Đại Phẩm đọc online – Tập II
Tạng Luật (VINAYAPIṬAKA)
Dịch Việt: Tỳ khưu Indacanda Nguyệt Thiên
Nguồn: https://www.budsas.org
Tập II
V. CHƯƠNG DA THÚ
(CAMMAKKHANDHAKAṂ)
[1] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Rājagaha (Vương Xá) trên núi Gijjhakūṭa (Linh Thứu). Vào lúc bấy giờ, đức vua Seniya Bimbisāra (Bình Sa Vương) xứ Magadha (Ma Kiệt Đà) cai trị vương quốc bằng quyền thống lãnh tối cao trong tám mươi ngàn ngôi làng. Vào lúc bấy giờ, ở trong xứ Campā, con trai nhà đại phú tên Soṇa Koḷivisa là người (có vóc dáng) mảnh mai. Ở các lòng hai bàn chân của vị đó có lông mọc.
Khi ấy, đức vua Seniya Bimbisāsa xứ Magadha sau khi cho triệu tập tám mươi ngàn người trưởng làng ấy lại vì công việc cần làm nào đó rồi đã sai sứ giả đi đến gặp Soṇa Koḷivisa (nói rằng):
– Soṇa hãy đến. Trẫm muốn Soṇa đến.
Khi ấy, cha mẹ của Soṇa Koḷivisa đã nói với Soṇa Koḷivisa điều này:
– Này Soṇa yêu quý, đức vua muốn xem hai bàn chân của con. Này Soṇa yêu quý, con chớ có duỗi thẳng hai bàn chân về hướng đức vua, con hãy ngồi kiết già phía trước đức vua, đức vua sẽ thấy được hai bàn chân của con trong tư thế ngồi.
Rồi họ đã đưa Soṇa Koḷivisa đi bằng kiệu. Sau đó, Soṇa Koḷivisa đã đi đến gặp đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha, sau khi đến đã cung kính chào đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha rồi đã ngồi kiết già phía trước đức vua. Khi ấy, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã nhìn thấy lông mọc ở các lòng hai bàn chân của Soṇa Koḷivisa. Sau đó, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã giảng giải về các điều lợi ích trong thời hiện tại đến tám mươi ngàn người trưởng làng ấy rồi khuyến khích rằng:
– Này các khanh, ở đây các khanh đã được ta giảng giải về các điều lợi ích trong thời hiện tại. Giờ hãy đi và ngồi quanh đức Thế Tôn, ngài sẽ giảng giải cho chúng ta về các điều lợi ích trong thời vị lai.
Sau đó, tám mươi ngàn người trưởng làng ấy đã đi đến núi Gijjhakūṭa.
Vào lúc bấy giờ, đại đức Sāgata là thị giả của đức Thế Tôn. Khi ấy, tám mươi ngàn người trưởng làng ấy đã đi đến gặp đại đức Sāgata, sau khi đến đã nói với đại đức Sāgata điều này:
– Thưa ngài, tám mươi ngàn người trưởng làng này đi đến đây để diện kiến đức Thế Tôn. Thưa ngài, tốt đẹp thay nếu chúng tôi có thể diện kiến đức Thế Tôn.
– Này quý vị, nếu vậy thì các vị hãy ở ngay tại đây trong chốc lát chờ tôi báo cho đức Thế Tôn biết.
Sau đó, đại đức Sāgata đã biến mất ở nơi bậc cấp trước tám mươi ngàn người trưởng làng ấy đang chăm chú nhìn rồi đã hiện ra ở trước đức Thế Tôn và đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, tám mươi ngàn người trưởng làng này đi đến đây để diện kiến đức Thế Tôn. Bạch ngài, giờ đây xin đức Thế Tôn hãy suy nghĩ về thời điểm của việc ấy.
– Này Sāgata, nếu vậy thì ngươi hãy sắp đặt chỗ ngồi ở nơi có bóng râm của trú xá.
– Bạch ngài, xin vâng.
Đại đức Sāgata nghe theo đức Thế Tôn đã cầm lấy chiếc ghế rồi biến mất ở trước đức Thế Tôn và hiện ra ở bậc cấp trước tám mươi ngàn người trưởng làng đang chăm chú nhìn, rồi đã sắp đặt chỗ ngồi ở nơi có bóng râm của trú xá. Sau đó, đức Thế Tôn đã từ trú xá đi ra và ngồi xuống trên chỗ ngồi đã được sắp đặt ở nơi có bóng râm của trú xá. Khi ấy, tám mươi ngàn người trưởng làng ấy đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Sau đó, tám mươi ngàn người trưởng làng ấy chỉ hướng tâm đến chính đại đức Sāgata, còn đức Thế Tôn thì không được như thế. Khi ấy, đức Thế Tôn đã dùng tâm biết được ý nghĩ suy tầm của tám mươi ngàn người trưởng làng ấy nên đã bảo đại đức Sāgata rằng:
– Này Sāgata, nếu vậy thì ngươi hãy phô bày sự diệu kỳ của thần thông là pháp thượng nhân với nhiều hình thức hơn nữa.
– Bạch ngài, xin vâng.
Rồi đại đức Sāgata nghe theo đức Thế Tôn đã bay lên không trung, đi qua lại ở khoảng không trên bầu trời, rồi đứng lại, ngồi xuống, nằm xuống, phun khói, phát sáng, rồi biến mất. Sau đó, khi đã phô bày sự diệu kỳ của thần thông là pháp thượng nhân bằng nhiều hình thức ở khoảng không trên bầu trời, đại đức Sāgata đã đê đầu ở hai bàn chân của đức Thế Tôn rồi nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, đức Thế Tôn là bậc đạo sư của tôi, tôi là người đệ tử. Bạch ngài, đức Thế Tôn là bậc đạo sư của tôi, tôi là người đệ tử.
Khi ấy, tám mươi ngàn người trưởng làng ấy (nghĩ rằng): “Thật kỳ diệu thay! Thật phi thường thay! Bởi vì vị đệ tử còn có đại thần lực như thế này, đại oai lực như thế này, ắt hẳn vị đạo sư sẽ còn hơn thế nữa!” rồi đã hướng tâm đến chính đức Thế Tôn, còn đại đức Sāgata thì không được như thế.
Khi ấy, đức Thế Tôn sau khi dùng tâm biết được ý nghĩ suy tầm của tám mươi ngàn người trưởng làng ấy rồi đã thuyết Pháp theo thứ lớp. Tức là ngài đã giảng giải bài thuyết về bố thí, bài thuyết về giới cấm, bài thuyết về cõi trời, sự ô nhiễm hạ liệt tai hại của các dục, sự lợi ích của việc xuất ly. Khi đức Thế Tôn biết được tâm của những người ấy đã sẵn sàng, dễ uốn nắn, không còn chướng ngại, hướng thượng, tĩnh lặng, ngài đã phô bày Pháp thuyết giảng đã được chư Phật khai mở là: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Cũng giống như tấm vải sạch chưa bị vết nhơ có thể nhuộm màu một cách toàn vẹn; tương tợ như thế, ngay tại chỗ ngồi ấy Pháp nhãn không nhiễm bụi trần, không vết nhơ đã sanh khởi đến tám mươi ngàn người trưởng làng ấy: “Điều gì có bản tánh được sanh lên, toàn bộ điều ấy đều có bản tánh hoại diệt.”
Sau đó, khi đã thấy được Pháp, đã thành tựu được Pháp, đã hiểu được Pháp, đã thấm nhuần Pháp, hoài nghi đã không còn, sự lưỡng lự đã dứt hẳn, đã thành tựu niềm tin vào Giáo Pháp của bậc đạo sư, không còn cần sự trợ duyên của người khác, những người ấy đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, thật là tuyệt vời! Bạch ngài, thật là tuyệt vời! Bạch ngài, giống như người có thể lật ngửa vật đã được úp lại, mở ra vật đã bị che kín, chỉ đường cho kẻ lạc lối, đem lại cây đèn dầu nơi bóng tối (nghĩ rằng): “Những ai có mắt sẽ thấy được các hình dáng;” tương tợ như thế, Pháp đã được đức Thế Tôn chỉ rõ bằng nhiều phương tiện. Bạch ngài, chúng con đây xin quy y đức Thế Tôn, Giáo Pháp, và Hội chúng tỳ khưu. Xin đức Thế Tôn chấp nhận chúng con là những nam cư sĩ đã được quy y kể từ hôm nay cho đến trọn đời.
[2] Khi ấy, Soṇa Koḷivisa đã khởi ý điều này: “Theo như ta hiểu về Pháp đã được đức Thế Tôn thuyết giảng thì việc ấy không phải là việc dễ làm đối với người đang sống ở gia đình để thực hành Phạm hạnh một cách đầy đủ trọn vẹn, hoàn toàn trong sạch như vỏ ốc được cạo sạch, hay là ta nên cạo bỏ râu tóc, khoác các y màu ca-sa, rời nhà xuất gia sống không nhà?” Sau đó, khi đã được hoan hỷ đã được hài lòng với lời giảng dạy của đức Thế Tôn, tám mươi ngàn người trưởng làng ấy đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi. Sau đó, khi tám mươi ngàn người trưởng làng ra đi không lâu, Soṇa Koḷivisa đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, Soṇa Koḷivisa đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, theo như con hiểu về Pháp đã được đức Thế Tôn thuyết giảng thì việc ấy không phải là việc dễ làm đối với người đang sống ở gia đình để thực hành Phạm hạnh một cách đầy đủ trọn vẹn, hoàn toàn trong sạch như vỏ ốc được cạo sạch. Bạch ngài, con muốn cạo bỏ râu tóc, khoác các y màu ca-sa, rời nhà xuất gia sống không nhà. Bạch ngài, xin đức Thế Tôn hãy cho con xuất gia.
Rồi Soṇa Koḷivisa đã được xuất gia với đức Thế Tôn và đã được tu lên bậc trên.
Và khi đã được tu lên bậc trên không bao lâu, đại đức Soṇa sống ở khu rừng Sīta. Trong khi vị ấy đang đi kinh hành với sự tinh tấn nỗ lực cao, các bàn chân đã bị rách. Đường kinh hành trở nên vấy đầy máu như là chỗ giết trâu bò. Sau đó, đại đức Soṇa trong lúc thiền tịnh ở nơi thanh vắng có ý nghĩ suy tầm như vầy đã sanh khởi: “Ta là một trong số các vị đệ tử của đức Thế Tôn sống có sự tinh tấn nỗ lực cao, nhưng tâm của ta vẫn còn chấp thủ và không được giải thoát khỏi các lậu hoặc. Hơn nữa, ở gia đình của ta lại có các tài sản, có thể thọ dụng những tài sản (ấy) và làm các việc phước báu; hay là ta nên quay về cuộc sống thấp kém rồi thọ dụng những tài sản (ấy) và làm các việc phước báu?” Khi ấy, sau khi dùng tâm biết được ý nghĩ suy tầm của đại đức Soṇa, rồi giống như người đàn ông có sức mạnh có thể duỗi ra cánh tay đã được co lại hoặc có thể co lại cánh tay đã được duỗi ra, tương tợ như thế đức Thế Tôn đã biến mất tại núi Gijjhakūṭa và hiện ra ở khu rừng Sīta. Sau đó, trong khi cùng với nhiều vị tỳ khưu đi dạo quanh các chỗ trú ngụ, đức Thế Tôn đã đi đến đường kinh hành của đại đức Soṇa. Đức Thế Tôn đã nhìn thấy đường kinh hành của đại đức Soṇa bị vấy đầy máu, sau khi nhìn thấy đã nói với các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, đường kinh hành này của vị nào lại bị vấy đầy máu giống như là chỗ giết trâu bò vậy?
– Bạch ngài, đại đức Soṇa trong khi đi kinh hành với sự tinh tấn nỗ lực cao nên hai bàn chân đã bị rách. Đường kinh hành bị vấy đầy máu này là của vị ấy, giống như là chỗ giết trâu bò vậy.
Sau đó, đức Thế Tôn đã đi đến trú xá của đại đức Soṇa, sau khi đến đã ngồi xuống trên chỗ ngồi được sắp đặt sẵn. Đại đức Soṇa đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Đức Thế Tôn đã nói với đại đức Soṇa đang ngồi một bên điều này:
– Này Soṇa, có phải ngươi trong lúc thiền tịnh ở nơi thanh vắng có ý nghĩ suy tầm như vầy đã sanh khởi: “Ta là một trong số các vị đệ tử của đức Thế Tôn sống có sự tinh tấn nỗ lực cao, nhưng tâm của ta vẫn còn chấp thủ và không được giải thoát khỏi các lậu hoặc. Hơn nữa, ở gia đình của ta lại có các tài sản, có thể thọ dụng những tài sản (ấy) và làm các việc phước báu; hay là ta nên quay về cuộc sống thấp kém rồi thọ dụng những tài sản (ấy) và làm các việc phước báu?”
– Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
– Này Soṇa, ngươi nghĩ thế nào về điều này: Có phải trước đây khi còn là kẻ tại gia ngươi rành rẽ về âm điệu của sợi dây ở đàn tỳ bà? [1]
– Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
– Này Soṇa, ngươi nghĩ thế nào về điều này: Khi những sợi dây ở đàn tỳ bà của ngươi là căng thẳng, phải chăng vào lúc ấy cây đàn tỳ bà của ngươi là có âm thanh hoặc thích hợp để sử dụng?
– Bạch ngài, điều ấy không đúng.
– Này Soṇa, ngươi nghĩ thế nào về điều này: Khi những sợi dây ở đàn tỳ bà của ngươi là quá chùng, phải chăng vào lúc ấy cây đàn tỳ bà của ngươi là có âm thanh hoặc thích hợp để sử dụng?
– Bạch ngài, điều ấy không đúng.
– Này Soṇa, ngươi nghĩ thế nào về điều này: Khi những sợi dây ở đàn tỳ bà của ngươi không là căng thẳng và cũng không quá chùng, được đặt vào đúng vị thế, phải chăng vào lúc ấy cây đàn tỳ bà của ngươi là có âm thanh hoặc thích hợp để sử dụng?
– Bạch ngài, đúng vậy.
– Này Soṇa, cũng tương tợ như thế sự tinh tấn nỗ lực cao đưa đến sự loạn động, sự tinh tấn quá uể oải đưa đến sự biếng nhác. Này Soṇa, do đó ở đây ngươi phải xác định mức đều đều trong sự tinh tấn, phải hiểu rõ được sự cân bằng của các quyền (indriya), và vào lúc ấy ngươi phải nắm giữ ấn chứng.
– Bạch ngài, xin vâng. Đại đức Soṇa đã trả lời đức Thế Tôn.
Sau đó, khi đã giáo huấn cho đại đức Soṇa bằng lời giáo huấn ấy, rồi giống như một người đàn ông có sức mạnh có thể duỗi ra cánh tay đã được co lại hoặc có thể co lại cánh tay đã được duỗi ra, tương tợ như thế tại khu rừng Sīta đức Thế Tôn đã biến mất trước mặt đại đức Soṇa rồi hiện ra ở núi Gijjhakūṭa.
Sau đó, đại đức Soṇa đã xác định mức đều đều trong sự tinh tấn, hiểu rõ được sự cân bằng của các quyền (indriya), và vào lúc ấy đã nắm giữ được ấn chứng. Khi ấy, đại đức Soṇa đã tách riêng một mình, và sống không lười biếng, nỗ lực, quyết tâm nên chẳng bao lâu sau ngay trong kiếp hiện tại này đã tự mình nhận thức, chứng đạt, và an trú vào thắng trí, mục đích tối thượng của Phạm hạnh, vì mục đích này mà những người con trai của các gia đình cao quý rời nhà xuất gia một cách chân chánh sống không nhà. Vị ấy biết rằng: “Sự tái sanh đã cạn kiệt, Phạm hạnh đã sống, việc cần làm đã làm, không còn (đưa đến) bản ngã nào khác (tương tợ) như vầy nữa.” Và trong số các vị A-la-hán có thêm một vị nữa là đại đức Soṇa.
[3] Sau đó, khi đã chứng đạt quả vị A-la-hán đại đức Soṇa đã khởi ý điều này: “Hay là ta nên công bố sự chứng ngộ này trong sự hiện diện của đức Thế Tôn?” Khi ấy, đại đức Soṇa đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, đại đức Soṇa đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, vị tỳ khưu nào là bậc A-la-hán, có các lậu hoặc đã diệt tận, đạt đến hoàn thiện, việc cần làm đã làm, gánh nặng đã được đặt xuống, mục đích của bản thân đã đạt được, sự ràng buộc vào việc tái sanh đã được phá hủy, đã được giải thoát nhờ vào trí tuệ chân chánh, vị ấy đã thành tựu sáu sự việc: vị ấy đã thành tựu sự từ bỏ, vị ấy đã thành tựu sự tĩnh lặng, vị ấy đã thành tựu sự không còn hãm hại, vị ấy đã thành tựu sự hoại diệt của chấp thủ, vị ấy đã thành tựu sự hoại diệt của ái dục, vị ấy đã thành tựu sự không còn si mê.
Bạch ngài, ở đây có thể một vị đại đức nào đó sẽ khởi ý như vầy: “Không lẽ vị đại đức này đã thành tựu sự từ bỏ chỉ hoàn toàn nhờ vào đức tin?” Bạch ngài, điều ấy không thể được xem xét như thế. Bạch ngài, vị tỳ khưu có lậu hoặc đã được diệt tận, đạt đến hoàn thiện, việc cần làm đã làm xong, không còn quán xét đến việc cần phải làm của bản thân hoặc (quán xét) đến sự tích lũy của (việc) đã làm, nhờ vào sự hoại diệt của tham ái và bản thân không còn tham ái mà vị ấy đã thành tựu sự từ bỏ, nhờ vào sự hoại diệt của sân hận và bản thân không còn sân hận mà vị ấy đã thành tựu sự từ bỏ, nhờ vào sự hoại diệt của si mê và bản thân không còn si mê mà vị ấy đã thành tựu sự từ bỏ.
Bạch ngài, ở đây có thể một vị đại đức nào đó sẽ khởi ý như vầy: “Không lẽ vị đại đức này đã thành tựu sự tĩnh lặng trong khi còn thèm muốn lợi lộc, vinh quang, và danh vọng?” Bạch ngài, điều ấy không thể được xem xét như thế. Bạch ngài, vị tỳ khưu có lậu hoặc đã được diệt tận, đạt đến hoàn thiện, việc cần làm đã làm xong, không còn quán xét đến việc cần phải làm của bản thân hoặc (quán xét) đến sự tích lũy của (việc) đã làm, nhờ vào sự hoại diệt của tham ái và bản thân không còn tham ái mà vị ấy đã thành tựu sự tĩnh lặng, nhờ vào sự hoại diệt của sân hận và bản thân không còn sân hận mà vị ấy đã thành tựu sự tĩnh lặng, nhờ vào sự hoại diệt của si mê và bản thân không còn si mê mà vị ấy đã thành tựu sự tĩnh lặng.
Bạch ngài, ở đây có thể một vị đại đức nào đó sẽ khởi ý như vầy: “Không lẽ vị đại đức này đã thành tựu sự không còn hãm hại trong khi quay về lại với giới cấm và tập quán từ bản chất?” Bạch ngài, điều ấy không thể được xem xét như thế. Bạch ngài, vị tỳ khưu có lậu hoặc đã được diệt tận, đạt đến hoàn thiện, việc cần làm đã làm xong, không còn quán xét đến việc cần phải làm của bản thân hoặc (quán xét) đến sự tích lũy của (việc) đã làm, nhờ vào sự hoại diệt của tham ái và bản thân không còn tham ái mà vị ấy đã thành tựu sự không còn hãm hại, nhờ vào sự hoại diệt của sân hận và bản thân không còn sân hận mà vị ấy đã thành tựu sự không còn hãm hại, nhờ vào sự hoại diệt của si mê và bản thân không còn si mê mà vị ấy đã thành tựu sự không còn hãm hại.
Nhờ vào sự hoại diệt của tham ái và bản thân không còn tham ái mà vị ấy đã thành tựu sự hoại diệt của chấp thủ, nhờ vào sự hoại diệt của sân hận và bản thân không còn sân hận mà vị ấy đã thành tựu sự hoại diệt của chấp thủ, nhờ vào sự hoại diệt của si mê và bản thân không còn si mê mà vị ấy đã thành tựu sự hoại diệt của chấp thủ. Nhờ vào sự hoại diệt của tham ái và bản thân không còn tham ái mà vị ấy đã thành tựu sự hoại diệt của ái dục, nhờ vào sự hoại diệt của sân hận và bản thân không còn sân hận mà vị ấy đã thành tựu sự hoại diệt của ái dục, nhờ vào sự hoại diệt của si mê và bản thân không còn si mê mà vị ấy đã thành tựu sự hoại diệt của ái dục. Nhờ vào sự hoại diệt của tham ái và bản thân không còn tham ái mà vị ấy đã thành tựu sự không còn si mê, nhờ vào sự hoại diệt của sân hận và bản thân không còn sân hận mà vị ấy đã thành tựu sự không còn si mê, nhờ vào sự hoại diệt của si mê và bản thân không còn si mê mà vị ấy đã thành tựu sự không còn si mê.
Bạch ngài, đối với vị tỳ khưu có tâm đã được hoàn toàn giải thoát, nếu các hình dáng (cảnh sắc) được nhận biết bởi mắt, dầu cho nổi bật, đi vào nhãn giới cũng không xâm chiếm được tâm của vị ấy bởi vì tâm của vị ấy không còn bị xáo trộn, bền vững, đạt đến bất động, và vị ấy quan sát sự diệt đi của điều ấy.[2] Nếu các âm thanh (cảnh thinh) được nhận thức bởi tai … các mùi hương (cảnh khí) được nhận thức bởi mũi … các vị nếm (cảnh vị) được nhận thức bởi lưỡi … các sự xúc chạm (cảnh xúc) được nhận thức bởi thân … các pháp (cảnh pháp) được nhận thức bởi ý, dầu cho nổi bật, đi vào ý giới cũng không xâm chiếm được tâm của vị ấy bởi vì tâm của vị ấy không còn bị xáo trộn, bền vững, đạt đến bất động, và vị ấy quan sát sự diệt đi của điều ấy. Bạch ngài, cũng giống như hòn núi đá không có kẽ nứt, không có lỗ hổng, liền lặn một khối, nếu có cơn mưa bão dữ dội đi đến từ hướng đông cũng không thể làm nó rung chuyển, lay động, chấn động. Nếu có cơn mưa bão dữ dội đi đến từ hướng tây … Nếu có cơn mưa bão dữ dội đi đến từ hướng bắc … Nếu có cơn mưa bão dữ dội đi đến từ hướng nam cũng không thể làm nó rung chuyển, lay động, chấn động. Bạch ngài, tương tợ như thế đối với vị tỳ khưu có tâm đã được hoàn toàn giải thoát, nếu các hình dáng (cảnh sắc) được nhận thức bởi mắt, dầu cho nổi bật, đi vào nhãn giới cũng không xâm chiếm được tâm của vị ấy bởi vì tâm của vị ấy không còn bị xáo trộn, bền vững, đạt đến bất động, và vị ấy quan sát sự diệt đi của điều ấy. Nếu các âm thanh (cảnh thinh) được nhận thức bởi tai … các mùi hương (cảnh khí) được nhận thức bởi mũi … các vị nếm (cảnh vị) được nhận thức bởi lưỡi … các sự xúc chạm (cảnh xúc) được nhận thức bởi thân … các pháp (cảnh pháp) được nhận thức bởi ý, dầu cho nổi bật, đi vào ý giới cũng không xâm chiếm được tâm của vị ấy bởi vì tâm của vị ấy không còn bị xáo trộn, bền vững, đạt đến bất động, và vị ấy quan sát sự diệt đi của điều ấy.
[4]
Vị giải thoát từ bỏ
tâm đạt đến tĩnh lặng
vị giải thoát không hại
và diệt tận chấp thủ.
Vị đạt được ái diệt
và tâm không si mê
nhận thức nguồn sanh khởi
tâm giải thoát hoàn toàn.
