên nỗ lực: “Làm thế nào để thầy tế độ có thể làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, và hội chúng có thể thâu hồi hành sự này?”
Nếu y của thầy tế độ cần phải giặt, người đệ tử nên giặt hoặc nên nỗ lực: “Làm thế nào để y của thầy tế độ được giặt?” Nếu y của thầy tế độ cần phải may, người đệ tử nên may hoặc nên nỗ lực: “Làm thế nào để y của thầy tế độ được may?” Nếu thuốc nhuộm của thầy tế độ cần phải nấu, người đệ tử nên nấu hoặc nên nỗ lực: “Làm thế nào để thuốc nhuộm của thầy tế độ được nấu?” Nếu y của thầy tế độ cần phải nhuộm, người đệ tử nên nhuộm hoặc nên nỗ lực: “Làm thế nào để y của thầy tế độ được nhuộm?” Trong khi nhuộm y, nên nhuộm bằng cách đảo tới đảo lui cho khéo léo. Không nên bỏ đi khi nước nhỏ giọt chưa ngừng.
Không có phép của thầy tế độ, không nên cho bình bát đến người khác. Không nên thọ lãnh bình bát của người khác. Không nên cho y đến người khác. Không nên thọ lãnh y của người khác. Không nên cho vật dụng đến người khác. Không nên thọ lãnh vật dụng của người khác. Không nên cạo tóc cho người khác. Không nên bảo người khác cạo tóc. Không nên kỳ cọ người khác. Không nên bảo người khác kỳ cọ. Không nên hầu hạ người khác. Không nên bảo người khác hầu hạ. Không nên làm thị giả người khác. Không nên nhận người khác làm thị giả. Không nên mang đồ ăn khất thực lại dùm người khác. Không nên nhờ người khác mang dùm đồ ăn khất thực lại. Chưa xin phép thầy tế độ không nên đi vào làng, không nên đi đến mộ địa, không nên bỏ đi hướng khác. Nếu thầy tế độ bị bệnh, nên phục vụ cho đến trọn đời hoặc chờ đến khi vị thầy khỏe lại.
Dứt phận sự đối với thầy tế độ.
[82] Này các tỳ khưu, vị thầy tế độ nên thực hành phận sự đúng đắn đối với người đệ tử. Đây là phận sự đúng đắn trong trường hợp này:
Này các tỳ khưu, thầy tế độ nên quan tâm đến người đệ tử, nên giúp đỡ bằng sự đọc tụng, bằng sự vấn hỏi, bằng sự giáo huấn, bằng sự chỉ dạy. Nếu thầy tế độ có bình bát và người đệ tử không có bình bát, thầy tế độ nên cho bình bát đến người đệ tử, hoặc nên nỗ lực: “Làm thế nào để bình bát có thể phát sanh đến đệ tử?” Nếu thầy tế độ có y và người đệ tử không có y, thầy tế độ nên cho y đến người đệ tử, hoặc nên nỗ lực: “Làm thế nào để y có thể phát sanh đến đệ tử?” Nếu thầy tế độ có vật dụng và người đệ tử không có vật dụng, thầy tế độ nên cho vật dụng đến người đệ tử, hoặc nên nỗ lực: “Làm thế nào để vật dụng có thể phát sanh đến đệ tử?”
Nếu người đệ tử bị bệnh, (vị thầy tế độ) nên thức dậy vào lúc sáng sớm. Nên trao gỗ chà răng. Nên trao nước súc miệng. Nên sắp xếp chỗ ngồi. Nếu có cháo, nên rửa sạch tô rồi đem cháo lại. Khi người đệ tử đã uống cháo xong, nên trao nước (rửa), nên nhận lại tô, để ở chỗ thấp, rửa một cách cẩn thận không chà xát mạnh, rồi đem cất. Khi người đệ tử đứng dậy, nên thu xếp chỗ ngồi. Nếu khu vực ấy có rác rến thì nên quét khu vực ấy.
Nếu người đệ tử có ý muốn đi vào làng, nên trao y lót trong, và nhận lại y lót trong (khác từ vị ấy), nên trao dây thắt lưng, nên gấp y hai lớp gọn gàng rồi trao cho. Nên trao bình bát còn đẫm nước sau khi đã rửa sạch. (Nghĩ rằng): “Đến lúc vị ấy sắp trở về,” nên sắp xếp chỗ ngồi. Nên đem lại nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân. Nên đi ra rước y và bình bát. Nên trao y lót trong (trước đây) và nhận lại y lót trong (mặc lúc đi). Nếu y bị thấm mồ hôi, nên phơi ở chỗ nắng trong chốc lát. Và không nên phơi y ở chỗ nắng quá lâu. Nên gấp y lại. Khi gấp y nên lùi phần góc vào bốn ngón tay rồi gấp y lại (nghĩ rằng): “Không nên để nếp gấp ở phần chính giữa.” Nên đặt dây thắt lưng ở phía trong rồi gấp lại.
Nếu có đồ ăn khất thực và người đệ tử có ý muốn ăn thì nên trao nước (rửa) và nên đem đồ ăn khất thực để gần bên. Nên đưa cho đệ tử nước uống. Khi người đệ tử ăn xong nên trao nước (rửa). Nên nhận lại bình bát, để ở chỗ thấp, rửa một cách cẩn thận không chà xát mạnh, nên làm ráo nước rồi đem phơi ở chỗ nắng trong chốc lát. Không nên phơi bình bát ở chỗ nắng quá lâu. Nên đem cất y và bình bát. Trong khi đặt bình bát xuống, nên dùng một tay ôm bình bát, tay kia sờ ở phía dưới giường hoặc phía dưới ghế rồi nên đặt bình bát xuống. Và không nên đặt bình bát trên mặt đất không có vật kê. Khi máng y, nên dùng một tay cầm y, tay kia vuốt sào treo y hoặc dây phơi y, nên để mép y phía bên kia, còn chỗ gấp y lại ở bên này, rồi căng y ra. Khi người đệ tử đứng dậy, nên thu xếp chỗ ngồi. Nên dọn dẹp nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân. Nếu khu vực ấy có rác rến thì nên quét khu vực ấy.
Nếu người đệ tử có ý muốn tắm, nên chuẩn bị việc tắm. Nếu (người đệ tử) thích nước lạnh, nên chuẩn bị nước lạnh; nếu thích nước nóng, nên chuẩn bị nước nóng. Nếu người đệ tử có ý muốn đi vào nhà tắm hơi, nên trộn bột tắm, nên tẩm ướt đất sét. Nên lấy ghế ngồi của nhà tắm hơi, đi đến, trao ghế ngồi của nhà tắm hơi, nhận lấy y, rồi nên đem để ở một bên. Nên trao bột tắm. Nên trao đất sét. Nếu có nỗ lực, nên đi vào nhà tắm hơi. Khi đi vào nhà tắm hơi, nên thoa đất sét lên mặt, nên đắp lên cả phía trước lẫn phía sau rồi đi vào nhà tắm hơi. Không nên chen vào (chỗ) các tỳ khưu trưởng lão rồi ngồi xuống. Không nên xua đuổi các tỳ khưu mới tu khỏi chỗ ngồi. Ở trong nhà tắm hơi nên kỳ cọ cho người đệ tử. Khi rời khỏi nhà tắm hơi, nên cầm lấy cái ghế ngồi của nhà tắm hơi, sau khi che kín cả phía trước lẫn phía sau rồi rời khỏi nhà tắm hơi. Nên kỳ cọ cho người đệ tử lúc ở trong nước. Khi tắm xong nên đi ra trước, nên lau khô nước ở thân thể của mình. Sau khi quấn y, nên lau khô nước ở thân thể của người đệ tử. Nên trao y lót trong. Nên trao y hai lớp. Nên cầm lấy ghế ngồi của nhà tắm hơi, đi về trước, và sắp xếp chỗ ngồi. Nên đem lại nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân. Nên đem nước uống đến cho người đệ tử.
Ở trú xá nào người đệ tử cư ngụ, nếu trú xá ấy có rác rến, nên làm sạch sẽ nếu có nỗ lực. Khi làm sạch sẽ, trước tiên nên đem y bát ra ngoài rồi để xuống ở một góc, nên đem tọa cụ và ngọa cụ ra ngoài rồi để xuống ở một góc, nên đem nệm gối ra ngoài rồi để xuống ở một góc, nên hạ thấp cái giường rồi đem ra ngoài một cách khéo léo không làm trầy hoặc va chạm vào phần dưới của cánh cửa lớn và để xuống ở một góc, nên hạ thấp cái ghế rồi đem ra ngoài một cách khéo léo không làm trầy hoặc va chạm vào phần dưới của cánh cửa lớn và để xuống ở một góc, nên đem khung giường ra ngoài rồi để xuống ở một góc, nên đem ống nhổ ra ngoài rồi để xuống ở một góc, nên đem tấm ván gối đầu ra ngoài rồi để xuống ở một góc, nên xem xét tấm trải nền được xếp đặt như thế nào rồi đem ra ngoài và để xuống ở một góc. Nếu có mạng nhện ở trú xá, khi phát hiện trước tiên nên dời (chúng) khỏi lỗ hổng, nên lau chùi các cửa sổ và các hốc kẹt. Nếu tường được sơn màu đỏ và bị đốm loang lỗ nên thấm khăn ướt chà xát mạnh rồi lau sạch. Nếu nền được sơn màu đen và bị đốm loang lỗ nên thấm khăn ướt chà xát mạnh rồi lau sạch. Nếu nền không được thực hiện, nên rải nước rồi quét (nghĩ rằng): “Không nên để trú xá bị tràn ngập bụi bặm.” Sau khi gom rác lại rồi nên đem đổ bỏ ở một góc.
Sau khi phơi nắng tấm trải nền, nên làm sạch sẽ, đập giũ, rồi đem vào trong và sắp đặt như đã được sắp đặt (trước đây). Sau khi phơi nắng khung giường, nên lau chùi, rồi đem vào trong và để lại ở vị trí như cũ. Sau khi phơi nắng giường, nên làm sạch sẽ, đập giũ, hạ thấp xuống, rồi đem vào trong một cách khéo léo không làm trầy hoặc va chạm vào phần dưới của cánh cửa lớn, và sắp đặt như đã được sắp đặt (trước đây). Sau khi phơi nắng ghế, nên làm sạch sẽ, đập giũ, hạ thấp xuống, rồi đem vào trong một cách khéo léo không làm trầy hoặc va chạm vào phần dưới của cánh cửa lớn, và sắp đặt như đã được sắp đặt (trước đây). Sau khi phơi nắng nệm gối, nên làm sạch sẽ, đập giũ, rồi đem vào trong và sắp đặt như đã được sắp đặt (trước đây). Sau khi phơi nắng tọa cụ và ngọa cụ, nên làm sạch sẽ, đập giũ, rồi đem vào trong và sắp đặt như đã được sắp đặt (trước đây). Sau khi phơi nắng ống nhổ, nên lau chùi, rồi đem vào trong và để lại ở vị trí như cũ. Sau khi phơi nắng tấm ván gối đầu, nên lau chùi, rồi đem vào trong và để lại ở vị trí như cũ. Nên đem cất y và bình bát. Trong khi đặt bình bát xuống, nên dùng một tay ôm bình bát, tay kia sờ ở phía dưới giường hoặc phía dưới ghế rồi nên đặt bình bát xuống. Không nên đặt bình bát trên mặt đất không có vật kê. Khi máng y, nên dùng một tay cầm y, tay kia vuốt sào treo y hoặc dây phơi y, nên để mép y phía bên kia, còn chỗ gấp y lại ở bên này, rồi căng y ra.
Nếu các cơn gió có bụi thổi từ hướng đông, các cửa sổ hướng đông nên được khép lại. Nếu các cơn gió có bụi thổi từ hướng tây, các cửa sổ hướng tây nên được khép lại. Nếu các cơn gió có bụi thổi từ hướng bắc, các cửa sổ hướng bắc nên được khép lại. Nếu các cơn gió có bụi thổi từ hướng nam, các cửa sổ hướng nam nên được khép lại. Nếu thời tiết lạnh, các cửa sổ nên mở ra vào ban ngày và khép lại vào ban đêm. Nếu thời tiết nóng, các cửa sổ nên khép lại vào ban ngày và mở ra vào ban đêm.
Nếu phòng có rác rến, nên quét phòng. Nếu cổng có rác rến, nên quét cổng. Nếu phòng hội họp có rác rến, nên quét phòng hội họp. Nếu nhà để đốt lửa có rác rến, nên quét nhà để đốt lửa. Nếu nhà vệ sinh có rác rến, nên quét nhà vệ sinh. Nếu nước uống không có, nên đem nước uống lại. Nếu nước rửa không có, nên đem nước rửa lại. Nếu hũ nước súc miệng không có nước, nên đổ nước vào hũ nước súc miệng.
Nếu có sự không hoan hỷ sanh khởi ở người đệ tử, vị thầy tế độ nên làm cho dịu đi hoặc nhờ vị khác làm cho dịu đi, hoặc nên tiến hành việc giảng Pháp cho vị ấy. Nếu mối nghi ngờ sanh khởi ở người đệ tử, vị thầy tế độ nên làm cho tan biến hoặc nhờ vị khác làm cho tan biến, hoặc nên tiến hành việc giảng Pháp cho vị ấy. Nếu tà kiến sanh khởi ở người đệ tử, vị thầy tế độ nên phân giải hoặc nhờ vị khác phân giải, hoặc nên tiến hành việc giảng Pháp cho vị ấy. Nếu người đệ tử bị phạm tội nặng xứng đáng hành phạt parivāsa, vị thầy tế độ nên nỗ lực: “Làm thế nào để hội chúng có thể ban hành phạt parivāsa cho đệ tử?” Nếu người đệ tử xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu, vị thầy tế độ nên nỗ lực: “Làm thế nào để hội chúng có thể cho đệ tử (thực hành) trở lại từ đầu?” Nếu người đệ tử xứng đáng hành phạt mānatta, vị thầy tế độ nên nỗ lực: “Làm thế nào để hội chúng có thể ban hành phạt mānatta cho đệ tử?” Nếu người đệ tử xứng đáng sự giải tội, vị thầy tế độ nên nỗ lực: “Làm thế nào để hội chúng có thể giải tội cho đệ tử?” Nếu hội chúng có ý định thực thi hành sự khiển trách, hoặc chỉ dạy, hoặc xua đuổi, hoặc hòa giải, hoặc án treo đối với người đệ tử, vị thầy tế độ nên nỗ lực: “Làm thế nào để hội chúng có thể không thực thi hành sự đối với đệ tử, hoặc đổi thành nhẹ hơn?” Khi hội chúng đã thực thi hành sự khiển trách, hoặc chỉ dạy, hoặc xua đuổi, hoặc hòa giải, hoặc án treo đối với người đệ tử, vị thầy tế độ nên nỗ lực: “Làm thế nào để đệ tử có thể làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, và hội chúng có thể thâu hồi hành sự này?”
Nếu y của người đệ tử cần phải giặt, vị thầy tế độ nên hướng dẫn: “Ngươi nên giặt như vầy,” hoặc nên nỗ lực: “Làm thế nào để y của đệ tử được giặt?” Nếu y của người đệ tử cần phải may, vị thầy tế độ nên hướng dẫn: “Ngươi nên may như vầy,” hoặc nên nỗ lực: “Làm thế nào để y của đệ tử được may?” Nếu thuốc nhuộm của người đệ tử cần phải nấu, vị thầy tế độ nên hướng dẫn: “Ngươi nên nấu như vầy,” hoặc nên nỗ lực: “Làm thế nào để thuốc nhuộm của đệ tử được nấu?” Nếu y của người đệ tử cần phải nhuộm, vị thầy tế độ nên hướng dẫn: “Ngươi nên nhuộm như vầy,” hoặc nên nỗ lực: “Làm thế nào để y của đệ tử được nhuộm?” Trong khi nhuộm y, nên đảo tới đảo lui cho khéo léo. Không nên bỏ đi khi nước nhỏ giọt chưa ngừng. Nếu người đệ tử bị bệnh, nên phục vụ cho đến trọn đời hoặc chờ đến khi người đệ tử khỏe lại.
Dứt phận sự đối với đệ tử.
[83] Vào lúc bấy giờ, các người đệ tử không thực hành phận sự đúng đắn đối với các vị thầy tế độ. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Vì sao các người đệ tử lại không thực hành phận sự đúng đắn đối với các vị thầy tế độ?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, nghe nói các người đệ tử không thực hành phận sự đúng đắn đối với các vị thầy tế độ, có đúng không vậy?
– Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
– Này các tỳ khưu, vì sao các người đệ tử lại không thực hành phận sự đúng đắn đối với các vị thầy tế độ?
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, người đệ tử cần thực hành phận sự đúng đắn đối với các vị thầy tế độ; vị nào không thực hành đúng đắn thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
(Các người đệ tử) vẫn không thực hành phận sự đúng đắn. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép đuổi đi người (đệ tử) không thực hành phận sự đúng đắn. Và này các tỳ khưu, nên đuổi đi như vầy: “Ta đuổi ngươi đi,” hay là “Đừng có quay trở lại đây,” hay là “Hãy đem đi y bát của ngươi,” hay là “Ta không giúp đở ngươi nữa.” (Nếu) vị (thầy tế độ) bày tỏ bằng thân, bày tỏ bằng lời nói, bày tỏ bằng thân và lời nói, thì người đệ tử đã bị đuổi đi. (Nếu) vị ấy không bày tỏ bằng thân, không bày tỏ bằng lời nói, không bày tỏ bằng thân và lời nói, thì người đệ tử không bị đuổi đi
Vào lúc bấy giờ, những người đệ tử bị đuổi đi đã không xin lỗi. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép xin lỗi.
Các người (đệ tử) vẫn không xin lỗi. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, người (đệ tử) bị đuổi đi không nên không xin lỗi; vị nào không xin lỗi thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vào lúc bấy giờ, khi được xin lỗi các vị thầy tế độ không tha thứ. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép tha thứ.
Các vị (thầy tế độ) vẫn không tha thứ. Những người đệ tử bỏ đi, (hoặc) hoàn tục, (hoặc) theo ngoại đạo. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, khi được xin lỗi không nên không tha thứ; vị nào không tha thứ thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[84] Vào lúc bấy giờ, các vị thầy tế độ đuổi đi những người (đệ tử) thực hành phận sự đúng đắn, không đuổi đi những người (đệ tử) không thực hành phận sự đúng đắn. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên đuổi đi người (đệ tử) thực hành phận sự đúng đắn; vị nào đuổi đi thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Và này các tỳ khưu, không nên không đuổi đi người (đệ tử) không thực hành phận sự đúng đắn; vị nào không đuổi đi thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Này các tỳ khưu, nên đuổi đi người đệ tử hội đủ năm điều kiện: Đối với thầy tế độ không có nhiều lòng yêu mến, không có nhiều niềm tin, không có nhiều nể nang, không có nhiều kính trọng, (và) không có nhiều sự rèn luyện.[7] Này các tỳ khưu, nên đuổi đi người đệ tử hội đủ năm điều kiện này.
Này các tỳ khưu, không nên đuổi đi người đệ tử hội đủ năm điều kiện: Đối với thầy tế độ có nhiều lòng yêu mến, có nhiều niềm tin, có nhiều nể nang, có nhiều kính trọng, (và) có nhiều sự rèn luyện. Này các tỳ khưu, không nên đuổi đi người đệ tử hội đủ năm điều kiện này.
Này các tỳ khưu, người đệ tử là đáng bị đuổi đi khi hội đủ năm điều kiện: Đối với thầy tế độ không có nhiều lòng yêu mến, không có nhiều niềm tin, không có nhiều nể nang, không có nhiều kính trọng, (và) không có nhiều sự rèn luyện. Này các tỳ khưu, người đệ tử là đáng bị đuổi đi khi hội đủ năm điều kiện này.
Này các tỳ khưu, người đệ tử là không đáng bị đuổi đi khi hội đủ năm điều kiện: Đối với thầy tế độ có nhiều lòng yêu mến, có nhiều niềm tin, có nhiều nể nang, có nhiều kính trọng, (và) có nhiều sự rèn luyện. Này các tỳ khưu, người đệ tử là không đáng bị đuổi đi khi hội đủ năm điều kiện này.
Này các tỳ khưu, vị thầy tế độ là vượt qua quy định khi không đuổi đi, không vượt qua quy định khi đuổi đi người đệ tử hội đủ năm điều kiện: Đối với thầy tế độ không có nhiều lòng yêu mến, không có nhiều niềm tin, không có nhiều nể nang, không có nhiều kính trọng, (và) không có nhiều sự rèn luyện. Này các tỳ khưu, vị thầy tế độ là vượt qua quy định khi không đuổi đi, không vượt qua quy định khi đuổi đi người đệ tử hội đủ năm điều kiện này.
Này các tỳ khưu, vị thầy tế độ là vượt qua quy định khi đuổi đi, không vượt qua quy định khi không đuổi đi người đệ tử hội đủ năm điều kiện: Đối với thầy tế độ có nhiều lòng yêu mến, có nhiều niềm tin, có nhiều nể nang, có nhiều kính trọng, (và) có nhiều sự rèn luyện. Này các tỳ khưu, vị thầy tế độ là vượt qua quy định khi đuổi đi, không vượt qua quy định khi không đuổi đi người đệ tử hội đủ năm điều kiện này.
[85] Vào lúc bấy giờ, có người bà-la-môn nọ đã đi đến gặp các tỳ khưu và cầu xin sự xuất gia. Các tỳ khưu đã không ưng thuận cho người ấy xuất gia. Người ấy trong khi không đạt được sự xuất gia ở nơi các tỳ khưu đã trở nên ốm o, cằn cỗi, xuống sắc, có vẻ xanh xao, thân hình nổi đầy gân. Đức Thế Tôn đã nhìn thấy người bà-la-môn ấy ốm o, cằn cỗi, xuống sắc, có vẻ xanh xao, thân hình nổi đầy gân, sau khi nhìn thấy đã bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, việc gì khiến người bà-la-môn ấy ốm o, cằn cỗi, xuống sắc, có vẻ xanh xao, thân hình nổi đầy gân vậy?
– Bạch ngài, người bà-la-môn ấy đã đi đến gặp các tỳ khưu và cầu xin sự xuất gia. Các tỳ khưu đã không ưng thuận cho người ấy xuất gia. Người ấy trong khi không đạt được sự xuất gia ở nơi các tỳ khưu đã trở nên ốm o, cằn cỗi, xuống sắc, có vẻ xanh xao, thân hình nổi đầy gân.
Khi ấy, đức Thế Tôn đã bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, có vị nào nhớ được điều tốt đẹp của người bà-la-môn ấy?
Khi được nói như vậy, đại đức Sārīputta đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, con nhớ được điều tốt đẹp của người bà-la-môn ấy.
– Này Sārīputta, ngươi nhớ được điều tốt đẹp gì của người bà-la-môn ấy?
– Bạch ngài, trường hợp này là khi con đang đi khất thực ở trong thành Rājagaha, người bà-la-môn ấy đã sai người cho một muỗng vật thực. Bạch ngài, đó là điều tốt đẹp của người bà-la-môn ấy mà con nhớ được.
– Này Sārīputta, tốt lắm, tốt lắm! Này Sārīputta, bởi vì những người tốt là những người biết ơn và nhớ ơn đã thọ. Này Sārīputta, chính vì điều ấy ngươi hãy cho người bà-la-môn ấy xuất gia và tu lên bậc trên.
– Bạch ngài, con cho người bà-la-môn ấy xuất gia và tu lên bậc trên như thế nào?
Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, việc tu lên bậc trên bằng Tam Quy đã được ta cho phép, kể từ nay ta hủy bỏ việc ấy. Này các tỳ khưu, ta cho phép tu lên bậc trên bằng hành sự với lời thông báo đến lần thứ tư. Và này các tỳ khưu, nên cho tu lên bậc trên như vầy:
Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị này tên (như vầy) có ý muốn tu lên bậc trên với đại đức tên (như vầy). Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên cho vị tên (như vầy) tu lên bậc trên với đại đức tên (như vầy) là thầy tế độ. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị này tên (như vầy) có ý muốn tu lên bậc trên với đại đức tên (như vầy). Hội chúng cho vị tên (như vầy) tu lên bậc trên với đại đức tên (như vầy) là thầy tế độ. Đại đức nào đồng ý sự tu lên bậc trên của vị tên (như vầy) với đại đức tên (như vầy) là thầy tế độ xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị này tên (như vầy) có ý muốn tu lên bậc trên với đại đức tên (như vầy). Hội chúng cho vị tên (như vầy) tu lên bậc trên với đại đức tên (như vầy) là thầy tế độ. Đại đức nào đồng ý sự tu lên bậc trên của vị tên (như vầy) với đại đức tên (như vầy) là thầy tế độ xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị này tên (như vầy) có ý muốn tu lên bậc trên với đại đức tên (như vầy). Hội chúng cho vị tên (như vầy) tu lên bậc trên với đại đức tên (như vầy) là thầy tế độ. Đại đức nào đồng ý sự tu lên bậc trên của vị tên (như vầy) với đại đức tên (như vầy) là thầy tế độ xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Vị tên (như vầy) đã được hội chúng cho tu lên bậc trên với đại đức tên (như vầy) là thầy tế độ. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
[86] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ vừa mới được tu lên bậc trên thực hiện hành động sai trái. Các vị tỳ khưu đã nói như vầy:
– Này đại đức, chớ có hành động như thế, điều ấy không được phép.
Vị ấy đã nói như vầy:
– Tôi đâu có cầu xin các đại đức rằng: “Các đại đức hãy cho tôi tu lên bậc trên.” Tại sao các ngài khi chưa được tôi cầu xin mà đã cho tu lên bậc trên?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên cho tu lên bậc trên người không cầu xin; vị nào ban phép tu lên bậc trên thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, ta cho phép ban phép tu lên bậc trên đối với người đã cầu xin. Và này các tỳ khưu, nên được cầu xin như vầy:
Vị có ý muốn tu lên bậc trên ấy nên đi đến hội chúng tỳ khưu, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các vị tỳ khưu, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói với hội chúng như vầy:
– Bạch các ngài, tôi cầu xin hội chúng sự tu lên bậc trên. Bạch các ngài, vì lòng thương xót xin hội chúng hãy tế độ tôi.
Nên được cầu xin đến lần thứ nhì. Nên được cầu xin đến lần thứ ba.
Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị này tên (như vầy) có ý muốn tu lên bậc trên với đại đức tên (như vầy). Vị tên (như vầy) cầu xin hội chúng sự tu lên bậc trên với đại đức tên (như vầy) là thầy tế độ. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên cho vị tên (như vầy) tu lên bậc trên với đại đức tên (như vầy) là thầy tế độ. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị này tên (như vầy) có ý muốn tu lên bậc trên với đại đức tên (như vầy). Vị tên (như vầy) cầu xin hội chúng sự tu lên bậc trên với đại đức tên (như vầy) là thầy tế độ. Hội chúng cho vị tên (như vầy) tu lên bậc trên với đại đức tên (như vầy) là thầy tế độ. Đại đức nào đồng ý sự tu lên bậc trên của vị tên (như vầy) với đại đức tên (như vầy) là thầy tế độ xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: …(như trên)…
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: …(như trên)…
Vị tên (như vầy) đã được hội chúng cho tu lên bậc trên với đại đức tên (như vầy) là thầy tế độ. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
[87] Vào lúc bấy giờ, ở trong thành Rājagaha sự tuần tự của các bữa ăn gồm các thức ăn hảo hạng đã được tiến hành đều đặn. Khi ấy, có người bà-la-môn nọ đã khởi ý điều này: “Những sa-môn Thích tử này có giới luật thoải mái, có sở hành thoải mái, sau khi thọ thực thức ăn ngon rồi nằm dài trên những cái giường kín gió, hay là ta nên xuất gia nơi các sa-môn Thích tử này?” Sau đó, người bà-la-môn ấy đã đi đến gặp các tỳ khưu cầu xin sự xuất gia. Các tỳ khưu đã cho người ấy xuất gia và tu lên bậc trên. Khi người ấy đã được xuất gia, sự tuần tự của các bữa ăn đã bị ngưng lại. Các vị tỳ khưu đã nói như vầy:
– Này đại đức, hãy đến. Hôm nay chúng ta sẽ đi khất thực.
Vị ấy đã nói như vầy:
– Này các đại đức, tôi đã không xuất gia vì nguyên nhân này: “Ta sẽ đi khất thực.” Nếu các vị cho tôi thì tôi sẽ ăn, nếu các vị không cho tôi thì tôi sẽ hoàn tục.
– Này đại đức, có phải ngài đã xuất gia vì nguyên nhân của bao tử?
– Này các đại đức, đúng vậy.
Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Vì sao vị tỳ khưu lại xuất gia trong Pháp và Luật được khéo thuyết giảng như vầy vì nguyên nhân của bao tử?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này tỳ khưu, nghe nói ngươi đã xuất gia vì nguyên nhân của bao tử, có đúng không vậy?
– Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
– Này kẻ rồ dại, vì sao ngươi lại xuất gia trong Pháp và Luật được khéo thuyết giảng như vầy vì nguyên nhân của bao tử? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. …(như trên)…
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, ta cho phép vị đang ban phép tu lên bậc trên giải thích về bốn vật nương nhờ:
“Việc xuất gia nương vào thức ăn do khất thực, trong trường hợp ấy ngươi nên nỗ lực thực hiện cho đến hết đời; điều phụ trội được phép là bữa ăn dâng hội chúng, bữa ăn được chỉ định, sự mời thỉnh, bữa ăn theo thẻ, vào mỗi nửa tháng, vào ngày Uposatha, vào ngày đầu của mỗi nửa tháng.
Việc xuất gia nương vào y làm bằng vải dơ bị quăng bỏ; trong trường hợp ấy ngươi nên nỗ lực thực hiện cho đến hết đời; điều phụ trội được phép là (y làm bằng) sợi lanh (khomaṃ), bông vải (kappāsikaṃ), tơ lụa (koseyyaṃ), sợi len (kambalaṃ), gai thô (sāṇam), chỉ bố (bhaṅgaṃ).
Việc xuất gia nương vào chỗ trú ngụ là gốc cây; trong trường hợp ấy ngươi nên nỗ lực thực hiện cho đến hết đời; điều phụ trội được phép là trú xá (vihāraṃ), nhà một mái (aḍḍhayogaṃ), tòa nhà dài (pāsādaṃ), khu nhà lớn (hammiyaṃ), hang động (guhaṃ).
Việc xuất gia nương vào dược phẩm là nước tiểu gia súc, trong trường hợp ấy ngươi nên nỗ lực thực hiện cho đến hết đời; điều phụ trội được phép là bơ lỏng (sappi), bơ đặc (navanītaṃ), dầu ăn (telaṃ), mật ong (madhu), đường mía (phānitaṃ).”
Dứt tụng phẩm về phận sự đối với thầy tế độ.
[88] Vào lúc bấy giờ, có chàng thanh niên nọ đã đi đến gặp các tỳ khưu và cầu xin sự xuất gia. Các tỳ khưu đã giải thích cho chàng trai về các vật nương nhờ trước. Chàng trai đã nói như vầy:
– Thưa các ngài, nếu khi tôi đã được xuất gia các ngài mới giải thích về các vật nương nhờ thì tôi còn có thể thỏa thích. Thưa các ngài, giờ đây tôi sẽ không xuất gia, đối với tôi các vật nương nhờ là ghê tởm và đáng ghét.
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên giải thích về các vật nương nhờ trước; vị nào giải thích thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, ta cho phép giải thích về các vật nương nhờ ngay sau khi đã được tu lên bậc trên.
[89] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu đã ban phép tu lên bậc trên với tập thể là nhóm hai vị, nhóm ba vị, nhóm bốn vị. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên ban phép tu lên bậc trên với tập thể là nhóm ít hơn mười vị; vị nào ban phép tu lên bậc trên thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, ta cho phép ban phép tu lên bậc trên với tập thể là nhóm mười vị hoặc nhóm trên mười vị.
[90] Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu chỉ được một năm, hai năm đã cho đệ tử tu lên bậc trên. Ngay cả đại đức Upasena con trai của Vaṅganta được một năm đã cho người đệ tử tu lên bậc trên. Khi đã sống qua mùa (an cư) mưa là được hai năm, vị ấy đã đưa người đệ tử được một năm đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên.
Điều này đã trở thành thông lệ của chư Phật Thế Tôn là niềm nở với các tỳ khưu đi đến. Khi ấy, đức Thế Tôn đã nói với đại đức Upasena con trai của Vaṅganta điều này:
– Này các tỳ khưu, sức khoẻ có khá không? Mọi việc có được tốt đẹp không? Các ngươi đi đến đường xa có được ít mệt nhọc không?
– Bạch Thế Tôn, sức khoẻ có khá. Bạch Thế Tôn, mọi việc được tốt đẹp. Và bạch ngài, chúng con đi đường xa ít có mệt nhọc.
Các đấng Như Lai dầu biết vẫn hỏi, dầu biết các vị vẫn không hỏi, biết đúng thời các vị mới hỏi, biết đúng thời các vị vẫn không hỏi, có liên quan đến lợi ích các đấng Như lai mới hỏi và không (hỏi việc) không có liên quan đến lợi ích, khi không có liên quan đến lợi ích các đấng Như Lai có cách để cắt đứt vấn đề. Chư Phật Thế Tôn hỏi các tỳ khưu với hai lý do: “Chúng ta sẽ thuyết giảng Giáo Pháp hoặc là chúng ta sẽ quy định điều học cho các đệ tử.” Khi ấy, đức Thế Tôn đã nói với đại đức Upasena con trai của Vaṅganta điều này:
– Này tỳ khưu, ngươi được bao nhiêu năm?
– Bạch Thế Tôn, con được hai năm.
– Còn vị tỳ khưu này được bao nhiêu năm?
– Bạch Thế Tôn, được một năm.
– Vị tỳ khưu này là gì của ngươi?
– Bạch Thế Tôn, là đệ tử của con
Đức Thế Tôn đã khiển trách rằng:
– Này kẻ rồ dại, thật không đúng đắn, không hợp lẽ, không tốt đẹp, không xứng pháp sa-môn, không được phép, không nên làm! Này kẻ rồ dại, vì sao (trong khi) ngươi còn cần được giáo huấn cần được chỉ dạy lại nghĩ đến giáo huấn và chỉ dạy những người khác? Này kẻ rồ dại, ngươi trở thành đa đoan quá nhanh chóng tức là việc kết nạp đồ chúng. Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. …(như trên)…
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, vị dưới mười năm không nên ban phép tu lên bậc trên; vị nào ban phép tu lên bậc trên thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, ta cho phép vị mười năm hoặc trên mười năm được ban phép tu lên bậc trên.
[91] Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu ngu dốt thiếu kinh nghiệm (nghĩ rằng): “Ta được mười năm! Ta được mười năm!” rồi ban phép tu lên bậc trên. (Các trường hợp) những thầy tế độ ngu dốt và các đệ tử thông thái được phát hiện, những thầy tế độ thiếu kinh nghiệm và các đệ tử có kinh nghiệm được phát hiện, những thầy tế độ nghe ít và các đệ tử nghe nhiều được phát hiện, những thầy tế độ trí kém và các đệ tử trí tuệ được phát hiện. Có vị nọ trước đây theo ngoại đạo trong khi được thầy tế độ nói về vấn đề thuộc Giáo Pháp đã bắt bẻ lời dạy của thầy tế độ rồi chuyển sang khu vực của chính ngoại đạo ấy. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Vì sao các vị tỳ khưu ngu dốt thiếu kinh nghiệm (nghĩ rằng): “Ta được mười năm! Ta được mười năm!” rồi ban phép tu lên bậc trên khiến (các trường hợp) những thầy tế độ ngu dốt và các đệ tử thông thái được phát hiện, những thầy tế độ thiếu kinh nghiệm và các đệ tử có kinh nghiệm được phát hiện, những thầy tế độ nghe ít và các đệ tử nghe nhiều được phát hiện, những thầy tế độ trí kém và các đệ tử trí tuệ được phát hiện?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, nghe nói các vị tỳ khưu ngu dốt thiếu kinh nghiệm (nghĩ rằng): “Ta được mười năm! Ta được mười năm!” rồi ban phép tu lên bậc trên khiến (các trường hợp) những thầy tế độ ngu dốt và các đệ tử thông thái được phát hiện, những thầy tế độ thiếu kinh nghiệm và các đệ tử có kinh nghiệm được phát hiện, những thầy tế độ nghe ít và các đệ tử nghe nhiều được phát hiện, những thầy tế độ trí kém và các đệ tử trí tuệ được phát hiện, có đúng không vậy?
– Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
– Này các tỳ khưu, vì sao những kẻ rồ dại ấy là ngu dốt thiếu kinh nghiệm lại (nghĩ rằng): “Ta được mười năm! Ta được mười năm!” rồi ban phép tu lên bậc trên khiến (các trường hợp) những thầy tế độ ngu dốt và các đệ tử thông thái được phát hiện, những thầy tế độ thiếu kinh nghiệm và các đệ tử có kinh nghiệm được phát hiện, những thầy tế độ nghe ít và các đệ tử nghe nhiều được phát hiện, những thầy tế độ trí kém và các đệ tử trí tuệ được phát hiện? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)…
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, vị ngu dốt thiếu kinh nghiệm không nên ban phép tu lên bậc trên; vị nào ban phép tu lên bậc trên thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, ta cho phép vị tỳ khưu kinh nghiệm có năng lực với mười năm hoặc trên mười năm được ban phép tu lên bậc trên.
[92] Vào lúc bấy giờ, trong khi các vị thầy tế độ bỏ đi, hoàn tục, từ trần, qua bên nhóm khác, các tỳ khưu trở thành không có thầy dạy học, và trong khi không được giáo huấn, không được chỉ dạy (nên đã) mặc y luộm thuộm, trùm y luộm thuộm, hoàn toàn không đúng quy cách rồi đi khất thực. Khi dân chúng đang ăn, các vị đưa bình bát đã mở ra ở phía trên thức ăn loại mềm (của dân chúng), … ở phía trên thức ăn loại cứng, … ở phía trên thức ăn có hương vị, các vị đưa bình bát đã mở ra ở phía trên thức uống, các vị tự mình yêu cầu xúp và cơm rồi thọ thực, và các vị sống (thường xuyên) gây nên sự náo nhiệt, sự ồn ào ở trong nhà ăn. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Tại sao các sa-môn Thích tử lại mặc y luộm thuộm, trùm y luộm thuộm, hoàn toàn không đúng quy cách rồi đi khất thực, và khi dân chúng đang ăn, các vị lại đưa bình bát đã mở ra ở phía trên thức ăn loại mềm (của dân chúng), … ở phía trên thức ăn loại cứng, … ở phía trên thức ăn có hương vị, các vị lại đưa bình bát đã mở ra ở phía trên thức uống, các vị tự mình yêu cầu xúp và cơm rồi thọ thực, các vị sống (thường xuyên) gây nên sự náo nhiệt, sự ồn ào ở trong nhà ăn giống như các bà-la-môn trong bữa ăn của các bà-la-môn vậy?
Các tỳ khưu đã nghe được dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Vì sao các vị tỳ khưu lại mặc y luộm thuộm, trùm y luộm thuộm, hoàn toàn không đúng quy cách …(như trên)… sự ồn ào ở trong nhà ăn nữa?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
– Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu mặc y luộm thuộm, trùm y luộm thuộm, hoàn toàn không đúng quy cách …(như trên)… sự ồn ào ở trong nhà ăn nữa, có đúng không vậy?
– Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: …(như trên)…
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, ta cho phép vị thầy dạy học. Này các tỳ khưu, vị thầy dạy học sẽ gợi lên ở người học trò tâm của người con và người học trò sẽ gợi lên ở vị thầy dạy học tâm của người cha. Như thế, trong khi sống cùng nhau có nhiều kính trọng, có sự vâng lời, có sự tiếp xúc với nhau, họ sẽ đạt đến sự lớn mạnh, sự tăng trưởng, sự phát triển trong Pháp và Luật này. Này các tỳ khưu, ta cho phép sống nương nhờ mười năm và vị mười năm được ban cho sự nương nhờ. Và này các tỳ khưu, vị thầy dạy học nên được xác định như vầy:
(Người học trò) nên đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy: “Bạch ngài, xin ngài hãy là thầy dạy học của con. Con sẽ sống nương nhờ vào đại đức. Bạch ngài, xin ngài hãy là thầy dạy học của con. Con sẽ sống nương nhờ vào đại đức. Bạch ngài, xin ngài hãy là thầy dạy học của con. Con sẽ sống nương nhờ vào đại đức.”
(Vị thầy dạy học nên nói rằng): “Tốt rồi!” hay là “Được nhẹ nhàng rồi!” hay là “Đúng rồi!” hay là “Được phù hợp rồi!” hay là “Hãy tiếp tục với sự hoan hỷ!”
(Nếu) vị (thầy dạy học) bày tỏ bằng thân, bày tỏ bằng lời nói, bày tỏ bằng thân và lời nói, thì vị thầy dạy học đã được xác định. (Nếu) vị ấy không bày tỏ bằng thân, không bày tỏ bằng lời nói, không bày tỏ bằng thân và lời nói, vị thầy dạy học đã không được xác định.
[93] Này các tỳ khưu, người học trò nên thực hành phận sự đúng đắn đối với vị thầy dạy học. Đây là phận sự đúng đắn trong trường hợp này:
Nên thức dậy vào lúc sáng sớm, cởi dép ra, đắp thượng y một bên vai, rồi nên dâng lên gỗ chà răng, nên dâng nước súc miệng, nên sắp xếp chỗ ngồi. Nếu có cháo, nên rửa sạch tô rồi dâng cháo. Khi thầy đã uống cháo xong, nên dâng nước, nhận lại tô, để ở chỗ thấp, rửa một cách cẩn thận không chà xát mạnh, rồi đem cất. Khi thầy dạy học đứng dậy, nên thu xếp chỗ ngồi. Nếu khu vực ấy có rác rến thì nên quét khu vực ấy.
Nếu thầy dạy học có ý muốn đi vào làng, nên trao y lót trong, và nhận lại y lót trong (khác từ vị thầy), nên trao dây thắt lưng, nên gấp y hai lớp gọn gàng rồi dâng lên. Nên trao bình bát còn đẫm nước sau khi đã rửa sạch. Nếu thầy dạy học muốn có thị giả đi theo, vị ấy nên mặc y nội tròn đều với sự che phủ ba vòng tròn, buộc dây thắt lưng, sửa sang cho tề chỉnh rồi trùm y hai lớp lên, thắt lại dây buộc, rửa ráy, cầm lấy bình bát, rồi nên đi theo làm thị giả cho thầy dạy học. Không nên đi quá xa, không nên đi quá gần. Nên nhận lấy bình bát (của vị thầy) và vật được chứa đựng (trong đó). Khi thầy dạy học đang nói, không nên cắt ngang lời nói nửa chừng. Khi thầy dạy học có khả năng phạm tội lúc đang nói thì nên nhắc nhở.
Khi quay trở về, nên đi về trước tiên. Nên sắp xếp chỗ ngồi. Nên đem lại nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân. Nên đi ra rước y và bình bát. Nên trao y lót trong (trước đây) và nhận lại y lót trong (mặc lúc đi). Nếu y bị thấm mồ hôi, nên phơi ở chỗ nắng trong chốc lát. Và không nên phơi y ở chỗ nắng quá lâu. Nên gấp y lại. Khi gấp y nên lùi phần góc vào bốn ngón tay rồi gấp y lại (nghĩ rằng): “Không nên để nếp gấp ở phần chính giữa.” Nên đặt dây thắt lưng ở phía trong rồi gấp lại.
Nếu có đồ ăn khất thực và thầy dạy học có ý muốn ăn thì nên dâng nước (rửa) và nên đem đồ ăn khất thực để gần bên. Nên dâng lên thầy dạy học nước uống. Khi thầy ăn xong nên dâng nước (rửa). Nên nhận lại bình bát rồi đem để ở chỗ thấp, rửa một cách cẩn thận không chà xát mạnh, nên làm ráo nước, rồi đem phơi ở chỗ nắng trong chốc lát. Không nên phơi bình bát ở chỗ nắng quá lâu. Nên đem cất y và bình bát. Trong khi đặt bình bát xuống, nên dùng một tay ôm bình bát, tay kia sờ ở phía dưới giường hoặc phía dưới ghế rồi nên đặt bình bát xuống. Và không nên đặt bình bát trên mặt đất không có vật kê. Khi máng y, nên dùng một tay cầm y, tay kia vuốt sào treo y hoặc dây phơi y, nên để mép y phía bên kia, còn chỗ gấp y lại ở bên này, rồi căng y ra. Khi thầy dạy học đứng dậy, nên thu xếp chỗ ngồi. Nên dọn dẹp nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân. Nếu khu vực ấy có rác rến thì nên quét khu vực ấy.
Nếu thầy dạy học có ý muốn tắm, nên chuẩn bị việc tắm. Nếu (thầy dạy học) thích nước lạnh, nên chuẩn bị nước lạnh; nếu thích nước nóng, nên chuẩn bị nước nóng. Nếu thầy dạy học có ý muốn đi vào nhà tắm hơi, nên trộn bột tắm, nên tẩm ướt đất sét. Nên lấy ghế ngồi của nhà tắm hơi rồi đi đến từ phía sau lưng, nên trao ghế ngồi của nhà tắm hơi cho thầy dạy học, nhận lấy y, và để ở một bên. Nên trao bột tắm, nên trao đất sét. Nếu có nỗ lực, nên đi vào nhà tắm hơi. Khi đi vào nhà tắm hơi, nên thoa đất sét lên mặt, nên đắp lên cả phía trước lẫn phía sau rồi đi vào nhà tắm hơi. Không nên chen vào (chỗ) các tỳ khưu trưởng lão rồi ngồi xuống. Không nên xua đuổi các tỳ khưu mới tu khỏi chỗ ngồi. Ở trong nhà tắm hơi nên kỳ cọ cho thầy dạy học. Khi rời khỏi nhà tắm hơi, nên cầm lấy cái ghế ngồi của nhà tắm hơi, nên che kín cả phía trước lẫn phía sau rồi rời khỏi nhà tắm hơi. Nên kỳ cọ cho thầy dạy học lúc ở trong nước. Khi tắm xong nên đi ra trước, lau khô nước ở thân thể của mình. Sau khi quấn y, nên lau khô nước ở thân thể của thầy dạy học. Nên trao y lót trong. Nên trao y hai lớp. Nên cầm lấy ghế ngồi của nhà tắm hơi, đi về trước, và sắp xếp chỗ ngồi. Nên đem lại nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân. Nên dâng nước uống đến thầy dạy học. Nếu có ý muốn thỉnh (thầy) đọc tụng, nên thỉnh (thầy) đọc tụng. Nếu có ý muốn vấn đạo, nên thỉnh (thầy) vấn đạo.
Ở trú xá nào thầy dạy học cư ngụ, nếu trú xá ấy có rác rến, nên làm sạch sẽ nếu có nỗ lực. Khi làm sạch sẽ, trước tiên nên đem y bát ra ngoài rồi để xuống ở một góc, nên đem tọa cụ và ngọa cụ ra ngoài rồi để xuống ở một góc, nên đem nệm gối ra ngoài rồi để xuống ở một góc, nên hạ thấp cái giường rồi đem ra ngoài một cách khéo léo không làm trầy hoặc va chạm vào phần dưới của cánh cửa lớn và để xuống ở một góc, nên hạ thấp cái ghế rồi đem ra ngoài một cách khéo léo không làm trầy hoặc va chạm vào phần dưới của cánh cửa lớn và để xuống ở một góc, nên đem khung giường ra ngoài rồi để xuống ở một góc, nên đem ống nhổ ra ngoài rồi để xuống ở một góc, nên đem tấm ván gối đầu ra ngoài rồi để xuống ở một góc, nên xem xét tấm trải nền được xếp đặt như thế nào rồi đem ra ngoài và để xuống ở một góc. Nếu có mạng nhện ở trú xá, khi phát hiện trước tiên nên dời (chúng) khỏi lỗ hổng, nên lau chùi các cửa sổ và các hốc kẹt. Nếu tường được sơn màu đỏ và bị đốm loang lỗ nên thấm khăn ướt chà xát mạnh rồi lau sạch. Nếu nền được sơn màu đen và bị đốm loang lỗ nên thấm khăn ướt chà xát mạnh rồi lau sạch. Nếu nền không được thực hiện, nên rải nước rồi quét (nghĩ rằng): “Không nên để trú xá bị tràn ngập bụi bặm.” Sau khi gom rác lại rồi nên đem đổ bỏ ở một góc.
Sau khi phơi nắng tấm trải nền, nên làm sạch sẽ, đập giũ, rồi đem vào trong và sắp đặt như đã được sắp đặt (trước đây). Sau khi phơi nắng khung giường, nên lau chùi, rồi đem vào trong và để lại ở vị trí như cũ. Sau khi phơi nắng giường, nên làm sạch sẽ, đập giũ, hạ thấp xuống, rồi đem vào trong một cách khéo léo không làm trầy hoặc va chạm vào phần dưới của cánh cửa lớn, và sắp đặt như đã được sắp đặt (trước đây). Sau khi phơi nắng ghế, nên làm sạch sẽ, đập giũ, hạ thấp xuống, rồi đem vào trong một cách khéo léo không làm trầy hoặc va chạm vào phần dưới của cánh cửa lớn, và sắp đặt như đã được sắp đặt (trước đây). Sau khi phơi nắng nệm gối, nên làm sạch sẽ, đập giũ, rồi đem vào trong và sắp đặt như đã được sắp đặt (trước đây). Sau khi phơi nắng tọa cụ và đồ trải nằm, nên làm sạch sẽ, đập giũ, rồi đem vào trong và sắp đặt như đã được sắp đặt (trước đây). Sau khi phơi nắng ống nhổ, nên lau chùi, rồi đem vào trong và để lại ở vị trí như cũ. Sau khi phơi nắng tấm ván gối đầu, nên lau chùi, rồi đem vào trong và để lại ở vị trí như cũ. Nên đem cất y và bình bát. Trong khi đặt bình bát xuống, nên dùng một tay ôm bình bát, tay kia sờ ở phía dưới giường hoặc phía dưới ghế rồi nên đặt bình bát xuống. Không nên đặt bình bát trên mặt đất không có vật kê. Khi máng y, nên dùng một tay cầm y, tay kia vuốt sào treo y hoặc dây phơi y, nên để mép y phía bên kia, còn chỗ gấp y lại ở bên này, rồi căng y ra.
Nếu các cơn gió có bụi thổi từ hướng đông, các cửa sổ hướng đông nên được khép lại. Nếu các cơn gió có bụi thổi từ hướng tây, các cửa sổ hướng tây nên được khép lại. Nếu các cơn gió có bụi thổi từ hướng bắc, các cửa sổ hướng bắc nên được khép lại. Nếu các cơn gió có bụi thổi từ hướng nam, các cửa sổ hướng nam nên được khép lại. Nếu thời tiết lạnh, các cửa sổ nên mở ra vào ban ngày và khép lại vào ban đêm. Nếu thời tiết nóng, các cửa sổ nên khép lại vào ban ngày và mở ra vào ban đêm.
Nếu phòng có rác rến, nên quét phòng. Nếu cổng có rác rến, nên quét cổng. Nếu phòng hội họp có rác rến, nên quét phòng hội họp. Nếu nhà để đốt lửa có rác rến, nên quét nhà để đốt lửa. Nếu nhà vệ sinh có rác rến, nên quét nhà vệ sinh. Nếu nước uống không có, nên đem nước uống lại. Nếu nước rửa không có, nên đem nước rửa lại. Nếu hũ nước súc miệng không có nước, nên đổ nước vào hũ nước súc miệng.
Nếu sự không hoan hỷ sanh khởi ở thầy dạy học, người học trò nên làm cho dịu đi hoặc nhờ vị khác làm cho dịu đi, hoặc nên tiến hành việc giảng Pháp cho vị thầy. Nếu mối nghi ngờ sanh khởi ở thầy dạy học, người học trò nên làm cho tan biến hoặc nhờ vị khác làm cho tan biến, hoặc nên tiến hành việc giảng Pháp cho vị thầy. Nếu tà kiến sanh khởi ở thầy dạy học, người học trò nên phân giải hoặc nhờ vị khác phân giải, hoặc nên tiến hành việc giảng Pháp cho vị thầy. Nếu thầy dạy học bị phạm tội nặng xứng đáng hành phạt parivāsa, người học trò nên nỗ lực: “Làm thế nào để hội chúng có thể ban hành phạt parivāsa cho thầy dạy học?” Nếu thầy dạy học xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu, người học trò nên nỗ lực: “Làm thế nào để hội chúng có thể cho thầy dạy học (thực hành) trở lại từ đầu?” Nếu thầy dạy học xứng đáng hành phạt mānatta, người học trò nên nỗ lực: “Làm thế nào để hội chúng có thể ban hành phạt mānatta cho thầy dạy học?” Nếu thầy dạy học xứng đáng sự giải tội, người học trò nên nỗ lực: “Làm thế nào để hội chúng có thể giải tội cho thầy dạy học?” Nếu hội chúng có ý định thực thi hành sự khiển trách, hoặc chỉ dạy, hoặc xua đuổi, hoặc hòa giải, hoặc án treo đối với thầy dạy học, người học trò nên nỗ lực: “Làm thế nào để hội chúng có thể không thực thi hành sự đối với thầy dạy học, hoặc đổi thành nhẹ hơn?” Khi hội chúng đã thực thi hành sự khiển trách, hoặc chỉ dạy, hoặc xua đuổi, hoặc hòa giải, hoặc án treo đối với vị thầy dạy học, người học trò nên nỗ lực: “Làm thế nào để thầy dạy học có thể làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, và hội chúng có thể thâu hồi hành sự này?”
Nếu y của thầy dạy học cần phải giặt, người học trò nên giặt hoặc nên nỗ lực: “Làm thế nào để y của thầy dạy học được giặt?” Nếu y của thầy dạy học cần phải may, người học trò nên may hoặc nên nỗ lực: “Làm thế nào để y của thầy dạy học được may?” Nếu thuốc nhuộm của thầy dạy học cần phải nấu, người học trò nên nấu hoặc nên nỗ lực: “Làm thế nào để thuốc nhuộm của thầy dạy học được nấu?” Nếu y của thầy dạy học cần phải nhuộm, người học trò nên nhuộm hoặc nên nỗ lực: “Làm thế nào để y của thầy dạy học được nhuộm?” Trong khi nhuộm y, nên đảo tới đảo lui cho khéo léo. Không nên bỏ đi khi nước nhỏ giọt chưa ngừng.
Không có phép của thầy dạy học, không nên cho bình bát đến người khác. Không nên thọ lãnh bình bát của người khác. Không nên cho y đến người khác. Không nên thọ lãnh y của người khác. Không nên cho vật dụng đến người khác. Không nên thọ lãnh vật dụng của người khác. Không nên cạo tóc cho người khác. Không nên bảo người khác cạo tóc. Không nên kỳ cọ người khác. Không nên bảo người khác kỳ cọ. Không nên hầu hạ người khác. Không nên bảo người khác hầu hạ. Không nên làm thị giả người khác. Không nên nhận người khác làm thị giả. Không nên mang đồ ăn khất thực lại dùm người khác. Không nên nhờ người khác mang dùm đồ ăn khất thực lại. Chưa xin phép thầy dạy học không nên đi vào làng, không nên đi đến mộ địa, không nên bỏ đi hướng khác. Nếu thầy dạy học bị bệnh, nên phục vụ cho đến trọn đời hoặc chờ đến khi vị thầy khỏe lại.
Dứt phận sự đối với thầy dạy học.
[94] Này các tỳ khưu, vị thầy dạy học nên thực hành phận sự đúng đắn đối với người học trò. Đây là phận sự đúng đắn trong trường hợp này:
Này các tỳ khưu, thầy dạy học nên quan tâm đến người học trò, nên giúp đỡ bằng sự đọc tụng, bằng sự vấn hỏi, bằng sự giáo huấn, bằng sự chỉ dạy. Nếu thầy dạy học có bình bát và người học trò không có bình bát, thầy dạy học nên cho bình bát đến người học trò, hoặc nên nỗ lực: “Làm thế nào để bình bát có thể phát sanh đến học trò?” Nếu thầy dạy học có y và người học trò không có y, thầy dạy học nên cho y đến người học trò, hoặc nên nỗ lực: “Làm thế nào để y có thể phát sanh đến học trò?” Nếu thầy dạy học có vật dụng và người học trò không có vật dụng, thầy dạy học nên cho vật dụng đến người học trò, hoặc nên nỗ lực: “Làm thế nào để vật dụng có thể phát sanh đến học trò?”
Nếu người học trò bị bệnh, (vị thầy dạy học) nên thức dậy vào lúc sáng sớm. Nên trao gỗ chà răng. Nên trao nước súc miệng. Nên sắp xếp chỗ ngồi. Nếu có cháo, nên rửa sạch tô rồi đem cháo lại. Khi người học trò đã uống cháo xong, nên cho nước, nhận lại tô, để ở chỗ thấp, rửa một cách cẩn thận không chà xát mạnh, rồi đem cất. Khi người học trò đứng dậy, nên thu xếp chỗ ngồi. Nếu khu vực ấy có rác rến thì nên quét khu vực ấy.
Nếu người học trò có ý muốn đi vào làng, nên trao y lót trong, và nhận lại y lót trong (khác từ vị ấy), nên trao dây thắt lưng, nên gấp y hai lớp gọn gàng rồi trao cho. Nên trao bình bát còn đẫm nước sau khi đã rửa sạch. (Nghĩ rằng): “Đến lúc vị ấy sắp trở về,” nên sắp xếp chỗ ngồi. Nên đem lại nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân. Nên đi ra rước y và bình bát. Nên trao y lót trong (trước đây) và nhận lại y lót trong (mặc lúc đi). Nếu y bị thấm mồ hôi, nên phơi ở chỗ nắng trong chốc lát. Và không nên phơi y ở chỗ nắng quá lâu. Nên gấp y lại. Khi gấp y nên lùi phần góc vào bốn ngón tay rồi gấp y lại (nghĩ rằng): “Không nên để nếp gấp ở phần chính giữa.” Nên đặt dây thắt lưng ở phía trong rồi gấp lại.
Nếu có đồ ăn khất thực và người học trò có ý muốn ăn thì nên trao nước (rửa) và nên đem đồ ăn khất thực để gần bên. Nên đưa cho học trò nước uống. Khi người học trò ăn xong nên trao nước (rửa). Nên nhận lại bình bát, để ở chỗ thấp, rửa một cách cẩn thận không chà xát mạnh, nên làm ráo nước rồi đem phơi ở chỗ nắng trong chốc lát. Không nên phơi bình bát ở chỗ nắng quá lâu. Nên đem cất y và bình bát. Trong khi đặt bình bát xuống, nên dùng một tay ôm bình bát, tay kia sờ ở phía dưới giường hoặc phía dưới ghế rồi nên đặt bình bát xuống. Và không nên đặt bình bát trên mặt đất không có vật kê. Khi máng y, nên dùng một tay cầm y, tay kia vuốt sào treo y hoặc dây phơi y, nên để mép y phía bên kia, còn chỗ gấp y lại ở bên này, rồi căng y ra. Khi người học trò đứng dậy, nên thu xếp chỗ ngồi. Nên dọn dẹp nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân. Nếu khu vực ấy có rác rến thì nên quét khu vực ấy.
Nếu người học trò có ý muốn tắm, nên chuẩn bị việc tắm. Nếu (người học trò) thích nước lạnh, nên chuẩn bị nước lạnh; nếu thích nước nóng, nên chuẩn bị nước nóng. Nếu người học trò có ý muốn đi vào nhà tắm hơi, nên trộn bột tắm, nên tẩm ướt đất sét. Nên lấy ghế ngồi của nhà tắm hơi, đi đến, trao ghế ngồi của nhà tắm hơi, nhận lấy y, rồi để ở một bên. Nên trao bột tắm. Nên trao đất sét. Nếu có nỗ lực, nên đi vào nhà tắm hơi. Khi đi vào nhà tắm hơi, nên thoa đất sét lên mặt, nên đắp lên cả phía trước lẫn phía sau rồi đi vào nhà tắm hơi. Không nên chen vào (chỗ) các tỳ khưu trưởng lão rồi ngồi xuống. Không nên xua đuổi các tỳ khưu mới tu khỏi chỗ ngồi. Ở trong nhà tắm hơi nên kỳ cọ cho người học trò. Khi rời khỏi nhà tắm hơi, nên cầm lấy cái ghế ngồi của nhà tắm hơi, sau khi che kín cả phía trước lẫn phía sau rồi rời khỏi nhà tắm hơi. Nên kỳ cọ cho người học trò lúc ở trong nước. Khi tắm xong nên đi ra trước, nên lau khô nước ở thân thể của mình. Sau khi quấn y, nên lau khô nước ở thân thể của người học trò. Nên trao y lót trong. Nên trao y hai lớp. Nên cầm lấy ghế ngồi của nhà tắm hơi, đi về trước, và sắp xếp chỗ ngồi. Nên đem lại nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân. Nên đem nước uống đến cho người học trò.
Ở trú xá nào người học trò cư ngụ, nếu trú xá ấy có rác rến, nên làm sạch sẽ nếu có nỗ lực. Khi làm sạch sẽ, trước tiên nên đem y bát ra ngoài rồi để xuống ở một góc, nên đem tọa cụ và ngọa cụ ra ngoài rồi để xuống ở một góc, nên đem nệm gối ra ngoài rồi để xuống ở một góc, nên hạ thấp cái giường rồi đem ra ngoài một cách khéo léo không làm trầy hoặc va chạm vào phần dưới của cánh cửa lớn và để xuống ở một góc, nên hạ thấp cái ghế rồi đem ra ngoài một cách khéo léo không làm trầy hoặc va chạm vào phần dưới của cánh cửa lớn và để xuống ở một góc, nên đem khung giường ra ngoài rồi để xuống ở một góc, nên đem ống nhổ ra ngoài rồi để xuống ở một góc, nên đem tấm ván gối đầu ra ngoài rồi để xuống ở một góc, nên xem xét tấm trải nền được xếp đặt như thế nào rồi đem ra ngoài và để xuống ở một góc. Nếu có mạng nhện ở trú xá, khi phát hiện trước tiên nên dời (chúng) khỏi lỗ hổng, nên lau chùi các cửa sổ và các hốc kẹt. Nếu tường được sơn màu đỏ và bị đốm loang lỗ nên thấm khăn ướt chà xát mạnh rồi lau sạch. Nếu nền được sơn màu đen và bị đốm loang lỗ nên thấm khăn ướt chà xát mạnh rồi lau sạch. Nếu nền không được thực hiện, nên rải nước rồi quét (nghĩ rằng): “Không nên để trú xá bị tràn ngập bụi bặm.” Sau khi gom rác lại rồi nên đem đổ bỏ ở một góc.
Sau khi phơi nắng tấm trải nền, nên làm sạch sẽ, đập giũ, rồi đem vào trong và sắp đặt như đã được sắp đặt (trước đây). Sau khi phơi nắng khung giường, nên lau chùi, rồi đem vào trong và để lại ở vị trí như cũ. Sau khi phơi nắng giường, nên làm sạch sẽ, đập giũ, hạ thấp xuống, rồi đem vào trong một cách khéo léo không làm trầy hoặc va chạm vào phần dưới của cánh cửa lớn, và sắp đặt như đã được sắp đặt (trước đây). Sau khi phơi nắng ghế, nên làm sạch sẽ, đập giũ, hạ thấp xuống, rồi đem vào trong một cách khéo léo không làm trầy hoặc va chạm vào phần dưới của cánh cửa lớn, và sắp đặt như đã được sắp đặt (trước đây). Sau khi phơi nắng nệm gối, nên làm sạch sẽ, đập giũ, rồi đem vào trong và sắp đặt như đã được sắp đặt (trước đây). Sau khi phơi nắng tọa cụ và ngọa cụ, nên làm sạch sẽ, đập giũ, rồi đem vào trong và sắp đặt như đã được sắp đặt (trước đây). Sau khi phơi nắng ống nhổ, nên lau chùi, rồi đem vào trong và để lại ở vị trí như cũ. Sau khi phơi nắng tấm ván gối đầu, nên lau chùi, rồi đem vào trong và để lại ở vị trí như cũ. Nên đem cất y và bình bát. Trong khi đặt bình bát xuống, nên dùng một tay ôm bình bát, tay kia sờ ở phía dưới giường hoặc phía dưới ghế rồi nên đặt bình bát xuống. Không nên đặt bình bát trên mặt đất không có vật kê. Khi máng y, nên dùng một tay cầm y, tay kia vuốt sào treo y hoặc dây phơi y, nên để mép y phía bên kia, còn chỗ gấp y lại ở bên này, rồi căng y ra.
Nếu các cơn gió có bụi thổi từ hướng đông, các cửa sổ hướng đông nên được khép lại. Nếu các cơn gió có bụi thổi từ hướng tây, các cửa sổ hướng tây nên được khép lại. Nếu các cơn gió có bụi thổi từ hướng bắc, các cửa sổ hướng bắc nên được khép lại. Nếu các cơn gió có bụi thổi từ hướng nam, các cửa sổ hướng nam nên được khép lại. Nếu thời tiết lạnh, các cửa sổ nên mở ra vào ban ngày và khép lại vào ban đêm. Nếu thời tiết nóng, các cửa sổ nên khép lại vào ban ngày và mở ra vào ban đêm.
Nếu phòng có rác rến, nên quét phòng. Nếu cổng có rác rến, nên quét cổng. Nếu phòng hội họp có rác rến, nên quét phòng hội họp. Nếu nhà để đốt lửa có rác rến, nên quét nhà để đốt lửa. Nếu nhà vệ sinh có rác rến, nên quét nhà vệ sinh. Nếu nước uống không có, nên đem nước uống lại. Nếu nước rửa không có, nên đem nước rửa lại. Nếu hũ nước súc miệng không có nước, nên đổ nước vào hũ nước súc miệng.
Nếu có sự không hoan hỷ sanh khởi ở người học trò, vị thầy dạy học nên làm cho dịu đi hoặc nhờ vị khác làm cho dịu đi, hoặc nên tiến hành việc giảng Pháp cho vị ấy. Nếu mối nghi ngờ sanh khởi ở người học trò, vị thầy dạy học nên làm cho tan biến hoặc nhờ vị khác làm cho tan biến, hoặc nên tiến hành việc giảng Pháp cho vị ấy. Nếu tà kiến sanh khởi ở người học trò, vị thầy dạy học nên phân giải hoặc nhờ vị khác phân giải, hoặc nên tiến hành việc giảng Pháp cho vị ấy. Nếu người học trò bị phạm tội nặng xứng đáng hành phạt parivāsa, vị thầy dạy học nên nỗ lực: “Làm thế nào để hội chúng có thể ban hành phạt parivāsa cho học trò?” Nếu người học trò xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu, vị thầy dạy học nên nỗ lực: “Làm thế nào để hội chúng có thể cho học trò (thực hành) trở lại từ đầu?” Nếu người học trò xứng đáng hành phạt mānatta, vị thầy dạy học nên nỗ lực: “Làm thế nào để hội chúng có thể ban hành phạt mānatta cho học trò?” Nếu người học trò xứng đáng sự giải tội, vị thầy dạy học nên nỗ lực: “Làm thế nào để hội chúng có thể giải tội cho học trò?” Nếu hội chúng có ý định thực thi hành sự khiển trách, hoặc chỉ dạy, hoặc xua đuổi, hoặc hòa giải, hoặc án treo đối với người học trò, vị thầy dạy học nên nỗ lực: “Làm thế nào để hội chúng có thể không thực thi hành sự đối với học trò, hoặc đổi thành nhẹ hơn?” Khi hội chúng đã thực thi hành sự khiển trách, hoặc chỉ dạy, hoặc xua đuổi, hoặc hòa giải, hoặc án treo đối với người học trò, vị thầy dạy học nên nỗ lực: “Làm thế nào để học trò có thể làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, và hội chúng có thể thâu hồi hành sự này?”