Tâm tỳ khưu thanh tịnh
vị hoàn toàn giải thoát
không gì nữa phải làm
việc cần làm không có.
Như đá liền một khối
gió không lay chuyển được
cũng vậy sắc, thinh, vị,
và hết thảy hương, xúc,
các pháp thích, không thích
không lay động các vị
tâm bền vững, giải thoát
vị ấy quán sự diệt.
[5] Sau đó, đức Thế Tôn đã bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, những người con trai của các gia đình danh tiếng công bố sự chứng ngộ như thế ấy. Kết quả đã được nói lên nhưng bản thân (cơ thể) còn chưa khắc phục được. Hơn nữa, ở đây ta nghĩ rằng có một số kẻ rồ dại công bố sự chứng ngộ như là việc đùa giỡn, những kẻ ấy sau này sẽ bị rơi vào bất hạnh.
Sau đó, đức Thế Tôn đã nói với đại đức Soṇa rằng:
– Này Soṇa, ngươi là người (có vóc dáng) mảnh mai. Này Soṇa, đối với ngươi ta cho phép (sử dụng) dép (upāhanā) loại một lớp.
– Bạch ngài, con đã từ bỏ vàng được chứa đầy tám mươi xe hàng với bầy voi gồm bảy con và đã rời nhà xuất gia sống không nhà. Sẽ có những người nói về con rằng: “Soṇa Koḷivisa đã từ bỏ vàng được chứa đầy tám mươi xe hàng với bầy voi gồm bảy con và đã rời nhà xuất gia sống không nhà. Giờ đây, chính vị ấy lại bám víu vào những đôi dép loại một lớp.” Nếu đức Thế Tôn cho phép hội chúng tỳ khưu thì con sẽ sử dụng; nếu đức Thế Tôn không cho phép hội chúng tỳ khưu thì con cũng sẽ không sử dụng.
Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) dép loại một lớp. Này các tỳ khưu, không nên mang những đôi dép loại hai lớp, không nên mang những đôi dép loại ba lớp, không nên mang những đôi dép loại nhiều lớp; vị nào mang thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[6] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư mang những đôi dép toàn màu xanh, …(như trên)… mang những đôi dép toàn màu vàng, mang những đôi dép toàn màu đỏ, mang những đôi dép toàn màu đỏ sậm, mang những đôi dép toàn màu đen, mang những đôi dép nhuộm toàn màu nổi bật, mang những đôi dép nhuộm toàn màu sáng chói. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên mang những đôi dép toàn màu xanh, không nên mang những đôi dép toàn màu vàng, không nên mang những đôi dép toàn màu đỏ, không nên mang những đôi dép toàn màu đỏ sậm, không nên mang những đôi dép toàn màu đen, không nên mang những đôi dép nhuộm toàn màu nổi bật, không nên mang những đôi dép nhuộm toàn màu sáng chói; vị nào mang thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư mang những đôi dép có dây buộc màu xanh (nīlavaddhikā), mang những đôi dép có dây buộc màu vàng, mang những đôi dép có dây buộc màu đỏ, mang những đôi dép có dây buộc màu đỏ sậm, mang những đôi dép có dây buộc màu đen, mang những đôi dép có dây buộc nhuộm màu nổi bật, mang những đôi dép có dây buộc nhuộm màu sáng chói. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên mang những đôi dép có dây buộc màu xanh, không nên mang những đôi dép có dây buộc màu vàng, không nên mang những đôi dép có dây buộc màu đỏ, không nên mang những đôi dép có dây buộc màu đỏ sậm, không nên mang những đôi dép có dây buộc màu đen, không nên mang những đôi dép có dây buộc nhuộm màu nổi bật, không nên mang những đôi dép có dây buộc nhuộm màu sáng chói; vị nào mang thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư mang những đôi dép phủ gót chân (khallavaddhā), mang những đôi dép trùm đến gối (puṭavaddhā), mang những đôi dép trùm đến ống chân (pāliguṇṭhimā), mang những đôi dép lót bông gòn (tūlapuṇṇikā), mang những đôi dép giống cánh của gà gô (tittirapattikā), mang những đôi dép có gắn sừng cừu (meṇḍavisāṇavaddhikā), mang những đôi dép có gắn sừng dê (ajavisāṇavaddhikā), mang những đôi dép có gắn đuôi bọ cạp (vicchikāḷikā), mang những đôi dép có khâu lông công (morapiñjaparisibbitā), mang những đôi dép đủ các loại. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên mang những đôi dép phủ gót chân, không nên mang những đôi dép trùm đến gối, không nên mang những đôi dép trùm đến ống chân, không nên mang những đôi dép lót bông gòn, không nên mang những đôi dép giống cánh của gà gô, không nên mang những đôi dép có gắn sừng cừu, không nên mang những đôi dép có gắn sừng dê, không nên mang những đôi dép có gắn đuôi bọ cạp, không nên mang những đôi dép có khâu lông công, không nên mang những đôi dép đủ các loại; vị nào mang thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư mang những đôi dép làm bằng da sư tử, mang những đôi dép làm bằng da cọp, mang những đôi dép làm bằng da beo, mang những đôi dép làm bằng da hươu, mang những đôi dép làm bằng da rái cá, mang những đôi dép làm bằng da mèo, mang những đôi dép làm bằng da sóc, mang những đôi dép làm bằng da cú mèo. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên mang những đôi dép làm bằng da sư tử, không nên mang những đôi dép làm bằng da cọp, không nên mang những đôi dép làm bằng da beo, không nên mang những đôi dép làm bằng da hươu, không nên mang những đôi dép làm bằng da rái cá, không nên mang những đôi dép làm bằng da mèo, không nên mang những đôi dép làm bằng da sóc, không nên mang những đôi dép làm bằng da cú mèo; vị nào mang thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[7] Khi ấy vào buổi sáng, đức Thế Tôn đã mặc y, cầm y bát, rồi đi vào thành Rājagaha để khất thực với vị tỳ khưu nào đó làm sa-môn hầu cận. Khi ấy, vị tỳ khưu ấy đi khập khiễng theo sát phía sau đức Thế Tôn. Có nam cư sĩ nọ sau khi mang vào đôi dép loại nhiều lớp đã nhìn thấy đức Thế Tôn từ đàng xa đang đi lại, sau khi nhìn thấy đã tháo đôi dép ra rồi đi đến gần đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi đi đến gần vị tỳ khưu ấy, sau khi đến đã đảnh lễ vị tỳ khưu ấy rồi nói điều này:
– Thưa ngài, vì sao ngài đi khập khiễng?
– Này đạo hữu, hai bàn chân tôi bị rách.
– Thưa ngài, hãy nhận lấy đôi dép.
– Này đạo hữu, thôi đi. Những đôi dép có nhiều lớp đã bị đức Thế Tôn cấm đoán.
(Đức Thế Tôn đã nói rằng):
– Này tỳ khưu, hãy thọ lãnh đôi dép ấy.
Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) dép loại nhiều lớp đã bị bỏ đi. Này các tỳ khưu, không nên mang những đôi dép loại nhiều lớp còn mới; vị nào mang thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[8] Vào lúc bấy giờ, đức Thế Tôn đi kinh hành ngoài trời không mang dép. (Nghĩ rằng): “Bậc Đạo Sư đi kinh hành không mang dép” nên các tỳ khưu trưởng lão đi kinh hành không mang dép. Trong khi bậc Đạo Sư đi kinh hành không mang dép và trong khi các tỳ khưu trưởng lão đi kinh hành không mang dép, các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại đi kinh hành có mang dép. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Vì sao trong khi bậc Đạo Sư đi kinh hành không mang dép và trong khi các tỳ khưu trưởng lão đi kinh hành không mang dép, các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại đi kinh hành có mang dép?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, nghe nói trong khi bậc Đạo Sư đi kinh hành không mang dép và trong khi các tỳ khưu trưởng lão đi kinh hành không mang dép, các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại đi kinh hành có mang dép, có đúng không vậy?
– Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Thế Tôn đã khiển trách rằng:
– Này các tỳ khưu, vì sao trong khi bậc Đạo Sư đi kinh hành không mang dép và trong khi các tỳ khưu trưởng lão đi kinh hành không mang dép, những kẻ rồ dại ấy lại đi kinh hành có mang dép? Này các tỳ khưu, ngay cả những người tại gia choàng vải trắng thực hành nghề nghiệp để nuôi mạng vẫn sống có sự tôn kính, có sự phục tùng, có sự quan tâm đến các vị thầy. Này các tỳ khưu, ở đây hãy làm rạng rỡ việc các ngươi đã được xuất gia trong Pháp và Luật được khéo thuyết giảng như vầy, các ngươi nên sống có sự tôn kính, có sự phục tùng, có sự quan tâm đến các vị thầy dạy học, đến các vị tương đương thầy dạy học, đến các vị thầy tế độ, đến các vị tương đương thầy tế độ. Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)…
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, trong khi các vị thầy dạy học, các vị tương đương thầy dạy học, các vị thầy tế độ, các vị tương đương thầy tế độ đang đi kinh hành không mang dép, không nên đi kinh hành có mang dép; vị nào mang thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, trong khuôn viên tu viện không nên mang dép; vị nào mang thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[9] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh khối u ở bàn chân. Các tỳ khưu khiêng vị ấy đưa ra bên ngoài cho việc tiểu tiện, đại tiện. Đức Thế Tôn trong khi đi dạo quanh các chỗ trú ngụ đã nhìn thấy các tỳ khưu ấy đang khiêng vị tỳ khưu ấy đưa ra bên ngoài cho việc tiểu tiện, đại tiện, sau khi nhìn thấy đã đi đến gần các tỳ khưu ấy, sau khi đến đã nói với các tỳ khưu ấy điều này:
– Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu này có bệnh gì vậy?
– Bạch ngài, đại đức này có bệnh khối u ở bàn chân. Chúng con khiêng vị này đưa ra bên ngoài cho việc tiểu tiện, đại tiện.
[10] Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, ta cho phép vị có các bàn chân bị đau, hoặc có các bàn chân bị rách, hoặc có bệnh khối u ở bàn chân được mang dép.
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu bước lên giường ghế với các bàn chân chưa rửa khiến y và chỗ nằm ngồi bị dơ. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép mang dép khi nghĩ rằng: “Bây giờ ta sẽ bước lên giường hoặc ghế.”
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu trong khi đi đến nhà hành lễ Uposatha (Bố Tát) và buổi hội họp vào ban đêm đã đạp nhằm gốc cây, (đạp nhằm) gai nhọn khiến các bàn chân bị đau. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, trong khuôn viên tu viện ta cho phép sử dụng dép, cây đuốc, cây đèn, và cây gậy để chống.
Vào lúc bấy giờ, sau khi thức dậy vào lúc hừng sáng của đêm các tỳ khưu nhóm Lục Sư mang các đôi guốc gỗ (kaṭṭhapādukā) đi kinh hành ở ngoài trời, trong khi nói chuyện to giọng, lớn tiếng, với âm thanh ồn ào về các chuyện nhảm nhí liên quan đến nhiều vấn đề như là: chuyện đức vua, chuyện kẻ trộm, chuyện quan đại thần, chuyện binh lính, chuyện ghê rợn, chuyện vũ khí, chuyện thức ăn, chuyện nước uống, chuyện vải vóc, chuyện giường nằm, chuyện vòng hoa, chuyện hương thơm, chuyện thân quyến, chuyện xe cộ, chuyện làng xóm, chuyện thị trấn, chuyện thành thị, chuyện quốc gia, chuyện đàn bà, chuyện đàn ông, chuyện người hùng, chuyện đường xá, chuyện về chỗ có hũ (của cải chôn giấu), chuyện ma quỷ, chuyện linh tinh, chuyện tiên đoán về thế gian, chuyện tiên đoán về đại dương, chuyện sẽ xảy ra và sẽ không xảy ra như vầy hay là như vầy, các vị vừa dẫm đạp giết chết côn trùng vừa làm cho các tỳ khưu không tập trung được thiền định.
Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư sau khi thức dậy vào lúc hừng sáng của đêm lại mang các đôi guốc gỗ đi kinh hành ở ngoài trời còn nói chuyện to giọng, lớn tiếng, với âm thanh ồn ào về các chuyện nhảm nhí liên quan đến nhiều vấn đề như là: chuyện đức vua, chuyện kẻ trộm, …(như trên)…, chuyện sẽ xảy ra và sẽ không xảy ra như vầy hay là như vầy, các vị vừa dẫm đạp giết chết côn trùng vừa làm cho các tỳ khưu không tập trung được thiền định?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu nhóm Lục Sư sau khi thức dậy vào lúc hừng sáng của đêm lại mang các đôi guốc gỗ đi kinh hành ở ngoài trời còn nói chuyện to giọng, lớn tiếng, với âm thanh ồn ào về các chuyện nhảm nhí liên quan đến nhiều vấn đề như là: chuyện đức vua, chuyện kẻ trộm, …(như trên)… chuyện sẽ xảy ra và sẽ không xảy ra như vầy hay là như vầy, các vị vừa dẫm đạp giết chết côn trùng vừa làm cho các tỳ khưu không tập trung được thiền định, có đúng không vậy?
– Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
…(như trên)… Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
-Này các tỳ khưu không nên mang các đôi guốc gỗ; vị nào mang thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[11] Sau đó, khi đã ngự tại thành Rājagaha theo như ý thích, đức Thế Tôn đã ra đi du hành về phía thành Bārāṇasī (Ba La Nại). Trong khi tuần tự du hành, ngài đã ngự đến thành Bārāṇasī Tại nơi ấy trong thành Bārāṇasī, đức Thế Tôn ngự tại Isipatana, ở khu vườn nai. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư (nghĩ rằng): “Những đôi guốc gỗ đã bị đức Thế Tôn cấm đoán” nên đã cho chặt những cây thốt nốt (tāla) còn non rồi mang những đôi guốc làm bằng lá cây thốt nốt. Những cây thốt nốt còn non bị chặt đã héo úa. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Tại sao các sa-môn Thích tử lại cho chặt những cây thốt nốt còn non rồi mang những đôi guốc làm bằng lá cây thốt nốt khiến những cây thốt nốt còn non bị chặt đã héo úa? Các sa-môn Thích tử hãm hại mạng sống của loài có một giác quan.
Các tỳ khưu đã nghe được dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu nhóm Lục Sư đã cho chặt những cây thốt nốt còn non rồi mang những đôi guốc làm bằng lá cây thốt nốt khiến những cây thốt nốt còn non bị chặt đã héo úa, có đúng không vậy?
– Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
– Này các tỳ khưu, vì sao những kẻ rồ dại kia lại cho chặt những cây thốt nốt còn non rồi mang những đôi guốc làm bằng lá cây thốt nốt khiến những cây thốt nốt còn non bị chặt đã héo úa. Này các tỳ khưu, bởi vì dân chúng nghĩ rằng có mạng sống ở trong thân cây. Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)…
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, không nên mang những đôi guốc làm bằng lá cây thốt nốt; vị nào mang thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư (nghĩ rằng): “Những đôi guốc làm bằng lá cây thốt nốt đã bị đức Thế Tôn cấm đoán” nên đã cho chặt những cây tre còn non rồi mang những đôi guốc làm bằng lá cây tre. Những cây tre còn non bị chặt đã héo úa. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Vì sao các sa-môn Thích tử lại cho chặt những cây tre còn non rồi mang những đôi guốc làm bằng lá cây tre khiến những cây tre còn non bị chặt đã héo úa? Các sa-môn Thích tử hãm hại mạng sống của loài có một giác quan.
Các tỳ khưu đã nghe được dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
– Này các tỳ khưu, không nên mang những đôi guốc làm bằng lá cây tre; vị nào mang thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[12] Sau đó, khi đã ngự tại thành Bārāṇasī theo như ý thích, đức Thế Tôn đã ra đi du hành về phía thành Bhaddiya. Trong khi tuần tự du hành, ngài đã ngự đến thành Bhaddiya. Tại nơi ấy trong thành Bhaddiya, đức Thế Tôn ngự tại khu rừng Jātiyā. Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu ở Bhaddiya sống say mê và gắn bó với việc trang hoàng đôi giày bằng nhiều cách. Các vị tự làm và bảo người làm giày bằng cỏ (tiṇa), các vị tự làm và bảo người làm giày bằng cỏ tranh (muñja), các vị tự làm và bảo người làm giày bằng cỏ sậy (pabbaja), các vị tự làm và bảo người làm giày bằng cây dừa nước (hintāla), các vị tự làm và bảo người làm giày bằng lá sen (kamala), các vị tự làm và bảo người làm giày bằng len. Các vị xao lãng việc trì tụng, việc học hỏi, tăng thượng giới, tăng thượng tâm, tăng thượng tuệ.
Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Vì sao các tỳ khưu ở Bhaddiya lại sống say mê và gắn bó với việc trang hoàng đôi giày bằng nhiều cách. Các vị tự làm và bảo người làm giày bằng cỏ, các vị tự làm và bảo người làm giày bằng cỏ tranh, các vị tự làm và bảo người làm giày bằng cỏ sậy, các vị tự làm và bảo người làm giày bằng cây dừa nước, các vị tự làm và bảo người làm giày bằng lá sen, các vị tự làm và bảo người làm giày bằng len. Các vị xao lãng việc trì tụng, việc học hỏi, tăng thượng giới, tăng thượng tâm, tăng thượng tuệ?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ở Bhaddiya sống say mê và gắn bó với việc trang hoàng đôi giày bằng nhiều cách. Các vị tự làm và bảo người làm giày bằng cỏ, các vị tự làm và bảo người làm giày bằng cỏ tranh, các vị tự làm và bảo người làm giày bằng cỏ sậy, các vị tự làm và bảo người làm giày bằng cây dừa nước, các vị tự làm và bảo người làm giày bằng lá sen, các vị tự làm và bảo người làm giày bằng len. Các vị xao lãng việc trì tụng, việc học hỏi, tăng thượng giới, tăng thượng tâm, tăng thượng tuệ, có đúng không vậy?
– Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
– Này các tỳ khưu, vì sao những kẻ rồ dại này lại sống say mê và gắn bó với việc trang hoàng đôi giày bằng nhiều cách. Chúng làm và bảo người làm giày bằng cỏ, chúng làm và bảo người làm giày bằng cỏ tranh, chúng làm và bảo người làm giày bằng cỏ sậy, chúng làm và bảo người làm giày bằng cây dừa nước, chúng làm và bảo người làm giày bằng lá sen, chúng làm và bảo người làm giày bằng len. Chúng xao lãng việc trì tụng, việc học hỏi, tăng thượng giới, tăng thượng tâm, tăng thượng tuệ? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)…
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, không nên mang giày làm bằng cỏ, không nên mang giày làm bằng cỏ tranh, không nên mang giày làm bằng cỏ sậy, không nên mang giày làm bằng cây dừa nước, không nên mang giày làm bằng lá sen, không nên mang giày làm bằng len, không nên mang giày làm bằng vàng, không nên mang giày làm bằng bạc, không nên mang giày làm bằng ngọc ma-ni, không nên mang giày làm bằng ngọc mắt mèo, không nên mang giày làm bằng pha-lê, không nên mang giày làm bằng đồng thau, không nên mang giày làm bằng thủy tinh, không nên mang giày làm bằng thiếc, không nên mang giày làm bằng chì, không nên mang giày làm bằng đồng đỏ; vị nào mang thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, không nên mang bất cứ loại giày nào dùng cho việc đi lại; vị nào mang thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, ta cho phép ba loại giày đặt ở chỗ nhất định, không thể mang đi (nơi khác) là: giày ở nhà tiểu, giày ở nhà tiêu, giày ở chỗ súc miệng.
[13] Sau đó, khi đã ngự tại thành Bhaddiya theo như ý thích, đức Thế Tôn đã ra đi du hành về phía thành Sāvatthi. Trong khi tuần tự du hành, ngài đã ngự đến thành Sāvatthi. Tại nơi ấy trong thành Sāvatthi, đức Thế Tôn ngự tại Jetavana (Kỳ Viên), tu viện của ông Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Độc).
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư nắm lấy các sừng của những con bò cái đang lội qua sông Aciravatī, các vị nắm lấy tai, các vị nắm lấy cổ, các vị nắm lấy đuôi, các vị cỡi lên lưng, các vị sờ vào bộ phận sinh dục do tâm dâm dục, các vị dìm nước các con bò cái tơ và giết chết. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Tại sao các sa-môn Thích tử lại nắm lấy các sừng của những con bò cái đang lội qua sông Aciravatī, các vị nắm lấy các tai, các vị nắm lấy các cổ, các vị nắm lấy các đuôi, các vị cỡi lên lưng, các vị sờ mó bộ phận sinh dục do tâm dâm dục, các vị dìm nước các con bò cái tơ và giết chết giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy?
Các tỳ khưu đã nghe được dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên nắm lấy các sừng, không nên nắm lấy các tai, không nên nắm lấy các cổ, không nên nắm lấy các đuôi, không nên cỡi lên lưng của những con bò cái; vị nào cỡi lên thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Không nên sờ mó bộ phận sinh dục do tâm dâm dục; vị nào sờ mó thì phạm tội thullaccaya (trọng tội). Không nên giết chết những con bò cái tơ; vị nào giết chết thì nên hành xử theo Pháp.[3]
[14] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư di chuyển bằng xe được kéo bởi các con bò cái với con bò đực ở giữa, hoặc được kéo bởi các con bò đực với con bò cái ở giữa. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Giống như lễ hội ở vùng Gaṅgā và Mahī vậy.
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên di chuyển bằng xe; vị nào di chuyển thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vào lúc bấy giờ, ở trong xứ Kosala có vị tỳ khưu nọ đang đi đến Sāvatthi để diện kiến đức Thế Tôn, ở giữa đường bị bệnh. Khi ấy, vị tỳ khưu ấy đã rời đường đi và ngồi xuống ở gốc cây nọ. Dân chúng đã nhìn thấy rồi nói với vị tỳ khưu ấy điều này:
– Thưa ngài, ngài sẽ đi đâu vậy?
– Này các đạo hữu, tôi sẽ đi Sāvatthi để diện kiến đức Thế Tôn.
– Thưa ngài, hãy đến đây, chúng ta sẽ cùng đi.
– Này các đạo hữu, tôi không thể (đi được). Tôi bị bệnh.
– Thưa ngài, hãy đến đây. Hãy leo lên xe.
– Này các đạo hữu, thôi đi. Xe đã bị đức Thế Tôn cấm đoán.
Trong khi ngần ngại, vị ấy đã không leo lên xe.
Sau đó, vị tỳ khưu ấy đã đi đến thành Sāvatthi và kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) xe đối với vị bị bệnh.
Khi ấy, các vị tỳ khưu đã khởi ý điều này: “Vậy được kéo bởi bò cái? Hay được kéo bởi bò đực?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) toa xe được kéo bởi bò đực.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đã bị khó chịu dữ dội vì sự dằn xóc của xe. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) kiệu khiêng, ghế khiêng.
[15] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư sử dụng chỗ nằm cao và chỗ nằm rộng lớn như là: ghế cao, ghế nệm lông thú, thảm lông cừu, thảm nhiều màu, thảm màu trắng, thảm thêu bông hoa, thảm bông gòn, thảm dệt có nhiều hình vẽ, thảm lông rái cá, thảm có lông một góc, tấm lụa có kết ngọc quý, thảm lụa, thảm lớn để nhảy múa, thảm da voi, thảm da ngựa, thảm lót xe, thảm da beo, thảm da nai giống quý, thảm có che phủ ở trên, thảm có màu đỏ ở cả hai đầu.
Dân chúng trong lúc đi dạo quanh các trú xá nhìn thấy nên phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên sử dụng chỗ nằm cao và chỗ nằm rộng lớn như là: ghế cao, ghế nệm lông thú, thảm lông cừu, thảm nhiều màu, thảm màu trắng, thảm thêu bông hoa, thảm bông gòn, thảm dệt có nhiều hình vẽ, thảm lông rái cá, thảm có lông một góc, tấm lụa có kết ngọc quý, thảm lụa, thảm lớn để nhảy múa, thảm da voi, thảm da ngựa, thảm lót xe, thảm da beo, thảm da nai giống quý, thảm có che phủ ở trên, thảm có màu đỏ ở cả hai đầu; vị nào sử dụng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[16] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư (nghĩ rằng): “Chỗ nằm cao và chỗ nằm rộng lớn đã bị đức Thế Tôn cấm đoán” nên sử dụng những tấm da thú lớn là da sư tử, da cọp, da beo. Các tấm da được cắt theo kích thước của giường, chúng được cắt theo kích thước của ghế, chúng được xếp đặt ở giường phía bên trong, chúng được xếp đặt ở giường phía bên ngoài, chúng được xếp đặt ở ghế phía bên trong, chúng được xếp đặt ở ghế phía bên ngoài. Dân chúng trong lúc đi dạo quanh các trú xá nhìn thấy nên phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên sử dụng những tấm da thú lớn là da sư tử, da cọp, da beo; vị nào sử dụng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[17] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư (nghĩ rằng): “Những tấm da thú lớn đã bị đức Thế Tôn cấm đoán” nên sử dụng những tấm da bò. Những tấm da bò được cắt theo kích thước của giường, chúng được cắt theo kích thước của ghế, chúng được xếp đặt ở giường phía bên trong, chúng được xếp đặt ở giường phía bên ngoài, chúng được xếp đặt ở ghế phía bên trong, chúng được xếp đặt ở ghế phía bên ngoài. Có vị tỳ khưu xấu xa nọ thường hay lui tới với người cư sĩ xấu xa nọ. Khi ấy vào buổi sáng, vị tỳ khưu xấu xa ấy đã mặc y, cầm y bát, rồi đi đến nhà ở của người cư sĩ xấu xa ấy, sau khi đến đã ngồi xuống trên chỗ ngồi được sắp đặt sẵn. Sau đó, người cư sĩ xấu xa ấy đã đi đến gặp vị tỳ khưu xấu xa ấy, sau khi đến đã đảnh lễ vị tỳ khưu xấu xa ấy rồi ngồi xuống ở một bên. Vào lúc bấy giờ, con bê của người cư sĩ xấu xa ấy còn nhỏ, đẹp đẽ, xinh xắn, duyên dáng, có nhiều màu như là con beo con vậy. Khi ấy, vị tỳ khưu xấu xa ấy chăm chú nhìn con bê con ấy một cách kỹ lưỡng. Sau đó, người cư sĩ xấu xa ấy đã nói với vị tỳ khưu xấu xa ấy điều này:
– Thưa ngài, vì sao ngài lại chăm chú nhìn con bê con ấy một cách kỹ lưỡng vậy?
– Này đạo hữu, ta có việc cần dùng với da của con bê này.
Khi ấy, người cư sĩ xấu xa ấy đã giết chết con bê ấy, lột tấm da, rồi dâng cho vị tỳ khưu xấu xa ấy. Sau đó, vị tỳ khưu xấu xa ấy dùng y hai lớp (saṅghāṭi) che đậy tấm da ấy rồi ra đi. Khi ấy, con bò cái ấy nhớ đến con bê nên đã đi theo phía sau vị tỳ khưu xấu xa ấy. Các vị tỳ khưu đã nói như vầy:
– Này đại đức, vì sao con bò cái này cứ đi theo phía sau đại đức vậy?
– Này các đại đức, tôi cũng không biết vì sao con bò cái này cứ đi theo phía sau tôi nữa?
Vào lúc bấy giờ, y hai lớp của vị tỳ khưu xấu xa ấy đã bị vấy máu. Các vị tỳ khưu đã nói như vầy:
– Này đại đức, điều gì đã xảy ra cho cái y hai lớp này của đại đức vậy?
Khi ấy, vị tỳ khưu xấu xa ấy đã kể lại sự việc ấy cho các vị tỳ khưu.
– Này đại đức, có phải đại đức đã xúi kẻ khác giết hại mạng sống?
– Này các đại đức, đúng vậy.
Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Vì sao vị tỳ khưu lại xúi kẻ khác giết hại mạng sống? Không phải sự giết hại mạng sống đã bị đức Thế Tôn khiển trách bằng nhiều phương cách và việc từ bỏ giết hại mạng sống đã được khen ngợi hay sao?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
[18] Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội chúng tỳ khưu lại và hỏi vị tỳ khưu xấu xa ấy rằng:
– Này tỳ khưu, nghe nói ngươi đã xúi kẻ khác giết hại mạng sống, có đúng không vậy?
– Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
– Này kẻ rồ dại, vì sao ngươi lại xúi kẻ khác giết hại mạng sống? Không phải sự giết hại mạng sống đã bị ta khiển trách bằng nhiều phương cách và việc từ bỏ giết hại mạng sống đã được khen ngợi hay sao? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)…
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, không nên xúi kẻ khác giết hại mạng sống, vị nào xúi thì nên được hành xử theo Pháp.[4] Và này các tỳ khưu, không nên sử dụng da bò; vị nào sử dụng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Và này các tỳ khưu, không nên sử dụng bất cứ loại da nào; vị nào sử dụng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vào lúc bấy giờ, giường và ghế của dân chúng được bọc da và được phủ da. Các vị tỳ khưu ngần ngại không ngồi lên. Các vị đã trình sự việc lên đức Thê Tôn.
– Này các tỳ khưu, Ta cho phép ngồi lên chỗ đã được làm sẵn bởi cư sĩ nhưng không được nằm lên.
Vào lúc bấy giờ, các trú xá được buộc lại bằng những sợi dây da. Các vị tỳ khưu ngần ngại không ngồi lên. Các vị đã trình sự việc lên đức Thê Tôn.
– Này các tỳ khưu, Ta cho phép ngồi lên vật được buộc lại (bởi các sợi dây da).
[19] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đi vào làng có mang những đôi dép. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên đi vào làng có mang dép; vị nào đi vào thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh không thể đi vào làng không có mang dép. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép đi vào làng có mang dép đối với vị tỳ khưu bị bệnh.
[20] Lúc bấy giờ, đại đức Mahākaccāna (Đại Ca Chiên Diên) ngụ tại xứ Avanti, ở Kuraraghara, núi Papāta. Vào lúc bấy giờ, nam cư sĩ Soṇa Kuṭikaṇṇa là người hộ độ cho đại dức Mahākaccāna. Khi ấy, nam cư sĩ Soṇa Kuṭikaṇṇa đã đi đến gặp đại đức Mahākaccāna, sau khi đến đã đảnh lễ đại đức Mahākaccāna rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, nam cư sĩ Soṇa Kuṭikaṇṇa đã nói với đại đức Mahākaccāna điều này:
– Thưa ngài, theo như con hiểu về Pháp đã được ngài Mahākaccāna thuyết giảng thì việc ấy không phải là việc dễ làm đối với người đang sống ở gia đình để thực hành Phạm hạnh một cách đầy đủ trọn vẹn, hoàn toàn trong sạch như vỏ ốc được cạo sạch. Thưa ngài, con muốn cạo bỏ râu tóc, khoác lên các y màu ca-sa, rời nhà xuất gia sống không nhà. Thưa ngài, xin ngài đại đức Mahākaccāna hãy cho con xuất gia.
Khi được nói như vậy, đại đức Mahākaccāna đã nói với nam cư sĩ Soṇa Kuṭikaṇṇa điều này:
– Này Soṇa, việc khó làm là thực hành Phạm hạnh, ngủ một mình, ăn một bữa cho đến trọn đời. Này Soṇa, vậy thì ngay chính ở chỗ này, trong khi còn là người tại gia ngươi hãy thực tập lời dạy của chư Phật tức là Phạm hạnh, ngủ một mình, ăn một bữa trong một khoảng thời gian quy định.
Khi ấy, ước muốn xuất gia của nam cư sĩ Soṇa Kuṭikaṇṇa đã được dịu đi.
Đến lần thứ nhì, nam cư sĩ Soṇa Kuṭikaṇṇa …(như trên)…
Đến lần thứ ba, nam cư sĩ Soṇa Kuṭikaṇṇa đã đi đến gặp đại đức Mahākaccāna, sau khi đến đã đảnh lễ đại đức Mahākaccāna rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, nam cư sĩ Soṇa Kuṭikaṇṇa đã nói với đại đức Mahākaccāna điều này:
– Bạch ngài, theo như con hiểu về Pháp đã được ngài Mahākaccāna thuyết giảng thì việc ấy không phải là việc dễ làm đối với người đang sống ở gia đình để thực hành Phạm hạnh một cách đầy đủ trọn vẹn, hoàn toàn trong sạch như vỏ ốc được cạo sạch. Bạch ngài, con muốn cạo bỏ râu tóc, khoác các y màu ca-sa, rời nhà xuất gia sống không nhà. Bạch ngài, xin ngài đại đức Mahākaccāna hãy cho con xuất gia.
Khi ấy, đại đức Mahākaccāna đã cho nam cư sĩ Soṇa Kuṭikaṇṇa xuất gia.
Vào lúc bấy giờ, ở xứ Avanti và khu vực phía nam có ít tỳ khưu. Khi ấy, đại đức Mahākaccāna trải qua ba năm với nỗi cực nhọc khó khăn đã triệu tập được hội chúng tỳ khưu gồm mười vị từ nơi này nơi khác rồi đã cho đại đức Soṇa tu lên bậc trên. Sau đó, khi đã sống qua mùa (an cư) mưa, đại đức Soṇa trong lúc thiền tịnh ở nơi thanh vắng có ý nghĩ suy tầm như vầy đã sanh khởi: “Ta đã được nghe rằng: ‘Đức Thế Tôn ấy là vị như vầy và như vầy,’ nhưng ta chưa được nhìn thấy tận mặt, vậy ta nên đi để diện kiến đức Thế Tôn ấy là bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác nếu thầy tế độ cho phép ta.” Sau đó vào lúc chiều tối, đại đức Soṇa đã xuất khỏi thiền tịnh rồi đi đến gặp đại đức Mahākaccāna, sau khi đến đã đảnh lễ đại đức Mahākaccāna rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, đại đức Soṇa đã nói với đại đức Mahākaccāna điều này:
– Thưa ngài, trường hợp con trong lúc thiền tịnh ở nơi thanh vắng có ý nghĩ suy tầm như vầy đã sanh khởi: “Ta đã được nghe rằng: ‘Đức Thế Tôn ấy là vị như vầy và như vầy,’ nhưng ta chưa được thấy tận mặt, vậy ta nên đi để diện kiến đức Thế Tôn ấy là bậc A-la-hán Chánh Đẳng Giác nếu thầy tế độ cho phép ta.” Thưa ngài, con có nên đi để diện kiến đức Thế Tôn ấy là bậc A-la-hán Chánh Đẳng Giác nếu thầy tế độ cho phép con?
– Này Soṇa, tốt lắm, tốt lắm. Này Soṇa, ngươi hãy đi để diện kiến đức Thế Tôn ấy là bậc A-la-hán Chánh Đẳng Giác. Này Soṇa, ngươi sẽ thấy đức Thế Tôn ấy nhã nhặn, tạo nên niềm hoan hỷ, giác quan thanh tịnh, tâm ý thanh tịnh, đã đạt đến mức tột đỉnh trong sự thu thúc và tĩnh lặng, là đấng voi chúa có các giác quan đã được huấn luyện và bảo vệ. Này Soṇa, nếu vậy thì ngươi hãy đê đầu đảnh lễ ở chân của đức Thế Tôn với lời của ta rằng: “Bạch ngài, thầy tế độ của con là đại đức Mahākaccāna xin đê đầu đảnh lễ đức Thế Tôn.” Rồi ngươi hãy nói như vầy: “Bạch ngài, xứ Avanti và khu vực phía nam có ít tỳ khưu. Con trải qua ba năm với nỗi cực nhọc khó khăn mới triệu tập được hội chúng tỳ khưu gồm mười vị từ nơi này nơi khác và đã thành tựu việc tu lên bậc trên. Có lẽ ở xứ Avanti và khu vực phía nam đức Thế Tôn nên cho phép việc tu lên bậc trên bằng nhóm (có nhân sự) ít hơn. Bạch ngài, ở xứ Avanti và khu vực phía nam, mặt đất sẫm màu hơn, rắn chắc, bị dẫm đạp bởi móng chân bò, có lẽ ở xứ Avanti và khu vực phía nam đức Thế Tôn nên cho phép (sử dụng) dép có nhiều lớp. Bạch ngài, ở xứ Avanti và khu vực phía nam dân chúng xem trọng việc tắm và được sạch sẽ nhờ nước, có lẽ ở xứ Avanti và khu vực phía nam đức Thế Tôn nên cho phép việc tắm rửa thường xuyên. Bạch ngài, ở xứ Avanti và khu vực phía nam các loại da thú như là da cừu, da dê, da nai là vật dùng để trải lót. Bạch ngài, cũng giống như ở các xứ ở trung tâm (các loại cỏ) eragu, moragu, majjāru, jantu (là vật dùng để trải lót), bạch ngài, tương tợ như thế ở xứ Avanti và khu vực phía nam các loại da thú như là da cừu, da dê, da nai là vật dùng để trải lót; có lẽ ở xứ Avanti và khu vực phía nam đức Thế Tôn nên cho phép các loại da thú như là da cừu, da dê, da nai là vật dùng để trải lót. Bạch ngài, hiện nay dân chúng dâng y đến các vị tỳ khưu đã đi ra khỏi ranh giới (nói rằng): ‘Chúng tôi dâng y này cho vị tên (như vầy).’ Các vị ấy khi trở lại được (các tỳ khưu) thông báo rằng: ‘Này các đại đức, y đã được dâng cho các đại đức bởi những người tên (như vầy),’ các vị ấy ngần ngại không nhận (nói rằng): ‘Chớ để chúng tôi bị phạm tội nissaggiya (ưng xả);’ có lẽ đức Thế Tôn nên giải thích chi tiết về vấn đề y.”
– Bạch ngài, xin vâng.
Sau khi lắng nghe đại đức Mahākaccāna, đại đức Soṇa đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đại đức Mahākaccāna, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi thu xếp chỗ trú ngụ, cầm y bát, ra đi về phía thành Sāvatthi. Tuần tự vị ấy đã đi đến thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika, gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi ấy, đức Thế Tôn đã bảo đại đức Ānanda rằng:
– Này Ānanda, hãy sắp đặt chỗ trú ngụ cho vị tỳ khưu vãng lai này.
Khi ấy, đại đức Ānanda (suy nghĩ rằng): “Liên quan đến vị nào mà đức Thế Tôn ra lệnh cho ta rằng: ‘Này Ānanda, hãy sắp đặt chỗ trú ngụ cho vị tỳ khưu vãng lai này’? Có phải đức Thế Tôn muốn ngụ trong cùng một trú xá với vị tỷ kheo ấy? Có phải đức Thế Tôn muốn ngụ trong cùng một trú xá với đại đức Soṇa?” rồi đã sắp đặt chỗ trú ngụ cho đại đức Soṇa trong trú xá đức Thế Tôn đang ngự.
[21] Sau đó, khi đã trải qua gần trọn đêm ở ngoài trời đức Thế Tôn đã đi vào trú xá. Đại đức Soṇa sau khi trải qua gần trọn đêm ở ngoài trời cũng đã đi vào trú xá. Sau đó, khi đã thức dậy vào lúc hừng sáng của đêm, đức Thế Tôn đã yêu cầu đại đức Soṇa rằng:
– Này tỳ khưu, hãy thuyết giảng Pháp mà ngươi biết rõ.
– Bạch ngài, xin vâng.
Rồi đại đức Soṇa nghe theo đức Thế Tôn đã thuyết lại theo trí nhớ đầy đủ toàn bộ phẩm Nhóm Tám (Aṭṭhakavaggikāni). Sau đó, vào lúc chấm dứt việc thuyết lại theo trí nhớ của đại đức Soṇa đức Thế Tôn đã khen ngợi rằng:
– Này tỳ khưu, tốt lắm, tốt lắm. Này tỳ khưu, phẩm Nhóm Tám đã được ngươi khéo học tập, khéo suy nghĩ, khéo ghi nhớ. Ngươi có giọng nói êm dịu, rõ ràng, không có khó nghe, làm rõ được ý nghĩa. Này tỳ khưu, ngươi (xuất gia) được bao nhiêu năm?
– Bạch đức Thế Tôn, con được một năm.
– Này tỳ khưu, tại sao ngươi thực hiện (việc tu lên bậc trên) chậm trễ như vậy?
– Bạch ngài, từ lâu con đã thấy được sự tai hại trong các dục, nhưng vì cuộc sống tại gia có nhiều cản trở, có nhiều phận sự, có nhiều việc cần phải làm.
Sau đó, khi đã hiểu ra sự việc ấy, đức Thế Tôn vào thời điểm ấy đã thốt lên lời cảm hứng này:
Thấy hiểm họa ở đời,
sau khi hiểu rõ Pháp,
không đam mê, chấp thủ,
bậc Thánh không thích ác,
không thích thú điều ác,
vị ấy được trong sạch.
[22] Khi ấy, đại đức Soṇa (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn hoan hỷ với ta, lúc này chính là lúc của việc mà thầy tế độ ta đã căn dặn kỹ càng” nên đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp thượng y một bên vai, quỳ xuống đê đầu ở hai bàn chân của đức Thế Tôn rồi nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, thầy tế độ của con là đại đức Mahākaccāna xin đê đầu đảnh lễ ở hai chân của đức Thế Tôn và nói như vầy: “Bạch ngài, xứ Avanti và khu vực phía nam có ít tỳ khưu. Con trải qua ba năm với nỗi cực nhọc khó khăn mới triệu tập được hội chúng tỳ khưu gồm mười vị từ nơi này nơi khác và đã thành tựu việc tu lên bậc trên. Có lẽ ở xứ Avanti và khu vực phía nam đức Thế Tôn nên cho phép việc tu lên bậc trên bằng nhóm (có nhân sự) ít hơn. Bạch ngài, ở xứ Avanti và khu vực phía nam mặt đất sẫm màu hơn, rắn chắc, bị dẫm đạp bởi móng chân bò, có lẽ ở xứ Avanti và khu vực phía nam đức Thế Tôn nên cho phép (sử dụng) dép có nhiều lớp. Bạch ngài, ở xứ Avanti và khu vực phía nam dân chúng xem trọng việc tắm và được sạch sẽ nhờ nước, có lẽ ở xứ Avanti và khu vực phía nam đức Thế Tôn nên cho phép việc tắm rửa thường xuyên. Bạch ngài, ở xứ Avanti và khu vực phía nam các loại da thú như là da cừu, da dê, da nai là vật dùng để trải lót. Bạch ngài, cũng giống như ở các xứ ở trung tâm (các loại cỏ) eragu, moragu, majjāru, jantu (là vật dùng để trải lót), bạch ngài, tương tợ như thế ở xứ Avanti và khu vực phía nam các loại da thú như là da cừu, da dê, da nai là vật dùng để trải lót; có lẽ ở xứ Avanti và khu vực phía nam đức Thế Tôn nên cho phép các loại da thú như là da cừu, da dê, da nai là vật dùng để trải lót. Bạch ngài, hiện nay dân chúng dâng y đến các vị tỳ khưu đã đi ra khỏi ranh giới (nói rằng): ‘Chúng tôi dâng y này cho vị tên (như vầy).’ Các vị ấy khi trở lại được (các tỳ khưu) thông báo rằng: ‘Này các đại đức, y đã được dâng cho các đại đức bởi những người tên (như vầy) ,’ các vị ấy ngần ngại không nhận (nói rằng): ‘Chớ để chúng tôi bị phạm tội nissaggiya (ưng xả);’ có lẽ đức Thế Tôn nên giải thích chi tiết về vấn đề y.”
[23] Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, xứ Avanti và khu vực phía nam có ít tỳ khưu. Này các tỳ khưu, trong tất cả các xứ thuộc vùng biên địa (sabbapaccantimesu janapadesu) ta cho phép việc tu lên bậc trên với nhóm có vị thứ năm là vị rành rẽ về Luật (vinayadharapañcamena). Trong trường hợp này, các xứ thuộc vùng biên địa là: Ở hướng bắc có thị trấn tên là Kajaṅgala, xa hơn chỗ đó là Mahāsālā, từ đó trở đi là các xứ thuộc vùng biên địa, từ đó trở lại là thuộc trung tâm. Ở hướng nam, có thị trấn tên là Setakaṇṇika, từ đó trở đi là các xứ thuộc vùng biên địa, từ đó trở lại là thuộc trung tâm. Ở hướng tây, có làng bà-la-môn tên là Thūna, từ đó trở đi là các xứ thuộc vùng biên địa, từ đó trở lại là thuộc trung tâm. Ở hướng đông, có ngọn núi tên là Usīraddhaja, từ đó trở đi là các xứ thuộc vùng biên địa, từ đó trở lại là thuộc trung tâm. Này các tỳ khưu, trong các xứ thuộc vùng biên địa như thế ta cho phép việc tu lên bậc trên với nhóm có vị thứ năm là vị rành rẽ về Luật.
Này các tỳ khưu, ở xứ Avanti và khu vực phía nam mặt đất sẫm màu hơn, rắn chắc, bị dẫm đạp bởi móng chân bò. Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) dép có nhiều lớp trong tất cả các xứ thuộc vùng biên địa.Này các tỳ khưu, ở xứ Avanti và khu vực phía nam dân chúng xem trọng việc tắm và được sạch sẽ nhờ nước. Này các tỳ khưu, ta cho phép việc tắm rửa thường xuyên trong tất cả các xứ thuộc vùng biên địa. Này các tỳ khưu, ở xứ Avanti và khu vực phía nam các loại da thú như là da cừu, da dê, da nai là vật dùng để trải lót. Này các tỳ khưu, cũng giống như ở các xứ ở trung tâm (các loại cỏ) eragu, moragu, majjāru, jantu (là vật dùng để trải lót), này các tỳ khưu, tương tợ như thế ở xứ Avanti và khu vực phía nam các loại da thú như là da cừu, da dê, da nai là vật dùng để trải lót. Này các tỳ khưu, ta cho phép các loại da thú như là da cừu, da dê, da nai là vật dùng để trải lót trong tất cả các xứ thuộc vùng biên địa. Này các tỳ khưu, trường hợp dân chúng dâng y đến các vị tỳ khưu đã đi ra khỏi ranh giới (nói rằng): ‘Chúng tôi dâng y này cho vị tên (như vầy).’ Này các tỳ khưu, ta cho phép nhận lãnh, khi nào chưa đến tay thì chưa tính việc đếm (ngày đã cất giữ) ấy.
Chương Da Thú là chương thứ năm.
Trong chương này có sáu mươi ba sự việc.
******
Tóm lược chương này:
[24]
Vua xứ Magadha
và thanh niên Soṇa,
trưởng làng tám muôn vị,
ở Gijjhakūṭa,
Sāgata phô bày
nhiều Pháp bậc thượng nhân,
xuất gia rồi nỗ lực,
(các bàn chân) bị rách,
cây đàn, dép một lớp.
Màu xanh, vàng, và đỏ,
đỏ sậm, và đen nữa,
màu nổi bật, sáng chói,
và cấm đoán dây buộc,
phủ gót, gối, ống chân,
lót bông, giống cánh gà,
gắn sừng cừu, và dê,
đuôi bọ cạp, lông công,
và có đủ các loại.
Dép bằng da sư tử,
da cọp, và da beo,
da hươu, rái cá, mèo,
da sóc, và cú mèo.
Đôi dép, chân bị rách,
bị khối u, chân rửa,
gốc cây, tiếng ồn ào.
Cây thốt nốt, cây tre,
và cỏ, tranh, cỏ sậy,
dừa nước, lá sen, len,
vàng, bạc, ngọc ma-ni,
ngọc mắt mèo, pha lê,
đồng thau, và thủy tinh,
thiếc, chì, và đồng đỏ.
Bò cái, xe, vị bệnh,
bò đực kéo, ghế nệm.