Nếu y của người học trò cần phải giặt, vị thầy dạy học nên hướng dẫn: “Ngươi nên giặt như vầy,” hoặc nên nỗ lực: “Làm thế nào để y của học trò được giặt?” Nếu y của học trò cần phải may, vị thầy dạy học nên hướng dẫn: “Ngươi nên may như vầy,” hoặc nên nỗ lực: “Làm thế nào để y của học trò được may?” Nếu thuốc nhuộm của người học trò cần phải nấu, vị thầy dạy học nên hướng dẫn: “Ngươi nên nấu như vầy,” hoặc nên nỗ lực: “Làm thế nào để thuốc nhuộm của học trò được nấu?” Nếu y của người học trò cần phải nhuộm, vị thầy dạy học nên hướng dẫn: “Ngươi nên nhuộm như vầy,” hoặc nên nỗ lực: “Làm thế nào để y của học trò được nhuộm?” Trong khi nhuộm y, nên đảo tới đảo lui cho khéo léo. Không nên bỏ đi khi nước nhỏ giọt chưa ngừng. Nếu người học trò bị bệnh, nên phục vụ cho đến trọn đời hoặc chờ đến khi người học trò khỏe lại.
Dứt phận sự đối với học trò.
(Dứt tụng phẩm thứ sáu).
[95] Vào lúc bấy giờ, các người học trò không thực hành phận sự đúng đắn đối với các vị thầy dạy học. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, người học trò nên thực hành phận sự đúng đắn đối với các vị thầy dạy học; vị nào không thực hành đúng đắn thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
(Các người học trò) vẫn không thực hành phận sự đúng đắn. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép đuổi đi người (học trò) không thực hành phận sự đúng đắn. Và này các tỳ khưu, nên đuổi đi như vầy: “Ta đuổi ngươi đi,” hay là “Đừng có quay trở lại đây,” hay là “Hãy đem đi y bát của ngươi,” hay là “Ta không giúp đở ngươi nữa.” (Nếu) vị (thầy dạy học) bày tỏ bằng thân, bày tỏ bằng lời nói, bày tỏ bằng thân và lời nói, thì người học trò đã bị đuổi đi. (Nếu) vị ấy không bày tỏ bằng thân, không bày tỏ bằng lời nói, không bày tỏ bằng thân và lời nói, thì người học trò không bị đuổi đi
Vào lúc bấy giờ, những người học trò bị đuổi đi không xin lỗi. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép xin lỗi.
Các người (học trò) vẫn không xin lỗi. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, người (học trò) bị đuổi đi không nên không xin lỗi; vị nào không xin lỗi thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vào lúc bấy giờ, trong khi được xin lỗi các vị thầy dạy học không tha thứ. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép tha thứ.
Các vị (thầy dạy học) vẫn không tha thứ. Những người học trò bỏ đi, (hoặc) hoàn tục, (hoặc) theo ngoại đạo. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, trong khi được xin lỗi không nên không tha thứ; vị nào không tha thứ thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vào lúc bấy giờ, các vị thầy dạy học đuổi đi những người (học trò) thực hành phận sự đúng đắn, không đuổi đi những người (học trò) không thực hành phận sự đúng đắn. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên đuổi đi người (học trò) thực hành phận sự đúng đắn; vị nào đuổi đi thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, không nên không đuổi đi người (học trò) không thực hành phận sự đúng đắn; vị nào không đuổi đi thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Này các tỳ khưu, nên đuổi đi người học trò hội đủ năm điều kiện: Đối với thầy dạy học không có nhiều lòng yêu mến, không có nhiều đức tin, không có nhiều nể nang, không có nhiều kính trọng, (và) không có nhiều sự rèn luyện. Này các tỳ khưu, nên đuổi đi người học trò hội đủ năm điều kiện này.
Này các tỳ khưu, không nên đuổi đi người học trò hội đủ năm điều kiện: Đối với thầy dạy học có nhiều lòng yêu mến, có nhiều đức tin, có nhiều nể nang, có nhiều kính trọng, (và) có nhiều sự rèn luyện. Này các tỳ khưu, không nên đuổi đi người học trò hội đủ năm điều kiện này.
Này các tỳ khưu, người học trò là đáng bị đuổi đi khi hội đủ năm điều kiện: Đối với thầy dạy học không có nhiều lòng yêu mến, không có nhiều đức tin, không có nhiều nể nang, không có nhiều kính trọng, (và) không có nhiều sự rèn luyện. Này các tỳ khưu, người học trò là đáng bị đuổi đi khi hội đủ năm điều kiện này.
Này các tỳ khưu, người học trò là không đáng bị đuổi đi khi hội đủ năm điều kiện: Đối với thầy dạy học có nhiều lòng yêu mến, có nhiều đức tin, có nhiều nể nang, có nhiều kính trọng, (và) có nhiều sự rèn luyện. Này các tỳ khưu, người học trò là không đáng bị đuổi đi khi hội đủ năm điều kiện này.
Này các tỳ khưu, vị thầy dạy học là vượt qua quy định khi không đuổi đi, không vượt qua quy định khi đuổi đi người học trò hội đủ năm điều kiện: Đối với thầy dạy học không có nhiều lòng yêu mến, không có nhiều đức tin, không có nhiều nể nang, không có nhiều kính trọng, (và) không có nhiều sự rèn luyện. Này các tỳ khưu, vị thầy dạy học là vượt qua quy định khi không đuổi đi, không vượt qua quy định khi đuổi đi người học trò hội đủ năm điều kiện này.
Này các tỳ khưu, vị thầy dạy học là vượt qua quy định khi đuổi đi, không vượt qua quy định khi không đuổi đi người học trò hội đủ năm điều kiện: Đối với thầy dạy học có nhiều lòng yêu mến, có nhiều đức tin, có nhiều nể nang, có nhiều kính trọng, (và) có nhiều sự rèn luyện. Này các tỳ khưu, vị thầy dạy học là vượt qua quy định khi đuổi đi, không vượt qua quy định khi không đuổi đi người học trò hội đủ năm điều kiện này.
[96] Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu ngu dốt thiếu kinh nghiệm (nghĩ rằng): “Ta được mười năm! Ta được mười năm!” rồi ban cho sự nương nhờ. (Các trường hợp) những thầy dạy học ngu dốt và các học trò thông thái được phát hiện, những thầy dạy học thiếu kinh nghiệm và các học trò có kinh nghiệm được phát hiện, những thầy dạy học nghe ít và các học trò nghe nhiều được phát hiện, những thầy dạy học trí kém và các học trò trí tuệ được phát hiện. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Vì sao các vị tỳ khưu ngu dốt thiếu kinh nghiệm (nghĩ rằng): “Ta được mười năm! Ta được mười năm!” rồi ban cho sự nương nhờ khiến (các trường hợp) những thầy dạy học ngu dốt và các học trò thông thái được phát hiện, những thầy dạy học thiếu kinh nghiệm và các học trò có kinh nghiệm được phát hiện, những thầy dạy học nghe ít và các học trò nghe nhiều được phát hiện, những thầy dạy học trí kém và các học trò trí tuệ được phát hiện?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, nghe nói các vị tỳ khưu ngu dốt thiếu kinh nghiệm (nghĩ rằng): “Ta được mười năm! Ta được mười năm!” rồi ban cho sự nương nhờ khiến (các trường hợp) những thầy dạy học ngu dốt …(như trên)… và các học trò trí tuệ được phát hiện, có đúng không vậy?
– Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: …(như trên)…
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, vị ngu dốt thiếu kinh nghiệm không nên ban phép tu lên bậc trên; vị nào ban phép tu lên bậc trên thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, ta cho phép vị tỳ khưu kinh nghiệm có năng lực với mười năm hoặc trên mười năm được ban cho sự nương nhờ.
[97] Vào lúc bấy giờ, khi các vị thầy tế độ bỏ đi, hoàn tục, từ trần, chuyển qua bên nhóm khác, các vị tỳ khưu không biết các trường hợp đình chỉ sự nương nhờ. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, đây là năm trường hợp đình chỉ sự nương nhờ ở thầy tế độ: Thầy tế độ rời đi, hoặc hoàn tục, hoặc từ trần, hoặc chuyển qua bên nhóm khác, hoặc sự ra lệnh (đuổi đi) là thứ năm. Này các tỳ khưu, đây là năm trường hợp đình chỉ sự nương nhờ ở thầy tế độ.
Này các tỳ khưu, đây là sáu trường hợp đình chỉ sự nương nhờ ở thầy dạy học: Thầy dạy học rời đi, hoặc hoàn tục, hoặc từ trần, hoặc qua bên nhóm khác, hoặc sự ra lệnh (đuổi đi) là thứ năm, hoặc đã được gặp lại thầy tế độ. Này các tỳ khưu, đây là sáu trường hợp đình chỉ sự nương nhờ ở thầy dạy học.
[98] Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện này không nên ban phép tu lên bậc trên, không nên cho nương nhờ, không nên để cho sa di phục vụ: Là vị không thành tựu vô học giới uẩn, không thành tựu vô học định uẩn, không thành tựu vô học tuệ uẩn, không thành tựu vô học giải thoát uẩn, không thành tựu vô học giải thoát tri kiến uẩn. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện này không nên ban phép tu lên bậc trên, không nên cho nương nhờ, không nên để cho sa di phục vụ.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện này nên ban phép tu lên bậc trên, nên cho nương nhờ, nên để cho sa di phục vụ: Là vị thành tựu vô học giới uẩn, thành tựu vô học định uẩn, thành tựu vô học tuệ uẩn, thành tựu vô học giải thoát uẩn, thành tựu vô học giải thoát tri kiến uẩn. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện này nên ban phép tu lên bậc trên, nên cho nương nhờ, nên để cho sa di phục vụ.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện khác nữa không nên ban phép tu lên bậc trên, không nên cho nương nhờ, không nên để cho sa di phục vụ: Là vị bản thân không thành tựu vô học giới uẩn và không giúp người khác đạt được vô học giới uẩn, bản thân không thành tựu vô học định uẩn và không giúp người khác đạt được vô học định uẩn, bản thân không thành tựu vô học tuệ uẩn và không giúp người khác đạt được vô học tuệ uẩn, bản thân không thành tựu vô học giải thoát uẩn và không giúp người khác đạt được vô học giải thoát uẩn, bản thân không thành tựu vô học giải thoát tri kiến uẩn và không giúp người khác đạt được vô học giải thoát tri kiến uẩn. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện này không nên ban phép tu lên bậc trên, không nên cho nương nhờ, không nên để cho sa di phục vụ.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện khác nữa nên ban phép tu lên bậc trên, nên cho nương nhờ, nên để cho sa di phục vụ: Là vị bản thân thành tựu vô học giới uẩn và giúp người khác đạt được vô học giới uẩn, bản thân thành tựu vô học định uẩn và giúp người khác đạt được vô học định uẩn, bản thân thành tựu vô học tuệ uẩn và giúp người khác đạt được vô học tuệ uẩn, bản thân thành tựu vô học giải thoát uẩn và giúp người khác đạt được vô học giải thoát uẩn, bản thân thành tựu vô học giải thoát tri kiến uẩn và giúp người khác đạt được vô học giải thoát tri kiến uẩn. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện này nên ban phép tu lên bậc trên, nên cho nương nhờ, nên để cho sa di phục vụ.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện khác nữa không nên ban phép tu lên bậc trên, không nên cho nương nhờ, không nên để cho sa di phục vụ: Là vị không có đức tin, không có sự hổ thẹn (tội lỗi), không có sự ghê sợ (tội lỗi), biếng nhác, niệm bị quên lãng. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện này không nên ban phép tu lên bậc trên, không nên cho nương nhờ, không nên để cho sa di phục vụ.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện khác nữa nên ban phép tu lên bậc trên, nên cho nương nhờ, nên để cho sa di phục vụ: Là vị có đức tin, có sự hổ thẹn (tội lỗi), có sự ghê sợ (tội lỗi), có nỗ lực tinh tấn, có niệm được thiết lập. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện này nên ban phép tu lên bậc trên, nên cho nương nhờ, nên để cho sa di phục vụ.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện khác nữa không nên ban phép tu lên bậc trên, không nên cho nương nhờ, không nên để cho sa di phục vụ: Là vị bị hư hỏng về giới thuộc tăng thượng giới,[8] bị hư hỏng về hạnh kiểm thuộc tăng thượng hạnh,[9] bị hư hỏng về tri kiến thuộc tri kiến sái quấy,[10] ít học hỏi (appassuto), trí kém (duppañño) . Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện này không nên ban phép tu lên bậc trên, không nên cho nương nhờ, không nên để cho sa di phục vụ.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện khác nữa nên ban phép tu lên bậc trên, nên cho nương nhờ, nên để cho sa di phục vụ: Là vị không bị hư hỏng về giới thuộc tăng thượng giới, không bị hư hỏng về hạnh kiểm thuộc tăng thượng hạnh, không bị hư hỏng về tri kiến thuộc tri kiến sái quấy, nghe nhiều (bahussuto), có trí tuệ (paññāvā). Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện này nên ban phép tu lên bậc trên, nên cho nương nhờ, nên để cho sa di phục vụ.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện khác nữa không nên ban phép tu lên bậc trên, không nên cho nương nhờ, không nên để cho sa di phục vụ: Là vị không có khả năng để phục vụ hoặc kiếm người phục vụ khi đệ tử hay học trò bị bệnh, (không có khả năng để) khuyên giải hoặc nhờ người khuyên giải (khi đệ tử hay học trò) có sự chán nản, (không có khả năng để) giải tỏa hoặc nhờ người giải tỏa đúng theo Pháp (khi đệ tử hay học trò) có mối nghi ngờ sanh khởi, không biết về sự phạm tội, không biết cách thoát khỏi tội. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện này không nên ban phép tu lên bậc trên, không nên cho nương nhờ, không nên để cho sa di phục vụ.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện khác nữa nên ban phép tu lên bậc trên, nên cho nương nhờ, nên để cho sa di phục vụ: Là vị có khả năng để phục vụ hoặc kiếm người phục vụ khi đệ tử hay học trò bị bệnh, (có khả năng để) khuyên giải hoặc nhờ người khuyên giải (khi đệ tử hay học trò) có sự chán nản, (có khả năng để) giải tỏa hoặc nhờ người giải tỏa đúng theo Pháp (khi đệ tử hay học trò) có mối nghi ngờ sanh khởi, biết về sự phạm tội, biết cách thoát khỏi tội. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện này nên ban phép tu lên bậc trên, nên cho nương nhờ, nên để cho sa di phục vụ.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện khác nữa không nên ban phép tu lên bậc trên, không nên cho nương nhờ, không nên để cho sa di phục vụ: Là vị không có khả năng để huấn luyện các điều học thuộc về phận sự căn bản,[11] (không có khả năng) để hướng dẫn các điều học thuộc về phần đầu của Phạm hạnh,[12] (không có khả năng) để hướng dẫn về Thắng Pháp (abhidhamma), (không có khả năng) để hướng dẫn về Thắng Luật (abhivinaya),[13] (không có khả năng) để phân tách đúng theo Pháp xu hướng tà kiến đã được sanh khởi cho đệ tử hay học trò. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện này không nên ban phép tu lên bậc trên, không nên cho nương nhờ, không nên để cho sa di phục vụ.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện khác nữa nên ban phép tu lên bậc trên, nên cho nương nhờ, nên để cho sa di phục vụ: Là vị có khả năng để huấn luyện các điều học thuộc về phận sự căn bản, (có khả năng) để hướng dẫn các điều học thuộc về phần đầu của Phạm hạnh, (có khả năng) để hướng dẫn về Thắng Pháp, (có khả năng) để hướng dẫn về Thắng Luật, (có khả năng) để phân tách đúng theo Pháp xu hướng tà kiến đã được sanh khởi cho đệ tử hay học trò. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện này nên ban phép tu lên bậc trên, nên cho nương nhờ, nên để cho sa di phục vụ.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện khác nữa không nên ban phép tu lên bậc trên, không nên cho nương nhờ, không nên để cho sa di phục vụ: Là vị không biết về sự phạm tội, không biết về sự không phạm tội, không biết về sự phạm tội nhẹ, không biết về sự phạm tội nặng, không được khéo truyền thừa hai bộ giới bổn Pātimokkha một cách chi tiết, không khéo phân tích, không khéo thực hành, không khéo xác định theo từng điều hoặc từng phần phụ thuộc. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện này không nên ban phép tu lên bậc trên, không nên cho nương nhờ, không nên để cho sa di phục vụ.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện khác nữa nên ban phép tu lên bậc trên, nên cho nương nhờ, nên để cho sa di phục vụ: Là vị biết về sự phạm tội, biết về sự không phạm tội, biết về sự phạm tội nhẹ, biết về sự phạm tội nặng, được khéo truyền thừa hai bộ giới bổn Pātimokkha một cách chi tiết, khéo phân tích, khéo thực hành, khéo xác định theo từng điều hoặc từng phần phụ thuộc. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện này nên ban phép tu lên bậc trên, nên cho nương nhờ, nên để cho sa di phục vụ.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện khác nữa không nên ban phép tu lên bậc trên, không nên cho nương nhờ, không nên để cho sa di phục vụ: Là vị không biết về sự phạm tội, không biết về sự không phạm tội, không biết về sự phạm tội nhẹ, không biết về sự phạm tội nặng, chưa đủ mười năm. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện này không nên ban phép tu lên bậc trên, không nên cho nương nhờ, không nên để cho sa di phục vụ.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện khác nữa nên ban phép tu lên bậc trên, nên cho nương nhờ, nên để cho sa di phục vụ: Là vị biết về sự phạm tội, biết về sự không phạm tội, biết về sự phạm tội nhẹ, biết về sự phạm tội nặng, được mười năm hoặc hơn mười năm. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện này nên ban phép tu lên bậc trên, nên cho nương nhờ, nên để cho sa di phục vụ.
Dứt mười sáu nhóm năm của phần “Nên ban phép tu lên bậc trên.”
[99] Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ sáu điều kiện này không nên ban phép tu lên bậc trên, không nên cho nương nhờ, không nên để cho sa di phục vụ: Là vị không thành tựu vô học giới uẩn, không thành tựu vô học định uẩn, không thành tựu vô học tuệ uẩn, không thành tựu vô học giải thoát uẩn, không thành tựu vô học giải thoát tri kiến uẩn, chưa đủ mười năm. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ sáu điều kiện này không nên ban phép tu lên bậc trên, không nên cho nương nhờ, không nên để cho sa di phục vụ.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ sáu điều kiện này nên ban phép tu lên bậc trên, nên cho nương nhờ, nên để cho sa di phục vụ: Là vị thành tựu vô học giới uẩn, thành tựu vô học định uẩn, thành tựu vô học tuệ uẩn, thành tựu vô học giải thoát uẩn, thành tựu vô học giải thoát tri kiến uẩn, được mười năm hoặc hơn mười năm. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ sáu điều kiện này nên ban phép tu lên bậc trên, nên cho nương nhờ, nên để cho sa di phục vụ.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ sáu điều kiện khác nữa không nên ban phép tu lên bậc trên, không nên cho nương nhờ, không nên để cho sa di phục vụ: Là vị bản thân không thành tựu vô học giới uẩn và không giúp người khác đạt được vô học giới uẩn, bản thân không thành tựu vô học định uẩn và không giúp người khác đạt được vô học định uẩn, bản thân không thành tựu vô học tuệ uẩn và không giúp người khác đạt được vô học tuệ uẩn, bản thân không thành tựu vô học giải thoát uẩn và không giúp người khác đạt được vô học giải thoát uẩn, bản thân không thành tựu vô học giải thoát tri kiến uẩn và không giúp người khác đạt được vô học giải thoát tri kiến uẩn, chưa đủ mười năm. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ sáu điều kiện này không nên ban phép tu lên bậc trên, không nên cho nương nhờ, không nên để cho sa di phục vụ.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ sáu điều kiện này nên ban phép tu lên bậc trên, nên cho nương nhờ, nên để cho sa di phục vụ: Là vị bản thân thành tựu vô học giới uẩn và giúp người khác đạt được vô học giới uẩn, bản thân thành tựu vô học định uẩn và giúp người khác đạt được vô học định uẩn, bản thân thành tựu vô học tuệ uẩn và giúp người khác đạt được vô học tuệ uẩn, bản thân thành tựu vô học giải thoát uẩn và giúp người khác đạt được vô học giải thoát uẩn, bản thân thành tựu vô học giải thoát tri kiến uẩn và giúp người khác đạt được vô học giải thoát tri kiến uẩn, được mười năm hoặc hơn mười năm. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ sáu điều kiện này nên ban phép tu lên bậc trên, nên cho nương nhờ, nên để cho sa di phục vụ.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ sáu điều kiện khác nữa không nên ban phép tu lên bậc trên, không nên cho nương nhờ, không nên để cho sa di phục vụ: Là vị không có đức tin, không có sự hổ thẹn (tội lỗi), không có sự ghê sợ (tội lỗi), biếng nhác, niệm bị quên lãng, chưa đủ mười năm. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ sáu điều kiện này không nên ban phép tu lên bậc trên, không nên cho nương nhờ, không nên để cho sa di phục vụ.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ sáu điều kiện khác nữa nên ban phép tu lên bậc trên, nên cho nương nhờ, nên để cho sa di phục vụ: Là vị có đức tin, có sự hổ thẹn (tội lỗi), có sự ghê sợ (tội lỗi), có nỗ lực tinh tấn, có niệm được thiết lập, được mười năm hoặc hơn mười năm. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ sáu điều kiện này nên ban phép tu lên bậc trên, nên cho nương nhờ, nên để cho sa di phục vụ.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ sáu điều kiện khác nữa không nên ban phép tu lên bậc trên, không nên cho nương nhờ, không nên để cho sa di phục vụ: Là vị bị hư hỏng về giới thuộc tăng thượng giới, bị hư hỏng về hạnh kiểm thuộc tăng thượng hạnh, bị hư hỏng về tri kiến thuộc tri kiến sái quấy, ít học hỏi, trí kém, chưa đủ mười năm. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ sáu điều kiện này không nên ban phép tu lên bậc trên, không nên cho nương nhờ, không nên để cho sa di phục vụ.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ sáu điều kiện khác nữa nên ban phép tu lên bậc trên, nên cho nương nhờ, nên để cho sa di phục vụ: Là vị không bị hư hỏng về giới thuộc tăng thượng giới, không bị hư hỏng về hạnh kiểm thuộc tăng thượng hạnh, không bị hư hỏng về tri kiến thuộc tri kiến sái quấy, nghe nhiều, có trí tuệ, được mười năm hoặc hơn mười năm. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ sáu điều kiện này nên ban phép tu lên bậc trên, nên cho nương nhờ, nên để cho sa di phục vụ.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ sáu điều kiện khác nữa không nên ban phép tu lên bậc trên, không nên cho nương nhờ, không nên để cho sa di phục vụ: Là vị không có khả năng để phục vụ hoặc kiếm người phục vụ khi đệ tử hay học trò bị bệnh, (không có khả năng để) khuyên giải hoặc nhờ người khuyên giải (khi đệ tử hay học trò) có sự chán nản, (không có khả năng để) giải tỏa hoặc nhờ người giải tỏa đúng theo Pháp (khi đệ tử hay học trò) có mối nghi ngờ sanh khởi, không biết về tội, không biết cách thoát khỏi tội, chưa đủ mười năm. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ sáu điều kiện này không nên ban phép tu lên bậc trên, không nên cho nương nhờ, không nên để cho sa di phục vụ.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ sáu điều kiện khác nữa nên ban phép tu lên bậc trên, nên cho nương nhờ, nên để cho sa di phục vụ: Là vị có khả năng để phục vụ hoặc kiếm người phục vụ khi đệ tử hay học trò bị bệnh, (có khả năng để) khuyên giải hoặc nhờ người khuyên giải (khi đệ tử hay học trò) có sự chán nản, (có khả năng để) giải tỏa hoặc nhờ người giải tỏa đúng theo Pháp (khi đệ tử hay học trò) có mối nghi ngờ sanh khởi, biết về tội, biết cách thoát khỏi tội, được mười năm hoặc hơn mười năm. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ sáu điều kiện này nên ban phép tu lên bậc trên, nên cho nương nhờ, nên để cho sa di phục vụ.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ sáu điều kiện khác nữa không nên ban phép tu lên bậc trên, không nên cho nương nhờ, không nên để cho sa di phục vụ: Là vị không có khả năng để huấn luyện các điều học thuộc về phận sự căn bản, (không có khả năng) để hướng dẫn các điều học thuộc về phần đầu của Phạm hạnh, (không có khả năng) để hướng dẫn về Thắng Pháp, (không có khả năng) để hướng dẫn về Thắng Luật, (không có khả năng) để phân tách đúng theo Pháp xu hướng tà kiến đã được sanh khởi cho đệ tử hay học trò, chưa đủ mười năm. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ sáu điều kiện này không nên ban phép tu lên bậc trên, không nên cho nương nhờ, không nên để cho sa di phục vụ.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ sáu điều kiện khác nữa nên ban phép tu lên bậc trên, nên cho nương nhờ, nên để cho sa di phục vụ: Là vị có khả năng để huấn luyện các điều học thuộc về phận sự căn bản, (có khả năng) để hướng dẫn các điều học thuộc về phần đầu của Phạm hạnh, (có khả năng) để hướng dẫn về Thắng Pháp, (có khả năng) để hướng dẫn về Thắng Luật, (có khả năng) để phân tách đúng theo Pháp xu hướng tà kiến đã được sanh khởi cho đệ tử hay học trò, được mười năm hoặc hơn mười năm. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ sáu điều kiện này nên ban phép tu lên bậc trên, nên cho nương nhờ, nên để cho sa di phục vụ.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ sáu điều kiện khác nữa không nên ban phép tu lên bậc trên, không nên cho nương nhờ, không nên để cho sa di phục vụ: Là vị không biết về sự phạm tội, không biết về sự không phạm tội, không biết về sự phạm tội nhẹ, không biết về sự phạm tội nặng, không được khéo truyền thừa hai bộ giới bổn Pātimokkha một cách chi tiết, không khéo phân tích, không khéo thực hành, không khéo xác định theo từng điều hoặc từng phần phụ thuộc, chưa đủ mười năm. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ sáu điều kiện này không nên ban phép tu lên bậc trên, không nên cho nương nhờ, không nên để cho sa di phục vụ.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ sáu điều kiện khác nữa nên ban phép tu lên bậc trên, nên cho nương nhờ, nên để cho sa di phục vụ: Là vị biết về sự phạm tội, biết về sự không phạm tội, biết về sự phạm tội nhẹ, biết về sự phạm tội nặng, được khéo truyền thừa hai bộ giới bổn Pātimokkha một cách chi tiết, khéo phân tích, khéo thực hành, khéo xác định theo từng điều hoặc từng phần phụ thuộc, được mười năm hoặc hơn mười năm. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ sáu điều kiện này nên ban phép tu lên bậc trên, nên cho nương nhờ, nên để cho sa di phục vụ.
(Dứt mười sáu[14] mhóm sáu của phần “Nên ban phép tu lên bậc trên.”)
[100] Vào lúc bấy giờ, có người trước đây theo ngoại đạo trong khi được thầy tế độ nói về vấn đề thuộc Giáo Pháp đã bắt bẻ lời dạy của thầy tế độ rồi chuyển sang khu vực của chính ngoại đạo ấy. Người ấy đã quay trở lại lần nữa và cầu xin các tỳ khưu sự tu lên bậc trên. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, người nào trước đây theo ngoại đạo trong khi được thầy tế độ nói về vấn đề thuộc Giáo Pháp đã bắt bẻ lời dạy của thầy tế độ rồi chuyển sang khu vực của chính ngoại đạo ấy, người ấy đi đến thì không nên cho tu lên bậc trên. Này các tỳ khưu, người nào khác trước đây theo ngoại đạo mong mỏi sự xuất gia trong Pháp và Luật này, mong mỏi việc tu lên bậc trên, nên ban cho vị ấy bốn tháng parivāsa.[15] Này các tỳ khưu, nên ban cho như vầy:
Trước tiên, nên bảo cạo bỏ râu tóc, bảo khoác lên các tấm vải màu ca-sa, bảo đắp thượng y một bên vai, bảo đảnh lễ ở chân các vị tỳ khưu, bảo ngồi chồm hổm, bảo chắp tay lên, và nên bảo rằng: “Ngươi hãy nói như vầy”:
“Tôi đến với đức Phật là nơi nương nhờ (Tôi xin quy y Phật).
Tôi đến với đức Pháp là nơi nương nhờ (Tôi xin quy y Pháp).
Tôi đến với đức Tăng là nơi nương nhờ (Tôi xin quy y Tăng).
Lần thứ nhì, tôi đến với đức Phật là nơi nương nhờ.
Lần thứ nhì, tôi đến với đức Pháp là nơi nương nhờ.
Lần thứ nhì, tôi đến với đức Tăng là nơi nương nhờ.
Lần thứ ba, tôi đến với đức Phật là nơi nương nhờ.
Lần thứ ba, tôi đến với đức Pháp là nơi nương nhờ.
Lần thứ ba, tôi đến với đức Tăng là nơi nương nhờ.”
Này các tỳ khưu, người trước đây theo ngoại đạo ấy nên đi đến hội chúng, nên đắp thượng y một bên vai, nên đảnh lễ ở chân các tỳ khưu, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy:
“Bạch các ngài, tôi tên (như vầy) trước đây theo ngoại đạo mong mỏi việc tu lên bậc trên trong Pháp và Luật này. Bạch các ngài, tôi đây cầu xin hội chúng bốn tháng parivāsa.”
Nên được cầu xin lần thứ nhì. Nên được cầu xin lần thứ ba.
Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị này tên (như vầy) trước đây theo ngoại đạo mong mỏi việc tu lên bậc trên trong Pháp và Luật này. Vị ấy cầu xin hội chúng bốn tháng parivāsa. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho vị tên (như vầy) trước đây theo ngoại đạo bốn tháng parivāsa. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị này tên (như vầy) trước đây theo ngoại đạo mong mỏi việc tu lên bậc trên trong Pháp và Luật này. Vị ấy cầu xin hội chúng bốn tháng parivāsa. Hội chúng ban cho vị tên (như vầy) trước đây theo ngoại đạo bốn tháng parivāsa. Đại đức nào đồng ý việc ban cho bốn tháng parivāsa đến vị tên (như vầy) trước đây theo ngoại đạo xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Bốn tháng parivāsa đã được hội chúng ban cho vị tên (như vầy) trước đây theo ngoại đạo. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
Này các tỳ khưu, người trước đây theo ngoại đạo như thế này là người đạt yêu cầu (ārādhako), như thế này là người không đạt yêu cầu (anārādhako).
Này các tỳ khưu, người trước đây theo ngoại đạo như thế nào là người không đạt yêu cầu?
Này các tỳ khưu, trường hợp người trước đây theo ngoại đạo đi vào làng quá sớm và trở về quá trễ. Này các tỳ khưu, người trước đây theo ngoại đạo như thế ấy là người không đạt yêu cầu.
Này các tỳ khưu còn có điều khác nữa, người trước đây theo ngoại đạo lai vãng với đĩ điếm (vesiyāgocaro), lai vãng với góa phụ, lai vãng với gái lỡ thời, lai vãng với người vô căn,[16] lai vãng với tỳ khưu ni. Này các tỳ khưu, người trước đây theo ngoại đạo như thế ấy là người không đạt yêu cầu.
Này các tỳ khưu còn có điều khác nữa, có những công việc gì đó lớn nhỏ của các vị có Phạm hạnh cần phải làm, trong những trường hợp ấy người trước đây theo ngoại đạo lại không khéo léo, không kiên nhẫn, không có được những tìm tòi cách giải quyết các vấn đề ấy, không đủ khả năng làm, không đủ khả năng hướng dẫn người khác làm. Này các tỳ khưu, người trước đây theo ngoại đạo như thế ấy là người không đạt yêu cầu.
Này các tỳ khưu còn có điều khác nữa, người trước đây theo ngoại đạo không có ước muốn mãnh liệt trong việc đọc tụng, (không có ước muốn mãnh liệt) trong việc tìm hiểu ý nghĩa, (không có ước muốn mãnh liệt) trong tăng thượng giới, (không có ước muốn mãnh liệt) trong tăng thượng tâm, (không có ước muốn mãnh liệt) trong tăng thượng tuệ.[17] Này các tỳ khưu, người trước đây theo ngoại đạo như thế ấy là người không đạt yêu cầu.
Này các tỳ khưu còn có điều khác nữa, người trước đây theo ngoại đạo trở nên giận dữ, không hoan hỷ, không hài lòng khi được nghe lời chê bai về vị thầy, về quan điểm, về đức tin, về khuynh hướng của phái ngoại đạo mà từ đó người ấy đã chuyển sang; trở nên hoan hỷ, vui vẻ, hài lòng khi được nghe lời chê bai về Phật Pháp Tăng; trở nên hoan hỷ, vui vẻ, hài lòng khi được nghe lời khen ngợi về vị thầy, về quan điểm, về đức tin, về khuynh hướng của phái ngoại đạo mà từ đó người ấy đã chuyển sang; trở nên giận dữ, không hoan hỷ, không hài lòng khi được nghe lời khen ngợi về Phật Pháp Tăng. Này các tỳ khưu, đây là điểm chủ yếu trong việc không đạt yêu cầu của người trước đây theo ngoại đạo. Này các tỳ khưu, người trước đây theo ngoại đạo như thế ấy là người không đạt yêu cầu.
Này các tỳ khưu, người trước đây theo ngoại đạo đã đi đến (nếu) là người không đạt yêu cầu như thế ấy thì không nên cho tu lên bậc trên.
Này các tỳ khưu, người trước đây theo ngoại đạo như thế nào là người đạt yêu cầu?
Này các tỳ khưu, trường hợp người trước đây theo ngoại đạo đi vào làng không quá sớm và trở về không quá trễ. Này các tỳ khưu, người trước đây theo ngoại đạo như thế ấy là người đạt yêu cầu.
Này các tỳ khưu còn có điều khác nữa, người trước đây theo ngoại đạo không lai vãng với đĩ điếm, không lai vãng với góa phụ, không lai vãng với gái lỡ thời, không lai vãng với người vô căn, không lai vãng với tỳ khưu ni. Này các tỳ khưu, người trước đây theo ngoại đạo như thế ấy là người đạt yêu cầu.
Này các tỳ khưu còn có điều khác nữa, có những công việc gì đó lớn nhỏ của các vị có Phạm hạnh cần phải làm, trong những trường hợp ấy người trước đây theo ngoại đạo là khéo léo, kiên nhẫn, có được những tìm tòi cách giải quyết các vấn đề ấy, có đủ khả năng làm, có đủ khả năng hướng dẫn người khác làm. Này các tỳ khưu, người trước đây theo ngoại đạo như thế ấy là người đạt yêu cầu.
Này các tỳ khưu còn có điều khác nữa, người trước đây theo ngoại đạo có ước muốn mãnh liệt trong việc đọc tụng, (có ước muốn mãnh liệt) trong việc tìm hiểu ý nghĩa, (có ước muốn mãnh liệt) trong tăng thượng giới, (có ước muốn mãnh liệt) trong tăng thượng tâm, (có ước muốn mãnh liệt) trong tăng thượng tuệ. Này các tỳ khưu, người trước đây theo ngoại đạo như thế ấy là người đạt yêu cầu.
Này các tỳ khưu còn có điều khác nữa, người trước đây theo ngoại đạo trở nên hoan hỷ, vui vẻ, hài lòng khi được nghe lời chê bai về vị thầy, về quan điểm, về đức tin, về khuynh hướng của phái ngoại đạo mà từ đó người ấy đã chuyển sang; trở nên giận dữ, không hoan hỷ, không hài lòng khi được nghe lời chê bai về Phật Pháp Tăng; trở nên giận dữ, không hoan hỷ, không hài lòng khi được nghe lời khen ngợi về vị thầy, về quan điểm, về đức tin, về khuynh hướng của phái ngoại đạo mà từ đó người ấy đã chuyển sang; trở nên hoan hỷ, vui vẻ, hài lòng khi được nghe lời khen ngợi về Phật Pháp Tăng. Này các tỳ khưu, đây là điểm chủ yếu trong việc đạt yêu cầu của người trước đây theo ngoại đạo. Này các tỳ khưu, người trước đây theo ngoại đạo như thế ấy là người đạt yêu cầu.
Này các tỳ khưu, người trước đây theo ngoại đạo đã đi đến (nếu) là người đạt yêu cầu như thế ấy thì nên cho tu lên bậc trên.
Này các tỳ khưu, nếu người trước đây theo ngoại đạo là trần truồng đi đến, y là trách nhiệm thuộc về thầy tế độ cần được tìm kiếm. Nếu người có tóc chưa được cắt đi đến thì hội chúng nên được thông báo về việc cạo tóc (bhaṇḍukamma). Này các tỳ khưu, những người là các vị thờ lửa là các đạo sĩ bện tóc, (nếu) các vị ấy đã đi đến thì nên cho tu lên bậc trên, không cần ban cho parivāsa đến những người ấy. Lý do của điều ấy là gì? Này các tỳ khưu, những người ấy là những người thuyết về Nghiệp, là những người thuyết về Nhân Quả (kiriyavādī). Này các tỳ khưu, nếu người trước đây theo ngoại đạo là người thuộc dòng Sākya (Thích Ca) đi đến, khi người ấy đã đi đến thì nên cho tu lên bậc trên, không cần ban cho parivāsa đến người ấy. Này các tỳ khưu, ta ban cho đặc ân ngoại lệ này đến các thân quyến.
Phần nói về người trước đây theo ngoại đạo.
(Dứt Tụng phẩm thứ bảy)
[1] Dvādasa + nahuta = 12 nahuta. Chúng tôi theo lời giải thích của ngài Buddhaghosa là: 1 nahuta = 10.000, như vậy 12 nahuta = 120.000. Từ điển “A dictionary of the Pali Language” của Robert Cæsar Childers ghi là: 1 nahuta = 10.000.0004, tức là 28 con số không (0) sau con số một, như thế 12 nahuta là một con số quá lớn, không hợp lý trong trường hợp này.
[2] Dasavāso: Ngài Buddhaghosa giải thích là “dasasu ariyavāsesu vutthavāso = sự cư trú trong mười pháp của bậc Thánh” (H.T. Minh Châu dịch là “Mười Thánh cư,” xem kinh Phúng Tụng, phần Mười Pháp, Kinh Trường Bộ, hoặc chương 10 pháp, phẩm 2, Kinh Tăng Chi Bộ).
[3] Ngài Buddhaghosa giải thích là vị thông hiểu về “dasakammapatha = mười đường lối tạo nghiệp” gồm có mười nghiệp bất thiện và mười nghiệp thiện (liên quan đến thân có 3, khẩu có 4, và ý có 3): không sát sanh, không trộm cắp, …, không tà kiến ác.
[4] Ngài Buddhaghosa giải thích là “mười pháp của bậc vô học” gồm có: Chánh kiến, chánh tư duy, …, chánh trí, chánh giải thoát (chương 10 pháp, phẩm 11, Kinh Tăng Chi Bộ)
[5] Saddhivihārika: vị sống chung trú xá (dịch theo từ).
[6] Theo lời giải thích của ngài Mahāsamaṇa Chao, nếu gấp đôi y lại sẽ có đường gấp ở chính giữa, phần giữa này sẽ ở phần sau lưng khi trùm y vào và là phần thường bị hư hỏng trước nhất do sự cọ xát. Cách gấp y như vầy để hạn chế điều ấy (Vinayamukha 2, trang 75).
[7] Ngài Buddhaghosa giải thích là sự rèn luyện về tâm từ.
[8] Tăng thượng giới (adhisīla) gồm bốn tội pārājika và mười ba tội saṅghādisesa.
[9] Tăng thượng hạnh (ajjhācāra) là các tội còn lại thuộc năm nhóm tội của giới bổn Pātimokkha.
[10] Ba điều này được ghi lại theo lời giải thích của ngài Buddhaghosa.
[11] Ngài Buddhaghosa giải thích abhisamācārikā là phận sự được quy định ở trong Khandhaka tức là Mahāvagga (Đại Phẩm) và Cullavagga (Tiểu Phẩm).
[12] Ngài Buddhaghosa giải thích ādibrahmacariyakā là phần quy định dành cho bậc hữu học.
[13] Theo lời giải thích của ngài Buddhaghosa: Hướng dẫn về Thắng Pháp là có khả năng hướng dẫn về sự phân biệt Danh Sắc, và hướng dẫn về Thắng Luật là hướng dẫn về toàn bộ Tạng Luật.
[14] Đếm lại chỉ có mười bốn nhóm sáu.
[15] Trường hợp vị tỳ khưu phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) có che giấu muốn được trong sạch trở lại phải xin hành phạt cũng có tên là parivāsa. Tuy có tên gọi giống nhau nhưng phận sự thực hành không giống nhau.
[16] Từ Pāli là paṇḍaka nói về người nam paṇḍaka. Về người nữ các từ được tìm thấy là paṇḍikā, itthipaṇḍikā, itthipaṇḍaka. Từ tiếng Anh tương đương là “eunuch” được dịch sang tiếng Việt là “hoạn quan, thái giám.” Lâu nay, chúng tôi hiểu theo ý nghĩa thông thường đó. Gần đây, chúng tôi tìm thấy từ “jātipaṇḍaka” mới biết thêm được là có hạng người paṇḍaka bẩm sanh. Dựa theo phần giảng giải của giới pārājika (bất cộng trụ) thứ nhất ở Mahāvibhaṅga (Bộ Phân Tích Giới Bổn), chúng tôi có được khái niệm là hạng này không có bộ phận sinh dục (việc xác định nam hay nữ là do các đặc tính khác). Chúng tôi dùng từ “vô căn” để dịch từ paṇḍaka theo như đã được sử dụng trong một số bản dịch của các vị tiền bối. Đối nghịch với hạng người này, còn có hạng người “ubhatovyañjana,” chúng tôi tạm dùng từ Việt là “lưỡng căn” thì có luôn cả hai bộ phận sinh dục nam và nữ.
[17] Adhisīla: Tăng thượng giới là giới bổn Pātimokkha. Adhicitta: Tăng thượng tâm là sự tu tập các loại định hợp thế. Adhipaññā: Tăng thượng tuệ là sự tu tập (các tâm) Đạo Siêu Thế (theo lời giải thích của ngài Buddhaghosa).
I. CHƯƠNG TRỌNG YẾU (MAHĀKHANDHAKAṂ) (tt)
Tụng phẩm thứ tám
[101] Vào lúc bấy giờ, có năm thứ bệnh phát triển rộng khắp trong dân chúng xứ Magadha là: bệnh cùi (kuṭṭhaṃ), bệnh mụt nhọt (gaṇḍo), bệnh chàm (kilāso), bệnh lao phổi (soso), bệnh động kinh (apamāro). Những người mắc phải năm thứ bệnh đi đến gặp Jīvaka Komārabhacca và nói như vầy:
– Thưa thầy, tốt đẹp thay thầy hãy điều trị cho chúng tôi.
– Các ngài ơi, tôi có nhiều phận sự, có nhiều việc cần phải làm. Và tôi còn phải phục vụ đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha, các cung phi, và hội chúng tỳ khưu có đức Phật đứng đầu nữa; tôi không thể điều trị (các ngài) được.
– Thưa thầy, tất cả tài sản hãy là của thầy và chúng tôi sẽ là đầy tớ của thầy. Tốt đẹp thay thầy hãy điều trị cho chúng tôi.
– Các ngài ơi, tôi có nhiều phận sự, có nhiều việc cần phải làm. Và tôi còn phải phục vụ đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha, các cung phi, và hội chúng tỳ khưu có đức Phật đứng đầu nữa; tôi không thể điều trị (các ngài) được.
Khi ấy, những người dân ấy đã khởi ý điều này: “Những sa-môn Thích tử này có giới luật thoải mái, có sở hành thoải mái, sau khi thọ thực thức ăn ngon rồi nằm dài trên những cái giường kín gió, hay là chúng ta nên xuất gia nơi các sa-môn Thích tử? Trong trường hợp ấy, chính các vị tỳ khưu sẽ chăm sóc (chúng ta) và Jīvaka Komārabhacca sẽ điều trị.” Sau đó, những người dân ấy đã đi đến gặp các tỳ khưu và cầu xin sự xuất gia. Các tỳ khưu đã cho họ xuất gia, đã cho tu lên bậc trên. Và chính các tỳ khưu đã chăm sóc họ và Jīvaka Komārabhacca đã điều trị.
Vào lúc bấy giờ, trong lúc chăm sóc nhiều tỳ khưu bị bệnh các vị tỳ khưu sống có nhiều sự xin xỏ, có nhiều sự yêu cầu: “Hãy bố thí vật thực dành cho người bệnh, hãy bố thí vật thực dành cho người chăm sóc bệnh, hãy bố thí dược phẩm dành cho người bệnh.” Ngay cả Jīvaka Komārabhacca, trong lúc điều trị nhiều tỳ khưu bị bệnh, đã xao lãng phận sự nào đó đối với đức vua.
Và có người đàn ông nọ cũng mắc phải năm thứ bệnh đã đi đến gặp Jīvaka Komārabhacca và đã nói điều này:
– Thưa thầy, tốt đẹp thay thầy hãy điều trị cho tôi.
– Ngài ơi, tôi có nhiều phận sự, có nhiều việc cần phải làm. Và tôi còn phải phục vụ đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha, các cung phi, và hội chúng tỳ khưu có đức Phật đứng đầu nữa; tôi không thể điều trị (ngài) được.
– Thưa thầy, tất cả tài sản hãy là của thầy và tôi sẽ là đầy tớ của thầy. Tốt đẹp thay thầy hãy điều trị cho tôi.
– Ngài ơi, tôi có nhiều phận sự, có nhiều việc cần phải làm. Và tôi còn phải phục vụ đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha, các cung phi, và hội chúng tỳ khưu có đức Phật đứng đầu nữa; tôi không thể điều trị (ngài) được.
Khi ấy, người đàn ông ấy đã khởi ý điều này: “Những sa-môn Thích tử này có giới luật thoải mái, có sở hành thoải mái, sau khi thọ thực thức ăn ngon rồi nằm dài trên những cái giường kín gió, hay là ta nên xuất gia nơi các sa-môn Thích tử? Trong trường hợp ấy, chính các vị tỳ khưu sẽ chăm sóc (ta) và Jīvaka Komārabhacca sẽ điều trị, khi khỏi bệnh ta đây sẽ hoàn tục.” Sau đó, người đàn ông ấy đã đi đến gặp các tỳ khưu và cầu xin sự xuất gia. Các tỳ khưu đã cho người ấy xuất gia, đã cho tu lên bậc trên. Và chính các tỳ khưu đã chăm sóc người ấy và Jīvaka Komārabhacca đã điều trị. Người ấy khi khỏi bệnh đã hoàn tục. Jīvaka Komārabhacca đã nhìn thấy người đàn ông hoàn tục ấy, sau khi nhìn thấy đã nói với người đàn ông ấy điều này:
– Thưa ngài, có phải ngài đã xuất gia nơi các vị tỳ khưu không?
– Thưa thầy, đúng vậy.
– Thưa ngài, điều gì khiến ngài đã làm việc như thế?
Khi ấy, người đàn ông ấy đã kể lại sự việc ấy cho Jīvaka Komārabhacca. Jīvaka Komārabhacca phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Tại sao các đại đức lại cho người bị mắc phải năm thứ bệnh xuất gia?
Sau đó, Jīvaka Komārabhacca đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, Jīvaka Komārabhacca đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, tốt đẹp thay các ngài đại đức không cho người bị mắc phải năm thứ bệnh xuất gia.
Khi ấy, đức Thế Tôn đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho Jīvaka Komārabhacca bằng bài Pháp thoại. Sau đó, khi đã được đức Thế Tôn chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi bằng bài Pháp thoại, Jīvaka Komārabhacca đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi.
Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, không nên cho người bị mắc phải năm chứng bệnh xuất gia; vị nào cho xuất gia thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[102] Vào lúc bấy giờ, vùng biên địa của đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha bị (trộm cướp) dấy loạn. Khi ấy, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã ra lệnh cho các quan đại thần lãnh đạo quân đội rằng:
– Này các khanh, hãy đi và thâu hồi lại vùng biên địa.
– Tâu bệ hạ, xin vâng. Các quan đại thần lãnh đạo quân đội đã đáp lại đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha.
Khi ấy, các chiến sĩ danh tiếng lẫy lừng đã khởi ý điều này: “Là những người say mê chiến trận, chúng ta tạo nghiệp ác và gây ra nhiều điều bất thiện trong khi đi (đánh trận). Với phương kế gì chúng ta có thể tránh được việc ác và thực hiện điều tốt đẹp?” Khi ấy, các chiến sĩ ấy đã khởi ý điều này: “Những vị sa-môn Thích tử này là những vị thực hành Giáo Pháp, thực hành sự bình thản, thực hành Phạm hạnh, nói lời chân thật, có giới hạnh, có thiện pháp, nếu chúng ta có thể xuất gia nơi các vị sa-môn Thích tử, như vậy chúng ta có thể tránh được việc ác và thực hiện điều tốt đẹp.” Sau đó, các chiến sĩ ấy đã đi đến gặp các tỳ khưu và cầu xin sự xuất gia. Các tỳ khưu đã cho họ xuất gia, đã cho tu lên bậc trên. Các quan đại thần lãnh đạo quân đội đã hỏi các binh sĩ của đức vua rằng:
– Này các khanh, sao các chiến sĩ tên (như vầy) và tên (như vầy) lại không hiện diện?
– Thưa tướng quân, các chiến sĩ tên (như vầy) và tên (như vầy) đã xuất gia nơi các vị tỳ khưu.
Các quan đại thần lãnh đạo quân đội phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Tại sao các sa-môn Thích tử lại cho binh sĩ của đức vua xuất gia?
Các quan đại thần lãnh đạo quân đội đã trình sự việc ấy lên đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha. Khi ấy, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã hỏi các quan đại thần phụ trách tòa án rằng:
– Này các khanh, người cho binh sĩ của đức vua xuất gia phạm vào điều gì?
– Tâu bệ hạ, đầu của thầy tế độ nên bị chặt đi, lưỡi của vị đọc tuyên ngôn nên bị rút ra, một phần xương sườn của nhóm (các vị chứng minh) nên bị bẻ gãy.
Sau đó, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, có những vị vua không có đức tin, không có tín ngưỡng, những vị ấy có thể hãm hại các tỳ khưu chỉ vì chuyện không đáng gì. Bạch ngài, tốt đẹp thay các ngài đại đức không cho binh sĩ của đức vua xuất gia.
Khi ấy, đức Thế Tôn đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha bằng bài Pháp thoại. Sau đó, khi đã được đức Thế Tôn chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi bằng bài Pháp thoại, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi.
Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, không nên cho binh sĩ của đức vua xuất gia; vị nào cho xuất gia thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[103] Vào lúc bấy giờ, kẻ cướp có mang chuỗi ngón tay[1] đã được xuất gia ở nơi các tỳ khưu. Dân chúng khi nhìn thấy trở nên sợ hãi, hoảng hốt, bỏ chạy, rẽ sang hướng khác, quay mặt chỗ khác, đóng cửa lại. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Tại sao các sa-môn Thích tử lại cho kẻ cướp có mang biểu tượng xuất gia?
Các tỳ khưu đã nghe được dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên cho kẻ cướp có mang biểu tượng xuất gia; vị nào cho xuất gia thì phạm tội dukkaṭa (tác ác)
[104] Vào lúc bấy giờ, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã ra thông báo rằng: “Không được phép làm bất cứ điều gì đến những người đã xuất gia nơi các vị sa-môn Thích tử. Giáo Pháp đã được khéo thuyết giảng, hãy để các vị thực hành Phạm hạnh một cách đúng đắn ngõ hầu chấm dứt khổ đau.”
Vào lúc bấy giờ, có người đàn ông nọ sau khi thực hiện vụ trộm đã bị giam trong ngục. Người ấy đã phá ngục tẩu thoát và đã được xuất gia ở nơi các tỳ khưu. Dân chúng sau khi nhìn thấy đã nói như vầy:
– Chính người này là kẻ cướp phá ngục, chúng ta hãy dẫn gã ấy đi đi.
Một số người đã nói như vầy:
– Này các ngài, chớ có nói như thế. Đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã ra thông báo rằng: “Không được phép làm bất cứ điều gì đến những người đã xuất gia nơi các vị sa-môn Thích tử. Giáo Pháp đã được khéo thuyết giảng, hãy để các vị thực hành Phạm hạnh một cách đúng đắn ngõ hầu chấm dứt khổ đau.”
Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Các vị sa-môn Thích tử này được an toàn và bảo đảm rồi vì không được phép làm bất cứ điều gì đến các vị này! Nhưng tại sao các sa-môn Thích tử lại cho kẻ cướp phá ngục xuất gia?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên cho kẻ cướp phá ngục xuất gia; vị nào cho xuất gia thì phạm tội dukkaṭa (tác ác)
[105] Vào lúc bấy giờ, có người đàn ông nọ sau khi thực hiện vụ trộm đã tẩu thoát và đã được xuất gia ở nơi các tỳ khưu. Người ấy đã bị cáo thị tầm nã ở hoàng cung rằng: “Được nhìn thấy tại đâu thì được giết tại đấy.” Dân chúng sau khi nhìn thấy đã nói như vầy:
– Chính người này là kẻ cướp bị cáo thị tầm nã, chúng ta hãy giết gã ấy đi.
Một số người đã nói như vầy:
– Này các ngài, chớ có nói như thế. Đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã ra thông báo rằng: “Không được phép làm bất cứ điều gì đến những người đã xuất gia nơi các vị sa-môn Thích tử. Giáo Pháp đã được khéo thuyết giảng, hãy để các vị thực hành Phạm hạnh một cách đúng đắn ngõ hầu chấm dứt khổ đau.”
Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Các vị sa-môn Thích tử này được an toàn và bảo đảm rồi vì không được phép làm bất cứ điều gì đến các vị này! Nhưng tại sao các sa-môn Thích tử lại cho kẻ cướp bị cáo thị tầm nã xuất gia?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên cho kẻ cướp bị cáo thị tầm nã xuất gia; vị nào cho xuất gia thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[106] Vào lúc bấy giờ, có người đàn ông nọ bị hành phạt đánh bằng roi đã được xuất gia ở nơi các tỳ khưu. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Tại sao các sa-môn Thích tử lại cho kẻ bị hành phạt đánh bằng roi xuất gia?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên cho kẻ bị hành phạt đánh bằng roi xuất gia; vị nào cho xuất gia thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[107] Vào lúc bấy giờ, có người đàn ông nọ bị hành phạt đóng dấu đã được xuất gia ở nơi các tỳ khưu. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Tại sao các sa-môn Thích tử lại cho kẻ bị hành phạt đóng dấu xuất gia?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên cho kẻ bị hành phạt đóng dấu xuất gia; vị nào cho xuất gia thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[108] Vào lúc bấy giờ, có người đàn ông nọ là kẻ thiếu nợ đã bỏ trốn và đã được xuất gia ở nơi các tỳ khưu. Những người chủ nợ đã nhìn thấy và nói như vầy:
– Chính người này là kẻ thiếu nợ của chúng ta, chúng ta hãy dẫn gã ấy đi đi.
Một số người đã nói như vầy:
– Này các ngài, chớ có nói như thế. Đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã ra thông báo rằng: “Không được phép làm bất cứ điều gì đến những người đã xuất gia nơi các vị sa-môn Thích tử. Giáo Pháp đã được khéo thuyết giảng, hãy để các vị thực hành Phạm hạnh một cách đúng đắn ngõ hầu chấm dứt khổ đau.”
Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Các vị sa-môn Thích tử này được an toàn và bảo đảm rồi vì không được phép làm bất cứ điều gì đến các vị này! Nhưng tại sao các sa-môn Thích tử lại cho kẻ thiếu nợ xuất gia?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên cho kẻ thiếu nợ xuất gia; vị nào cho xuất gia thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[109] Vào lúc bấy giờ, có người nô tỳ nọ đã bỏ trốn và đã được xuất gia ở nơi các tỳ khưu. Những người chủ đã nhìn thấy và nói như vầy:
– Chính người này là kẻ nô tỳ của chúng ta, chúng ta hãy dẫn gã ấy đi đi.
Một số người đã nói như vầy:
– Này các ngài, chớ có nói như thế. Đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã ra thông báo rằng: “Không được phép làm bất cứ điều gì đến những người đã xuất gia nơi các vị sa-môn Thích tử. Giáo Pháp đã được khéo thuyết giảng, hãy để các vị thực hành Phạm hạnh một cách đúng đắn ngõ hầu chấm dứt khổ đau.”
Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Các vị sa-môn Thích tử này được an toàn và bảo đảm rồi vì không được phép làm bất cứ điều gì đến các vị này! Nhưng tại sao các sa-môn Thích tử lại cho kẻ nô tỳ xuất gia?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên cho kẻ nô tỳ xuất gia; vị nào cho xuất gia thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[110] Vào lúc bấy giờ, có người thợ bạc nọ bị sói đầu sau khi cãi vả với cha mẹ đã đi đến tu viện và đã được xuất gia ở nơi các tỳ khưu. Sau đó, cha mẹ của người thợ bạc bị sói đầu ấy, trong khi tìm kiếm người thợ bạc bị sói đầu ấy, đã đi đến tu viện và đã hỏi các tỳ khưu rằng:
– Thưa các ngài, vậy chớ các ngài có nhìn thấy người trai trẻ hình dáng như thế này không?
Các vị tỳ khưu không biết đã nói rằng:
– Chúng tôi không biết.
Các vị tỳ khưu không nhìn thấy đã nói rằng:
– Chúng tôi không nhìn thấy.
Sau đó, cha mẹ của người thợ bạc bị sói đầu ấy, trong lúc tìm kiếm người thợ bạc bị sói đầu ấy, nhìn thấy (người ấy) đã được xuất gia ở nơi các tỳ khưu nên phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Những sa-môn Thích tử này thật vô liêm sỉ, giới hạnh xấu xa, là những kẻ nói láo trong khi biết lại nói rằng: “Chúng tôi không biết,” trong khi nhìn thấy lại nói rằng: “Chúng tôi không nhìn thấy.” Người người trai trẻ này đã được xuất gia ở nơi các tỳ khưu.
Các tỳ khưu đã nghe được cha mẹ của người thợ bạc bị sói đầu ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép thông báo đến hội chúng về việc cạo tóc (bhaṇḍukamma).
[111] Vào lúc bấy giờ, trong thành Rājagaha có nhóm mười bảy thiếu niên là bạn bè. Thiếu niên Upāli là thủ lãnh của họ.
Khi ấy, cha mẹ của Upāli đã khởi ý điều này: “Có phương kế gì để sau khi chúng ta từ trần, Upāli có thể sống thoải mái và không bị cực nhọc?” Rồi cha mẹ của Upāli đã khởi ý điều này: “Nếu Upāli có thể học chữ viết, như thế sau khi chúng ta từ trần Upāli có thể sống thoải mái và không bị cực nhọc.” Rồi cha mẹ của Upāli đã khởi ý điều này: “Nếu Upāli học chữ viết thì các ngón tay sẽ bị đau.” Rồi cha mẹ của Upāli đã khởi ý điều này: “Nếu Upāli có thể học tính toán, như thế sau khi chúng ta từ trần Upāli có thể sống thoải mái và không bị cực nhọc.” Rồi cha mẹ của Upāli đã khởi ý điều này: “Nếu Upāli học tính toán thì ngực sẽ bị đau. Nếu Upāli có thể học hội họa, như thế sau khi chúng ta từ trần Upāli có thể sống thoải mái và không bị cực nhọc.” Rồi cha mẹ của Upāli đã khởi ý điều này: “Nếu Upāli học hội họa thì các con mắt sẽ bị đau. Còn những sa-môn Thích tử này có giới luật thoải mái, có sở hành thoải mái, sau khi thọ thực thức ăn ngon rồi nằm dài trên những cái giường kín gió, nếu Upāli có thể xuất gia nơi các vị sa-môn Thích tử, như thế sau khi chúng ta từ trần Upāli có thể sống thoải mái và không bị cực nhọc.”
Thiếu niên Upāli đã nghe được cuộc nói chuyện trao đổi ấy của cha mẹ. Sau đó, thiếu niên Upāli đã đi đến gặp những thiếu niên ấy, sau khi đến đã nói với những thiếu niên ấy điều này:
– Này các bạn, hãy đi. Chúng ta sẽ xuất gia nơi các vị sa-môn Thích tử.
– Này bạn, nếu bạn sẽ xuất gia, như thế chúng tôi cũng sẽ xuất gia.
Sau đó, những thiếu niên ấy đã đi đến gặp cha mẹ của mỗi một người và đã nói điều này:
– Hãy cho phép con rời nhà xuất gia sống không nhà.
Khi ấy, cha mẹ của những thiếu niên ấy (nghĩ rằng): “Tất cả những đứa trẻ này có ước muốn giống nhau, có ý định tốt đẹp” nên đã chấp thuận. Chúng đã đi đến gặp các tỳ khưu và cầu xin sự xuất gia. Các tỳ khưu đã cho chúng xuất gia, đã cho tu lên bậc trên. Những thiếu niên ấy sau khi thức dậy vào lúc hừng sáng của đêm đã khóc lóc:
– Hãy cho cháo, hãy cho thức ăn, hãy cho vật nhai.
Các tỳ khưu đã nói như vầy:
– Này các sư đệ, hãy chờ đến khi trời sáng, nếu có cháo thì các đệ sẽ húp cháo, nếu có thức ăn thì các đệ sẽ ăn, nếu có vật nhai thì các đệ sẽ nhai; còn nếu không có cháo, hoặc thức ăn, hoặc vật nhai, thì các đệ sẽ ăn sau khi đi khất thực.
Trong khi được nói như thế bởi các tỳ khưu, các tỳ khưu (thiếu niên) ấy vẫn khóc lóc:
– Hãy cho cháo, hãy cho thức ăn, hãy cho vật nhai.
Rồi chúng đã đại điện tiểu tiện ở chỗ nằm ngồi.
Đức Thế Tôn sau khi thức dậy vào lúc hừng sáng của đêm đã nghe tiếng của các đứa trẻ, sau khi nghe đã bảo đại đức Ānanda rằng:
– Này Ānanda, tiếng của các đứa trẻ ấy là gì vậy?
Khi ấy, đại đức Ānanda đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu khi biết được vẫn cho tu lên bậc trên người chưa đến hai mươi tuổi, có đúng không vậy?
– Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
– Này các tỳ khưu, vì sao những kẻ rồ dại ấy khi biết được vẫn cho tu lên bậc trên người chưa đến hai mươi tuổi? Này các tỳ khưu, người chưa đến hai mươi tuổi không có khả năng chịu đựng sự lạnh, sự nóng, sự đói, sự khát, các sự xúc chạm bởi ruồi, muỗi, gió, nắng, và các loài bò sát, các lối nói lăng mạ, công kích, (chúng) có khuynh hướng không cam chịu các cảm thọ khổ, nhức nhối, khốc liệt, sắc bén, gay gắt, không chút thích thú, khó chịu, chết người thuộc về cơ thể đã sanh khởi. Này các tỳ khưu, người đã được hai mươi tuổi có khả năng chịu đựng sự lạnh, sự nóng, sự đói, sự khát, các sự xúc chạm bởi ruồi, muỗi, gió, nắng, và các loài bò sát, các lối nói lăng mạ, công kích, (chúng) có khuynh hướng cam chịu các cảm thọ khổ, nhức nhối, khốc liệt, sắc bén, gay gắt, không chút thích thú, khó chịu, chết người thuộc về cơ thể đã sanh khởi. Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. …(như trên)…
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, người chưa đến hai mươi tuổi khi biết được không nên cho tu lên bậc trên; vị nào cho tu lên bậc trên thì nên được hành xử theo Pháp.[2]
[112] Vào lúc bấy giờ, có gia đình nọ đã bị chết bởi bịnh dịch hạch (ahivātaka). Người cha và người con trai của gia đình ấy là (những người) còn sót lại. Họ đã xuất gia ở nơi các tỳ khưu rồi cùng nhau đi khất thực. Khi ấy, lúc đồ ăn khất thực được bố thí đến người cha, đứa trẻ ấy đã chạy lại gần và nói điều này:
– Cha yêu quý, hãy cho con với. Cha yêu quý, hãy cho con với.
Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Những sa-môn Thích tử này không có Phạm hạnh. Đứa trẻ này đã được sanh ra bởi tỳ khưu ni.
Các tỳ khưu đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, đứa trẻ dưới mười lăm tuổi không nên cho xuất gia; vị nào cho xuất gia thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[113] Vào lúc bấy giờ, gia đình hộ độ có đức tin có tín ngưỡng của đại đức Ānanda đã bị chết bởi bịnh dịch hạch. Và có hai đứa trẻ trai là (những người) còn sót lại. Khi nhìn thấy các vị tỳ khưu, chúng theo thói quen được phép trước đây đã chạy đến gần. Các tỳ khưu đã đuổi (chúng) đi. Trong khi bị các vị tỳ khưu đuổi đi, chúng đã khóc. Khi ấy, đại đức Ānanda đã khởi ý điều này: “Đức Thế Tôn đã quy định rằng: ‘Đứa trẻ dưới mười lăm tuổi không nên cho xuất gia’ và những đứa trẻ này dưới mười lăm tuổi, vậy bằng phương cách gì để những đứa trẻ này không thể bị tiêu hoại đây?” Sau đó, đại đức Ānanda đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này Ānanda, những đứa trẻ ấy có khả năng để đuổi các con quạ bay đi không?
– Bạch Thế Tôn, chúng có khả năng.
Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, ta cho phép xuất gia đứa trẻ dưới mười lăm tuổi là trẻ (có thể) đuổi được quạ.
[114] Vào lúc bấy giờ, đại đức Upananda con trai dòng Sākya có hai sa di là Kaṇṭaka và Mahaka. Chúng đã làm điều tồi bại với nhau (aññamaññaṃ dūsesuṃ). Các vị tỳ khưu phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Vì sao các sa di lại thực hành điều sai trái có hình thức như thế ấy?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, một vị không nên để cho hai sa di phục vụ; vị nào để cho phục vụ thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[115] Vào lúc bấy giờ, đức Thế Tôn đã sống mùa mưa ở ngay tại nơi ấy trong thành Rājagaha, đã sống mùa lạnh ở ngay tại nơi ấy, đã sống mùa nóng ở ngay tại nơi ấy. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Các hướng đi của các sa-môn Thích tử bị tắt nghẽn, tăm tối. Các hướng đi không còn được các vị này nhận ra nữa.
Các tỳ khưu đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn đã bảo đại đức Ānanda rằng:
– Này Ānanda, hãy đi, cầm lấy chìa khóa, và thông báo cho các vị tỳ khưu ở dãy phòng rằng: “Này các đại đức, đức Thế Tôn muốn ra đi du hành ở Dakkhiṇāgiri.[3] Đại đức nào có ý thích thì hãy đi.”