Chỗ nằm, da loại lớn,
da bò và kẻ ác.
Của cư sĩ, dây da,
họ đi vào, vị bệnh.
Soṇa và đại đức
Mahākaccāna,
“Nhóm Tám” bằng trí nhớ,
tu lên với năm vị,
dép nhiều lớp, tắm đều,
cho phép thảm bằng da,
không tính việc đếm ngày,
vị Lãnh Đạo đã ban
đến trưởng lão Soṇa
năm điều đặc ân ấy.
[1] Vīṇā là một loại đàn dây, tạm dịch là đàn tỳ-bà.
[2] Ở đây, điều ấy tức là sự ghi nhận bởi mắt (tâm nhãn thức). Theo khả năng hiểu biết của chúng tôi dựa vào lời giải thích của ngài Buddhaghosa thì vị tỳ khưu này chỉ ghi nhận tâm nhãn thức (sự ghi nhận bởi mắt) sanh lên và diệt đi, và không sanh khởi sự thích thú (tham), sự chán ghét (sân), hay sự thờ ơ (si) đối với cảnh sắc đã ghi nhận được.
[3] Liên quan đến tội pācittiya (ưng đối trị) 61.
[4] Liên quan đến tội pārājika (bất cộng trụ) 3 và tội pācittiya (ưng đối trị) 11, 61, 62.
VI. CHƯƠNG DƯỢC PHẨM
(BHESAJJAKKHANDHAKAṂ)
[25] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi (Xá Vệ), Jetavana (Kỳ Viên), tu viện của ông Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Độc). Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu bị nhiễm cơn bệnh vào mùa thu khiến cháo đã húp vào bị ói ra, thức ăn đã ăn vào bị mửa ra. Vì thế, các vị trở nên ốm o, cằn cỗi, xuống sắc, có vẻ xanh xao, thân hình nổi đầy gân. Đức Thế Tôn đã nhìn thấy các vị tỳ khưu ấy ốm o, cằn cỗi, xuống sắc, có vẻ xanh xao, thân hình nổi đầy gân, sau khi nhìn thấy đã bảo đại đức Ānanda rằng:
– Này Ānanda, điều gì khiến các vị tỳ khưu trong lúc này lại ốm o, cằn cỗi, xuống sắc, có vẻ xanh xao, thân hình nổi đầy gân vậy?
– Bạch ngài, trong lúc này các vị tỳ khưu bị nhiễm cơn bệnh vào mùa thu khiến cháo đã húp vào bị ói ra, thức ăn đã ăn vào bị mửa ra. Vì thế, các vị trở nên ốm o, cằn cỗi, xuống sắc, có vẻ xanh xao, thân hình nổi đầy gân.
Sau đó, đức Thế Tôn trong lúc thiền tịnh ở nơi thanh vắng có ý nghĩ suy tầm như vầy đã sanh khởi: “Trong lúc này các vị tỳ khưu bị nhiễm cơn bệnh vào mùa thu khiến cháo đã húp vào bị ói ra, thức ăn đã ăn vào bị mửa ra. Vì thế, các vị trở nên ốm o, cằn cỗi, xuống sắc, có vẻ xanh xao, thân hình nổi đầy gân. Vậy ta nên cho phép các vị tỳ khưu loại dược phẩm gì mà chính loại dược phẩm ấy tuy đã được quy định là dược phẩm lại có thể được dùng theo mục đích của thức ăn cho cơ thể, nhưng không được xem là loại thức ăn thông thường?”
Khi ấy, đức Thế Tôn đã khởi ý điều này: “Năm loại dược phẩm này như là bơ lỏng (sappi), bơ đặc (navanītaṃ), dầu ăn (telaṃ), mật ong (madhu), đường mía (phāṇitaṃ) là các loại dược phẩm, tuy đã được quy định là dược phẩm và được dùng theo mục đích của thức ăn cho cơ thể, nhưng không được xem là loại thức ăn thông thường; có lẽ ta nên cho phép các tỳ khưu được thọ lãnh năm loại dược phẩm này đúng thời và thọ dụng đúng thời?”
Sau đó vào lúc chiều tối, đức Thế Tôn xuất khỏi thiền tịnh rồi nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, ở đây ta trong lúc thiền tịnh ở nơi thanh vắng có ý nghĩ suy tầm như vầy đã sanh khởi: “Trong lúc này các vị tỳ khưu bị nhiễm cơn bệnh vào mùa thu khiến cháo đã húp vào bị ói ra, thức ăn đã ăn vào bị mửa ra. Vì thế, các vị trở nên ốm o, cằn cỗi, xuống sắc, có vẻ xanh xao, thân hình nổi đầy gân. Vậy ta nên cho phép loại dược phẩm gì cho các tỳ khưu mà chính loại dược phẩm ấy tuy đã được quy định là dược phẩm lại có thể được dùng theo mục đích của thức ăn cho cơ thể, nhưng không được xem là loại thức ăn thông thường?” Này các tỳ khưu, ta đây đã khởi ý điều này: “Năm loại dược phẩm này như là bơ lỏng (sappi), bơ đặc (navanītaṃ), dầu ăn (telaṃ), mật ong (madhu), đường mía (phāṇitaṃ) là các loại dược phẩm tuy đã được quy định là dược phẩm và được dùng theo mục đích của thức ăn cho cơ thể, nhưng không được xem là loại thức ăn thông thường; có lẽ ta nên cho phép các tỳ khưu được thọ lãnh năm loại dược phẩm này đúng thời và thọ dụng đúng thời?” Này các tỳ khưu, ta cho phép thọ lãnh năm loại dược phẩm ấy đúng thời và thọ dụng đúng thời. [1]
[26] Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu sau khi nhận lãnh năm loại dược phẩm ấy đúng thời và thọ dụng đúng thời. Các vị đã không ăn các loại thức ăn thô thông thường và (ăn) các loại (thức ăn) có dầu mỡ còn ít hơn nữa. Các vị không những đã bị nhiễm cơn bệnh vào mùa thu ấy lại thêm vào việc không chịu thu nạp thức ăn này nữa, vì hai điều ấy vóc dáng (của các vị) càng trở nên ốm o, cằn cỗi, xuống sắc, tăng vẻ xanh xao, thân hình nổi đầy gân hơn trước kia nữa. Và đức Thế Tôn đã nhận thấy các vị tỳ khưu ấy có vóc dáng càng ốm o, cằn cỗi, xuống sắc, tăng vẻ xanh xao, thân hình nổi đầy gân hơn trước kia nữa, sau khi nhìn thấy đã bảo đại đức Ānanda rằng:
– Này Ānanda, trong lúc này điều gì khiến các vị tỳ khưu có vóc dáng càng ốm o, cằn cỗi, xuống sắc, tăng vẻ xanh xao, thân hình nổi đầy gân hơn trước kia nữa?
– Bạch ngài, trong lúc này các vị tỳ khưu sau khi nhận lãnh năm loại dược phẩm ấy đúng thời và thọ dụng đúng thời. Các vị đã không ăn các loại thức ăn thô thông thường và (ăn) các loại (thức ăn) có dầu mỡ còn ít hơn nữa. Các vị không những đã bị nhiễm cơn bệnh vào mùa thu ấy lại thêm vào việc không chịu thu nạp thức ăn này nữa, vì hai điều ấy vóc dáng (của các vị) càng trở nên ốm o, cằn cỗi, xuống sắc, tăng vẻ xanh xao, thân hình nổi đầy gân hơn trước kia nữa.
Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, ta cho phép thọ lãnh năm loại dược phẩm này và thọ dụng đúng thời luôn cả phi thời.
[27] Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu bị bệnh có nhu cầu về các loại dược phẩm là các loại mỡ (thú vật). Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép thọ dụng chung với dầu ăn các loại dược phẩm là các loại mỡ (thú vật) như mỡ gấu, mỡ cá, mỡ cá sấu, mỡ heo rừng, mỡ lừa đã được thọ lãnh đúng thời, đã được nấu đúng thời, và đã được trộn chung đúng thời. Này các tỳ khưu, nếu vật ấy đã được thọ lãnh phi thời, đã được nấu phi thời, và đã được trộn chung phi thời, vị thọ dụng (vật ấy) phạm ba tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, nếu vật ấy đã được thọ lãnh đúng thời, đã được nấu phi thời, và đã được trộn chung phi thời, vị thọ dụng (vật ấy) phạm hai tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, nếu vật ấy đã được thọ lãnh đúng thời, đã được nấu đúng thời, và đã được trộn chung phi thời, vị thọ dụng (vật ấy) phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, nếu vật ấy đã được thọ lãnh đúng thời, đã được nấu đúng thời, và đã được trộn chung đúng thời, vị thọ dụng (vật ấy) vô tội.
[28] Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu bị bệnh có nhu cầu về các loại dược phẩm là các loại rễ cây. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép các loại dược phẩm là các loại rễ cây như củ nghệ, củ gừng, rễ cây vacaṃ (?),[2] rễ cây vaca trắng (?), rễ cây ngải cứu, rễ cây kaṭukarohiṇī (?), rễ loại cây có mùi thơm usīra (?), rễ loại cỏ có mùi thơm bhaddamuttaka (?), hoặc có các loại dược phẩm là các rễ cây khác nữa (tuy) thuộc về loại vật thực cứng nhưng không được dùng theo mục đích của vật thực cứng và (tuy) thuộc về loại vật thực mềm nhưng không được dùng theo mục đích của vật thực mềm. Sau khi thọ lãnh các loại ấy, được cất giữ đến trọn đời và được thọ dụng khi có duyên cớ; vị thọ dụng khi không có duyên cớ phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu bị bệnh có nhu cầu về các loại dược phẩm dạng bột là các loại rễ cây. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) cối đá xay và cối đá xay loại nhỏ.
[29] Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu bị bệnh có nhu cầu về các loại dược phẩm là các loại nước sắc. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép các loại dược phẩm là các loại nước sắc như nước sắc của cây nimba (?), nước sắc của cây kuṭaja (?), nước sắc của loại dưa dài paṭola (?), nước sắc của loại dây leo phaggava (?), nước sắc của cây nattamāla (?), hoặc có các loại dược phẩm là các loại nước sắc khác nữa (tuy) thuộc về loại vật thực cứng nhưng không được dùng theo mục đích của vật thực cứng và (tuy) thuộc về loại vật thực mềm nhưng không được dùng theo mục đích của vật thực mềm. Sau khi thọ lãnh các loại ấy, được cất giữ đến trọn đời và được thọ dụng khi có duyên cớ; vị thọ dụng khi không có duyên cớ phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[30] Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu bị bệnh có nhu cầu về các loại lá cây làm dược phẩm. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép các loại lá cây làm dược phẩm như lá cây nimba (?), lá cây kuṭaja (?), lá cây của loại dưa dài paṭola (?), lá cây húng quế, lá cây bông vải, hoặc có các loại dược phẩm là các loại lá cây khác nữa (tuy) thuộc về loại vật thực cứng nhưng không được dùng theo mục đích của vật thực cứng và (tuy) thuộc về loại vật thực mềm nhưng không được dùng theo mục đích của vật thực mềm. Sau khi thọ lãnh các loại ấy, được cất giữ đến trọn đời và được thọ dụng khi có duyên cớ; vị thọ dụng khi không có duyên cớ phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[31] Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu bị bệnh có nhu cầu về các loại dược phẩm là các loại trái cây. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép các loại dược phẩm là các loại trái cây như trái cây vilaṅga (?), hạt tiêu dài (pipphali), hạt tiêu đen (marica), trái cây harītaka (?), trái cây vibhītaka (?), trái cây āmalaka (?), trái cây goṭha (?) hoặc có các loại dược phẩm là các loại trái cây khác nữa (tuy) thuộc về loại vật thực cứng nhưng không được dùng theo mục đích của vật thực cứng và (tuy) thuộc về loại vật thực mềm nhưng không được dùng theo mục đích của vật thực mềm. Sau khi thọ lãnh các loại ấy, được cất giữ đến trọn đời và được thọ dụng khi có duyên cớ; vị thọ dụng khi không có duyên cớ phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[32] Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu bị bệnh có nhu cầu về các loại nhựa cây làm dược phẩm. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép các loại nhựa cây làm dược phẩm như hiṅgu (?), nhựa cây hiṅgu (hiṅgujatu), mủ cây hiṅgu (hiṅgusipātika), các loại sản phẩm từ mủ cây là taka (?), takapatti (?), takapaṇṇi (?), nhựa thông (sajjulasa), hoặc có các loại dược phẩm là các loại nhựa cây khác nữa (tuy) thuộc về loại vật thực cứng nhưng không được dùng theo mục đích của vật thực cứng và (tuy) thuộc về loại vật thực mềm nhưng không được dùng theo mục đích của vật thực mềm. Sau khi thọ lãnh các loại ấy, được cất giữ đến trọn đời và được thọ dụng khi có duyên cớ; vị thọ dụng khi không có duyên cớ phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[33] Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu bị bệnh có nhu cầu về các loại dược phẩm là các loại muối. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép các loại dược phẩm là các loại muối (loṇa) như muối biển (sāmudda), muối đen (kāḷaloṇa), muối ở đá (sindhava), muối nấu ăn (ubbhida), muối mỏ (bila), hoặc có các loại dược phẩm là các loại muối khác nữa (tuy) thuộc về loại vật thực cứng nhưng không được dùng theo mục đích của vật thực cứng và (tuy) thuộc về loại vật thực mềm nhưng không được dùng theo mục đích của vật thực mềm. Sau khi thọ lãnh các loại ấy, được cất giữ đến trọn đời và được thọ dụng khi có duyên cớ; vị thọ dụng khi không có duyên cớ phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[34] Vào lúc bấy giờ, thầy tế độ của đại đức Ānanda là đại đức Velaṭṭhasīsa có bệnh ghẻ sần sùi (thullakacchābādho). Các y của vị ấy bị dính vào thân vì chất máu mủ. Các vị tỳ khưu liên tục tẩm ướt các y với nước và kéo ra. Đức Thế Tôn trong khi đi dạo quanh các chỗ trú ngụ đã nhìn thấy các vị tỳ khưu ấy liên tục tẩm ướt các y với nước và kéo ra, sau khi nhìn thấy đã đi đến gần các vị tỳ khưu ấy, sau khi đến gần đã nói với các vị tỳ khưu ấy điều này:
– Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu này bị bệnh gì vậy?
– Bạch ngài, đại đức này bị bệnh ghẻ sần sùi, các y bị dính vào thân vì chất máu mủ, chúng con liên tục tẩm ướt các y với nước và kéo ra.
Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, ta cho phép các loại dược phẩm là các loại bột tắm đến vị bị ghẻ ngứa, hoặc bị nhọt, hoặc có vết thương chảy mủ, hoặc bị ghẻ sần sùi, hoặc cơ thể có mùi hôi, và phân bò (chakana), đất sét (mattika), chất màu đã được nấu (rajananipakka) đến vị không bị bệnh. Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) cối giã và chày.
[35] Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu bị bệnh có nhu cầu về các loại dược phẩm là các loại bột tắm đã được rây mịn. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) cái rây bột tắm.
Có nhu cầu về hạt rất mịn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) cái rây bằng vải.
[36] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh liên quan đến phi nhân. Các vị thầy dạy học và thầy tế độ thường xuyên chăm sóc vị ấy nhưng không thể làm cho khỏi bệnh. Vị ấy đã đi đến lò mổ heo ăn thịt sống và uống máu tươi. Bệnh liên quan đến phi nhân của vị ấy giảm bớt. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) thịt sống và máu tươi trong khi bị bệnh liên quan đến phi nhân.
[37] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh ở mắt. Các tỳ khưu đã khiêng vị ấy đưa ra bên ngoài cho việc tiểu tiện, đại tiện. Đức Thế Tôn trong khi đi dạo quanh các chỗ trú ngụ đã nhìn thấy các vị tỳ khưu ấy đang khiêng vị tỳ khưu ấy đưa ra bên ngoài cho việc tiểu tiện, đại tiện, sau khi nhìn thấy đã đi đến gần các vị tỳ khưu ấy, sau khi đến gần đã nói với các vị tỳ khưu ấy điều này:
– Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu này có bệnh gì vậy?
– Bạch ngài, đại đức này có bệnh ở mắt. Chúng con khiêng vị này đưa ra bên ngoài cho việc tiểu tiện, đại tiện.
Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) thuốc bôi, thuốc bôi màu đen, thuốc bôi loại tinh chất, thuốc bôi vào tai, bột phấn đỏ, muội đèn.
Có nhu cầu về bột mịn để làm thuốc bôi. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) gỗ đàn hương, loại cây có mùi hương tagara (?), gỗ trầm (kāḷānusāri), gỗ cây tālīsa (?), loại cỏ có mùi thơm bhaddamuttaka (?).
Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu để các loại thuốc bôi được nghiền nát ở trong các tô nhỏ và trong các chén. Chúng đã bị rác cỏ, bụi bặm rơi vào. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) hộp chứa thuốc bôi.
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư sử dụng các hộp chứa thuốc bôi loại đặc biệt làm bằng vàng, làm bằng bạc. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên sử dụng các hộp chứa thuốc bôi loại đặc biệt; vị nào sử dụng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, ta cho phép (hộp chứa thuốc bôi) làm bằng xương, làm bằng ngà răng, làm bằng sừng, làm bằng ống sậy, làm bằng tre, làm bằng gỗ, làm bằng nhựa cây, làm bằng trái cây, làm bằng đồng, làm bằng vỏ sò.
Vào lúc bấy giờ, các hộp chứa thuốc bôi không được đậy lại. Chúng đã bị rác cỏ, bụi bặm rơi vào. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) nắp đậy.
Nắp đậy bị rơi xuống.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép buộc (nắp đậy) với sợi chỉ rồi buộc vào hộp chứa thuốc bôi.
Hộp chứa thuốc bôi bị bung ra.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép khâu lại bằng sợi chỉ.
Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu dùng ngón tay bôi thuốc. Các con mắt bị đau. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) que bôi thuốc.
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư sử dụng các que bôi thuốc loại đặc biệt làm bằng vàng, làm bằng bạc. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên sử dụng các que bôi thuốc loại đặc biệt; vị nào sử dụng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, ta cho phép làm bằng xương, làm bằng ngà răng, làm bằng sừng, …(như trên)…, làm bằng vỏ sò.
Vào lúc bấy giờ, que bôi thuốc bị rơi trên mặt đất và trở nên sần sùi. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) hộp đựng que bôi thuốc.
Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu mang theo hộp chứa thuốc bôi và các que bôi thuốc bằng tay. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) túi đựng các hộp chứa thuốc bôi.
Dây mang vai không có. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) dây mang vai là chỉ thắt lại.
[38] Vào lúc bấy giờ, đại đức Pilindavaccha bị nóng ở đầu. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép (bôi) dầu ở trên đầu.
(Vị ấy) không được thuyên giảm. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép (thực hiện) việc chữa trị ở mũi.
Mũi bị chảy nước. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) cái muỗng đặt ở mũi (natthukaraṇī).
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư sử dụng các muỗng đặt ở mũi loại đặc biệt làm bằng vàng, làm bằng bạc. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên sử dụng các muỗng đặt ở mũi loại đặc biệt; vị nào sử dụng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, ta cho phép làm bằng xương, làm bằng ngà răng, làm bằng sừng, …(như trên)…, làm bằng vỏ sò.
(Hai lỗ) mũi đã không được nhỏ đồng đều. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) cái muỗng đặt ở mũi loại kép.
(Vị ấy) không được thuyên giảm. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép hít khói.
Các vị sau khi đốt cháy sợi bấc rồi hít khói vào. Cổ họng bị (lửa) đốt. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) ống dẫn khói.
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư sử dụng các ống dẫn khói loại đặc biệt làm bằng vàng, làm bằng bạc. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên sử dụng các ống dẫn khói loại đặc biệt; vị nào sử dụng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, ta cho phép làm bằng xương, làm bằng ngà răng, làm bằng sừng, …(như trên)…, làm bằng vỏ sò.
Vào lúc bấy giờ, các ống dẫn khói không có nắp đậy, các sinh vật nhỏ đã đi vào. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) nắp đậy.
Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu mang theo các ống dẫn khói bằng tay. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) túi đựng các ống dẫn khói.
Chúng bị cọ xát với nhau. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) túi đôi.
Dây mang vai không có. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) dây mang vai là chỉ thắt lại.
[39] Vào lúc bấy giờ, đại đức Pilindavaccha bị bệnh gió. Các thầy thuốc đã nói như vầy:
– Dầu cần được nấu.
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
-Này các tỳ khưu, ta cho phép việc nấu dầu.
Rượu mạnh cần được thêm vào trong dầu nấu ấy. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
-Này các tỳ khưu, ta cho phép thêm rượu mạnh vào trong dầu nấu.
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư nấu các loại dầu được thêm vào quá nhiều rượu mạnh. Các vị uống các thứ ấy và bị say. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
-Này các tỳ khưu, không nên uống dầu được thêm vào quá nhiều rượu mạnh; vị nào uống thì nên được hành xử theo Pháp.[3] Này các tỳ khưu, trong loại dầu nấu nào (được thêm vào rượu mạnh) mà màu sắc, mùi, vị của rượu mạnh không nhận ra được, ta cho phép uống dầu được thêm vào rượu mạnh loại như thế.
Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu có nhiều dầu nấu được thêm vào quá nhiều rượu mạnh. Khi ấy, các vị tỳ khưu đã khởi ý điều này: “Nên thực hành như thế nào với các thứ dầu đã được thêm vào quá nhiều rượu mạnh?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
-Này các tỳ khưu, ta cho phép quy định làm thuốc thoa.
Vào lúc bấy giờ, đại đức Pilindavaccha có nhiều dầu đã được nấu. Vị ấy không có đồ chứa. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
-Này các tỳ khưu, ta cho phép ba loại bình chứa: bình chứa bằng đồng, bình chứa bằng gỗ, bình chứa làm bằng trái cây.
Vào lúc bấy giờ, đại đức Pilindavaccha bị phong thấp (aṅgavāta). Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
-Này các tỳ khưu, ta cho phép việc điều trị bằng hơi nóng.
(Vị ấy) không được thuyên giảm. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) hơi nóng của nhiều loại lá cây.
(Vị ấy) không được thuyên giảm. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) nhiều hơi nóng.
(Vị ấy) không được thuyên giảm. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) nước nấu của nhiều loại lá cây.
(Vị ấy) không được thuyên giảm. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) bể nước lớn (để ngâm mình).
[40] Vào lúc bấy giờ, đại đức Pilindavaccha bị thấp khớp (pabbavāta). Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
-Này các tỳ khưu, ta cho phép trích máu.
(Vị ấy) không được thuyên giảm. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép trích máu rồi lấy ra bằng ống sừng.
[41] Vào lúc bấy giờ, các bàn chân của đại đức Pilindavaccha bị nứt nẻ. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
-Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) thuốc bôi chân.
(Vị ấy) không được thuyên giảm. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép áp dụng phương pháp phòng ngừa.
[42] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị mụt nhọt. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép việc mổ xẻ.
Có nhu cầu về nước làm đông máu.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) nước làm đông máu.
Có nhu cầu về thuốc cao làm từ mè.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) thuốc cao làm từ mè.
Có nhu cầu về vải cầm máu.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) vải cầm máu.
Có nhu cầu về vải băng vết thương.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) vải băng vết thương.
Vết thương gây ngứa.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép rửa với bột mù-tạt (sāsapakuḍḍa).
Vết thương bị làm mủ.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép thực hiện việc xông khói.
Thịt ở vết thương bị lồi lên (như cây gai).
– Này các tỳ khưu, ta cho phép cắt bằng mảnh sứ tẩm muối.
Vết thương không liền lại.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) dầu xức vết thương.
Dầu bị chảy.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) băng vải và tất cả các cách chữa trị vết thương.
[43] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị rắn cắn. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép bố thí bốn loại vật dơ có tính quan trọng là: phân, nước tiểu, tro, và đất sét.
Khi ấy, các vị tỳ khưu đã khởi ý điều này: “(Có thể sử dụng bốn vật này) khi chưa được thọ lãnh hay cần phải được thọ lãnh?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép thọ lãnh nếu có người làm cho đúng phép, nếu không có người làm cho đúng phép thì tự mình thu nhặt và thọ dụng .
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị uống nhằm thuốc độc. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép buộc (vị ấy) uống phân.
Khi ấy, các vị tỳ khưu khởi ý điều này: “(Có thể sử dụng vật ấy) khi chưa được thọ lãnh hay cần phải được thọ lãnh?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép vị ấy thọ lãnh trong khi thực hiện vật ấy, khi vật ấy đã thọ lãnh và đã được thực hiện xong không cần phải thọ lãnh lại lần nữa.
[44] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh yểm bùa (gharadinnakābādho).[4] Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép buộc (vị ấy) uống nước bùn lấy từ đất ở lưỡi cày vừa mới cày đất lên.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh trĩ. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép buộc (vị ấy) uống nước tro của cơm khô.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh vàng da. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép buộc (vị ấy) uống (hợp chất) nước tiểu và harīṭaka.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh ngoài da. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) mỡ có mùi thơm.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ có cơ thể bốc mùi hôi khủng khiếp. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép buộc (vị ấy) uống thuốc xổ.
Có nhu cầu về nước cháo trắng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) nước cháo trắng.
Có nhu cầu về nước xúp không có chất béo. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) nước xúp không có chất béo.
Có nhu cầu về nước xúp đã thêm chút ít chất béo. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) nước xúp đã thêm chút ít chất béo.
Có nhu cầu về mùi vị của thịt. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) mùi vị của thịt.
[45] Vào lúc bấy giờ, đại đức Pilindavaccha có ý muốn làm chỗ trú ngụ nên cho người dọn sạch sẽ hang núi ở thành Rājagaha (Vương Xá). Khi ấy, đức vua Seniya Bimbisāra (Bình Sa Vương) xứ Magadha (Ma Kiệt Đà) đã đi đến gặp đại đức Pilindavaccha, sau khi đến đã đảnh lễ đại đức Pilindavaccha rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã nói với đại đức Pilindavaccha điều này:
– Thưa ngài, ngài trưởng lão cho làm cái gì vậy?
– Tâu đại vương, tôi có ý muốn làm chỗ trú ngụ nên cho người dọn sạch sẽ hang núi.
– Thưa ngài, ngài có nhu cầu về người giúp việc tu viện (ārāmika) không?
– Tâu đại vương, đức Thế Tôn chưa cho phép về người giúp việc tu viện.
– Thưa ngài, chính vì việc đó ngài hãy hỏi đức Thế Tôn rồi báo cho trẫm biết.
– Tâu đại vương, xin vâng. Đại đức Pilindavaccha đã đáp lời đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha.
Khi ấy, đại đức Pilindavaccha đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha bằng bài Pháp thoại. Sau đó, khi đã được đại đức Pilindavaccha chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi bằng bài Pháp thoại, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đại đức Pilindavaccha, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi. Sau đó, đại đức Pilindavaccha đã phái sứ giả đi đến gặp đức Thế Tôn (thưa rằng):
– Bạch ngài, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha có ý muốn ban cho người giúp việc tu viện. Bạch ngài, vậy nên thực hành như thế nào?
Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, ta cho phép người giúp việc tu viện.
Đến lần thứ nhì, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã đi đến gặp đại đức Pilindavaccha, sau khi đến đã đảnh lễ đại đức Pilindavaccha rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã nói với đại đức Pilindavaccha điều này:
– Thưa ngài, người giúp việc tu viện có được đức Thế Tôn cho phép không?
– Tâu đại vương, đã được rồi.
– Thưa ngài, như vậy thì trẫm ban cho ngài người giúp việc tu viện.
Sau đó, khi đã hứa với đại đức Pilindavaccha về người giúp việc tu viện, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã không ghi nhớ. Một thời gian sau, khi đã phục hồi lại ký ức đức vua đã bảo viên quan đại thần nọ là vị tổng quản rằng:
– Này khanh, người giúp việc tu viện đã được trẫm hứa với ngài đại đức, người giúp việc tu viện ấy đã được ban cho chưa?
– Tâu bệ hạ, người giúp việc tu viện chưa được ban đến ngài đại đức.
– Này khanh, tính đến đêm nay là đã bao lâu rồi vậy?
Khi ấy, viên quan đại thần ấy sau khi tính đếm số lượng đêm rồi đã tâu với đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha điều này:
– Tâu bệ hạ, năm trăm đêm.
– Này khanh, như vậy thì hãy ban cho ngài đại đức năm trăm người giúp việc tu viện.
– Tâu bệ hạ, xin vâng.
Rồi vị quan đại thần ấy đã vâng lệnh đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha và dâng đến đại đức Pilindavaccha năm trăm người giúp việc tu viện. Một ngôi làng riêng biệt đã được thiết lập. Họ đã gọi ngôi làng ấy là “Ngôi làng của những người giúp việc tu viện.” Họ cũng đã gọi ngôi làng ấy là “Ngôi làng Pilindavaccha.”
[46] Vào lúc bấy giờ, đại đức Pilindavaccha là vị thường hay lui tới trong ngôi làng ấy. Khi ấy vào buổi sáng, đại đức Pilindavaccha đã mặc y, cầm y bát, rồi đi vào ngôi làng Pilindavaccha để khất thực. Vào lúc bấy giờ, trong ngôi làng ấy có lễ hội. Những đứa trẻ nhỏ được trang điểm, đeo vòng hoa, và chơi đùa. Khi ấy, trong khi đi khất thực tuần tự từng nhà ở ngôi làng Pilindavaccha, đại đức Pilindavaccha đã đi đến căn nhà của người giúp việc tu viện nọ, sau khi đến đã ngồi xuống trên chỗ ngồi được sắp đặt sẵn. Vào lúc bấy giờ, đứa bé gái con của người đàn bà giúp việc tu viện ấy nhìn thấy những đứa trẻ con khác được trang điểm, đeo vòng hoa, nên đã oà khóc:
– Cho con vòng hoa, cho con đồ trang sức.
Khi ấy, đại đức Pilindavaccha đã nói với người đàn bà giúp việc tu viện ấy điều này:
– Vì sao đứa bé gái này khóc vậy?
– Thưa ngài, đứa bé gái này nhìn thấy những đứa trẻ con khác được trang điểm, đeo vòng hoa, nên đã oà khóc: “Cho con vòng hoa, cho con đồ trang sức.” Chúng tôi lâm cảnh khó khăn, lấy đâu ra vòng hoa, lấy đâu ra đồ trang sức?
Khi ấy, đại đức Pilindavaccha đã nhặt lấy một nắm cỏ nọ rồi nói với người đàn bà giúp việc tu viện ấy điều này:
– Vậy hãy đội nắm cỏ này lên đầu của đứa bé gái kia đi.
Khi ấy, người đàn bà giúp việc tu viện ấy đã cầm lấy nắm cỏ ấy rồi đội lên đầu của đứa bé gái ấy. Vòng cỏ ấy đã trở thành vòng hoa bằng vàng, đẹp đẽ, xinh xắn, duyên dáng; ngay cả trong nội cung của đức vua cũng không có được vòng hoa bằng vàng như thế ấy. Dân chúng đã trình báo lên đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha rằng:
– Tâu bệ hạ, trong nhà của người giúp việc tu viện kia có vòng hoa bằng vàng đẹp đẽ, xinh xắn, duyên dáng; ngay cả trong nội cung của bệ hạ cũng không có được vòng hoa bằng vàng như thế ấy. Đối với kẻ lâm cảnh khó khăn ấy thì lấy đâu ra? Chắc chắn là có được do trộm cắp.
Khi ấy, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã cho lệnh bắt giữ gia đình của người giúp việc tu viện ấy.
Đến lần thứ nhì, vào buổi sáng đại đức Pilindavaccha đã mặc y, cầm y bát, rồi đi vào ngôi làng Pilindavaccha để khất thực. Trong khi đi khất thực tuần tự từng nhà ở ngôi làng Pilindavaccha, đại đức Pilindavaccha đã đi đến căn nhà của người giúp việc tu viện nọ, sau khi đến đã hỏi những người hàng xóm rằng:
– Gia đình của người giúp việc tu viện này đã đi đâu?
– Thưa ngài, bọn họ đã bị đức vua ra lệnh bắt giữ vì nguyên nhân vòng hoa bằng vàng ấy.
Sau đó, đại đức Pilindavaccha đã đi đến ngự viện của đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha, sau khi đến đã ngồi xuống trên chỗ ngồi được sắp đặt sẵn. Khi ấy, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã đi đến gặp đại đức Pilindavaccha, sau khi đến đã đảnh lễ đại đức Pilindavaccha rồi ngồi xuống ở một bên. Đại đức Pilindavaccha đã nói với đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đang ngồi một bên điều này:
– Tâu đại vương, vì sao gia đình của người giúp việc tu viện lại bị ra lệnh bắt giữ?
– Thưa ngài, trong nhà của người giúp việc tu viện ấy có vòng hoa bằng vàng đẹp đẽ, xinh xắn, duyên dáng; ngay cả trong nội cung của trẫm cũng không có được vòng hoa bằng vàng như thế ấy. Đối với kẻ lâm cảnh khó khăn ấy thì lấy đâu ra? Chắc chắn là có được do trộm cắp.
Khi ấy, đại đức Pilindavaccha đã chú nguyện rằng: “Cung điện của đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha là vàng;” cung điện ấy đã trở thành hoàn toàn làm bằng vàng.
– Tâu đại vương, do đâu đại vương lại có nhiều vàng đến thế này?
– Thưa ngài, trẫm đã hiểu rồi. Chính việc ấy là năng lực thần thông của ngài đại đức.
Rồi đức vua đã ra lệnh thả gia đình của người giúp việc tu viện ấy.
[47] Dân chúng (đồn rằng): “Nghe nói ngài đại đức Pilindavaccha đã phô bày điều kỳ diệu của thần thông là pháp thượng nhân trước triều thần có cả đức vua nữa!” nên đã hoan hỷ, có niềm tin cao độ, rồi đã đem đến dâng đại đức Pilindavaccha năm loại dược phẩm như là bơ lỏng, bơ đặc, dầu ăn, mật ong, đường mía. Và đại đức Pilindavaccha trở thành người thường xuyên thọ lãnh năm loại dược phẩm và phân phát cho hội chúng mỗi khi được thọ lãnh. Rồi tiếp tục được thọ lãnh và hội chúng của vị ấy trở nên dư dã. Sau khi chứa đầy các hũ và các chum, các vị xếp chúng một bên; sau khi chứa đầy các túi lọc nước và các túi xách, các vị treo lên ở các cửa sổ. Các loại dược phẩm ấy đã bị rỉ xuống chảy ra và vẫn ở nguyên chỗ. Các trú xá đã có các con chuột xuất hiện rải rác rồi tràn ngập. Dân chúng trong khi đi dạo quanh các trú xá nhìn thấy nên phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Các sa-môn Thích tử này là những người tích trữ đồ đạc trong nhà giống như là đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha vậy.
Các tỳ khưu đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Vì sao các tỳ khưu lại chấp nhận sự thặng dư như thế này?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu chấp nhận sự thặng dư như thế ấy, có đúng không vậy?
– Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
…(như trên)… Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, các loại dược phẩm thích hợp cho các tỳ khưu bị bệnh như là bơ lỏng, bơ đặc, dầu ăn, mật ong, đường mía, sau khi thọ lãnh chúng rồi nên được thọ dụng và thời hạn tối đa bảy ngày là thời hạn tích trữ; nếu vượt quá thời hạn ấy thì nên được hành xử theo Pháp.[5]
Tụng phẩm “Dược Phẩm Được Cho Phép” là phần thứ nhất.
[48] Sau đó, khi đã ngự tại thành Sāvatthi theo như ý thích, đức Thế Tôn đã ra đi du hành về phía thành Rājagaha. Trên đường đi, đại đức Kaṅkhārevata[6] đã nhìn thấy lò nấu đường nên đã bước sang một bên. Sau khi nhìn thấy (những người thợ) bỏ bột mì và tro vào trong mật đường, vị ấy (nghĩ rằng): “Mật đường trộn với vật thực là không được phép, (vì thế) đường không được thọ dụng lúc phi thời” nên ngần ngại rồi cùng với tập thể không thọ dụng đường. Thậm chí nhiều vị nghĩ rằng nên nghe theo vị ấy rồi cũng không thọ dụng đường. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, vì mục đích gì mà họ bỏ bột mì và tro vào trong mật đường vậy?
– Bạch Thế Tôn, vì mục đích kết tinh.
– Này các tỳ khưu, nếu vì mục đích kết tinh mà họ bỏ bột mì và tro vào trong mật đường, (hỗn hợp) ấy kết thành khối vẫn gọi là “Đường” vậy. Này các tỳ khưu, ta cho phép thọ dụng đường một cách thoải mái.
Trên đường đi, đại đức Kaṅkhārevata đã nhìn thấy cây đậu tây (mugga)[7] sinh trưởng ở bãi phân. Sau khi nhìn thấy, vị ấy (nghĩ rằng): “Các hạt đậu tây là không được phép, mặc dầu đã được nấu chín các hạt đậu tây vẫn sinh trưởng” nên ngần ngại rồi cùng với tập thể không thọ dụng đậu tây. Thậm chí nhiều vị nghĩ rằng nên nghe theo vị ấy rồi cũng không thọ dụng đậu tây. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, mặc dù đã được nấu chín đậu tây vẫn sinh trưởng. Này các tỳ khưu, ta cho phép thọ dụng đậu tây một cách thoải mái.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh đau bụng bão (udaravātābādha). Vị ấy đã húp cháo chua có bỏ muối. Bệnh đau bụng bão ấy của vị ấy đã được thuyên giảm. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép thọ dụng cháo chua có bỏ muối một cách thoải mái đối với vị bị bệnh, đối với vị không bệnh (ta cho phép thọ dụng cháo chua có bỏ muối) đã được pha trộn với nước như là thức uống.
[49] Sau đó, trong khi tuần tự du hành đức Thế Tôn đã ngự đến thành Rājagaha. Tại nơi đó trong thành Rājagaha, đức Thế Tôn ngự tại Veḷuvana (Trúc Lâm), nơi nuôi dưỡng các con sóc. Vào lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bị bệnh đau bụng bão. Khi ấy, đại đức Ānanda (nghĩ rằng): “Trước đây, bệnh đau bụng bão của đức Thế Tôn được dịu đi nhờ cháo gồm có ba thứ” nên đã đích thân đi xin mè, gạo lức, và đậu tây rồi chuẩn bị ở trong khuôn viên (anto),[8] đích thân nấu ở trong khuôn viên, và đã đem đến dâng lên đức Thế Tôn:
– Xin Thế Tôn hãy húp cháo gồm có ba thứ.
Các đấng Như Lai dầu biết vẫn hỏi, dầu biết các vị vẫn không hỏi, biết đúng thời các vị mới hỏi, biết đúng thời các vị vẫn không hỏi, có liên quan đến lợi ích các đấng Như lai mới hỏi và không (hỏi việc) không có liên quan đến lợi ích, khi không có liên quan đến lợi ích các đấng Như Lai có cách để cắt đứt vấn đề. Chư Phật Thế Tôn hỏi các vị tỳ khưu vì hai lý do: “Hoặc là chúng ta sẽ thuyết Pháp hoặc là chúng ta sẽ quy định điều học cho các đệ tử.” Khi ấy, đức Thế Tôn đã bảo đại đức Ānanda rằng:
– Này Ānanda, cháo này từ đâu vậy?
Khi ấy, đại đức Ānanda đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
– Này Ānanda, thật không đúng đắn, không hợp lẽ, không tốt đẹp, không xứng pháp sa-môn, không được phép, không nên làm. Này Ānanda, vì sao ngươi lại nghĩ đến việc đa đoan như thế này? Này Ānanda, vật đã được chuẩn bị ở trong khuôn viên là không được phép, vật đã được nấu ở trong khuôn viên là không được phép, vật đã được tự mình nấu là không được phép. Này Ānanda, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)…
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, không nên thọ dụng (vật) đã được chuẩn bị ở trong khuôn viên, đã được nấu ở trong khuôn viên, đã được tự mình nấu; vị nào thọ dụng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, nếu vị ấy thọ dụng vật đã được chuẩn bị ở trong khuôn viên, đã được nấu ở trong khuôn viên, đã được tự mình nấu thì phạm ba tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, nếu vị ấy thọ dụng vật đã được chuẩn bị ở trong khuôn viên, đã được nấu ở trong khuôn viên, đã được những người khác nấu thì phạm hai tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, nếu vị ấy thọ dụng vật đã được chuẩn bị ở trong khuôn viên, đã được nấu ở ngoài khuôn viên (bahi),[9] đã được tự mình nấu thì phạm hai tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, nếu vị ấy thọ dụng vật đã được chuẩn bị ở ngoài khuôn viên, đã được nấu ở trong khuôn viên, đã được tự mình nấu thì phạm hai tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, nếu vị ấy thọ dụng vật đã được chuẩn bị ở trong khuôn viên, đã được nấu ở ngoài khuôn viên, đã được những người khác nấu thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, nếu vị ấy thọ dụng vật đã được chuẩn bị ở ngoài khuôn viên, đã được nấu ở trong khuôn viên, đã được những người khác nấu thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, nếu vị ấy thọ dụng vật đã được chuẩn bị ở ngoài khuôn viên, đã được nấu ở ngoài khuôn viên, đã được tự mình nấu thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, nếu vị ấy thọ dụng vật đã được chuẩn bị ở ngoài khuôn viên, đã được nấu ở ngoài khuôn viên, đã được những người khác nấu thì vô tội.
[50] Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu (nghĩ rằng): “Việc tự mình nấu đã được đức Thế Tôn cấm đoán” nên đã ngần ngại trong việc nấu lại lần nữa (hâm nóng thức ăn). Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép nấu (lại) vật đã được nấu.
[51] Vào lúc bấy giờ, thành Rājagaha bị khó khăn về vật thực. Dân chúng đã đem đến tu viện muối, dầu ăn, gạo lức, và vật thực cứng. Các vị tỳ khưu đã chuẩn bị các thức ấy ở ngoài khuôn viên và các con thú hoang ăn đi, những kẻ trộm lấy đi. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép chuẩn bị ở trong khuôn viên.
Sau khi chuẩn bị ở trong khuôn viên, các vị nấu ở ngoài khuôn viên. Những người chuyên ăn vật thực thừa vây quanh. Các vị tỳ khưu thọ dụng không được thoải mái. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép nấu ở trong khuôn viên.
Trong thời gian khó khăn về vật thực, những người làm các vật trở thành đúng phép (cho các vị tỳ khưu sử dụng) đã mang đi nhiều nhưng dâng cho các vị tỳ khưu ít hơn. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép tự mình nấu. Này các tỳ khưu, ta cho phép (vật) đã được chuẩn bị ở trong khuôn viên, đã được nấu ở trong khuôn viên, đã được tự mình nấu.[10]
[52] Vào lúc bấy giờ, có nhiều vị tỳ khưu khi đã trải mùa (an cư) mưa ở xứ Kāsī đang đi đến thành Rājagaha để diện kiến đức Thế Tôn. Trên đường đi, các vị đã không đạt được sự đầy đủ về vật thực dầu tầm thường hay hảo hạng theo như nhu cầu và có nhiều vật ăn được là trái cây nhưng lại không có người làm (các trái cây ấy) trở thành đúng phép. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy với vóc dáng mệt mỏi đã đi đến thành Rājagaha, Veḷuvana (Trúc Lâm), nơi nuôi dưỡng các con sóc, gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên.
Điều này đã trở thành thông lệ đối với chư Phật Thế Tôn là niềm nở đối với các tỳ khưu đi đến. Khi ấy, đức Thế Tôn đã nói với các vị tỳ khưu ấy điều này:
– Này các tỷ-kheo, sức khoẻ có khá không? Mọi việc có được tốt đẹp không? Các ngươi đi đến đường xa có được ít mệt nhọc không? Và này các tỳ khưu, các ngươi từ đâu đến vậy?
– Bạch Thế Tôn, sức khoẻ khá. Bạch Thế Tôn, mọi việc đều tốt đẹp. Bạch ngài, trường hợp chúng con khi đã trải mùa (an cư) mưa ở xứ Kāsī và đang đi đến Rājagaha để diện kiến đức Thế Tôn. Trên đường đi, chúng con đã không đạt được sự đầy đủ về vật thực dầu tầm thường hay hảo hạng theo như nhu cầu và có nhiều vật ăn được là trái cây nhưng lại không có người làm (các trái cây ấy) trở thành đúng phép; vì thế, chúng con đã đi đến đường xa đến với vóc dáng mệt mỏi.
Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, ta cho phép ở nơi nào thấy trái cây có thể ăn được và không có người làm (trái cây) trở thành đúng phép thì tự mình nhặt lấy, mang đi, đến khi gặp được người làm (trái cây) trở thành đúng phép thì đặt (trái cây) trên mặt đất, bảo (người ấy) trao lại, rồi thọ dụng. Này các tỳ khưu, ta cho phép thọ lãnh (trái cây) đã được nhặt lên.
[53] Vào lúc bấy giờ, có người bà-la-môn nọ thâu hoạch mè mới và mật đường mới. Khi ấy, người bà-la-môn ấy đã khởi ý điều này: “Hay là ta nên dâng mè mới và mật đường mới đến hội chúng có đức Phật đứng đầu?” Sau đó, người bà-la-môn ấy đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã tỏ vẻ thân thiện với đức Thế Tôn, sau khi trao đổi lời xã giao thân thiện rồi đã đứng ở một bên. Khi đã đứng một bên, người bà-la-môn ấy đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, xin ngài Gotama hãy nhận lời tôi về bữa trai phạn vào ngày mai cùng với hội chúng tỳ khưu.
Đức Thế Tôn đã nhận lời bằng thái độ im lặng. Khi ấy, người bà-la-môn ấy hiểu được sự nhận lời của đức Thế Tôn nên đã ra đi. Sau đó, khi trải qua đêm ấy người bà-la-môn ấy đã cho chuẩn bị sẵn sàng thức ăn thượng hạng loại cứng loại mềm rồi cho người thông báo thời giờ đến đức Thế Tôn:
– Bạch ngài Gotama, đã đến giờ, thức ăn đã chuẩn bị xong.
Khi ấy vào buổi sáng, đức Thế Tôn đã mặc y, cầm y bát, rồi đi đến tư gia của người bà-la-môn ấy, sau khi đến đã ngồi xuống trên chỗ ngồi được sắp đặt sẵn cùng với hội chúng tỳ khưu. Sau đó, người bà-la-môn ấy đã tự tay làm hài lòng và thỏa mãn hội chúng tỳ khưu có đức Phật đứng đầu với thức ăn thượng hạng cứng mềm. Đến khi đức Thế Tôn đã thọ thực xong bàn tay đã rời khỏi bình bát, người bà-la-môn ấy đã ngồi xuống ở một bên. Đức Thế Tôn đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho người bà-la-môn ấy đang ngồi một bên bằng bài Pháp thoại rồi đã từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi. Sau đó, khi đức Thế Tôn ra đi không lâu, người bà-la-môn ấy đã khởi ý điều này: “Hội chúng tỳ khưu có đức Phật đứng đầu đã được ta thỉnh mời vì mục đích của những thứ này: ‘Ta sẽ dâng mè mới và mật đường mới,’ nhưng ta đã quên dâng chúng rồi. Hay là ta sẽ cho người mang mè mới và mật đường mới bằng các vại và hũ đến tu viện vậy?” Sau đó, người bà-la-môn ấy đã cho người mang mè mới và mật đường mới bằng các vại và hũ đến tu viện rồi đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đứng ở một bên. Khi đã đứng một bên, người bà-la-môn ấy đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài Gotama, hội chúng tỳ khưu có đức Phật đứng đầu đã được tôi thỉnh mời vì mục đích của những thứ này: ‘Ta sẽ dâng mè mới và mật đường mới,’ nhưng tôi đã quên dâng chúng rồi. Bạch ngài Gotama, xin hãy thọ lãnh mè mới và mật đường mới của tôi.