– Bạch Thế Tôn, xin vâng.
Rồi đại đức Ānanda nghe theo đức Thế Tôn đã cầm lấy chìa khóa và thông báo cho các vị tỳ khưu ở dãy phòng rằng:
– Này các đại đức, đức Thế Tôn muốn ra đi du hành ở Dakkhiṇāgiri. Đại đức nào có ý thích thì hãy đi.
Các vị tỳ khưu đã nói như vầy:
– Này đại đức Ānanda, đức Thế Tôn đã quy định là sống nương nhờ mười năm, vị mười năm được cho nương nhờ. Và (nếu) chúng tôi đi nơi ấy thì sự nương nhờ sẽ cần được xác định (ở nơi ấy), vả lại việc cư trú sẽ là ngắn ngủi và sẽ quay trở về lại, rồi sự nương nhờ sẽ cần được xác định lại; nếu các thầy tế độ và thầy dạy học của chúng tôi sẽ đi thì chúng tôi cũng sẽ đi, nếu các thầy tế độ và thầy dạy học của chúng tôi sẽ không đi thì chúng tôi cũng sẽ không đi. Này đại đức Ānanda, tâm tư nhẹ nhàng là điều sẽ được nhận biết ở chúng tôi.
Sau đó, đức Thế Tôn đã ra đi du hành đến Dakkhiṇāgiri với nhóm chỉ có một số ít. Sau đó, khi đã ngự tại Dakkhiṇāgiri theo như ý thích, đức Thế Tôn đã quay trở về lại thành Rājagaha. Khi ấy, đức Thế Tôn đã bảo đại đức Ānanda rằng:
– Này Ānanda, vì sao Như lai đã ra đi du hành đến Dakkhiṇāgiri với hội chúng tỳ khưu là nhóm chỉ có một số ít?
Khi ấy, đại đức Ānanda đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, ta cho phép vị tỳ khưu kinh nghiệm đủ khả năng sống nương nhờ năm năm, vị không có kinh nghiệm thì trọn đời.
[116] Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện không nên sống không nương nhờ: Là vị không thành tựu vô học giới uẩn, không thành tựu vô học định uẩn, không thành tựu vô học tuệ uẩn, không thành tựu vô học giải thoát uẩn, không thành tựu vô học giải thoát tri kiến uẩn. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện này không nên sống không nương nhờ.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện được sống không nương nhờ: Là vị thành tựu vô học giới uẩn, thành tựu vô học định uẩn, thành tựu vô học tuệ uẩn, thành tựu vô học giải thoát uẩn, thành tựu vô học giải thoát tri kiến uẩn. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện này được sống không nương nhờ.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện khác nữa không nên sống không nương nhờ: Là vị không có đức tin, không có sự hổ thẹn (tội lỗi), không có sự ghê sợ (tội lỗi), biếng nhác, niệm bị quên lãng. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện này không nên sống không nương nhờ.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện khác nữa được sống không nương nhờ: Là vị có đức tin, có sự hổ thẹn (tội lỗi), có sự ghê sợ (tội lỗi), nỗ lực tinh tấn, niệm được thiết lập. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện này được sống không nương nhờ.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện khác nữa không nên sống không nương nhờ: Là vị bị hư hỏng về giới thuộc tăng thượng giới, bị hư hỏng về hạnh kiểm thuộc tăng thượng hạnh, bị hư hỏng về bị hư hỏng về tri kiến thuộc tri kiến sái quấy, ít học hỏi, trí kém. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện này không nên sống không nương nhờ.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện khác nữa được sống không nương nhờ: Là vị không bị hư hỏng về giới thuộc tăng thượng giới, không bị hư hỏng về hạnh kiểm thuộc tăng thượng hạnh, không bị hư hỏng về tri kiến thuộc tri kiến sái quấy, nghe nhiều, có trí tuệ. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện này được sống không nương nhờ.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện khác nữa không nên sống không nương nhờ: Là vị không biết về sự phạm tội, không biết về sự không phạm tội, không biết về sự phạm tội nhẹ, không biết về sự phạm tội nặng, không được khéo truyền thừa hai bộ giới bổn Pātimokkha một cách chi tiết, không khéo phân tích, không khéo thực hành, không khéo xác định theo từng điều hoặc từng phần phụ thuộc. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện này không nên sống không nương nhờ.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện khác nữa được sống không nương nhờ: Là vị biết về sự phạm tội, biết về sự không phạm tội, biết về sự phạm tội nhẹ, biết về sự phạm tội nặng, được khéo truyền thừa hai bộ giới bổn Pātimokkha một cách chi tiết, khéo phân tích, khéo thực hành, khéo xác định theo từng điều hoặc từng phần phụ thuộc. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện này được sống không nương nhờ.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện khác nữa không nên sống không nương nhờ: Là vị không biết về sự phạm tội, không biết về sự không phạm tội, không biết về sự phạm tội nhẹ, không biết về sự phạm tội nặng, chưa đủ năm năm. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện này không nên sống không nương nhờ.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện khác nữa được sống không nương nhờ: Là vị biết về sự phạm tội, biết về sự không phạm tội, biết về sự phạm tội nhẹ, biết về sự phạm tội nặng, được năm năm hoặc hơn năm năm. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện này được sống không nương nhờ.
[117] Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ sáu điều kiện này không nên sống không nương nhờ: Là vị không thành tựu vô học giới uẩn, không thành tựu vô học định uẩn, không thành tựu vô học tuệ uẩn, không thành tựu vô học giải thoát uẩn, không thành tựu vô học giải thoát tri kiến uẩn, chưa đủ năm năm. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ sáu điều kiện này không nên sống không nương nhờ.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ sáu điều kiện này được sống không nương nhờ: Là vị thành tựu vô học giới uẩn, thành tựu vô học định uẩn, thành tựu vô học tuệ uẩn, thành tựu vô học giải thoát uẩn, thành tựu vô học giải thoát tri kiến uẩn, được năm năm hoặc hơn năm năm. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ sáu điều kiện này được sống không nương nhờ.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ sáu điều kiện khác nữa không nên sống không nương nhờ: Là vị không có đức tin, không có sự hổ thẹn (tội lỗi), không có sự ghê sợ (tội lỗi), biếng nhác, niệm bị quên lãng, chưa đủ năm năm. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ sáu điều kiện này không nên sống không nương nhờ.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ sáu điều kiện khác nữa được sống không nương nhờ: Là vị có đức tin, có sự hổ thẹn (tội lỗi), có sự ghê sợ (tội lỗi), nỗ lực tinh tấn, niệm được thiết lập, được năm năm hoặc hơn năm năm. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ sáu điều kiện này được sống không nương nhờ.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ sáu điều kiện khác nữa không nên sống không nương nhờ: Là vị bị hư hỏng về giới thuộc tăng thượng giới, bị hư hỏng về hạnh kiểm thuộc tăng thượng hạnh, bị hư hỏng về tri kiến thuộc tri kiến sái quấy, ít học hỏi, trí kém, chưa đủ năm năm. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ sáu điều kiện này không nên sống không nương nhờ.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ sáu điều kiện khác nữa được sống không nương nhờ: Là vị không bị hư hỏng về giới thuộc tăng thượng giới, không bị hư hỏng về hạnh kiểm thuộc tăng thượng hạnh, không bị hư hỏng về tri kiến thuộc tri kiến sái quấy, nghe nhiều, có trí tuệ, được năm năm hoặc hơn năm năm. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ sáu điều kiện này được sống không nương nhờ.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ sáu điều kiện khác nữa không nên sống không nương nhờ: Là vị không biết về sự phạm tội, không biết về sự không phạm tội, không biết về sự phạm tội nhẹ, không biết về sự phạm tội nặng, không được khéo truyền thừa hai bộ giới bổn Pātimokkha một cách chi tiết, không khéo phân tích, không khéo thực hành, không khéo xác định theo từng điều hoặc từng phần phụ thuộc, chưa đủ năm năm. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ sáu điều kiện này không nên sống không nương nhờ.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ sáu điều kiện khác nữa được sống không nương nhờ: Là vị biết về sự phạm tội, biết về sự không phạm tội, biết về sự phạm tội nhẹ, biết về sự phạm tội nặng, được khéo truyền thừa hai bộ giới bổn Pātimokkha một cách chi tiết, khéo phân tích, khéo thực hành, khéo xác định theo từng điều hoặc từng phần phụ thuộc, được năm năm hoặc hơn năm năm. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hội đủ sáu điều kiện này được sống không nương nhờ.
Dứt tụng phẩm “Được An Toàn và Bảo Đảm.”
[118] Sau đó, khi đã ngự tại thành Rājagaha (Vương Xá) theo như ý thích, đức Thế Tôn đã ra đi du hành về phía thành Kapilavatthu (Ca Tỳ La Vệ). Trong khi tuần tự du hành, ngài đã ngự đến thành Kapilavatthu. Tại nơi đó giữa dân chúng dòng Sākya (Thích Ca), đức Thế Tôn ngự ở thành Kapilavatthu, tại tu viện Nigrodha.
Khi ấy vào buổi sáng, đức Thế Tôn đã mặc y, cầm y bát, đi đến tư dinh của Suddhodana[4] dòng Sākya, sau khi đến đã ngồi xuống trên chỗ ngồi được sắp đặt sẵn. Khi ấy, hoàng hậu mẹ của Rāhula (La Hầu La) đã nói với hoàng tử Rāhula điều này:
– Này Rāhula, người kia là cha của con. Hãy đi và cầu xin người ấy phần thừa kế.
Khi ấy, hoàng tử Rāhula đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đứng ở phía trước đức Thế Tôn (nói rằng):
– Này vị sa-môn, bóng che của ngài thật an lạc.
Sau đó, đức Thế Tôn đã từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi. Khi ấy, hoàng tử Rāhula đã theo sát phía sau của đức Thế Tôn (nói rằng):
– Này vị sa-môn, hãy ban cho con phần thừa kế. Này vị sa-môn, hãy ban cho con phần thừa kế.
Khi ấy, đức Thế Tôn đã bảo đại đức Sārīputta rằng:
– Này Sārīputta, như thế thì ngươi hãy cho hoàng tử Rāhula xuất gia.
– Bạch ngài, con cho hoàng tử Rāhula xuất gia như thế nào?
Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, ta cho phép việc xuất gia sa di bằng ba sự đi đến nương nhờ (Tam Quy). Và này các tỳ khưu, nên cho xuất gia như vầy: Trước tiên, nên cho cạo bỏ râu tóc, cho choàng lên các tấm vải màu ca-sa, cho đắp thượng y một bên vai, bảo đảnh lễ ở chân các vị tỳ khưu, bảo ngồi chồm hổm, bảo chắp tay lên, và nên bảo rằng: “Ngươi hãy nói như vầy:”
“Tôi đến với đức Phật là nơi nương nhờ (Tôi xin quy y Phật).
Tôi đến với đức Pháp là nơi nương nhờ (Tôi xin quy y Pháp).
Tôi đến với đức Tăng là nơi nương nhờ (Tôi xin quy y Tăng).
Lần thứ nhì, tôi đến với đức Phật là nơi nương nhờ.
Lần thứ nhì, tôi đến với đức Pháp là nơi nương nhờ.
Lần thứ nhì, tôi đến với đức Tăng là nơi nương nhờ.
Lần thứ ba, tôi đến với đức Phật là nơi nương nhờ.
Lần thứ ba, tôi đến với đức Pháp là nơi nương nhờ.
Lần thứ ba, tôi đến với đức Tăng là nơi nương nhờ.”
Khi ấy, đại đức Sārīputta đã cho hoàng tử Rāhula xuất gia.
Sau đó, Suddhodana dòng Sākya đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, Suddhodana dòng Sākya đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, trẫm cầu xin đức Thế Tôn một điều ước muốn.
– Này vị Gotama, các đấng Như Lai đã vượt khỏi các điều ước muốn.
– Bạch ngài, điều ấy là hợp lý, điều ấy không bị chê trách.
– Này vị Gotama, hãy nói điều ấy đi.
– Bạch ngài, trong khi đức Thế Tôn đã xuất gia, đau khổ đã khởi lên ở trẫm không phải là ít. Tương tự như vậy trong việc Nandā,[5] (nhưng là sự đau khổ) vô cùng mãnh liệt trong việc Rāhula. Bạch ngài, lòng thương yêu đối với người con trai cắt vào da; sau khi để nó cắt vào da, nó cắt vào lớp da trong; sau khi để nó cắt vào lớp da trong, nó cắt vào thịt; sau khi để nó cắt vào thịt, nó cắt vào gân; sau khi để nó cắt vào gân, nó cắt vào xương; sau khi để nó cắt vào xương, nó đạt đến tủy xương rồi trú (ở đó). Bạch ngài, tốt đẹp thay các ngài đại đức không nên cho người con trai chưa được phép của cha mẹ xuất gia.
Khi ấy, đức Thế Tôn đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho Suddhodana dòng Sākya bằng bài Pháp thoại. Sau đó, khi đã được đức Thế Tôn chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi bằng bài Pháp thoại, Suddhodana dòng Sākya đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi.
Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, không nên cho người con trai chưa được phép của cha mẹ xuất gia; vị nào cho xuất gia thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Sau đó, khi đã ngự tại thành Kapilavatthu theo như ý thích, đức Thế Tôn đã ra đi du hành về phía thành Sāvatthi (Xá Vệ). Trong khi tuần tự du hành, ngài đã ngự đến thành Sāvatthi. Tại nơi đó trong thành Sāvatthi, đức Thế Tôn ngự ở Jetavana (Kỳ Viên), tu viện của ông Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Độc).
[119] Vào lúc bấy giờ, gia đình hộ độ của đại đức Sārīputta đã gởi đứa trẻ trai đến đại đức Sārīputta (nói rằng): “Xin ngài trưởng lão hãy cho đứa trẻ này xuất gia.” Khi ấy, đại đức Sārīputta đã khởi ý điều này: “Đức Thế Tôn đã quy định rằng: ‘Một vị không nên để cho hai sa di phục vụ’ và ta đây đã có sa di Rāhula. Vậy ta nên thực hành như thế nào?” Vị ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép vị tỳ khưu có kinh nghiệm đủ năng lực một mình được để cho hai sa di phục vụ, hoặc để cho nhiều (sa di) phục vụ với số lượng mà vị ấy vẫn có đủ khả năng để giáo huấn và chỉ dạy.
[120] Sau đó, các vị sa di đã khởi ý điều này: “Chúng ta có bao nhiêu điều học? Vá chúng ta nên được học tập trong vấn đề gì?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép mười điều học đến các sa di và (cho phép) các sa di học tập trong các điều học ấy: Việc tránh xa sự giết hại mạng sống, việc tránh xa sự lấy vật không được cho, việc tránh xa điều phi Phạm hạnh (sự hành dâm), việc tránh xa sự nói dối, việc tránh xa trường hợp dễ duôi uống chất say là rượu và chất lên men, việc tránh xa sự ăn phi thời, việc tránh xa sự múa hát đờn và xem trình diễn, việc tránh xa trường hợp sử dụng vòng hoa vật thơm và tô điểm bằng đồ trang sức, việc tránh xa chỗ nằm ngồi cao và rộng lớn, việc tránh xa sự thọ lãnh vàng bạc. Này các tỳ khưu, ta cho phép mười điều học này đến các sa di và (cho phép) các sa di học tập trong các điều học này.
[121] Vào lúc bấy giờ, các sa di sống không tôn kính, không vâng lời, không cư xử theo phép tắc đối với các tỳ khưu. Các vị tỳ khưu phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Vì sao các sa di lại sống không tôn kính, không vâng lời, không cư xử theo phép tắc đối với các tỳ khưu?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép thực thi hành phạt đối với vị sa di hội đủ năm điều kiện: Là vị ra sức làm cho các tỳ khưu không được lợi lộc, ra sức làm cho các tỳ khưu không được sự lợi ích, ra sức làm cho các tỳ khưu không có chỗ ngụ, mắng nhiếc gièm pha các tỳ khưu, chia rẽ các tỳ khưu (này) với các tỳ khưu (khác). Này các tỳ khưu, ta cho phép thực hiện hành phạt đối với vị sa di hội đủ năm điều kiện này.
Khi ấy, các tỳ khưu đã khởi ý điều này: “Hành phạt gì nên được thực hiện?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép thực hiện sự ngăn cấm.
Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu thực hiện sự ngăn cấm đối với các sa di trong toàn bộ khu vực tu viện của hội chúng. Các sa di trong khi không thể đi vào tu viện nên bỏ đi, hoàn tục, chuyển sang ngoại đạo. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên thực hiện sự ngăn cấm trong toàn bộ khu vực tu viện của hội chúng; vị nào thực hiện thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, ta cho phép thực hiện sự ngăn cấm ở chỗ vị (sa di) sống hoặc ở chỗ vị (sa di) lui tới.
Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu thực hiện sự ngăn cấm thức ăn theo đường miệng đối với các sa di. Dân chúng trong lúc làm nước cháo và bữa ăn dâng hội chúng nói với các sa di như vầy:
– Này các ngài, hãy đến và húp cháo. Này các ngài, hãy đến và thọ dụng bữa ăn.
Các vị sa di nói như vầy:
– Này các đạo hữu, không thể được. Các tỳ khưu đã thực hiện sự ngăn cấm.
Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Tại sao các đại đức lại thực hiện sự ngăn cấm thức ăn theo đường miệng đối với các sa di?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên thực hiện sự ngăn cấm thức ăn theo đường miệng, vị nào thực hiện thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Dứt câu chuyện về hành phạt.
[122] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư không hỏi các vị thầy tế độ lại thực hiện sự ngăn cấm đối với các sa di. Các vị thầy tế độ tìm kiếm (nghĩ rằng): “Vì sao các sa di của chúng ta lại không được nhìn thấy?” Các tỳ khưu đã nói như vầy:
– Này các đại đức, các vị tỳ khưu nhóm Lục Sư đã thực hiện sự ngăn cấm.
Các vị thầy tế độ phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư không hỏi chúng tôi lại thực hiện sự ngăn cấm đối với các sa di của chúng tôi?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, chưa hỏi các vị thầy tế độ không nên thực hiện sự ngăn cấm; vị nào thực hiện thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[123] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đã dụ dỗ các sa di của các tỳ khưu trưởng lão khiến các vị trưởng lão bị mệt mỏi trong khi tự mình lấy gỗ chà răng và nước súc miệng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên dụ dỗ tập thể của vị khác; vị nào dụ dỗ thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[124] Vào lúc bấy giờ, sa di tên Kan$ṭaka của đại đức Upananda con trai dòng Sākya đã làm nhơ nhớp tỳ khưu ni tên Kaṇṭakī. Các tỳ khưu phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Vì sao vị sa di lại thực hành điều sai trái có hình thức như thế?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép trục xuất sa di hội đủ mười điều kiện này: Là kẻ giết hại mạng sống, là kẻ lấy vật không được cho, là kẻ phi Phạm hạnh (hành dâm), là kẻ nói dối, là kẻ uống chất say, là kẻ phỉ báng đức Phật, phỉ báng đức Pháp, phỉ báng đức Tăng, là kẻ có tri kiến sai trái, là kẻ làm nhơ nhớp tỳ khưu ni. Này các tỳ khưu, ta cho phép trục xuất vị sa di hội đủ mười điều kiện này.
[125] Vào lúc bấy giờ, có người vô căn (paṇḍaka)[6] nọ đã được xuất gia ở nơi các tỳ khưu. Người ấy đi đến gặp các vị tỳ khưu hãy còn trẻ rồi nói như vầy:
– Này các đại đức, hãy đi đến. Hãy làm điều nhơ nhớp với tôi.
Các vị tỳ khưu đuổi đi:
– Này kẻ vô căn, tiêu mất đi! Này kẻ vô căn, chết mất đi! Ai mà cần đến ngươi?
Người ấy khi bị các vị tỳ khưu xua đuổi lại đi đến gặp các sa di lớn con to xác rồi nói như vầy:
– Này các đại đức, hãy đi đến. Hãy làm điều nhơ nhớp với tôi.
Các vị sa di đuổi đi:
– Này kẻ vô căn, tiêu mất đi! Này kẻ vô căn, chết mất đi! Ai mà cần đến ngươi?
Người ấy khi bị các vị sa di xua đuổi lại đi đến gặp những người chăn voi, những người giữ ngựa rồi nói như vầy:
– Này các đạo hữu, hãy đi đến. Hãy làm điều nhơ nhớp với tôi.
Những người chăn voi, những người giữ ngựa đã làm điều nhơ nhớp. Những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Những sa-môn Thích tử này là những kẻ vô căn, những người nào trong bọn họ không phải là những kẻ vô căn thì những người ấy làm điều nhơ nhớp với những kẻ vô căn. Như vậy, chính tất cả những người này không có Phạm hạnh.
Các tỳ khưu đã nghe được những người chăn voi những người giữ ngựa phàn nàn, phê phán, chê bai. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, kẻ vô căn chưa được tu lên bậc trên thì không nên cho tu lên bậc trên, đã được tu lên bậc trên rồi thì nên trục xuất.
[126] Vào lúc bấy giờ, có người con trai của gia đình cổ hủ bị khánh tận nọ là người mảnh mai. Khi ấy, người con trai của gia đình cổ hủ bị khánh tận ấy đã khởi ý điều này: “Ta là người mảnh mai, không đủ khả năng để đạt đến tài sản chưa có hoặc làm tăng trưởng tài sản đã có, với phương kế gì để ta có thể sống thoải mái và không bị cực nhọc?” Rồi người con trai của gia đình cổ hủ bị khánh tận ấy đã khởi ý điều này: “Những sa-môn Thích tử này có giới luật thoải mái, có sở hành thoải mái, sau khi thọ thực thức ăn ngon rồi nằm dài trên những cái giường kín gió, hay là ta nên tự mình chuẩn bị y và bình bát, cạo bỏ râu tóc, khoác lên các mảnh vải màu ca-sa, đi đến tu viện, và chung sống với các tỳ khưu?”
Sau đó, người con trai của gia đình cổ hủ bị khánh tận ấy đã tự mình chuẩn bị y và bình bát, cạo bỏ râu tóc, khoác lên các mảnh vải màu ca-sa, đi đến tu viện, và đảnh lễ các vị tỳ khưu. Các vị tỳ khưu đã nói như vầy:
– Này đại đức, đại đức được bao nhiêu năm?
– Được bao nhiêu năm? Này các đại đức, điều ấy là gì vậy?
– Này đại đức, ai là thầy tế độ của đại đức?
– Thầy tế độ? Này các đại đức, điều ấy là gì vậy?
Các vị tỳ khưu đã nói với đại đức Upāli điều này:
– Này đại đức Upāli, hãy thẩm tra người đã xuất gia này đi.
Sau đó, trong khi được đại đức Upāli thẩm tra người con trai của gia đình cổ hủ bị khánh tận ấy đã kể lại sự việc ấy. Đại đức Upāli đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, kẻ trộm tướng mạo (tỳ khưu)[7] chưa được tu lên bậc trên thì không nên cho tu lên bậc trên, đã được tu lên bậc trên rồi thì nên trục xuất. Này các tỳ khưu, kẻ đã chuyển sang ngoại đạo chưa được tu lên bậc trên thì không nên cho tu lên bậc trên, đã được tu lên bậc trên rồi thì nên trục xuất.
[127] Vào lúc bấy giờ, có con rồng nọ lo ngại, xấu hổ, và chán ghét với sự xuất thân là loài rồng. Sau đó, con rồng ấy đã khởi ý điều này: “Với phương kế gì ta có thể hoàn toàn thoát khỏi sự xuất thân là loài rồng và có thể thành tựu bản thể của loài người một cách nhanh chóng?” Khi ấy, con rồng ấy đã khởi ý điều này: “Những vị sa-môn Thích tử này là những vị thực hành Giáo Pháp, thực hành sự bình thản, thực hành Phạm hạnh, nói lời chân thật, có giới hạnh, có thiện pháp; nếu ta có thể xuất gia nơi các vị sa-môn Thích tử, như thế ta có thể hoàn toàn thoát khỏi sự xuất thân là loài rồng và có thể thành tựu bản thể của loài người một cách nhanh chóng.” Sau đó, con rồng ấy với hình dáng của người thanh niên đã đi đến gặp các vị tỳ khưu và cầu xin sự xuất gia. Các vị tỳ khưu đã cho người ấy xuất gia, đã cho tu lên bậc trên.
Vào lúc bấy giờ, con rồng ấy cùng với vị tỳ khưu khác ngụ trong trú xá ở chỗ giáp ranh. Khi ấy vào lúc hừng sáng của đêm, vị tỳ khưu ấy thức dậy và đi kinh hành ở ngoài trời. Sau đó, trong khi vị tỳ khưu ấy đã đi ra ngoài con rồng ấy hết lo âu nên đã chìm vào giấc ngủ. Toàn bộ trú xá đã bị tràn ngập bởi (thân của) con rồng và các vòng thân còn ló ra ở các cửa sổ nữa.
Sau đó, vị tỳ khưu ấy (nghĩ rằng): “Ta sẽ đi vào trú xá” trong lúc mở cánh cửa ra đã nhìn thấy toàn bộ trú xá bị tràn ngập bởi (thân của) con rồng và các vòng thân còn ló ra ở các cửa sổ nữa, sau khi nhìn thấy (trở nên) sợ hãi và đã kêu thét lên. Các vị tỳ khưu đã chạy lại và nói với vị tỳ khưu ấy điều này:
– Này đại đức, vì sao đại đức lại kêu thét lên vậy?
– Này các đại đức, toàn bộ trú xá này bị tràn ngập bởi (thân của) con rồng và các vòng thân còn ló ra ở các cửa sổ nữa.
Khi ấy, con rồng ấy sau khi thức giấc bởi tiếng động ấy đã ngồi xuống trên chỗ ngồi của mình. Các vị tỳ khưu đã nói như vầy:
– Này đệ, ngươi là ai vậy?
– Thưa các ngài, tôi là rồng.
– Này đệ, vì sao ngươi lại biến thành hình dạng như thế này?
Khi ấy, con rồng ấy đã kể lại sự việc ấy cho các vị tỳ khưu. Các vị tỳ khưu đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội chúng tỳ khưu lại và nói với con rồng ấy điều này:
– Các ngươi là loài rồng không có được pháp tiến bộ trong Pháp và Luật này. Này rồng, ngươi hãy đi đi. Và hãy tiến hành Uposatha[8] vào ngày mười bốn, ngày mười lăm và ngày thứ tám của mỗi nửa tháng ở ngay nơi ấy, như thế ngươi sẽ hoàn toàn thoát khỏi sự xuất thân là loài rồng và sẽ thành tựu bản thể của loài người một cách nhanh chóng.
Khi ấy, con rồng ấy (nghĩ rằng): “Nghe nói ta không có được pháp tiến bộ trong Pháp và Luật này” (trở nên) đau khổ, rầu rĩ, và trong khi nước mắt trào ra đã khóc rống lên, rồi bỏ đi.
Sau đó, đức Thế Tôn đã bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, đây là hai lý do đưa đến việc hiện ra bản thể thật của loài rồng là khi thực hành việc lứa đôi với rồng cái và khi hết lo âu rồi chìm vào giấc ngủ. Này các tỳ khưu, hai lý do này đưa đến việc hiện ra bản thể thật của loài rồng. Này các tỳ khưu, loài thú chưa được tu lên bậc trên thì không nên cho tu lên bậc trên, đã được tu lên bậc trên rồi thì nên trục xuất.
[128] Vào lúc bấy giờ, có người thanh niên nọ là kẻ đã đoạt đi mạng sống của người mẹ. Người ấy lo ngại, xấu hổ, và chán ghét với hành động ác độc ấy. Sau đó, người thanh niên ấy đã khởi ý điều này: “Với phương kế gì ta có thể thực hiện sự thoát khỏi nghiệp ác độc ấy?” Khi ấy, người thanh niên ấy đã khởi ý điều này: “Những vị sa-môn Thích tử này là những vị thực hành Giáo Pháp, thực hành sự bình thản, thực hành Phạm hạnh, nói lời chân thật, có giới hạnh, có thiện pháp; nếu ta có thể xuất gia nơi các vị sa-môn Thích tử, như thế ta có thể thực hiện sự thoát khỏi nghiệp ác độc ấy.” Sau đó, người thanh niên ấy đã đi đến gặp các tỳ khưu và cầu xin sự xuất gia. Các tỳ khưu đã nói với đại đức Upāli điều này:
– Này đại đức Upāli, cũng trước đây con rồng với hình dáng của người thanh niên đã được xuất gia ở nơi các tỳ khưu. Này đại đức Upāli, hãy thẩm tra người thanh niên này đi.
Sau đó, trong khi được đại đức Upāli thẩm tra người thanh niên ấy đã kể lại sự việc ấy. Đại đức Upāli đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, kẻ giết mẹ chưa được tu lên bậc trên thì không nên cho tu lên bậc trên, đã được tu lên bậc trên rồi thì nên trục xuất.
[129] Vào lúc bấy giờ, có người thanh niên nọ là kẻ đã đoạt đi mạng sống của người cha. Người ấy lo ngại, xấu hổ, và chán ghét với hành động ác độc ấy. Sau đó, người thanh niên ấy đã khởi ý điều này: “Với phương kế gì ta có thể thực hiện sự thoát khỏi nghiệp ác độc ấy?” Khi ấy, người thanh niên ấy đã khởi ý điều này: “Những vị sa-môn Thích tử này là những vị thực hành Giáo Pháp, thực hành sự bình thản, thực hành Phạm hạnh, nói lời chân thật, có giới hạnh, có thiện pháp; nếu ta có thể xuất gia nơi các vị sa-môn Thích tử, như thế ta có thể thực hiện sự thoát khỏi nghiệp ác độc ấy.” Sau đó, người thanh niên ấy đã đi đến gặp các tỳ khưu và cầu xin sự xuất gia. Các tỳ khưu đã nói với đại đức Upāli điều này:
– Này đại đức Upāli, cũng trước đây con rồng với hình dáng của người thanh niên đã được xuất gia ở nơi các tỳ khưu. Này đại đức Upāli, hãy thẩm tra người thanh niên này đi.
Sau đó, trong khi được đại đức Upāli thẩm tra người thanh niên ấy đã kể lại sự việc ấy. Đại đức Upāli đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, kẻ giết cha chưa được tu lên bậc trên thì không nên cho tu lên bậc trên, đã được tu lên bậc trên rồi thì nên trục xuất.
[130] Vào lúc bấy giờ, có nhiều vị tỳ khưu đi đường xa từ Sāketa đến thành Sāvatthi. Giữa đường bọn cướp đã xuất hiện, một số đã cướp bóc các vị tỳ khưu, một số đã giết chết các vị tỳ khưu. Các binh lính của đức vua phát xuất từ thành Sāvatthi đã bắt được một số kẻ cướp. Một số kẻ cướp đã tẩu thoát. Những kẻ tẩu thoát ấy đã xuất gia ở nơi các tỳ khưu. Những kẻ bị bắt đã bị đưa đi tử hình. Những kẻ đã được xuất gia ấy đã nhìn thấy những kẻ cướp ấy đang bị đưa đi tử hình, sau khi nhìn thấy đã nói như vầy:
– May mắn thay chúng ta đã tẩu thoát, nếu không hôm nay chúng ta có thể đã bị bắt, chúng ta cũng có thể bị xử tử y như thế này.
Các vị tỳ khưu đã nói như vầy:
– Này các đại đức, các vị đã nói điều gì vậy?
Khi ấy, những kẻ đã được xuất gia ấy đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu kia là các vị A-la-hán. Này các tỳ khưu, kẻ giết A-la-hán chưa được tu lên bậc trên thì không nên cho tu lên bậc trên, đã được tu lên bậc trên rồi thì nên trục xuất.
[131] Vào lúc bấy giờ, có nhiều vị tỳ khưu ni đi đường xa từ Sāketa đến thành Sāvatthi. Giữa đường, bọn cướp đã xuất hiện, một số đã cướp bóc các tỳ khưu ni, một số đã làm nhơ nhớp tỳ khưu ni. Các binh lính của đức vua phát xuất từ thành Sāvatthi đã bắt được một số kẻ cướp. Một số kẻ cướp đã tẩu thoát. Những kẻ tẩu thoát ấy đã xuất gia ở nơi các tỳ khưu. Những kẻ bị bắt đã bị đưa đi tử hình. Những kẻ đã được xuất gia ấy đã nhìn thấy những kẻ cướp ấy đang bị đưa đi tử hình, sau khi nhìn thấy đã nói như vầy:
– May mắn thay chúng ta đã tẩu thoát, nếu không hôm nay chúng ta có thể đã bị bắt, chúng ta cũng có thể bị xử tử y như thế này.
Các vị tỳ khưu đã nói như vầy:
– Này các đại đức, các vị đã nói điều gì vậy?
Khi ấy, những kẻ đã được xuất gia ấy đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, kẻ làm nhơ nhớp tỳ khưu ni chưa được tu lên bậc trên thì không nên cho tu lên bậc trên, đã được tu lên bậc trên rồi thì nên trục xuất. Này các tỳ khưu, kẻ làm chia rẽ hội chúng chưa được tu lên bậc trên thì không nên cho tu lên bậc trên, đã được tu lên bậc trên rồi thì nên trục xuất. Này các tỳ khưu, kẻ làm chảy máu (đức Phật) chưa được tu lên bậc trên thì không nên cho tu lên bậc trên, đã được tu lên bậc trên rồi thì nên trục xuất.
[132] Vào lúc bấy giờ, có người lưỡng căn (ubhatobyañjanako) nọ đã được xuất gia ở nơi các tỳ khưu. Người ấy hành động (như người nam) rồi người ấy làm cho (thân thể) hành động (như người nữ). Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, người lưỡng căn chưa được tu lên bậc trên thì không nên cho tu lên bậc trên, đã được tu lên bậc trên rồi thì nên trục xuất.
[133] Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu cho tu lên bậc trên người không có thầy tế độ. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên cho tu lên bậc trên người không có thầy tế độ; vị nào cho tu lên bậc trên thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu cho tu lên bậc trên với hội chúng là thầy tế độ. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên cho tu lên bậc trên với hội chúng là thầy tế độ; vị nào cho tu lên bậc trên thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu cho tu lên bậc trên với nhóm (hai hoặc ba vị tỳ khưu) là thầy tế độ. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên cho tu lên bậc trên với nhóm (hai hoặc ba vị tỳ khưu) là thầy tế độ; vị nào cho tu lên bậc trên thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu cho tu lên bậc trên với kẻ vô căn là thầy tế độ. …(như trên)… cho tu lên bậc trên với kẻ trộm tướng mạo (tỳ khưu) là thầy tế độ. …(như trên)… cho tu lên bậc trên với kẻ đã chuyển sang ngoại đạo là thầy tế độ. …(như trên)… cho tu lên bậc trên với loài thú là thầy tế độ. …(như trên)… cho tu lên bậc trên với kẻ giết mẹ là thầy tế độ. …(như trên)… cho tu lên bậc trên với kẻ giết cha là thầy tế độ. …(như trên)… cho tu lên bậc trên với kẻ giết A-la-hán là thầy tế độ. …(như trên)… cho tu lên bậc trên với kẻ làm nhơ nhớp tỳ khưu ni là thầy tế độ. …(như trên)… cho tu lên bậc trên với kẻ chia rẽ hội chúng là thầy tế độ. …(như trên)… cho tu lên bậc trên với kẻ làm chảy máu (đức Phật) là thầy tế độ. …(như trên)… cho tu lên bậc trên với kẻ lưỡng căn là thầy tế độ.
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên cho tu lên bậc trên với kẻ vô căn là thầy tế độ. Không nên cho tu lên bậc trên với kẻ trộm tướng mạo (tỳ khưu) là thầy tế độ. Không nên cho tu lên bậc trên với kẻ đã chuyển sang ngoại đạo là thầy tế độ. Không nên cho tu lên bậc trên với loài thú là thầy tế độ. Không nên cho tu lên bậc trên với kẻ giết mẹ là thầy tế độ. Không nên cho tu lên bậc trên với kẻ giết cha là thầy tế độ. Không nên cho tu lên bậc trên với kẻ giết A-la-hán là thầy tế độ. Không nên cho tu lên bậc trên với kẻ làm nhơ nhớp tỳ khưu ni là thầy tế độ. Không nên cho tu lên bậc trên với kẻ chia rẽ hội chúng là thầy tế độ. Không nên cho tu lên bậc trên với kẻ làm chảy máu (đức Phật) là thầy tế độ. Không nên cho tu lên bậc trên với kẻ lưỡng căn là thầy tế độ; vị nào cho tu lên bậc trên thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[134] Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu cho tu lên bậc trên người không có bình bát. Các vị đi khất thực bằng hai tay. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Giống như là những kẻ ngoại đạo.
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên cho tu lên bậc trên người không có bình bát; vị nào cho tu lên bậc trên thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu cho tu lên bậc trên người không có y. Các vị lõa thể đi khất thực. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Giống như là những kẻ ngoại đạo.
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên cho tu lên bậc trên người không có y; vị nào cho tu lên bậc trên thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu cho tu lên bậc trên người không có y và bình bát. Các vị lõa thể đi khất thực bằng hai tay. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Giống như là những kẻ ngoại đạo.
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên cho tu lên bậc trên người không có y và bình bát; vị nào cho tu lên bậc trên thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu cho tu lên bậc trên với bình bát của người đã được yêu cầu (tức là với bình bát mượn tạm thời). Khi đã được tu lên bậc trên, các vị trả lại bình bát. Các vị đi khất thực bằng hai tay. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Giống như là những kẻ ngoại đạo.
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên cho tu lên bậc trên với bình bát mượn; vị nào cho tu lên bậc trên thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu cho tu lên bậc trên với y của người đã được yêu cầu (tức là với y mượn tạm thời). Khi đã được tu lên bậc trên, các vị trả lại y. Các vị lõa thể đi khất thực. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Giống như là những kẻ ngoại đạo.
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên cho tu lên bậc trên với y mượn; vị nào cho tu lên bậc trên thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu cho tu lên bậc trên với y và bình bát của người đã được yêu cầu (tức là với y và bình bát mượn tạm thời). Khi đã được tu lên bậc trên, các vị trả lại y và bình bát. Các vị lõa thể đi khất thực bằng hai tay. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Giống như là những kẻ ngoại đạo.
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên cho tu lên bậc trên với y và bình bát mượn; vị nào cho tu lên bậc trên thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Dứt hai mươi trường hợp về người không nên cho tu lên bậc trên.
[135] Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu cho người bị đứt cánh tay (hatthacchinnaṃ) xuất gia. …(như trên)… Các vị cho người bị đứt bàn chân (pādacchinnaṃ) xuất gia. …(như trên)… Các vị cho người bị đứt cánh tay và bàn chân (hatthapādacchinnaṃ) xuất gia. …(như trên)… Các vị cho người bị sứt tai (kaṇṇacchinnaṃ) xuất gia. …(như trên)… Các vị cho người bị sứt mũi (nāsacchinnaṃ) xuất gia. …(như trên)… Các vị cho người bị sứt tai và mũi (kaṇṇanāsacchinnaṃ) xuất gia. …(như trên)… Các vị cho người bị đứt ngón tay (aṅgulicchinnaṃ) xuất gia. …(như trên)… Các vị cho người bị đứt móng tay (aḷacchinnaṃ) xuất gia. …(như trên)… Các vị cho người bị đứt gân chân (kaṇḍaracchinnaṃ) xuất gia. …(như trên)… Các vị cho người có bàn tay dính liền giống cánh dơi (phaṇahatthakaṃ) xuất gia. …(như trên)… Các vị cho người gù lưng (khujjaṃ) xuất gia. …(như trên)… Các vị cho người lùn tịt (vāmanaṃ) xuất gia. …(như trên)… Các vị cho người có bướu cổ (galagaṇḍikaṃ) xuất gia. …(như trên)… Các vị cho người bị hành phạt đóng dấu (lakkhaṇāhataṃ) xuất gia. …(như trên)… Các vị cho người bị hành phạt đánh bằng roi (kasāhataṃ) xuất gia. …(như trên)… Các vị cho người bị cáo thị tầm nã (likhitakaṃ) xuất gia. …(như trên)… Các vị cho người phù chân voi (sīpadiṃ) xuất gia. …(như trên)… Các vị cho người có bệnh trầm trọng (pāparogiṃ) xuất gia. …(như trên)… Các vị cho người bôi nhọ tập thể (parisadūsakaṃ) xuất gia. …(như trên)… Các vị cho người chột mắt (kāṇaṃ) xuất gia. …(như trên)… Các vị cho người tứ chi bị co rút (kuṇiṃ) xuất gia. …(như trên)… Các vị cho người què (khañjaṃ) xuất gia. …(như trên)… Các vị cho người bị liệt nửa thân (pakkhahataṃ) xuất gia. …(như trên)… Các vị cho người đi khập khiễng (chinniriyāpathaṃ) xuất gia. …(như trên)… Các vị cho người già yếu (jarādubbalaṃ) xuất gia. …(như trên)… Các vị cho người mù (andhaṃ) xuất gia. …(như trên)… Các vị cho người câm (mūgaṃ) xuất gia. …(như trên)… Các vị cho người điếc (badhiraṃ) xuất gia. …(như trên)… Các vị cho người mù và câm xuất gia. …(như trên)… Các vị cho người mù và điếc xuất gia. …(như trên)… Các vị cho người câm và điếc xuất gia. …(như trên)… Các vị cho người mù câm điếc xuất gia. …(như trên)…
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên cho người bị đứt cánh tay xuất gia. Không nên cho người bị đứt bàn chân xuất gia. Không nên cho người bị đứt cánh tay và bàn chân xuất gia. Không nên cho người sứt tai xuất gia. Không nên cho người bị sứt mũi xuất gia. Không nên cho người bị sứt tai và mũi xuất gia. Không nên cho người bị đứt ngón tay xuất gia. Không nên cho người bị đứt móng tay xuất gia. Không nên cho người bị đứt gân chân xuất gia. Không nên cho người có bàn tay dính liền giống cánh dơi xuất gia. Không nên cho người gù lưng xuất gia. Không nên cho người lùn tịt xuất gia. Không nên cho người có bướu cổ xuất gia. Không nên cho người bị hành phạt đóng dấu xuất gia. Không nên cho người bị hành phạt đánh bằng roi xuất gia. Không nên cho người bị cáo thị tầm nã xuất gia. Không nên cho người phù chân voi xuất gia. Không nên cho người có bệnh trầm trọng kinh niên xuất gia. Không nên cho người bôi nhọ tập thể xuất gia. Không nên cho người chột mắt xuất gia. Không nên cho người tứ chi bị co rút xuất gia. Không nên cho người què xuất gia. Không nên cho người bị liệt nửa thân xuất gia. Không nên cho người đi khập khiễng xuất gia. Không nên cho người già yếu xuất gia. Không nên cho người mù xuất gia. Không nên cho người câm xuất gia. Không nên cho người điếc xuất gia. Không nên cho người mù và câm xuất gia. Không nên cho người mù và điếc xuất gia. Không nên cho người câm và điếc xuất gia. Không nên cho người mù câm điếc xuất gia; vị nào cho xuất gia thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Dứt ba mươi hai trường hợp không nên cho xuất gia.
Dứt tụng phẩm “Phần Thừa Kế” là phần thứ chín.
[136] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư ban cho sự nương nhờ đến những vị không có liêm sỉ. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên ban cho sự nương nhờ đến những vị không có liêm sỉ; vị nào ban cho thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu cư trú (với pháp) nương nhờ vào những vị không có liêm sỉ. Chẳng bao lâu sau, các vị ấy cũng trở thành các tỳ khưu ác xấu, không có liêm sỉ. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên cư trú (với pháp) nương nhờ vào những vị không có liêm sỉ; vị nào cư trú thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu đã khởi ý điều này: “Đức Thế Tôn đã quy định rằng: ‘Không nên ban cho sự nương nhờ đến những vị không có liêm sỉ và không nên cư trú (với pháp) nương nhờ vào những vị không có liêm sỉ,’ vậy làm thế nào chúng ta biết được (vị nào) là có liêm sỉ hoặc không có liêm sỉ?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép chờ đợi bốn năm ngày đến khi (xác định được rằng): “Ta biết được bản chất (sabhāgataṃ) của vị tỳ khưu.”
[137] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ du hành đường xa trong xứ Kosala. Khi ấy, vị tỳ khưu ấy đã khởi ý điều này: “Đức Thế Tôn đã quy định rằng: ‘Không nên sống không nương nhờ,’ và ta là cần có sự nương nhờ nhưng đang du hành đường xa, vậy ta nên thực hành như thế nào?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép vị tỳ khưu đang du hành đường xa trong khi không đạt được sự nương nhờ thì được sống không nương nhờ.
[138] Vào lúc bấy giờ, có hai vị tỳ khưu du hành đường xa trong xứ Kosala. Họ đã đi đến gần trú xứ nọ. Ở đó có một vị tỳ khưu bị bệnh. Khi ấy, vị tỳ khưu bệnh ấy đã khởi ý điều này: “Đức Thế Tôn đã quy định rằng: ‘Không nên sống không nương nhờ,’ và ta là cần có sự nương nhờ nhưng bị bệnh, vậy ta nên thực hành như thế nào?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép vị tỳ khưu bị bệnh trong khi không đạt được sự nương nhờ thì được sống không nương nhờ.
Khi ấy, vị tỳ khưu chăm sóc vị bị bệnh ấy đã khởi ý điều này: “Đức Thế Tôn đã quy định rằng: ‘Không nên sống không nương nhờ,’ và ta là cần có sự nương nhờ nhưng vị tỳ khưu này thì bị bệnh, vậy ta nên thực hành như thế nào?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép vị tỳ khưu chăm sóc vị bị bệnh trong khi không đạt được sự nương nhờ thì được sống không nương nhờ (khi) được yêu cầu (bởi vị bị bệnh).
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ trú ngụ ở trong rừng. Và vị ấy có được sự thích hợp (cho việc tu tiến) ở chỗ trú ngụ ấy. Khi ấy, vị tỳ khưu ấy đã khởi ý điều này: “Đức Thế Tôn đã quy định rằng: ‘Không nên sống không nương nhờ,’ và ta là cần có sự nương nhờ nhưng ta trú ngụ ở trong rừng và ta có sự thích hợp ở chỗ trú ngụ này, vậy ta nên thực hành như thế nào?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép vị tỳ khưu ở rừng quan tâm đến việc có chỗ cư trú thích hợp (cho việc tu tiến) trong khi không đạt được sự nương nhờ thì được sống không nương nhờ (nghĩ rằng): “Khi nào có vị đủ pháp cho nương nhờ phù hợp đi đến thì ta sẽ sống nương nhờ vào vị ấy.”
[139] Vào lúc bấy giờ, có người có ý muốn tu lên bậc trên với đại đức Mahākassapa. Khi ấy, đại đức Mahākassapa đã phái sứ giả đến gặp đại đức Ānanda nhắn rằng: “Ānanda hãy đi đến và tuyên ngôn cho người này.” Đại đức Ānanda đã nói như vầy:
– Tôi không thể đọc lên tên của ngài trưởng lão, ngài trưởng lão là bậc trưởng thượng của tôi.
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép đọc lên bằng tên của dòng họ.
[140] Vào lúc bấy giờ, có hai người có ý muốn tu lên bậc trên với đại đức Mahākassapa. Họ tranh cãi rằng: “Tôi sẽ tu lên bậc trên trước, tôi sẽ tu lên bậc trên trước.” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép thực hiện hai (người) trong một lần tuyên ngôn.
Vào lúc bấy giờ, có những người có ý muốn tu lên bậc trên với nhiều vị trưởng lão. Họ tranh cãi rằng: “Tôi sẽ tu lên bậc trên trước tiên, tôi sẽ tu lên bậc trên trước tiên.” Các vị trưởng lão đã nói như vầy:
– Này các đại đức, chúng ta hãy thực hiện hết thảy tất cả trong một lần tuyên ngôn đi.
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép thực hiện hai hoặc ba (người) trong một lần tuyên ngôn. Và điều ấy là với cùng một thầy tế độ chứ không phải với thầy tế độ khác nhau.
[141] Vào lúc bấy giờ, đại đức Kumārakassapa là hai mươi tính theo thai bào đã được tu lên bậc trên. Sau đó, đại đức Kumārakassapa đã khởi ý điều này: “Đức Thế Tôn đã quy định rằng: ‘Không nên cho tu lên bậc trên người chưa đủ hai mươi tuổi,’ và ta là hai mươi tính theo thai bào đã được tu lên bậc trên, vậy thì ta đã được tu lên bậc trên hay là chưa được tu lên bậc trên?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, khi tâm đầu tiên sanh khởi trong bụng của người mẹ thì thức đầu tiên đã xuất hiện; do điều ấy nên chính thời điểm đó là sự sanh ra của người ấy. Này các tỳ khưu, ta cho phép cho tu lên bậc trên người là hai mươi tính theo thai bào.
[142] Vào lúc bấy giờ, các vị đã tu lên bậc trên được phát hiện là có (liên quan đến) bệnh cùi, bệnh mụt nhọt, bệnh chàm, bệnh lao phổi, bệnh động kinh. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép vị đang ban phép tu lên bậc trên được hỏi về mười ba pháp chướng ngại. Và này các tỳ khưu, nên hỏi như vầy: “Ngươi có các bệnh như vầy không: Bệnh cùi (kuṭṭhaṃ)? Bệnh mụt nhọt (gaṇḍo)? Bệnh chàm (kilāso)? Bệnh lao phổi (soso)? Bệnh động kinh (apamāro)? Ngươi là loài người? Ngươi là người nam? Ngươi là người được tự do (không phải nô lệ)? Ngươi không bị thiếu nợ? Ngươi không phải là lính của đức vua? Ngươi đã được cha mẹ cho phép? Ngươi đã tròn hai mươi tuổi? Ngươi có đầy đủ y bát không? Ngươi tên gì? Vị thầy tế độ của ngươi tên gì?”
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu hỏi các pháp chướng ngại đến các người có ý muốn tu lên bậc trên chưa được giảng giải trước. Các người có ý muốn tu lên bậc trên đã bị bối rối, trở nên mắc cở, rồi không thể trả lời. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép giảng giải trước rồi hỏi các pháp chướng ngại sau.
Các vị đã giảng giải ngay tại chỗ ấy, ở giữa hội chúng. Như thế ấy, các người có ý muốn tu lên bậc trên đã bị bối rối, trở nên mắc cở, rồi không thể trả lời. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép giảng giải ở một góc rồi hỏi các pháp chướng ngại ở giữa hội chúng. Và này các tỳ khưu, nên giảng giải như vầy:
Trước tiên, nên bảo chọn vị thầy tế độ. Sau khi đã bảo chọn vị thầy tế độ rồi nên chỉ y bát: “Đây là bình bát của ngươi, đây là y hai lớp (saṅghāṭi) của ngươi, đây là thượng y của ngươi, đây là y nội của ngươi. Hãy đi đến đứng ở chỗ trống đàng kia.”
Các vị (tỳ khưu) ngu dốt, thiếu kinh nghiệm đã giảng giải. Những người có ý muốn tu lên bậc trên do được giảng giải tồi nên đã bị bối rối, trở nên mắc cở, rồi không thể trả lời. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, vị (tỳ khưu) ngu dốt thiếu kinh nghiệm không nên giảng giải; vị nào giảng giải thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, ta cho phép vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ khả năng được giảng giải.
Những vị (tỳ khưu) không được chỉ định đã giảng giải. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, vị không được chỉ định không nên giảng giải; vị nào giảng giải thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, ta cho phép giảng giải đối với vị đã được chỉ định. Và này các tỳ khưu, nên chỉ định như vầy: Tự mình chỉ định cho chính mình, hoặc người khác chỉ định cho người khác.
Thế nào là tự mình chỉ định cho chính mình?
Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Người tên (như vầy) có ý muốn tu lên bậc trên với đại đức tên (như vầy). Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, tôi sẽ giảng giải cho người tên (như vầy).”
Như vậy là tự mình chỉ định cho chính mình.
Thế nào là người khác chỉ định cho người khác?
Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Người tên (như vầy) có ý muốn tu lên bậc trên với đại đức tên (như vầy). Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, vị tên (như vầy) sẽ giảng giải cho người tên (như vầy).”
Như vậy là người khác chỉ định cho người khác.
Vị tỳ khưu đã được chỉ định ấy nên đi đến gần người có ý muốn tu lên bậc trên và nên nói với như vầy:
“Này người tên (như vầy), hãy lắng nghe. Đối với ngươi, bây giờ là thời điểm của sự thật, là thời điểm của bản chất. Trong khi được hỏi ở giữa hội chúng, điều gì được đề cập đến, nếu điều ấy là đúng thì nên nói: ‘Đúng;’ nếu không đúng, nên nói: ‘Không đúng.’ Không nên bối rối, không nên mắc cở. Các vị sẽ hỏi ngươi như vầy: ‘Ngươi có các bệnh như thế này không: Bệnh cùi? Bệnh mụt nhọt? Bệnh chàm? Bệnh lao phổi? Bệnh động kinh? Ngươi là loài người? Ngươi là người nam? Ngươi là người được tự do (không phải nô lệ)? Ngươi không bị thiếu nợ? Ngươi không phải là lính của đức vua? Ngươi đã được cha mẹ cho phép? Ngươi đã tròn hai mươi tuổi? Ngươi có đầy đủ y bát không? Ngươi tên gì? Vị thầy tế độ của ngươi tên gì?”
Họ đi đến cùng một lúc.
– Này các tỳ khưu, không nên đi đến cùng một lúc. Vị giảng giải nên đi đến trước và thông báo cho hội chúng: “Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Người tên (như vầy) có ý muốn tu lên bậc trên với đại đức tên (như vầy). Tôi đã giảng giải cho ngưòi ấy. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, nên cho người tên (như vầy) đi đến.” và nên nói rằng: “Hãy đi đến.”
Nên bảo (người ấy) đắp thượng y một bên vai, bảo đảnh lễ ở chân các tỳ khưu, bảo ngồi chồm hổm, bảo chắp tay lên, và bảo (người ấy) cầu xin sự tu lên bậc trên:
“Bạch các ngài, tôi cầu xin hội chúng sự tu lên bậc trên. Bạch các ngài, xin hội chúng hãy tế độ tôi vì lòng thương xót.
Bạch các ngài, tôi cầu xin hội chúng sự tu lên bậc trên lần thứ nhì. Bạch các ngài, xin hội chúng hãy tế độ tôi vì lòng thương xót.
Bạch các ngài, tôi cầu xin hội chúng sự tu lên bậc trên lần thứ ba. Bạch các ngài, xin hội chúng hãy tế độ tôi vì lòng thương xót.”
Hội chúng nên được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Người này tên (như vầy) có ý muốn tu lên bậc trên với đại đức tên (như vầy). Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, tôi sẽ hỏi các pháp chướng ngại đến người tên (như vầy).”
“Này người tên (như vầy), hãy lắng nghe. Đối với ngươi, bây giờ là thời điểm của sự thật, là thời điểm của bản chất. Trong khi được hỏi ở giữa hội chúng, điều gì được đề cập đến, nếu điều ấy là đúng thì nên nói: ‘Đúng;’ nếu không đúng, nên nói: ‘Không đúng.’ Ngươi có các bệnh như thế này không: Bệnh cùi? Bệnh mụt nhọt? Bệnh chàm? Bệnh lao phổi? Bệnh động kinh? Ngươi là loài người? Ngươi là người nam? Ngươi là người được tự do (không phải nô lệ)? Ngươi không bị thiếu nợ? Ngươi không phải là lính của đức vua? Ngươi đã được cha mẹ cho phép? Ngươi đã tròn hai mươi tuổi? Ngươi có đầy đủ y bát không? Ngươi tên gì? Vị thầy tế độ của ngươi tên gì?”
Hội chúng nên được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Người này tên (như vầy) có ý muốn tu lên bậc trên với đại đức tên (như vầy) là người trong sạch về các pháp chướng ngại. Người này có đầy đủ y bát. Người tên (như vầy) cầu xin hội chúng sự tu lên bậc trên với đại đức tên (như vầy) là thầy tế độ. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên cho người tên (như vầy) tu lên bậc trên với đại đức tên (như vầy) là thầy tế độ. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Người này tên (như vầy) có ý muốn tu lên bậc trên với đại đức tên (như vầy) là người trong sạch về các pháp chướng ngại. Người này có đầy đủ y bát. Người tên (như vầy) cầu xin hội chúng sự tu lên bậc trên với đại đức tên (như vầy) là thầy tế độ. Hội chúng cho ngưòi tên (như vầy) sự tu lên bậc trên với đại đức tên (như vầy) là thầy tế độ. Đại đức nào đồng ý sự tu lên bậc trên của người tên (như vầy) với đại đức tên (như vầy) là thầy tế độ xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Người này tên (như vầy) có ý muốn tu lên bậc trên với đại đức tên (như vầy) là người trong sạch về các pháp chướng ngại. Người này có đầy đủ y bát. Người tên (như vầy) cầu xin hội chúng sự tu lên bậc trên với đại đức tên (như vầy) là thầy tế độ. Hội chúng cho ngưòi tên (như vầy) sự tu lên bậc trên với đại đức tên (như vầy) là thầy tế độ. Đại đức nào đồng ý sự tu lên bậc trên của người tên (như vầy) với đại đức tên (như vầy) là thầy tế độ xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Người này tên (như vầy) có ý muốn tu lên bậc trên với đại đức tên (như vầy) là người trong sạch về các pháp chướng ngại. Người này có đầy đủ y bát. Người tên (như vầy) cầu xin hội chúng sự tu lên bậc trên với đại đức tên (như vầy) là thầy tế độ. Hội chúng cho ngưòi tên (như vầy) sự tu lên bậc trên với đại đức tên (như vầy) là thầy tế độ. Đại đức nào đồng ý sự tu lên bậc trên của người tên (như vầy) với đại đức tên (như vầy) là thầy tế độ xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Người tên (như vầy) đã được hội chúng cho tu lên bậc trên với đại đức tên (như vầy) là thầy tế độ. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng. Tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
Dứt hành sự tu lên bậc trên.
[143] Ngay khi ấy, bóng nắng cần được đo đạc, việc xác định mùa tiết nên được chỉ dạy, việc phân chia ngày (giờ) nên được chỉ dạy, điều đã được kết tập lại nên được chỉ dạy, bốn vật nương nhờ nên được chỉ dạy:
“Việc xuất gia nương vào thức ăn do khất thực, trong trường hợp ấy ngươi nên nỗ lực thực hiện cho đến hết đời; điều phụ trội được phép là bữa ăn dâng hội chúng, bữa ăn được chỉ định, sự mời thỉnh, bữa ăn theo thẻ, vào mỗi nửa tháng, vào ngày Uposatha, vào ngày đầu của mỗi nửa tháng.
Việc xuất gia nương vào y làm bằng vải dơ bị quăng bỏ; trong trường hợp ấy ngươi nên nỗ lực thực hiện cho đến hết đời; điều phụ trội được phép là (y làm bằng) sợi lanh (khomaṃ), bông vải (kappāsikaṃ), tơ lụa (koseyyaṃ), sợi len (kambalaṃ), gai thô (sāṇam), chỉ bố (bhaṅgaṃ).
Việc xuất gia nương vào chỗ trú ngụ là gốc cây; trong trường hợp ấy ngươi nên nỗ lực thực hiện cho đến hết đời; điều phụ trội được phép là trú xá (vihāraṃ), nhà một mái (aḍḍhayogaṃ), tòa nhà dài (pāsādaṃ), khu nhà lớn (hammiyaṃ), hang động (guhaṃ).
Việc xuất gia nương vào dược phẩm là nước tiểu gia súc, trong trường hợp ấy ngươi nên nỗ lực thực hiện cho đến hết đời; điều phụ trội được phép là bơ lỏng (sappi), bơ đặc (navanītaṃ), dầu ăn (telaṃ), mật (madhu), đường mía (phānitaṃ).”
Dứt bốn vật nương nhờ.
[144] Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu sau khi cho tu lên bậc trên vị tỳ khưu nọ đã bỏ lại mỗi một mình rồi ra đi. Sau đó trong khi đang đi chỉ mỗi một mình, giữa đường vị ấy đã gặp lại người vợ cũ. Cô ta đã nói như vầy:
– Nay chàng đã xuất gia rồi sao?
– Đúng vậy, tôi đã xuất gia.
– Việc đôi lứa đối với các vị xuất gia là khó đạt được. Hãy đến và thực hiện việc đôi lứa đi.
Vị ấy sau khi thực hiện việc đôi lứa với nàng ta đã đi về trễ sau cùng. Các vị tỳ khưu đã nói như vầy:
– Này sư đệ, vì sao sư đệ đã đi về trễ như vậy?
Khi ấy, vị ấy đã kể lại sự việc ấy cho các vị tỳ khưu. Các vị tỳ khưu đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, ta cho phép ban cho người cộng sự và chỉ dạy bốn điều không nên làm ngay sau khi cho tu lên bậc trên:
“Vị đã được tu lên bậc trên trở thành tỳ khưu không nên thực hành việc đôi lứa, thậm chí với loài thú cái. Vị tỳ khưu nào thực hành việc đôi lứa không còn là sa-môn không còn là Thích tử nữa. Giống như người đàn ông đã bị chặt đầu không thể sống với cái đầu ấy được gắn lại vào thân; tương tợ như thế, vị tỳ khưu sau khi thực hiện việc đôi lứa không còn là sa-môn không còn là Thích tử nữa. Ngươi không nên làm điều ấy cho đến hết đời.
Vị đã được tu lên bậc trên trở thành tỳ khưu không nên lấy vật không được cho như là kẻ trộm, thậm chí có liên quan đến cọng cỏ. Vị tỳ khưu nào lấy vật không được cho là một pāda hoặc tương đương một pāda hoặc hơn một pāda được xem là kẻ trộm không còn là sa-môn không còn là Thích tử nữa. Giống như chiếc lá vàng đã lìa cành không thể trở lại màu xanh; tương tợ như thế, vị tỳ khưu sau khi lấy vật không được cho là một pāda hoặc tương đương một pāda hoặc hơn một pāda được xem là kẻ trộm không còn là sa-môn không còn là Thích tử nữa. Ngươi không nên làm điều ấy cho đến hết đời.
Vị đã được tu lên bậc trên trở thành tỳ khưu không nên tước đoạt lấy mạng sống của chúng sanh một cách cố tình thậm chí có liên quan đến loài kiến. Vị tỳ khưu nào tước đoạt lấy mạng sống khỏi cơ thể con người một cách cố tình thậm chí có liên quan đến việc phá thai không còn là sa-môn không còn là Thích tử nữa. Giống như tảng đá lớn đã bị vỡ làm hai mảnh không gắn liền lại được; tương tợ như thế, vị tỳ khưu sau khi tước đoạt lấy mạng sống khỏi cơ thể con người một cách cố tình không còn là sa-môn không còn là Thích tử nữa. Ngươi không nên làm điều ấy cho đến hết đời.
Vị đã được tu lên bậc trên trở thành tỳ khưu không nên khẳng định về pháp của bậc thượng nhân thậm chí (nói rằng): ‘Tôi thỏa thích trong ngôi nhà trống vắng.’ Vị tỳ khưu nào có ước muốn xấu xa, bị thúc đẩy bởi ước muốn đó, rồi khẳng định về pháp của bậc thượng nhân (mà bản thân) không có, không thực chứng, là pháp thiền, hoặc là pháp giải thoát (vimokkhaṃ), hoặc là sự nhập định, hoặc là sự chứng đắc, hoặc là Đạo, hoặc là Quả không còn là sa-môn không còn là Thích tử nữa. Giống như cây thốt nốt (tāla) bị chặt ngọn không thể đâm chồi lại được nữa; tương tợ như thế, vị tỳ khưu có ước muốn xấu xa, bị thúc đẩy bởi ước muốn đó, sau khi khẳng định về pháp của bậc thượng nhân (mà bản thân) không có, không thực chứng không còn là sa-môn không còn là Thích tử nữa. Ngươi không nên làm điều ấy cho đến hết đời.”
Dứt bốn điều không nên làm.
[145] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ là người bị án treo trong việc không nhìn nhận tội đã hoàn tục. Vị ấy đã quay trở lại và cầu xin các vị tỳ khưu sự tu lên bậc trên. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu là người bị án treo trong việc không nhìn nhận tội lại hoàn tục. Vị ấy quay trở lại và cầu xin các vị tỳ khưu sự tu lên bậc trên. Vị ấy nên được nói như vầy về điều ấy: “Ngươi sẽ nhìn nhận tội ấy?” Nếu (vị ấy trả lời): “Tôi sẽ nhìn nhận” thì nên cho xuất gia. Nếu (vị ấy trả lời): “Tôi sẽ không nhìn nhận” thì không nên cho xuất gia. Sau khi cho xuất gia rồi, nên nói rằng: “Ngươi sẽ nhìn nhận tội ấy?” Nếu (vị ấy trả lời): “Tôi sẽ nhìn nhận” thì nên cho tu lên bậc trên. Nếu (vị ấy trả lời): “Tôi sẽ không nhìn nhận” thì không nên cho tu lên bậc trên. Sau khi đã cho tu lên bậc trên, nên nói rằng: “Ngươi sẽ nhìn nhận tội ấy?” Nếu (vị ấy trả lời): “Tôi sẽ nhìn nhận” thì nên phục hồi (osāretabbo). Nếu (vị ấy trả lời): “Tôi sẽ không nhìn nhận” thì không nên phục hồi. Sau khi đã phục hồi nên nói rằng: “Ngươi nhìn nhận tội ấy?” Nếu vị ấy nhìn nhận thì việc ấy được tốt đẹp, nhưng nếu vị ấy không nhìn nhận thì trong khi đạt được sự hợp nhất (của hội chúng) nên phạt án treo lại. Nếu không đạt được sự hợp nhất (của hội chúng) thì không phạm tội trong việc ăn chung, cư ngụ chung (với vị ấy).
Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu là người bị án treo trong việc không sửa chữa lỗi lại hoàn tục. Vị ấy quay trở lại và cầu xin các vị tỳ khưu sự tu lên bậc trên. Vị ấy nên được nói như vầy về điều ấy: “Ngươi sẽ sửa chữa lỗi ấy?” Nếu (vị ấy trả lời): “Tôi sẽ sửa chữa” thì nên cho xuất gia. Nếu (vị ấy trả lời): “Tôi sẽ không sửa chữa” thì không nên cho xuất gia. Sau khi cho xuất gia rồi, nên nói rằng: “Ngươi sẽ sửa chữa lỗi ấy?” Nếu (vị ấy trả lời): “Tôi sẽ sửa chữa” thì nên cho tu lên bậc trên. Nếu (vị ấy trả lời): “Tôi sẽ không sửa chữa” thì không nên cho tu lên bậc trên. Sau khi đã cho tu lên bậc trên, nên nói rằng: “Ngươi sẽ sửa chữa lỗi ấy?” Nếu (vị ấy trả lời): “Tôi sẽ sửa chữa” thì nên phục hồi. Nếu (vị ấy trả lời): “Tôi sẽ không sửa chữa,” thì không nên phục hồi. Sau khi đã phục hồi nên nói rằng: “Ngươi sửa chữa lỗi ấy?” Nếu vị ấy sửa chữa thì việc ấy được tốt đẹp, nhưng nếu vị ấy không sửa chữa thì trong khi đạt được sự hợp nhất (của hội chúng) nên phạt án treo lại. Nếu không đạt được sự hợp nhất (của hội chúng) thì không phạm tội trong việc ăn chung, cư ngụ chung (với vị ấy).
Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu là người bị án treo trong việc không chịu từ bỏ tà kiến ác lại hoàn tục. Vị ấy quay trở lại và cầu xin các vị tỳ khưu sự tu lên bậc trên. Vị ấy nên được nói như vầy về điều ấy: “Ngươi sẽ chịu từ bỏ tà kiến ác ấy?” Nếu (vị ấy trả lời): “Tôi sẽ chịu từ bỏ” thì nên cho xuất gia. Nếu (vị ấy trả lời): “Tôi sẽ không chịu từ bỏ” thì không nên cho xuất gia. Sau khi cho xuất gia rồi, nên nói rằng: “Ngươi sẽ chịu từ bỏ tà kiến ác ấy?” Nếu (vị ấy trả lời): “Tôi sẽ chịu từ bỏ” thì nên cho tu lên bậc trên. Nếu (vị ấy trả lời): “Tôi sẽ không chịu từ bỏ” thì không nên cho tu lên bậc trên. Sau khi đã cho tu lên bậc trên, nên nói rằng: “Ngươi sẽ chịu từ bỏ tà kiến ác ấy?” Nếu (vị ấy trả lời): “Tôi sẽ chịu từ bỏ” thì nên phục hồi. Nếu (vị ấy trả lời): “Tôi sẽ không chịu từ bỏ” thì không nên phục hồi. Sau khi đã phục hồi nên nói rằng: “Ngươi chịu từ bỏ tà kiến ác ấy?” Nếu vị ấy chịu từ bỏ thì việc ấy được tốt đẹp, nhưng nếu vị ấy không chịu từ bỏ thì trong khi đạt được sự hợp nhất (của hội chúng) nên phạt án treo lại. Nếu không đạt được sự hợp nhất (của hội chúng) thì không phạm tội trong việc ăn chung, cư ngụ chung (với vị ấy).
Chương Trọng Yếu là chương thứ nhất.
*******
Tóm lược chương này:
[146]
Các điều chính trong Luật
là nguồn đem an lạc
cho các thiện tỳ khưu
là các vị khiêm nhường
thoát khỏi điều ác xấu,
trong những việc nắm giữ
và duy trì Giáo Pháp,
hành xứ bậc Chiến Thắng
là của đấng Toàn Tri,
trong đối tượng quen thuộc
an toàn, khéo quy định,
không có điều nghi hoặc.
Và chính trong Tạng Luật
thuộc Đại Phẩm Tiểu Phẩm
ở nơi bộ Tập Yếu
và trong các tiêu đề,
như người tìm lợi ích
thiện xảo hành đúng đắn.
Không hiểu được loài bò
không chăn giữ đàn bò;
cũng vậy không biết giới,
trì giữ, thu thúc gì?
Khi Tạng Kinh quên lãng
và luôn Tạng Diệu Pháp,
còn Tạng Luật chưa hoại
Giáo Pháp vẫn tồn tại.
Do đó, tôi sẽ nói
nguyên nhân sự hình thành,
mở đầu theo thứ tự
theo như sự hiểu biết,
hãy lắng nghe tôi giảng.
Câu chuyện, nguồn gốc tội,phương thức, phần tóm lược,hãy hiểu rõ điều ấytheo đúng như phương pháp,vì thực hiện đầy đủviệc ấy thật khó làm.Ở cội cây Bồ Đề,Rājayatana,cội cây người chăn dêvị SahampatiPhạm thiên, Aḷāra,và vị Uddaka,đạo sĩ Upaka,tỳ khưu Koṇḍañña,Bhaddiya, Vappa,rồi Mahānāma,và vị Assaji,Yasa, bốn, năm mươi,ngài phái đi tất cảvề khắp các phương trời.Câu chuyện với Ma Vương,và ba mươi vương tử.Ở Uruvelāba đạo sĩ bện tócở trong nhà thờ lửa,vị đại vương Sakka,Phạm thiên và toàn bộ.Y paṃsukūlahồ nước, và tảng đá,cành cây Kakudha,và khối đá (phơi y).Trái Jambu, trái xoài,trái Āmalakī,và bông hoa san hôvị ấy đã mang lại.Hỡi này Kassapa,hãy chẻ, hãy đốt lên,và hãy dập tắt đi.Các vị hụp (xuống nước)chảo lửa, đám mây đen.Gayā, đi Laṭṭhi,vua xứ Magadha.Rồi Upatissavà chàng Kolitadanh tiếng đã xuất gia.Các y mặc luộm thuộm,(cho phép) việc đuổi đi,và vị bà-la-mônbị ốm o cằn cỗi,kẻ thực hành tồi bại,bao tử, chàng trai trẻ,hội chúng (là mười vị).Rồi mùa an cư mưa,với bọn ngu, bỏ đi,mười năm sống nương nhờ.Không thực hành, đuổi đi,các vị dốt, đình chỉ,năm điều kiện hoặc sáu.Người đã theo ngoại đạo,lõa thể, tóc chưa cắt,vị bện tóc, Thích Ca.Trong thành Magadha,năm thứ bệnh, binh sĩ,kẻ trộm, cướp đeo ngón,và vua Magadhađã ban điều cho phép.Phá ngục, và án ghi,phạt roi, bị đóng dấu,kẻ nợ, và nô tỳ,đầu sói, Upāli,và cơn bệnh dịch hạch,gia đình có đức tin,sa di Kaṇṭaka,và chuyện nghẽn hướng đi.Về việc sống nương nhờ,đứa trẻ, các điều học,chúng sống, và gì nữa?Cấm toàn bộ, vào miệng,các vị thầy tế độ,dụ dỗ, Kaṇṭaka.Vô căn, trộm, bỏ đi,con rồng, và kẻ giếtmẹ, cha, A-la-hán,làm dơ tỳ khưu ni,kẻ chia rẽ, đổ máuvà thêm kẻ lưỡng căn.Thầy tế độ không có ,với hội chúng, hoặc nhóm,kẻ vô căn, không bát,không y, hoặc cả hai,với đồ mượn là ba.Cụt tay, chân, tay chân,tai, mũi, hoặc cả hai,ngón, móng, và gân chân,tay có màng, gù, lùn,bướu cổ, bị đóng dấu,bị phạt roi, tầm nã,phù chân voi, bệnh nặng,kẻ bôi nhọ hội chúng,người chột, bệnh co rút,và như thế người què,người bị liệt nửa thân,người tướng đi khập khiễng,già yếu, mù, câm, điếc,mù câm đều ở đó,mù điếc đã nói đếnvà câm điếc cũng thế,đồng thời câm mù điếc.Cho sự nương nhờ đếnnhững kẻ không liêm sỉ,và có thể sống vậytrường hợp đi đường xa.Với vị được yêu cầucác người mong muốn tu,“Hãy đến,” chúng tranh cãichỉ một thầy tế độlà ngài Kassapa.Các vị đã được tuđược thấy bị khổ sởbởi vì các thứ bệnh,chưa được giảng, bối rối,giảng giải ở ngay đó.Kẻ ngu giữa hội chúngchưa chỉ định, cùng lúc,tế độ lên bậc trên,vật nương, (về) một mình,và ba điều còn lại.Các sự việc chương nàylà một trăm bảy hai.
Dứt phần tóm lược của Chương Trọng Yếu.
[1] Coro aṅgulimālo: mới xem qua dễ lầm tưởng với kẻ cướp tên Aṅgulimāla trong bài kệ tụng về Tám Phật Lực. Dịch giả I.B. Horner đã nêu lên điều này với lý do không có chữ “nāma = tên là” hoặc “ti” như được thường dùng trong trường hợp danh từ riêng; hơn nữa vị này được xuất gia ở nơi các tỳ khưu còn vị kia được xuất gia theo lối “ehi bhikkhu” với đức Phật. Thêm nữa, sự biến đổi từ nữ tánh sang nam tánh của “mālā” trong cụm từ “aṅgulimālo” xác định đây là trường hợp bahubbīhi.
[2] Liên quan đến tội pācittiya (ưng đối trị) 65.
[3] Nghĩa là ngọn núi ở phía Nam. Ở phía nam của thành Rājagaha có ngọn núi tên là Dakkhiṇāgiri nên được giữ nguyên không dịch.
[4] Tên vị này đã được dịch là Tịnh Phạn (Suddhodana), tức là cha của thái tử Sĩ Đạt Ta (Siddhattha). Thái tử đã lìa hoàng cung ra đi sau này trở thành đức Phật Thế Tôn.
[5] Nandā là con trai của đức vua Suddhodana và bà Mahāpajāpati Gotamī, tức em cùng cha khác mẹ với ngài.
[6] Chú giải phần này, ngài Buddhaghosa có nêu ra và giải thích về 5 hạng paṇḍaka là “āsittapaṇḍako usūyapaṇḍako opakkamikapaṇḍako pakkhapaṇḍako napuṃsakapaṇḍakoti.”Không cần thiết nên không chú thích rõ phần này.
[7] Theyyasaṃvāsaka nghĩa là sống chung theo lối trộm cắp. Ngài Buddhaghosa đề cập 3 loại theyyasaṃvāsaka và giải thích như sau: liṅgatthenaka (kẻ trộm tướng mạo) là tự mình xuất gia rồi đi đến tu viện và không biết gì về các điều quy định, saṃvāsatthenaka (kẻ trộm trong việc cộng trú) là sa di hoặc đã hoàn tục rồi đi đến tu viện nói dối là tỳ khưu và có biết về các điều quy định, hạng thứ ba ubhayatthenaka (kẻ trộm theo cả hai cách) là tự mình xuất gia rồi đi đến tu viện và có biết về các điều quy định.
[8] Vào các ngày này, các cư sĩ thường thọ trì tám giới hoặc mười giới một ngày đêm.
II. CHƯƠNG LỄ UPOSATHA
(UPOSATHAKKHANDHAKAṂ)
[147] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Rājagaha (Vương Xá) trên núi Gijjhakūṭa (Linh Thứu). Vào lúc bấy giờ, các du sĩ ngoại đạo tụ hội lại và giảng pháp vào ngày mười bốn, vào ngày mười lăm, và vào ngày thứ tám của mỗi nửa tháng. Dân chúng đi đến gần họ để nghe pháp. Họ có lòng mến chuộng và có niềm tin vào các du sĩ ngoại đạo; các du sĩ ngoại đạo có được đồ chúng.
Khi ấy, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha trong lúc đang thiền tịnh ở nơi thanh vắng có ý nghĩ suy tầm như vầy đã sanh khởi: “Hiện nay, các du sĩ ngoại đạo tụ hội lại và giảng pháp vào ngày mười bốn, vào ngày mười lăm, và vào ngày thứ tám của mỗi nửa tháng. Dân chúng đi đến gần họ để nghe pháp. Họ có lòng mến chuộng và có niềm tin vào các du sĩ ngoại đạo; các du sĩ ngoại đạo có được đồ chúng. Hay là các ngài đại đức cũng nên tụ hội vào ngày mười bốn, vào ngày mười lăm, và vào ngày thứ tám của mỗi nửa tháng?” Sau đó, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, trường hợp trẫm trong lúc đang thiền tịnh ở nơi thanh vắng, có ý nghĩ suy tầm như vầy đã sanh khởi: “Hiện nay, các du sĩ ngoại đạo tụ hội lại và giảng pháp vào ngày mười bốn, vào ngày mười lăm, và vào ngày thứ tám của mỗi nửa tháng. Dân chúng đi đến gần họ để nghe pháp. Họ có lòng mến chuộng và có niềm tin vào các du sĩ ngoại đạo; các du sĩ ngoại đạo có được đồ chúng. Hay là các ngài đại đức cũng nên tụ hội vào ngày mười bốn, vào ngày mười lăm, và vào ngày thứ tám của mỗi nửa tháng?” Bạch ngài, tốt đẹp thay các ngài đại đức cũng nên tụ hội vào ngày mười bốn, vào ngày mười lăm, và vào ngày thứ tám của mỗi nửa tháng.
Khi ấy, đức Thế Tôn đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha bằng bài Pháp thoại. Sau đó, khi đã được đức Thế Tôn chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi bằng bài Pháp thoại, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi.
Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, ta cho phép tụ hội vào ngày mười bốn, vào ngày mười lăm, và vào ngày thứ tám của mỗi nửa tháng.
[148] Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn đã cho phép tụ hội vào ngày mười bốn, vào ngày mười lăm, và vào ngày thứ tám của mỗi nửa tháng” nên sau khi tụ hội vào ngày mười bốn, vào ngày mười lăm, và vào ngày thứ tám của mỗi nửa tháng, các vị ấy ngồi im lặng. Dân chúng đi đến gần họ để nghe Pháp. Những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Tại sao các sa-môn Thích tử sau khi tụ hội vào ngày mười bốn, vào ngày mười lăm, và vào ngày thứ tám của mỗi nửa tháng lại ngồi im lặng giống như là các con heo đần độn [1] vậy? Sao các vị đã tụ hội lại mà không chịu giảng Pháp?
Các tỳ khưu đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, ta cho phép giảng Pháp sau khi tụ hội vào ngày mười bốn, vào ngày mười lăm, và vào ngày thứ tám của mỗi nửa tháng.
[149] Khi ấy, đức Thế Tôn trong lúc thiền tịnh ở nơi thanh vắng, có ý nghĩ suy tầm như vầy đã sanh khởi: “Hay là ta nên cho phép các vị ấy việc đọc tụng giới bổn Pātimokkha gồm các điều học đã được ta quy định cho các tỳ khưu, việc ấy sẽ là hành sự Uposatha cho các vị ấy?” Sau đó vào lúc chiều tối, đức Thế Tôn đã xuất khỏi thiền tịnh rồi nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, trường hợp ta trong lúc thiền tịnh ở nơi thanh vắng, có ý nghĩ suy tầm như vầy đã sanh khởi: “Hay là ta nên cho phép các vị ấy việc đọc tụng Pātimokkha gồm các điều học đã được ta quy định cho các tỳ khưu, việc ấy sẽ là hành sự Uposatha cho các vị ấy?” Này các tỳ khưu, ta cho phép đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Và này các tỳ khưu, nên đọc tụng như vầy:
Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên tiến hành lễ Uposatha, nên đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Phận sự trước tiên của hội chúng là gì? Các đại đức hãy tuyên bố sự trong sạch rồi tôi sẽ đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Hết thảy tất cả các vị hiện diện (chúng ta) hãy nghiêm chỉnh lắng nghe và hãy chú tâm đến điều ấy. Nếu vị nào có phạm tội, vị ấy nên bày tỏ; vị không có phạm tội thì nên im lặng. Do thái độ im lặng, tôi sẽ nhận biết về các đại đức rằng: ‘(Các vị) được trong sạch.’ Giống như đối với mỗi lần được hỏi đến thì có câu trả lời; tương tợ như thế, trong hội chúng như thế này (câu hỏi) được thông báo đến lần thứ ba. Trong khi đang được thông báo đến lần thứ ba, vị tỳ khưu nào nhớ ra mà không bày tỏ tội đang có thì vị ấy cố tình nói dối. Bạch chư đại đức, việc cố tình nói dối là pháp chướng ngại đã được đức Thế Tôn đề cập đến; do đó, vị tỳ khưu bị phạm tội mà nhớ ra và có ý muốn được trong sạch thì nên bày tỏ ra tội đang có. Bởi vì khi (tội) đã được bày tỏ thì vị ấy sẽ được thoải mái.”
[150] Pātimokkha: điều này là đầu tiên, điều này là lối đưa vào, điều này là đứng đầu của các thiện pháp, do đó được gọi là “Pātimokkha.”
Các đại đức: điều này là lời nói lịch sự, điều này là lời nói kính trọng, điều này là lời nói có sự tôn kính và có sự phục tùng, tức là “các đại đức.”
Tôi sẽ đọc tụng: Tôi sẽ nóí ra, tôi sẽ giảng, tôi sẽ chỉ cho biết, tôi sẽ bày ra, tôi sẽ khai triển, tôi sẽ phân tích, tôi sẽ làm rõ ràng, tôi sẽ cho thấy rõ.
Điều ấy: được gọi là giới bổn Pātimokkha.
Hết thảy tất cả các vị hiện diện: trong hội chúng ấy cho đến các vị trưởng lão, các vị mới tu, hoặc các vị trung niên, các vị này được gọi là “Hết thảy tất cả các vị hiện diện.”
(Chúng ta) hãy nghiêm chỉnh lắng nghe: sau khi định thần, sau khi chú tâm, sau khi tập trung tất cả tâm ý.
(Chúng ta) hãy chú tâm: (chúng ta) hãy chăm chú với tâm trú vào một điểm, với tâm không bị xao lãng, với tâm không bị rối loạn.
Nếu vị nào có phạm tội: Bất cứ tội nào thuộc nhóm năm tội hoặc bất cứ tội nào thuộc nhóm bảy tội của vị trưởng lão, của vị mới tu, hoặc của vị trung niên.
Vị ấy nên bày tỏ: vị ấy nên sám hối, vị ấy nên khai ra, vị ấy nên làm rõ ràng, vị ấy nên cho thấy rõ ở giữa hội chúng, hoặc ở giữa nhóm, hoặc nơi một vị.
Không có: nghĩa là vị ấy không phạm tội, hoặc là sau khi phạm tội đã được thoát khỏi tội.
Nên im lặng: nên ưng thuận, không nên phát biểu.
Tôi sẽ nhận biết: “(Các vị) được trong sạch”: Tôi sẽ biết được, tôi sẽ ghi nhận.
Giống như đối với mỗi lần được hỏi đến thì có câu trả lời: Giống như việc một người được một người khác hỏi thì nên trả lời, tương tợ như thế đối với hội chúng ấy, điều cần được biết là: “Vị ấy hỏi tôi.”
Hội chúng như thế này: được gọi là hội chúng các tỳ khưu.
Được thông báo đến lần thứ ba: Được thông báo một lần, được thông báo đến lần thứ nhì, được thông báo đến lần thứ ba.
(Vị ấy) nhớ ra: vị ấy biết được, vị ấy nhận ra được.
Tội đang có: nghĩa là (vị ấy) đã phạm tội, hoặc là sau khi phạm tội chưa được thoát khỏi tội.
Không bày tỏ: (vị ấy) không sám hối, không khai ra, không làm rõ ràng, không cho thấy rõ ở giữa hội chúng, hoặc ở giữa nhóm, hoặc nơi một vị.
Vị ấy cố tình nói dối: Việc cố tình nói dối là gì? Là đã làm điều sai trái.
Pháp chướng ngại đã được đức Thế Tôn đề cập đến: Chướng ngại của điều gì? Là chướng ngại cho việc chứng đắc thiền thứ nhất, chướng ngại cho việc chứng đắc thiền thứ nhì, chướng ngại cho việc chứng đắc thiền thứ ba, chướng ngại cho việc chứng đắc thiền thứ tư, chướng ngại cho việc chứng đắc của các thiền, của các sự giải thoát, của các sự thể nhập vào các tầng định, của các sự xuất ly, của các sự ra khỏi (luân hồi), của các sự tịch tịnh, của các thiện pháp.
Do đó: Vì nguyên nhân ấy.
(Với) vị nhớ ra được: (Với) vị biết được, (với) vị nhận ra được.
Có ý muốn được trong sạch: có sự mong muốn được thoát ra, có sự mong muốn được làm cho trong sạch.
Tội đang có: nghĩa là (vị ấy) đã phạm tội, hoặc là sau khi phạm tội chưa được thoát khỏi tội.
Nên bày tỏ ra: Nên bày tỏ ra ở giữa hội chúng, hoặc ở giữa nhóm, hoặc nơi một vị.
Bởi vì khi (tội) đã được bày tỏ thì vị ấy sẽ được thoải mái: Thoải mái của điều gì? Là sự thoải mái trong việc chứng đắc thiền thứ nhất, là sự thoải mái trong việc chứng đắc thiền thứ nhì, là sự thoải mái trong việc chứng đắc thiền thứ ba, là sự thoải mái trong việc chứng đắc thiền thứ tư, là sự thoải mái trong việc chứng đắc của các thiền, của các sự giải thoát, của các sự thể nhập vào các tầng định, của các sự xuất ly, của các sự ra khỏi (luân hồi), của các sự tịch tịnh, của các thiện pháp.
[151] Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu (nghĩ rằng): “Việc đọc tụng giới bổn Pātimokkha đã được đức Thế Tôn cho phép” nên đã đọc tụng giới bổn Pātimokkha hàng ngày. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên đọc tụng giới bổn Pātimokkha hàng ngày; vị nào đọc tụng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, ta cho phép đọc tụng giới bổn Pātimokkha vào ngày Uposatha.
Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu (nghĩ rằng): “Việc đọc tụng giới bổn Pātimokkha đã được đức Thế Tôn cho phép vào ngày Uposatha” nên đã đọc tụng giới bổn Pātimokkha ba lần trong nửa tháng vào ngày mười bốn, vào ngày mười lăm, và vào ngày thứ tám của nửa tháng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên đọc tụng giới bổn Pātimokkha ba lần trong nửa tháng; vị nào đọc tụng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, ta cho phép đọc tụng giới bổn Pātimokkha một lần vào ngày mười bốn hoặc ngày mười lăm của nửa tháng.
[152] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đọc tụng giới bổn Pātimokkha theo từng tập thể, theo tập thể riêng rẽ của từng vị. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên đọc tụng giới bổn Pātimokkha theo từng tập thể, theo tập thể riêng rẽ của từng vị; vị nào đọc tụng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, ta cho phép hành sự Uposatha hợp nhất.
Khi ấy, các vị tỳ khưu đã khởi ý điều này: “‘Đức Thế Tôn đã quy định hành sự Uposatha hợp nhất,’ vậy sự hợp nhất có phạm vi đến tận đâu, trong phạm vi một trú xứ hay toàn bộ trái đất?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép sự hợp nhất trong phạm vi một trú xứ.
[153] Vào lúc bấy giờ, đại đức Mahākappina ngụ tại Rājagaha, ở Maddakucchi, nơi vườn nai. Khi ấy, đại đức Mahākappina trong lúc thiền tịnh ở nơi thanh vắng, có ý nghĩ suy tầm như vầy đã sanh khởi: “Ta nên đi (tham dự) lễ Uposatha hay là không nên đi, ta nên đi (tham dự) hành sự của hội chúng hay là không nên đi, trong khi ta đã được thanh tịnh với sự thanh tịnh tối thượng?”
Khi ấy, đức Thế Tôn dùng tâm biết được ý nghĩ suy tầm của đại đức Mahākappina, rồi giống như người đàn ông có sức mạnh có thể duỗi ra cánh tay đã được co lại hoặc có thể co lại cánh tay đã được duỗi ra, tương tợ như thế (đức Thế Tôn) đã biến mất tại núi Gijjhakūṭa rồi hiện ra trước mặt đại đức Mahākappina ở Maddakucchi, nơi vườn nai. Đức Thế Tôn đã ngồi xuống ở chỗ ngồi được sắp đặt. Đại đức Mahākappina đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Đức Thế Tôn đã nói với đại đức Mahākappina đang ngồi một bên điều này:
– Này Kappina, có phải ngươi trong lúc thiền tịnh ở nơi thanh vắng, có ý nghĩ suy tầm như vầy đã sanh khởi: “Ta nên đi (tham dự) lễ Uposatha hay là không nên đi, ta nên đi (tham dự) hành sự của hội chúng hay là không nên đi, trong khi ta đã được thanh tịnh với sự thanh tịnh tối thượng?”
– Bạch ngài, đúng vậy.
– Nếu các ngươi là những người có Phạm hạnh không tôn trọng, không kính trọng, không quý trọng, không cúng dường lễ Uposatha thì còn ai sẽ tôn trọng, sẽ kính trọng, sẽ quý trọng, sẽ cúng dường lễ Uposatha nữa? Này người có Phạm hạnh, ngươi hãy đi (tham dự) lễ Uposatha, chớ có không đi. Ngươi hãy đi (tham dự) hành sự của hội chúng, chớ có không đi.
– Bạch ngài, xin vâng. Đại đức Mahākappina đã đáp lời đức Thế Tôn.
Sau đó, đức Thế Tôn đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho đại đức Mahākappina bằng bài Pháp thoại rồi giống như người đàn ông có sức mạnh có thể duỗi ra cánh tay đã được co lại hoặc có thể co lại cánh tay đã được duỗi ra, tương tợ như thế (đức Thế Tôn) đã biến mất trước mặt đại đức Mahākappina ở Maddakucchi nơi vườn nai rồi hiện ra tại núi Gijjhakūṭa.
[154] Khi ấy, các vị tỳ khưu đã khởi ý điều này: “‘Đức Thế Tôn đã cho phép sự hợp nhất trong phạm vi một trú xứ,’ vậy (phạm vi của) một trú xứ là đến tận đâu?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép ấn định ranh giới (sīmā). Và này các tỳ khưu, nên ấn định như vầy:
Trước tiên, các điểm mốc cần được định danh: điểm mốc là ngọn núi, điểm mốc là tảng đá, điểm mốc là khu rừng, điểm mốc là cội cây, điểm mốc là đường đi, điểm mốc là gò mối, điểm mốc là con sông, điểm mốc là vũng nước. Sau khi định danh các điểm mốc, hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Các điểm mốc cho toàn bộ (phạm vi) đã được định danh. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ấn định ranh giới với các điểm mốc ấy là (khu vực) đồng cộng trú chung một lễ Uposatha. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Các điểm mốc cho toàn bộ (phạm vi) đã được định danh. Hội chúng ấn định ranh giới với các điểm mốc ấy là (khu vực) đồng cộng trú chung một lễ Uposatha. Đại đức nào đồng ý việc ấn định ranh giới với các điểm mốc ấy là (khu vực) đồng cộng trú chung một lễ Uposatha xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Ranh giới với các điểm mốc ấy đã được hội chúng ấn định là (khu vực) đồng cộng trú chung một lễ Uposatha. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
[155] Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu nhóm Lục Sư (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn đã cho phép việc ấn định ranh giới” rồi ấn định các ranh giới quá rộng lớn bốn do tuần (yojana),[2] năm do tuần, sáu do tuần. Các vị tỳ khưu đi (tham dự) lễ Uposatha đi đến trong khi giới bổn Pātimokkha đang được đọc tụng, đi đến khi vừa mới được đọc tụng xong, (hoặc) đã trú ngụ ở khoảng giữa (đường đi). Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên ấn định ranh giới quá rộng lớn bốn do tuần (yojana), năm do tuần, hoặc sáu do tuần; vị nào ấn định thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, ta cho phép ấn định ranh giới tối đa ba do tuần.
[156] Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu nhóm Lục Sư ấn định ranh giới đến bờ bên kia của giòng sông. Trong khi đi đến lễ Uposatha, các vị tỳ khưu đã bị cuốn trôi đi, các bình bát đã bị cuốn trôi đi, các y đã bị cuốn trôi đi. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên ấn định ranh giới đến bờ bên kia của giòng sông; vị nào ấn định thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, ở nơi nào có thuyền bè thường trực hoặc có cầu cố định ta cho phép ấn định ranh giới đến bờ bên kia của giòng sông theo hình thức như thế.
[157] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu đọc tụng giới bổn Pātimokkha trong dãy phòng không xác định địa điểm. Các vị tỳ khưu vãng lai không biết được: “Hôm nay lễ Uposatha sẽ được thực hiện ở đâu?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên đọc tụng giới bổn Pātimokkha trong dãy phòng không xác định địa điểm; vị nào đọc tụng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, ta cho phép thực hiện lễ Uposatha sau khi chỉ định nhà hành lễ Uposatha (Uposathāgāraṃ) tùy theo hội chúng mong muốn là trú xá (vihāraṃ), hoặc nhà một mái (aḍḍhayogaṃ), hoặc tòa nhà dài (pāsādaṃ), hoặc khu nhà lớn (hammiyaṃ), hoặc hang động (guhaṃ). Và này các tỳ khưu, nên chỉ định như vầy:
Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên chỉ định trú xá tên (như vầy) làm nhà hành lễ Uposatha. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Hội chúng chỉ định trú xá tên (như vầy) làm nhà hành lễ Uposatha. Đại đức nào đồng ý việc chỉ định trú xá tên (như vầy) làm nhà hành lễ Uposatha xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Trú xá tên (như vầy) đã được hội chúng chỉ định làm nhà hành lễ Uposatha. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
[158] Vào lúc bấy giờ, trong trú xứ nọ có hai nhà hành lễ Uposatha được chỉ định. Các tỳ khưu tụ hội ở cả hai nơi (nghĩ rằng): “Lễ Uposatha sẽ được thực hiện ở đây. Lễ Uposatha sẽ được thực hiện ở đây.” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên chỉ định hai nhà hành lễ Uposatha ở trong một trú xứ; vị nào chỉ định thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, ta cho phép sau khi hủy bỏ một rồi thực hiện lễ Uposatha ở một nơi (còn lại). Và này các tỳ khưu nên hủy bỏ như vầy:
Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên hủy bỏ nhà hành lễ Uposatha tên (như vầy). Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Hội chúng hủy bỏ nhà hành lễ Uposatha tên (như vầy). Đại đức nào đồng ý việc hủy bỏ nhà hành lễ Uposatha tên (như vầy) xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Nhà hành lễ Uposatha tên (như vầy) đã được hội chúng hủy bỏ. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
[159] Vào lúc bấy giờ, ở trong trú xứ nọ nhà hành lễ Uposatha được ấn định quá nhỏ. Vào ngày Uposatha, đại chúng tỳ khưu đã tụ hội lại. Các vị tỳ khưu đã ngồi xuống ở khu vực không được ấn định và nghe giới bổn Pātimokkha. Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đã khởi ý điều này: “Đức Thế Tôn đã quy định rằng: ‘Lễ Uposatha nên được thực hiện sau khi chỉ định nhà hành lễ Uposatha,’ còn chúng ta đây đã ngồi ở khu vực không được ấn định và nghe giới bổn Pātimokkha, như thế thì lễ Uposatha của chúng ta đã được thực hiện hay đã không được thực hiện?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, vị ngồi ở khu vực đã được ấn định hay không được ấn định và lắng nghe giới bổn Uposatha thì từ chỗ đó lễ Uposatha của vị ấy đã được thực hiện. Này các tỳ khưu, như thế thì hội chúng mong muốn mặt tiền của chỗ hành lễ Uposatha (Uposathamukhaṃ) rộng tới mức nào thì hội chúng hãy ấn định mặt tiền của chỗ hành lễ Uposatha rộng tới mức ấy. Và này các tỳ khưu, nên ấn định như vầy:
Trước tiên, các điểm mốc cần được định danh. Sau khi định danh các điểm mốc, hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Các điểm mốc cho toàn bộ (phạm vi) đã được định danh. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ấn định mặt tiền của chỗ hành lễ Uposatha với các điểm mốc ấy. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Các điểm mốc cho toàn bộ (phạm vi) đã được định danh. Hội chúng ấn định mặt tiền của chỗ hành lễ Uposatha với các điểm mốc ấy. Đại đức nào đồng ý việc ấn định mặt tiền của chỗ hành lễ Uposatha với các điểm mốc ấy xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Mặt tiền của chỗ hành lễ Uposatha với các điểm mốc ấy đã được hội chúng ấn định. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
[160] Vào lúc bấy giờ, tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha các vị tỳ khưu mới tu đã tụ hội trước tiên (nghĩ rằng): “Các vị trưởng lão vẫn chưa có đến” nên đã bỏ đi. Lễ Uposatha đã bị chậm trễ. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép các tỳ khưu trưởng lão tụ hội trước nhất vào ngày lễ Uposatha.
[161] Vào lúc bấy giờ, trong thành Rājagaha có nhiều trú xứ là cùng chung ranh giới. Các vị tỳ khưu ở đó tranh cãi rằng: “Lễ Uposatha hãy được thực hiện ở trú xứ của chúng tôi. Lễ Uposatha hãy được thực hiện ở trú xứ của chúng tôi.” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, trong trường hợp có nhiều trú xứ là cùng chung ranh giới và các vị tỳ khưu ở đó tranh cãi rằng: “Lễ Uposatha hãy được thực hiện ở trú xứ của chúng tôi. Lễ Uposatha hãy được thực hiện ở trú xứ của chúng tôi.” Này các tỳ khưu, toàn bộ tất cả các tỳ khưu ấy nên tụ hội lại một chỗ rồi thực hiện lễ Uposatha, nơi nào có vị tỳ khưu trưởng lão cư ngụ thì nên tụ hội ở nơi ấy rồi thực hiện lễ Uposatha. Và lễ Uposatha không được thực hiện bởi hội chúng phân theo nhóm; vị nào thực hiện thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[162] Vào lúc bấy giờ, đại đức Mahākassapa từ Andhakavinda đang đi đến lễ Uposatha ở thành Rājagaha, trên đường đi trong khi vượt qua con sông[3] đã suýt bị nước cuốn trôi nên các y của vị ấy bị ướt. Các tỳ khưu đã nói với đại đức Mahākassapa điều này:
– Thưa ngài, vì sao các y của ngài bị ướt?
– Này các đại đức, trường hợp tôi từ Andhakavinda đang đi đến lễ Uposatha ở thành Rājagaha, trên đường đi trong khi vượt qua con sông tôi đã suýt bị nước cuốn trôi; vì thế các y của tôi bị ướt.
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ranh giới nào đã được hội chúng ấn định là đồng cộng trú chung một lễ Uposatha thì hội chúng nên ấn định ranh giới ấy là không (bị phạm tội vì) xa lìa ba y (ticīvarena avippavāsaṃ).[4] Và này các tỳ khưu, nên ấn định như vầy:
Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Ranh giới nào đã được hội chúng ấn định là đồng cộng trú chung một lễ Uposatha, nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ấn định ranh giới ấy là không (bị phạm tội vì) xa lìa ba y. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Ranh giới nào đã được hội chúng ấn định là đồng cộng trú chung một lễ Uposatha, hội chúng ấn định ranh giới ấy là không (bị phạm tội vì) xa lìa ba y. Đại đức nào đồng ý việc ấn định ranh giới ấy là không (bị phạm tội vì) xa lìa ba y xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Ranh giới ấy đã được hội chúng ấn định là không (bị phạm tội vì) xa lìa ba y. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu (nghĩ rằng): “Sự ấn định về việc không (bị phạm tội vì) xa lìa ba y đã được Đức Thế Tôn cho phép” nên để các y trong xóm nhà. Các y ấy bị mất, bị cháy, bị chuột gặm nhấm. Các vị tỳ khưu trở nên ăn mặc bê bối, y phục luộm thuộm. Các vị tỳ khưu đã nói như vầy:
– Này các đại đức, vì sao các vị ăn mặc bê bối, y phục luộm thuộm?
– Này các đại đức, trường hợp chúng tôi (nghĩ rằng): “Sự ấn định về việc không (bị phạm tội vì) xa lìa ba y đã được Đức Thế Tôn cho phép” nên đã để các y trong xóm nhà. Các y ấy đã bị mất, đã bị cháy, đã bị chuột gặm nhấm; do đó, chúng tôi trở nên ăn mặc bê bối, y phục luộm thuộm.
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ranh giới nào đã được hội chúng ấn định là đồng cộng trú chung một lễ Uposatha thì hội chúng nên ấn định ranh giới ấy là không (bị phạm tội vì) xa lìa ba y, ngoại trừ làng và vùng ven làng. Và này các tỳ khưu, nên ấn định như vầy:
Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Ranh giới nào đã được hội chúng ấn định là đồng cộng trú chung một lễ Uposatha, nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ấn định ranh giới ấy là không (bị phạm tội vì) xa lìa ba y, ngoại trừ làng và vùng ven làng. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Ranh giới nào đã được hội chúng ấn định là đồng cộng trú chung một lễ Uposatha, hội chúng ấn định ranh giới ấy là không (bị phạm tội vì) xa lìa ba y, ngoại trừ làng và vùng ven làng. Đại đức nào đồng ý việc ấn định ranh giới ấy là không (bị phạm tội vì) xa lìa ba y, ngoại trừ làng và vùng ven làng xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Ranh giới ấy đã được hội chúng ấn định là không (bị phạm tội vì) xa lìa ba y, ngoại trừ làng và vùng ven làng. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
[163] Này các tỳ khưu, trong khi ấn định ranh giới trước tiên nên ấn định ranh giới đồng cộng trú, sau đó nên ấn định việc không (bị phạm tội vì) xa lìa ba y. Này các tỳ khưu, trong khi hủy bỏ ranh giới trước tiên nên hủy bỏ việc không (bị phạm tội vì) xa lìa ba y, sau đó nên hủy bỏ ranh giới đồng cộng trú. Và này các tỳ khưu, việc không (bị phạm tội vì) xa lìa ba y nên được hủy bỏ như vầy:
Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Việc không (bị phạm tội vì) xa lìa ba y nào đã được hội chúng ấn định, nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng hội chúng nên hủy bỏ việc không (bị phạm tội vì) xa lìa ba y ấy. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Việc không (bị phạm tội vì) xa lìa ba y nào đã được hội chúng ấn định, hội chúng hủy bỏ việc không (bị phạm tội vì) xa lìa ba y ấy. Đại đức nào đồng ý sự hủy bỏ việc không (bị phạm tội vì) xa lìa ba y ấy xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Việc không (bị phạm tội vì) xa lìa ba y ấy đã được hội chúng hủy bỏ. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
Và này các tỳ khưu, ranh giới đồng cộng trú nên được hủy bỏ như vầy:
Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Ranh giới nào đã được hội chúng ấn định là đồng cộng trú chung một lễ Uposatha, nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên hủy bỏ ranh giới ấy. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Ranh giới nào đã được hội chúng ấn định là đồng cộng trú chung một lễ Uposatha, hội chúng hủy bỏ ranh giới ấy. Đại đức nào đồng ý việc hủy bỏ của ranh giới đồng cộng trú chung một lễ Uposatha ấy xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Ranh giới đồng cộng trú chung một lễ Uposatha ấy đã được hội chúng hủy bỏ. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
[164] Này các tỳ khưu, khi ranh giới chưa được ấn định chưa được thiết lập, vị (tỳ khưu) sống nương tựa vào ngôi làng hoặc thị trấn nào, trong trường hợp ấy ranh giới làng của ngôi làng ấy hoặc ranh giới thị trấn của thị trấn ấy là (ranh giới) đồng cộng trú chung một lễ Uposatha.
Này các tỳ khưu, ở nơi không phải làng, ở trong rừng, trong trường hợp ấy (khu vực) bảy abbhantara[5] ở xung quanh là (ranh giới) đồng cộng trú chung một lễ Uposatha.
Này các tỳ khưu, toàn bộ giòng sông không phải là ranh giới, toàn bộ biển cả không phải là ranh giới, toàn bộ hồ thiên nhiên không phải là ranh giới. Này các tỳ khưu, trong giòng sông, trong biển cả, trong hồ thiên nhiên, trong trường hợp ấy (khu vực) do việc ném nước ra xung quanh của người đàn ông (có sức mạnh) trung bình là (ranh giới) đồng cộng trú chung một lễ Uposatha.
[165] Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu nhóm Lục Sư làm ranh giới (mới) gối lên ranh giới (đã có). Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ranh giới của các vị nào đã được ấn định trước, ranh giới ấy của các vị ấy là đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì. Này các tỳ khưu, ranh giới của các vị nào được ấn định sau, ranh giới ấy của các vị ấy là sai Pháp, có thể sửa đổi, không đáng duy trì. Này các tỳ khưu, không nên làm ranh giới (mới) gối lên ranh giới (đã có); vị nào làm gối lên thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu nhóm Lục Sư làm ranh giới (mới) trùm lên ranh giới (đã có). Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ranh giới của các vị nào đã được ấn định trước, ranh giới ấy của các vị ấy là đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì. Này các tỳ khưu, ranh giới của các vị nào được ấn định sau, ranh giới ấy của các vị ấy là sai Pháp, có thể sửa đổi, không đáng duy trì. Này các tỳ khưu, không nên làm ranh giới (mới) trùm lên ranh giới (đã có); vị nào làm trùm lên thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, ta cho phép vị ấn định ranh giới được ấn định ranh giới sau khi đã chừa ra khoảng cách giữa các ranh giới.[6]
[166] Sau đó, các vị tỳ khưu đã khởi ý điều này: “Có bao nhiêu lễ Uposatha?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, đây là hai lễ Uposatha: Lễ ngày mười bốn và lễ ngày mười lăm. Này các tỳ khưu, đây là hai lễ Uposatha.
Khi ấy, các vị tỳ khưu đã khởi ý điều này: “Có bao nhiêu hành sự Uposatha?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, đây là bốn hành sự Uposatha: Hành sự Uposatha sai Pháp theo phe nhóm, hành sự Uposatha sai Pháp có sự hợp nhất, hành sự Uposatha đúng Pháp theo phe nhóm, hành sự Uposatha đúng Pháp có sự hợp nhất.
Này các tỳ khưu, trường hợp này tức là hành sự Uposatha sai Pháp theo phe nhóm, này các tỳ khưu, không nên thực hiện hành sự Uposatha có hình thức như thế và hành sự Uposatha có hình thức như thế không được ta cho phép.
Này các tỳ khưu, trường hợp này tức là hành sự Uposatha sai Pháp có sự hợp nhất, này các tỳ khưu, không nên thực hiện hành sự Uposatha có hình thức như thế và hành sự Uposatha có hình thức như thế không được ta cho phép.
Này các tỳ khưu, trường hợp này tức là hành sự Uposatha đúng Pháp theo phe nhóm, này các tỳ khưu, không nên thực hiện hành sự Uposatha có hình thức như thế và hành sự Uposatha có hình thức như thế không được ta cho phép.
Này các tỳ khưu, trường hợp này tức là hành sự Uposatha đúng Pháp có sự hợp nhất, này các tỳ khưu, nên thực hiện hành sự Uposatha có hình thức như thế và hành sự Uposatha có hình thức như thế được ta cho phép. Này các tỳ khưu, do đó ở đây chúng ta sẽ thực hiện hành sự Uposatha có hình thức như thế tức là “Đúng Pháp có sự hợp nhất.” Này các tỳ khưu, các ngươi nên học tập theo đúng như thế.
[167] Sau đó, các vị tỳ khưu đã khởi ý điều này: “Có bao nhiêu cách đọc tụng giới bổn Pātimokkha?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, đây là năm cách đọc tụng giới bổn Pātimokkha: Sau khi đọc tụng phần mở đầu (nidānaṃ), nên thông báo phần còn lại bằng cách đã được nghe; đây là cách đọc tụng giới bổn Pātimokkha thứ nhất. Sau khi đọc tụng phần mở đầu, sau khi đọc tụng bốn điều pārājika (bất cộng trụ), nên thông báo phần còn lại bằng cách đã được nghe; đây là cách đọc tụng giới bổn Pātimokkha thứ hai. Sau khi đọc tụng phần mở đầu, sau khi đọc tụng bốn điều pārājika, sau khi đọc tụng mười ba điều saṅghādisesa (tăng tàng), nên thông báo phần còn lại bằng cách đã được nghe; đây là cách đọc tụng giới bổn Pātimokkha thứ ba. Sau khi đọc tụng phần mở đầu, sau khi đọc tụng bốn điều pārājika, sau khi đọc tụng mười ba điều saṅghādisesa, sau khi đọc tụng hai điều aniyata (bất định), nên thông báo phần còn lại bằng cách đã được nghe; đây là cách đọc tụng giới bổn Pātimokkha thứ tư. (Đọc tụng) một cách đầy đủ là cách thứ năm. Này các tỳ khưu, đây là năm cách đọc tụng giới bổn Pātimokkha.
Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn đã cho phép cách đọc tụng giới bổn Pātimokkha một cách tóm tắt” rồi mọi lúc đều đọc tụng giới bổn Pātimokkha một cách tóm tắt. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên đọc tụng giới bổn Pātimokkha một cách tóm tắt; vị nào đọc tụng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vào lúc bấy giờ, tại trú xứ nọ trong nước Kosala vào ngày Uposatha có sự nguy hiểm vì đám lục lâm. Các vị tỳ khưu không thể đọc tụng giới bổn Pātimokkha một cách đầy đủ. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép đọc tụng giới bổn Pātimokkha một cách tóm tắt khi có sự nguy hiểm.
Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu nhóm Lục Sư đọc tụng giới bổn Pātimokkha một cách tóm tắt ngay cả khi không có sự nguy hiểm. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên đọc tụng giới bổn Pātimokkha một cách tóm tắt khi không có sự nguy hiểm; vị nào đọc tụng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, ta cho phép đọc tụng giới bổn Pātimokkha một cách tóm tắt khi có sự nguy hiểm. Trong trường hợp ấy, đây là mười sự nguy hiểm: Sự nguy hiểm từ đức vua, sự nguy hiểm vì trộm cướp, sự nguy hiểm vì hỏa hoạn, sự nguy hiểm vì nước ngập, sự nguy hiểm vì loài người, sự nguy hiểm vì phi nhân, sự nguy hiểm vì thú dữ, sự nguy hiểm vì rắn, sự nguy hiểm cho mạng sống, sự nguy hiểm cho Phạm hạnh. Này các tỳ khưu, ta cho phép đọc tụng giới bổn Pātimokkha một cách tóm tắt trong những (trường hợp) nguy hiểm có hình thức như thế và (đọc tụng giới bổn Pātimokkha) một cách đầy đủ khi không có sự nguy hiểm.
[168] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư thuyết Pháp ở giữa hội chúng khi không được thỉnh mời. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, vị không được thỉnh mời không nên thuyết Pháp ở giữa hội chúng; vị nào thuyết Pháp thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, ta cho phép vị tỳ khưu trưởng lão đích thân thuyết Pháp hoặc thỉnh mời vị khác.
[169] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư khi chưa được chỉ định vẫn hỏi Luật ở giữa hội chúng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, vị không được chỉ định không nên hỏi Luật ở giữa hội chúng; vị nào hỏi thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, ta cho phép vị được chỉ định hỏi Luật ở giữa hội chúng. Và này các tỳ khưu, nên chỉ định như vầy: Tự mình chỉ định cho chính mình, hoặc người khác chỉ định cho người khác.
Thế nào là tự mình chỉ định cho chính mình?
Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, tôi sẽ hỏi vị tên (như vầy) về Luật.”
Như vậy là tự mình chỉ định cho chính mình.
Thế nào là người khác chỉ định cho người khác?
Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, vị tên (như vầy) sẽ hỏi vị tên (như vầy) về Luật.”
Như vậy là người khác chỉ định cho người khác.
Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu hiền thiện đã được chỉ định rồi hỏi Luật ở giữa hội chúng. Các vị tỳ khưu nhóm Lục Sư có sự giận dữ, có sự không hài lòng, hăm dọa hãm hại. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép vị đã được chỉ định quan sát tập thể và cân nhắc từng cá nhân rồi mới hỏi Luật ở giữa hội chúng.
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư trả lời về Luật ở giữa hội chúng khi không được chỉ định. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, vị không được chỉ định không nên trả lời về Luật ở giữa hội chúng; vị nào trả lời thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, ta cho phép vị đã được chỉ định trả lời về Luật ở giữa hội chúng. Và này các tỳ khưu, nên chỉ định như vầy: Tự mình chỉ định cho chính mình, hoặc người khác chỉ định cho người khác.
Thế nào là tự mình chỉ định cho chính mình?
Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, tôi sẽ trả lời khi được vị tên (như vầy) hỏi về Luật.”
Như vậy là tự mình chỉ định cho chính mình.
Thế nào là người khác chỉ định cho người khác?
Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
– Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, vị tên (như vầy) sẽ trả lời khi được vị tên (như vầy) hỏi về Luật.
Như vậy là người khác chỉ định cho người khác.
Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu hiền thiện đã được chỉ định rồi trả lời Luật ở giữa hội chúng. Các vị tỳ khưu nhóm Lục Sư có sự giận dữ, có sự không hài lòng, hăm dọa hãm hại. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép vị đã được chỉ định quan sát tập thể và cân nhắc từng cá nhân rồi mới trả lời về Luật ở giữa hội chúng.
[170] Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu nhóm Lục Sư buộc tội vị tỳ khưu chưa được thỉnh ý trước (anokāsakataṃ). Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên buộc tội vị tỳ khưu chưa được thỉnh ý trước; vị nào buộc tội thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, ta cho phép buộc tội sau khi đã thỉnh ý trước rằng: “Này đại đức, hãy cho phép. Tôi muốn nói với ngài.”[7]
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu thỉnh ý trước các tỳ khưu nhóm Lục Sư rồi buộc tội. Các vị tỳ khưu nhóm Lục Sư có sự giận dữ, có sự không hài lòng, hăm dọa hãm hại. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, mặc dầu đã thỉnh ý trước ta cho phép cân nhắc về nhân vật (ấy) rồi mới buộc tội.
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư (nghĩ rằng): “Các vị tỳ khưu hiền thiện (sẽ) thỉnh ý chúng ta trước tiên” liền tiến hành trước và thỉnh ý (để buộc tội) các vị tỳ khưu trong sạch không phạm tội khi không có sự việc, không có nguyên do. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên thỉnh ý (để buộc tội) các vị tỳ khưu trong sạch không phạm tội khi không có sự việc, không có nguyên do; vị nào thỉnh ý thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, ta cho phép cân nhắc về nhân vật (ấy) trước rồi mới thỉnh ý (để buộc tội).
[171] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư thực hiện hành sự sai Pháp ở giữa hội chúng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên thực hiện hành sự sai Pháp ở giữa hội chúng; vị nào thực hiện thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Các vị vẫn thực hiện hành sự sai Pháp. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, trong khi hành sự sai Pháp đang được tiến hành, ta cho phép phản đối.
Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu hiền thiện phản đối trong khi hành sự sai Pháp đang được tiến hành bởi các tỳ khưu nhóm Lục Sư. Các vị tỳ khưu nhóm Lục Sư có sự giận dữ, có sự không hài lòng, hăm dọa hãm hại. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép bày tỏ quan điểm.
Các vị bày tỏ quan điểm trong sự hiện diện của chính các vị ấy. Các vị tỳ khưu nhóm Lục Sư có sự giận dữ, có sự không hài lòng, hăm dọa hãm hại. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép phản đối với bốn năm vị, bày tỏ quan điểm với hai ba vị, còn một vị thì khẳng định rằng: “Tôi không đồng ý việc này.”
[172] Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu nhóm Lục Sư trong lúc đọc tụng giới bổn Pātimokkha ở giữa hội chúng cố ý không cho nghe được. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, vị đọc tụng giới bổn Pātimokkha không nên cố ý làm cho không nghe được; vị nào làm cho không nghe được thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vào lúc bấy giờ, đại đức Udāyi là vị đọc tụng giới bổn Pātimokkha của hội chúng có giọng (nói) như loài quạ. Khi ấy, đại đức Udāyi đã khởi ý điều này: “Đức Thế Tôn đã quy định rằng: ‘Vị đọc tụng giới bổn Pātimokkha nên làm cho nghe được,’ còn ta có giọng (nói) như loài quạ, vậy ta nên thực hành như thế nào?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép vị đọc tụng giới bổn Pātimokkha nỗ lực (nghĩ rằng): “Bằng cách nào ta có thể làm cho (các vị) nghe được?” Đối với vị đang nỗ lực thì vô tội.
[173] Vào lúc bấy giờ, Devadatta đọc tụng giới bổn Pātimokkha ở hội chúng có sự hiện diện của cư sĩ. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên đọc tụng giới bổn Pātimokkha ở hội chúng có sự hiện diện của cư sĩ; vị nào đọc tụng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[174] Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu nhóm Lục Sư đọc tụng giới bổn Pātimokkha ở giữa hội chúng dầu không được mời thỉnh. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, vị không được mời thỉnh không nên đọc tụng giới bổn Pātimokkha ở giữa hội chúng; vị nào đọc tụng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, ta cho phép giới bổn Pātimokkha là trách nhiệm của vị trưởng lão.
Dứt tụng phẩm “Ngoại Đạo” là thứ mười một.
[175] Sau đó, khi đã ngự tại thành Rājagaha theo như ý thích đức Thế Tôn đã ra đi du hành đến Codanāvatthu. Trong khi tuần tự du hành, ngài đã ngự đến Codanāvatthu.
Vào lúc bấy giờ, tại trú xứ nọ có nhiều vị tỳ khưu cư ngụ. Ở đó, vị tỳ khưu trưởng lão là ngu dốt thiếu kinh nghiệm. Vị ấy không biết lễ Uposatha, hoặc là hành sự Uposatha, hoặc là giới bổn Pātimokkha, hoặc là việc đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đã khởi ý điều này: “Đức Thế Tôn đã quy định rằng: ‘Giới bổn Pātimokkha là trách nhiệm của vị trưởng lão,’ và vị trưởng lão này của chúng ta thì ngu dốt thiếu kinh nghiệm không biết lễ Uposatha, hoặc là hành sự Uposatha, hoặc là giới bổn Pātimokkha, hoặc là việc đọc tụng giới bổn Pātimokkha, vậy chúng ta nên thực hành như thế nào?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép ở nơi đó vị tỳ khưu nào có kinh nghiệm, đủ năng lực thì giới bổn Pātimokkha là trách nhiệm của vị ấy.
[176] Vào lúc bấy giờ, vào ngày lễ Uposatha tại trú xứ nọ có nhiều vị tỳ khưu ngu dốt thiếu kinh nghiệm cư ngụ. Các vị ấy không biết lễ Uposatha, hoặc là hành sự Uposatha, hoặc là giới bổn Pātimokkha, hoặc là việc đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Các vị ấy đã thỉnh mời vị trưởng lão rằng:
– Thưa ngài, xin trưởng lão hãy đọc tụng giới bổn Pātimokkha.
Vị ấy đã nói như vầy:
– Này các đại đức, tôi không làm được.
Các vị đã thỉnh mời vị trưởng lão thứ nhì:
– Thưa ngài, xin trưởng lão hãy đọc tụng giới bổn Pātimokkha.
Vị ấy cũng đã nói như vầy:
– Này các đại đức, tôi không làm được.
Các vị đã thỉnh mời vị trưởng lão thứ ba:
– Thưa ngài, xin trưởng lão hãy đọc tụng giới bổn Pātimokkha.
Vị ấy cũng đã nói như vầy:
– Này các đại đức, tôi không làm được.
Bằng chính phương thức ấy, các vị đã thỉnh mời đến vị mới tu của hội chúng:
– Xin đại đức hãy đọc tụng giới bổn Pātimokkha.
Vị ấy cũng đã nói như vầy:
– Thưa các ngài, tôi không làm được.
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, trường hợp vào ngày lễ Uposatha tại trú xứ nọ có nhiều vị tỳ khưu ngu dốt thiếu kinh nghiệm cư ngụ. Các vị ấy không biết lễ Uposatha, hoặc là hành sự Uposatha, hoặc là giới bổn Pātimokkha, hoặc là việc đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Các vị ấy thỉnh mời vị trưởng lão rằng: “Thưa ngài, xin trưởng lão hãy đọc tụng giới bổn Pātimokkha.” Vị ấy nói như vầy: “Này các đại đức, tôi không làm được.” Các vị thỉnh mời vị trưởng lão thứ nhì: “Thưa ngài, xin trưởng lão hãy đọc tụng giới bổn Pātimokkha.” Vị ấy cũng nói như vầy: “Này các đại đức, tôi không làm được.” Các vị thỉnh mời vị trưởng lão thứ ba: “Thưa ngài, xin trưởng lão hãy đọc tụng giới bổn Pātimokkha.” Vị ấy cũng nói như vầy: “Này các đại đức, tôi không làm được.” Bằng chính phương thức ấy, các vị thỉnh mời đến vị mới tu của hội chúng: “Xin đại đức hãy đọc tụng giới bổn Pātimokkha.” Vị ấy cũng nói như vầy: “Thưa các ngài, tôi không làm được.” Này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu ấy ngay trong hôm ấy nên phái một vị tỳ khưu đi đến trú xứ lân cận (bảo rằng): “Này đại đức, hãy đi và học thuộc lòng giới bổn Pātimokkha một cách tóm tắt hoặc đầy đủ rồi trở về.”
Khi ấy, các vị tỳ khưu đã khởi ý điều này: “Người nào nên được phái đi?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép vị tỳ khưu trưởng lão ra lệnh cho vị tỳ khưu mới tu.
Dầu được ra lệnh bởi vị trưởng lão, các vị tỳ khưu mới tu vẫn không đi. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, khi được ra lệnh bởi vị trưởng lão, vị không bệnh không nên không đi; vị nào không đi thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[177] Sau đó, khi đã ngự tại Codanāvatthu theo như ý thích đức Thế Tôn đã quay trở vể lại thành Rājagaha.
Vào lúc bấy giờ, dân chúng hỏi các vị tỳ khưu đang đi khất thực rằng:
– Thưa ngài, là ngày thứ mấy của nửa tháng?
Các vị tỳ khưu đã nói như vầy:
– Này các đạo hữu, chúng tôi không biết.
Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Các sa-môn Thích tử này không biết đến việc tính toán (ngày) của nửa tháng thì những người này còn biết được điều tốt đẹp gì khác nữa đây?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép học cách tính toán (ngày) của nửa tháng.
Khi ấy, các vị tỳ khưu đã khởi ý điều này: “Vị nào nên học cách tính toán (ngày) của nửa tháng?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép toàn bộ tất cả đều học cách tính toán (ngày) của nửa tháng.
Vào lúc bấy giờ, dân chúng hỏi các vị tỳ khưu đang đi khất thực rằng:
– Thưa ngài, có đến bao nhiêu vị tỳ khưu?
Các vị tỳ khưu đã nói như vầy:
– Này các đạo hữu, chúng tôi không biết.
Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Các sa-môn Thích tử này không biết lẫn nhau thì những người này còn biết được điều tốt đẹp gì khác nữa đây?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép đếm số các vị tỳ khưu.
Khi ấy, các vị tỳ khưu đã khởi ý điều này: “Khi nào thì nên đếm số các vị tỳ khưu?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép đếm số vào ngày lễ Uposatha bằng cách gọi tên hoặc rút thẻ.
[178] Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu không biết: “Hôm nay là ngày lễ Uposatha” nên đi khất thực ở làng xa. Các vị ấy trở lại trong khi giới bổn Pātimokkha đang được đọc tụng, các vị trở lại khi giới bổn Pātimokkha vừa mới đọc tụng xong. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép thông báo: “Hôm nay là ngày lễ Uposatha.”
Khi ấy, các vị tỳ khưu đã khởi ý điều này: “Nên được thông báo bởi vị nào?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép vị tỳ khưu trưởng lão thông báo vào sáng sớm.
Vào lúc bấy giờ, có vị trưởng lão nọ vào sáng sớm đã không nhớ. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép thông báo vào lúc thọ thực.
Ngay cả khi thọ thực, vị ấy đã không nhớ. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép lúc nào nhớ thì thông báo vào lúc ấy.
[179] Vào lúc bấy giờ, tại trú xứ nọ nhà hành lễ Uposatha bị dơ bẩn. Các tỳ khưu vãng lai phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Vì sao các tỳ khưu lại không quét nhà hành lễ Uposatha?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép quét nhà hành lễ Uposatha.
Khi ấy, các vị tỳ khưu đã khởi ý điều này: “Ai nên quét nhà hành lễ Uposatha?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép vị tỳ khưu trưởng lão ra lệnh cho vị tỳ khưu mới tu.
Được ra lệnh bởi vị trưởng lão, các vị tỳ khưu mới tu vẫn không quét. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, khi được ra lệnh bởi vị trưởng lão, vị không bệnh không nên không quét; vị nào không quét thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vào lúc bấy giờ, chỗ ngồi không được sắp đặt trong nhà hành lễ Uposatha. Các tỳ khưu ngồi trên nền nhà. Các phần thân thể và các y bị dơ bẩn. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép sắp đặt chỗ ngồi trong nhà hành lễ Uposatha.
Khi ấy, các vị tỳ khưu đã khởi ý điều này: “Ai nên sắp đặt chỗ ngồi trong nhà hành lễ Uposatha?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép vị tỳ khưu trưởng lão ra lệnh cho vị tỳ khưu mới tu.
Được ra lệnh bởi vị trưởng lão, các vị tỳ khưu mới tu vẫn không sắp đặt chỗ ngồi. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, khi được ra lệnh bởi vị trưởng lão, vị không bệnh không nên không sắp đặt; vị nào không sắp đặt thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vào lúc bấy giờ, trong nhà hành lễ Uposatha không có đèn. Trong bóng tối, các vị tỳ khưu đạp nhầm cơ thể và y. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép thắp sáng đèn trong nhà hành lễ Uposatha.
Khi ấy, các vị tỳ khưu đã khởi ý điều này: “Ai nên thắp sáng đèn trong nhà hành lễ Uposatha?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép vị tỳ khưu trưởng lão ra lệnh cho vị tỳ khưu mới tu.
Được ra lệnh bởi vị trưởng lão, các vị tỳ khưu mới tu vẫn không thắp sáng đèn. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, khi được ra lệnh bởi vị trưởng lão, vị không bệnh không nên không thắp sáng đèn; vị nào không thắp sáng đèn thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[8]Vào lúc bấy giờ, tại trú xứ nọ các tỳ khưu thường trú không cung ứng nước uống, không cung ứng nước rửa. Các tỳ khưu vãng lai phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Vì sao các tỳ khưu thường trú lại không cung ứng nước uống, không cung ứng nước rửa?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép cung ứng nước uống, nước rửa.
Khi ấy, các vị tỳ khưu đã khởi ý điều này: “Ai nên cung ứng nước uống, nước rửa?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép vị tỳ khưu trưởng lão ra lệnh cho vị tỳ khưu mới tu.
Được ra lệnh bởi vị trưởng lão, các vị tỳ khưu mới tu vẫn không cung ứng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, khi được ra lệnh bởi vị trưởng lão, vị không bệnh không nên không cung ứng; vị nào không cung ứng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[180] Vào lúc bấy giờ, có nhiều vị tỳ khưu ngu dốt, thiếu kinh nghiệm lên đường đi xa đã không xin phép các vị thầy tế độ và thầy dạy học. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, trường hợp nhiều vị tỳ khưu ngu dốt, thiếu kinh nghiệm lên đường đi xa không xin phép các vị thầy tế độ và thầy dạy học. Này các tỳ khưu, các vị thầy tế độ và thầy dạy học nên hỏi các vị ấy rằng: “Các ngươi sẽ đi đâu? Các ngươi sẽ đi với ai?” Này các tỳ khưu, nếu các vị tỳ khưu ngu dốt, thiếu kinh nghiệm ấy nêu lên các vị ngu dốt, thiếu kinh nghiệm khác, này các tỳ khưu, các vị thầy tế độ và thầy dạy học không nên cho phép; nếu các vị cho phép thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, nếu các vị tỳ khưu ngu dốt, thiếu kinh nghiệm ấy khi không được các vị thầy tế độ và thầy dạy học cho phép mà vẫn đi thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Này các tỳ khưu, trường hợp nhiều vị tỳ khưu ngu dốt, thiếu kinh nghiệm sống tại trú xứ nọ. Các vị ấy không biết lễ Uposatha, hoặc là hành sự Uposatha, hoặc là giới bổn Pātimokkha, hoặc là việc đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Nơi ấy có vị tỳ khưu khác đi đến là vị nghe nhiều, kinh điển được truyền thừa, rành rẽ về Pháp, rành rẽ về Luật, rành rẽ về các đầu đề, là bậc trí tuệ, có khả năng, thông minh, khiêm nhường, có hối hận, ưa thích sự học tập. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu nọ nên được các vị tỳ khưu ấy tiếp đón nồng hậu, nên được quan tâm, nên được chăm sóc, nên được cung ứng bột tắm, đất sét (để tắm), gỗ chà răng, nước rửa mặt. Nếu các vị không tiếp đón nồng hậu, quan tâm, chăm sóc, cung ứng bột tắm, đất sét (để tắm), gỗ chà răng, nước rửa mặt thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Này các tỳ khưu, trường hợp nhiều vị tỳ khưu ngu dốt, thiếu kinh nghiệm sống tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha. Các vị ấy không biết lễ Uposatha, hoặc là hành sự Uposatha, hoặc là giới bổn Pātimokkha, hoặc là việc đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu ấy ngay trong hôm ấy nên phái một vị tỳ khưu đi đến trú xứ lân cận (bảo rằng): “Này đại đức, hãy đi và học thuộc lòng giới bổn Pātimokkha một cách tóm tắt hoặc đầy đủ rồi trở về.” Nếu việc ấy đạt được như thế, việc ấy như vậy là tốt đẹp. Này các tỳ khưu, nếu không đạt được (như thế) thì nơi nào có các vị biết về lễ Uposatha, hoặc là hành sự Uposatha, hoặc là giới bổn Pātimokkha, hoặc là việc đọc tụng giới bổn Pātimokkha, toàn bộ tất cả các vị tỳ khưu ấy nên đi đến trú xứ ấy, nếu các vị không đi thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Này các tỳ khưu, trường hợp nhiều vị tỳ khưu ngu dốt, thiếu kinh nghiệm cư trú mùa mưa tại trú xứ nọ. Các vị ấy không biết lễ Uposatha, hoặc là hành sự Uposatha, hoặc là giới bổn Pātimokkha, hoặc là việc đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu ấy ngay trong hôm ấy nên phái một vị tỳ khưu đi đến trú xứ lân cận (bảo rằng): “Này đại đức, hãy đi và học thuộc lòng giới bổn Pātimokkha một cách tóm tắt hoặc đầy đủ rồi trở về.” Nếu việc ấy đạt được như thế, việc ấy như vậy là tốt đẹp. Này các tỳ khưu, nếu không đạt được (như thế) thì nên phái đi một vị tỳ khưu trong thời hạn bảy ngày (bảo rằng): “Này đại đức, hãy đi và học thuộc lòng giới bổn Pātimokkha một cách tóm tắt hoặc đầy đủ rồi trở về.” Nếu việc ấy đạt được như thế, việc ấy như vậy là tốt đẹp. Này các tỳ khưu, nếu không đạt được (như thế) thì các tỳ khưu ấy không nên cư trú mùa mưa tại trú xứ ấy. Nếu các vị ấy cư trú thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[181] Khi ấy, đức Thế Tôn đã bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, hãy tụ hội lại, hội chúng sẽ thực hiện lễ Uposatha.
Khi được nói như thế, có vị tỳ khưu nọ đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, có vị tỳ khưu bị bệnh. Vị ấy không đến.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép vị tỳ khưu bị bệnh được bày tỏ sự trong sạch. Và này các tỳ khưu, nên bày tỏ như vầy: Vị tỳ khưu bị bệnh ấy nên đi đến gặp một vị tỳ khưu, nên đắp thượng y một bên vai, nên ngồi chồm hổm, chắp tay lên và nên nói như vầy: “Tôi xin bày tỏ sự trong sạch. Hãy chuyển đạt sự trong sạch của tôi. Hãy thông báo về sự trong sạch của tôi.”