– Này bà-la-môn, như vậy thì ngươi hãy dâng đến các vị tỳ khưu đi.
Vào lúc bấy giờ, trong thời kỳ khó khăn về vật thực các vị tỳ khưu chỉ được thỉnh cầu những khẩu phần ít ỏi nên có sự suy nghĩ rồi từ chối. Và toàn bộ hội chúng đã được thỉnh cầu, nhưng các vị tỳ khưu ngần ngại nên không thọ lãnh.
– Này các tỳ khưu, hãy thọ lãnh và hãy thọ dụng. Này các tỳ khưu, ta cho phép vị đã ăn xong khi được yêu cầu thì được thọ dụng vật không phải còn thừa và đã được đem lại từ chỗ đã ăn xong.
[54] Vào lúc bấy giờ, gia đình hộ độ của tỳ khưu Upananda con trai dòng Sākya đã cho người đem lại vật thực loại cứng nhằm dâng đến hội chúng (dặn dò) rằng: “Nên trình cho ngài đại đức Upananda thấy rồi mới dâng đến hội chúng.” Vào lúc bấy giờ, đại đức Upananda con trai dòng Sākya đã đi vào làng để khất thực. Khi ấy, những người ấy sau khi đi đến tu viện đã hỏi các vị tỳ khưu rằng:
– Thưa các ngài, ngài đại đức Upananda ở đâu vậy?
– Này các đạo hữu, đại đức Upananda con trai dòng Sākya này đã đi vào làng để khất thực.
– Thưa các ngài, vật thực loại cứng này nên được trình cho ngài đại đức Upananda thấy rồi mới dâng đến hội chúng.
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, như vậy thì sau khi thọ lãnh các ngươi hãy để riêng ra đến khi Upananda trở về.
Khi ấy, đại đức Upananda con trai dòng Sākya trước bữa ăn đã đi giao thiệp với các gia đình rồi về lại trong ngày. Vào lúc bấy giờ, trong thời kỳ khó khăn về vật thực các vị tỳ khưu chỉ được thỉnh cầu những khẩu phần ít ỏi nên có sự suy nghĩ rồi từ chối. Và toàn bộ hội chúng đã được thỉnh cầu, nhưng các vị tỳ khưu ngần ngại nên không thọ lãnh.
– Này các tỳ khưu, hãy thọ lãnh và hãy thọ dụng. Này các tỳ khưu, ta cho phép vị đã ăn xong khi được yêu cầu thì được thọ dụng vật không phải còn thừa đã được thọ lãnh trước bữa ăn.
[55] Sau đó, khi đã ngự tại thành Rājagaha theo như ý thích, đức Thế Tôn đã ra đi du hành về phía thành Sāvatthi. Trong khi tuần tự du hành, ngài đã ngự đến thành Sāvatthi. Tại nơi đó ở Sāvatthi, đức Thế Tôn ngự tại Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika.
Vào lúc bấy giờ, đại đức Sāriputta (Xá Lợi Phất) bị bệnh sốt toàn thân. Khi ấy, đại đức Mahāmoggallāna (Mục Kiền Liên) đã đi đến gặp đại đức Sāriputta, sau khi đến đã nói với đại đức Sāriputta điều này:
– Này đại đức Sāriputta, trước đây bịnh sốt toàn thân của đại đức được dịu đi nhờ vào thứ gì?
– Này đại đức, tôi nhờ vào các cọng súng và cọng sen.
Sau đó, giống như người đàn ông có sức mạnh có thể duỗi ra cánh tay đã được co lại hoặc có thể co lại cánh tay đã được duỗi ra, tương tợ như thế đại đức Mahāmoggallāna đã biến mất tại Jetavana rồi hiện ra ở bờ hồ sen Mandākinī. Có con long tượng nọ đã nhìn thấy đại đức Mahāmoggallāna từ đàng xa đang đi lại, sau khi nhìn thấy đã nói với đại đức Mahāmoggallāna điều này:
– Thưa ngài, xin ngài đại đức Mahāmoggallāna hãy đến. Thưa ngài, xin hoan nghênh ngài đại đức Mahāmoggallāna. Thưa ngài, ngài đại đức có nhu cầu gì? Tôi có thể dâng vật gì?
– Này đạo hữu, ta có nhu cầu về các cọng súng và cọng sen.
Khi ấy, con long tượng ấy đã ra lệnh cho con long tượng khác.
– Này bạn, như vậy bạn hãy dâng đến ngài đại đức các cọng súng và cọng sen theo như nhu cầu.
Sau đó, con long tượng ấy đã lội xuống hồ sen Mandākinī dùng vòi nhổ các cọng súng và cọng sen rồi rửa sạch sẽ, sau khi rửa xong đã buộc lại thành bó rồi đi đến gặp đại đức Mahāmoggallāna. Khi ấy, giống như người đàn ông có sức mạnh có thể duỗi ra cánh tay đã được co lại hoặc có thể co lại cánh tay đã được duỗi ra, tương tợ như thế đại đức Mahāmoggallāna đã biến mất tại bờ hồ sen Mandākinī rồi hiện ra ở Jetavana. Con long tượng ấy cũng đã biến mất tại bờ hồ sen Mandākinī và hiện ra ở Jetavana. Khi ấy, con long tượng ấy sau khi đã dâng đến đại đức Mahāmoggallāna các cọng súng và cọng sen rồi đã biến mất tại Jetavana và hiện ra ở bờ hồ sen Mandākinī. Sau đó, đại đức Mahāmoggallāna đã đem lại các cọng súng và cọng sen cho đại đức Sāriputta. Khi ấy, đại đức Sāriputta đã thọ dụng các cọng súng và cọng sen, bệnh sốt toàn thân đã được thuyên giảm. Nhiều cọng súng và cọng sen còn thừa lại. Vào lúc bấy giờ, trong thời kỳ khó khăn về vật thực các vị tỳ khưu chỉ được thỉnh cầu những khẩu phần ít ỏi nên có sự suy nghĩ rồi từ chối. Và toàn bộ hội chúng đã được thỉnh cầu, nhưng các vị tỳ khưu ngần ngại nên không thọ lãnh.
– Này các tỳ khưu, hãy thọ lãnh và hãy thọ dụng. Này các tỳ khưu, ta cho phép vị đã ăn xong khi được yêu cầu thì được thọ dụng vật không phải còn thừa đã được mọc ở rừng (hoặc) đã được mọc ở hồ nước.
[56] Vào lúc bấy giờ, ở thành Sāvatthi có vô số trái cây có thể ăn được nhưng lại không có người làm (các trái cây ấy) trở thành đúng phép. Các vị tỳ khưu ngần ngại nên không thọ dụng trái cây. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép thọ dụng trái cây không có hột, hoặc không còn hột, (cho dù) chưa được làm trở thành đúng phép.
[57] Sau đó, khi đã ngự tại thành Sāvatthi theo như ý thích, đức Thế Tôn đã ra đi du hành về phía thành Rājagaha. Trong khi tuần tự du hành, ngài đã ngự đến thành Rājagaha. Tại nơi đó trong thành Rājagaha, đức Thế Tôn ngự tại Veḷuvana, nơi nuôi dưỡng các con sóc.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh lở loét. Thầy thuốc Ākāsagotta đã thực hiện việc mổ xẻ. Sau đó, đức Thế Tôn trong khi đi dạo quanh các chỗ trú ngụ đã đi đến trú xá của vị tỳ khưu nọ. Thầy thuốc Ākāsagotta đã nhìn thấy đức Thế Tôn từ đàng xa đang đi lại, sau khi nhìn thấy đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài Gotama, xin hãy lại đây. Xin hãy nhìn xem hậu môn của vị tỳ khưu này, giống như là miệng của con kỳ nhông vậy.
Khi ấy, đức Thế Tôn (nghĩ rằng): “Kẻ rồ dại này (muốn) đùa cợt ta!” rồi đã từ nơi ấy quay trở về và nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội chúng tỳ khưu lại và hỏi các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, có phải trong trú xá ở đàng kia có vị tỳ khưu bị bệnh?
– Bạch Thế Tôn, thưa có.
– Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy bị bệnh gì?
– Bạch ngài, đại đức ấy bị bệnh lở loét. Thầy thuốc Ākāsagotta đã thực hiện việc mổ xẻ.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
– Này các tỳ khưu, thật không đúng đắn cho kẻ rồ dại ấy, thật không hợp lẽ, không tốt đẹp, không xứng pháp sa-môn, không được phép, không nên làm. Này các tỳ khưu, vì sao kẻ rồ dại ấy lại cho người thực hiện việc mổ xẻ ở chỗ kín (của cơ thể)? Này các tỳ khưu, da ở chỗ kín (của cơ thể) thì mỏng, vết thương khó liền da, dao khó điều khiển. Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)…
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, không nên cho người thực hiện việc mổ xẻ ở chỗ kín (của cơ thể); vị nào cho người thực hiện thì phạm tội thullaccaya (trọng tội).
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn đã cấm đoán việc mổ xẻ” nên đã cho người thực hiện việc bơm thụt. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại cho người thực hiện việc bơm thụt?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu nhóm Lục Sư cho người thực hiện việc bơm thụt, có đúng không vậy?
– Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
…(như trên)… Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, không nên cho người thực hiện việc mổ xẻ hoặc việc bơm thụt xung quanh chỗ kín (của cơ thể) hai lóng tay; vị nào cho người thực hiện thì phạm tội thullaccaya (trọng tội).
[58] Sau đó, khi đã ngự tại thành Rājagaha theo như ý thích, đức Thế Tôn đã ra đi du hành về phía thành Bārāṇasī (Ba La Nại). Trong khi tuần tự du hành, ngài đã ngự đến thành Bārāṇasī. Tại nơi đó trong thành Bārāṇasī, đức Thế Tôn ngự tại Isipatana, ở vườn nai.
Vào lúc bấy giờ, trong thành Bārāṇasī có nam cư sĩ Suppiya và nữ cư sĩ Suppiyā. Cả hai đều ngưỡng mộ, là thí chủ, là người phục vụ, là người hộ độ cho hội chúng. Khi ấy, nữ cư sĩ Suppiyā đi đến tu viện rồi đi từ trú xá này đến trú xá khác, từ phòng này đến phòng khác và hỏi các vị tỳ khưu rằng:
– Thưa các ngài, vị nào bị bệnh? Vật gì cần được mang lại? Cho vị nào?
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đã uống thuốc xổ. Khi ấy, vị tỳ khưu ấy đã nói với nữ cư sĩ Suppiyā điều này:
– Này chị gái, tôi đã uống thuốc xổ. Tôi có nhu cầu về mùi vị của thịt.
– Thưa ngài, tốt lắm. (Vật ấy) sẽ được mang lại.
Sau khi về nhà, nữ cư sĩ Suppiyā đã bảo người giúp việc rằng:
– Này chú em, hãy đi và tìm (mua) loại thịt đã được làm sẵn (pavattamaṃsaṃ).
– Thưa cô chủ, xin vâng.
Rồi người đàn ông ấy nghe theo nữ cư sĩ Suppiyā đã đi rảo khắp cả thành Bārāṇasī nhưng vẫn không thấy loại thịt đã được làm sẵn. Sau đó, người đàn ông ấy đã đi đến gặp nữ cư sĩ Suppiyā, sau khi đến đã nói với nữ cư sĩ Suppiyā điều này:
– Thưa cô chủ, không có thịt đã được làm sẵn. Hôm nay là ngày kiêng sát sanh.
Khi ấy, nữ cư sĩ Suppiyā đã khởi ý điều này: “Vị tỳ khưu bị bệnh ấy mà không có được mùi vị của thịt thì bệnh sẽ trầm trọng hơn hoặc sẽ chết. Đối với ta, việc ta đã hứa mà không cho người đem lại là việc không đúng đắn” nên đã lấy con dao găm cắt miếng thịt ở đùi rồi trao cho người tớ gái (nói rằng):
– Này em, hãy chuẩn bị miếng thịt này rồi dâng đến vị tỳ khưu bị bệnh ấy ở trong trú xá kia. Và ai hỏi ta thì hãy báo cho biết là: “Cô chủ bị bệnh.”
Rồi nàng đã lấy thượng y quấn quanh đùi, đi vào phòng trong, và nằm xuống trên giường. Sau đó, nam cư sĩ Suppiya đã trở về nhà và hỏi người tớ gái rằng:
– Suppiyā đâu rồi?
– Thưa ông chủ, bà nằm ở phòng trong.
Khi ấy, nam cư sĩ Suppiya đã đi đến gặp nữ cư sĩ Suppiyā, sau khi đến đã nói với nữ cư sĩ Suppiyā điều này:
– Vì sao nàng lại nằm vậy?
– Thiếp bị bệnh.
– Nàng bị bệnh gì vậy?
Sau đó, nữ cư sĩ Suppiyā đã kể lại sự việc ấy cho nam cư sĩ Suppiya. Khi ấy, nam cư sĩ Suppiya (nghĩ rằng): “Thật kỳ diệu thay! Thật phi thường thay! Nàng Suppiyā đã được an trú vào niềm tin đến thế. Bởi vì ngay cả thịt của chính bản thân còn được dứt bỏ thì còn có gì khác nữa mà nàng không thể bố thí?” nên mừng rỡ, phấn chấn đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, nam cư sĩ Suppiya đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, xin đức Thế Tôn nhận lời bữa trai phạn của con vào ngày mai cùng với hội chúng tỳ khưu.
Đức Thế tôn đã nhận lời bằng thái độ im lặng. Khi ấy, nam cư sĩ Suppiya hiểu được sự nhận lời của đức Thế Tôn nên đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, và ra đi.
Sau đó, khi trải qua đêm ấy nam cư sĩ Suppiya đã cho chuẩn bị sẵn sàng thức ăn thượng hạng loại cứng loại mềm rồi cho người thông báo thời giờ đến đức Thế Tôn:
– Bạch ngài, đã đến giờ, thức ăn đã chuẩn bị xong.
Khi ấy vào buổi sáng, đức Thế Tôn đã mặc y, cầm y bát, rồi đi đến tư gia của nam cư sĩ Suppiya, sau khi đến đã ngồi xuống trên chỗ ngồi được sắp đặt sẵn cùng với hội chúng tỳ khưu. Sau đó, nam cư sĩ Suppiya đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi đứng ở một bên. Đức Thế Tôn đã nói với nam cư sĩ Suppiya đang đứng một bên điều này:
– Suppiyā đâu rồi?
– Bạch Thế Tôn, nàng bị bệnh.
– Như vậy thì (nàng) hãy đi đến đây.
– Bạch Thế Tôn, nàng không đủ sức.
– Như vậy thì hãy ẵm rồi đưa (nàng) lại đây.
Sau đó, nam cư sĩ Suppiya đã ẵm và đưa nữ cư sĩ Suppiyā lại. Khi đức Thế Tôn nhìn thấy nàng, ngay khi ấy vết thương lớn như thế đã được liền lại, có làn da đẹp, và lông tơ đã mọc. Khi ấy, nam cư sĩ Suppiya và nữ cư sĩ Suppiyā (nghĩ rằng): “Thật kỳ diệu thay! Thật phi thường thay! Đức Như Lai có đại thần lực, có đại oai lực! Bởi vì ở đây chỉ với ánh nhìn của đức Thế Tôn, vết thương lớn như thế đã được liền lại, có làn da đẹp, và lông tơ đã mọc” nên mừng rỡ phấn chấn rồi đã tự tay làm hài lòng và thỏa mãn hội chúng tỳ khưu có đức Phật đứng đầu với thức ăn thượng hạng loại cứng loại mềm. Đến khi đức Thế Tôn đã thọ thực xong bàn tay đã rời khỏi bình bát, họ đã ngồi xuống ở một bên. Khi ấy, đức Thế Tôn đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho nam cư sĩ Suppiya và nữ cư sĩ Suppiyā bằng bài Pháp thoại rồi đã từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi.
[59] Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội chúng tỳ khưu lại và hỏi các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, vị nào đã yêu cầu nữ cư sĩ Suppiyā về thịt?
Khi được nói như thế, vị tỳ khưu ấy đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, chính con đã yêu cầu nữ cư sĩ Suppiyā về thịt.
– Này tỳ khưu, có phải (thịt) đã được đem đến đây?
– Bạch Thế Tôn, (thịt) đã được đem đến đây.
– Này tỳ khưu, có phải ngươi đã thọ dụng?
– Bạch Thế Tôn, con đã thọ dụng.
– Này tỳ khưu, ngươi có quán xét (là thịt gì) hay không?
– Bạch Thế Tôn, con đã không quán xét (là thịt gì).
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
– Này kẻ rồ dại, vì sao ngươi chưa quán xét mà lại thọ dụng thịt? Này kẻ rồ dại, ngươi đã thọ dụng thịt người. Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)…
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, có những người có niềm tin đã được an trú, ngay thịt của chính bản thân còn được những người này dứt bỏ. Này các tỳ khưu, không nên thọ dụng thịt người; vị nào thọ dụng thì phạm tội thullaccaya (trọng tội). Này các tỳ khưu, không nên thọ dụng thịt khi chưa quán xét; vị nào thọ dụng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[60] Vào lúc bấy giờ, các con voi của đức vua bị chết. Trong thời kỳ khó khăn về vật thực nên dân chúng ăn thịt voi và bố thí thịt voi đến các tỳ khưu đang đi khất thực. Các vị tỳ khưu thọ dụng thịt voi. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Tại sao các sa-môn Thích tử lại thọ dụng thịt voi? Các con voi là vật biểu tượng của hoàng gia, nếu đức vua biết ngài sẽ không hoan hỷ với các vị nữa đâu.
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên thọ dụng thịt voi; vị nào thọ dụng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vào lúc bấy giờ, các con ngựa của đức vua bị chết. Trong thời kỳ khó khăn về vật thực nên dân chúng ăn thịt ngựa và bố thí thịt ngựa đến các tỳ khưu đang đi khất thực. Các vị tỳ khưu thọ dụng thịt ngựa. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Tại sao các sa-môn Thích tử lại thọ dụng thịt ngựa? Các con ngựa là vật biểu tượng của hoàng gia, nếu đức vua biết ngài sẽ không hoan hỷ với các vị nữa đâu.
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên thọ dụng thịt ngựa; vị nào thọ dụng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vào lúc bấy giờ, trong thời kỳ khó khăn về vật thực dân chúng ăn thịt chó và bố thí thịt chó đến các tỳ khưu đang đi khất thực. Các vị tỳ khưu thọ dụng thịt chó. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Tại sao các sa-môn Thích tử lại thọ dụng thịt chó? Loài chó thì ghê tởm và đáng ghét.
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên thọ dụng thịt chó; vị nào thọ dụng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vào lúc bấy giờ, trong thời kỳ khó khăn về vật thực dân chúng ăn thịt rắn và bố thí thịt rắn đến các tỳ khưu đang đi khất thực. Các vị tỳ khưu thọ dụng thịt rắn. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Tại sao các sa-môn Thích tử lại thọ dụng thịt rắn? Loài rắn thì ghê tởm và đáng ghét.
Vua của loài rắn là Supassa đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi đứng ở một bên. Khi đã đứng một bên, Supassa vua của loài rắn đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, có những loài rắn không có đức tin, không có ngưỡng mộ, chúng có thể hãm hại các vị tỳ khưu dầu là việc không đáng. Bạch ngài, thật tốt đẹp thay các ngài đại đức chớ nên thọ dụng thịt rắn.
Khi ấy, đức Thế Tôn đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho Supassa vua của loài rắn bằng bài Pháp thoại. Sau đó, khi đã được đức Thế tôn chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi bằng bài Pháp thoại, Supassa vua của loài rắn đã đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi.
Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, không nên thọ dụng thịt rắn; vị nào thọ dụng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vào lúc bấy giờ, những người thợ săn giết chết con sư tử rồi ăn thịt sư tử và bố thí thịt sư tử đến các tỳ khưu đang đi khất thực. Các vị tỳ khưu sau khi thọ dụng thịt sư tử rồi vào ngụ ở trong rừng. Những con sư tử (nhận biết được) mùi thịt sư tử nên đã vồ lấy các vị tỳ khưu.
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên thọ dụng thịt sư tử; vị nào thọ dụng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vào lúc bấy giờ, những người thợ săn giết chết con hổ rồi ăn thịt hổ và bố thí thịt hổ đến các tỳ khưu đang đi khất thực. Các vị tỳ khưu sau khi thọ dụng thịt hổ rồi vào ngụ ở trong rừng. Những con hổ (nhận biết được) mùi thịt hổ nên đã vồ lấy các vị tỳ khưu.
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên thọ dụng thịt hổ; vị nào thọ dụng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vào lúc bấy giờ, những người thợ săn giết chết con beo rồi ăn thịt beo và bố thí thịt beo đến các tỳ khưu đang đi khất thực. Các vị tỳ khưu sau khi thọ dụng thịt beo rồi vào ngụ ở trong rừng. Những con beo (nhận biết được) mùi thịt beo nên đã vồ lấy các vị tỳ khưu.
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên thọ dụng thịt beo; vị nào thọ dụng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vào lúc bấy giờ, những người thợ săn giết chết con gấu rồi ăn thịt gấu và bố thí thịt gấu đến các tỳ khưu đang đi khất thực. Các vị tỳ khưu sau khi thọ dụng thịt gấu rồi vào ngụ ở trong rừng. Những con gấu (nhận biết được) mùi thịt gấu nên đã vồ lấy các vị tỳ khưu.
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên thọ dụng thịt gấu; vị nào thọ dụng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vào lúc bấy giờ, những người thợ săn giết chết con chó sói rồi ăn thịt chó sói và bố thí thịt chó sói đến các tỳ khưu đang đi khất thực. Các vị tỳ khưu sau khi thọ dụng thịt chó sói rồi vào ngụ ở trong rừng. Những con chó sói (nhận biết được) mùi thịt chó sói nên đã vồ lấy các vị tỳ khưu.
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên thọ dụng thịt chó sói; vị nào thọ dụng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Dứt tụng phẩm “Suppiya” là phần thứ nhì.
[61] Sau đó, khi đã ngự tại thành Bārāṇasī theo như ý thích, đức Thế Tôn đã ra đi du hành về phía Andhakavindaṃ cùng với đại chúng tỳ khưu gồm có một ngàn hai trăm năm mươi vị tỳ khưu. Vào lúc bấy giờ, dân chúng trong xứ sở cho người chất lên các xe hàng nhiều muối, dầu ăn, gạo lức, và vật thực loại cứng rồi lần lượt nối đuôi theo sau hội chúng tỳ khưu có đức Thế Tôn đứng đầu (nghĩ rằng): “Khi nào chúng tôi đến phiên, khi ấy chúng tôi sẽ thực hiện bữa trai phạn” và có số lượng là năm trăm người ăn thức ăn còn thừa. Sau đó, trong khi tuần tự du hành đức Thế Tôn đã ngự đến Andhakavindaṃ. Khi ấy, có người bà-la-môn nọ không nhận được phiên nên đã khởi ý điều này: “Hơn hai tháng nay, ta đã theo sau hội chúng tỳ khưu có đức Thế Tôn đứng đầu (nghĩ rằng): ‘Khi nào ta đến phiên, khi ấy ta sẽ thực hiện bữa trai phạn,’ và ta không nhận được phiên. Mà ta thì đơn chiếc, nhiều công việc gia đình đã bị ta bỏ bê. Hay là ta nên nhìn xem ở nhà ăn và ta nên chuẩn bị sẵn sàng món gì ở nhà ăn không có?” Sau đó, người bà-la-môn ấy trong khi nhìn xem ở nhà ăn đã không thấy hai món là cháo và mật viên. Khi ấy, người bà-la-môn ấy đã đi đến gặp đại đức Ānanda, sau khi đến đã nói với đại đức Ānanda điều này:
– Thưa ngài Ānanda, ở đây tôi không nhận được phiên nên đã khởi ý điều này: “Hơn hai tháng nay, ta đã theo sau hội chúng tỳ khưu có đức Thế Tôn đứng đầu (nghĩ rằng): ‘Khi nào ta đến phiên, khi ấy ta sẽ thực hiện bữa trai phạn,’ và ta không nhận được phiên. Mà ta thì đơn chiếc, nhiều công việc gia đình đã bị ta bỏ bê. Hay là ta nên nhìn xem ở nhà ăn và ta nên chuẩn bị sẵn sàng món gì ở nhà ăn không có?” Thưa ngài Ānanda, trong khi nhìn xem ở nhà ăn tôi đây đã không thấy hai món là cháo và mật viên. Thưa ngài Ānanda, nếu tôi chuẩn bị sẵn sàng thì Ngài Gotama có thọ nhận cháo và mật viên của tôi hay không?