(Nếu) vị ấy thể hiện bằng thân, thể hiện bằng lời nói, thể hiện bằng thân và lời nói, thì sự trong sạch đã được bày tỏ. (Nếu) vị ấy không thể hiện bằng thân, không thể hiện bằng lời nói, không thể hiện bằng thân và lời nói, thì sự trong sạch đã không được bày tỏ. Nếu việc ấy đạt được như thế, việc ấy như vậy là tốt đẹp. Này các tỳ khưu, nếu không đạt được (như thế) thì nên dùng cái giường hoặc cái ghế khiêng vị tỳ khưu bị bệnh ấy đến giữa hội chúng rồi thực hiện lễ Uposatha. Này các tỳ khưu, nếu các vị tỳ khưu chăm sóc bệnh khởi ý như vầy: “Nếu chúng ta di chuyển vị bị bệnh dời khỏi chỗ thì bệnh sẽ trầm trọng hơn hoặc sẽ gây tử vong,” này các tỳ khưu, không nên di chuyển vị bị bệnh dời khỏi chỗ. Hội chúng nên đi đến và thực hiện lễ Uposatha ở nơi ấy. Nhưng không nên thực hiện lễ Uposatha bởi hội chúng theo phe nhóm; vị nào thực hiện thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Này các tỳ khưu, khi sự trong sạch đã được bày tỏ, nếu vị chuyển đạt sự trong sạch từ chính chỗ ấy bỏ đi (nơi khác) thì sự trong sạch nên được bày tỏ đến vị khác. Này các tỳ khưu, khi sự trong sạch đã được bày tỏ, nếu vị chuyển đạt sự trong sạch ngay tại chỗ ấy hoàn tục, từ trần, được biết là vị (xuống lại) sa di, được biết là người đã từ bỏ điều học, được biết là vị phạm tội cực nặng, được biết là vị bị điên, được biết là bị loạn trí, được biết là bị thọ khổ hành hạ, được biết là vị bị án treo trong việc không nhìn nhận tội, được biết là vị bị án treo trong việc không sửa chữa lỗi, được biết là vị bị án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác, được biết là kẻ vô căn, được biết là kẻ trộm tướng mạo (tỳ khưu), được biết là kẻ đã chuyển sang ngoại đạo, được biết là loài thú, được biết là kẻ giết mẹ, được biết là kẻ giết cha, được biết là kẻ giết A-la-hán, được biết là kẻ làm nhơ nhớp tỳ khưu ni, được biết là kẻ chia rẽ hội chúng, được biết là kẻ làm chảy máu đức Phật, được biết là kẻ lưỡng căn thì sự trong sạch nên được bày tỏ đến vị khác.
Này các tỳ khưu, khi sự trong sạch đã được bày tỏ, nếu vị chuyển đạt sự trong sạch ở khoảng giữa đường lại bỏ đi (nơi khác) thì sự trong sạch vẫn chưa được chuyển đạt. Này các tỳ khưu, khi sự trong sạch đã được bày tỏ, nếu vị chuyển đạt sự trong sạch ở khoảng giữa đường lại hoàn tục, từ trần, …(như trên)…, được biết là kẻ lưỡng căn thì sự trong sạch vẫn chưa được chuyển đạt.
Này các tỳ khưu, khi sự trong sạch đã được bày tỏ, nếu vị chuyển đạt sự trong sạch đã đến được hội chúng rồi bỏ đi (nơi khác) thì sự trong sạch đã được chuyển đạt. Này các tỳ khưu, khi sự trong sạch đã được bày tỏ, nếu vị chuyển đạt sự trong sạch đã đến được hội chúng rồi hoàn tục, từ trần, …(như trên)…, được biết là kẻ lưỡng căn thì sự trong sạch đã được chuyển đạt.
Này các tỳ khưu, khi sự trong sạch đã được bày tỏ, nếu vị chuyển đạt sự trong sạch đã đến được hội chúng rồi ngủ quên nên không thông báo, rồi lơ đễnh nên không thông báo, rồi nhập định nên không thông báo thì sự trong sạch đã được chuyển đạt. Vị chuyển đạt sự trong sạch không bị phạm tội.
Này các tỳ khưu, khi sự trong sạch đã được bày tỏ, nếu vị chuyển đạt sự trong sạch đã đến được hội chúng rồi cố ý không thông báo thì sự trong sạch đã được chuyển đạt và vị chuyển đạt sự trong sạch bị phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[182] Khi ấy, đức Thế Tôn đã bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, hãy tụ hội lại, hội chúng sẽ thực hiện hành sự.
Khi được nói như thế, có vị tỳ khưu nọ đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, có vị tỳ khưu bị bệnh. Vị ấy không đến.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép vị tỳ khưu bị bệnh được trao ra sự tùy thuận. Và này các tỳ khưu, nên trao ra như vầy: Vị tỳ khưu bị bệnh ấy nên đi đến gặp một vị tỳ khưu, nên đắp thượng y một bên vai, nên ngồi chồm hổm, chắp tay lên và nên nói như vầy: “Tôi xin trao ra sự tùy thuận. Hãy chuyển đạt sự tùy thuận của tôi. Hãy thông báo về sự tùy thuận của tôi.”
(Nếu) vị ấy thể hiện bằng thân, thể hiện bằng lời nói, thể hiện bằng thân và lời nói, thì sự tùy thuận đã được trao ra. (Nếu) vị ấy không thể hiện bằng thân, không thể hiện bằng lời nói, không thể hiện bằng thân và lời nói, thì sự tùy thuận đã không được trao ra. Nếu việc ấy đạt được như thế, việc ấy như vậy là tốt đẹp. Này các tỳ khưu, nếu không đạt được (như thế) thì nên dùng cái giường hoặc cái ghế khiêng vị tỳ khưu bị bệnh ấy đến giữa hội chúng rồi thực hiện hành sự. Này các tỳ khưu, nếu các vị tỳ khưu chăm sóc bệnh khởi ý như vầy: “Nếu chúng ta di chuyển vị bị bệnh dời khỏi chỗ thì bệnh sẽ trầm trọng hơn hoặc sẽ gây tử vong,” này các tỳ khưu, không nên di chuyển vị bị bệnh dời khỏi chỗ. Hội chúng nên đi đến và thực hiện hành sự ở nơi ấy. Nhưng không nên thực hiện hành sự bởi hội chúng theo phe nhóm; vị nào thực hiện thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Này các tỳ khưu, khi sự tùy thuận đã được trao ra, nếu vị chuyển đạt sự tùy thuận từ chính chỗ ấy bỏ đi (nơi khác) thì sự tùy thuận nên được trao ra đến vị khác. Này các tỳ khưu, khi sự tùy thuận đã được trao ra, nếu vị chuyển đạt sự tùy thuận ngay tại chỗ ấy hoàn tục, từ trần, được biết là vị (xuống lại) sa di, được biết là người đã từ bỏ điều học, được biết là vị phạm tội cực nặng, được biết là vị bị điên, được biết là bị loạn trí, được biết là bị thọ khổ hành hạ, được biết là vị bị án treo trong việc không nhìn nhận tội, được biết là vị bị án treo trong việc không sửa chữa lỗi, được biết là vị bị án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác, được biết là kẻ vô căn, được biết là kẻ trộm tướng mạo (tỳ khưu), được biết là kẻ đã chuyển sang ngoại đạo, được biết là loài thú, được biết là kẻ giết mẹ, được biết là kẻ giết cha, được biết là kẻ giết A-la-hán, được biết là kẻ làm nhơ nhớp tỳ khưu ni, được biết là kẻ chia rẽ hội chúng, được biết là kẻ làm chảy máu đức Phật, được biết là kẻ lưỡng căn thì sự tùy thuận nên được trao ra đến vị khác.
Này các tỳ khưu, khi sự tùy thuận đã được trao ra, nếu vị chuyển đạt sự tùy thuận ở khoảng giữa đường lại bỏ đi (nơi khác) thì sự tùy thuận vẫn chưa được chuyển đạt. Này các tỳ khưu, khi sự tùy thuận đã được trao ra, nếu vị chuyển đạt sự tùy thuận ở khoảng giữa đường lại hoàn tục, từ trần, …(như trên)…, được biết là kẻ lưỡng căn thì sự tùy thuận vẫn chưa được chuyển đạt.
Này các tỳ khưu, khi sự tùy thuận đã được trao ra, nếu vị chuyển đạt sự tùy thuận đã đến được hội chúng rồi bỏ đi (nơi khác) thì sự tùy thuận đã được chuyển đạt. Này các tỳ khưu, khi sự tùy thuận đã được trao ra, nếu vị chuyển đạt sự tùy thuận đã đến được hội chúng rồi hoàn tục, từ trần, …(như trên)…, được biết là kẻ lưỡng căn thì sự tùy thuận đã được chuyển đạt.
Này các tỳ khưu, khi sự tùy thuận đã được trao ra, nếu vị chuyển đạt sự tùy thuận đã đến được hội chúng rồi ngủ quên nên không thông báo, rồi lơ đễnh nên không thông báo, rồi nhập định nên không thông báo thì sự tùy thuận đã được chuyển đạt. Vị chuyển đạt sự tùy thuận không bị phạm tội.
Này các tỳ khưu, khi sự tùy thuận đã được trao ra, nếu vị chuyển đạt sự tùy thuận đã đến được hội chúng rồi cố ý không thông báo thì sự tùy thuận đã được chuyển đạt và vị chuyển đạt sự tùy thuận bị phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Này các tỳ khưu, ta cho phép vào ngày lễ Uposatha vị bày tỏ sự trong sạch (đồng thời) trao ra sự tùy thuận (phòng khi) hội chúng có hành sự cần được thực hiện.
[183] Vào lúc bấy giờ, nhằm ngày lễ Uposatha các thân quyến đã cầm giữ lại vị tỳ khưu nọ. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, trường hợp vào ngày lễ Uposatha các thân quyến cầm giữ vị tỳ khưu lại. Các thân quyến ấy nên được các tỳ khưu nói như vầy: “Này các ngài,[9] các ngài hãy trả tự do cho vị tỳ khưu này trong chốc lát đến khi nào vị tỳ khưu này thực hiện lễ Uposatha xong.” Nếu việc ấy đạt được như thế, việc ấy như vậy là tốt đẹp. Nếu không đạt được (như thế), các thân quyến ấy nên được các tỳ khưu nói như vầy: “Này các ngài, các ngài hãy tránh sang một bên trong chốc lát đến khi nào vị tỳ khưu này bày tỏ sự trong sạch xong.” Nếu việc ấy đạt được như thế, việc ấy như vậy là tốt đẹp. Nếu không đạt được (như thế), các thân quyến ấy nên được các tỳ khưu nói như vầy: “Này các ngài, các ngài hãy dẫn vị tỳ khưu này ra khỏi ranh giới trong chốc lát đến khi nào hội chúng thực hiện lễ Uposatha xong.” Nếu việc ấy đạt được như thế, việc ấy như vậy là tốt đẹp. Nếu không đạt được (như thế), vẫn không nên thực hiện lễ Uposatha bởi hội chúng theo phe nhóm; vị nào thực hiện thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Này các tỳ khưu, trường hợp vào ngày lễ Uposatha các đức vua cầm giữ vị tỳ khưu lại. …(như trên)… Các kẻ trộm cướp cầm giữ …(như trên)… Những kẻ bất lương cầm giữ …(như trên)… Những kẻ đối nghịch tỳ khưu cầm giữ vị tỳ khưu lại. Những kẻ đối nghịch tỳ khưu ấy nên được các tỳ khưu nói như vầy: “Này các ngài, các ngài hãy trả tự do cho vị tỳ khưu này trong chốc lát đến khi nào vị tỳ khưu này thực hiện lễ Uposatha xong.” Nếu việc ấy đạt được như thế, việc ấy như vậy là tốt đẹp. Nếu không đạt được (như thế), những kẻ đối nghịch tỳ khưu ấy nên được các tỳ khưu nói như vầy: “Này các ngài, các ngài hãy tránh sang một bên trong chốc lát đến khi nào vị tỳ khưu này bày tỏ sự trong sạch xong.” Nếu việc ấy đạt được như thế, việc ấy như vậy là tốt đẹp. Nếu không thể đạt được (như thế), những kẻ đối nghịch tỳ khưu ấy nên được các tỳ khưu nói như vầy: “Này các ngài, các ngài hãy dẫn vị tỳ khưu này ra khỏi ranh giới trong chốc lát đến khi nào hội chúng thực hiện lễ Uposatha xong.” Nếu việc ấy đạt được như thế, việc ấy như vậy là tốt đẹp. Nếu không thể đạt được (như thế), vẫn không nên thực hiện lễ Uposatha bởi hội chúng theo phe nhóm; vị nào thực hiện thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[184] Khi ấy, đức Thế Tôn đã bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, hãy tụ hội lại, hội chúng có việc cần phải làm.
Khi được nói như thế, có vị tỳ khưu nọ đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, có vị tỳ khưu tên Gagga bị điên. Vị ấy không đến.
– Này các tỳ khưu, đây là hai trường hợp bị điên. Có vị tỳ khưu điên có khi nhớ đến lễ Uposatha có khi không nhớ, có khi nhớ đến hành sự của hội chúng có khi không nhớ; và có vị hoàn toàn không nhớ. (Có vị) có khi đi đến lễ Uposatha có khi không đi đến, có khi đi đến hành sự của hội chúng có khi không đi đến; và có vị không bao giờ đi đến. Này các tỳ khưu, trường hợp vị bị điên nào có khi nhớ đến lễ Uposatha có khi không nhớ, có khi nhớ đến hành sự của hội chúng có khi không nhớ, có khi đi đến lễ Uposatha có khi không đi đến, có khi đi đến hành sự của hội chúng có khi không đi đến; này các tỳ khưu, ta cho phép ban cho sự đồng ý về bệnh điên đến vị bị điên có hình thức như thế. Và này các tỳ khưu, nên ban cho như vầy:
Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ khưu Gagga này bị điên có khi nhớ đến lễ Uposatha có khi không nhớ, có khi nhớ đến hành sự của hội chúng có khi không nhớ, có khi đi đến lễ Uposatha có khi không đi đến, có khi đi đến hành sự của hội chúng có khi không đi đến. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho sự đồng ý về bệnh điên đến tỳ khưu Gagga là vị bị điên. Vị tỳ khưu Gagga có thể nhớ đến lễ Uposatha hoặc có thể không nhớ, có thể nhớ đến hành sự của hội chúng hoặc có thể không nhớ, có thể đi đến lễ Uposatha hoặc có thể không đi đến, có thể đi đến hành sự của hội chúng hoặc có thể không đi đến; hội chúng dầu có Gagga hay không có Gagga vẫn nên thực hiện lễ Uposatha, vẫn nên thực hiện hành sự của hội chúng. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ khưu Gagga này bị điên có khi nhớ đến lễ Uposatha có khi không nhớ, có khi nhớ đến hành sự của hội chúng có khi không nhớ, có khi đi đến lễ Uposatha có khi không đi đến, có khi đi đến hành sự của hội chúng có khi không đi đến. Hội chúng ban cho sự đồng ý về bệnh điên đến tỳ khưu Gagga là vị bị điên. Vị tỳ khưu Gagga có thể nhớ đến lễ Uposatha hoặc có thể không nhớ, có thể nhớ đến hành sự của hội chúng hoặc có thể không nhớ, có thể đi đến lễ Uposatha hoặc có thể không đi đến, có thể đi đến hành sự của hội chúng hoặc có thể không đi đến; hội chúng dầu có Gagga hay không có Gagga sẽ thực hiện lễ Uposatha, sẽ thực hiện hành sự của hội chúng. Đại đức nào đồng ý việc ban cho sự đồng ý về bệnh điên đến tỳ khưu Gagga là vị bị điên. Vị tỳ khưu Gagga có thể nhớ đến lễ Uposatha hoặc có thể không nhớ, có thể nhớ đến hành sự của hội chúng hoặc có thể không nhớ, có thể đi đến lễ Uposatha hoặc có thể không đi đến, có thể đi đến hành sự của hội chúng hoặc có thể không đi đến; hội chúng dầu có Gagga hay không có Gagga sẽ thực hiện lễ Uposatha, sẽ thực hiện hành sự của hội chúng xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Sự đồng ý về bệnh điên đã được hội chúng ban đến tỳ khưu Gagga là vị bị điên.Vị tỳ khưu Gagga có thể nhớ đến lễ Uposatha hoặc có thể không nhớ, có thể nhớ đến hành sự của hội chúng hoặc có thể không nhớ, có thể đi đến lễ Uposatha hoặc có thể không đi đến, có thể đi đến hành sự của hội chúng hoặc có thể không đi đến; hội chúng dầu có Gagga hay không có Gagga sẽ thực hiện lễ Uposatha, sẽ thực hiện hành sự của hội chúng. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
[185] Vào lúc bấy giờ, tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có bốn vị tỳ khưu cư ngụ. Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đã khởi ý điều này: “Đức Thế Tôn đã quy định rằng: ‘Nên tiến hành lễ Uposatha’ và chúng ta là bốn người, vậy chúng ta nên thực hiện lễ Uposatha như thế nào?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép đọc tụng giới bổn Pātimokkha đối với bốn vị.
Vào lúc bấy giờ, tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có ba vị tỳ khưu cư ngụ. Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đã khởi ý điều này: “Đức Thế Tôn đã cho phép đọc tụng giới bổn Pātimokkha đối với bốn vị và chúng ta là ba người, vậy chúng ta nên thực hiện lễ Uposatha như thế nào?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép thực hiện lễ Uposatha (bằng cách bày tỏ) sự trong sạch với nhau đối với ba vị. Và này các tỳ khưu, nên thực hiện như vầy:
Các vị tỳ khưu ấy cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Xin các đại đức hãy lắng nghe tôi, hôm nay là ngày lễ Uposatha vào ngày mười lăm. Nếu là thời điểm thích hợp cho các đại đức, chúng ta nên thực hiện lễ Uposatha (bằng cách bày tỏ) sự trong sạch với nhau.”
Vị tỳ khưu trưởng lão nên đắp thượng y một bên vai, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói với các vị tỳ khưu ấy như vầy:
“Này các sư đệ, tôi được trong sạch, các vị hãy ghi nhận về tôi: ‘Là vị trong sạch.’
Này các sư đệ, tôi được trong sạch, các vị hãy ghi nhận về tôi: ‘Là vị trong sạch.’
Này các sư đệ, tôi được trong sạch, các vị hãy ghi nhận về tôi: ‘Là vị trong sạch.’”
Vị tỳ khưu mới tu nên đắp thượng y một bên vai, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói với các vị tỳ khưu ấy như vầy:
“Bạch các ngài, tôi được trong sạch, các vị hãy ghi nhận về tôi: ‘Là vị trong sạch.’
Bạch các ngài, tôi được trong sạch, các vị hãy ghi nhận về tôi: ‘Là vị trong sạch.’
Bạch các ngài, tôi được trong sạch, các vị hãy ghi nhận về tôi: ‘Là vị trong sạch.’”
Vào lúc bấy giờ, tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có hai vị tỳ khưu cư ngụ. Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đã khởi ý điều này: “Đức Thế Tôn đã cho phép đọc tụng giới bổn Pātimokkha đối với bốn vị, (cho phép) thực hiện lễ Uposatha (bằng cách bày tỏ) sự trong sạch với nhau đối với ba vị và chúng ta là hai người, vậy chúng ta nên thực hiện lễ Uposatha như thế nào?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép thực hiện lễ Uposatha (bằng cách bày tỏ) sự trong sạch với nhau đối với hai vị. Và này các tỳ khưu, nên thực hiện như vầy:
Vị tỳ khưu trưởng lão nên đắp thượng y một bên vai, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói với vị tỳ khưu mới tu như vầy:
“Này sư đệ, tôi được trong sạch, sư đệ hãy ghi nhận về tôi: ‘Là vị trong sạch.’
Này sư đệ, tôi được trong sạch, sư đệ hãy ghi nhận về tôi: ‘Là vị trong sạch.’
Này sư đệ, tôi được trong sạch, sư đệ hãy ghi nhận về tôi: ‘Là vị trong sạch.’”
Vị tỳ khưu mới tu nên đắp thượng y một bên vai, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói với vị tỳ khưu trưởng lão như vầy:
“Bạch ngài, tôi được trong sạch, ngài hãy ghi nhận về tôi: ‘Là vị trong sạch.’
Bạch ngài, tôi được trong sạch, ngài hãy ghi nhận về tôi: ‘Là vị trong sạch.’
Bạch ngài, tôi được trong sạch, ngài hãy ghi nhận về tôi: ‘Là vị trong sạch.’”
Vào lúc bấy giờ, tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có một vị tỳ khưu cư ngụ. Khi ấy, vị tỳ khưu ấy đã khởi ý điều này: “Đức Thế Tôn đã cho phép đọc tụng giới bổn Pātimokkha đối với bốn vị, (cho phép) thực hiện lễ Uposatha (bằng cách bày tỏ) sự trong sạch với nhau đối với ba vị, (cho phép) thực hiện lễ Uposatha (bằng cách bày tỏ) sự trong sạch với nhau đối với hai vị và ta chỉ có một mình, vậy ta nên thực hiện lễ Uposatha như thế nào?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có một vị tỳ khưu cư ngụ. Này các tỳ khưu, chỗ nào các vị tỳ khưu thường quay trở về là ở giảng đường, hoặc ở mái che, hoặc ở gốc cây, vị tỳ khưu ấy nên quét khu vực ấy, nên đem lại nước uống, nước rửa, nên sắp đặt chỗ ngồi, nên thắp sáng đèn, rồi nên ngồi xuống. Nếu có các tỳ khưu khác đi đến thì nên thực hiện lễ Uposatha với các vị ấy; nếu không có ai đi đến thì nên chú nguyện rằng: “Hôm nay là lễ Uposatha của tôi;” nếu không chú nguyện thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Này các tỳ khưu, trường hợp ở nơi có bốn vị tỳ khưu cư ngụ, không nên chuyển đạt sự trong sạch của một vị rồi đọc tụng giới bổn Pātimokkha bởi ba vị; nếu các vị đọc tụng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Này các tỳ khưu, trường hợp ở nơi có ba vị tỳ khưu cư ngụ, không nên chuyển đạt sự trong sạch của một vị rồi thực hiện lễ Uposatha (bằng cách bày tỏ) sự trong sạch bởi hai vị; nếu các vị thực hiện thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Này các tỳ khưu, trường hợp ở nơi có hai vị tỳ khưu cư ngụ, không nên chuyển đạt sự trong sạch của một vị rồi chú nguyện bởi một vị; nếu chú nguyện thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[186] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị phạm tội vào ngày lễ Uposatha. Khi ấy, vị tỳ khưu ấy đã khởi ý điều này: “Đức Thế Tôn đã quy định rằng: ‘Vị bị phạm tội không nên tiến hành lễ Uposatha’ và ta thì bị phạm tội, vậy ta nên thực hành như thế nào?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu bị phạm tội vào ngày lễ Uposatha. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy nên đi đến gặp một vị tỳ khưu, nên đắp thượng y một bên vai, nên ngồi chồm hổm, nên chắp tay lên, và nên nói như vầy:
– Bạch đại đức, tôi đã phạm tội tên (như vầy), tôi xin sám hối tội ấy.
Vị kia nên nói rằng:
– (Đại đức) có thấy (tội ấy) không?
– Thưa có, tôi thấy.
– (Đại đức) hãy thu thúc trong tương lai.
Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu có nghi ngờ về sự phạm tội vào ngày lễ Uposatha. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy nên đi đến gặp một vị tỳ khưu, nên đắp thượng y một bên vai, nên ngồi chồm hổm, nên chắp tay lên, và nên nói như vầy:
– Bạch đại đức, tôi có nghi ngờ về sự phạm (một) tội tên (như vầy), khi nào tôi dứt khỏi hoài nghi khi ấy tôi sẽ sửa chữa tội ấy.
Nói xong thì lễ Uposatha nên được tiến hành, nên lắng nghe giới bổn Pātimokkha, nhưng không nên làm chướng ngại cho lễ Uposatha chỉ vì nguyên nhân ấy.
[187] Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu nhóm Lục Sư sám hối tội (đã phạm) giống nhau. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên sám hối tội (đã phạm) giống nhau; vị nào sám hối thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu nhóm Lục Sư ghi nhận tội (đã phạm) giống nhau. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên ghi nhận tội (đã phạm) giống nhau; vị nào ghi nhận thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[188] Vào lúc bấy giờ, trong lúc giới bổn Pātimokkha đang được đọc tụng có vị tỳ khưu nọ nhớ ra tội. Khi ấy, vị tỳ khưu ấy đã khởi ý điều này: “Đức Thế Tôn đã quy định rằng: ‘Vị bị phạm tội không nên tiến hành lễ Uposatha’ và ta thì bị phạm tội, vậy ta nên thực hành như thế nào?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu nhớ ra tội trong lúc giới bổn Pātimokkha đang được đọc tụng. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy nên nói với vị tỳ khưu bên cạnh như vầy: “Bạch đại đức, tôi đã phạm tội tên (như vầy), sau khi đứng dậy khỏi đây tôi sẽ sửa chữa tội ấy.” Nói xong, thì lễ Uposatha nên được tiến hành, nên lắng nghe giới bổn Pātimokkha, nhưng không nên làm chướng ngại cho lễ Uposatha chỉ vì nguyên nhân ấy.
Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu có nghi ngờ về sự phạm tội trong lúc giới bổn Pātimokkha đang được đọc tụng. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy nên nói với vị tỳ khưu bên cạnh như vầy: “Bạch đại đức, tôi có nghi ngờ về sự phạm (một) tội tên (như vầy), khi nào tôi dứt khỏi hoài nghi khi ấy tôi sẽ sửa chữa tội ấy.” Nói xong, thì lễ Uposatha nên được tiến hành, nên lắng nghe giới bổn Pātimokkha, nhưng không nên làm chướng ngại cho lễ Uposatha chỉ vì nguyên nhân ấy.
[189] Vào lúc bấy giờ, tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha toàn bộ hội chúng đã phạm tội giống nhau. Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đã khởi ý điều này: “Đức Thế Tôn đã quy định rằng: ‘Không nên sám hối tội (đã phạm) giống nhau, không nên ghi nhận tội (đã phạm) giống nhau’ và toàn bộ hội chúng này đã phạm tội giống nhau, vậy chúng ta nên thực hành như thế nào?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha toàn bộ hội chúng đã phạm tội giống nhau. Này các tỳ khưu, ngay trong hôm ấy các vị tỳ khưu ấy nên phái một vị tỳ khưu đi đến trú xứ lân cận (bảo rằng): “Này đại đức, hãy đi và sau khi sửa chữa tội ấy hãy quay trở về, chúng tôi sẽ sửa chữa lại tội ấy trong sự hiện diện của đại đức.” Nếu việc ấy đạt được như thế, việc ấy như vậy là tốt đẹp. Này các tỳ khưu, nếu không đạt được (như thế) thì hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực: “Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Toàn bộ hội chúng này đã phạm tội giống nhau, khi nào (hội chúng) nhìn thấy vị tỳ khưu khác trong sạch không phạm tội khi ấy (hội chúng) sẽ sửa chữa tội ấy trong sự hiện diện của vị ấy.” Nói xong, thì lễ Uposatha nên được tiến hành, giới bổn Pātimokkha nên được đọc tụng, nhưng không nên làm chướng ngại cho lễ Uposatha chỉ vì nguyên nhân ấy.
Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha toàn bộ hội chúng có nghi ngờ về sự phạm tội giống nhau. Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực: “Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Toàn bộ hội chúng này có nghi ngờ về sự phạm tội giống nhau, khi nào (hội chúng) dứt khỏi hoài nghi khi ấy (hội chúng) sẽ sửa chữa tội ấy.” Nói xong, thì lễ Uposatha nên được tiến hành, giới bổn Pātimokkha nên được đọc tụng, nhưng không nên làm chướng ngại cho lễ Uposatha chỉ vì nguyên nhân ấy.
Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ khi đã vào mùa an cư mưa, hội chúng đã phạm tội giống nhau. Này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu ấy nên phái một vị tỳ khưu ngay trong hôm ấy đi đến trú xứ lân cận (bảo rằng): “Này đại đức, hãy đi và sau khi sửa chữa tội ấy hãy quay trở về, chúng tôi sẽ sửa chữa lại tội ấy trong sự hiện diện của đại đức.” Nếu việc ấy đạt được như thế, việc ấy như vậy là tốt đẹp. Này các tỳ khưu, nếu không đạt được (như thế) thì nên phái đi một vị tỳ khưu trong thời hạn bảy ngày (bảo rằng): “Này đại đức, hãy đi và sau khi sửa chữa tội ấy hãy quay trở về, chúng tôi sẽ sửa chữa lại tội ấy trong sự hiện diện của đại đức.”
[190] Vào lúc bấy giờ, tại trú xứ nọ toàn bộ hội chúng đã phạm tội giống nhau. Hội chúng ấy không biết tên và loại của tội ấy. Ở đó, có vị tỳ khưu khác đi đến là vị nghe nhiều, kinh điển được truyền thừa, rành rẽ về Pháp, rành rẽ về Luật, rành rẽ về các đầu đề, là bậc trí tuệ, có khả năng, thông minh, khiêm nhường, có hối hận, ưa thích sự học tập. Có vị tỳ khưu nọ đã đi đến gặp vị tỳ khưu ấy, sau khi đến đã nói với vị tỳ khưu ấy điều này:
– Thưa đại đức, vị hành động như vầy và như vầy thì vị ấy phạm tội tên gì?
Vị ấy đã nói như vầy:
– Này đại đức, vị hành động như vầy và như vầy thì vị ấy phạm tội tên nầy. Này đại đức, ngươi đã phạm tội tên nầy, ngươi hãy sửa chữa tội ấy.
Vị nọ đã nói như vầy:
– Thưa đại đức, không phải chỉ mình tôi đã phạm tội ấy. Toàn bộ hội chúng này đã phạm tội ấy.
Vị ấy đã nói như vầy:
– Này đại đức, người khác phạm tội hay không phạm tội thì điều gì sẽ xảy ra cho ngươi? Này đại đức, ngươi hãy tự thoát khỏi tội cho chính bản thân mình đi.
Khi ấy, vị tỳ khưu nọ sau khi đã sửa chữa tội ấy theo lời khuyên của vị tỳ khưu ấy rồi đã đi đến gặp các vị tỳ khưu kia, sau khi đến đã nói với các vị tỳ khưu kia điều này:
– Này các đại đức, nghe nói vị hành động như vầy và như vầy thì vị ấy phạm tội tên nầy. Này các đại đức, các vị đã phạm tội tên nầy, các vị hãy sửa chữa tội ấy.
Khi ấy, các vị tỳ khưu kia đã không muốn sửa chữa tội ấy theo lời khuyên của vị tỳ khưu nọ. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ toàn bộ hội chúng đã phạm tội giống nhau. Hội chúng ấy không biết tên và loại của tội ấy. Ở đó, có vị tỳ khưu khác đi đến là vị nghe nhiều, kinh điển được truyền thừa, rành rẽ về Pháp, rành rẽ về Luật, rành rẽ về các đầu đề, là bậc trí tuệ, có khả năng, thông minh, khiêm nhường, có hối hận, ưa thích sự học tập. Có vị tỳ khưu nọ đã đi đến gặp vị tỳ khưu ấy, sau khi đến nói với vị tỳ khưu ấy như vầy: “Thưa đại đức, vị hành động như vầy và như vầy thì vị ấy phạm tội tên gì?” Vị ấy nói như vầy: “Này đại đức, vị hành động như vầy và như vầy thì vị ấy phạm tội tên nầy. Này đại đức, ngươi đã phạm tội tên nầy, ngươi hãy sửa chữa tội ấy.” Vị nọ nói như vầy: “Thưa đại đức, không phải chỉ mình tôi đã phạm tội ấy. Toàn bộ hội chúng này đã phạm tội ấy.” Vị ấy nói như vầy: “Này đại đức, người khác phạm tội hay không phạm tội thì điều gì sẽ xảy ra cho ngươi? Này đại đức, ngươi hãy tự thoát khỏi tội cho chính bản thân mình đi.” Này các tỳ khưu, nếu sau khi sửa chữa tội theo lời khuyên của vị tỳ khưu ấy, vị tỳ khưu nọ đã đi đến gặp các vị tỳ khưu kia, sau khi đến đã nói với các vị tỳ khưu kia như vầy: “Này các đại đức, nghe nói vị hành động như vầy và như vầy thì vị ấy phạm tội tên nầy. Này các đại đức, các vị đã phạm tội tên nầy, các vị hãy sửa chữa tội ấy.” Này các tỳ khưu, nếu các vị tỳ khưu kia sửa chữa tội ấy theo lời khuyên của vị tỳ khưu nọ, việc ấy như vậy là tốt đẹp. Này các tỳ khưu, nếu các vị không chịu sửa chữa, vị tỳ khưu nọ không nên khuyên các vị tỳ khưu ấy (vì họ) không có mong muốn.
Dứt tụng phẩm “Codanāvatthu.”
[191] Vào lúc bấy giờ, tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều vị tỳ khưu thường trú đã tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy đã không biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất rồi đã thực hiện lễ Uposatha và đã đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Trong khi giới bổn Pātimokkha đang được đọc tụng bởi các vị ấy, có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đã đi đến. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều vị tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Trong khi giới bổn Pātimokkha đang được đọc tụng bởi các vị ấy, có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, giới bổn Pātimokkha nên được đọc tụng lại bởi các vị tỳ khưu ấy. Vô tội đối với các vị đọc tụng.
Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều vị tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Trong khi giới bổn Pātimokkha đang được đọc tụng bởi các vị ấy, có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) tương đương đi đến. Phần đã được đọc tụng là đã được đọc tụng tốt đẹp, phần còn lại nên được lắng nghe. Vô tội đối với các vị đọc tụng.
Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều vị tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Trong khi giới bổn Pātimokkha đang được đọc tụng bởi các vị ấy, có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) ít hơn đi đến. Phần đã được đọc tụng là đã được đọc tụng tốt đẹp, phần còn lại nên được lắng nghe. Vô tội đối với các vị đọc tụng.
Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều vị tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Khi giới bổn Pātimokkha vừa được đọc tụng xong bởi các vị ấy, có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, giới bổn Pātimokkha nên được đọc tụng lại bởi các vị ấy. Vô tội đối với các vị đọc tụng.
Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều vị tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Khi giới bổn Pātimokkha vừa được đọc tụng xong bởi các vị ấy, có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) tương đương đi đến. Phần đã được đọc tụng là đã được đọc tụng tốt đẹp, sự trong sạch nên được bày tỏ trong sự hiện diện của các vị ấy. Vô tội đối với các vị đọc tụng.
Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều vị tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Khi giới bổn Pātimokkha vừa được đọc tụng xong bởi các vị ấy, có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) ít hơn đi đến. Phần đã được đọc tụng là đã được đọc tụng tốt đẹp, sự trong sạch nên được bày tỏ trong sự hiện diện của các vị ấy. Vô tội đối với các vị đọc tụng.
Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều vị tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Khi giới bổn Pātimokkha vừa được đọc tụng xong bởi các vị ấy, trong khi hội chúng còn chưa đứng lên, có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, giới bổn Pātimokkha nên được đọc tụng lại bởi các vị ấy. Vô tội đối với các vị đọc tụng.
Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều vị tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Khi giới bổn Pātimokkha vừa được đọc tụng xong bởi các vị ấy, trong khi hội chúng còn chưa đứng lên, có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) tương đương đi đến. …(như trên)… (có số lượng) ít hơn đi đến. Phần đã được đọc tụng là đã được đọc tụng tốt đẹp, sự trong sạch nên được bày tỏ trong sự hiện diện của các vị ấy. Vô tội đối với các vị đọc tụng.
Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều vị tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Khi giới bổn Pātimokkha vừa được đọc tụng xong bởi các vị ấy, một số thuộc hội chúng đã đứng lên, có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, giới bổn Pātimokkha nên được đọc tụng lại bởi các vị ấy. Vô tội đối với các vị đọc tụng.
Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều vị tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Khi giới bổn Pātimokkha vừa được đọc tụng xong bởi các vị ấy, một số thuộc hội chúng đã đứng lên, có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) tương đương đi đến. …(như trên)… (có số lượng) ít hơn đi đến. Phần đã được đọc tụng là đã được đọc tụng tốt đẹp, sự trong sạch nên được bày tỏ trong sự hiện diện của các vị ấy. Vô tội đối với các vị đọc tụng.
Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều vị tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Khi giới bổn Pātimokkha vừa được đọc tụng xong bởi các vị ấy, toàn bộ hội chúng đã đứng lên, có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, giới bổn Pātimokkha nên được đọc tụng lại bởi các vị ấy. Vô tội đối với các vị đọc tụng.
Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều vị tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Khi giới bổn Pātimokkha vừa được đọc tụng xong bởi các vị ấy, toàn bộ hội chúng đã đứng lên, có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) tương đương đi đến. …(như trên)… (có số lượng) ít hơn đi đến. Phần đã được đọc tụng là đã được đọc tụng tốt đẹp, sự trong sạch nên được bày tỏ trong sự hiện diện của các vị ấy. Vô tội đối với các vị đọc tụng.
Dứt mười lăm trường hợp vô tội.
[192] Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều vị tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Trong khi giới bổn Pātimokkha đang được đọc tụng bởi các vị ấy, có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, giới bổn Pātimokkha nên được đọc tụng lại bởi các vị tỳ khưu ấy. Các vị đọc tụng phạm tội dukkaṭa (tác ác). …(như trên)… có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) tương đương đi đến. …(như trên)… (có số lượng) ít hơn đi đến. Phần đã được đọc tụng là đã được đọc tụng tốt đẹp, phần còn lại nên được lắng nghe. Các vị đọc tụng phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều vị tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Khi giới bổn Pātimokkha vừa được đọc tụng xong bởi các vị ấy, có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, giới bổn Pātimokkha nên được đọc tụng lại bởi các vị ấy. Các vị đọc tụng phạm tội dukkaṭa (tác ác). …(như trên)… có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) tương đương đi đến. …(như trên)… (có số lượng) ít hơn đi đến. Phần đã được đọc tụng là đã được đọc tụng tốt đẹp, sự trong sạch nên được bày tỏ trong sự hiện diện của các vị ấy. Các vị đọc tụng phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều vị tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Khi giới bổn Pātimokkha vừa được đọc tụng xong bởi các vị ấy, trong khi hội chúng còn chưa đứng lên …(như trên)… một số thuộc hội chúng đã đứng lên …(như trên)… toàn bộ hội chúng đã đứng lên thì có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, giới bổn Pātimokkha nên được đọc tụng lại bởi các vị ấy. Các vị đọc tụng phạm tội dukkaṭa (tác ác). …(như trên)… có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) tương đương đi đến. …(như trên)… (có số lượng) ít hơn đi đến. Phần đã được đọc tụng là đã được đọc tụng tốt đẹp, sự trong sạch nên được bày tỏ trong sự hiện diện của các vị ấy. Các vị đọc tụng phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Dứt mười lăm trường hợp là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất.
[193] Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều vị tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy có sự nghi ngờ rằng: “Lễ Uposatha của chúng ta được phép thực hiện hay không được phép?” rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Trong khi giới bổn Pātimokkha đang được đọc tụng bởi các vị ấy, có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, giới bổn Pātimokkha nên được đọc tụng lại bởi các vị tỳ khưu ấy. Các vị đọc tụng phạm tội dukkaṭa (tác ác). …(như trên)… có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) tương đương đi đến. …(như trên)… (có số lượng) ít hơn đi đến. Phần đã được đọc tụng là đã được đọc tụng tốt đẹp, phần còn lại nên được lắng nghe. Các vị đọc tụng phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều vị tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy có sự nghi ngờ rằng: “Lễ Uposatha của chúng ta được phép thực hiện hay không được phép?” rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Khi giới bổn Pātimokkha vừa được đọc tụng xong bởi các vị ấy …(như trên)… trong khi hội chúng còn chưa đứng lên …(như trên)… một số thuộc hội chúng đã đứng lên …(như trên)… toàn bộ hội chúng đã đứng lên thì có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, giới bổn Pātimokkha nên được đọc tụng lại bởi các vị ấy. Các vị đọc tụng phạm tội dukkaṭa (tác ác). …(như trên)… có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) tương đương đi đến. …(như trên)… (có số lượng) ít hơn đi đến. Phần đã được đọc tụng là đã được đọc tụng tốt đẹp, sự trong sạch nên được bày tỏ trong sự hiện diện của các vị ấy. Các vị đọc tụng phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Dứt mười lăm trường hợp nghi ngờ.
[194] Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều vị tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị có sự ngần ngại rằng: “Lễ Uposatha vẫn được phép thực hiện đối với chúng ta, chứ không phải không được phép đối với chúng ta” rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Trong khi giới bổn Pātimokkha đang được đọc tụng bởi các vị ấy, có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, giới bổn Pātimokkha nên được đọc tụng lại bởi các vị tỳ khưu ấy. Các vị đọc tụng phạm tội dukkaṭa (tác ác). …(như trên)… có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) tương đương đi đến. …(như trên)… (có số lượng) ít hơn đi đến. Phần đã được đọc tụng là đã được đọc tụng tốt đẹp, phần còn lại nên được lắng nghe. Các vị đọc tụng phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều vị tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy có sự ngần ngại rằng: “Lễ Uposatha vẫn được phép thực hiện đối với chúng ta, chứ không phải không được phép đối với chúng ta” rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Khi giới bổn Pātimokkha vừa được đọc tụng xong bởi các vị ấy …(như trên)… trong khi hội chúng còn chưa đứng lên …(như trên)… một số thuộc hội chúng đã đứng lên …(như trên)… toàn bộ hội chúng đã đứng lên thì có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, giới bổn Pātimokkha nên được đọc tụng lại bởi các vị ấy. Các vị đọc tụng phạm tội dukkaṭa (tác ác). …(như trên)… có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) tương đương đi đến. …(như trên)… (có số lượng) ít hơn đi đến. Phần đã được đọc tụng là đã được đọc tụng tốt đẹp, sự trong sạch nên được bày tỏ trong sự hiện diện của các vị ấy. Các vị đọc tụng phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Dứt mười lăm trường hợp có sự ngần ngại.
[195] Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều vị tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy có dự tính chia rẽ (nghĩ rằng): “Các vị nầy tiêu mất đi! Các vị nầy chết mất đi! Ai mà cần đến các vị ấy?” rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Trong khi giới bổn Pātimokkha đang được đọc tụng bởi các vị ấy, có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, giới bổn Pātimokkha nên được đọc tụng lại bởi các vị tỳ khưu ấy. Các vị đọc tụng phạm tội thullaccaya (trọng tội). …(như trên)… có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) tương đương đi đến. …(như trên)… (có số lượng) ít hơn đi đến. Phần đã được đọc tụng là đã được đọc tụng tốt đẹp, phần còn lại nên được lắng nghe. Các vị đọc tụng phạm tội thullaccaya (trọng tội).
Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều vị tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy có dự tính chia rẽ (nghĩ rằng): “Các vị nầy tiêu mất đi! Các vị nầy chết mất đi! Ai mà cần đến các vị ấy?” rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Khi giới bổn Pātimokkha vừa được đọc tụng xong bởi các vị ấy …(như trên)… trong khi hội chúng còn chưa đứng lên …(như trên)… một số thuộc hội chúng đã đứng lên …(như trên)… toàn bộ hội chúng đã đứng lên thì có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, giới bổn Pātimokkha nên được đọc tụng lại bởi các vị ấy. Các vị đọc tụng phạm tội thullaccaya (trọng tội). …(như trên)… có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) tương đương đi đến. …(như trên)… (có số lượng) ít hơn đi đến. Phần đã được đọc tụng là đã được đọc tụng tốt đẹp, sự trong sạch nên được bày tỏ trong sự hiện diện của các vị ấy. Các vị đọc tụng phạm tội thullaccaya (trọng tội).
Dứt mười lăm trường hợp có dự tính chia rẽ.
Dứt bảy mươi lăm trường hợp.
[196] Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều vị tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: “Các vị tỳ khưu thường trú khác đang đi vào trong ranh giới,” …(như trên)… Các vị ấy không biết rằng: “Các vị tỳ khưu thường trú khác đã đi vào trong ranh giới,” …(như trên)… Các vị ấy không nhìn thấy các vị tỳ khưu thường trú khác đang đi vào trong ranh giới, …(như trên)… Các vị ấy không nhìn thấy các vị tỳ khưu thường trú khác đã đi vào trong ranh giới, …(như trên)… Các vị ấy không nghe rằng: “Các vị tỳ khưu thường trú khác đang đi vào trong ranh giới,” …(như trên)… Các vị ấy không nghe rằng: “Các vị tỳ khưu thường trú khác đã đi vào trong ranh giới,” …(như trên)… Theo phương thức của một trăm bảy mươi lăm nhóm ba của vị thường trú với vị thường trú, của vị vãng lai với vị thường trú, của vị thường trú với vị vãng lai, của vị vãng lai với vị vãng lai, theo cách thức thêm vào những phần tương tợ thì tạo ra được bảy trăm nhóm ba.
[197] Này các tỳ khưu, trường hợp ngày mười bốn là của các tỳ khưu thường trú, ngày mười lăm là của các tỳ khưu vãng lai. Nếu các vị thường trú (có số lượng) nhiều hơn thì các vị vãng lai nên thuận theo các vị thường trú. Nếu (có số lượng) bằng nhau thì các vị vãng lai nên thuận theo các vị thường trú. Nếu các vị vãng lai (có số lượng) nhiều hơn thì các vị thường trú nên thuận theo các vị vãng lai.
Này các tỳ khưu, trường hợp ngày mười lăm là của các tỳ khưu thường trú, ngày mười bốn là của các tỳ khưu vãng lai. Nếu các vị thường trú (có số lượng) nhiều hơn thì các vị vãng lai nên thuận theo các vị thường trú. Nếu (có số lượng) bằng nhau thì các vị vãng lai nên thuận theo các vị thường trú. Nếu các vị vãng lai (có số lượng) nhiều hơn thì các vị thường trú nên thuận theo các vị vãng lai.
Này các tỳ khưu, trường hợp ngày đầu tháng là của các tỳ khưu thường trú, ngày mười lăm là của các tỳ khưu vãng lai. Nếu các vị thường trú (có số lượng) nhiều hơn và các vị thường trú không mong muốn thì không nên ban cho sự hợp nhất đến các vị vãng lai; các vị vãng lai nên đi ra khỏi ranh giới rồi lễ Uposatha nên được tiến hành. Nếu (có số lượng) bằng nhau và các vị thường trú không mong muốn thì không nên ban cho sự hợp nhất đến các vị vãng lai; các vị vãng lai nên đi ra khỏi ranh giới rồi lễ Uposatha nên được tiến hành. Nếu các vị vãng lai (có số lượng) nhiều hơn thì các vị thường trú nên ban cho sự hợp nhất đến các vị vãng lai hoặc là nên đi ra khỏi ranh giới.
Này các tỳ khưu, trường hợp ngày mười lăm là của các tỳ khưu thường trú, ngày đầu tháng là của các tỳ khưu vãng lai. Nếu các vị thường trú (có số lượng) nhiều hơn thì các vị vãng lai nên ban cho sự hợp nhất đến các vị thường trú hoặc là nên đi ra khỏi ranh giới. Nếu (có số lượng) bằng nhau thì các vị vãng lai nên ban cho sự hợp nhất đến các vị thường trú hoặc là nên đi ra khỏi ranh giới. Nếu các vị vãng lai (có số lượng) nhiều hơn và các vị vãng lai không mong muốn thì không nên ban cho sự hợp nhất đến các vị thường trú; các vị thường trú nên đi ra khỏi ranh giới rồi lễ Uposatha nên được tiến hành.
[198] Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu vãng lai nhìn thấy sự biểu hiện của việc cư trú, đặc điểm của việc cư trú, hiện tướng của việc cư trú, dấu hiệu của việc cư trú của các tỳ khưu thường trú (như là) giường ghế nệm gối được sắp xếp cẩn thận, nước uống nước rửa khéo được bố trí, phòng ốc được quét dọn sạch sẽ, sau khi nhìn thấy khởi lên nghi ngờ: “Có các vị tỳ khưu thường trú hay không có?” Các vị nghi ngờ nhưng không tìm kiếm, sau khi không tìm kiếm rồi tiến hành lễ Uposatha thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Các vị nghi ngờ rồi tìm kiếm, sau khi tìm kiếm không nhìn thấy, sau khi không nhìn thấy rồi tiến hành lễ Uposatha thì vô tội. Các vị nghi ngờ rồi tìm kiếm, sau khi tìm kiếm thì nhìn thấy, sau khi nhìn thấy rồi tiến hành lễ Uposatha chung thì vô tội. Các vị nghi ngờ rồi tìm kiếm, sau khi tìm kiếm thì nhìn thấy, sau khi nhìn thấy rồi tiến hành lễ Uposatha riêng rẽ thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Các vị nghi ngờ rồi tìm kiếm, sau khi tìm kiếm thì nhìn thấy, sau khi nhìn thấy có dự tính chia rẽ (nói rằng): “Các vị nầy tiêu mất đi! Các vị nầy chết mất đi! Ai mà cần đến các vị ấy?” rồi tiến hành lễ Uposatha thì phạm tội thullaccaya (trọng tội).
Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu vãng lai nghe được sự biểu hiện của việc cư trú, đặc điểm của việc cư trú, hiện tướng của việc cư trú, dấu hiệu của việc cư trú của các tỳ khưu thường trú (như là) tiếng bước chân của những vị đang đi kinh hành, tiếng học bài, tiếng đằng hắng, tiếng hắt hơi, sau khi nghe khởi lên nghi ngờ: “Có các vị tỳ khưu thường trú hay không có?” Các vị nghi ngờ nhưng không tìm kiếm, sau khi không tìm kiếm rồi tiến hành lễ Uposatha thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Các vị nghi ngờ rồi tìm kiếm, sau khi tìm kiếm không nhìn thấy, sau khi không nhìn thấy rồi tiến hành lễ Uposatha thì vô tội. Các vị nghi ngờ rồi tìm kiếm, sau khi tìm kiếm thì nhìn thấy, sau khi nhìn thấy rồi tiến hành lễ Uposatha chung thì vô tội. Các vị nghi ngờ rồi tìm kiếm, sau khi tìm kiếm thì nhìn thấy, sau khi nhìn thấy rồi tiến hành lễ Uposatha riêng rẽ thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Các vị nghi ngờ rồi tìm kiếm, sau khi tìm kiếm thì nhìn thấy, sau khi nhìn thấy có dự tính chia rẽ (nói rằng): “Các vị nầy tiêu mất đi! Các vị nầy chết mất đi! Ai mà cần đến các vị ấy?” rồi tiến hành lễ Uposatha thì phạm tội thullaccaya (trọng tội).
Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu thường trú nhìn thấy sự biểu hiện của việc đi đến, đặc điểm của việc đi đến, hiện tướng của việc đi đến, dấu hiệu của việc đi đến của các tỳ khưu vãng lai (như là) bình bát khác lạ, y khác lạ, tọa cụ khác lạ, sự vung vãi nước rửa các bàn chân, sau khi nhìn thấy khởi lên nghi ngờ: “Có các vị tỳ khưu vãng lai hay không có?” Các vị nghi ngờ nhưng không tìm kiếm, sau khi không tìm kiếm rồi tiến hành lễ Uposatha thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Các vị nghi ngờ rồi tìm kiếm, sau khi tìm kiếm không nhìn thấy, sau khi không nhìn thấy rồi tiến hành lễ Uposatha thì vô tội. Các vị nghi ngờ rồi tìm kiếm, sau khi tìm kiếm thì nhìn thấy, sau khi nhìn thấy rồi tiến hành lễ Uposatha chung thì vô tội. Các vị nghi ngờ rồi tìm kiếm, sau khi tìm kiếm thì nhìn thấy, sau khi nhìn thấy rồi tiến hành lễ Uposatha riêng rẽ thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Các vị nghi ngờ rồi tìm kiếm, sau khi tìm kiếm thì nhìn thấy, sau khi nhìn thấy có dự tính chia rẽ (nói rằng): “Các vị nầy tiêu mất đi! Các vị nầy chết mất đi! Ai mà cần đến các vị ấy?” rồi tiến hành lễ Uposatha thì phạm tội thullaccaya (trọng tội).
Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu thường trú nghe được sự biểu hiện của việc đi đến, đặc điểm của việc đi đến, hiện tướng của việc đi đến, dấu hiệu của việc đi đến của các tỳ khưu vãng lai (như là) tiếng bước chân của các vị đang đi đến, tiếng động gây nên bởi các đôi dép, tiếng đằng hắng, tiếng hắt hơi, sau khi nghe khởi lên nghi ngờ: “Có các vị tỳ khưu vãng lai hay không có?” Các vị nghi ngờ nhưng không tìm kiếm, sau khi không tìm kiếm rồi tiến hành lễ Uposatha thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Các vị nghi ngờ rồi tìm kiếm, sau khi tìm kiếm không nhìn thấy, sau khi không nhìn thấy rồi tiến hành lễ Uposatha thì vô tội. Các vị nghi ngờ rồi tìm kiếm, sau khi tìm kiếm thì nhìn thấy, sau khi nhìn thấy rồi tiến hành lễ Uposatha chung thì vô tội. Các vị nghi ngờ rồi tìm kiếm, sau khi tìm kiếm thì nhìn thấy, sau khi nhìn thấy rồi tiến hành lễ Uposatha riêng rẽ thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Các vị nghi ngờ rồi tìm kiếm, sau khi tìm kiếm thì nhìn thấy, sau khi nhìn thấy có dự tính chia rẽ (nói rằng): “Các vị nầy tiêu mất đi! Các vị nầy chết mất đi! Ai mà cần đến các vị ấy?” rồi tiến hành lễ Uposatha thì phạm tội thullaccaya (trọng tội).
[199] Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu vãng lai nhìn thấy các tỳ khưu thường trú là các vị thuộc nhóm cộng trú khác (nānāsaṃvāsaka). Các vị ấy nhận lầm là thuộc cùng nhóm cộng trú (samānasaṃsāsaka), sau khi nhận lầm là thuộc cùng nhóm cộng trú rồi không hỏi, sau khi không hỏi rồi tiến hành lễ Uposatha chung thì vô tội. …(như trên)… Các vị ấy hỏi, sau khi hỏi vẫn không thay đổi (quan điểm), sau khi không thay đổi (quan điểm) lại tiến hành lễ Uposatha chung thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Các vị ấy hỏi, sau khi hỏi vẫn không thay đổi (quan điểm), sau khi không thay đổi (quan điểm) rồi tiến hành lễ Uposatha riêng rẽ thì vô tội.
Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu vãng lai nhìn thấy các tỳ khưu thường trú là các vị thuộc cùng nhóm cộng trú. Các vị ấy nhận lầm là các vị thuộc nhóm cộng trú khác, sau khi nhận lầm là các vị thuộc nhóm cộng trú khác rồi không hỏi, sau khi không hỏi lại tiến hành lễ Uposatha chung thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Các vị ấy hỏi, sau khi hỏi rồi thay đổi (quan điểm), sau khi thay đổi (quan điểm) lại tiến hành lễ Uposatha riêng rẽ thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Các vị ấy hỏi, sau khi hỏi rồi thay đổi (quan điểm), sau khi thay đổi (quan điểm) rồi tiến hành lễ Uposatha chung thì vô tội.
Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu thường trú nhìn thấy các tỳ khưu vãng lai là các vị thuộc nhóm cộng trú khác. Các vị ấy nhận lầm là các vị thuộc cùng nhóm cộng trú, sau khi nhận lầm là các vị thuộc cùng nhóm cộng trú rồi không hỏi, sau khi không hỏi rồi tiến hành lễ Uposatha chung thì vô tội. Các vị ấy hỏi, sau khi hỏi vẫn không thay đổi (quan điểm), sau khi không thay đổi (quan điểm) lại tiến hành lễ Uposatha chung thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Các vị ấy hỏi, sau khi hỏi vẫn không thay đổi (quan điểm), sau khi không thay đổi (quan điểm) rồi tiến hành lễ Uposatha riêng rẽ thì vô tội.
Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu thường trú nhìn thấy các tỳ khưu vãng lai là các vị thuộc cùng nhóm cộng trú. Các vị ấy nhận lầm là các vị thuộc nhóm cộng trú khác, sau khi nhận lầm là các vị thuộc nhóm cộng trú khác rồi không hỏi, sau khi không hỏi lại tiến hành lễ Uposatha chung thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Các vị ấy hỏi, sau khi hỏi rồi thay đổi (quan điểm), sau khi thay đổi (quan điểm) lại tiến hành lễ Uposatha riêng rẽ thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Các vị ấy hỏi, sau khi hỏi rồi thay đổi (quan điểm), sau khi thay đổi (quan điểm) rồi tiến hành lễ Uposatha chung thì vô tội.
[200] Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Uposatha từ chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ không có tỳ khưu trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Uposatha từ chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỳ khưu trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Uposatha từ chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỳ khưu trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm.
Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Uposatha từ nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ không có tỳ khưu … nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỳ khưu … chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỳ khưu trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm.
Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Uposatha từ chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ không có tỳ khưu … nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỳ khưu … chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỳ khưu trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm.
Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Uposatha từ chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ có tỳ khưu nhưng các tỳ khưu ở nơi ấy là thuộc nhóm cộng trú khác trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Uposatha từ chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nhưng các tỳ khưu ở nơi ấy là thuộc nhóm cộng trú khác trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Uposatha từ chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nhưng các tỳ khưu ở nơi ấy là thuộc nhóm cộng trú khác trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm.
Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Uposatha từ nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ có tỳ khưu … nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu … chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nhưng các tỳ khưu ở nơi ấy là thuộc nhóm cộng trú khác trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm.
Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Uposatha từ chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ có tỳ khưu … nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu … chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nhưng các tỳ khưu ở nơi ấy là thuộc nhóm cộng trú khác trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm.
Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Uposatha từ chỗ trú ngụ có tỳ khưu có thể đi đến chỗ trú ngụ có tỳ khưu và các tỳ khưu ở nơi ấy thuộc cùng nhóm cộng trú, nếu biết rằng: “Ta có thể đi đến nội trong ngày nay.” Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Uposatha từ chỗ trú ngụ có tỳ khưu có thể đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu … chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu và các tỳ khưu ở nơi ấy thuộc cùng nhóm cộng trú, nếu biết rằng: “Ta có thể đi đến nội trong ngày nay.”
Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Uposatha vị tỳ khưu từ nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu có thể đi đến chỗ trú ngụ có tỳ khưu … nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu … chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu và các tỳ khưu ở nơi ấy thuộc cùng nhóm cộng trú, nếu biết rằng: “Ta có thể đi đến nội trong ngày nay.”
Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Uposatha vị tỳ khưu từ chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu có thể đi đến chỗ trú ngụ có tỳ khưu … nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu … chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu và các tỳ khưu ở nơi ấy thuộc cùng nhóm cộng trú, nếu biết rằng: “Ta có thể đi đến nội trong ngày nay.”
[201] Này các tỳ khưu, không nên đọc tụng giới bổn Pātimokkha đến hội chúng đã ngồi xuống có vị tỳ khưu ni; vị nào đọc tụng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, không nên đọc tụng giới bổn Pātimokkha đến hội chúng đã ngồi xuống có cô ni tu tập sự … có vị sa di … có vị sa di ni … có người đã từ bỏ điều học … có vị đã phạm tội cực nặng; vị nào đọc tụng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không nên đọc tụng giới bổn Pātimokkha đến hội chúng đã ngồi xuống có vị bị án treo trong việc không nhìn nhận tội; vị nào đọc tụng thì nên được hành xử theo pháp. Không nên đọc tụng giới bổn Pātimokkha đến hội chúng đã ngồi xuống có vị bị án treo trong việc không sửa chữa lỗi … đến hội chúng đã ngồi xuống có vị bị án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác; vị nào đọc tụng thì nên được hành xử theo pháp.[10]
Này các tỳ khưu, không nên đọc tụng giới bổn Pātimokkha đến hội chúng đã ngồi xuống có kẻ vô căn; vị nào đọc tụng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Không nên đọc tụng giới bổn Pātimokkha đến hội chúng đã ngồi xuống có kẻ trộm tướng mạo (tỳ khưu) … có kẻ đã chuyển sang ngoại đạo … có loài thú … có kẻ giết mẹ … có kẻ giết cha … có kẻ giết A-la-hán … có kẻ làm nhơ nhớp tỳ khưu ni … có kẻ chia rẽ hội chúng … có kẻ làm chảy máu đức Phật … có kẻ lưỡng căn; vị nào đọc tụng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[202] Này các tỳ khưu, lễ Uposatha không nên tiến hành với việc bày tỏ sự trong sạch của vị hành parivāsa, trừ trường hợp tập thể không bị cách ly (avuṭṭhitāya parisāya).[11]
[203] Này các tỳ khưu, không nên tiến hành lễ Uposatha không nhằm ngày Uposatha trừ phi vào lúc hợp nhất hội chúng.
Dứt Chương Uposatha.
Tụng phẩm thứ ba.
Trong chương này có tám mươi sáu sự việc.
******
Tóm lược chương này:
[204]
Vua Bimbisāra
và những người ngoại đạo,
tụ hội lại lặng thinh
giảng Pháp, nơi thanh vắng
giới Pātimokkha
hàng ngày, rồi một lần.
Như là sự hợp nhất,
sự hợp nhất hội chúng
chuyện Maddakucchi.
Ranh giới lớn, giòng sông,
tùy thuận, ở hai nơi,
và các chỗ nhỏ hẹp.
Các vị mới tu lên,
và chuyện thành Vương Xá,
ranh giới lìa xa y,
trước ấn định ranh giới
sau hủy bỏ ranh giới,
ranh làng không ấn định,
việc ném ra bụm nước
ở sông, biển, ao hồ.
Các vị làm gối lên,
cũng như vậy bao trùm.
Bao nhiêu cách hành sự?
Bao nhiêu lối đọc tụng?
Những bọn người lục lâm,
và những lúc không có,
Pháp, Luật, họ hăm dọa,
lại hăm dọa vì Luật,
kết tội xin thỉnh ý,
phản đối việc sai Pháp,
là có bốn năm vị,
quan điểm, có ý định,
và (một thì) khẳng định,
có cư sĩ, chưa thỉnh.
Ở vùng Codanā
vị ấy không biết được,
nhiều vị cũng không biết,
trong ngày, không chịu đi.
Thứ mấy? Có bao nhiêu?
(Khất thực) ở vùng xa,
vị không nhớ thông báo,
rác rưởi, chỗ ngồi, đèn,
các vị đi phương xa,
có vị khác nghe nhiều,
ngay hôm ấy, mùa mưa,
lễ Uposatha,
trong sạch và hành sự,
các thân quyến, Gagga,
bốn, ba, hai, hoặc một,
tội đồng phạm, nhớ ra,
cả hội chúng nghi ngờ,
không biết, vị nghe nhiều.
Nhiều hơn, bằng, ít hơn,
hội chúng chưa đứng lên,
một số đã đứng lên,
tất cả đã đứng lên.
Các vị biết, nghi ngờ,
“Được phép,” rồi hối hận,
đã biết, nhìn, và nghe,
thường trú và vãng lai,
lại mười bốn, mười lăm,
đầu tháng, và mười lăm,
cả hai về hiện tướng
và việc đồng cộng trú.
Vị parivāsa,
ngày Uposatha
không kể đến trường hợp
hội chúng hợp nhất lại.
Những điều tóm tắt này
chia chẻ là đầu mốilàm rõ các vấn đề.
[1] Ngài Buddhaghosa giải thích “mūgasūkarā” là “thūlasarīrasūkarā” (những con heo có thân hình to lớn, thô kệch).
[2] Theo từ điển Pali-English Dictionary của hội Pali Text Society thì 1 yojana có chiều dài khoảng 7 miles, từ điển của Childers thì 12 miles, còn tài liệu The Buddhist Monastic Code cho biết là 10 miles tức vào khoảng 16 km.
[3] Theo lời giải thích của ngài Buddhaghosa, từ chỗ ngài Mahākassapa trú ngụ đến thành Rājagaha là 3 gāvuta (1 gāvuta = 1/4 yojana), như vậy vào khoảng 12 km (tính theo tài liệu The Buddhist Monastic Code). Trong thành Rājagaha có 18 trú xá lớn (mahāvihāra) nhưng có cùng chung một ranh giới do đức Thế Tôn kết. Và Veḷuvana (Trúc Lâm) là chỗ các vị tỳ khưu ở trong ranh giới ấy tụ hội để thực hiện lễ Uposatha. Con sông được đề cập tên là Sippinī phát xuất từ núi Gijjhakūṭa (Linh Thứu) và có giòng chảy rất mạnh.
[4] Các bản dịch tiếng Anh dịch sát theo từ khiến ý nghĩa bị lầm lẫn: “Ranh giới ấy là nơi vị tỳ khưu không xa lìa ba y.” Họ đã dịch đúng theo từ: (từ phủ định) a+vippavāso (sự xa cách, sự vắng mặt) = sự không xa lìa. Các vị tỳ khưu thường nói theo thói quen là “sīmā xa lìa tam y” cũng không được chính xác vì tiếp đầu ngữ “a” nghĩa là không và “vippavāsa” là sự xa lìa, sự vắng mặt. Muốn giải thích trường hợp này phải trở lại giới ưng xả đối trị thứ 2: “… ce bhikkhu ticīvarena vippavaseyya…” và xem “vippavāsa” có ý nghĩa một cách tổng quát là “Sự phạm tội vì xa lìa ba y.” Và “a+vippavāsa” là “Không có+ sự phạm tội vì xa lìa ba y” ở trong ranh giới ấy. Điều này và việc “được phép xa lìa ba y” có sự khác biệt rất rõ rệt.
[5] Ngài Buddhaghosa giải thích 1 abbhantara là 28 hattha (cánh tay). Từ Điển của Childers giải thích hattha là chiều dài tính từ cùi chỏ của cánh tay đến đầu ngón tay út. Tài liệu Buddhist Monastic Code của Thanissaro Bhikkhu cho khoảng cách của 7 abbhantara = 98 mét (1 abbhantara = 14 mét).
[6] Theo ngài Buddhaghosa, khoảng cách là một cánh tay (hattha).
[7] Pāli văn là: “Karotu āyasmā okāsaṃ ahantaṃ vattukāmo.”
[8] Tam Tạng Thái Lan của CD Budsir IV trình bày phần nước uống và nước rửa ở phần cước chú.
[9] Lối xưng hô tỏ vẻ kính trọng “āyasmanto” được các vị tỳ khưu sử dụng trong trường hợp này.
[10] Ba trường hợp này liên quan đến tội pācittiya (ưng đối trị) 69.
[11] Nghĩa là tập thể này không phải là các vị đang chịu hành phạt parivāsa. Chúng tôi chọn nghĩa như trên dựa vào lời giải thích của nhóm từ “vuṭṭhitāya parisāya = với tập thể đã bị cách ly” là “với việc ban cho sự thỏa thuận từcác vị (tỳ khưu) đang chịu hành phạt parivāsa” được tìm thấy ở bộ Phân Tích Giới Tỳ Khưu Ni (Bhikkhunīvibhaṅga [436]). Từ “avut,t,hitāya” còn có nghĩa là “chưa đứng lên, chưa được thoát tội.”
III. CHƯƠNG VÀO MÙA MƯA
(VASSŪPANĀYIKAKKHANDHAKAṂ)
[205] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Rājagaha (Vương Xá), Veḷuvana (Trúc Lâm), nơi nuôi dưỡng các con sóc. Vào lúc bấy giờ, việc cư trú mùa mưa chưa được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu. Trong trường hợp này, các vị tỳ khưu ấy đi du hành trong mùa lạnh, trong mùa nóng, và cả trong mùa mưa nữa. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Tại sao các sa-môn Thích tử lại đi du hành trong mùa lạnh, trong mùa nóng, và cả trong mùa mưa nữa? Các vị đang dẫm đạp lên các loại cỏ xanh, đang hãm hại mạng sống của loài chỉ có một giác quan, và đang gây nên việc giết hại hàng loạt nhiều chúng sanh nhỏ nhoi. Ngay cả các du sĩ ngoại đạo này có giáo lý được thuyết tồi tệ vẫn bám víu và sống cố định trong mùa cư trú mưa, ngay cả những con chim này sau khi làm tổ trên các ngọn cây cũng bám víu và sống cố định trong mùa cư trú mưa; còn các sa-môn Thích tử này lại đi du hành trong mùa lạnh, trong mùa nóng, và cả trong mùa mưa nữa. Các vị đang dẫm đạp lên các loại cỏ xanh, đang hãm hại mạng sống của loài chỉ có một giác quan, và đang gây nên việc giết hại hàng loạt nhiều chúng sanh nhỏ nhoi.