– Này ông bà-la-môn, như thế thì tôi sẽ hỏi đức Thế Tôn.
Khi ấy, đại đức Ānanda đã trình sự việc ấy lên đức Thế tôn.
– Này Ānanda, như vậy thì bảo ông ta hãy cho chuẩn bị sẵn sàng.
(Sau đó, đại đức Ānanda đã nói với người bà-la-môn như vầy):
– Này ông bà-la-môn, như vậy thì ông hãy cho chuẩn bị sẵn sàng.
Sau đó, khi trải qua đêm ấy người bà-la-môn ấy đã cho người chuẩn bị sẵn sàng nhiều cháo và mật viên rồi đem dâng đến đức Thế Tôn:
– Bạch Ngài Gotama, xin hãy thọ lãnh cháo và mật viên của tôi.
– Này bà-la-môn, như thế thì hãy dâng đến các vị tỳ khưu.
Các vị tỳ khưu ngần ngại nên không thọ lãnh.
– Này các tỳ khưu, hãy thọ lãnh và hãy thọ dụng.
Khi ấy, người bà-la-môn ấy đã tự tay làm hài lòng và thỏa mãn hội chúng tỳ khưu có đức Phật đứng đầu với nhiều cháo và mật viên. Đến khi đức Thế Tôn đã thọ thực xong có cánh tay đã được rửa và bàn tay đã rời khỏi bình bát, người bà-la-môn ấy đã ngồi xuống ở một bên. Khi ấy, đức Thế Tôn đã nói với người bà-la-môn ấy đang ngồi một bên điều này:
– Này bà-la-môn, đây là mười điều lợi ích của cháo. Mười điều ấy là gì? Trong khi bố thí cháo (người ấy) bố thí tuổi thọ, bố thí sắc đẹp, bố thí sự an lạc, bố thí sức mạnh, bố thí trí tuệ, người đã húp cháo dứt hẳn cơn đói, chận đứng cơn khát, điều hòa gió, làm sạch bàng quang, và làm tiêu hóa phần (vật thực) thô còn lại chưa được tiêu hóa. Này bà-la-môn, đây là mười điều lợi ích của cháo.
[62]
Người nào bố thí cháo
cung kính và hợp thời
đến những ai thu thúc
ăn vật kẻ khác cho
là đã cho vị ấy
được mười điều lợi ích:
tuổi thọ, và sắc đẹp,
an vui, và sức mạnh,
nhờ đó được sanh khởi
trí tuệ cho vị ấy,
xua đi được cơn đói
cơn khát, gió (điều hòa),
làm trong sạch bàng quang,
tiêu hóa vật ăn vào.
Vật ấy là dược phẩm
đấng Thiện Thệ ngợi khen.
Bởi thế, người khao khát
an lạc chốn thiên đường
hoặc là đang mong muốn
sự phồn vinh nhân loại
nên thường xuyên bố thí
cháo đầy đủ đến vị
có nhu cầu an lạc.
[63] Khi ấy, đức Thế Tôn sau khi tùy hỷ công đức của người bà-la-môn bằng những lời kệ này rồi đã từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi.
Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, ta cho phép (thọ dụng) cháo và mật viên.
[64] Dân chúng đã nghe rằng: “Nghe nói đức Thế Tôn cho phép cháo và mật viên.” Vào buổi sáng sớm, họ đã cho chuẩn bị sẵn sàng cháo đặc và mật viên. Các tỳ khưu vào buổi sáng sớm được thỏa mãn với cháo đặc và mật viên nên không thọ thực được như ý ở chỗ thọ thực.
Vào lúc bấy giờ, hội chúng tỳ khưu có đức Phật đứng đầu đã được vị quan đại thần nọ mới có đức tin thỉnh mời vào ngày hôm sau. Khi ấy, vị quan đại thần mới có đức tin ấy đã khởi ý điều này: “Hay là ta nên chuẩn bị sẵn sàng một ngàn hai trăm năm mươi đĩa thịt cho một ngàn hai trăm năm mươi vị tỳ khưu rồi sẽ dâng đến cứ mỗi một vị tỳ khưu là một đĩa thịt?” Sau đó, khi trải qua đêm ấy vị quan đại thần mới có đức tin ấy đã cho chuẩn bị sẵn sàng thức ăn thượng hạng loại cứng loại mềm và một ngàn hai trăm năm mươi đĩa thịt rồi cho người thông báo thời giờ đến đức Thế Tôn:
– Bạch ngài, đã đến giờ, thức ăn đã chuẩn bị xong.
Khi ấy vào buổi sáng, đức Thế Tôn đã mặc y, cầm y bát, rồi đi đến tư dinh của vị quan đại thần mới có đức tin ấy, sau khi đến đã ngồi xuống trên chỗ ngồi được sắp đặt sẵn cùng với hội chúng tỳ khưu. Sau đó, vị quan đại thần mới có đức tin ấy phục vụ các vị tỳ khưu ở trong nhà ăn. Các vị tỳ khưu đã nói như vầy:
– Này đạo hữu, chỉ dâng chút ít thôi. Này đạo hữu, chỉ dâng chút ít thôi.
– Thưa các ngài, chớ có thọ lãnh chỉ chút ít (vì nghĩ rằng): “Vị quan đại thần này mới có đức tin.” Tôi đã cho chuẩn bị nhiều vật thực loại cứng loại mềm và một ngàn hai trăm năm mươi đĩa thịt, tôi sẽ dâng đến mỗi một vị tỳ khưu là một đĩa thịt. Thưa các ngài, hãy thọ lãnh theo như ước muốn.
– Này đạo hữu, không phải vì lý do ấy mà chúng tôi thọ lãnh chỉ chút ít; tuy nhiên vì vào sáng sớm chúng tôi đã được thỏa mãn với cháo đặc và mật viên rồi, cho nên chúng tôi thọ lãnh chỉ chút ít.
Khi ấy, vị quan đại thần mới có đức tin ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Tại sao các đại đức đã được tôi thỉnh mời lại thọ dụng cháo đặc của người khác? Không lẽ tôi không đủ khả năng để bố thí theo như ước muốn hay sao?
Rồi trở nên giận dữ, không còn hoan hỷ, và có ý muốn lăng mạ nên đã đi đến và trong khi để đầy bình bát của các vị tỳ khưu (nói rằng):
– Hãy ăn đi hoặc hãy mang đi.
Sau đó, vị quan đại thần mới có đức tin ấy đã tự tay làm hài lòng và thỏa mãn hội chúng tỳ khưu có đức Phật đứng đầu với thức ăn thượng hạng loại cứng loại mềm. Đến khi đức Thế Tôn đã thọ thực xong bàn tay đã rời khỏi bình bát, vị quan đại thần mới có đức tin ấy đã ngồi xuống ở một bên. Khi ấy, đức Thế Tôn đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho vị quan đại thần mới có đức tin ấy đang ngồi một bên bằng bài Pháp thoại rồi đã từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi. Khi đức Thế Tôn ra đi không lâu, vị quan đại thần mới có đức tin ấy đã khởi lên sự ăn năn, đã khởi lên nỗi ân hận: “Thật là điều không lợi ích đã có cho ta! Thật là điều lợi ích đã không có cho ta! Ta đã đạt được điều xấu! Ta đã không đạt được điều tốt! Là việc ta đã trở nên giận dữ, không còn hoan hỷ, và có ý muốn lăng mạ nên đã đi đến và trong khi để đầy bình bát của các vị tỳ khưu (nói rằng): ‘Hãy ăn đi hoặc hãy mang đi.’ Ta đã tạo ra được nhiều điều gì, là phước báu hay là tội lỗi?”
Sau đó, vị quan đại thần mới có đức tin ấy đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, vị quan đại thần mới có đức tin ấy đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, ở đây khi đức Thế Tôn ra đi không lâu, con đã khởi lên sự ăn năn, đã khởi lên nỗi ân hận: “Thật là điều không lợi ích đã có cho ta! Thật là điều lợi ích đã không có cho ta! Ta đã đạt được điều xấu! Ta đã không đạt được điều tốt! Là việc ta đã trở nên giận dữ, không còn hoan hỷ, và có ý muốn lăng mạ nên đã đi đến và trong khi để đầy bình bát của các vị tỳ khưu (nói rằng): ‘Hãy ăn đi hoặc hãy mang đi.’ Ta đã tạo ra được nhiều điều gì, là phước báu hay là tội lỗi?” Bạch ngài, con đã tạo ra được nhiều điều gì, là phước báu hay là tội lỗi?
– Này đạo hữu, kể từ lúc ngươi thỉnh mời hội chúng tỳ khưu có đức Phật đứng đầu cho ngày hôm sau, từ lúc ấy ngươi đã tạo ra được nhiều phước báu. Kể từ lúc mỗi một phần cơm của ngươi được mỗi một vị tỳ khưu thọ lãnh, từ lúc ấy ngươi đã tạo ra được nhiều phước báu. Các cõi trời đã được thành tựu cho ngươi rồi.
Khi ấy, vị quan đại thần mới có đức tin ấy (nghĩ rằng): “Nghe nói ta có được điều lợi ích! Nghe nói ta đã đạt được điều tốt! Nghe nói ta đã tạo ra được nhiều phước báu! Nghe nói các cõi trời đã được thành tựu cho ta!” nên mừng rỡ phấn chấn đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, và ra đi.
Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội chúng tỳ khưu lại và hỏi các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu thọ dụng cháo đặc của người khác khi đã được thỉnh mời của một nơi khác, có đúng không vậy?
– Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
– Này các tỳ khưu, vì sao những kẻ rồ dại ấy lại thọ dụng cháo đặc của người khác khi đã được thỉnh mời của một nơi khác? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)…
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, không nên thọ dụng cháo đặc của người khác khi đã được thỉnh mời của một nơi khác; vị nào thọ dụng thì nên được hành xử theo Pháp.[11]
[65] Sau đó, khi đã ngự tại Andhakavinda theo như ý thích, đức Thế Tôn đã ra đi du hành về phía thành Rājagaha cùng với đại chúng tỳ khưu gồm có một ngàn hai trăm năm mươi vị tỳ khưu. Vào lúc bấy giờ, Velaṭṭha Kaccāna đang trên đường xa từ thành Rājagaha đi Andhakavinda cùng với năm trăm xe hàng toàn bộ đều chất đầy các hũ mật đường. Đức Thế Tôn đã nhìn thấy Velaṭṭha Kaccāna từ đàng xa đang đi lại, sau khi nhìn thấy đã rời đường lộ và ngồi xuống ở gốc cây nọ. Sau đó, Velaṭṭha Kaccāna đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi đứng ở một bên. Khi đã đứng một bên, Velaṭṭha Kaccāna đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, con muốn dâng đến mỗi một vị tỳ khưu một hũ mật đường
– Này Kaccāna, như vậy thì ngươi hãy mang lại chỉ một hũ mật đường thôi.
– Bạch ngài, xin vâng.
Rồi Velaṭṭha Kaccāna nghe theo đức Thế Tôn đã cầm lấy chỉ một hũ mật đường rồi đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã nói với đứcThế Tôn điều này:
– Bạch ngài, hũ mật đường đã được mang lại. Bạch ngài, con sẽ thực hành như thế nào đây?
– Này Kaccāna, như thế thì ngươi hãy dâng mật đường đến các vị tỳ khưu.
– Bạch ngài, xin vâng.
Rồi Velaṭṭha Kaccāna nghe theo đức Thế Tôn sau khi dâng mật đường đến các vị tỳ khưu rồi đã nói đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, mật đường đã được dâng đến các vị tỳ khưu, và nhiều mật đường như vầy vẫn còn thừa lại. Bạch ngài, con sẽ thực hành như thế nào đây?
– Này Kaccāna, như thế thì ngươi hãy dâng mật đường đến các vị tỳ khưu theo như ước muốn.
– Bạch ngài, xin vâng.
Rồi Velaṭṭha Kaccāna nghe theo đức Thế Tôn sau khi dâng mật đường đến các vị tỳ khưu theo như ước muốn rồi đã nói đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, mật đường đã được dâng đến các vị tỳ khưu theo như ước muốn, và nhiều mật đường như vầy vẫn còn thừa lại. Bạch ngài, con sẽ thực hành như thế nào đây?
– Này Kaccāna, như thế thì ngươi hãy làm cho các vị tỳ khưu được thỏa mãn với nhiều mật đường.
– Bạch ngài, xin vâng.
Rồi Velaṭṭha Kaccāna nghe theo đức Thế Tôn đã làm cho các vị tỳ khưu được thỏa mãn với nhiều mật đường. Một số các vị tỳ khưu đã chứa đầy các bình bát, (một số) đã chứa đầy các túi lọc nước và các túi xách. Rồi Velaṭṭha Kaccāna sau khi đã làm cho các vị tỳ khưu được thỏa mãn với nhiều mật đường rồi đã nói đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, các vị tỳ khưu đã được thỏa mãn với nhiều mật đường, và nhiều mật đường như vầy vẫn còn thừa lại. Bạch ngài, con sẽ thực hành như thế nào đây?
– Này Kaccāna, như thế thì ngươi hãy cho mật đường đến những người ăn thức ăn còn thừa.
– Bạch ngài, xin vâng.
Rồi Velaṭṭha Kaccāna nghe theo đức Thế Tôn sau khi đã cho mật đường đến những người ăn thức ăn còn thừa rồi đã nói đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, mật đường đã được cho đến những người ăn thức ăn còn thừa, và nhiều mật đường như vầy vẫn còn thừa lại. Bạch ngài, con sẽ thực hành như thế nào đây?
– Này Kaccāna, như thế thì ngươi hãy cho mật đường đến những người ăn thức ăn còn thừa theo như ước muốn.
– Bạch ngài, xin vâng.
Rồi Velaṭṭha Kaccāna nghe theo đức Thế Tôn sau khi đã cho mật đường đến những người ăn thức ăn còn thừa theo như ước muốn rồi đã nói đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, mật đường đã được cho đến những người ăn thức ăn còn thừa theo như ước muốn, và nhiều mật đường như vầy vẫn còn thừa lại. Bạch ngài, con sẽ thực hành như thế nào đây?
– Này Kaccāna, như thế thì ngươi hãy làm cho những người ăn thức ăn còn thừa được thỏa mãn với nhiều mật đường.
– Bạch ngài, xin vâng.
Rồi Velaṭṭha Kaccāna nghe theo đức Thế Tôn đã làm cho những người ăn thức ăn còn thừa được thỏa mãn với nhiều mật đường. Một số người ăn thức ăn còn thừa đã chứa đầy các lọ, các bình, (một số) đã chứa đầy các giỏ, và dùng luôn cả phần y ở phía trước (túm lại để chứa đường). Rồi Velaṭṭha Kaccāna sau khi đã làm cho những người ăn thức ăn còn thừa được thỏa mãn với nhiều mật đường rồi đã nói đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, những người ăn thức ăn còn thừa đã được thỏa mãn với nhiều mật đường, và nhiều mật đường như vầy vẫn còn thừa lại. Bạch ngài, con sẽ thực hành như thế nào đây?
– Này Kaccāna, ta không thấy người nào trong thế gian tính luôn cõi của chư thiên, cõi Ma Vương, cõi Phạm thiên, cho đến dòng dõi sa-môn, bà-la-môn, các hạng chư thiên và loài người mà đường này khi được người ấy ăn vào có thể đem lại sự tiêu hóa đúng đắn, ngoại trừ Như Lai hay đệ tử của Như Lai. Này Kaccāna, chính vì điều ấy ngươi hãy đổ bỏ đường ấy ở nơi không có cỏ xanh hoặc đổ xuống nước không có sinh vật.
– Bạch ngài, xin vâng.
Rồi Velaṭṭha Kaccāna nghe theo đức Thế Tôn đã đổ mật đường ấy xuống nước không có sinh vật. Khi ấy, mật đường ấy khi được đổ vào trong nước liền sủi bọt xì xèo, bốc hơi, và tỏa khói. Cũng giống như lưỡi cày đã được nung đỏ trọn ngày khi được bỏ vào trong nước liền sủi bọt xì xèo, bốc hơi, và tỏa khói; tương tợ như thế, mật đường ấy khi được đổ vào trong nước liền sủi bọt xì xèo, bốc hơi, và tỏa khói.
Khi ấy, Velaṭṭha Kaccāna trở nên hoảng hốt, lông dựng đứng lên, rồi đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Rồi đức Thế Tôn đã thuyết Pháp theo thứ lớp đến Velaṭṭha Kaccāna đang ngồi một bên. Tức là ngài đã giảng giải bài thuyết về bố thí, bài thuyết về giới cấm, bài thuyết về cõi trời, sự ô nhiễm hạ liệt tai hại của các dục, sự lợi ích của việc xuất ly. Khi đức Thế Tôn biết được tâm của Velaṭṭha Kaccāna đã sẵn sàng, dễ uốn nắn, không còn chướng ngại, hướng thượng, tĩnh lặng, ngài đã phô bày Pháp thuyết giảng đã được chư Phật khai mở là: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Cũng giống như tấm vải sạch chưa bị vết nhơ có thể nhuộm màu một cách toàn vẹn; tương tợ như thế, ngay tại chỗ ngồi ấy Pháp nhãn không nhiễm bụi trần, không vết nhơ đã sanh khởi đến Velaṭṭha Kaccāna: “Điều gì có bản tánh được sanh lên, toàn bộ điều ấy đều có bản tánh hoại diệt.”
Sau đó, khi đã thấy được Pháp, đã thành tựu được Pháp, đã hiểu được Pháp, đã thấm nhuần Pháp, hoài nghi đã không còn, sự lưỡng lự đã dứt hẳn, đã thành tựu niềm tin vào Giáo Pháp của bậc đạo sư, không còn cần sự trợ duyên của người khác, Velaṭṭha Kaccāna đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, thật là tuyệt vời! Bạch ngài, thật là tuyệt vời! Bạch ngài, giống như người có thể lật ngửa vật đã được úp lại, mở ra vật đã bị che kín, chỉ đường cho kẻ lạc lối, đem lại cây đèn dầu nơi bóng tối (nghĩ rằng): “Những ai có mắt sẽ thấy được các hình dáng;” tương tợ như thế, Pháp đã được đức Thế Tôn chỉ rõ bằng nhiều phương tiện. Bạch ngài, con đây xin quy y đức Thế Tôn, Giáo Pháp, và Hội chúng tỳ khưu. Xin đức Thế Tôn chấp nhận con là nam cư sĩ đã được quy y kể từ hôm nay cho đến trọn đời.
[66] Sau đó, trong khi tuần tự du hành đức Thế Tôn đã ngự đến thành Rājagaha. Tại nơi đó trong thành Rājagaha, đức Thế Tôn ngự tại Veḷuvana, nơi nuôi dưỡng các con sóc. Vào lúc bấy giờ, ở trong thành Rājagaha mật đường được dồi dào. Các tỳ khưu (nghĩ rằng): “Mật đường đã được đức Thế Tôn cho phép đến chính vị bị bệnh, còn chúng ta thì không bị bệnh” nên ngần ngại không thọ dụng mật đường. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép mật đường (guḷa) đối với vị bị bệnh và nước (có pha) mật đường (guḷodaka) đối với vị không bị bệnh
[67] Sau đó, khi đã ngự tại thành Rājagaha theo như ý thích, đức Thế Tôn đã ra đi du hành về phía Pāṭaligàma[12] cùng với đại chúng tỳ khưu gồm có một ngàn hai trăm năm mươi vị tỳ khưu. Sau đó, trong khi tuần tự du hành đức Thế Tôn đã ngự đến Pāṭaligàma. Các cư sĩ ở tại Pāṭaligàma đã nghe rằng: “Nghe nói đức Thế Tôn đã ngự đến Pāṭaligàma.” Sau đó, các cư sĩ ở tại Pāṭaligàma đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Đức Thế Tôn đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho các cư sĩ ở tại Pāṭaligàma đang ngồi một bên bằng bài Pháp thoại. Sau đó, khi đã được đức Thế Tôn chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi bằng bài Pháp thoại các cư sĩ ở tại Pāṭaligàma đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, xin đức Thế Tôn nhận lời (trú tại) nhà nghỉ trọ cùng với hội chúng Tỳ khưu.
Đức Thế Tôn đã nhận lời bằng thái độ im lặng. Khi ấy, các cư sĩ ở tại Pāṭaligàma hiểu được sự nhận lời của đức Thế Tôn nên đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi đi đến nhà nghỉ trọ, sau khi đến đã trải ra tất cả thảm trải ở nhà nghỉ trọ, cho sắp đặt các chỗ ngồi, cho bố trí lu nước, chuẩn bị cây đèn dầu, rồi đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi đứng ở một bên. Khi đã đứng một bên, các cư sĩ ở tại Pāṭaligàma đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, tất cả thảm trải ở nhà nghỉ trọ đã được trải ra, các chỗ ngồi đã được cho sắp đặt, lu nước đã được cho bố trí, cây đèn dầu đã được chuẩn bị. Bạch ngài, bây giờ là thời điểm của việc gì xin đức Thế Tôn hãy suy tính về việc ấy.
Sau đó, đức Thế Tôn đã mặc y, cầm y bát, rồi cùng với đại chúng tỳ khưu đi đến nhà nghỉ trọ, sau khi đến đã rửa sạch hai bàn chân rồi đi vào nhà nghỉ trọ và ngồi xuống chỗ cột nhà ở chính giữa, mặt nhìn về hướng đông. Hội chúng tỳ khưu cũng đã rửa sạch các bàn chân, rồi đi vào nhà nghỉ trọ và ngồi xuống chỗ bức tường ở phía tây, mặt nhìn về hướng đông, và có đức Thế Tôn trong tầm nhìn. Các cư sĩ ở tại Pāṭaligàma cũng đã rửa sạch các bàn chân, rồi đi vào nhà nghỉ trọ và ngồi xuống chỗ bức tường ở phía đông, mặt nhìn về hướng tây, và có đức Thế Tôn trong tầm nhìn. Khi ấy, đức Thế Tôn đã bảo các cư sĩ ở tại Pāṭaligàma rằng:
[68] – Này các cư sĩ, đây là năm điều tai hại của kẻ ác giới có sự hư hỏng về giới. Năm điều ấy là gì?
Này các cư sĩ, ở đây kẻ ác giới có sự hư hỏng về giới gánh chịu sự mất mát lớn về tài sản do nguyên nhân xao lãng. Đây là điều tai hại thứ nhất của kẻ ác giới có sự hư hỏng về giới. Này các cư sĩ, còn có điều khác nữa là tiếng đồn xấu xa của kẻ ác giới có sự hư hỏng về giới lan rộng. Đây là điều tai hại thứ nhì của kẻ ác giới có sự hư hỏng về giới. Này các cư sĩ, còn có điều khác nữa là kẻ ác giới có sự hư hỏng về giới đi vào tập thể nào khác dầu là tập thể những người sát-đế-lỵ (khattiya), dầu là tập thể những người bà-la-môn (brāhmaṇa), dầu là tập thể các gia chủ, dầu là tập thể các sa-môn, kẻ ấy đi vào thiếu sự tự chủ và trở nên bối rối. Đây là điều tai hại thứ ba của kẻ ác giới có sự hư hỏng về giới. Này các cư sĩ, còn có điều khác nữa là kẻ ác giới có sự hư hỏng về giới có sự mê mờ khi từ trần. Đây là điều tai hại thứ tư của kẻ ác giới có sự hư hỏng về giới. Này các cư sĩ, còn có điều khác nữa là kẻ ác giới có sự hư hỏng về giới khi thân này bị tan rã, sau khi chết đi sẽ tái sanh vào chốn bất hạnh, cõi khổ, nơi trừng phạt, địa ngục. Đây là điều tai hại thứ năm của kẻ ác giới có sự hư hỏng về giới.