Các tỳ khưu đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, ta cho phép vào mùa (an cư) mưa (vassaṃ).
[206] Khi ấy, các tỳ khưu đã khởi ý điều này: “Khi nào thì nên vào mùa (an cư) mưa?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép vào mùa (an cư) mưa trong mùa mưa.
Sau đó, các tỳ khưu đã khởi ý điều này: “Có bao nhiêu thời điểm vào mùa (an cư) mưa?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, đây là hai thời điểm vào mùa (an cư) mưa: thời điểm trước và thời điểm sau. Thời điểm trước thì nên vào nhằm ngày kế của (ngày trăng tròn) tháng Āsāḷha, thời điểm sau thì nên vào khi (ngày trăng tròn) tháng Āsāḷha đã trôi qua một tháng.[1] Này các tỳ khưu, đây là hai thời điểm vào mùa (an cư) mưa.
[207] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư sau khi đã vào mùa (an cư) mưa vẫn đi du hành trong mùa (an cư) mưa. Dân chúng lại phàn nàn, phê phán, chê bai giống y như thế:
– Tại sao các sa-môn Thích tử lại đi du hành trong mùa lạnh, trong mùa nóng, và cả trong mùa mưa nữa? Các vị đang dẫm đạp lên các loại cỏ xanh, đang hãm hại mạng sống của loài chỉ có một giác quan, và đang gây nên việc giết hại hàng loạt nhiều chúng sanh nhỏ nhoi. Ngay cả các du sĩ ngoại đạo này có giáo lý được thuyết tồi tệ vẫn bám víu và sống cố định trong mùa cư trú mưa, ngay cả những con chim này sau khi làm tổ trên các ngọn cây cũng bám víu và sống cố định trong mùa cư trú mưa; còn các sa-môn Thích tử này lại đi du hành trong mùa lạnh, trong mùa nóng, và cả trong mùa mưa nữa. Các vị đang dẫm đạp lên các loại cỏ xanh, đang hãm hại mạng sống của loài chỉ có một giác quan, và đang gây nên việc giết hại hàng loạt nhiều chúng sanh nhỏ nhoi.
Các tỳ khưu đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư sau khi đã vào mùa (an cư) mưa vẫn đi du hành trong mùa (an cư) mưa?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, sau khi đã vào mùa mưa, không nên không an cư ba tháng thời điểm trước hoặc ba tháng thời điểm sau và không nên ra đi du hành; vị nào ra đi thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[208] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư không chịu vào mùa (an cư) mưa. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên không vào mùa (an cư) mưa; vị nào không vào thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư có ý định không vào mùa (an cư) mưa nên cố tình bỏ đi khỏi chỗ trú ngụ vào ngày (đầu tiên) của thời điểm vào mùa (an cư) mưa. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, vào ngày (đầu tiên) của thời điểm vào mùa (an cư) mưa vị có ý định không vào mùa (an cư) mưa không nên cố tình bỏ đi khỏi chỗ trú ngụ; vị nào bỏ đi thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[209] Vào lúc bấy giờ, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha có ý định dời lại mùa (an cư) mưa nên đã phái sứ giả đến gặp các tỳ khưu nói rằng:
– Nếu các ngài đại đức chờ đợi đến tháng tới rồi mới vào mùa (an cư) mưa?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép thuận theo các vị vua.
[210] Sau đó, khi đã ngự tại thành Rājagaha theo như ý thích đức Thế Tôn đã ra đi du hành đến thành Sāvatthi (Xá Vệ). Trong khi tuần tự du hành, ngài đã ngự đến thành Sāvatthi. Tại nơi đó ở Sāvatthi, đức Thế Tôn ngự tại Jetavana (Kỳ Viên), tu viện của ông Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Độc).
Vào lúc bấy giờ, ở trong xứ Kosala trú xá dành cho hội chúng được cho xây dựng bởi nam cư sĩ Udena. Vị ấy đã phái sứ giả đến gặp các tỳ khưu nói rằng:
– Xin các ngài đại đức hãy đi đến. Tôi muốn cúng dường vật thí, muốn nghe Pháp, và muốn nhìn thấy các vị tỳ khưu.
Các tỳ khưu đã nói như vầy:
– Này đạo hữu, đức Thế Tôn đã quy định rằng: “Sau khi đã vào mùa mưa, không nên không an cư ba tháng thời điểm trước hoặc ba tháng thời điểm sau và không nên ra đi du hành.” Nam cư sĩ Udena hãy chờ đợi trong khi các tỳ khưu sống mùa (an cư) mưa, khi đã sống qua mùa (an cư) mưa rồi (các vị) sẽ đi. Nếu vị ấy có việc cấp bách cần làm thì hãy cho thiết lập trú xá trong sự hiện diện của các tỳ khưu thường trú ở ngay tại nơi ấy.
Nam cư sĩ Udena phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Tại sao trong khi ta đã phái người đi (thỉnh mời), các ngài đại đức lại không đi đến? Mà ta lại là người thí chủ, là người phục vụ, và là người hộ độ hội chúng nữa.
Các tỳ khưu đã nghe được nam cư sĩ Udena phàn nàn, phê phán, chê bai. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, ta cho phép đi khi được thỉnh mời với công việc có thể giải quyết trong bảy ngày của bảy hạng người là tỳ khưu, tỳ khưu ni, cô ni tu tập sự, sa di, sa di ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ, nhưng không (nên đi) khi không được thỉnh mời. Này các tỳ khưu, ta cho phép đi khi được thỉnh mời với công việc có thể giải quyết trong bảy ngày của bảy hạng người này, nhưng không (nên đi) khi không được thỉnh mời. Việc quay trở về nên được thực hiện trong bảy ngày.
Này các tỳ khưu, trường hợp trú xá dành cho hội chúng được cho xây dựng bởi vị nam cư sĩ. Nếu vị ấy phái sứ giả đến gặp các tỳ khưu nói rằng: “Xin các ngài đại đức hãy đi đến. Tôi muốn cúng dường vật thí, muốn nghe Pháp, và muốn nhìn thấy các vị tỳ khưu.” Này các tỳ khưu, nên đi đến khi được thỉnh mời với công việc có thể giải quyết trong bảy ngày, nhưng không (nên đi) khi không được thỉnh mời. Việc quay trở về nên được thực hiện trong bảy ngày.
Này các tỳ khưu, trường hợp nhà một mái dành cho hội chúng được cho xây dựng …(như trên)… tòa nhà dài được cho xây dựng …(như trên)… khu nhà lớn được cho xây dựng …(như trên)… hang động được cho xây dựng …(như trên)… phòng ở được cho xây dựng …(như trên)… cổng ra vào được cho xây dựng …(như trên)… nhà phục vụ được cho xây dựng …(như trên)… nhà đốt lửa được cho xây dựng …(như trên)… nhà làm thành được phép được cho xây dựng …(như trên)… nhà vệ sinh được cho xây dựng …(như trên)… đường kinh hành được cho xây dựng …(như trên)… gian nhà ở đường kinh hành được cho xây dựng …(như trên)… giếng nước được cho xây dựng …(như trên)… gian nhà ở giếng nước được cho xây dựng …(như trên)… phòng tắm hơi được cho xây dựng …(như trên)… gian nhà ở phòng tắm hơi được cho xây dựng …(như trên)… hồ trữ nước được cho xây dựng …(như trên)… mái che được cho xây dựng …(như trên)… tu viện được cho xây dựng …(như trên)… khuôn viên của tu viện được cho xây dựng bởi vị nam cư sĩ. Nếu vị ấy phái sứ giả đến gặp các tỳ khưu nói rằng: “Xin các ngài đại đức hãy đi đến. Tôi muốn cúng dường vật thí, muốn nghe Pháp, và muốn nhìn thấy các vị tỳ khưu.” Này các tỳ khưu, nên đi đến khi được thỉnh mời với công việc có thể giải quyết trong bảy ngày, nhưng không (nên đi) khi không được thỉnh mời. Việc quay trở về nên được thực hiện trong bảy ngày.
Này các tỳ khưu, trường hợp trú xá dành cho nhiều vị tỳ khưu được cho xây dựng …(như trên)… trú xá được cho xây dựng dành cho một vị tỳ khưu. …(như trên)… nhà một mái được cho xây dựng …(như trên)… tòa nhà dài được cho xây dựng …(như trên)… khu nhà lớn được cho xây dựng …(như trên)… hang động được cho xây dựng …(như trên)… phòng ở được cho xây dựng …(như trên)… cổng ra vào được cho xây dựng …(như trên)… nhà phục vụ được cho xây dựng …(như trên)… nhà đốt lửa được cho xây dựng …(như trên)… nhà làm thành được phép được cho xây dựng …(như trên)… nhà vệ sinh được cho xây dựng …(như trên)… đường kinh hành được cho xây dựng …(như trên)… gian nhà ở đường kinh hành được cho xây dựng …(như trên)… giếng nước được cho xây dựng …(như trên)… gian nhà ở giếng nước được cho xây dựng …(như trên)… phòng tắm hơi được cho xây dựng …(như trên)… gian nhà ở phòng tắm hơi được cho xây dựng …(như trên)… hồ trữ nước được cho xây dựng …(như trên)… mái che được cho xây dựng …(như trên)… tu viện được cho xây dựng …(như trên)… khuôn viên của tu viện được cho xây dựng bởi vị nam cư sĩ. Nếu vị ấy phái sứ giả đến gặp các tỳ khưu nói rằng: “Xin các ngài đại đức hãy đi đến. Tôi muốn cúng dường vật thí, muốn nghe Pháp, và muốn nhìn thấy các vị tỳ khưu.” Này các tỳ khưu, nên đi đến khi được thỉnh mời với công việc có thể giải quyết trong bảy ngày, nhưng không (nên đi) khi không được thỉnh mời. Việc quay trở về nên được thực hiện trong bảy ngày.
Này các tỳ khưu, trường hợp trú xá dành cho hội chúng tỳ khưu ni được cho xây dựng …(như trên)… dành cho nhiều vị tỳ khưu ni, dành cho một vị tỳ khưu ni, dành cho nhiều cô ni tu tập sự, dành cho một cô ni tu tập sự, dành cho nhiều vị sa di, dành cho một vị sa di, dành cho nhiều vị sa di ni, dành cho một vị sa di ni …(như trên)… nhà một mái được cho xây dựng …(như trên)… tòa nhà dài được cho xây dựng …(như trên)… khu nhà lớn được cho xây dựng …(như trên)… hang động được cho xây dựng …(như trên)… phòng ở được cho xây dựng …(như trên)… cổng ra vào được cho xây dựng …(như trên)… nhà phục vụ được cho xây dựng …(như trên)… nhà đốt lửa được cho xây dựng …(như trên)… nhà làm thành được phép được cho xây dựng …(như trên)… đường kinh hành được cho xây dựng …(như trên)… gian nhà ở đường kinh hành được cho xây dựng …(như trên)… giếng nước được cho xây dựng …(như trên)… gian nhà ở giếng nước được cho xây dựng …(như trên)… hồ trữ nước được cho xây dựng …(như trên)… mái che được cho xây dựng …(như trên)… tu viện được cho xây dựng …(như trên)… khuôn viên của tu viện được cho xây dựng bởi vị nam cư sĩ.[2] Nếu vị ấy phái sứ giả đến gặp các tỳ khưu[3] nói rằng: “Xin các ngài đại đức hãy đi đến. Tôi muốn cúng dường vật thí, muốn nghe Pháp, và muốn nhìn thấy các vị tỳ khưu.” Này các tỳ khưu, nên đi đến khi được thỉnh mời với công việc có thể giải quyết trong bảy ngày, nhưng không (nên đi) khi không được thỉnh mời. Việc quay trở về nên được thực hiện trong bảy ngày.
Này các tỳ khưu, trường hợp căn nhà được cho xây dựng bởi vị nam cư sĩ vì nhu cầu của bản thân. …(như trên)… phòng ngủ được cho xây dựng …(như trên)… chuồng trại được cho xây dựng …(như trên)… tháp ngắm được cho xây dựng …(như trên)… tòa nhà bốn góc được cho xây dựng …(như trên)… cửa hiệu được cho xây dựng …(như trên)… gian hàng được cho xây dựng …(như trên)… tòa nhà dài được cho xây dựng …(như trên)… khu nhà lớn được cho xây dựng …(như trên)… hang động được cho xây dựng …(như trên)… phòng ở được cho xây dựng …(như trên)… cổng ra vào được cho xây dựng …(như trên)… nhà phục vụ được cho xây dựng …(như trên)… nhà đốt lửa được cho xây dựng …(như trên)… nhà bếp được cho xây dựng …(như trên)… nhà vệ sinh được cho xây dựng …(như trên)… đường kinh hành được cho xây dựng …(như trên)… gian nhà ở đường kinh hành được cho xây dựng …(như trên)… giếng nước được cho xây dựng …(như trên)… gian nhà ở giếng nước được cho xây dựng …(như trên)… phòng tắm hơi được cho xây dựng …(như trên)… gian nhà ở phòng tắm hơi được cho xây dựng …(như trên)… hồ trữ nước được cho xây dựng …(như trên)… mái che được cho xây dựng …(như trên)… khu vườn được cho xây dựng …(như trên)… khuôn viên của khu vườn được cho xây dựng …(như trên)… có đám cưới của con trai hoặc có đám cưới của con gái hoặc vị ấy bị bệnh hoặc vị ấy đọc lại bài kinh nổi tiếng. Nếu vị ấy phái sứ giả đến gặp các tỳ khưu nói rằng: “Xin các ngài đại đức hãy đi đến. Các vị sẽ học bài kinh này trước khi bài kinh này bị quên lãng.” Hoặc vị ấy có công việc gì khác cần phải làm. Nếu vị ấy phái sứ giả đến gặp các tỳ khưu nói rằng: “Xin các ngài đại đức hãy đi đến. Tôi muốn cúng dường vật thí, muốn nghe Pháp, và muốn nhìn thấy các vị tỳ khưu.” Này các tỳ khưu, nên đi đến khi được thỉnh mời với công việc có thể giải quyết trong bảy ngày, nhưng không (nên đi) khi không được thỉnh mời. Việc quay trở về nên được thực hiện trong bảy ngày.
Này các tỳ khưu, trường hợp trú xá dành cho hội chúng được cho xây dựng bởi vị nữ cư sĩ. Nếu người nữ ấy phái sứ giả đến gặp các tỳ khưu nói rằng: “Xin các ngài đại đức hãy đi đến. Tôi muốn cúng dường vật thí, muốn nghe Pháp, và muốn nhìn thấy các vị tỳ khưu.” Này các tỳ khưu, nên đi đến khi được thỉnh mời với công việc có thể giải quyết trong bảy ngày, nhưng không (nên đi) khi không được thỉnh mời. Việc quay trở về nên được thực hiện trong bảy ngày.
Này các tỳ khưu, trường hợp nhà một mái dành cho hội chúng được cho xây dựng …(như trên)… tòa nhà dài được cho xây dựng …(như trên)… khu nhà lớn được cho xây dựng …(như trên)… hang động được cho xây dựng …(như trên)… phòng ở được cho xây dựng …(như trên)… cổng ra vào được cho xây dựng …(như trên)… nhà phục vụ được cho xây dựng …(như trên)… nhà đốt lửa được cho xây dựng …(như trên)… nhà làm thành được phép được cho xây dựng …(như trên)… nhà vệ sinh được cho xây dựng …(như trên)… đường kinh hành được cho xây dựng …(như trên)… gian nhà ở đường kinh hành được cho xây dựng …(như trên)… giếng nước được cho xây dựng …(như trên)… gian nhà ở giếng nước được cho xây dựng …(như trên)… phòng tắm hơi được cho xây dựng …(như trên)… gian nhà ở phòng tắm hơi được cho xây dựng …(như trên)… hồ trữ nước được cho xây dựng …(như trên)… mái che được cho xây dựng …(như trên)… tu viện được cho xây dựng …(như trên)… khuôn viên của tu viện được cho xây dựng bởi vị nữ cư sĩ. Nếu người nữ ấy phái sứ giả đến gặp các tỳ khưu nói rằng: “Xin các ngài đại đức hãy đi đến. Tôi muốn cúng dường vật thí, muốn nghe Pháp, và muốn nhìn thấy các vị tỳ khưu.” Này các tỳ khưu, nên đi đến khi được thỉnh mời với công việc có thể giải quyết trong bảy ngày, nhưng không (nên đi) khi không được thỉnh mời. Việc quay trở về nên được thực hiện trong bảy ngày.
Này các tỳ khưu, trường hợp trú xá dành cho nhiều vị tỳ khưu được cho xây dựng bởi vị nữ cư sĩ. …(như trên)… dành cho một vị tỳ khưu, dành cho hội chúng tỳ khưu ni, dành cho nhiều vị tỳ khưu ni, dành cho một vị tỳ khưu ni, dành cho nhiều cô ni tu tập sự, dành cho một cô ni tu tập sự, dành cho nhiều vị sa di, dành cho một vị sa di, dành cho nhiều vị sa di ni, dành cho một vị sa di ni. …(như trên)… căn nhà được cho xây dựng vì nhu cầu của bản thân. …(như trên)… phòng ngủ được cho xây dựng …(như trên)… chuồng trại được cho xây dựng …(như trên)… tháp ngắm được cho xây dựng …(như trên)… tòa nhà bốn góc được cho xây dựng …(như trên)… cửa hiệu được cho xây dựng …(như trên)… gian hàng được cho xây dựng …(như trên)… tòa nhà dài được cho xây dựng …(như trên)… khu nhà lớn được cho xây dựng …(như trên)… hang động được cho xây dựng …(như trên)… phòng ở được cho xây dựng …(như trên)… cổng ra vào được cho xây dựng …(như trên)… nhà phục vụ được cho xây dựng …(như trên)… nhà đốt lửa được cho xây dựng …(như trên)… nhà bếp được cho xây dựng …(như trên)… nhà vệ sinh được cho xây dựng …(như trên)… đường kinh hành được cho xây dựng …(như trên)… gian nhà ở đường kinh hành được cho xây dựng …(như trên)… giếng nước được cho xây dựng …(như trên)… gian nhà ở giếng nước được cho xây dựng …(như trên)… hồ trữ nước được cho xây dựng …(như trên)… mái che được cho xây dựng …(như trên)… khu vườn được cho xây dựng …(như trên)… khuôn viên của khu vườn được cho xây dựng [4] …(như trên)… có đám cưới của con trai hoặc có đám cưới của con gái hoặc vị ấy bị bệnh hoặc vị ấy đọc lại bài kinh nổi tiếng. Nếu người nữ ấy phái sứ giả đến gặp các tỳ khưu nói rằng: “Xin các ngài đại đức hãy đi đến. Các vị sẽ học bài kinh này trước khi bài kinh này bị quên lãng.” Hoặc người nữ ấy có công việc gì khác cần phải làm. Nếu người nữ ấy phái sứ giả đến gặp các tỳ khưu nói rằng: “Xin các ngài đại đức hãy đi đến. Tôi muốn cúng dường vật thí, muốn nghe Pháp, và muốn nhìn thấy các vị tỳ khưu.” Này các tỳ khưu, nên đi đến khi được thỉnh mời với công việc có thể giải quyết trong bảy ngày, nhưng không (nên đi) khi không được thỉnh mời. Việc quay trở về nên được thực hiện trong bảy ngày.
Này các tỳ khưu, trường hợp trú xá dành cho hội chúng được cho xây dựng bởi vị tỳ khưu, dành cho hội chúng … bởi vị tỳ khưu ni, dành cho hội chúng … bởi cô ni tu tập sự, dành cho hội chúng … bởi vị vị sa di, dành cho hội chúng được cho xây dựng bởi vị sa di ni, dành cho nhiều vị tỳ khưu, dành cho một vị tỳ khưu, dành cho hội chúng tỳ khưu ni, dành cho nhiều vị tỳ khưu ni, dành cho một vị tỳ khưu ni, dành cho nhiều cô ni tu tập sự, dành cho một cô ni tu tập sự, dành cho nhiều vị sa di, dành cho một vị sa di, dành cho nhiều vị sa di ni, dành cho một vị sa di ni, …(như trên)… trú xá vì nhu cầu của bản thân được cho xây dựng …(như trên)… nhà một mái được cho xây dựng …(như trên)… tòa nhà dài được cho xây dựng …(như trên)… khu nhà lớn được cho xây dựng …(như trên)… hang động được cho xây dựng …(như trên)… phòng ở được cho xây dựng …(như trên)… cổng ra vào được cho xây dựng …(như trên)… nhà phục vụ được cho xây dựng …(như trên)… nhà đốt lửa được cho xây dựng …(như trên)… nhà làm thành được phép được cho xây dựng …(như trên)… [5]đường kinh hành được cho xây dựng …(như trên)… gian nhà ở đường kinh hành được cho xây dựng …(như trên)… giếng nước được cho xây dựng …(như trên)… gian nhà ở giếng nước được cho xây dựng …(như trên)… hồ trữ nước được cho xây dựng …(như trên)… mái che được cho xây dựng …(như trên)… tu viện được cho xây dựng …(như trên)… khuôn viên của tu viện được cho xây dựng (bởi vị sa di ni). Nếu cô ấy phái sứ giả đến gặp các tỳ khưu nói rằng: “Xin các ngài đại đức hãy đi đến. Tôi muốn cúng dường vật thí, muốn nghe Pháp, và muốn nhìn thấy các vị tỳ khưu.” Này các tỳ khưu, nên đi đến khi được thỉnh mời với công việc có thể giải quyết trong bảy ngày, nhưng không (nên đi) khi không được thỉnh mời. Việc quay trở về nên được thực hiện trong bảy ngày.
[211] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Vị ấy đã phái sứ giả đi đến gặp các tỳ khưu (nói rằng): “Bởi vì tôi bị bệnh. Xin các vị tỳ khưu hãy đi đến. Tôi mong muốn sự đi đến của các vị tỳ khưu.” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, với công việc có thể giải quyết trong bảy ngày của năm hạng người là tỳ khưu, tỳ khưu ni, cô ni tu tập sự, sa di, sa di ni, ta cho phép đi dầu không được thỉnh mời, nếu được thỉnh mời thì càng tốt. Này các tỳ khưu, với công việc có thể giải quyết trong bảy ngày của năm hạng người này, ta cho phép đi dầu không được thỉnh mời, nếu được thỉnh mời thì càng tốt. Việc quay trở về nên được thực hiện trong bảy ngày.
Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu bị bệnh. Nếu vị ấy phái sứ giả đi đến gặp các tỳ khưu (nói rằng): “Bởi vì tôi bị bệnh. Xin các vị tỳ khưu hãy đi đến. Tôi mong muốn sự đi đến của các vị tỳ khưu.” Này các tỳ khưu, với công việc có thể giải quyết trong bảy ngày thì nên đi dầu không được thỉnh mời, nếu được thỉnh mời thì càng tốt (nghĩ rằng): “Ta sẽ tìm kiếm thức ăn cho người bệnh, hoặc ta sẽ tìm kiếm thức ăn cho người nuôi bệnh, hoặc ta sẽ tìm kiếm dược phẩm cho người bệnh, hoặc ta sẽ hỏi han, hoặc ta sẽ phục vụ.” Việc quay trở về nên được thực hiện trong bảy ngày.
Này các tỳ khưu, trường hợp có sự bực bội sanh khởi đến vị tỳ khưu. Nếu vị ấy phái sứ giả đi đến gặp các tỳ khưu (nói rằng): “Có sự bực bội đã sanh khởi đến tôi. Xin các vị tỳ khưu hãy đi đến. Tôi mong muốn sự đi đến của các vị tỳ khưu.” Này các tỳ khưu, với công việc có thể giải quyết trong bảy ngày thì nên đi dầu không được thỉnh mời, nếu được thỉnh mời thì càng tốt (nghĩ rằng): “Ta sẽ làm dịu đi sự bực bội, hoặc ta sẽ nhờ người làm dịu đi, hoặc ta sẽ thuyết Pháp thoại cho vị ấy.” Việc quay trở về nên được thực hiện trong bảy ngày.
Này các tỳ khưu, trường hợp có sự hối hận sanh khởi đến vị tỳ khưu. Nếu vị ấy phái sứ giả đi đến gặp các tỳ khưu (nói rằng): “Có sự hối hận đã sanh khởi đến tôi. Xin các vị tỳ khưu hãy đi đến. Tôi mong muốn sự đi đến của các vị tỳ khưu.” Này các tỳ khưu, với công việc có thể giải quyết trong bảy ngày thì nên đi dầu không được thỉnh mời, nếu được thỉnh mời thì càng tốt (nghĩ rằng): “Ta sẽ làm cho tan biến sự bực bội, hoặc ta sẽ nhờ người làm cho tan biến, hoặc ta sẽ thuyết Pháp thoại cho vị ấy.” Việc quay trở về nên được thực hiện trong bảy ngày.
Này các tỳ khưu, trường hợp có tà kiến sanh khởi đến vị tỳ khưu. Nếu vị ấy phái sứ giả đi đến gặp các tỳ khưu (nói rằng): “Có tà kiến đã sanh khởi đến tôi. Xin các vị tỳ khưu hãy đi đến. Tôi mong muốn sự đi đến của các vị tỳ khưu.” Này các tỳ khưu, với công việc có thể giải quyết trong bảy ngày thì nên đi dầu không được thỉnh mời, nếu được thỉnh mời thì càng tốt (nghĩ rằng): “Ta sẽ phân giải tà kiến, hoặc ta sẽ nhờ người phân giải, hoặc ta sẽ thuyết Pháp thoại cho vị ấy.” Việc quay trở về nên được thực hiện trong bảy ngày.
Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm tội nặng và là vị xứng đáng hành phạt parivāsa. Nếu vị ấy phái sứ giả đi đến gặp các tỳ khưu (nói rằng): “Bởi vì tôi đã phạm tội nặng và là vị xứng đáng hành phạt parivāsa. Xin các vị tỳ khưu hãy đi đến. Tôi mong muốn sự đi đến của các vị tỳ khưu.” Này các tỳ khưu, với công việc có thể giải quyết trong bảy ngày thì nên đi dầu không được thỉnh mời, nếu được thỉnh mời thì càng tốt (nghĩ rằng): “Ta sẽ nỗ lực về việc ban cho hành phạt parivāsa, hoặc ta sẽ đọc tuyên ngôn, hoặc ta sẽ là người làm cho đủ nhóm.” Việc quay trở về nên được thực hiện trong bảy ngày.
Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu là vị xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu. Nếu vị ấy phái sứ giả đi đến gặp các tỳ khưu (nói rằng): “Bởi vì tôi là vị xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu. Xin các vị tỳ khưu hãy đi đến. Tôi mong muốn sự đi đến của các vị tỳ khưu.” Này các tỳ khưu, với công việc có thể giải quyết trong bảy ngày thì nên đi dầu không được thỉnh mời, nếu được thỉnh mời thì càng tốt (nghĩ rằng): “Ta sẽ nỗ lực về việc ban cho sự (thực hành) trở lại từ đầu, hoặc ta sẽ đọc tuyên ngôn, hoặc ta sẽ là người làm cho đủ nhóm.” Việc quay trở về nên được thực hiện trong bảy ngày.
Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu là vị xứng đáng hành phạt mānatta. Nếu vị ấy phái sứ giả đi đến gặp các tỳ khưu (nói rằng): “Bởi vì tôi là vị xứng đáng hành phạt mānatta. Xin các vị tỳ khưu hãy đi đến. Tôi mong muốn sự đi đến của các vị tỳ khưu.” Này các tỳ khưu, với công việc có thể giải quyết trong bảy ngày thì nên đi dầu không được thỉnh mời, nếu được thỉnh mời thì càng tốt (nghĩ rằng): “Ta sẽ nỗ lực về việc ban cho hành phạt mānatta, hoặc ta sẽ đọc tuyên ngôn, hoặc ta sẽ là người làm cho đủ nhóm.” Việc quay trở về nên được thực hiện trong bảy ngày.
Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu là vị xứng đáng sự giải tội. Nếu vị ấy phái sứ giả đi đến gặp các tỳ khưu (nói rằng): “Bởi vì tôi là vị xứng đáng sự giải tội. Xin các vị tỳ khưu hãy đi đến. Tôi mong muốn sự đi đến của các vị tỳ khưu.” Này các tỳ khưu, với công việc có thể giải quyết trong bảy ngày thì nên đi dầu không được thỉnh mời, nếu được thỉnh mời thì càng tốt (nghĩ rằng): “Ta sẽ nỗ lực về việc giải tội, hoặc ta sẽ đọc tuyên ngôn, hoặc ta sẽ là người làm cho đủ nhóm.” Việc quay trở về nên được thực hiện trong bảy ngày.
Này các tỳ khưu, trường hợp hội chúng có ý định thực thi hành sự khiển trách, hoặc chỉ dạy, hoặc xua đuổi, hoặc hòa giải, hoặc án treo đến vị tỳ khưu. Nếu vị ấy phái sứ giả đi đến gặp các tỳ khưu (nói rằng): “Hội chúng có ý định thực thi hành sự đến tôi. Xin các vị tỳ khưu hãy đi đến. Tôi mong muốn sự đi đến của các vị tỳ khưu.” Này các tỳ khưu, với công việc có thể giải quyết trong bảy ngày thì nên đi dầu không được thỉnh mời, nếu được thỉnh mời thì càng tốt (nghĩ rằng): “Làm thế nào để hội chúng có thể không thực thi hành sự hoặc đổi sang (hành phạt) nhẹ hơn?” Việc quay trở về nên được thực hiện trong bảy ngày.
Hoặc là khi hành sự khiển trách, hoặc chỉ dạy, hoặc xua đuổi, hoặc hòa giải, hoặc án treo đã được thực thi đến vị ấy. Nếu vị ấy phái sứ giả đi đến gặp các tỳ khưu (nói rằng): “Hội chúng đã thực thi hành sự đến tôi. Xin các vị tỳ khưu hãy đi đến. Tôi mong muốn sự đi đến của các vị tỳ khưu.” Này các tỳ khưu, với công việc có thể giải quyết trong bảy ngày thì nên đi dầu không được thỉnh mời, nếu được thỉnh mời thì càng tốt (nghĩ rằng): “Làm thế nào để vị ấy có thể làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, và hội chúng có thể thâu hồi hành sự ấy?” Việc quay trở về nên được thực hiện trong bảy ngày.
Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu ni bị bệnh. Nếu vị ni ấy phái sứ giả đi đến gặp các tỳ khưu (nói rằng): “Bởi vì tôi bị bệnh. Xin các ngài đại đức hãy đi đến. Tôi mong muốn sự đi đến của các ngài đại đức.” Này các tỳ khưu, với công việc có thể giải quyết trong bảy ngày thì nên đi dầu không được thỉnh mời, nếu được thỉnh mời thì càng tốt (nghĩ rằng): “Ta sẽ tìm kiếm thức ăn cho người bệnh, hoặc ta sẽ tìm kiếm thức ăn cho người nuôi bệnh, hoặc ta sẽ tìm kiếm dược phẩm cho người bệnh, hoặc ta sẽ hỏi han, hoặc ta sẽ phục vụ.” Việc quay trở về nên được thực hiện trong bảy ngày.
Này các tỳ khưu, trường hợp có sự bực bội sanh khởi đến vị tỳ khưu ni. Nếu vị ni ấy phái sứ giả đi đến gặp các tỳ khưu (nói rằng): “Có sự bực bội đã sanh khởi đến tôi. Xin các ngài đại đức hãy đi đến. Tôi mong muốn sự đi đến của các ngài đại đức.” Này các tỳ khưu, với công việc có thể giải quyết trong bảy ngày thì nên đi dầu không được thỉnh mời, nếu được thỉnh mời thì càng tốt (nghĩ rằng): “Ta sẽ làm dịu đi sự bực bội, hoặc ta sẽ nhờ người làm dịu đi, hoặc ta sẽ thuyết Pháp thoại cho vị ni ấy.” Việc quay trở về nên được thực hiện trong bảy ngày.
Này các tỳ khưu, trường hợp có sự hối hận sanh khởi đến vị tỳ khưu ni. Nếu vị ni ấy phái sứ giả đi đến gặp các tỳ khưu (nói rằng): “Có sự hối hận đã sanh khởi đến tôi. Xin các ngài đại đức hãy đi đến. Tôi mong muốn sự đi đến của các ngài đại đức.” Này các tỳ khưu, với công việc có thể giải quyết trong bảy ngày thì nên đi dầu không được thỉnh mời, nếu được thỉnh mời thì càng tốt (nghĩ rằng): “Ta sẽ làm cho tan biến sự hối hận, hoặc ta sẽ nhờ người làm cho tan biến, hoặc ta sẽ thuyết Pháp thoại cho vị ni ấy.” Việc quay trở về nên được thực hiện trong bảy ngày.
Này các tỳ khưu, trường hợp có tà kiến sanh khởi đến vị tỳ khưu ni. Nếu vị ni ấy phái sứ giả đi đến gặp các tỳ khưu (nói rằng): “Có tà kiến đã sanh khởi đến tôi. Xin các ngài đại đức hãy đi đến. Tôi mong muốn sự đi đến của các ngài đại đức.” Này các tỳ khưu, với công việc có thể giải quyết trong bảy ngày thì nên đi dầu không được thỉnh mời, nếu được thỉnh mời thì càng tốt (nghĩ rằng): “Ta sẽ phân giải tà kiến, hoặc ta sẽ nhờ người phân giải, hoặc ta sẽ thuyết Pháp thoại cho vị ni ấy.” Việc quay trở về nên được thực hiện trong bảy ngày.
Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu ni phạm tội nặng và là vị xứng đáng hành phạt mānatta. Nếu vị ni ấy phái sứ giả đi đến gặp các tỳ khưu (nói rằng): “Bởi vì tôi là vị đã phạm tội nặng và là vị xứng đáng hành phạt mānatta. Xin các ngài đại đức hãy đi đến. Tôi mong muốn sự đi đến của các ngài đại đức.” Này các tỳ khưu, với công việc có thể giải quyết trong bảy ngày thì nên đi dầu không được thỉnh mời, nếu được thỉnh mời thì càng tốt (nghĩ rằng): “Ta sẽ nỗ lực về việc ban cho hành phạt mānatta.” Việc quay trở về nên được thực hiện trong bảy ngày.
Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu ni là vị xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu. Nếu vị ni ấy phái sứ giả đi đến gặp các tỳ khưu (nói rằng): “Bởi vì tôi là vị xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu. Xin các ngài đại đức hãy đi đến. Tôi mong muốn sự đi đến của các ngài đại đức.” Này các tỳ khưu, với công việc có thể giải quyết trong bảy ngày thì nên đi dầu không được thỉnh mời, nếu được thỉnh mời thì càng tốt (nghĩ rằng): “Ta sẽ nỗ lực về việc ban cho sự (thực hành) trở lại từ đầu.” Việc quay trở về nên được thực hiện trong bảy ngày.
Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu ni là vị xứng đáng sự giải tội. Nếu vị ni ấy phái sứ giả đi đến gặp các tỳ khưu (nói rằng): “Bởi vì tôi là vị xứng đáng sự giải tội. Xin các ngài đại đức hãy đi đến. Tôi mong muốn sự đi đến của các ngài đại đức.” Này các tỳ khưu, với công việc có thể giải quyết trong bảy ngày thì nên đi dầu không được thỉnh mời, nếu được thỉnh mời thì càng tốt (nghĩ rằng): “Ta sẽ nỗ lực về việc giải tội.” Việc quay trở về nên được thực hiện trong bảy ngày.
Này các tỳ khưu, trường hợp hội chúng có ý định thực thi hành sự khiển trách, hoặc chỉ dạy, hoặc xua đuổi, hoặc hòa giải, hoặc án treo đến vị tỳ khưu ni. Nếu vị ni ấy phái sứ giả đi đến gặp các tỳ khưu (nói rằng): “Hội chúng có ý định thực thi hành sự đến tôi. Xin các ngài đại đức hãy đi đến. Tôi mong muốn sự đi đến của các ngài đại đức.” Này các tỳ khưu, với công việc có thể giải quyết trong bảy ngày thì nên đi dầu không được thỉnh mời, nếu được thỉnh mời thì càng tốt (nghĩ rằng): “Làm thế nào để hội chúng có thể không thực thi hành sự hoặc đổi sang (hành phạt) nhẹ hơn?” Việc quay trở về nên được thực hiện trong bảy ngày.
Hoặc là khi hành sự khiển trách, hoặc chỉ dạy, hoặc xua đuổi, hoặc hòa giải, hoặc án treo đã được thực thi đến vị ni ấy. Nếu vị ni ấy phái sứ giả đi đến gặp các tỳ khưu (nói rằng): “Hội chúng đã thực thi hành sự đến tôi. Xin các ngài đại đức hãy đi đến. Tôi mong muốn sự đi đến của các ngài đại đức.” Này các tỳ khưu, với công việc có thể giải quyết trong bảy ngày thì nên đi dầu không được thỉnh mời, nếu được thỉnh mời thì càng tốt (nghĩ rằng): “Làm thế nào để vị ấy có thể làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, và hội chúng có thể thâu hồi hành sự ấy?” Việc quay trở về nên được thực hiện trong bảy ngày.
Này các tỳ khưu, trường hợp vị ni tu tập sự bị bệnh. Nếu vị ni ấy phái sứ giả đi đến gặp các tỳ khưu (nói rằng): “Bởi vì tôi bị bệnh. Xin các ngài đại đức hãy đi đến. Tôi mong muốn sự đi đến của các ngài đại đức.” Này các tỳ khưu, với công việc có thể giải quyết trong bảy ngày thì nên đi dầu không được thỉnh mời, nếu được thỉnh mời thì càng tốt (nghĩ rằng): “Ta sẽ tìm kiếm thức ăn cho người bệnh, hoặc ta sẽ tìm kiếm thức ăn cho người nuôi bệnh, hoặc ta sẽ tìm kiếm dược phẩm cho người bệnh, hoặc ta sẽ hỏi han, hoặc ta sẽ phục vụ.” Việc quay trở về nên được thực hiện trong bảy ngày.
Này các tỳ khưu, trường hợp có sự bực bội sanh khởi …(như trên)… có sự hối hận sanh khởi …(như trên)… có tà kiến sanh khởi đến vị ni tu tập sự. …(như trên)… (vị ni tu tập sự) có các điều học bị gián đoạn. Nếu vị ni ấy phái sứ giả đi đến gặp các tỳ khưu (nói rằng): “Các điều học của tôi bị gián đoạn. Xin các ngài đại đức hãy đi đến. Tôi mong muốn sự đi đến của các ngài đại đức.” Này các tỳ khưu, với công việc có thể giải quyết trong bảy ngày thì nên đi dầu không được thỉnh mời, nếu được thỉnh mời thì càng tốt (nghĩ rằng): “Ta sẽ nỗ lực về việc thọ trì các điều học.” Việc quay trở về nên được thực hiện trong bảy ngày.
Này các tỳ khưu, trường hợp vị ni tu tập sự có ý muốn được tu lên bậc trên. Nếu vị ni ấy phái sứ giả đi đến gặp các tỳ khưu (nói rằng): “Bởi vì tôi có ý muốn được tu lên bậc trên. Xin các ngài đại đức hãy đi đến. Tôi mong muốn sự đi đến của các ngài đại đức.” Này các tỳ khưu, với công việc có thể giải quyết trong bảy ngày thì nên đi dầu không được thỉnh mời, nếu được thỉnh mời thì càng tốt (nghĩ rằng): “Ta sẽ nỗ lực về việc tu lên bậc trên, hoặc ta sẽ đọc tuyên ngôn, hoặc ta sẽ là người làm cho đủ nhóm.” Việc quay trở về nên được thực hiện trong bảy ngày.
Này các tỳ khưu, trường hợp vị sa di bị bệnh. Nếu vị ấy phái sứ giả đi đến gặp các tỳ khưu (nói rằng): “Bởi vì tôi bị bệnh. Xin các vị tỳ khưu hãy đi đến. Tôi mong muốn sự đi đến của các vị tỳ khưu.” Này các tỳ khưu, với công việc có thể giải quyết trong bảy ngày thì nên đi dầu không được thỉnh mời, nếu được thỉnh mời thì càng tốt (nghĩ rằng): “Ta sẽ tìm kiếm thức ăn cho người bệnh, hoặc ta sẽ tìm kiếm thức ăn cho người nuôi bệnh, hoặc ta sẽ tìm kiếm dược phẩm cho người bệnh, hoặc ta sẽ hỏi han, hoặc ta sẽ phục vụ.” Việc quay trở về nên được thực hiện trong bảy ngày.
Này các tỳ khưu, trường hợp có sự bực bội sanh khởi …(như trên)… có sự hối hận sanh khởi …(như trên)… có tà kiến sanh khởi đến vị sa di. …(như trên)… vị sa di có ý muốn hỏi về mùa (an cư) mưa. Nếu vị ấy phái sứ giả đi đến gặp các tỳ khưu (nói rằng): “Bởi vì tôi có ý muốn hỏi về mùa (an cư) mưa. Xin các vị tỳ khưu hãy đi đến. Tôi mong muốn sự đi đến của các vị tỳ khưu.” Này các tỳ khưu, với công việc có thể giải quyết trong bảy ngày thì nên đi dầu không được thỉnh mời, nếu được thỉnh mời thì càng tốt (nghĩ rằng): “Ta sẽ hỏi hoặc ta sẽ giảng giải.” Việc quay trở về nên được thực hiện trong bảy ngày.
Này các tỳ khưu, trường hợp vị sa di có ý muốn được tu lên bậc trên. Nếu vị ấy phái sứ giả đi đến gặp các tỳ khưu (nói rằng): “Bởi vì tôi có ý muốn được tu lên bậc trên. Xin các vị tỳ khưu hãy đi đến. Tôi mong muốn sự đi đến của các vị tỳ khưu.” Này các tỳ khưu, với công việc có thể giải quyết trong bảy ngày thì nên đi dầu không được thỉnh mời, nếu được thỉnh mời thì càng tốt (nghĩ rằng): “Ta sẽ nỗ lực về việc tu lên bậc trên, hoặc ta sẽ đọc tuyên ngôn, hoặc ta sẽ là người làm cho đủ nhóm.” Việc quay trở về nên được thực hiện trong bảy ngày.
Này các tỳ khưu, trường hợp vị sa di ni bị bệnh. Nếu vị ni ấy phái sứ giả đi đến gặp các tỳ khưu (nói rằng): “Bởi vì tôi bị bệnh. Xin các ngài đại đức hãy đi đến. Tôi mong muốn sự đi đến của các ngài đại đức.” Này các tỳ khưu, với công việc có thể giải quyết trong bảy ngày thì nên đi dầu không được thỉnh mời, nếu được thỉnh mời thì càng tốt (nghĩ rằng): “Ta sẽ tìm kiếm thức ăn cho người bệnh, hoặc ta sẽ tìm kiếm thức ăn cho người nuôi bệnh, hoặc ta sẽ tìm kiếm dược phẩm cho người bệnh, hoặc ta sẽ hỏi han, hoặc ta sẽ phục vụ.” Việc quay trở về nên được thực hiện trong bảy ngày.
Này các tỳ khưu, trường hợp có sự bực bội sanh khởi …(như trên)… có sự hối hận sanh khởi …(như trên)… có tà kiến sanh khởi đến vị sa di ni. …(như trên)… vị sa di ni có ý muốn hỏi về mùa (an cư) mưa. …(như trên)… có ý muốn thọ trì điều học. Nếu vị ni ấy phái sứ giả đi đến gặp các tỳ khưu (nói rằng): “Bởi vì tôi có ý muốn thọ trì điều học. Xin các ngài đại đức hãy đi đến. Tôi mong muốn sự đi đến của các ngài đại đức.” Này các tỳ khưu, với công việc có thể giải quyết trong bảy ngày thì nên đi dầu không được thỉnh mời, nếu được thỉnh mời thì càng tốt (nghĩ rằng): “Ta sẽ nỗ lực về việc thọ trì các điều học.” Việc quay trở về nên được thực hiện trong bảy ngày.
[212] Vào lúc bấy giờ, người mẹ của vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Bà ấy đã nhờ sứ giả đi đến gặp người con trai (nói rằng): “Bởi vì tôi bị bệnh. Tôi mong muốn sự đi đến của đứa con trai.” Khi ấy, vị tỳ khưu ấy đã khởi ý điều này: “Đức Thế Tôn đã quy định với công việc có thể giải quyết trong bảy ngày của bảy hạng người thì nên đi khi được thỉnh mời,, nhưng không (nên đi) khi không được thỉnh mời. Với công việc có thể giải quyết trong bảy ngày của năm hạng người thì nên đi dầu không được thỉnh mời, nếu được thỉnh mời thì càng tốt,’ và người này là mẹ của ta lại bị bệnh. Bà ta không phải là nữ cư sĩ, vậy ta nên thực hành như thế nào?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép với công việc có thể giải quyết trong bảy ngày của bảy hạng người là tỳ khưu, tỳ khưu ni, cô ni tu tập sự, sa di, sa di ni, mẹ, và cha thì được đi dầu không được thỉnh mời, nếu được thỉnh mời thì càng tốt. Này các tỳ khưu, ta cho phép với công việc có thể giải quyết trong bảy ngày của bảy hạng người này thì được đi dầu không được thỉnh mời, nếu được thỉnh mời thì càng tốt. Việc quay trở về nên được thực hiện trong bảy ngày.
Này các tỳ khưu, trường hợp người mẹ của vị tỳ khưu bị bệnh. Nếu bà ấy nhờ sứ giả đi đến gặp người con trai (nói rằng): “Bởi vì tôi bị bệnh. Con trai của tôi hãy đi đến. Tôi mong muốn sự đi đến của đứa con trai.” Này các tỳ khưu, với công việc có thể giải quyết trong bảy ngày thì nên đi dầu không được thỉnh mời, nếu được thỉnh mời thì càng tốt (nghĩ rằng): “Ta sẽ tìm kiếm thức ăn cho người bệnh, hoặc ta sẽ tìm kiếm thức ăn cho người nuôi bệnh, hoặc ta sẽ tìm kiếm dược phẩm cho người bệnh, hoặc ta sẽ hỏi han, hoặc ta sẽ phục vụ.” Việc quay trở về nên được thực hiện trong bảy ngày.
Này các tỳ khưu, trường hợp người cha của vị tỳ khưu bị bệnh. Nếu ông ấy nhờ sứ giả đi đến gặp người con trai (nói rằng): “Bởi vì tôi bị bệnh. Con trai của tôi hãy đi đến. Tôi mong muốn sự đi đến của đứa con trai.” Này các tỳ khưu, với công việc có thể giải quyết trong bảy ngày thì nên đi dầu không được thỉnh mời, nếu được thỉnh mời thì càng tốt (nghĩ rằng): “Ta sẽ tìm kiếm thức ăn cho người bệnh, hoặc ta sẽ tìm kiếm thức ăn cho người nuôi bệnh, hoặc ta sẽ tìm kiếm dược phẩm cho người bệnh, hoặc ta sẽ hỏi han, hoặc ta sẽ phục vụ.” Việc quay trở về nên được thực hiện trong bảy ngày.
Này các tỳ khưu, trường hợp người anh (em) trai của vị tỳ khưu bị bệnh. Nếu người ấy nhờ sứ giả đi đến gặp người con trai (nói rằng): “Bởi vì tôi bị bệnh. Anh (em) trai của tôi hãy đi đến. Tôi mong muốn sự đi đến của người anh (em) trai.” Này các tỳ khưu, với công việc có thể giải quyết trong bảy ngày thì nên đi nếu được thỉnh mời, không (nên đi) khi không được thỉnh mời. Việc quay trở về nên được thực hiện trong bảy ngày.
Này các tỳ khưu, trường hợp người chị (em) gái của vị tỳ khưu bị bệnh. Nếu cô ấy nhờ sứ giả đi đến gặp vị tỳ khưu (nói rằng): “Bởi vì tôi bị bệnh. Anh (em) trai của tôi hãy đi đến. Tôi mong muốn sự đi đến của người anh (em) trai.” Này các tỳ khưu, với công việc có thể giải quyết trong bảy ngày thì nên đi nếu được thỉnh mời, không (nên đi) khi không được thỉnh mời. Việc quay trở về nên được thực hiện trong bảy ngày.
Này các tỳ khưu, trường hợp thân quyến của vị tỳ khưu bị bệnh. Nếu người ấy nhờ sứ giả đi đến gặp vị tỳ khưu (nói rằng): “Bởi vì tôi bị bệnh. Đại đức hãy đi đến. Tôi mong muốn sự đi đến của đại đức.” Này các tỳ khưu, với công việc có thể giải quyết trong bảy ngày thì nên đi nếu được thỉnh mời, không (nên đi) khi không được thỉnh mời. Việc quay trở về nên được thực hiện trong bảy ngày.
Này các tỳ khưu, trường hợp người làm công việc cho vị tỳ khưu (bhikkhussa bhatiko) bị bệnh. Nếu người ấy nhờ sứ giả đi đến gặp vị tỳ khưu (nói rằng): “Bởi vì tôi bị bệnh. Các vị tỳ khưu hãy đi đến. Tôi mong muốn sự đi đến của các vị tỳ khưu.” Này các tỳ khưu, với công việc có thể giải quyết trong bảy ngày thì nên đi nếu được thỉnh mời, không (nên đi) khi không được thỉnh mời. Việc quay trở về nên được thực hiện trong bảy ngày.
[213] Vào lúc bấy giờ, trú xá lớn của hội chúng bị sụp đổ. Có nam cư sĩ nọ đã cho xẻ một số gỗ ở trong rừng. Người ấy đã phái sứ giả đi đến gặp các tỳ khưu (nói rằng): “Nếu các đại đức có thể chuyển đi số gỗ ấy thì tôi sẽ dâng số gỗ ấy.” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép đi với công việc cần phải làm của hội chúng. Việc quay trở về nên được thực hiện trong bảy ngày.
Dứt tụng phẩm “Việc Cư Trú Mùa Mưa” là phần thứ nhất.
[214] Vào lúc bấy giờ, tại trú xứ nọ ở trong xứ Kosala, các vị tỳ khưu đã vào mùa (an cư) mưa bị khuấy nhiễu bởi các thú dữ. Chúng đã vồ lấy, chúng đã giết hại. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, trường hợp các vị tỳ khưu đã vào mùa (an cư) mưa bị khuấy nhiễu bởi các thú dữ. Chúng vồ lấy, chúng giết hại. (Nghĩ rằng): “Chính điều này là sự chướng ngại!” rồi nên ra đi. Vô tội cho việc đứt mùa (an cư) mưa.
Trường hợp các vị tỳ khưu đã vào mùa (an cư) mưa bị khuấy nhiễu bởi các loài rắn. Chúng cắn, chúng giết hại. (Nghĩ rằng): “Chính điều này là sự chướng ngại!” rồi nên ra đi. Vô tội cho việc đứt mùa (an cư) mưa.
Trường hợp các vị tỳ khưu đã vào mùa (an cư) mưa bị khuấy nhiễu bởi những kẻ trộm cướp. Chúng cướp đoạt, chúng đánh đập. (Nghĩ rằng): “Chính điều này là sự chướng ngại!” rồi nên ra đi. Vô tội cho việc đứt mùa (an cư) mưa.
Trường hợp các vị tỳ khưu đã vào mùa (an cư) mưa bị khuấy nhiễu bởi các yêu tinh. Chúng nhập vào (thân), chúng đoạt lấy (thân). (Nghĩ rằng): “Chính điều này là sự chướng ngại!” rồi nên ra đi. Vô tội cho việc đứt mùa (an cư) mưa.
Trường hợp ngôi làng mà các vị tỳ khưu đã vào mùa (an cư) mưa bị lửa đốt cháy. Các vị tỳ khưu bị khó nhọc bởi đồ ăn khất thực. (Nghĩ rằng): “Chính điều này là sự chướng ngại!” rồi nên ra đi. Vô tội cho việc đứt mùa (an cư) mưa.
Trường hợp chỗ trú ngụ mà các vị tỳ khưu đã vào mùa (an cư) mưa bị lửa đốt cháy. Các vị tỳ khưu bị khó nhọc với việc nằm ngồi . (Nghĩ rằng): “Chính điều này là sự chướng ngại!” rồi nên ra đi. Vô tội cho việc đứt mùa (an cư) mưa.
Trường hợp ngôi làng mà các vị tỳ khưu đã vào mùa (an cư) mưa bị nước ngập. Các vị tỳ khưu bị khó nhọc bởi đồ ăn khất thực. (Nghĩ rằng): “Chính điều này là sự chướng ngại!” rồi nên ra đi. Vô tội cho việc đứt mùa (an cư) mưa.
Trường hợp chỗ trú ngụ mà các vị tỳ khưu đã vào mùa (an cư) mưa bị nước ngập. Các vị tỳ khưu bị khó nhọc với việc nằm ngồi . (Nghĩ rằng): “Chính điều này là sự chướng ngại!” rồi nên ra đi. Vô tội cho việc đứt mùa (an cư) mưa.
[215] Vào lúc bấy giờ, ngôi làng mà các vị tỳ khưu đã vào mùa (an cư) mưa ở tại trú xứ nọ đã di chuyển vì bọn trộm cướp. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép đi đến ngôi làng.[6]
Ngôi làng đã bị tách ra làm hai. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép đi đến nhóm đông hơn.
Nhóm đông hơn không có đức tin, không có ngưỡng mộ. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép đi đến nhóm có niềm tin đã được an trú.
[216] Vào lúc bấy giờ, tại trú xứ nọ trong xứ Kosala các vị tỳ khưu vào mùa (an cư) mưa đã không nhận được đầy đủ theo nhu cầu về thức ăn thô thiển hoặc thượng hạng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, trường hợp các vị tỳ khưu đã vào mùa (an cư) mưa không nhận được đầy đủ theo nhu cầu về thức ăn thô thiển hoặc thượng hạng. (Nghĩ rằng): “Chính điều này là sự chướng ngại!” rồi nên ra đi. Vô tội cho việc đứt mùa (an cư) mưa.
Này các tỳ khưu, trường hợp các vị tỳ khưu đã vào mùa (an cư) mưa nhận được đầy đủ theo nhu cầu về thức ăn thô thiển hoặc thượng hạng, (nhưng) không nhận được thức ăn thích hợp. (Nghĩ rằng): “Chính điều này là sự chướng ngại!” rồi nên ra đi. Vô tội cho việc đứt mùa (an cư) mưa.
Này các tỳ khưu, trường hợp các vị tỳ khưu đã vào mùa (an cư) mưa nhận được đầy đủ theo nhu cầu về thức ăn thô thiển hoặc thượng hạng, nhận được thức ăn thích hợp, (nhưng) không nhận được dược phẩm thích hợp. (Nghĩ rằng): “Chính điều này là sự chướng ngại!” rồi nên ra đi. Vô tội cho việc đứt mùa (an cư) mưa.
Này các tỳ khưu, trường hợp các vị tỳ khưu đã vào mùa (an cư) mưa nhận được đầy đủ theo nhu cầu về thức ăn thô thiển hoặc thượng hạng, nhận được thức ăn thích hợp, nhận được dược phẩm thích hợp, (nhưng) không nhận được người phục vụ (upaṭṭhāko) phù hợp. (Nghĩ rằng): “Chính điều này là sự chướng ngại!” rồi nên ra đi. Vô tội cho việc đứt mùa (an cư) mưa.
Này các tỳ khưu, trường hợp người phụ nữ thỉnh mời vị tỳ khưu đã vào mùa (an cư) mưa (nói rằng): “Thưa ngài, hãy đến, tôi cho ngài vàng, hoặc tôi cho ngài vàng nén, hoặc tôi cho ngài ruộng, hoặc tôi cho ngài vườn, hoặc tôi cho ngài bò đực, hoặc tôi cho ngài bò cái, hoặc tôi cho ngài tôi trai, hoặc tôi cho ngài tớ gái, hoặc tôi cho ngài con gái ruột để làm vợ, hoặc tôi trở thành vợ của ngài, hoặc tôi đưa đến cho ngài người vợ khác.” Trường hợp ấy, nếu vị tỳ khưu khởi ý như vầy: “Đức Thế Tôn đã nói rằng: ‘Tâm thay đổi nhanh chóng,’ (việc này) có thể là nguy hiểm cho Phạm hạnh của ta” rồi nên ra đi. Vô tội cho việc đứt mùa (an cư) mưa.
Này các tỳ khưu, trường hợp cô gái điếm thỉnh mời vị tỳ khưu đã vào mùa (an cư) mưa …(như trên)… cô gái lở thời thỉnh mời, kẻ vô căn thỉnh mời, các thân quyến thỉnh mời, các vị vua thỉnh mời, những kẻ trộm cướp thỉnh mời, những kẻ vô lại thỉnh mời rằng: “Thưa ngài, hãy đến, chúng tôi cho ngài vàng, hoặc chúng tôi cho ngài vàng nén, hoặc chúng tôi cho ngài ruộng, hoặc chúng tôi cho ngài vườn, hoặc chúng tôi cho ngài bò đực, hoặc chúng tôi cho ngài bò cái, hoặc chúng tôi cho ngài tôi trai, hoặc chúng tôi cho ngài tớ gái, hoặc chúng tôi cho ngài con gái ruột để làm vợ, hoặc chúng tôi đưa đến cho ngài người vợ khác.” Trường hợp ấy, nếu vị tỳ khưu khởi ý như vầy: “Đức Thế Tôn đã nói rằng: ‘Tâm thay đổi nhanh chóng,’ (việc này) có thể là nguy hiểm cho Phạm hạnh của ta” rồi nên ra đi. Vô tội cho việc đứt mùa (an cư) mưa.
Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu đã vào mùa (an cư) mưa nhìn thấy của chôn giấu không có chủ. Trường hợp ấy, nếu vị tỳ khưu khởi ý như vầy: “Đức Thế Tôn đã nói rằng: ‘Tâm thay đổi nhanh chóng,’ (việc này) có thể là nguy hiểm cho Phạm hạnh của ta” rồi nên ra đi. Vô tội cho việc đứt mùa (an cư) mưa.
Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu đã vào mùa (an cư) mưa nhìn thấy nhiều vị tỳ khưu đang ra sức chia rẽ hội chúng. Trường hợp ấy, nếu vị tỳ khưu khởi ý như vầy: “Đức Thế Tôn đã nói rằng việc chia rẽ hội chúng là nghiêm trọng, hội chúng chớ có bị chia rẽ trong khi ta còn hiện diện” rồi nên ra đi. Vô tội cho việc đứt mùa (an cư) mưa.
Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu đã vào mùa (an cư) mưa nghe được rằng: “Nghe nói nhiều vị tỳ khưu ra sức chia rẽ hội chúng.” Trường hợp ấy, nếu vị tỳ khưu khởi ý như vầy: “Đức Thế Tôn đã nói rằng việc chia rẽ hội chúng là nghiêm trọng, hội chúng chớ có bị chia rẽ trong khi ta còn hiện diện” rồi nên ra đi. Vô tội cho việc đứt mùa (an cư) mưa.
Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu đã vào mùa (an cư) mưa nghe được rằng: “Nghe nói ở trú xứ kia nhiều vị tỳ khưu ra sức chia rẽ hội chúng.” Trường hợp ấy, nếu vị tỳ khưu khởi ý như vầy: “Các vị tỳ khưu ấy là bạn của ta, ta sẽ nói với họ rằng: ‘Này các đại đức, đức Thế Tôn đã nói rằng việc chia rẽ hội chúng là nghiêm trọng, các đại đức chớ có thích thú với việc chia rẽ hội chúng.’ Họ sẽ làm theo lời nói của ta, họ sẽ lắng nghe, họ sẽ để vào tai” rồi nên ra đi. Vô tội cho việc đứt mùa (an cư) mưa.
Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu đã vào mùa (an cư) mưa nghe được rằng: “Nghe nói ở trú xứ kia nhiều vị tỳ khưu ra sức chia rẽ hội chúng.” Trường hợp ấy, nếu vị tỳ khưu khởi ý như vầy: “Các vị tỳ khưu ấy không phải là bạn của ta, tuy nhiên những người bạn của những người ấy là bạn của ta. Vậy ta sẽ nói với những người bạn của ta, khi họ đã được nói, họ sẽ nói với những người ấy rằng: ‘Này các đại đức, đức Thế Tôn đã nói rằng việc chia rẽ hội chúng là nghiêm trọng, các đại đức chớ có thích thú với việc chia rẽ hội chúng.’ Họ sẽ làm theo lời nói của ta, họ sẽ lắng nghe, họ sẽ để vào tai” rồi nên ra đi. Vô tội cho việc đứt mùa (an cư) mưa.
Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu đã vào mùa (an cư) mưa nghe được rằng: “Nghe nói ở trú xứ kia nhiều vị tỳ khưu đã chia rẽ hội chúng.” Trường hợp ấy, nếu vị tỳ khưu khởi ý như vầy: “Các vị tỳ khưu ấy là bạn của ta, ta sẽ nói với họ rằng: ‘Này các đại đức, đức Thế Tôn đã nói rằng việc chia rẽ hội chúng là nghiêm trọng, các đại đức chớ có thích thú với việc chia rẽ hội chúng.’ Họ sẽ làm theo lời nói của ta, họ sẽ lắng nghe, họ sẽ để vào tai” rồi nên ra đi. Vô tội cho việc đứt mùa (an cư) mưa.
Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu đã vào mùa (an cư) mưa nghe được rằng: “Nghe nói ở trú xứ kia nhiều vị tỳ khưu đã chia rẽ hội chúng.” Trường hợp ấy, nếu vị tỳ khưu khởi ý như vầy: “Các vị tỳ khưu ấy không phải là bạn của ta, tuy nhiên những người bạn của những người ấy là bạn của ta. Vậy ta sẽ nói với những người bạn của ta, khi họ đã được nói, họ sẽ nói với những người ấy rằng: ‘Này các đại đức, đức Thế Tôn đã nói rằng việc chia rẽ hội chúng là nghiêm trọng, các đại đức chớ có thích thú với việc chia rẽ hội chúng.’ Họ sẽ làm theo lời nói của ta, họ sẽ lắng nghe, họ sẽ để vào tai” rồi nên ra đi. Vô tội cho việc đứt mùa (an cư) mưa.
Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu đã vào mùa (an cư) mưa nghe được rằng: “Nghe nói ở trú xứ kia nhiều vị tỳ khưu ni ra sức chia rẽ hội chúng.” Trường hợp ấy, nếu vị tỳ khưu khởi ý như vầy: “Các vị tỳ khưu ni ấy là bạn của ta, ta sẽ nói với các cô ấy rằng: ‘Này các chị gái, đức Thế Tôn đã nói rằng việc chia rẽ hội chúng là nghiêm trọng, các chị gái chớ có thích thú với việc chia rẽ hội chúng.’ Họ sẽ làm theo lời nói của ta, họ sẽ lắng nghe, họ sẽ để vào tai” rồi nên ra đi. Vô tội cho việc đứt mùa (an cư) mưa.
Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu đã vào mùa (an cư) mưa nghe được rằng: “Nghe nói ở trú xứ kia nhiều vị tỳ khưu ni ra sức chia rẽ hội chúng.” Trường hợp ấy, nếu vị tỳ khưu khởi ý như vầy: “Các vị tỳ khưu ni ấy không phải là bạn của ta, tuy nhiên các cô bạn của những cô ấy là bạn của ta. Vậy ta sẽ nói với các cô bạn của ta, khi họ đã được nói, họ sẽ nói với những cô ấy rằng: ‘Này các chị gái, đức Thế Tôn đã nói rằng việc chia rẽ hội chúng là nghiêm trọng, các chị gái chớ có thích thú với việc chia rẽ hội chúng.’ Họ sẽ làm theo lời nói của ta, họ sẽ lắng nghe, họ sẽ để vào tai” rồi nên ra đi. Vô tội cho việc đứt mùa (an cư) mưa.
Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu đã vào mùa (an cư) mưa nghe được rằng: “Nghe nói ở trú xứ kia nhiều vị tỳ khưu ni đã chia rẽ hội chúng.” Trường hợp ấy, nếu vị tỳ khưu khởi ý như vầy: “Các vị tỳ khưu ni ấy là bạn của ta, ta sẽ nói với các cô ấy rằng: ‘Này các chị gái, đức Thế Tôn đã nói rằng việc chia rẽ hội chúng là nghiêm trọng, các chị gái chớ có thích thú với việc chia rẽ hội chúng.’ Họ sẽ làm theo lời nói của ta, họ sẽ lắng nghe, họ sẽ để vào tai” rồi nên ra đi. Vô tội cho việc đứt mùa (an cư) mưa.
Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu đã vào mùa (an cư) mưa nghe được rằng: “Nghe nói ở trú xứ kia nhiều vị tỳ khưu ni đã chia rẽ hội chúng.” Trường hợp ấy, nếu vị tỳ khưu khởi ý như vầy: “Các vị tỳ khưu ni ấy không phải là bạn của ta, tuy nhiên các cô bạn của những cô ấy là bạn của ta. Vậy ta sẽ nói với các cô bạn của ta, khi họ đã được nói, họ sẽ nói với những cô ấy rằng: ‘Này các chị gái, đức Thế Tôn đã nói rằng việc chia rẽ hội chúng là nghiêm trọng, các chị gái chớ có vui mừng với việc chia rẽ hội chúng.’ Họ sẽ làm theo lời nói của ta, họ sẽ lắng nghe, họ sẽ để vào tai” rồi nên ra đi. Vô tội cho việc đứt mùa (an cư) mưa.
[217] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ có ý định vào mùa (an cư) mưa ở khu rào gia súc. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép vào mùa (an cư) mưa ở khu rào gia súc.
Khu rào gia súc di chuyển. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép di chuyển theo khu rào gia súc.[7]
Vào lúc bấy giờ, khi việc vào mùa (an cư) mưa đang đến gần, có vị tỳ khưu nọ có ý định đi theo đoàn xe tải. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép vào mùa (an cư) mưa ở trong xe tải.
Vào lúc bấy giờ, khi việc vào mùa (an cư) mưa đang đến gần, có vị tỳ khưu nọ có ý định đi theo chiếc thuyền. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép vào mùa (an cư) mưa ở trong chiếc thuyền.
[218] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ vào mùa (an cư) mưa ở trong bọng cây. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Giống như là các yêu tinh.
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên vào mùa (an cư) mưa ở trong bọng cây; vị nào vào thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu đã vào mùa (an cư) mưa ở trên chạc ba của cây. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Giống như là các người săn thú.
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên vào mùa (an cư) mưa ở trên chạc ba của cây; vị nào vào thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[219] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu vào mùa (an cư) mưa ở ngoài trời. Khi trời mưa, các vị chạy đến gốc cây, đến hốc cây nimba. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên vào mùa (an cư) mưa ở ngoài trời; vị nào vào thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu vào mùa (an cư) mưa không có chỗ trú ngụ nên bị khó nhọc vì lạnh và nóng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, vị không có chỗ trú ngụ không nên vào mùa (an cư) mưa; vị nào vào thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu vào mùa (an cư) mưa ở nhà quàng tử thi. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Giống như là những người thiêu xác chết.
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên vào mùa (an cư) mưa ở nhà quàng tử thi; vị nào vào thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu vào mùa (an cư) mưa ở mái che tạm. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Giống như là những người chăn bò.
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên vào mùa (an cư) mưa ở mái che tạm; vị nào vào thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu vào mùa (an cư) mưa ở trong vại đất nung. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Giống như là những kẻ ngoại đạo.
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên vào mùa (an cư) mưa ở trong vại đất nung; vị nào vào thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[220] Vào lúc bấy giờ, hội chúng ở thành Sāvatthi thực hiện điều thỏa thuận là: “Không được cho xuất gia trong mùa (an cư) mưa.” Người cháu trai của bà Visākhā mẹ của Migāra đã đi đến gặp các vị tỳ khưu và cầu xin sự xuất gia. Các vị tỳ khưu đã nói như vầy:
– Này đạo hữu, hội chúng thực hiện điều thỏa thuận là: “Không được cho xuất gia trong mùa (an cư) mưa.” Này đạo hữu, hãy chờ đến khi nào các vị tỳ khưu trải qua mùa (an cư) mưa; khi đã trải qua mùa (an cư) mưa các vị sẽ cho xuất gia.
Sau đó, khi đã trải qua mùa (an cư) mưa, các vị tỳ khưu ấy đã nói với người cháu trai của bà Visākhā mẹ của Migāra điều này:
– Này đạo hữu, hãy đi đến hôm nay và hãy xuất gia.
Người ấy đã nói như vầy:
– Thưa các ngài, nếu tôi đã được xuất gia thì tôi còn có thể thỏa thích. Thưa các ngài, giờ đây tôi sẽ không xuất gia.
Bà Visākhā mẹ của Migāra phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Vì sao các ngài đại đức lại thực hiện điều thỏa thuận có hình thức như vầy: “Không được cho xuất gia trong mùa (an cư) mưa,” có khi nào mà Giáo Pháp lại không được thực hành?
Các tỳ khưu đã nghe được bà Visākhā mẹ của Migāra phàn nàn, phê phán, chê bai. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên thực hiện điều thỏa thuận có hình thức như vầy: “Không được cho xuất gia trong mùa (an cư) mưa.” Vị nào thực hiện thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[221] Vào lúc bấy giờ, chỗ cư trú mùa mưa của đức vua Pasenadi xứ Kosala đã được đại đức Upananda con trai dòng Sākya (Thích Ca) hứa hẹn cho thời điểm trước. Trong khi đi đến chỗ cư trú ấy, vào khoảng giữa đường vị ấy đã nhìn thấy hai trú xứ có nhiều y. Vị ấy đã khởi ý điều này: “Hay là ta nên sống mùa (an cư) mưa ở hai trú xứ này, như thế có nhiều y sẽ được phát sanh đến ta?” Vị ấy đã sống mùa (an cư) mưa ở hai trú xứ ấy. Đức vua Pasenadi xứ Kosala phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Tại sao ngài đại đức Upananda con trai dòng Sākya sau khi hứa hẹn chỗ cư trú mùa mưa của chúng tôi lại nuốt lời? Không phải rằng đức Thế Tôn bằng nhiều phương thức đã khiển trách việc nói láo và khen ngợi việc tránh xa sự nói láo hay sao?
Các tỳ khưu đã nghe được đức vua Pasenadi xứ Kosala phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ít ham muốn …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Vì sao đại đức Upananda con trai dòng Sākya sau khi hứa hẹn chỗ cư trú mùa mưa của đức vua Pasenadi xứ Kosala lại nuốt lời? Không phải rằng đức Thế Tôn bằng nhiều phương thức đã khiển trách việc nói láo và khen ngợi việc tránh xa sự nói láo hay sao?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội chúng tỳ khưu lại và đã hỏi đại đức Upananda con trai dòng Sākya rằng:
– Này Upananda, nghe nói ngươi sau khi hứa hẹn chỗ cư trú mùa mưa của đức vua Pasenadi xứ Kosala lại nuốt lời, có đúng không vậy?
– Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
– Này kẻ rồ dại, vì sao ngươi sau khi hứa hẹn chỗ cư trú mùa mưa của đức vua Pasenadi xứ Kosala lại nuốt lời? Này kẻ rồ dại, không phải rằng ta bằng nhiều phương thức đã khiển trách việc nói láo và khen ngợi việc tránh xa sự nói láo hay sao? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)…
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, trường hợp chỗ cư trú mùa mưa đã được vị tỳ khưu hứa hẹn cho thời điểm trước. Trong khi đi đến chỗ cư trú ấy, vào khoảng giữa đường vị ấy nhìn thấy hai trú xứ có nhiều y. Vị ấy khởi ý như vầy: “Hay là ta nên sống mùa (an cư) mưa ở hai trú xứ này, như thế có nhiều y sẽ được phát sanh đến ta?” Vị ấy sống mùa (an cư) mưa ở hai trú xứ ấy. Này các tỳ khưu, đối với vị tỳ khưu ấy thời điểm trước không được ghi nhận và tội dukkaṭa (tác ác) ở sự hứa hẹn.
Này các tỳ khưu, trường hợp chỗ cư trú mùa mưa đã được vị tỳ khưu hứa hẹn cho thời điểm trước. Trong khi đi đến chỗ cư trú ấy, vị ấy thực hiện lễ Uposatha ở bên ngoài và đến được trú xá vào ngày đầu tháng.[8] Vị ấy sắp đặt chỗ trú ngụ, đem lại nước uống nước rửa, quét phòng ốc. Rồi không phải vì công việc cần thiết, vị ấy ra đi ngay ngày hôm ấy. Này các tỳ khưu, đối với vị tỳ khưu ấy thời điểm trước không được ghi nhận và tội dukkaṭa (tác ác) ở sự hứa hẹn.
Này các tỳ khưu, trường hợp chỗ cư trú mùa mưa đã được vị tỳ khưu hứa hẹn cho thời điểm trước. Trong khi đi đến chỗ cư trú ấy, vị ấy thực hiện lễ Uposatha ở bên ngoài và đến được trú xá vào ngày đầu tháng. Vị ấy sắp đặt chỗ trú ngụ, đem lại nước uống nước rửa, quét phòng ốc. Rồi do công việc cần thiết, vị ấy ra đi ngay ngày hôm ấy. Này các tỳ khưu, đối với vị tỳ khưu ấy thời điểm trước không được ghi nhận và tội dukkaṭa (tác ác) ở sự hứa hẹn.
Này các tỳ khưu, trường hợp chỗ cư trú mùa mưa đã được vị tỳ khưu hứa hẹn cho thời điểm trước. Trong khi đi đến chỗ cư trú ấy, vị ấy thực hiện lễ Uposatha ở bên ngoài và đến được trú xá vào ngày đầu tháng. Vị ấy sắp đặt chỗ trú ngụ, đem lại nước uống nước rửa, quét phòng ốc. Vị ấy sau khi sống hai ba ngày rồi ra đi không phải vì công việc cần thiết. Này các tỳ khưu, đối với vị tỳ khưu ấy thời điểm trước không được ghi nhận và tội dukkaṭa (tác ác) ở sự hứa hẹn.
Này các tỳ khưu, trường hợp chỗ cư trú mùa mưa đã được vị tỳ khưu hứa hẹn cho thời điểm trước. Trong khi đi đến chỗ cư trú ấy, vị ấy thực hiện lễ Uposatha ở bên ngoài và đến được trú xá vào ngày đầu tháng. Vị ấy sắp đặt chỗ trú ngụ, đem lại nước uống nước rửa, quét phòng ốc. Vị ấy sau khi sống hai ba ngày rồi ra đi do công việc cần thiết. Này các tỳ khưu, đối với vị tỳ khưu ấy thời điểm trước không được ghi nhận và tội dukkaṭa (tác ác) ở sự hứa hẹn.
Này các tỳ khưu, trường hợp chỗ cư trú mùa mưa đã được vị tỳ khưu hứa hẹn cho thời điểm trước. Trong khi đi đến chỗ cư trú ấy, vị ấy thực hiện lễ Uposatha ở bên ngoài và đến được trú xá vào ngày đầu tháng. Vị ấy sắp đặt chỗ trú ngụ, đem lại nước uống nước rửa, quét phòng ốc. Vị ấy sau khi sống hai ba ngày rồi ra đi bởi công việc có thể giải quyết trong bảy ngày. Vị ấy vượt quá (thời hạn) bảy ngày ấy. Này các tỳ khưu, đối với vị tỳ khưu ấy thời điểm trước không được ghi nhận và tội dukkaṭa (tác ác) ở sự hứa hẹn.
Này các tỳ khưu, trường hợp chỗ cư trú mùa mưa đã được vị tỳ khưu hứa hẹn cho thời điểm trước. …(như trên)… Vị ấy sau khi sống hai ba ngày rồi ra đi bởi công việc có thể giải quyết trong bảy ngày. Vị ấy thực hiện việc quay trở về trong (thời hạn) bảy ngày ấy. Này các tỳ khưu, thời điểm trước của vị tỳ khưu ấy được ghi nhận và vô tội ở sự hứa hẹn.
Này các tỳ khưu, trường hợp chỗ cư trú mùa mưa đã được vị tỳ khưu hứa hẹn cho thời điểm trước. Trong khi đi đến chỗ cư trú ấy, vị ấy thực hiện lễ Uposatha ở bên ngoài và đến được trú xá vào ngày đầu tháng. Vị ấy sắp đặt chỗ trú ngụ, đem lại nước uống nước rửa, quét phòng ốc. Bảy ngày trước ngày lễ Pavāraṇā, vị ấy ra đi do công việc cần thiết. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy có thể trở lại chỗ cư trú ấy hoặc không thể trở lại.[9] Này các tỳ khưu, thời điểm trước của vị tỳ khưu ấy được ghi nhận và vô tội ở sự hứa hẹn.
Này các tỳ khưu, trường hợp chỗ cư trú mùa mưa đã được vị tỳ khưu hứa hẹn cho thời điểm trước. Vị ấy sau khi đi đến chỗ cư trú ấy, thực hiện lễ Uposatha, và đến được trú xá vào ngày đầu tháng. Vị ấy sắp đặt chỗ trú ngụ, đem lại nước uống nước rửa, quét phòng ốc. Rồi không phải vì công việc cần thiết, vị ấy ra đi ngay ngày hôm ấy. Này các tỳ khưu, đối với vị tỳ khưu ấy thời điểm trước không được ghi nhận và tội dukkaṭa (tác ác) ở sự hứa hẹn.
Này các tỳ khưu, trường hợp chỗ cư trú mùa mưa đã được vị tỳ khưu hứa hẹn cho thời điểm trước. Vị ấy sau khi đi đến chỗ cư trú ấy, thực hiện lễ Uposatha, và đến được trú xá vào ngày đầu tháng. Vị ấy sắp đặt chỗ trú ngụ, đem lại nước uống nước rửa, quét phòng ốc. Rồi do công việc cần thiết, vị ấy ra đi ngay ngày hôm ấy. …(như trên)… Vị ấy sau khi sống hai ba ngày rồi ra đi không phải vì công việc cần thiết. …(như trên)… Vị ấy sau khi sống hai ba ngày rồi ra đi do công việc cần thiết. …(như trên)… Vị ấy sau khi sống hai ba ngày rồi ra đi bởi công việc có thể giải quyết trong bảy ngày. Vị ấy vượt quá (thời hạn) bảy ngày ấy. Này các tỳ khưu, đối với vị tỳ khưu ấy thời điểm trước không được ghi nhận và tội dukkaṭa (tác ác) ở sự hứa hẹn.
…(như trên)… Vị ấy sau khi sống hai ba ngày rồi ra đi bởi công việc có thể giải quyết trong bảy ngày. Vị ấy thực hiện việc quay trở về trong (thời hạn) bảy ngày ấy. Này các tỳ khưu, thời điểm trước của vị tỳ khưu ấy được ghi nhận và vô tội ở sự hứa hẹn.
Này các tỳ khưu, trường hợp chỗ cư trú mùa mưa đã được vị tỳ khưu hứa hẹn cho thời điểm trước. Vị ấy sau khi đi đến chỗ cư trú ấy, thực hiện lễ Uposatha, và đến được trú xá vào ngày đầu tháng. Vị ấy sắp đặt chỗ trú ngụ, đem lại nước uống nước rửa, quét phòng ốc. Bảy ngày trước ngày lễ Pavāraṇā, vị ấy do công việc cần thiết rồi ra đi. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy có thể trở lại chỗ cư trú ấy hoặc không thể trở lại. Này các tỳ khưu, thời điểm trước của vị tỳ khưu ấy được ghi nhận và vô tội ở sự hứa hẹn.
[222] Này các tỳ khưu, trường hợp chỗ cư trú mùa mưa đã được vị tỳ khưu hứa hẹn cho thời điểm sau. Trong khi đi đến chỗ cư trú ấy, vị ấy thực hiện lễ Uposatha ở bên ngoài và đến được trú xá vào ngày đầu tháng. Vị ấy sắp đặt chỗ trú ngụ, đem lại nước uống nước rửa, quét phòng ốc. Rồi không phải vì công việc cần thiết, vị ấy ra đi ngay ngày hôm ấy. Này các tỳ khưu, thời điểm sau của vị tỳ khưu ấy không được ghi nhận và tội dukkaṭa (tác ác) ở sự hứa hẹn.
Này các tỳ khưu, trường hợp chỗ cư trú mùa mưa đã được vị tỳ khưu hứa hẹn cho thời điểm sau. Trong khi đi đến chỗ cư trú ấy, vị ấy thực hiện lễ Uposatha ở bên ngoài và đến được trú xá vào ngày đầu tháng. Vị ấy sắp đặt chỗ trú ngụ, đem lại nước uống nước rửa, quét phòng ốc. Rồi do công việc cần thiết, vị ấy ra đi ngay ngày hôm ấy. …(như trên)… Vị ấy sau khi sống hai ba ngày rồi ra đi không phải vì công việc cần thiết. …(như trên)… Vị ấy sau khi sống hai ba ngày rồi ra đi do công việc cần thiết. …(như trên)… Vị ấy sau khi sống hai ba ngày rồi ra đi bởi công việc có thể giải quyết trong bảy ngày. Vị ấy vượt quá (thời hạn) bảy ngày ấy. Này các tỳ khưu, thời điểm sau của vị tỳ khưu ấy không được ghi nhận và tội dukkaṭa (tác ác) ở sự hứa hẹn.
Này các tỳ khưu, trường hợp chỗ cư trú mùa mưa đã được vị tỳ khưu hứa hẹn cho thời điểm sau. Trong khi đi đến chỗ cư trú ấy, vị ấy thực hiện lễ Uposatha ở bên ngoài và đến được trú xá vào ngày đầu tháng. Vị ấy sắp đặt chỗ trú ngụ, đem lại nước uống nước rửa, quét phòng ốc. Vị ấy sau khi sống hai ba ngày rồi ra đi bởi công việc có thể giải quyết trong bảy ngày. Vị ấy thực hiện việc quay trở về trong (thời hạn) bảy ngày ấy. Này các tỳ khưu, thời điểm sau của vị tỳ khưu ấy được ghi nhận và vô tội ở sự hứa hẹn.
Này các tỳ khưu, trường hợp chỗ cư trú mùa mưa đã được vị tỳ khưu hứa hẹn cho thời điểm sau. …(như trên)… Bảy ngày trước ngày trăng tròn tháng Kattika là ngày lễ hội Cātumāsinī,[10] vị ấy ra đi do công việc cần thiết. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy có thể trở lại chỗ cư trú ấy hoặc không thể trở lại. Này các tỳ khưu, thời điểm sau của vị tỳ khưu ấy được ghi nhận và vô tội ở sự hứa hẹn.
Này các tỳ khưu, trường hợp chỗ cư trú mùa mưa đã được vị tỳ khưu hứa hẹn cho thời điểm sau. Vị ấy sau khi đi đến chỗ cư trú ấy, thực hiện lễ Uposatha, và đến được trú xá vào ngày đầu tháng. Vị ấy sắp đặt chỗ trú ngụ, đem lại nước uống nước rửa, quét phòng ốc. Rồi không phải vì công việc cần thiết, vị ấy ra đi ngay ngày hôm ấy. …(như trên)… Rồi do công việc cần thiết, vị ấy ra đi ngay ngày hôm ấy. …(như trên)… Vị ấy sau khi sống hai ba ngày rồi ra đi không phải vì công việc cần thiết. …(như trên)… Vị ấy sau khi sống hai ba ngày rồi ra đi do công việc cần thiết. …(như trên)… Vị ấy sau khi sống hai ba ngày rồi ra đi bởi công việc có thể giải quyết trong bảy ngày. Vị ấy vượt quá (thời hạn) bảy ngày ấy. Này các tỳ khưu, thời điểm sau của vị tỳ khưu ấy không được ghi nhận và tội dukkaṭa (tác ác) ở sự hứa hẹn.
…(như trên)… Vị ấy sau khi sống hai ba ngày rồi ra đi bởi công việc có thể giải quyết trong bảy ngày. Vị ấy thực hiện việc quay trở về trong (thời hạn) bảy ngày ấy. Này các tỳ khưu, thời điểm sau của vị tỳ khưu ấy được ghi nhận và vô tội ở sự hứa hẹn.
Này các tỳ khưu, trường hợp chỗ cư trú mùa mưa đã được vị tỳ khưu hứa hẹn cho thời điểm sau. …(như trên)… Bảy ngày trước ngày trăng tròn tháng Kattika là ngày lễ hội Cātumāsinī, vị ấy ra đi do công việc cần thiết. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy có thể trở lại chỗ cư trú ấy hoặc không thể trở lại. Này các tỳ khưu, thời điểm sau của vị tỳ khưu ấy được ghi nhận và vô tội ở sự hứa hẹn.
Chương Vào Mùa Mưa là chương thứ ba.
******
Tóm lược chương này:
[223]
Vào mùa (an cư) mưa,
khi nào? và bao lần?
vào khoảng giữa mùa mưa
không muốn và cố ý,
dời lại, nam cư sĩ,
mẹ và cha bị bệnh,
anh em, và thân quyến,
người làm của tỳ khưu.
Trú xá, các thú dữ,
lại thêm các loại rắn,
trộm cướp, và yêu tinh,
với cả hai bị cháy,
bị nước lũ cuốn trôi,
(ngôi làng) lại dời đi
các thí chủ nhiều hơn,
thô thiển và hảo hạng,
dược phẩm được thích hợp,
và có người phục vụ.
Người nữ, cô gái điếm,
lở thời, kẻ vô căn,
thân quyến, và đức vua,
kẻ cướp, bọn bất lương,
của chôn, sự chia rẽ
có được tám trường hợp.
Bãi nhốt thú, đoàn xe,
chiếc thuyền, và bọng cây,
và ở chạc ba cây,
cư trú mưa ngoài trời,
và vị không chỗ ngụ,
nhà quàng xác, mái che,
và ở vại đất nung.
Các vị ấy đạt đến
thỏa hiệp, đã hứa hẹn,
lễ Bố Tát bên ngoài,
thời điểm trước và sau,
kết hợp theo cách ấy.
Ra đi việc không cần,
việc cần làm cũng thế,
lại nữa hai ba ngày,
với việc trong bảy ngày,
và bảy ngày sắp đến,
về lại hoặc không về,
nên xem xét đường lối
liên kết theo thứ tự
hợp thành các sự việc.
Trong chương này có năm mươi hai sự việc.
[1] Tính theo âm lịch của Việt Nam nếu không có tháng nhuần thì thời điểm trước là ngày 16 tháng 6, thời điểm sau là ngày 16 tháng 7.
[2] Tam Tạng Thái Lan không đề cập đến phòng tắm hơi, gian nhà ở phòng tắm hơi ở danh sách các công trình xây dựng phục vụ cho tỳ khưu ni và chú thích rằng Tam Tạng của các nước khác không có luôn cả nhà vệ sinh trong danh sách này (Xem Tiểu Phẩm – Cullavagga, chương X, [606] để có thêm tài liệu về vấn đề nhà vệ sinh của tỳ khưu ni). Về nhà tắm hơi thì tỳ khưu ni không được phép sử dụng (Sđd. [609]).
[3] Dường như các vị tỳ khưu đại diện để thọ lãnh cho dù các công trình trên được xây dựng không dành cho các vị.
[4] Danh sách các công trình để phục vụ cho người nữ cư sĩ cũng không có phòng tắm hơi và gian nhà ở phòng tắm hơi nhưng có nhà vệ sinh.
[5] Tam Tạng Thái Lan vẫn để nhà vệ sinh trong danh sách này. Vì người sử dụng là sa di ni nên chúng tôi theo Tam Tạng Miến Điện và loại công trình này ra khỏi danh sách.
[6] Nếu ngôi làng di chuyển không xa thì nên cư trú tại chính trú xá ấy và đi đến chỗ ở mới của ngôi làng để khất thực; nếu xa thì có thể đi theo trường hợp bảy ngày (theo lời giải thích của ngài Buddhaghosa).
[7] Ngài Buddhaghosa giải thích rằng vị tỳ khưu bị đứt mùa (an cư) mưa trong trường hợp này không phạm tội.
[8] Tức là ngày mười sáu tháng sáu theo âm lịch của Việt Nam nếu không có tháng nhuần. Không như âm lịch của Việt Nam, lịch này được tính theo nửa tháng trăng và hiện đang còn được sử dụng ở một số quốc gia.
[9] “… na vā āgaccheyya” = “không có thể trở lại” không nên hiểu là: “có thể không trở lại” (Không tìm được lời giải thích của ngài Buddhaghosa về việc này).
[10] Tức là rằm tháng mười âm lịch.
IV. CHƯƠNG PAVĀRAṆĀ
(PAVĀRAṆĀKKHANDHAKAṂ)
[224] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika.
Vào lúc bấy giờ, tại trú xứ nọ ở trong xứ Kosala có nhiều vị tỳ khưu là bạn bè đồng quan điểm đã vào mùa (an cư) mưa. Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đã khởi ý điều này: “Chúng ta có sự hợp nhất, thân thiện, không cãi vả nhau, vậy bằng phương thức nào có thể sống mùa (an cư) mưa một cách thoải mái và không bị khó nhọc vì đồ ăn khất thực?” Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đã khởi ý điều này: “Nếu chúng ta có thể không nói với nhau và cũng không chuyện trò: Vị nào đi khất thực từ làng trở về trước tiên vị ấy sắp xếp chỗ ngồi, chuẩn bị nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân, rửa chậu đựng đồ thừa rồi đem lại, cung ứng nước uống nước rửa. Vị nào đi khất thực từ làng trở về sau cùng, nếu vật thực được ăn còn thừa lại, nếu muốn có thể ăn; nếu không muốn có thể đem quăng bỏ ở nơi không có cỏ xanh hoặc đổ xuống nước không có sinh vật. Vị ấy xếp chỗ ngồi lại, dọn dẹp nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân, rửa chậu đựng đồ thừa rồi cất đi, dọn dẹp nước uống nước rửa, và quét nhà ăn. Vị nào thấy lu nước uống, hoặc lu nước rửa, hoặc lu nước nhà vệ sinh hết nước, trống trơn, vị ấy có thể đem (nước) lại. Nếu vị ấy không làm nổi, có thể ra hiệu bằng tay mời vị thứ hai và có thể đem (nước) lại với dấu hiệu bằng tay, nhưng không vì lý do đó lại có thể phát ra lời nói. Như thế, chúng ta có sự hợp nhất, thân thiện, không cãi vả nhau có thể sống mùa (an cư) mưa một cách thoải mái và không bị khó nhọc vì đồ ăn khất thực.” Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã không nói với nhau và cũng không chuyện trò. Vị nào đi khất thực từ làng trở về trước tiên vị ấy sắp xếp chỗ ngồi, chuẩn bị nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân, rửa chậu đựng đồ thừa rồi đem lại, cung ứng nước uống nước rửa. Vị nào đi khất thực từ làng trở về sau cùng, nếu vật thực được ăn còn thừa lại, nếu muốn thì vị ấy ăn; nếu không muốn thì đem quăng bỏ ở nơi không có cỏ xanh hoặc đổ xuống nước không có sinh vật. Vị ấy xếp chỗ ngồi lại, dọn dẹp nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân, rửa chậu đựng đồ thừa rồi cất đi, dọn dẹp nước uống nước rửa, và quét nhà ăn. Vị nào thấy lu nước uống, hoặc lu nước rửa, hoặc lu nước nhà vệ sinh hết nước, trống trơn, vị ấy đem (nước) lại. Nếu không làm nổi, vị ấy ra hiệu bằng tay mời vị thứ hai và đem (nước) lại với dấu hiệu bằng tay, nhưng không vì lý do đó mà phát ra lời nói.
[225] Điều này đã trở thành thông lệ của các tỳ khưu đã sống qua mùa (an cư) mưa là đi đến để diện kiến đức Thế Tôn. Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy khi đã sống qua mùa (an cư) mưa với thời gian ba tháng đã thu xếp chỗ trú ngụ, cầm y bát, ra đi về phía thành Sāvatthi. Tuần tự, các vị đã đi đến Jetavana tu viện của ông Anāthapiṇḍika gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên.
Điều này đã trở thành thông lệ của chư Phật Thế Tôn là niềm nở với các vị tỳ khưu đi đến. Khi ấy, đức Thế Tôn đã nói với các vị tỳ khưu ấy điều này:
– Này các tỳ khưu, sức khoẻ có khá không? Mọi việc có được tốt đẹp không? Các ngươi có sự hợp nhất, thân thiện, không cãi vả nhau có phải đã sống mùa (an cư) mưa một cách thoải mái và không bị khó nhọc vì đồ ăn khất thực không?
– Bạch Thế Tôn, sức khoẻ khá. Bạch Thế Tôn, mọi việc được tốt đẹp. Và bạch ngài, chúng con có sự hợp nhất, thân thiện, không cãi vả nhau đã sống mùa (an cư) mưa một cách thoải mái và không bị khó nhọc vì đồ ăn khất thực.
Các đấng Như Lai dầu biết vẫn hỏi, dầu biết các vị vẫn không hỏi, biết đúng thời các vị mới hỏi, biết đúng thời các vị vẫn không hỏi, có liên quan đến lợi ích các đấng Như lai mới hỏi và không (hỏi việc) không có liên quan đến lợi ích, khi không có liên quan đến lợi ích các đấng Như Lai có cách để cắt đứt vấn đề. Chư Phật Thế Tôn hỏi các vị tỳ khưu với hai lý do: “Chúng ta sẽ thuyết giảng Giáo Pháp hoặc là chúng ta sẽ quy định điều học cho các đệ tử.”
Khi ấy, đức Thế Tôn đã nói với các vị tỳ khưu ấy điều này:
– Này các tỳ khưu, các ngươi có sự hợp nhất, thân thiện, không cãi vả nhau đã sống mùa (an cư) mưa một cách thoải mái và không bị khó nhọc vì đồ ăn khất thực là như thế nào?
– Bạch ngài, trường hợp chúng con gồm nhiều vị tỳ khưu là bạn bè đồng quan điểm đã vào mùa (an cư) mưa tại trú xứ nọ ở trong xứ Kosala. Bạch ngài, chúng con đây đã khởi ý điều này: “Chúng ta có sự hợp nhất, thân thiện, không cãi vả nhau, vậy bằng phương thức nào có thể sống mùa (an cư) mưa một cách thoải mái và không bị khó nhọc vì đồ ăn khất thực?” Bạch ngài, chúng con đây đã khởi ý điều này: “Nếu chúng ta có thể không nói với nhau và cũng không chuyện trò: Vị nào đi khất thực từ làng trở về trước tiên vị ấy sắp xếp chỗ ngồi, chuẩn bị nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân, rửa chậu đựng đồ thừa rồi đem lại, cung ứng nước uống nước rửa. Vị nào đi khất thực từ làng trở về sau cùng, nếu vật thực được ăn còn thừa lại, nếu muốn có thể ăn; nếu không muốn có thể đem quăng bỏ ở nơi không có cỏ xanh hoặc đổ xuống nước không có sinh vật. Vị ấy xếp chỗ ngồi lại, dọn dẹp nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân, rửa chậu đựng đồ thừa rồi cất đi, dọn dẹp nước uống nước rửa, và quét nhà ăn. Vị nào thấy lu nước uống, hoặc lu nước rửa, hoặc lu nước nhà vệ sinh hết nước, trống trơn, vị ấy có thể đem (nước) lại. Nếu vị ấy không làm nổi, có thể ra hiệu bằng tay mời vị thứ hai và có thể đem (nước) lại với dấu hiệu bằng tay, nhưng không vì lý do đó lại có thể phát ra lời nói. Như thế, chúng ta có sự hợp nhất, thân thiện, không cãi vả nhau có thể sống mùa (an cư) mưa một cách thoải mái và không bị khó nhọc vì đồ ăn khất thực.” Bạch ngài, sau đó chúng con đã không nói với nhau và cũng không chuyện trò. Vị nào đi khất thực từ làng trở về trước tiên vị ấy sắp xếp chỗ ngồi, chuẩn bị nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân, rửa chậu đựng đồ thừa rồi đem lại, cung ứng nước uống nước rửa. Vị nào đi khất thực từ làng trở về sau cùng, nếu vật thực được ăn còn thừa lại, nếu muốn thì vị ấy ăn; nếu không muốn có thể đem quăng bỏ ở nơi không có cỏ xanh hoặc đổ xuống nước không có sinh vật. Vị ấy xếp chỗ ngồi lại, dọn dẹp nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân, rửa chậu đựng đồ thừa rồi cất đi, dọn dẹp nước uống nước rửa, và quét nhà ăn. Vị nào thấy lu nước uống, hoặc lu nước rửa, hoặc lu nước nhà vệ sinh hết nước, trống trơn, vị ấy đem (nước) lại. Nếu không làm nổi, vị ấy ra hiệu bằng tay mời vị thứ hai và đem (nước) lại với dấu hiệu bằng tay, nhưng không vì lý do đó mà phát ra lời nói. Bạch ngài, chúng con có sự hợp nhất, thân thiện, không cãi vả nhau đã sống mùa (an cư) mưa một cách thoải mái và không bị khó nhọc vì đồ ăn khất thực là như thế.
[226] Khi ấy, đức Thế Tôn đã bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, thật ra những kẻ rồ dại này trong khi đã sống một cách không thoải mái lại bảo rằng: “Chúng con đã sống một cách thoải mái.” Này các tỳ khưu, thật ra những kẻ rồ dại này trong khi đã sống với lối sống chung của loài thú lại bảo rằng: “Chúng con đã sống một cách thoải mái.” Này các tỳ khưu, thật ra những kẻ rồ dại này trong khi đã sống với lối sống chung của loài cừu lại bảo rằng: “Chúng con đã sống một cách thoải mái.” Này các tỳ khưu, thật ra những kẻ rồ dại này trong khi đã sống với lối cộng trú của những kẻ lười biếng lại bảo rằng: “Chúng con đã sống một cách thoải mái.” Này các tỳ khưu, vì sao những kẻ rồ dại này lại thọ trì lối thực hành của ngoại đạo là bắt chước kẻ câm. Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, không nên thọ trì lối thực hành của ngoại đạo là bắt chước kẻ câm; vị nào thọ trì thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, đối với các tỳ khưu đã sống qua mùa (an cư) mưa ta cho phép thỉnh cầu dựa trên ba tình huống là do đã được thấy, hoặc do đã được nghe, hoặc do sự nghi ngờ. Bằng cách ấy, các ngươi sẽ có được sự hòa thuận lẫn nhau, có được sự thoát ra khỏi tội, và có được sự hiểu rõ thêm về Luật. Và này các tỳ khưu, nên thỉnh cầu như vầy:
Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Hôm nay là ngày lễ Pavāraṇā. [1] Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên tiến hành lễ Pavāraṇā.”
Vị tỳ khưu trưởng lão nên đắp thượng y một bên vai, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy:
“Này các sư đệ, tôi xin thỉnh cầu hội chúng. Do đã được thấy, hoặc do đã được nghe, hoặc do sự nghi ngờ, vì lòng trắc ẩn xin các đại đức hãy nói với tôi. Khi nhận ra tôi sẽ sửa chữa.
Này các sư đệ, tôi xin thỉnh cầu hội chúng lần thứ nhì. Do đã được thấy, hoặc do đã được nghe, hoặc do sự nghi ngờ, vì lòng trắc ẩn xin các đại đức hãy nói với tôi. Khi nhận ra tôi sẽ sửa chữa.
Này các sư đệ, tôi xin thỉnh cầu hội chúng lần thứ ba. Do đã được thấy, hoặc do đã được nghe, hoặc do sự nghi ngờ, vì lòng trắc ẩn xin các đại đức hãy nói với tôi. Khi nhận ra tôi sẽ sửa chữa.”
Vị tỳ khưu mới tu nên đắp thượng y một bên vai, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy:
“Bạch các ngài, tôi xin thỉnh cầu hội chúng. Do đã được thấy, hoặc do đã được nghe, hoặc do sự nghi ngờ, vì lòng thương xót xin các đại đức hãy nói với tôi. Khi nhận ra tôi sẽ sửa chữa.
Bạch các ngài, tôi xin thỉnh cầu hội chúng lần thứ nhì. Do đã được thấy, hoặc do đã được nghe, hoặc do sự nghi ngờ, vì lòng thương xót xin các đại đức hãy nói với tôi. Khi nhận ra tôi sẽ sửa chữa.
Bạch các ngài, tôi xin thỉnh cầu hội chúng lần thứ ba. Do đã được thấy, hoặc do đã được nghe, hoặc do sự nghi ngờ, vì lòng thương xót xin các đại đức hãy nói với tôi. Khi nhận ra tôi sẽ sửa chữa.”
[227] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư ngồi yên trên chỗ ngồi trong lúc các tỳ khưu trưởng lão đang ngồi chồm hổm thỉnh cầu. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại ngồi yên trên chỗ ngồi trong lúc các tỳ khưu trưởng lão đang ngồi chồm hổm thỉnh cầu?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu nhóm Lục Sư ngồi yên trên chỗ ngồi trong lúc các tỳ khưu trưởng lão đang ngồi chồm hổm thỉnh cầu, có đúng không vậy?
– Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
– Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại ngồi yên trên chỗ ngồi trong lúc các tỳ khưu trưởng lão đang ngồi chồm hổm thỉnh cầu. Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ..(như trên)…
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, không nên ngồi yên trên chỗ ngồi trong lúc các tỳ khưu trưởng lão đang ngồi chồm hổm thỉnh cầu; vị nào ngồi yên thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, ta cho phép toàn bộ tất cả ngồi chồm hổm để thỉnh cầu.
Vào lúc bấy giờ, có vị trưởng lão nọ già yếu ngồi chồm hổm (nghĩ rằng): “Đến khi tất cả thỉnh cầu xong,” trong lúc chờ đợi bị choáng váng rồi té xuống. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép ngồi chồm hổm trong lúc chờ đến phiên thỉnh cầu, sau khi thỉnh cầu được ngồi xuống trên chỗ ngồi.
[228] Khi ấy, các vị tỳ khưu đã khởi ý điều này: “Có bao nhiêu lễ Pavāraṇā?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, đây là hai lễ Pavāraṇā: Lễ ngày mười bốn và lễ ngày mười lăm. Này các tỳ khưu, đây là hai lễ Pavāraṇā.
Khi ấy, các vị tỳ khưu đã khởi ý điều này: “Có bao nhiêu hành sự Pavāraṇā?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, đây là bốn hành sự Pavāraṇā: Hành sự Pavāraṇā sai Pháp theo phe nhóm, hành sự Pavāraṇā sai Pháp có sự hợp nhất, hành sự Pavāraṇā đúng Pháp theo phe nhóm, hành sự Pavāraṇā đúng Pháp có sự hợp nhất.
Này các tỳ khưu, trường hợp này tức là hành sự Pavāraṇā sai Pháp theo phe nhóm, này các tỳ khưu, không nên thực hiện hành sự Pavāraṇā có hình thức như thế và hành sự Pavāraṇā có hình thức như thế không được ta cho phép.
Này các tỳ khưu, trường hợp này tức là hành sự Pavāraṇā sai Pháp có sự hợp nhất, này các tỳ khưu, không nên thực hiện hành sự Pavāraṇā có hình thức như thế và hành sự Pavāraṇā có hình thức như thế không được ta cho phép.
Này các tỳ khưu, trường hợp này tức là hành sự Pavāraṇā đúng Pháp theo phe nhóm, này các tỳ khưu, không nên thực hiện hành sự Pavāraṇā có hình thức như thế và hành sự Pavāraṇā có hình thức như thế không được ta cho phép.
Này các tỳ khưu, trường hợp này tức là hành sự Pavāraṇā đúng Pháp có sự hợp nhất, này các tỳ khưu, nên thực hiện hành sự Pavāraṇā có hình thức như thế và hành sự Pavāraṇā có hình thức như thế được ta cho phép. Này các tỳ khưu, do đó ở đây chúng ta sẽ thực hiện hành sự Pavāraṇā có hình thức như thế tức là “Đúng Pháp có sự hợp nhất.” Này các tỳ khưu, các ngươi nên học tập theo đúng như thế.
[229] Sau đó, đức Thế Tôn đã bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, hãy tụ hội lại, hội chúng sẽ thực hiện lễ Pavāraṇā.
Khi được nói như thế, có vị tỳ khưu nọ đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, có vị tỳ khưu bệnh. Vị ấy không đến.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép vị tỳ khưu bệnh được bày tỏ lời thỉnh cầu. Và này các tỳ khưu, nên bày tỏ như vầy:
Vị tỳ khưu bệnh nên đi đến gặp một vị tỳ khưu, nên đắp thượng y một bên vai, nên ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy:
“Tôi xin bày tỏ lời thỉnh cầu. Hãy chuyển đạt lời thỉnh cầu của tôi. (Hãy thông báo lời thỉnh cầu của tôi.)[2] Hãy thỉnh cầu vì sự lợi ích của tôi.”
(Nếu) vị ấy thể hiện bằng thân, thể hiện bằng lời nói, thể hiện bằng thân và lời nói, thì lời thỉnh cầu đã được bày tỏ. (Nếu) vị ấy không thể hiện bằng thân, không thể hiện bằng lời nói, không thể hiện bằng thân và lời nói, thì lời thỉnh cầu đã không được bày tỏ. Nếu việc ấy đạt được như thế, việc ấy như vậy là tốt đẹp. Này các tỳ khưu, nếu không đạt được (như thế) thì nên dùng cái giường hoặc cái ghế khiêng vị tỳ khưu bệnh ấy đến giữa hội chúng rồi nên thực hiện lễ Pavāraṇā. Này các tỳ khưu, nếu các vị tỳ khưu chăm sóc bệnh khởi ý như vầy: “Nếu chúng ta di chuyển vị bị bệnh dời khỏi chỗ, bệnh sẽ trầm trọng hơn hoặc sẽ gây tử vong,” này các tỳ khưu, không nên di chuyển vị bị bệnh dời khỏi chỗ. Hội chúng nên đi đến và thực hiện lễ Pavāraṇā ở nơi ấy. Nhưng không nên thực hiện lễ Pavāraṇā bởi hội chúng theo phe nhóm; vị nào thực hiện thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Này các tỳ khưu, khi lời thỉnh cầu đã được bày tỏ, nếu vị chuyển đạt lời thỉnh cầu từ chính chỗ ấy bỏ đi (nơi khác) thì lời thỉnh cầu nên được bày tỏ đến vị khác. Này các tỳ khưu, khi lời thỉnh cầu đã được bày tỏ, nếu vị chuyển đạt lời thỉnh cầu ngay tại chỗ ấy hoàn tục, …(như trên)…, từ trần, được biết là vị (xuống lại) sa di, được biết là người đã từ bỏ điều học, được biết là vị phạm tội cực nặng, được biết là vị bị điên, được biết là bị loạn trí, được biết là bị thọ khổ hành hạ, được biết là vị bị án treo trong việc không nhìn nhận tội, được biết là vị bị án treo trong việc không sửa chữa lỗi, được biết là vị bị án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác, được biết là kẻ vô căn, được biết là kẻ trộm tướng mạo (tỳ khưu), được biết là kẻ đã chuyển sang ngoại đạo, được biết là loài thú, được biết là kẻ giết mẹ, được biết là kẻ giết cha, được biết là kẻ giết A-la-hán, được biết là kẻ làm nhơ nhớp tỳ khưu ni, được biết là kẻ chia rẽ hội chúng, được biết là kẻ làm chảy máu đức Phật, được biết là kẻ lưỡng căn thì lời thỉnh cầu nên được bày tỏ đến vị khác.
Này các tỳ khưu, khi lời thỉnh cầu đã được bày tỏ, nếu vị chuyển đạt lời thỉnh cầu ở khoảng giữa đường lại bỏ đi (nơi khác) thì lời thỉnh cầu vẫn chưa được chuyển đạt. Này các tỳ khưu, khi lời thỉnh cầu đã được bày tỏ, nếu vị chuyển đạt lời thỉnh cầu ở khoảng giữa đường lại hoàn tục, từ trần, …(như trên)…, được biết là kẻ lưỡng căn thì lời thỉnh cầu vẫn chưa được chuyển đạt.
Này các tỳ khưu, khi lời thỉnh cầu đã được bày tỏ, nếu vị chuyển đạt lời thỉnh cầu đã đến được hội chúng rồi bỏ đi (nơi khác) thì lời thỉnh cầu đã được chuyển đạt. Này các tỳ khưu, khi lời thỉnh cầu đã được bày tỏ, nếu vị chuyển đạt lời thỉnh cầu đã đến được hội chúng rồi hoàn tục, từ trần, …(như trên)…, được biết là kẻ lưỡng căn thì lời thỉnh cầu đã được chuyển đạt.
Này các tỳ khưu, khi lời thỉnh cầu đã được bày tỏ, nếu vị chuyển đạt lời thỉnh cầu đã đến được hội chúng rồi ngủ quên nên không thông báo thì lời thỉnh cầu đã được chuyển đạt. Vị chuyển đạt lời thỉnh cầu không bị phạm tội.
Này các tỳ khưu, khi lời thỉnh cầu đã được bày tỏ, nếu vị chuyển đạt lời thỉnh cầu đã đến được hội chúng rồi nhập định nên không thông báo thì lời thỉnh cầu đã được chuyển đạt. Vị chuyển đạt lời thỉnh cầu không bị phạm tội.
Này các tỳ khưu, khi lời thỉnh cầu đã được bày tỏ, nếu vị chuyển đạt lời thỉnh cầu đã đến được hội chúng rồi lơ đễnh nên không thông báo thì lời thỉnh cầu đã được chuyển đạt. Vị chuyển đạt lời thỉnh cầu không bị phạm tội.
Này các tỳ khưu, khi lời thỉnh cầu đã được bày tỏ, nếu vị chuyển đạt lời thỉnh cầu đã đến được hội chúng rồi cố ý không thông báo thì lời thỉnh cầu đã được chuyển đạt và vị chuyển đạt lời thỉnh cầu bị phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Này các tỳ khưu, ta cho phép vào ngày lễ Pavāraṇā vị bày tỏ lời thỉnh cầu (đồng thời) bày tỏ sự tùy thuận (phòng khi) hội chúng có hành sự cần được thực hiện.
[230] Vào lúc bấy giờ, vào ngày lễ Pavāraṇā các thân quyến đã cầm giữ lại vị tỳ khưu nọ. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, trường hợp vào ngày lễ Pavāraṇā các thân quyến cầm giữ vị tỳ khưu lại. Các thân quyến ấy nên được các tỳ khưu nói như vầy: “Này các ngài, các ngài hãy trả tự do cho vị tỳ khưu này trong chốc lát đến khi nào vị tỳ khưu này thực hiện lễ Pavāraṇā xong.” Nếu việc ấy đạt được như thế, việc ấy như vậy là tốt đẹp. Nếu không đạt được (như thế), các thân quyến ấy nên được các tỳ khưu nói như vầy: “Này các ngài, các ngài hãy tránh sang một bên trong chốc lát đến khi nào vị tỳ khưu này bày tỏ lời thỉnh cầu xong.” Nếu việc ấy đạt được như thế, việc ấy như vậy là tốt đẹp. Nếu không đạt được (như thế), các thân quyến ấy nên được các tỳ khưu nói như vầy: “Này các ngài, các ngài hãy dẫn vị tỳ khưu này ra khỏi ranh giới trong chốc lát đến khi nào hội chúng thực hiện lễ Pavāraṇā xong.” Nếu việc ấy đạt được như thế, việc ấy như vậy là tốt đẹp. Nếu không đạt được (như thế), vẫn không nên thực hiện lễ Pavāraṇā bởi hội chúng theo phe nhóm; vị nào thực hiện thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Này các tỳ khưu, trường hợp vào ngày lễ Pavāraṇā các đức vua cầm giữ vị tỳ khưu lại. …(như trên)… Các kẻ trộm cướp cầm giữ …(như trên)… Những kẻ bất lương cầm giữ …(như trên)… Những kẻ đối nghịch tỳ khưu cầm giữ vị tỳ khưu lại. Những kẻ đối nghịch tỳ khưu ấy nên được các tỳ khưu nói như vầy: “Này các ngài, các ngài hãy trả tự do cho vị tỳ khưu này trong chốc lát đến khi nào vị tỳ khưu này thực hiện lễ Pavāraṇā xong.” Nếu việc ấy đạt được như thế, việc ấy như vậy là tốt đẹp. Nếu không đạt được (như thế), những kẻ đối nghịch tỳ khưu ấy nên được các tỳ khưu nói như vầy: “Này các ngài, các ngài hãy tránh sang một bên trong chốc lát đến khi nào vị tỳ khưu này bày tỏ lời thỉnh cầu xong.” Nếu việc ấy đạt được như thế, việc ấy như vậy là tốt đẹp. Nếu không đạt được (như thế), những kẻ đối nghịch tỳ khưu ấy nên được các tỳ khưu nói như vầy: “Này các đạo hữu, các người hãy dẫn vị tỳ khưu này ra khỏi ranh giới trong chốc lát đến khi nào hội chúng thực hiện lễ Pavāraṇā xong.” Nếu việc ấy đạt được như thế, việc ấy như vậy là tốt đẹp. Nếu không thể đạt được (như thế), vẫn không nên thực hiện lễ Pavāraṇā bởi hội chúng theo phe nhóm; vị nào thực hiện thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[231] Vào lúc bấy giờ, tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā có năm vị tỳ khưu cư ngụ. Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đã khởi ý điều này: “Đức Thế Tôn đã quy định rằng: ‘Hội chúng nên tiến hành lễ Pavāraṇā’ và chúng ta là năm người, vậy chúng ta nên thực hiện lễ Pavāraṇā như thế nào?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép thỉnh cầu hội chúng đối với năm (vị).
Vào lúc bấy giờ, tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā có bốn vị tỳ khưu cư ngụ. Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đã khởi ý điều này: “Đức Thế Tôn đã cho phép thỉnh cầu hội chúng đối với năm (vị) và chúng ta là bốn người, vậy chúng ta nên thực hiện lễ Pavāraṇā như thế nào?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép thỉnh cầu lẫn nhau đối với bốn (vị). Và này các tỳ khưu, nên thỉnh cầu như vầy:
Các vị tỳ khưu ấy nên được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Xin các đại đức hãy lắng nghe tôi, hôm nay là ngày lễ Pavāraṇā vào ngày mười lăm. Nếu là thời điểm thích hợp cho các đại đức, chúng ta nên thỉnh cầu lẫn nhau.”
Vị tỳ khưu trưởng lão nên đắp thượng y một bên vai, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói với các vị tỳ khưu ấy như vầy:
“Này các sư đệ, tôi xin thỉnh cầu các đại đức. Do đã được thấy, hoặc do đã được nghe, hoặc do sự nghi ngờ, vì lòng thương xót xin các đại đức hãy nói với tôi. Khi nhận ra tôi sẽ sửa chữa.
Này các sư đệ, tôi xin thỉnh cầu các đại đức lần thứ nhì. Do đã được thấy, hoặc do đã được nghe, hoặc do sự nghi ngờ, vì lòng thương xót xin các đại đức hãy nói với tôi. Khi nhận ra tôi sẽ sửa chữa.
Này các sư đệ, tôi xin thỉnh cầu các đại đức lần thứ ba. Do đã được thấy, hoặc do đã được nghe, hoặc do sự nghi ngờ, vì lòng thương xót xin các đại đức hãy nói với tôi. Khi nhận ra tôi sẽ sửa chữa.”
Vị tỳ khưu mới tu nên đắp thượng y một bên vai, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói với vị các tỳ khưu ấy như vầy:
“Bạch các ngài, tôi xin thỉnh cầu các đại đức. Do đã được thấy, hoặc do đã được nghe, hoặc do sự nghi ngờ, vì lòng thương xót xin các đại đức hãy nói với tôi. Khi nhận ra tôi sẽ sửa chữa.
Bạch các ngài, tôi xin thỉnh cầu các đại đức lần thứ nhì. Do đã được thấy, hoặc do đã được nghe, hoặc do sự nghi ngờ, vì lòng thương xót xin các đại đức hãy nói với tôi. Khi nhận ra tôi sẽ sửa chữa.
Bạch các ngài, tôi xin thỉnh cầu các đại đức lần thứ ba. Do đã được thấy, hoặc do đã được nghe, hoặc do sự nghi ngờ, vì lòng thương xót xin các đại đức hãy nói với tôi. Khi nhận ra tôi sẽ sửa chữa.”
Vào lúc bấy giờ, tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā có ba vị tỳ khưu cư ngụ. Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đã khởi ý điều này: “Đức Thế Tôn đã cho phép thỉnh cầu hội chúng đối với năm (vị), thỉnh cầu lẫn nhau đối với bốn (vị) và chúng ta là ba người, vậy chúng ta nên thực hiện lễ Pavāraṇā như thế nào?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép thỉnh cầu lẫn nhau đối với ba (vị). Và này các tỳ khưu, nên thỉnh cầu như vầy:
Các vị tỳ khưu ấy cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Xin các đại đức hãy lắng nghe tôi, hôm nay là ngày lễ Pavāraṇā vào ngày mười lăm. Nếu là thời điểm thích hợp cho các đại đức, chúng ta nên thỉnh cầu lẫn nhau.”
Vị tỳ khưu trưởng lão nên đắp thượng y một bên vai, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói với vị các tỳ khưu ấy như vầy:
“Này các sư đệ, tôi xin thỉnh cầu các đại đức. Do đã được thấy, hoặc do đã được nghe, hoặc do sự nghi ngờ, vì lòng thương xót xin các đại đức hãy nói với tôi. Khi nhận ra tôi sẽ sửa chữa.
Này các sư đệ, tôi xin thỉnh cầu các đại đức lần thứ nhì. Do đã được thấy, hoặc do đã được nghe, hoặc do sự nghi ngờ, vì lòng thương xót xin các đại đức hãy nói với tôi. Khi nhận ra tôi sẽ sửa chữa.
Này các sư đệ, tôi xin thỉnh cầu các đại đức lần thứ ba. Do đã được thấy, hoặc do đã được nghe, hoặc do sự nghi ngờ, vì lòng thương xót xin các đại đức hãy nói với tôi. Khi nhận ra tôi sẽ sửa chữa.”
Vị tỳ khưu mới tu nên đắp thượng y một bên vai, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói với các vị tỳ khưu ấy như vầy:
“Bạch các ngài, tôi xin thỉnh cầu các đại đức. Do đã được thấy, hoặc do đã được nghe, hoặc do sự nghi ngờ, vì lòng thương xót xin các đại đức hãy nói với tôi. Khi nhận ra tôi sẽ sửa chữa.
Bạch các ngài, tôi xin thỉnh cầu các đại đức lần thứ nhì. Do đã được thấy, hoặc do đã được nghe, hoặc do sự nghi ngờ, vì lòng thương xót xin các đại đức hãy nói với tôi. Khi nhận ra tôi sẽ sửa chữa.
Bạch các ngài, tôi xin thỉnh cầu các đại đức lần thứ ba. Do đã được thấy, hoặc do đã được nghe, hoặc do sự nghi ngờ, vì lòng thương xót xin các đại đức hãy nói với tôi. Khi nhận ra tôi sẽ sửa chữa.”
Vào lúc bấy giờ, tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā có hai vị tỳ khưu cư ngụ. Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đã khởi ý điều này: “Đức Thế Tôn đã cho phép thỉnh cầu hội chúng đối với năm (vị), thỉnh cầu lẫn nhau đối với bốn (vị),thỉnh cầu lẫn nhau đối với ba (vị) và chúng ta là hai người, vậy chúng ta nên thực hiện lễ Pavāraṇā như thế nào?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép thỉnh cầu lẫn nhau đối với hai (vị). Và này các tỳ khưu, nên thỉnh cầu như vầy:
Vị tỳ khưu trưởng lão nên đắp thượng y một bên vai, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói với vị tỳ khưu mới tu như vầy:
“Này sư đệ, tôi xin thỉnh cầu đại đức. Do đã được thấy, hoặc do đã được nghe, hoặc do sự nghi ngờ, vì lòng thương xót xin đại đức hãy nói với tôi. Khi nhận ra tôi sẽ sửa chữa.
Này sư đệ, tôi xin thỉnh cầu đại đức lần thứ nhì. Do đã được thấy, hoặc do đã được nghe, hoặc do sự nghi ngờ, vì lòng thương xót xin đại đức hãy nói với tôi. Khi nhận ra tôi sẽ sửa chữa.
Này sư đệ, tôi xin thỉnh cầu đại đức lần thứ ba. Do đã được thấy, hoặc do đã được nghe, hoặc do sự nghi ngờ, vì lòng thương xót xin đại đức hãy nói với tôi. Khi nhận ra tôi sẽ sửa chữa.”
Vị tỳ khưu mới tu nên đắp thượng y một bên vai, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói với vị tỳ khưu trưởng lão như vầy:
“Bạch ngài, tôi xin thỉnh cầu đại đức. Do đã được thấy, hoặc do đã được nghe, hoặc do sự nghi ngờ, vì lòng thương xót xin đại đức hãy nói với tôi. Khi nhận ra tôi sẽ sửa chữa.
Bạch ngài, tôi xin thỉnh cầu đại đức lần thứ nhì. Do đã được thấy, hoặc do đã được nghe, hoặc do sự nghi ngờ, vì lòng thương xót xin đại đức hãy nói với tôi. Khi nhận ra tôi sẽ sửa chữa.
Bạch ngài, tôi xin thỉnh cầu đại đức lần thứ ba. Do đã được thấy, hoặc do đã được nghe, hoặc do sự nghi ngờ, vì lòng thương xót xin đại đức hãy nói với tôi. Khi nhận ra tôi sẽ sửa chữa.”
Vào lúc bấy giờ, tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā có một vị tỳ khưu cư ngụ. Khi ấy, vị tỳ khưu ấy đã khởi ý điều này: “Đức Thế Tôn đã cho phép thỉnh cầu hội chúng đối với năm (vị), thỉnh cầu lẫn nhau đối với bốn (vị), thỉnh cầu lẫn nhau đối với ba (vị), thỉnh cầu lẫn nhau đối với hai (vị) và ta chỉ có một mình, vậy ta nên thực hiện lễ Pavāraṇā như thế nào?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā có một vị tỳ khưu cư ngụ. Này các tỳ khưu, chỗ nào các vị tỳ khưu thường quay trở về là ở giảng đường, hoặc ở mái che, hoặc ở gốc cây, vị tỳ khưu ấy nên quét khu vực ấy, nên đem lại nước uống nước rửa, nên sắp đặt chỗ ngồi, nên thắp sáng đèn, rồi nên ngồi xuống. Nếu có các tỳ khưu khác đi đến thì nên thực hiện lễ Pavāraṇā với các vị ấy; nếu không có ai đi đến thì nên chú nguyện rằng: “Hôm nay là lễ Pavāraṇā của tôi.” Nếu không chú nguyện thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Này các tỳ khưu, trường hợp ở nơi có năm vị tỳ khưu cư ngụ, không nên chuyển đạt lời thỉnh cầu của một vị rồi thỉnh cầu hội chúng bởi bốn vị. Nếu các vị thỉnh cầu thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Này các tỳ khưu, trường hợp ở nơi có bốn vị tỳ khưu cư ngụ, không nên chuyển đạt lời thỉnh cầu của một vị rồi thỉnh cầu lẫn nhau bởi ba (vị). Nếu các vị thỉnh cầu thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Này các tỳ khưu, trường hợp ở nơi có ba vị tỳ khưu cư ngụ, không nên chuyển đạt lời thỉnh cầu của một vị rồi thỉnh cầu lẫn nhau bởi hai (vị). Nếu các vị thỉnh cầu thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Này các tỳ khưu, trường hợp ở nơi có hai vị tỳ khưu cư ngụ, không nên chuyển đạt lời thỉnh cầu của một vị rồi chú nguyện bởi một (vị). Nếu chú nguyện thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[232] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị phạm tội vào ngày lễ Pavāraṇā. Khi ấy, vị tỳ khưu ấy đã khởi ý điều này: “Đức Thế Tôn đã quy định rằng: ‘Vị bị phạm tội không nên tiến hành lễ Pavāraṇā’ và ta thì bị phạm tội; vậy ta nên thực hành như thế nào?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu bị phạm tội vào ngày lễ Pavāraṇā. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy nên đi đến gặp một vị tỳ khưu, nên đắp thượng y một bên vai, nên ngồi chồm hổm, nên chắp tay lên, và nên nói như vầy:
– Bạch đại đức, tôi đã phạm tội tên (như vầy), tôi xin sám hối tội ấy.
Vị kia nên nói rằng:
– (Đại đức) có thấy (tội ấy) không?
– Thưa có, tôi thấy.
– (Đại đức) hãy thu thúc trong tương lai.
Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu có nghi ngờ về sự phạm tội vào ngày lễ Pavāraṇā. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy nên đi đến gặp một vị tỳ khưu, nên đắp thượng y một bên vai, nên ngồi chồm hổm, nên chắp tay lên, và nên nói như vầy:
– Bạch đại đức, tôi có nghi ngờ về sự phạm (một) tội tên (như vầy), khi nào tôi dứt khỏi hoài nghi khi ấy tôi sẽ sửa chữa tội ấy.
Nói xong thì lễ Pavāraṇā nên được tiến hành, nhưng không nên làm chướng ngại cho lễ Pavāraṇā chỉ vì nguyên nhân ấy.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ trong lúc đang được thỉnh cầu thì nhớ ra tội. Khi ấy, vị tỳ khưu ấy đã khởi ý điều này: “Đức Thế Tôn đã quy định rằng: ‘Vị bị phạm tội không nên thỉnh cầu’ và ta thì bị phạm tội; vậy ta nên thực hành như thế nào?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc đang được thỉnh cầu thì nhớ ra tội. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy nên nói với vị tỳ khưu bên cạnh như vầy: “Bạch đại đức, tôi đã phạm tội tên (như vầy), sau khi đứng dậy khỏi đây tôi sẽ sửa chữa tội ấy.” Nói xong thì nên thỉnh cầu, nhưng không nên làm chướng ngại cho việc thỉnh cầu chỉ vì nguyên nhân ấy.
Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc đang được thỉnh cầu thì có nghi ngờ về sự phạm tội. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy nên nói với vị tỳ khưu bên cạnh như vầy: “Bạch đại đức, tôi có nghi ngờ về sự phạm (một) tội tên (như vầy), khi nào tôi dứt khỏi hoài nghi khi ấy tôi sẽ sửa chữa tội ấy.” Nói xong thì nên thỉnh cầu, nhưng không nên làm chướng ngại cho việc thỉnh cầu chỉ vì nguyên nhân ấy.
Vào lúc bấy giờ, tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā toàn bộ hội chúng đã phạm tội giống nhau. Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đã khởi ý điều này: “Đức Thế Tôn đã quy định rằng: ‘Không nên sám hối tội (đã phạm) giống nhau, không nên ghi nhận tội (đã phạm) giống nhau’ và toàn bộ hội chúng này đã phạm tội giống nhau, vậy chúng ta nên thực hành như thế nào?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā toàn bộ hội chúng đã phạm tội giống nhau. Này các tỳ khưu, ngay trong hôm ấy các vị tỳ khưu ấy nên phái một vị tỳ khưu đi đến trú xứ lân cận (bảo rằng): “Này đại đức, hãy đi và sau khi sửa chữa tội ấy hãy quay trở về, chúng tôi sẽ sửa chữa lại tội ấy trong sự hiện diện của đại đức.” Nếu việc ấy đạt được như thế, việc ấy như vậy là tốt đẹp. Này các tỳ khưu, nếu không đạt được (như thế) thì hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực: “Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Toàn bộ hội chúng này đã phạm tội giống nhau, khi nào (hội chúng) nhìn thấy vị tỳ khưu khác trong sạch không phạm tội khi ấy (hội chúng) sẽ sửa chữa tội ấy trong sự hiện diện của vị ấy.” Nói xong, thì lễ Pavāraṇā nên được tiến hành, nhưng không nên làm chướng ngại cho lễ Pavāraṇā chỉ vì nguyên nhân ấy.
Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā toàn bộ hội chúng có nghi ngờ về sự phạm tội giống nhau. Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực: “Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Toàn bộ hội chúng này có nghi ngờ về sự phạm tội giống nhau, khi nào (hội chúng) dứt khỏi hoài nghi khi ấy (hội chúng) sẽ sửa chữa tội ấy.” Nói xong, thì lễ Pavāraṇā nên được tiến hành, nhưng không nên làm chướng ngại cho lễ Pavāraṇā chỉ vì nguyên nhân ấy.
Dứt tụng phẩm thứ nhất.
[233] Vào lúc bấy giờ, tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā có nhiều vị tỳ khưu thường trú đã tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy đã không biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất rồi đã thực hiện lễ Pavāraṇā. Trong khi các vị ấy đang thỉnh cầu, có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đã đi đến. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā có nhiều vị tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất rồi thực hiện lễ Pavāraṇā. Trong khi các vị ấy đang thỉnh cầu thì có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu ấy nên thỉnh cầu lại. Vô tội đối với các vị đã thỉnh cầu.
Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā có nhiều vị tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất rồi thực hiện lễ Pavāraṇā. Trong khi các vị ấy đang thỉnh cầu, có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) tương đương đi đến. Các vị đã thỉnh cầu là đã thỉnh cầu tốt đẹp, các vị còn lại nên thỉnh cầu. Vô tội đối với các vị đã thỉnh cầu.
Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā có nhiều vị tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất rồi thực hiện lễ Pavāraṇā. Trong khi các vị ấy đang thỉnh cầu, có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) ít hơn đi đến. Các vị đã thỉnh cầu là đã thỉnh cầu tốt đẹp, các vị còn lại nên thỉnh cầu. Vô tội đối với các vị đã thỉnh cầu.
Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā có nhiều vị tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất rồi thực hiện lễ Pavāraṇā. Khi các vị ấy vừa thỉnh cầu xong, có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu ấy nên thỉnh cầu lại. Vô tội đối với các vị đã thỉnh cầu. …(như trên)… có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) tương đương đi đến. Các vị đã thỉnh cầu là đã thỉnh cầu tốt đẹp, (các vị đến sau) nên thỉnh cầu trong sự hiện diện của các vị ấy. Vô tội đối với các vị đã thỉnh cầu. …(như trên)… có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) ít hơn đi đến. Các vị đã thỉnh cầu là đã thỉnh cầu tốt đẹp, (các vị đến sau) nên thỉnh cầu trong sự hiện diện của các vị ấy. Vô tội đối với các vị đã thỉnh cầu.
Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā có nhiều vị tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất rồi thực hiện lễ Pavāraṇā. Khi các vị ấy vừa thỉnh cầu xong, trong khi hội chúng còn chưa đứng lên, có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu ấy nên thỉnh cầu lại. Vô tội đối với các vị đã thỉnh cầu. …(như trên)… có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) tương đương đi đến. …(như trên)… (có số lượng) ít hơn đi đến. Các vị đã thỉnh cầu là đã thỉnh cầu tốt đẹp, (các vị đến sau) nên thỉnh cầu trong sự hiện diện của các vị ấy. Vô tội đối với các vị đã thỉnh cầu.
Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā có nhiều vị tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất rồi thực hiện lễ Pavāraṇā. Khi các vị ấy vừa thỉnh cầu xong, một số thuộc hội chúng đã đứng lên, có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu ấy nên thỉnh cầu lại. Vô tội đối với các vị đã thỉnh cầu. …(như trên)… có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) tương đương đi đến. …(như trên)… (có số lượng) ít hơn đi đến. Các vị đã thỉnh cầu là đã thỉnh cầu tốt đẹp, (các vị đến sau) nên thỉnh cầu trong sự hiện diện của các vị ấy. Vô tội đối với các vị đã thỉnh cầu.
Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā có nhiều vị tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất rồi thực hiện lễ Pavāraṇā. Khi các vị ấy vừa thỉnh cầu xong, toàn bộ hội chúng đã đứng lên, có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu ấy nên thỉnh cầu lại. Vô tội đối với các vị đã thỉnh cầu. …(như trên)… có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) tương đương đi đến. …(như trên)… (có số lượng) ít hơn đi đến. Các vị đã thỉnh cầu là đã thỉnh cầu tốt đẹp, (các vị đến sau) nên thỉnh cầu trong sự hiện diện của các vị ấy. Vô tội đối với các vị đã thỉnh cầu.
Dứt mười lăm trường hợp vô tội.
[234] Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā có nhiều vị tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất rồi thực hiện lễ Pavāraṇā. Trong khi các vị ấy đang thỉnh cầu, có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu ấy nên thỉnh cầu lại. Các vị đã thỉnh cầu thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). …(như trên)… có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) tương đương đi đến. …(như trên)… (có số lượng) ít hơn đi đến. Các vị đã thỉnh cầu là đã thỉnh cầu tốt đẹp, các vị còn lại nên thỉnh cầu. Các vị đã thỉnh cầu thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā có nhiều vị tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất rồi thực hiện lễ Pavāraṇā. Khi các vị ấy vừa thỉnh cầu xong, …(như trên)… trong khi hội chúng còn chưa đứng lên, …(như trên)… một số thuộc hội chúng đã đứng lên, …(như trên)… toàn bộ hội chúng đã đứng lên, có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. …(như trên)… (có số lượng) tương đương đi đến. …(như trên)… (có số lượng) ít hơn đi đến. Các vị đã thỉnh cầu là đã thỉnh cầu tốt đẹp, (các vị đến sau) nên thỉnh cầu trong sự hiện diện của các vị ấy. Các vị đã thỉnh cầu thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Dứt mười lăm trường hợp là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất.
[235] Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā có nhiều vị tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy có sự nghi ngờ rằng: “Lễ Pavāraṇā của chúng ta được phép thực hiện hay không được phép?” rồi thực hiện lễ Pavāraṇā. Trong khi các vị ấy đang thỉnh cầu, có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu ấy nên thỉnh cầu lại. Các vị đã thỉnh cầu thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). …(như trên)… có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) tương đương đi đến. …(như trên)… (có số lượng) ít hơn đi đến. Các vị đã thỉnh cầu là đã thỉnh cầu tốt đẹp, các vị còn lại nên thỉnh cầu. Các vị đã thỉnh cầu thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā có nhiều vị tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy có sự nghi ngờ rằng: “Lễ Pavāraṇā của chúng ta được phép thực hiện hay không được phép?” rồi thực hiện lễ Pavāraṇā. Khi các vị ấy vừa thỉnh cầu xong, …(như trên)… trong khi hội chúng còn chưa đứng lên, …(như trên)… một số thuộc hội chúng đã đứng lên, …(như trên)… toàn bộ hội chúng đã đứng lên, có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. …(như trên)… (có số lượng) tương đương đi đến. …(như trên)… (có số lượng) ít hơn đi đến. Các vị đã thỉnh cầu là đã thỉnh cầu tốt đẹp, (các vị đến sau) nên thỉnh cầu trong sự hiện diện của các vị ấy. Các vị đã thỉnh cầu thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Dứt mười lăm trường hợp nghi ngờ.
[236] Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā có nhiều vị tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị có sự ngần ngại rằng: “Lễ Pavāraṇā vẫn được phép thực hiện đối với chúng ta, chứ không phải không được phép đối với chúng ta” rồi thực hiện lễ Pavāraṇā. Trong khi các vị ấy đang thỉnh cầu, có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu ấy nên thỉnh cầu lại. Các vị đã thỉnh cầu thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). …(như trên)… có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) tương đương đi đến. …(như trên)… (có số lượng) ít hơn đi đến. Các vị đã thỉnh cầu là đã thỉnh cầu tốt đẹp, các vị còn lại nên thỉnh cầu. Các vị đã thỉnh cầu thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā có nhiều vị tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy có sự ngần ngại rằng: “Lễ Pavāraṇā vẫn được phép thực hiện đối với chúng ta, chứ không phải không được phép đối với chúng ta” rồi thực hiện lễ Pavāraṇā. Khi các vị ấy vừa thỉnh cầu xong, …(như trên)… trong khi hội chúng còn chưa đứng lên, …(như trên)… một số thuộc hội chúng đã đứng lên, …(như trên)… toàn bộ hội chúng đã đứng lên, có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. …(như trên)… (có số lượng) tương đương đi đến. …(như trên)… (có số lượng) ít hơn đi đến. Các vị đã thỉnh cầu là đã thỉnh cầu tốt đẹp, (các vị đến sau) nên thỉnh cầu trong sự hiện diện của các vị ấy. Các vị đã thỉnh cầu thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Dứt mười lăm trường hợp có sự ngần ngại.
[237] Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā có nhiều vị tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy có dự tính chia rẽ (nghĩ rằng): “Các vị nầy tiêu mất đi! Các vị nầy chết mất đi! Ai mà cần đến các vị ấy?” rồi thực hiện lễ Pavāraṇā. Trong khi các vị ấy đang thỉnh cầu, có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu ấy nên thỉnh cầu lại. Các vị đã thỉnh cầu thì phạm tội thullaccaya (trọng tội). …(như trên)… có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) tương đương đi đến. …(như trên)… (có số lượng) ít hơn đi đến. Các vị đã thỉnh cầu là đã thỉnh cầu tốt đẹp, các vị còn lại nên thỉnh cầu. Các vị đã thỉnh cầu thì phạm tội thullaccaya (trọng tội).
Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā có nhiều vị tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy có dự tính chia rẽ (nghĩ rằng): “Các vị nầy tiêu mất đi! Các vị nầy chết mất đi! Ai mà cần đến các vị ấy?” rồi thực hiện lễ Pavāraṇā. Khi các vị ấy vừa thỉnh cầu xong, …(như trên)… trong khi hội chúng còn chưa đứng lên, …(như trên)… một số thuộc hội chúng đã đứng lên, …(như trên)… toàn bộ hội chúng đã đứng lên, có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu ấy nên thỉnh cầu lại. Các vị đã thỉnh cầu thì phạm tội thullaccaya (trọng tội). …(như trên)… có các vị tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) tương đương đi đến. …(như trên)… (có số lượng) ít hơn đi đến. Các vị đã thỉnh cầu là đã thỉnh cầu tốt đẹp, (các vị đến sau) nên thỉnh cầu trong sự hiện diện của các vị ấy. Các vị đã thỉnh cầu thì phạm tội thullaccaya (trọng tội).
Dứt mười lăm trường hợp có dự tính chia rẽ.
[238] Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā có nhiều vị tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: “Các vị tỳ khưu thường trú khác đang đi vào trong ranh giới,” …(như trên)… Các vị ấy không biết rằng: “Các vị tỳ khưu thường trú khác đã đi vào trong ranh giới,” …(như trên)… Các vị ấy không nhìn thấy các vị tỳ khưu thường trú khác đang đi vào trong ranh giới, …(như trên)… Các vị ấy không nhìn thấy các vị tỳ khưu thường trú khác đã đi vào trong ranh giới, …(như trên)… Các vị ấy không nghe rằng: “Các vị tỳ khưu thường trú khác đang đi vào trong ranh giới,” …(như trên)… Các vị ấy không nghe rằng: “Các vị tỳ khưu thường trú khác đã đi vào trong ranh giới,” …(như trên)… Theo phương thức của một trăm bảy mươi lăm nhóm ba của vị thường trú với vị thường trú, của vị vãng lai với vị thường trú, của vị thường trú với vị vãng lai, của vị vãng lai với vị vãng lai; theo cách thức thêm vào những phần tương tợ thì tạo ra được bảy trăm nhóm ba.
[239] Này các tỳ khưu, trường hợp ngày mười bốn là của các tỳ khưu thường trú, ngày mười lăm là của các tỳ khưu vãng lai. Nếu các vị thường trú (có số lượng) nhiều hơn thì các vị vãng lai nên thuận theo các vị thường trú. Nếu (có số lượng) bằng nhau thì các vị vãng lai nên thuận theo các vị thường trú. Nếu các vị vãng lai (có số lượng) nhiều hơn thì các vị thường trú nên thuận theo các vị vãng lai.
Này các tỳ khưu, trường hợp ngày mười lăm là của các tỳ khưu thường trú, ngày mười bốn là của các tỳ khưu vãng lai. Nếu các vị thường trú (có số lượng) nhiều hơn thì các vị vãng lai nên thuận theo các vị thường trú. Nếu (có số lượng) bằng nhau thì các vị vãng lai nên thuận theo các vị thường trú. Nếu các vị vãng lai (có số lượng) nhiều hơn thì các vị thường trú nên thuận theo các vị vãng lai.
Này các tỳ khưu, trường hợp ngày đầu tháng là của các tỳ khưu thường trú, ngày mười lăm là của các tỳ khưu vãng lai. Nếu các vị thường trú (có số lượng) nhiều hơn và các vị thường trú không mong muốn thì không nên ban cho sự hợp nhất đến các vị vãng lai; các vị vãng lai nên đi ra khỏi ranh giới rồi tiến hành lễ Pavāraṇā. Nếu (có số lượng) bằng nhau và các vị thường trú không mong muốn thì không nên ban cho sự hợp nhất đến các vị vãng lai; các vị vãng lai nên đi ra khỏi ranh giới rồi tiến hành lễ Pavāraṇā. Nếu các vị vãng lai (có số lượng) nhiều hơn thì các vị thường trú nên ban cho sự hợp nhất đến các vị vãng lai hoặc là nên đi ra khỏi ranh giới.
Này các tỳ khưu, trường hợp ngày mười lăm là của các tỳ khưu thường trú, ngày đầu tháng là của các tỳ khưu vãng lai. Nếu các vị thường trú (có số lượng) nhiều hơn thì các vị vãng lai nên ban cho sự hợp nhất đến các vị thường trú hoặc là nên đi ra khỏi ranh giới. Nếu (có số lượng) bằng nhau thì các vị vãng lai nên ban cho sự hợp nhất đến các vị thường trú hoặc là nên đi ra khỏi ranh giới. Nếu các vị vãng lai (có số lượng) nhiều hơn và các vị vãng lai không mong muốn thì không nên ban cho sự hợp nhất đến các vị thường trú; các vị thường trú nên đi ra khỏi ranh giới rồi tiến hành lễ Pavāraṇā.
[240] Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu vãng lai nhìn thấy sự biểu hiện của việc cư trú, đặc điểm của việc cư trú, hiện tướng của việc cư trú, dấu hiệu của việc cư trú của các vị tỳ khưu thường trú (như là) giường ghế nệm gối được sắp xếp cẩn thận, nước uống nước rửa khéo được bố trí, phòng ốc được quét dọn sạch sẽ, sau khi nhìn thấy khởi lên nghi ngờ: “Có các vị tỳ khưu thường trú hay không có?” Các vị nghi ngờ nhưng không tìm kiếm, sau khi không tìm kiếm rồi tiến hành lễ Pavāraṇā thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). …(như trên)… Các vị nghi ngờ rồi tìm kiếm, sau khi tìm kiếm không nhìn thấy, sau khi không nhìn thấy rồi tiến hành lễ Pavāraṇā thì vô tội. Các vị nghi ngờ rồi tìm kiếm, sau khi tìm kiếm thì nhìn thấy, sau khi nhìn thấy rồi tiến hành lễ Pavāraṇā chung thì vô tội. Các vị nghi ngờ rồi tìm kiếm, sau khi tìm kiếm thì nhìn thấy, sau khi nhìn thấy rồi tiến hành lễ Pavāraṇā riêng rẽ thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Các vị nghi ngờ rồi tìm kiếm, sau khi tìm kiếm thì nhìn thấy, sau khi nhìn thấy có dự tính chia rẽ (nói rằng): “Các vị nầy tiêu mất đi! Các vị nầy chết mất đi! Ai mà cần đến các vị ấy?” rồi tiến hành lễ Pavāraṇā thì phạm tội thullaccaya (trọng tội).
Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu vãng lai nghe được sự biểu hiện của việc cư trú, đặc điểm của việc cư trú, hiện tướng của việc cư trú, dấu hiệu của việc cư trú của các vị tỳ khưu thường trú (như là) tiếng bước chân của những vị đang đi kinh hành, tiếng học bài, tiếng đằng hắng, tiếng hắt hơi, sau khi nghe khởi lên nghi ngờ: “Có các vị tỳ khưu thường trú hay không có?” Các vị nghi ngờ nhưng không tìm kiếm, sau khi không tìm kiếm rồi tiến hành lễ Pavāraṇā thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). …(như trên)… Các vị nghi ngờ rồi tìm kiếm, sau khi tìm kiếm không nhìn thấy, sau khi không nhìn thấy rồi tiến hành lễ Pavāraṇā thì vô tội. Các vị nghi ngờ rồi tìm kiếm, sau khi tìm kiếm thì nhìn thấy, sau khi nhìn thấy rồi tiến hành lễ Pavāraṇā chung thì vô tội. Các vị nghi ngờ rồi tìm kiếm, sau khi tìm kiếm thì nhìn thấy, sau khi nhìn thấy rồi tiến hành lễ Pavāraṇā riêng rẽ thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Các vị nghi ngờ rồi tìm kiếm, sau khi tìm kiếm thì nhìn thấy, sau khi nhìn thấy có dự tính chia rẽ (nói rằng): “Các vị nầy tiêu mất đi! Các vị nầy chết mất đi! Ai mà cần đến các vị ấy?” rồi tiến hành lễ Pavāraṇā thì phạm tội thullaccaya (trọng tội).
Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu thường trú nhìn thấy sự biểu hiện của việc đi đến, đặc điểm của việc đi đến, hiện tướng của việc đi đến, dấu hiệu của việc đi đến của các tỳ khưu vãng lai (như là) bình bát khác lạ, y khác lạ, tọa cụ khác lạ, sự vung vãi nước rửa các bàn chân, sau khi nhìn thấy khởi lên nghi ngờ: “Có các vị tỳ khưu vãng lai hay không có?” Các vị nghi ngờ nhưng không tìm kiếm, sau khi không tìm kiếm rồi tiến hành lễ Pavāraṇā thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). …(như trên)… Các vị nghi ngờ rồi tìm kiếm, sau khi tìm kiếm không nhìn thấy, sau khi không nhìn thấy rồi tiến hành lễ Pavāraṇā thì vô tội. Các vị nghi ngờ rồi tìm kiếm, sau khi tìm kiếm thì nhìn thấy, sau khi nhìn thấy rồi tiến hành lễ Pavāraṇā chung thì vô tội. Các vị nghi ngờ rồi tìm kiếm, sau khi tìm kiếm thì nhìn thấy, sau khi nhìn thấy rồi tiến hành lễ Pavāraṇā riêng rẽ thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Các vị nghi ngờ rồi tìm kiếm, sau khi tìm kiếm thì nhìn thấy, sau khi nhìn thấy có dự tính chia rẽ (nói rằng): “Các vị nầy tiêu mất đi! Các vị nầy chết mất đi! Ai mà cần đến các vị ấy?” rồi tiến hành lễ Pavāraṇā thì phạm tội thullaccaya (trọng tội).
Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu thường trú nghe được sự biểu hiện của việc đi đến, đặc điểm của việc đi đến, hiện tướng của việc đi đến, dấu hiệu của việc đi đến của các tỳ khưu vãng lai (như là) tiếng bước chân của các vị đang đi đến, tiếng động gây nên bởi các đôi dép, tiếng đằng hắng, tiếng hắt hơi, sau khi nghe khởi lên nghi ngờ: “Có các vị tỳ khưu vãng lai hay không có?” Các vị nghi ngờ nhưng không tìm kiếm, sau khi không tìm kiếm rồi tiến hành lễ Pavāraṇā thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). …(như trên)… Các vị nghi ngờ rồi tìm kiếm, sau khi tìm kiếm không nhìn thấy, sau khi không nhìn thấy rồi tiến hành lễ Pavāraṇā thì vô tội. Các vị nghi ngờ rồi tìm kiếm, sau khi tìm kiếm thì nhìn thấy, sau khi nhìn thấy rồi tiến hành lễ Pavāraṇā chung thì vô tội. Các vị nghi ngờ rồi tìm kiếm, sau khi tìm kiếm thì nhìn thấy, sau khi nhìn thấy rồi tiến hành lễ Pavāraṇā riêng rẽ thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Các vị nghi ngờ rồi tìm kiếm, sau khi tìm kiếm thì nhìn thấy, sau khi nhìn thấy có dự tính chia rẽ (nói rằng): “Các vị nầy tiêu mất đi! Các vị nầy chết mất đi! Ai mà cần đến các vị ấy?” rồi tiến hành lễ Pavāraṇā thì phạm tội thullaccaya (trọng tội).
[241] Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu vãng lai nhìn thấy các tỳ khưu thường trú là các vị thuộc nhóm cộng trú khác (nānāsaṃvāsaka). Các vị ấy nhận lầm là thuộc cùng nhóm cộng trú (samānasaṃsāsaka), sau khi nhận lầm là thuộc cùng nhóm cộng trú rồi không hỏi, sau khi không hỏi rồi tiến hành lễ Pavāraṇā chung thì vô tội. …(như trên)… Các vị ấy hỏi, sau khi hỏi vẫn không thay đổi (quan điểm), sau khi không thay đổi (quan điểm) lại tiến hành lễ Pavāraṇā chung thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Các vị ấy hỏi, sau khi hỏi vẫn không thay đổi (quan điểm), sau khi không thay đổi (quan điểm) rồi tiến hành lễ Pavāraṇā riêng rẽ thì vô tội.
Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu vãng lai nhìn thấy các tỳ khưu thường trú là các vị thuộc cùng nhóm cộng trú. Các vị ấy nhận lầm là các vị thuộc nhóm cộng trú khác, sau khi nhận lầm là các vị thuộc nhóm cộng trú khác lại không hỏi, sau khi không hỏi lại tiến hành lễ Pavāraṇā chung thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). …(như trên)… Các vị ấy hỏi, sau khi hỏi rồi thay đổi (quan điểm), sau khi thay đổi (quan điểm) lại tiến hành lễ Pavāraṇā riêng rẽ thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Các vị ấy hỏi, sau khi hỏi rồi thay đổi (quan điểm), sau khi thay đổi (quan điểm) rồi tiến hành lễ Pavāraṇā chung thì vô tội.
Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu thường trú nhìn thấy các tỳ khưu vãng lai là các vị thuộc nhóm cộng trú khác. Các vị ấy nhận lầm là các vị thuộc cùng nhóm cộng trú, sau khi nhận lầm là thuộc cùng nhóm cộng trú rồi không hỏi, sau khi không hỏi rồi tiến hành lễ Pavāraṇā chung thì vô tội. …(như trên)… Các vị ấy hỏi, sau khi hỏi vẫn không thay đổi (quan điểm), sau khi không thay đổi (quan điểm) lại tiến hành lễ Pavāraṇā chung thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Các vị ấy hỏi, sau khi hỏi vẫn không thay đổi (quan điểm), sau khi không thay đổi (quan điểm) rồi tiến hành lễ Pavāraṇā riêng rẽ thì vô tội.
Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu thường trú nhìn thấy các tỳ khưu vãng lai là các vị thuộc cùng nhóm cộng trú. Các vị ấy nhận lầm là các vị thuộc nhóm cộng trú khác, sau khi nhận lầm là các vị thuộc nhóm cộng trú khác rồi không hỏi, sau khi không hỏi lại tiến hành lễ Pavāraṇā chung thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). …(như trên)… Các vị ấy hỏi, sau khi hỏi rồi thay đổi (quan điểm), sau khi thay đổi (quan điểm) lại tiến hành lễ Pavāraṇā riêng rẽ thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Các vị ấy hỏi, sau khi hỏi rồi thay đổi (quan điểm), sau khi thay đổi (quan điểm) rồi tiến hành lễ Pavāraṇā chung thì vô tội.
[242] Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Pavāraṇā từ chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ không có tỳ khưu trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Pavāraṇā từ chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỳ khưu trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Pavāraṇā từ chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỳ khưu trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm.
Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Pavāraṇā từ nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ không có tỳ khưu trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Pavāraṇā từ nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỳ khưu trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Pavāraṇā từ nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỳ khưu trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm.
Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Pavāraṇā từ chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ không có tỳ khưu trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Pavāraṇā từ chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỳ khưu trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Pavāraṇā từ chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỳ khưu trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm.
Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Pavāraṇā từ chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ có tỳ khưu nhưng các tỳ khưu ở nơi ấy là thuộc nhóm cộng trú khác trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Pavāraṇā từ chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nhưng các tỳ khưu ở nơi ấy là thuộc nhóm cộng trú khác trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Pavāraṇā từ chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nhưng các tỳ khưu ở nơi ấy là thuộc nhóm cộng trú khác trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm.
Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Pavāraṇā từ nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ có tỳ khưu …(như trên)… nơi không phải là chỗ trú ngụ …(như trên)… chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nhưng các tỳ khưu ở nơi ấy là thuộc nhóm cộng trú khác trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm.
Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Pavāraṇā từ chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ có tỳ khưu …(như trên)… nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu …(như trên)… chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nhưng các tỳ khưu ở nơi ấy là thuộc nhóm cộng trú khác trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm.
Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Pavāraṇā từ chỗ trú ngụ có tỳ khưu có thể đi đến chỗ trú ngụ có tỳ khưu …(như trên)… nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu …(như trên)… chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu và các tỳ khưu ở nơi ấy thuộc cùng nhóm cộng trú, nếu vị ấy biết rằng: “Ta có thể đi đến nội trong ngày nay.”
Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Pavāraṇā vị tỳ khưu từ nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu có thể đi đến chỗ trú ngụ có tỳ khưu …(như trên)… nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu …(như trên)… chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu và các tỳ khưu ở nơi ấy thuộc cùng nhóm cộng trú, nếu vị ấy biết rằng: “Ta có thể đi đến nội trong ngày nay.”
Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Pavāraṇā vị tỳ khưu từ chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu có thể đi đến chỗ trú ngụ có tỳ khưu …(như trên)… nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu …(như trên)… chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu và các tỳ khưu ở nơi ấy thuộc cùng nhóm cộng trú, nếu vị ấy biết rằng: “Ta có thể đi đến nội trong ngày nay.”
[243] Này các tỳ khưu, không nên thỉnh cầu với hội chúng đã ngồi xuống có vị tỳ khưu ni; vị nào thỉnh cầu thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, không nên thỉnh cầu với hội chúng đã ngồi xuống có cô ni tu tập sự … có vị sa di … có vị sa di ni … có người đã từ bỏ điều học … có vị đã phạm tội cực nặng; vị nào thỉnh cầu thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không nên thỉnh cầu với hội chúng đã ngồi xuống có vị bị án treo trong việc không nhìn nhận tội; vị nào thỉnh cầu thì nên được hành xử theo pháp. Không nên thỉnh cầu với hội chúng đã ngồi xuống có vị bị án treo trong việc không sửa chữa lỗi … có vị bị án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác; vị nào thỉnh cầu thì nên được hành xử theo pháp.[3]
Này các tỳ khưu, không nên thỉnh cầu với hội chúng đã ngồi xuống có kẻ vô căn; vị nào thỉnh cầu thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Không nên thỉnh cầu với hội chúng đã ngồi xuống có kẻ trộm tướng mạo (tỳ khưu) … có kẻ đã chuyển sang ngoại đạo … có loài thú … có kẻ giết mẹ … có kẻ giết cha … có kẻ giết A-la-hán … có kẻ làm nhơ nhớp tỳ khưu ni … có kẻ chia rẽ hội chúng … có kẻ làm chảy máu đức Phật … có kẻ lưỡng căn; vị nào thỉnh cầu thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Này các tỳ khưu, lễ Pavāraṇā không nên tiến hành với việc bày tỏ lời thỉnh cầu của vị hành parivāsa, trừ trường hợp tập thể không bị cách ly (avuṭṭhitāya parisāya).[4]
Này các tỳ khưu, không nên tiến hành lễ Pavāraṇā không nhằm ngày Pavāraṇā trừ phi vào lúc hợp nhất hội chúng.
Dứt tụng phẩm thứ nhì.
[244] Vào lúc bấy giờ, tại trú xứ nọ trong xứ Kosala vào ngày lễ Pavāraṇā đã có sự sợ hãi vì bọn người hung tợn. Các vị tỳ khưu đã không thể thỉnh cầu ba lần đọc. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép thỉnh cầu hai lần đọc.
Đã có sự sợ hãi dữ dội hơn vì bọn người hung tợn. Các vị tỳ khưu đã không thể thỉnh cầu hai lần đọc. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép thỉnh cầu một lần đọc.
Đã có sự sợ hãi dữ dội hơn vì bọn người hung tợn. Các vị tỳ khưu đã không thể thỉnh cầu một lần đọc. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép thỉnh cầu (cùng một lượt) theo sự đồng năm tu (samānavassikaṃ).
Vào lúc bấy giờ, tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā trong khi dân chúng còn đang cúng dường vật thí thì đêm đã gần tàn. Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đã khởi ý rằng: “Trong khi những người này còn đang cúng dường vật thí thì đêm đã gần tàn, nếu hội chúng sẽ thỉnh cầu ba lần đọc thì hội chúng sẽ không thỉnh cầu xong và khi ấy đêm nay sẽ hừng sáng, vậy chúng ta nên thực hành như thế nào?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā trong khi dân chúng còn đang cúng dường vật thí thì đêm đã gần tàn. Nếu các vị tỳ khưu ở đó khởi ý như vầy: “Trong khi những người này còn đang cúng dường vật thí thì đêm đã gần tàn, nếu hội chúng sẽ thỉnh cầu ba lần đọc thì hội chúng sẽ không thỉnh cầu xong và khi ấy đêm nay sẽ hừng sáng.” Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực: “Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi, trong khi dân chúng còn đang cúng dường vật thí thì đêm đã gần tàn, nếu hội chúng sẽ thỉnh cầu ba lần đọc thì hội chúng sẽ không thỉnh cầu xong và khi ấy đêm nay sẽ hừng sáng. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên thỉnh cầu hai lần đọc, (hoặc) một lần đọc, (hoặc) theo sự đồng năm tu.”
Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā, trong khi các vị tỳ khưu đang giảng Pháp, trong khi các vị chuyên về Kinh đang trùng tụng về Kinh, trong khi các vị chuyên về Luật đang hỏi về Luật, trong khi các vị Pháp sư đang thảo luận về Pháp, trong khi các vị tỳ khưu đang tranh cãi thì đêm đã gần tàn, nếu các vị tỳ khưu ở đó khởi ý như vầy: “Trong khi các vị tỳ khưu đang tranh cãi thì đêm đã gần tàn, nếu hội chúng sẽ thỉnh cầu ba lần đọc thì hội chúng sẽ không thỉnh cầu xong và khi ấy đêm nay sẽ hừng sáng.” Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực: “Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Trong khi các vị tỳ khưu đang tranh cãi thì đêm đã gần tàn, nếu hội chúng sẽ thỉnh cầu ba lần đọc thì hội chúng sẽ không thỉnh cầu xong và khi ấy đêm nay sẽ hừng sáng. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên thỉnh cầu hai lần đọc, (hoặc) một lần đọc, (hoặc) theo sự đồng năm tu.”
Vào lúc bấy giờ, tại trú xứ nọ trong xứ Kosala vào ngày lễ Pavāraṇā, có hội chúng tỳ khưu đông đảo đã tụ hội lại. Chỗ trú mưa thì ít oi và đám mây đen lớn đã kéo đến. Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đã khởi ý điều này: “Hội chúng tỳ khưu đông đảo này đã tụ hội lại. Chỗ trú mưa thì ít oi và đám mây đen lớn đã kéo đến. Nếu hội chúng sẽ thỉnh cầu ba lần đọc thì hội chúng sẽ không thỉnh cầu xong và đám mây đen này sẽ đổ mưa, vậy chúng ta nên thực hành như thế nào?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā, có hội chúng tỳ khưu đông đảo tụ hội lại. Chỗ trú mưa thì ít oi và đám mây đen lớn kéo đến. Nếu các vị tỳ khưu ở đó khởi ý như vầy: “Hội chúng tỳ khưu đông đảo này đã tụ hội lại. Chỗ trú mưa thì ít oi và đám mây đen lớn đã kéo đến. Nếu hội chúng sẽ thỉnh cầu ba lần đọc thì hội chúng sẽ không thỉnh cầu xong và đám mây đen này sẽ đổ mưa.” Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực: “Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Hội chúng tỳ khưu đông đảo này đã tụ hội lại. Chỗ trú mưa thì ít oi và đám mây đen lớn đã kéo đến. Nếu hội chúng sẽ thỉnh cầu ba lần đọc thì hội chúng sẽ không thỉnh cầu xong và đám mây đen này sẽ đổ mưa. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên thỉnh cầu hai lần đọc, (hoặc) một lần đọc, (hoặc) theo sự đồng năm tu.”
Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraṇā, có sự nguy hiểm từ đức vua. …(như trên)… có sự nguy hiểm vì trộm cướp, có sự nguy hiểm vì hỏa hoạn, có sự nguy hiểm vì nước ngập, có sự nguy hiểm vì loài người, có sự nguy hiểm vì phi nhân, có sự nguy hiểm vì thú dữ, có sự nguy hiểm vì rắn, có sự nguy hiểm cho mạng sống, có sự nguy hiểm cho Phạm hạnh. Nếu các vị tỳ khưu ở đó khởi ý như vầy: “Đây là sự nguy hiểm cho Phạm hạnh. Nếu hội chúng sẽ thỉnh cầu ba lần đọc thì hội chúng sẽ không thỉnh cầu xong và điều này sẽ là sự nguy hiểm cho Phạm hạnh.” Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực: “Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Đây là sự nguy hiểm cho Phạm hạnh. Nếu hội chúng sẽ thỉnh cầu ba lần đọc thì hội chúng sẽ không thỉnh cầu xong và điều này sẽ là sự nguy hiểm cho Phạm hạnh. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên thỉnh cầu hai lần đọc, (hoặc) một lần đọc, (hoặc) theo sự đồng năm tu.”
[245] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư là những vị có phạm tội tiến hành lễ Pavāraṇā. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, vị có phạm tội không nên thỉnh cầu; vị nào thỉnh cầu thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, vị nào có phạm tội mà thỉnh cầu thì ta cho phép buộc tội vị ấy sau khi đã thỉnh ý trước.
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư trong khi được thỉnh ý trước đã không ưng thuận để cho thỉnh ý (okāsaṃ kātuṃ). Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép đình chỉ lễ Pavāraṇā đối với vị không để cho thỉnh ý. Và này các tỳ khưu, nên đình chỉ như vầy: Vào ngày lễ Pavāraṇā là ngày mười bốn hoặc mười lăm, trong khi nhân vật ấy có hiện diện ở giữa hội chúng, nên trình lên rằng: “Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Nhân vật tên (như vầy) có phạm tội vẫn thỉnh cầu. Tôi đình chỉ sự thỉnh cầu (lễ Pavāraṇā)[5] của vị ấy. Không nên thỉnh cầu (tiến hành lễ Pavāraṇā) trong sự hiện diện của vị ấy.” Sự thỉnh cầu (lễ Pavāraṇā) đã được đình chỉ.
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư (nghĩ rằng): “Trước hết, các vị tỳ khưu hiền thiện sẽ đình chỉ lễ Pavāraṇā của chúng ta” nên ra tay trước đình chỉ lễ Pavāraṇā của các vị tỳ khưu trong sạch không phạm tội không có cơ sở không có nguyên nhân, (đồng thời) đình chỉ sự thỉnh cầu (lễ Pavāraṇā) của các vị đã thỉnh cầu xong (đã hành xong lễ Pavāraṇā). Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên đình chỉ lễ Pavāraṇā của các vị tỳ khưu trong sạch không phạm tội khi không có cơ sở không có nguyên nhân; vị nào đình chỉ thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Và này các tỳ khưu, không nên đình chỉ sự thỉnh cầu (lễ Pavāraṇā) của các vị đã thỉnh cầu xong (đã hành xong lễ Pavāraṇā); vị nào đình chỉ thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[246] Này các tỳ khưu, như vầy là lễ Pavāraṇā bị đình chỉ, như vầy là không bị đình chỉ.
Này các tỳ khưu, thế nào là lễ Pavāraṇā không bị đình chỉ?
Này các tỳ khưu, trong lễ Pavāraṇā ba lần đọc, nếu đình chỉ lễ Pavāraṇā vào lúc đã đọc, đã nói, đã hoàn tất thì lễ Pavāraṇā không bị đình chỉ. Này các tỳ khưu, trong lễ Pavāraṇā hai lần đọc, nếu … Này các tỳ khưu, trong lễ Pavāraṇā một lần đọc, nếu … Này các tỳ khưu, trong lễ Pavāraṇā (đọc một lượt) theo sự đồng năm tu, nếu đình chỉ lễ Pavāraṇā vào lúc đã đọc, đã nói, đã hoàn tất thì lễ Pavāraṇā không bị đình chỉ. Này các tỳ khưu, như thế là lễ Pavāraṇā không bị đình chỉ.
Này các tỳ khưu, thế nào là lễ Pavāraṇā bị đình chỉ?
Này các tỳ khưu, trong lễ Pavāraṇā ba lần đọc, nếu đình chỉ lễ Pavāraṇā trong lúc được đọc, được nói, (nhưng) chưa được hoàn tất thì lễ Pavāraṇā bị đình chỉ. Này các tỳ khưu, trong lễ Pavāraṇā hai lần đọc, nếu … Này các tỳ khưu, trong lễ Pavāraṇā một lần đọc, nếu … Này các tỳ khưu, trong lễ Pavāraṇā (đọc một lượt) theo sự đồng năm tu, nếu đình chỉ lễ Pavāraṇā trong lúc được đọc, được nói, (nhưng) chưa được hoàn tất thì lễ Pavāraṇā bị đình chỉ. Này các tỳ khưu, như thế là lễ Pavāraṇā bị đình chỉ.
[247] Này các tỳ khưu, trường hợp trong ngày lễ Pavāraṇā, có vị tỳ khưu đình chỉ sự thỉnh cầu (lễ Pavāraṇā) của vị tỳ khưu. Nếu các vị tỳ khưu khác biết về vị tỳ khưu ấy rằng: “Đại đức này có sở hành về thân không được trong sạch, có sở hành về khẩu không được trong sạch, có sự nuôi mạng không được trong sạch, (là vị) ngu dốt, không kinh nghiệm, không có năng lực đối đáp lại khi bị tra hỏi.” Sau khi đã răn đe rằng: “Này tỳ khưu, thôi đi! Chớ có sự xung đột, chớ có sự cãi cọ, chớ có sự tranh luận, chớ có sự tranh tụng!” rồi hội chúng nên tiến hành lễ Pavāraṇā.
Này các tỳ khưu, trường hợp trong ngày lễ Pavāraṇā, có vị tỳ khưu đình chỉ sự thỉnh cầu (lễ Pavāraṇā) của vị tỳ khưu. Nếu các vị tỳ khưu khác biết về vị tỳ khưu (đình chỉ) ấy rằng: “Đại đức này có sở hành về thân được trong sạch, có sở hành về khẩu không được trong sạch, có sự nuôi mạng không được trong sạch, (là vị) ngu dốt, không kinh nghiệm, không có năng lực đối đáp lại khi bị tra hỏi.” Sau khi đã răn đe rằng: “Này tỳ khưu, thôi đi! Chớ có sự xung đột, chớ có sự cãi cọ, chớ có sự tranh luận, chớ có sự tranh tụng!” rồi hội chúng nên tiến hành lễ Pavāraṇā.
Này các tỳ khưu, trường hợp trong ngày lễ Pavāraṇā, có vị tỳ khưu đình chỉ sự thỉnh cầu (lễ Pavāraṇā) của vị tỳ khưu. Nếu các vị tỳ khưu khác biết về vị tỳ khưu (đình chỉ) ấy rằng: “Đại đức này có sở hành về thân được trong sạch, có sở hành về khẩu được trong sạch, có sự nuôi mạng không được trong sạch, (là vị) ngu dốt, không kinh nghiệm, không có năng lực đối đáp lại khi bị tra hỏi.” Sau khi đã răn đe rằng: “Này tỳ khưu, thôi đi! Chớ có sự xung đột, chớ có sự cãi cọ, chớ có sự tranh luận, chớ có sự tranh tụng!” rồi hội chúng nên tiến hành lễ Pavāraṇā.
Này các tỳ khưu, trường hợp trong ngày lễ Pavāraṇā, có vị tỳ khưu đình chỉ sự thỉnh cầu (lễ Pavāraṇā) của vị tỳ khưu. Nếu các vị tỳ khưu khác biết về vị tỳ khưu (đình chỉ) ấy rằng: “Đại đức này có sở hành về thân được trong sạch, có sở hành về khẩu được trong sạch, có sự nuôi mạng được trong sạch, (là vị) ngu dốt, không kinh nghiệm, không có năng lực đối đáp lại khi bị tra hỏi.” Sau khi đã răn đe rằng: “Này tỳ khưu, thôi đi! Chớ có sự xung đột, chớ có sự cãi cọ, chớ có sự tranh luận, chớ có sự tranh tụng!” rồi hội chúng nên tiến hành lễ Pavāraṇā.
Này các tỳ khưu, trường hợp trong ngày lễ Pavāraṇā, có vị tỳ khưu đình chỉ sự thỉnh cầu (lễ Pavāraṇā) của vị tỳ khưu. Nếu các vị tỳ khưu khác biết về vị tỳ khưu (đình chỉ) ấy rằng: “Đại đức này có sở hành về thân được trong sạch, có sở hành về khẩu được trong sạch, có sự nuôi mạng được trong sạch, (là vị) thông thái, có kinh nghiệm, thông minh, có năng lực đối đáp lại khi bị tra hỏi.” Vị (đình chỉ) ấy nên được nói như sau: “Này đại đức, việc đại đức đình chỉ lễ Pavāraṇā của vị tỳ khưu này, đại đức đình chỉ vị này do điều gì? Đại đức đình chỉ do sự hư hỏng về giới? Đại đức đình chỉ do sự hư hỏng về hạnh kiểm? Đại đức đình chỉ do sự hư hỏng về tri kiến?”
Nếu vị ấy nói như vầy: “Tôi đình chỉ do sự hư hỏng về giới. Tôi đình chỉ do sự hư hỏng về hạnh kiểm. Tôi đình chỉ do sự hư hỏng về tri kiến.” Vị (đình chỉ) ấy nên được nói như sau: “Đại đức có biết sự hư hỏng về giới không? Đại đức có biết sự hư hỏng về hạnh kiểm không? Đại đức có biết sự hư hỏng về tri kiến không?”
Nếu vị ấy nói như vầy: “Này các đại đức, tôi biết sự hư hỏng về giới. Tôi biết sự hư hỏng về hạnh kiểm. Tôi biết sự hư hỏng về tri kiến.” Vị (đình chỉ) ấy nên được nói như sau: “Này đại đức, điều gì là sự hư hỏng về giới? Điều gì là sự hư hỏng về hạnh kiểm? Điều gì là sự hư hỏng về tri kiến?”
Nếu vị ấy nói như vầy: “Bốn pārājika (bất cộng trụ), mười ba saṅghādisesa (tăng tàng), đó là sự hư hỏng về giới. Tội thullaccaya (trọng tội), pācittiya (ưng đối trị), pāṭidesanīya (ưng phát lộ), dukkaṭa (tác ác), dubbhāsita (ác khẩu), đó là sự hư hỏng về hạnh kiểm. Tà kiến, tri kiến cực đoan, đó là sự hư hỏng về tri kiến.” Vị (đình chỉ) ấy nên được nói như sau: “Này đại đức, việc đại đức đình chỉ lễ Pavāraṇā của vị tỳ khưu này, có phải đại đức đình chỉ do đã được thấy,? Có phải đại đức đình chỉ do đã được nghe? Có phải đại đức đình chỉ do sự nghi ngờ?”
Nếu vị ấy nói như vầy: “Tôi đình chỉ do đã được thấy,. Hoặc là tôi đình chỉ do đã được nghe. Hoặc là tôi đình chỉ do sự nghi ngờ.” Vị (đình chỉ) ấy nên được nói như sau: “Này đại đức, việc đại đức đình chỉ lễ Pavāraṇā của vị tỳ khưu này do đã được thấy, đại đức đã thấy gì? Đại đức đã thấy thế nào? Đại đức đã thấy khi nào? Đại đức đã thấy ở đâu? Có phải đại đức đã thấy vị này đang phạm pārājika? Đã thấy (vị này) đang phạm saṅghādisesa? Đã thấy (vị này) đang phạm thullaccaya, pācittiya, pāṭidesanīya, dukkaṭa, dubbhāsita? Và đại đức đã ở đâu? Và vị tỳ khưu này đã ở đâu? Và đại đức đã làm gì? Và vị tỳ khưu này đã làm gì?”
Nếu vị ấy nói như vầy: “Này các đại đức, tôi không đình chỉ lễ Pavāraṇā của vị tỳ khưu này do đã được thấy, tuy nhiên tôi đình chỉ lễ Pavāraṇā do đã được nghe.” Vị (đình chỉ) ấy nên được nói như sau: “Này đại đức, việc đại đức đình chỉ lễ Pavāraṇā của vị tỳ khưu này do đã được nghe, đại đức đã nghe gì? Đại đức đã nghe thế nào? Đại đức đã nghe khi nào? Đại đức đã nghe ở đâu? (Có phải đại đức) đã nghe rằng: ‘Vị này đã phạm pārājika’? (Có phải đại đức) đã nghe rằng: ‘Vị này đã phạm saṅghādisesa’? (Có phải đại đức) đã nghe rằng: ‘Vị này đã phạm thullaccaya, pācittiya, pāṭidesanīya, dukkaṭa, dubbhāsita’? Có phải đại đức đã nghe từ vị tỳ khưu? Đã nghe từ vị tỳ khưu ni? Đã nghe từ cô ni tu tập sự? Đã nghe từ vị sa di? Đã nghe từ vị sa di ni? Đã nghe từ nam cư sĩ? Đã nghe từ nữ cư sĩ? Đã nghe từ các đức vua? Đã nghe từ các quan đại thần của đức vua? Đã nghe từ các ngoại đạo? Đã nghe từ các đệ tử của ngoại đạo?”
Nếu vị ấy nói như vầy: “Này các đại đức, tôi không đình chỉ lễ Pavāraṇā của vị tỳ khưu này do đã được nghe, tuy nhiên tôi đình chỉ lễ Pavāraṇā do sự nghi ngờ.” Vị (đình chỉ) ấy nên được nói như sau: “Này đại đức, việc đại đức đình chỉ lễ Pavāraṇā của vị tỳ khưu này do sự nghi ngờ, đại đức nghi ngờ gì? Đại đức nghi ngờ như thế nào? Đại đức nghi ngờ khi nào? Đại đức nghi ngờ ở đâu? Có phải đại đức nghi ngờ rằng: ‘Vị này đã phạm pārājika’? Có phải đại đức nghi ngờ rằng: ‘Vị này đã phạm saṅghādisesa’? Có phải đại đức nghi ngờ rằng: ‘Vị này đã phạm thullaccaya, pācittiya, pāṭidesanīya, dukkaṭa, dubbhāsita’? Có phải đại đức nghi ngờ sau khi nghe từ vị tỳ khưu? Nghi ngờ sau khi nghe từ vị tỳ khưu ni? Nghi ngờ sau khi nghe từ cô ni tu tập sự? Nghi ngờ sau khi nghe từ vị sa di? Nghi ngờ sau khi nghe từ vị sa di ni? Nghi ngờ sau khi nghe từ nam cư sĩ? Nghi ngờ sau khi nghe từ nữ cư sĩ? Nghi ngờ sau khi nghe từ các đức vua? Nghi ngờ sau khi nghe từ các quan đại thần của đức vua? Nghi ngờ sau khi nghe từ các ngoại đạo? Nghi ngờ sau khi nghe từ các đệ tử của ngoại đạo?”
Nếu vị ấy nói như vầy: “Này các đại đức, tôi không đình chỉ lễ Pavāraṇā của vị tỳ khưu này do sự nghi ngờ, tuy nhiên tôi cũng không biết do điều gì tôi đình chỉ lễ Pavāraṇā của vị tỳ khưu này.” Này các tỳ khưu, nếu vị tỳ khưu buộc tội không làm thỏa mãn tâm của các vị đồng Phạm hạnh thông minh bằng lời đối đáp thì vừa đủ cho lời nói rằng: “Vị bị buộc tội là không có tội.” Này các tỳ khưu, nếu vị tỳ khưu buộc tội làm thỏa mãn tâm của các vị đồng Phạm hạnh thông minh bằng lời đối đáp thì vừa đủ cho lời nói rằng: “Vị bị buộc tội là có tội.”
Này các tỳ khưu, nếu vị tỳ khưu buộc tội thú nhận là (vị kia) đã bị bôi nhọ với tội pārājika không có căn cứ, sau khi khép (vị buộc tội) vào tội saṅghādisesa rồi hội chúng nên tiến hành lễ Pavāraṇā. Này các tỳ khưu, nếu vị tỳ khưu buộc tội thú nhận là (vị kia) đã bị bôi nhọ với tội saṅghādisesa không có căn cứ, sau khi cho hành xử (vị buộc tội) theo Pháp[6] rồi hội chúng nên tiến hành lễ Pavāraṇā. Này các tỳ khưu, nếu vị tỳ khưu buộc tội thú nhận là (vị kia) đã bị bôi nhọ với tội thullaccaya, pācittiya, pāṭidesanīya, dukkaṭa, dubbhāsita không có căn cứ, sau khi cho hành xử (vị buộc tội) theo Pháp rồi hội chúng nên tiến hành lễ Pavāraṇā.
Này các tỳ khưu, nếu vị tỳ khưu bị buộc tội thú nhận rằng: “Đã phạm tội pārājika,” sau khi trục xuất rồi hội chúng nên tiến hành lễ Pavāraṇā. Này các tỳ khưu, nếu vị tỳ khưu bị buộc tội thú nhận rằng: “Đã phạm tội saṅghādisesa,” sau khi khép vào tội saṅghādisesa rồi hội chúng nên tiến hành lễ Pavāraṇā. Này các tỳ khưu, nếu vị tỳ khưu bị buộc tội thú nhận rằng: “Đã phạm tội thullaccaya, pācittiya, pāṭidesanīya, dukkaṭa, dubbhāsita,” sau khi cho hành xử (vị ấy) theo Pháp rồi hội chúng nên tiến hành lễ Pavāraṇā.
[248] Này các tỳ khưu, trường hợp vào ngày lễ Pavāraṇā có vị tỳ khưu phạm tội thullaccaya (trọng tội). Một số tỳ khưu có quan điểm là tội thullaccaya, một số tỳ khưu có quan điểm là tội saṅghādisesa (tăng tàng). Này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu nào có quan điểm là tội thullaccaya, này các tỳ khưu, các vị ấy nên dẫn vị ấy đi ra một góc, sau khi cho (vị ấy) hành xử theo Pháp, rồi đi đến gặp hội chúng và nên nói như vầy: “Này các đại đức, vị tỳ khưu ấy phạm tội nào, tội ấy đã được sửa chữa theo Pháp cho vị ấy. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên tiến hành lễ Pavāraṇā.”
Này các tỳ khưu, trường hợp vào ngày lễ Pavāraṇā có vị tỳ khưu phạm tội thullaccaya (trọng tội). Một số tỳ khưu có quan điểm là tội thullaccaya, một số tỳ khưu có quan điểm là tội pācittiya (ưng đối trị), …(như trên)… Một số tỳ khưu có quan điểm là tội thullaccaya, một số tỳ khưu có quan điểm là tội pāṭidesanīya (ưng phát lộ). …(như trên)… Một số tỳ khưu có quan điểm là tội thullaccaya, một số tỳ khưu có quan điểm là tội dukkaṭa (tác ác). …(như trên)… Một số tỳ khưu có quan điểm là tội thullaccaya, một số tỳ khưu có quan điểm là tội dubbhāsita (ác khẩu). Này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu nào có quan điểm là tội thullaccaya, này các tỳ khưu, các vị ấy nên dẫn vị ấy đi ra một góc, sau khi cho (vị ấy) hành xử theo Pháp, rồi đi đến gặp hội chúng và nên nói như vầy: “Này các đại đức, vị tỳ khưu ấy phạm tội nào, tội ấy đã được sửa chữa theo Pháp cho vị ấy. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên tiến hành lễ Pavāraṇā.”
Này các tỳ khưu, trường hợp vào ngày lễ Pavāraṇā có vị tỳ khưu đã phạm pācittiya (ưng đối trị), đã phạm tội pāṭidesanīya (ưng phát lộ), đã phạm tội dukkaṭa (tác ác), đã phạm tội dubbhāsita (ác khẩu). Một số tỳ khưu có quan điểm là tội dubbhāsita, một số tỳ khưu có quan điểm là tội saṅghādisesa. Này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu nào có quan điểm là tội dubbhāsita (ác khẩu), này các tỳ khưu, các vị ấy nên dẫn vị ấy đi ra một góc, sau khi cho (vị ấy) hành xử theo Pháp, rồi đi đến gặp hội chúng và nên nói như vầy: “Này các đại đức, vị tỳ khưu ấy phạm tội nào, tội ấy đã được sửa chữa theo Pháp cho vị ấy. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên tiến hành lễ Pavāraṇā.”
Này các tỳ khưu, trường hợp vào ngày lễ Pavāraṇā có vị tỳ khưu đã phạm tội dubbhāsita (ác khẩu). Một số tỳ khưu có quan điểm là tội dubbhāsita, một số tỳ khưu có quan điểm là tội thullaccaya (trọng tội). …(như trên)… Một số tỳ khưu có quan điểm là tội dubbhāsita, một số tỳ khưu có quan điểm là tội pācittiya (ưng đối trị). …(như trên)… Một số tỳ khưu có quan điểm là tội dubbhāsita, một số tỳ khưu có quan điểm là tội pāṭidesanīya (ưng phát lộ). …(như trên)… Một số tỳ khưu có quan điểm là tội dubbhāsita, một số tỳ khưu có quan điểm là tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu nào có quan điểm là tội dubbhāsita, này các tỳ khưu, các vị ấy nên dẫn vị ấy đi ra một góc, sau khi cho (vị ấy) hành xử theo Pháp, rồi đi đến gặp hội chúng và nên nói như vầy: “Này các đại đức, vị tỳ khưu ấy phạm tội nào, tội ấy đã được sửa chữa theo Pháp cho vị ấy. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên tiến hành lễ Pavāraṇā.”
[249] Này các tỳ khưu, trường hợp vào ngày lễ Pavāraṇā có vị tỳ khưu nêu lên ở giữa hội chúng rằng: “Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Sự việc này được biết và nhân sự thì không (biết). Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên loại trừ sự việc rồi tiến hành lễ Pavāraṇā.” Vị ấy nên được nói như vầy: “Này đại đức, đức Thế Tôn đã quy định lễ Pavāraṇā là của các vị trong sạch. Nếu sự việc này được biết và nhân vật thì không (biết). Ngay bây giờ, đại đức hãy nói về việc ấy.”
Này các tỳ khưu, trường hợp vào ngày lễ Pavāraṇā có vị tỳ khưu nêu lên ở giữa hội chúng rằng: “Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Nhân vật này được biết và sự việc thì không (biết). Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên loại trừ nhân vật rồi tiến hành lễ Pavāraṇā.” Vị ấy nên được nói như vầy: “Này đại đức, đức Thế Tôn đã quy định lễ Pavāraṇā là của các sự hợp nhất. Nếu nhân vật này được biết và sự việc thì không (biết). Ngay bây giờ, đại đức hãy nói về việc ấy.”
Này các tỳ khưu, trường hợp vào ngày lễ Pavāraṇā có vị tỳ khưu nêu lên ở giữa hội chúng rằng: “Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Sự việc này và nhân vật được biết. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên loại trừ sự việc và nhân vật rồi tiến hành lễ Pavāraṇā.” Vị ấy nên được nói như vầy: “Này đại đức, đức Thế Tôn đã quy định lễ Pavāraṇā là của các vị trong sạch và của các sự hợp nhất. Nếu sự việc và nhân vật được biết. Ngay bây giờ, đại đức hãy nói về việc ấy.”
Này các tỳ khưu, nếu sự việc được biết trước ngày lễ Pavāraṇā, còn nhân vật (được biết) sau đó thì thích hợp cho lời nói. Này các tỳ khưu, nếu nhân vật được biết trước ngày lễ Pavāraṇā, còn sự việc (được biết) sau đó thì thích hợp cho lời nói. Này các tỳ khưu, nếu sự việc và nhân vật được biết trước ngày lễ Pavāraṇā và khi lễ Pavāraṇā đã được thực hiện, nếu khơi lại việc ấy thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) về việc bươi móc.
[250] Vào lúc bấy giờ, có nhiều vị tỳ khưu là bạn bè đồng quan điểm đã vào mùa (an cư) mưa tại trú xứ nọ ở trong xứ Kosala. Ở khu vực lân cận của các vị ấy, có những tỳ khưu khác là những vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng (cũng) đã vào mùa (an cư) mưa (nói rằng):
– Khi các vị tỳ khưu ấy đã sống qua mùa (an cư) mưa, chúng tôi sẽ đình chỉ sự thỉnh cầu (của các vị ấy) vào ngày lễ Pavāraṇā.
Các vị tỳ khưu ấy đã nghe được rằng: “Nghe nói ở khu vực lân cận của chúng ta, có những tỳ khưu khác là những vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng (cũng) đã vào mùa (an cư) mưa (nói rằng): ‘Khi các vị tỳ khưu ấy đã sống qua mùa (an cư) mưa, chúng tôi sẽ đình chỉ sự thỉnh cầu (của các vị ấy) vào ngày lễ Pavāraṇā,’ vậy chúng ta nên thực hành như thế nào?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, trường hợp nhiều vị tỳ khưu là bạn bè đồng quan điểm vào mùa (an cư) mưa tại trú xứ nọ. Ở khu vực lân cận của các vị ấy, có những tỳ khưu khác là những vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng (cũng) vào mùa (an cư) mưa (nói rằng): “Khi các vị tỳ khưu ấy đã sống qua mùa (an cư) mưa, chúng tôi sẽ đình chỉ sự thỉnh cầu (của các vị ấy) vào ngày lễ Pavāraṇā.” Này các tỳ khưu, ta cho phép các vị tỳ khưu ấy thực hiện hai hay ba lễ Uposatha vào ngày mười bốn (nghĩ rằng): “Làm thế nào chúng ta có thể tiến hành lễ Pavāraṇā sớm hơn các vị tỳ khưu ấy?”
Này các tỳ khưu, nếu các vị tỳ khưu là những vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng đi đến chỗ trú xứ ấy, này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu thường trú ấy nên tụ hội lại thật nhanh chóng và tiến hành lễ Pavāraṇā. Sau khi tiến hành lễ Pavāraṇā nên nói rằng: “Này các đại đức, chúng tôi đã thực hiện lễ Pavāraṇā, các đại đức hãy làm theo như điều mà các vị suy nghĩ.”
Này các tỳ khưu, nếu các vị tỳ khưu là những vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng đi đến trú xứ ấy không báo trước, này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu thường trú ấy nên sắp đặt chỗ ngồi, nên đem lại nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân, rồi đi ra đón, nên rước y và bình bát, và nên dâng nước uống. Sau khi xem chừng các vị ấy rồi nên đi ra khỏi ranh giới và nên tiến hành lễ Pavāraṇā. Sau khi tiến hành lễ Pavāraṇā nên nói rằng: “Này các đại đức, chúng tôi đã thực hiện lễ Pavāraṇā, các đại đức hãy làm theo như điều mà các vị suy nghĩ.”
Nếu việc ấy đạt được như thế, việc ấy như vậy là tốt đẹp. Nếu không đạt được (như thế), các vị tỳ khưu thường trú ấy cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực: “Xin các đại đức thường trú hãy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm thích hợp cho các đại đức, giờ đây chúng ta nên tiến hành lễ Uposatha, chúng ta nên đọc tụng giới bổn Pātimokkha, chúng ta nên tiến hành lễ Pavāraṇā vào kỳ tới.” Này các tỳ khưu, nếu các vị tỳ khưu là những vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng nói với các vị tỳ khưu ấy như vầy: “Này các đại đức, tốt thôi! Ngay chính hôm nay các vị hãy tiến hành lễ Pavāraṇā với chúng tôi.” Các vị tỳ khưu ấy nên nói như vầy: “Này các đại đức, các vị không phải là những người ra lệnh, chưa đến ngày lễ Pavāraṇā của chúng tôi chúng tôi sẽ không thỉnh cầu.”
Này các tỳ khưu, nếu các vị tỳ khưu là những vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng cư ngụ cho đến thời gian ấy, các vị tỳ khưu thường trú ấy cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực: “Xin các đại đức thường trú hãy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm thích hợp cho các đại đức, giờ đây chúng ta nên tiến hành lễ Uposatha, chúng ta nên đọc tụng giới bổn Pātimokkha, chúng ta nên tiến hành lễ Pavāraṇā vào ngày trăng tròn tới.” Này các tỳ khưu, nếu các vị tỳ khưu là những vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng nói với các vị tỳ khưu ấy như vầy: “Này các đại đức, tốt thôi! Ngay chính hôm nay các vị hãy tiến hành lễ Pavāraṇā với chúng tôi.” Các vị tỳ khưu ấy nên nói như vầy: “Này các đại đức, các vị không phải là những người ra lệnh, chưa đến ngày lễ Pavāraṇā của chúng tôi chúng tôi sẽ không thỉnh cầu.”
Này các tỳ khưu, nếu các vị tỳ khưu là những vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng cư ngụ cho đến ngày trăng tròn ấy, này các tỳ khưu, tất cả các vị tỳ khưu nên tiến hành lễ Pavāraṇā vào ngày trăng tròn tháng Kattika sắp đến tức là ngày lễ hội Cātumāsinī cho dầu không muốn.
Này các tỳ khưu, nếu trong khi các vị tỳ khưu ấy đang tiến hành lễ Pavāraṇā, vị bị bệnh đình chỉ sự thỉnh cầu của vị không bệnh. Vị ấy nên được nói như vầy: “Đại đức đang bị bệnh. Và đức Thế Tôn đã nói rằng vị bị bệnh không chịu đựng được sự thẩm vấn. Này đại đức, hãy chờ đến khi đại đức hết bệnh. Khi hết bệnh thì đại đức sẽ buộc tội nếu mong muốn.” Và khi được nói như thế mà vẫn buộc tội thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) trong việc không tôn trọng.[7]
Này các tỳ khưu, nếu trong khi các vị tỳ khưu ấy đang tiến hành lễ Pavāraṇā, vị không bị bệnh đình chỉ sự thỉnh cầu của vị bị bệnh. Vị ấy nên được nói như vầy: “Này đại đức, vị tỳ khưu này bị bệnh. Và đức Thế Tôn đã nói rằng vị bị bệnh không chịu đựng được sự thẩm vấn. Này đại đức, hãy chờ cho đến khi vị tỳ khưu này hết bệnh. Rồi đại đức sẽ buộc tội vị không bệnh nếu mong muốn.” Và khi được nói như thế mà vẫn buộc tội thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) trong việc không tôn trọng.
Này các tỳ khưu, nếu trong khi các vị tỳ khưu ấy đang tiến hành lễ Pavāraṇā, vị bị bệnh đình chỉ sự thỉnh cầu của vị bị bệnh. Vị ấy nên được nói như vầy: “Các đại đức đang bị bệnh. Và đức Thế Tôn đã nói rằng vị bị bệnh không chịu đựng được sự thẩm vấn. Này đại đức, hãy chờ đến khi (các đại đức) hết bệnh. Rồi vị không bệnh sẽ buộc tội vị không bệnh nếu mong muốn.” Và khi được nói như thế mà vẫn buộc tội thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) trong việc không tôn trọng.
Này các tỳ khưu, nếu trong khi các vị tỳ khưu ấy đang tiến hành lễ Pavāraṇā, vị không bệnh đình chỉ sự thỉnh cầu của vị không bệnh. Cả hai nên được hội chúng thẩm vấn, tra hỏi cặn kẽ, cho hành xử theo Pháp, rồi hội chúng nên thỉnh cầu.
[251] Vào lúc bấy giờ, có nhiều vị tỳ khưu là bạn bè đồng quan điểm đã vào mùa (an cư) mưa tại trú xứ nọ ở trong xứ Kosala. Trong khi các vị ấy sống có sự hợp nhất, thân thiện, không cãi vả nhau, có (trạng thái) an trú lạc nào đó đã được đạt đến. Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đã khởi ý điều này: “Trong khi chúng ta sống có sự hợp nhất, thân thiện, không cãi vả nhau, có (trạng thái) an trú lạc nào đó đã được đạt đến. Nếu bây giờ chúng ta sẽ tiến hành lễ Pavāraṇā và trường hợp sau khi tiến hành lễ Pavāraṇā các vị tỳ khưu có thể ra đi du hành, như thế chúng ta sẽ bị ra khỏi (trạng thái) an trú lạc này; vậy chúng ta nên thực hành như thế nào?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, trường hợp có nhiều vị tỳ khưu là bạn bè đồng quan điểm đã vào mùa (an cư) mưa tại trú xứ nọ. Trong khi các vị ấy sống có sự hợp nhất, thân thiện, không cãi vả nhau, có (trạng thái) an trú lạc nào đó đã được đạt đến. Nếu các vị tỳ khưu ở đó khởi ý như vầy: “Trong khi chúng ta sống có sự hợp nhất, thân thiện, không cãi vả nhau, có (trạng thái) an trú lạc nào đó đã được đạt đến. Nếu bây giờ chúng ta sẽ tiến hành lễ Pavāraṇā và trường hợp sau khi tiến hành lễ Pavāraṇā các vị tỳ khưu có thể ra đi du hành, như thế chúng ta sẽ bị ra khỏi (trạng thái) an trú lạc này.” Này các tỳ khưu, ta cho phép các vị tỳ khưu ấy thực hiện sự đồng thuận về lễ Pavāraṇā (Pavāraṇāsaṅgahaṃ). Và này các tỳ khưu, nên thực hiện như vầy:
Toàn bộ tất cả (các vị ấy) nên tụ hội lại một chỗ. Sau khi đã tụ hội lại, hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Trong khi chúng ta sống có sự hợp nhất, thân thiện, không cãi vả nhau, có (trạng thái) an trú lạc nào đó đã được đạt đến. Nếu bây giờ chúng ta sẽ tiến hành lễ Pavāraṇā và trường hợp sau khi tiến hành lễ Pavāraṇā các vị tỳ khưu có thể ra đi du hành, như thế chúng ta sẽ bị ra khỏi (trạng thái) an trú lạc này. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên thực hiện sự đồng thuận về lễ Pavāraṇā, bây giờ chúng ta nên tiến hành lễ Uposatha, nên đọc tụng giới bổn Pātimokkha, và nên tiến hành lễ Pavāraṇā vào ngày trăng tròn tháng Kattika sắp đến tức là ngày lễ hội Cātumāsinī. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Trong khi chúng ta sống có sự hợp nhất, thân thiện, không cãi vả nhau, có (trạng thái) an trú lạc nào đó đã được đạt đến. Nếu bây giờ chúng ta sẽ tiến hành lễ Pavāraṇā và trường hợp sau khi tiến hành lễ Pavāraṇā các vị tỳ khưu có thể ra đi du hành, như thế chúng ta sẽ bị ra khỏi (trạng thái) an trú lạc này. Hội chúng thực hiện sự đồng thuận về lễ Pavāraṇā, bây giờ chúng ta sẽ tiến hành lễ Uposatha, sẽ đọc tụng giới bổn Pātimokkha, và sẽ tiến hành lễ Pavāraṇā vào ngày trăng tròn tháng Kattika sắp đến tức là ngày lễ hội Cātumāsinī. Đại đức nào đồng ý việc thực hiện thực hiện sự đồng thuận về lễ Pavāraṇā, bây giờ (hội chúng) sẽ tiến hành lễ Uposatha, sẽ đọc tụng giới bổn Pātimokkha, và sẽ tiến hành lễ Pavāraṇā vào ngày trăng tròn tháng Kattika sắp đến tức là ngày lễ hội Cātumāsinī xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Sự đồng thuận về lễ Pavāraṇā đã được hội chúng thực hiện, bây giờ (hội chúng) sẽ tiến hành lễ Uposatha, sẽ đọc tụng giới bổn Pātimokkha, và sẽ tiến hành lễ Pavāraṇā vào ngày trăng tròn tháng Kattika sắp đến tức là ngày lễ hội Cātumāsinī. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
Này các tỳ khưu, khi sự đồng thuận về lễ Pavāraṇā đã được hội chúng thực hiện, có vị tỳ khưu nọ nói như vầy: “Này các đại đức, tôi muốn ra đi du hành ở trong xứ sở. Tôi có công việc cần làm ở trong xứ sở.” Vị ấy nên được nói như vầy: “Này đại đức, tốt lắm! Hãy thực hiện sự thỉnh cầu rồi hãy đi.” Này các tỳ khưu, nếu trong khi đang thỉnh cầu vị tỳ khưu ấy đình chỉ lễ Pavāraṇā của vị tỳ khưu khác. Vị ấy nên được nói như vầy: “Này đại đức, đại đức không phải là người ra lệnh, chưa đến ngày lễ Pavāraṇā của tôi, tôi sẽ không thỉnh cầu.” Này các tỳ khưu, nếu vị tỳ khưu ấy trong khi đang thỉnh cầu, có vị tỳ khưu khác đình chỉ lễ Pavāraṇā của vị tỳ khưu ấy. Cả hai nên được hội chúng thẩm vấn, tra hỏi cặn kẽ, rồi cho hành xử theo Pháp.
Này các tỳ khưu, nếu vị tỳ khưu ấy sau khi hoàn tất công việc cần làm ở trong xứ sở trở về lại trú xứ ấy trước ngày trăng tròn tháng Kattika sắp đến tức là ngày lễ hội Cātumāsinī. Này các tỳ khưu, nếu trong khi các vị tỳ khưu ấy đang thỉnh cầu, có vị tỳ khưu nọ đình chỉ sự thỉnh cầu (lễ Pavāraṇā) của vị tỳ khưu ấy. Vị nọ nên được nói như vầy: “Này đại đức, đại đức không phải là người ra lệnh cho tôi. Tôi đã thỉnh cầu trong ngày lễ Pavāraṇā rồi.” Này các tỳ khưu, nếu trong khi các vị tỳ khưu ấy đang thỉnh cầu, vị tỳ khưu ấy đình chỉ sự thỉnh cầu (lễ Pavāraṇā) của vị tỳ khưu khác. Cả hai nên được hội chúng thẩm vấn, tra hỏi cặn kẽ, cho hành xử theo Pháp, rồi hội chúng nên thỉnh cầu.
Dứt chương Lễ Pavāraṇā là chương thứ tư.
Trong chương này có bốn mươi sáu sự việc.
*******
Tóm lược chương này:
[252]
Đã sống qua mùa mưa
trong xứ Kosala
đi diện kiến Đạo Sư
sống chung như loài thú
không chút nào thoải mái,
thích hợp đối với nhau.
Trong khi đang cầu thỉnh
(ngồi yên) trên chỗ ngồi,
và có hai (ngày lễ),
hành sự, người bị bệnh,
thân quyến, rồi đức vua,
bọn cướp, lũ bất lương,
các kẻ nghịch tỳ khưu,
cũng giống y như thế.
Năm, bốn, ba, hai, một,
phạm tội, có nghi ngờ,
và vị đã nhớ lại.
Cả hội chúng nghi ngờ,
nhiều hơn, bằng, hoặc kém,
thường trú, ngày mười bốn,
dấu hiệu, đồng cộng trú,
cả hai, nên đi đến,
hạng người ngồi không thỉnh,
khi bày tỏ tùy thuận
lễ Pavāraṇā.
Bởi bọn người hung tợn,
đêm hết, đám mây đen,
và các điều chướng ngại
trong những sự thỉnh cầu.
Không làm, trước chúng ta,
đã không bị đình chỉ,
và của vị tỳ khưu.
Điều gì? Và thế nào?
bởi thấy, nghe, nghi ngờ,
vị (nguyên cáo) kết tội,
và vị bị kết tội,
câu chuyện về trọng tội,
và vấn đề xung đột,
ngày thỉnh cầu đồng thuận
không phải người ra lệnh,
vị có thể thỉnh cầu.
[1] Pavāraṇā: nghĩa là “sự thỉnh cầu” đồng thời là tên của buổi lễ dành cho các tỳ khưu đã hoàn tất mùa (an cư) mưa thời điểm trước (Lễ này đã được dịch là Tự Tứ, chúng tôi mạn phép giữ nguyên từ Pāli). Pavāreti là động từ. Với động từ này, chúng tôi sẽ dịch theo hai lối là “thỉnh cầu” hoặc “tiến hành lễ Pavāraṇā” tùy theo ngữ cảnh.
[2] Ở CD của trường đại học Mahidol không có câu này. Được thêm vào từ CD Chaṭṭhasaṅgāyana.
[3] Ba trường hợp này liên quan đến tội pācittiya (ưng đối trị) 69.
[4] Nghĩa là tập thể này không phải là các vị đang chịu hành phạt parivāsa. Chúng tôi chọn nghĩa như trên dựa vào lời giải thích của nhóm từ “vuṭṭhitāya parisāya = với tập thể đã bị cách ly” là “với việc ban cho sự thỏa thuận từcác vị (tỳ khưu) đang chịu hành phạt parivāsa” được tìm thấy ở bộ Phân Tích Giới Tỳ Khưu Ni (Bhikkhunīvibhaṅga [436]). Từ “avut,t,hitāya” còn có nghĩa là “chưa đứng lên, chưa được thoát tội.” Việc này tương tợ như ở chương Lễ Uposatha [202].
[5] Với từ “Pavāraṇā,” chúng tôi dịch là “Sự thỉnh cầu” hoặc “Lễ Pavāraṇā.” Trường hợp nào quý vị thấy ý nghĩa không được rõ ràng thì dùng từ còn lại thay thế vào. Áp dụng tương tợ với động từ “Pavāreti” như đã giải thích ở trên.
[6] Liên quan đến tội pācittiya (ưng đối trị) 76.
[7] Liên quan đến tội pācittiya (ưng đối trị) 54.