Này các cư sĩ, đây là năm điều tai hại của kẻ ác giới có sự hư hỏng về giới.
[69] Này các cư sĩ, đây là năm điều lợi ích của người giữ giới có sự thành tựu về giới. Năm điều ấy là gì?
Này các cư sĩ, người giữ giới có sự thành tựu về giới thành tựu số lượng lớn về tài sản do nguyên nhân không xao lãng. Đây là điều lợi ích thứ nhất của người giữ giới có sự thành tựu về giới. Này các cư sĩ, còn có điều khác nữa là tiếng đồn tốt đẹp của người giữ giới có sự thành tựu về giới lan rộng. Đây là điều lợi ích thứ nhì của người giữ giới có sự thành tựu về giới. Này các cư sĩ, còn có điều khác nữa là người giữ giới có sự thành tựu về giới đi vào tập thể nào khác dầu là tập thể những người sát-đế-lỵ (khattiya), dầu là tập thể những người bà-la-môn (brāhmaṇa), dầu là tập thể các gia chủ, dầu là tập thể các sa-môn, người ấy đi vào có sự tự chủ và không có bối rối. Đây là điều lợi ích thứ ba của người giữ giới có sự thành tựu về giới. Này các cư sĩ, còn có điều khác nữa là người giữ giới có sự thành tựu về giới có sự không mê mờ khi từ trần. Đây là điều lợi ích thứ tư của người giữ giới có sự thành tựu về giới. Này các cư sĩ, còn có điều khác nữa là người giữ giới có sự thành tựu về giới khi thân này bị tan rã, sau khi chết đi sẽ tái sanh vào chốn an vui, cõi trời, cõi người. Đây là điều lợi ích thứ năm của người giữ giới có sự thành tựu về giới.
Này các cư sĩ, đây là năm điều lợi ích của người giữ giới có sự thành tựu về giới.
[70] Sau đó, khi đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho các cư sĩ ở tại Pāṭaligàma bằng bài Pháp thoại đến tận đêm khuya, đức Thế Tôn đã giải tán (bảo rằng):
– Này các cư sĩ, đêm đã khuya. Bây giờ là thời điểm của việc gì thì các ngươi hãy suy tính về việc ấy.
– Bạch ngài, xin vâng.
Các cư sĩ ở tại Pāṭaligàma nghe theo đức Thế Tôn đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi. Sau đó, khi các cư sĩ ở tại Pāṭaligàma ra đi không lâu, đức Thế Tôn đã đi vào ngôi nhà trống vắng.
[71] Vào lúc bấy giờ, hai vị quan đại thần của xứ Magadha là Sunīdha và Vassakāra cho xây thành lũy ở trong Pāṭaligàma để ngăn cản người Vajjī. Và đức Thế Tôn, sau khi thức dậy vào lúc hừng sáng của đêm, đã nhìn thấy bằng thiên nhãn thanh tịnh vượt xa loài người nhiều vị trời đang chiếm giữ các khu vực ở trong Pāṭaligàma. Các vị trời có oai lực lớn chiếm giữ khu vực nào thì các vị sai khiến tâm của các quan đại thần của các vị vua có oai lực lớn ở khu vực đó cho xây các dinh thự. Các vị trời có oai lực trung bình chiếm giữ khu vực nào thì các vị sai khiến tâm của các quan đại thần của các vị vua có oai lực trung bình ở khu vực đó cho xây các dinh thự. Các vị trời có oai lực kém chiếm giữ khu vực nào thì các vị sai khiến tâm của các quan đại thần của các vị vua có oai lực kém ở khu vực đó cho xây các dinh thự. Khi ấy, đức Thế Tôn đã bảo đại đức Ānanda rằng:
– Này Ānanda, những ai là người cho xây thành lũy ở Pāṭaligàma vậy?
– Bạch ngài, hai vị quan đại thần của xứ Magadha là Sunīdha và Vassakāra là người cho xây thành lũy ở Pāṭaligàma để ngăn cản người Vajjī.
– Này Ānanda, cũng giống như là đã thỉnh ý với chư thiên ở cõi Tāvatiṃsa (Tam Thập Tam Thiên), này Ānanda, tương tợ như thế hai vị quan đại thần của xứ Magadha là Sunīdha và Vassakāra đã cho xây thành lũy ở Pāṭaligàma để ngăn cản người Vajjī. Này Ānanda, ở đây sau khi thức dậy vào lúc hừng sáng của đêm, ta đã nhìn thấy bằng thiên nhãn thanh tịnh vượt trên loài người nhiều vị trời đang chiếm giữ các khu vực ở trong Pāṭaligàma. Các vị trời có oai lực lớn chiếm giữ khu vực nào thì các vị sai khiến tâm của các quan đại thần của các vị vua có oai lực lớn ở khu vực đó cho xây các dinh thự. Các vị trời có oai lực trung bình chiếm giữ khu vực nào thì các vị sai khiến tâm của các quan đại thần của các vị vua có oai lực trung bình ở khu vực đó cho xây các dinh thự. Các vị trời có oai lực kém chiếm giữ khu vực nào thì các vị sai khiến tâm của các quan đại thần của các vị vua có oai lực kém ở khu vực đó cho xây các dinh thự. Này Ānanda, cho đến tận lãnh thổ của những người Ariyan và đến tận con đường của những nhà thương buôn, Pāṭaliputta này sẽ trở thành thành phố hàng đầu, là nơi phân phối các loại hàng hóa. Này Ānanada, thành Pāṭaliputta sẽ xảy ra ba tai họa hoặc do lửa, hoặc do nước, hoặc do sự chia hai từ trong nội bộ.
[72] Sau đó, hai vị quan đại thần của xứ Magadha là Sunīdha và Vassakāra đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã tỏ vẻ thân thiện với đức Thế Tôn, sau khi trao đổi lời xã giao thân thiện rồi đã đứng ở một bên. Khi đã đứng một bên, hai vị quan đại thần của xứ Magadha là Sunīdha và Vassakāra đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Xin ngài Gotama hãy nhận lời chúng tôi về bữa trai phạn vào ngày mai cùng với hội chúng tỳ khưu.
Đức Thế Tôn đã nhận lời bằng thái độ im lặng. Khi ấy, hai vị quan đại thần của xứ Magadha là Sunīdha và Vassakāra hiểu được sự nhận lời của đức Thế Tôn nên đã ra đi.
Sau đó, hai vị quan đại thần của xứ Magadha là Sunīdha và Vassakāra đã cho chuẩn bị sẵn sàng thức ăn thượng hạng loại cứng loại mềm rồi cho người thông báo thời giờ đến đức Thế Tôn:
– Bạch ngài Gotama, đã đến giờ, thức ăn đã chuẩn bị xong.
Khi ấy vào buổi sáng, đức Thế Tôn đã mặc y, cầm y bát, rồi đi đến nơi phân phối thức ăn của hai vị quan đại thần của xứ Magadha là Sunīdha và Vassakāra, sau khi đến đã ngồi xuống trên chỗ ngồi được sắp đặt sẵn cùng với hội chúng tỳ khưu. Khi ấy, hai vị quan đại thần của xứ Magadha là Sunīdha và Vassakāra đã tự tay làm hài lòng và thỏa mãn hội chúng tỳ khưu có đức Phật đứng đầu với thức ăn thượng hạng loại cứng loại mềm. Đến khi đức Thế Tôn đã thọ thực xong bàn tay đã rời khỏi bình bát, hai vị quan đại thần đã ngồi xuống ở một bên. Đức Thế Tôn đã tùy hỷ công đức cho hai vị quan đại thần của xứ Magadha là Sunīdha và Vassakāra đang ngồi một bên bằng những lời kệ này:
[72]
Ở tại xứ sở nào,
khi đã dâng thức ăn
đến những người có giới,
thu thúc, hành Phạm hạnh,
người ấy sắp trú xứ
cho các bậc trí thức.
Chỗ ấy, chư thiên ngụ
người ấy trọng chư thiên,
chư thiên được cúng dường
sẽ cúng dường người ấy,
chư thiên được cung kỉnh
sẽ cung kỉnh người ấy.
Nhờ vậy, chư thiên ấy
thương mến đến người ấy,
như người mẹ thương xót
con trai ruột của mình,
được chư thiên thương mến
người ấy sẽ thấy được
điều tốt lành luôn luôn.
Sau đó, đức Thế Tôn khi đã tùy hỷ công đức cho hai vị quan đại thần của xứ Magadha là Sunīdha và Vassakāra đang ngồi một bên bằng những lời kệ ấy rồi đã từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi. Vào lúc bấy giờ, hai vị quan đại thần của xứ Magadha là Sunīdha và Vassakāra đã đi theo phía sau đức Thế Tôn (nghĩ rằng): “Hôm nay, Sa-môn Gotama đi ra bằng cửa thành nào thì cửa thành ấy sẽ có tên là Cửa thành Gotama, và băng qua sông Gaṅgā (Hằng-hà) bằng bến tàu nào thì bến tàu ấy sẽ có tên là Bến tàu Gotama.” Sau đó, cửa thành nào mà đức Thế Tôn đã đi ra, cửa thành ấy đã có tên là Cửa thành Gotama. Rồi đức Thế Tôn đã đi đến sông Gaṅgā.
Vào lúc bấy giờ, sông Gaṅgā luôn tràn đầy, mấp mé bờ khiến chim quạ có thể uống nước. Một số dân chúng đi kiếm thuyền, một số đi kiếm xuồng, một số buộc thành chiếc bè với ước muốn đi sang bờ bên kia. Đức Thế Tôn đã nhìn thấy những người ấy, một số đang đi kiếm thuyền, một số đang đi kiếm xuồng, một số đang buộc thành chiếc bè với ước muốn đi sang bờ bên kia. Sau khi nhìn thấy, cũng giống như người đàn ông có sức mạnh có thể duỗi ra cánh tay đã được co lại hoặc có thể co lại cánh tay đã được duỗi ra; tương tợ như thế, đức Thế Tôn đã biến mất tại bờ bên này của sông Gaṅgā và hiện ra đứng ở bờ bên kia cùng với hội chúng tỳ khưu. Sau đó, khi đã hiểu ra sự việc ấy, đức Thế Tôn vào thời điểm ấy đã thốt lên lời cảm hứng này:
Sau khi dựng cây cầu,
vượt qua các hồ nhỏ,
những người nào băng qua
biển cả hoặc ao hồ
người bởi vì loay hoay
buộc thành chiếc bè nhỏ
trong khi các bậc trí
đã vượt đến bờ kia.
[75] Sau đó, đức Thế Tôn đã đi đến Koṭigāma. Tại nơi ấy, đức Thế Tôn ngự tại Koṭigāma. Ở đó, đức Thế Tôn đã bảo các vị tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, do sự không giác ngộ, không thấu triệt được bốn Chân Lý Cao Thượng, chính vì như thế mà ngay cả ta và các ngươi đã trải qua, đã luân hồi thời gian dài thăm thẳm. Bốn điều ấy là gì? Này các tỳ khưu, do sự không giác ngộ, không thấu triệt được Chân Lý Cao Thượng của Khổ, chính vì như thế mà ngay cả ta và các ngươi đã trải qua, đã luân hồi thời gian dài thăm thẳm. …(như trên)… Chân Lý Cao Thượng của Nguồn Gốc Sanh Khởi của Khổ, …(như trên)… Chân Lý Cao Thượng của Sự Chấm Dứt của Khổ, …(như trên)… Chân Lý Cao Thượng của Sự Thực Hành đưa đến Sự Chấm Dứt của Khổ, chính vì như thế mà ngay cả ta và các ngươi đã trải qua, đã luân hồi thời gian dài thăm thẳm.
Này các tỳ khưu, khi Chân Lý Cao Thượng của Khổ này đã được giác ngộ đã được thấu triệt, Chân Lý Cao Thượng của Nguồn Gốc Sanh Khởi của Khổ đã được giác ngộ đã được thấu triệt, Chân Lý Cao Thượng của Sự Chấm Dứt của Khổ đã được giác ngộ đã được thấu triệt, Chân Lý Cao Thượng của Sự Thực Hành đưa đến Sự Chấm Dứt của Khổ đã được giác ngộ đã được thấu triệt, sự khao khát về sự tái sanh đã được cắt đứt, lối đưa đến sự tái sanh đã cạn kiệt, giờ đây không còn sự tái sanh lần nữa.
[76]
Không thấy được như thật
bốn Chân Lý Cao Thượng
luân hồi dài thăm thẳm
sanh kiếp này kiếp khác.
Những điều ấy thấy được
lối tái sanh không còn,
nguồn sanh khổ đã đoạn
sanh lại nay hết rồi.
[77] Nàng kỷ nữ Ambapālī đã nghe rằng: “Nghe nói đức Thế Tôn đã ngự đến Koṭigāma.” Sau đó, nàng kỷ nữ Ambapālī đã cho thắng (ngựa vào) những cỗ xe vô cùng lộng lẫy, rồi bước lên cỗ xe vô cùng lộng lẫy, sau đó rời khỏi thành Vesālī (Vệ Xá) bằng những cỗ xe vô cùng lộng lẫy để diện kiến đức Thế Tôn. Sau khi đã đi hết khoảng đường dành cho cỗ xe, nàng đã xuống xe rồi bằng chính đôi chân đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Đức Thế Tôn đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho nàng kỷ nữ Ambapālī đang ngồi một bên bằng bài Pháp thoại. Sau đó, khi đã được đức Thế Tôn chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi bằng bài Pháp thoại, nàng kỷ nữ Ambapālī đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, xin đức Thế Tôn cùng với hội chúng Tỳ khưu nhận lời bữa thọ trai vào ngày mai của con.
Đức Thế Tôn đã nhận lời bằng thái độ im lặng. Khi ấy, nàng kỷ nữ Ambapālī hiểu được sự nhận lời của đức Thế Tôn nên đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi.
Các vương tử dòng Licchavi ở Vesālī đã nghe rằng: “Nghe nói đức Thế Tôn đã ngự đến Koṭigāma.” Sau đó, các vương tử dòng Licchavi ở Vesālī đã cho thắng (ngựa vào) những cỗ xe vô cùng lộng lẫy, rồi bước lên cỗ xe vô cùng lộng lẫy, sau đó rời khỏi thành Vesālī bằng những cỗ xe vô cùng lộng lẫy để diện kiến đức Thế Tôn. Một số các vị vương tử dòng Licchavi chuộng màu xanh, có vẻ bên ngoài màu xanh, y phục màu xanh, đồ trang sức màu xanh. Một số các vị vương tử dòng Licchavi chuộng màu vàng, có vẻ bên ngoài màu vàng, y phục màu vàng, đồ trang sức màu vàng. Một số các vị vương tử dòng Licchavi chuộng màu đỏ, có vẻ bên ngoài màu đỏ, y phục màu đỏ, đồ trang sức màu đỏ. Một số các vị vương tử dòng Licchavi chuộng màu trắng, có vẻ bên ngoài màu trắng, y phục màu trắng, đồ trang sức màu trắng. Khi ấy, nàng kỷ nữ Ambapālī di chuyển song song gọng xe với gọng xe, càng xe với càng xe, bánh xe với bánh xe, trục bánh xe với trục bánh xe của các vương tử rất trẻ tuổi dòng Licchavi. Khi ấy, các vương tử dòng Licchavi ấy đã nói với nàng kỷ nữ Ambapālī điều này:
– Này nàng Ambapālī, vì sao nàng lại di chuyển song song gọng xe với gọng xe, càng xe với càng xe, bánh xe với bánh xe, trục bánh xe với trục bánh xe của các vương tử rất trẻ tuổi dòng Licchavi của chúng tôi vậy?
– Này các cậu công tử, chính là vì tôi đã thỉnh mời được hội chúng tỳ khưu có đức Phật đứng đầu vào ngày mai.
– Này nàng Ambapālī, hãy nhường lại cho chúng tôi bữa thọ trai ấy với giá một trăm ngàn.
– Này các cậu công tử, cho dù các cậu chịu nhường lại thành Vesālī luôn cả dân cư cho tôi, tôi cũng không chịu nhường lại bữa thọ trai ấy.
Khi ấy, các vương tử dòng Licchavi ấy đã búng ngón tay (nói rằng):
– Đúng là cô nàng vườn xoài đã cho chúng ta đo ván rồi! Đúng là cô nàng vườn xoài đã cho chúng ta đo ván rồi!
Sau đó, các vương tử dòng Licchavi ấy đã đi đến gặp đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn đã nhìn thấy các vương tử dòng Licchavi ấy từ đàng xa đang đi lại, sau khi nhìn thấy đã bảo các vị tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, chư thiên ở cõi Tāvatiṃsa chưa được các tỳ khưu nhìn thấy trước đây. Này các tỳ khưu, hãy nhìn tập thể các vương tử dòng Licchavi. Này các tỳ khưu, hãy nhìn tập thể các vương tử dòng Licchavi. Này các tỳ khưu, hãy so sánh tập thể các vương tử dòng Licchavi với tập thể chư thiên cõi Tāvatiṃsa.
Khi ấy, sau khi đã đi hết khoảng đường dành cho cỗ xe, các vương tử dòng Licchavi ấy đã xuống xe rồi bằng chính đôi chân đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Đức Thế Tôn đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho các vương tử dòng Licchavi ấy đang ngồi một bên bằng bài Pháp thoại. Sau đó, khi đã được đức Thế Tôn chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi bằng bài Pháp thoại, các vương tử dòng Licchavi ấy đã nói đã với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, xin đức Thế Tôn cùng với hội chúng Tỳ khưu nhận lời bữa thọ trai vào ngày mai của chúng con.
– Này các vị Licchavi, ta đã nhận lời nàng kỷ nữ Ambapālī về bữa thọ trai vào ngày mai rồi.
Khi ấy, các vương tử dòng Licchavi ấy đã búng ngón tay (nói rằng):
– Đúng là cô nàng vườn xoài đã cho chúng ta đo ván rồi! Đúng là cô nàng vườn xoài đã cho chúng ta đo ván rồi!
Sau đó, khi đã được hoan hỷ và thỏa mãn với lời nói của đức Thế Tôn, các vương tử dòng Licchavi ấy đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi.
Sau đó, khi đã ngự tại Koṭigāma như ý thích, đức Thế Tôn đã đi đến Nādikā. Tại nơi ấy ở Nākikā, đức Thế Tôn ngự trong căn nhà bằng gạch.
Sau đó, khi trải qua đêm ấy nàng kỷ nữ Ambapālī đã cho chuẩn bị sẵn sàng thức ăn thượng hạng loại cứng loại mềm trong khu vườn của mình rồi cho người thông báo thời giờ đến đức Thế Tôn:
– Bạch ngài, đã đến giờ, thức ăn đã chuẩn bị xong.
Khi ấy vào buổi sáng, đức Thế Tôn đã mặc y, cầm y bát, rồi đi đến chỗ dâng cúng vật thực của nàng kỷ nữ Ambapālī, sau khi đến đã ngồi xuống trên chỗ ngồi được sắp đặt sẵn cùng với hội chúng tỳ khưu. Sau đó, nàng kỷ nữ Ambapālī đã tự tay làm hài lòng và thỏa mãn hội chúng tỳ khưu có đức Phật đứng đầu với thức ăn thượng hạng loại cứng loại mềm. Đến khi đức Thế Tôn đã thọ thực xong bàn tay đã rời khỏi bình bát, nàng đã ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, nàng kỷ nữ Ambapālī đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, con xin dâng khu vườn Ambapāli này đến hội chúng tỳ khưu có đức Phật đứng đầu.
Đức Thế Tôn đã thọ nhận khu vườn. Sau đó, đức Thế Tôn đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho nàng kỷ nữ Ambapālī bằng bài Pháp thoại rồi đã từ chỗ ngồi đứng dậy và đi đến Mahāvana (Đại Lâm). Tại nơi ấy ở Vesālī, đức Thế Tôn ngự tại Mahāvana, giảng đường Kūṭāgāra.
Dứt tụng phẩm “Licchavi.”
[78] Vào lúc bấy giờ, các vương tử dòng Licchavi rất nổi tiếng tụ hội lại ngồi chung trong nhà hội họp rồi tán thán đức Phật, tán thán đức Pháp, tán thán đức Tăng bằng nhiều phương thức. Vào lúc bấy giờ, tướng quân Sīha là đệ tử của Nigaṇṭha đang ngồi trong tập thể ấy. Khi ấy, tướng quân Sīha đã khởi ý điều này: “Không còn nghi ngờ gì nữa đức Thế Tôn ấy phải là bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác bởi vì chính các vương tử dòng Licchavi rất nổi tiếng này khi tụ hội lại ngồi chung trong nhà hội họp đều tán thán đức Phật, tán thán đức Pháp, tán thán đức Tăng bằng nhiều phương thức; có lẽ ta nên đi đến để diện kiến đức Thế Tôn là bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác ấy?” Sau đó, tướng quân Sīha đã đi đến gặp Nigaṇṭha Nāṭaputta,[13] sau khi đến đã đảnh lễ Nigaṇṭha Nāṭaputta rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, tướng quân Sīha đã nói với Nigaṇṭha Nāṭaputta điều này:
– Thưa ngài, tôi muốn đi đến để diện kiến Sa-môn Gotama.
– Này Sīha, ngươi là người theo thuyết hành động, sao lại đi đến diện kiến Sa-môn Gotama là người thuyết về không hành động? Này Sīha, chính Sa-môn Gotama là người thuyết về không hành động, giảng về pháp không hành động, và huấn luyện các đệ tử với điều ấy.
Khi ấy, ước muốn đi đến để diện kiến đức Thế Tôn của tướng quân Sīha đã được lắng dịu đi.
Đến lần thứ nhì, …(như trên)…
Đến lần thứ ba, các vương tử dòng Licchavi rất nổi tiếng tụ hội lại ngồi chung trong nhà hội họp rồi tán thán đức Phật, tán thán đức Pháp, tán thán đức Tăng bằng nhiều phương thức. Đến lần thứ ba tướng quân Sīha đã khởi ý điều này: “Không còn nghi ngờ gì nữa đức Thế Tôn ấy phải là bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác bởi vì chính các vương tử dòng Licchavi rất nổi tiếng này khi tụ hội lại ngồi chung trong nhà hội họp đều tán thán đức Phật, tán thán đức Pháp, tán thán đức Tăng bằng nhiều phương thức. Những người Nigaṇṭha dầu có được hỏi ý kiến hay không được hỏi ý kiến thì sẽ làm được điều gì đối với ta? Có lẽ ta không cần hỏi ý kiến các Nigaṇṭha và nên đi đến để diện kiến đức Thế Tôn là bậc A-la-hán Chánh Đẳng Giác ấy?”
Sau đó, tướng quân Sīha cùng với năm trăm cỗ xe đã rời thành Vesālī vào ban ngày để diện kiến đức Thế Tôn. Sau khi đi hết khoảng đường dành cho cỗ xe, tướng quân Sīha đã xuống xe rồi bằng chính đôi chân đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi ngồi xuống một bên, tướng quân Sīha đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, tôi được nghe rằng: “Sa-môn Gotama là người thuyết về không hành động, giảng về pháp không hành động, và huấn luyện các đệ tử với điều ấy.” Bạch ngài, những người nào đã nói như vầy: “Sa-môn Gotama là người thuyết về không hành động, giảng về pháp không hành động, và huấn luyện các đệ tử với điều ấy,” bạch ngài, phải chăng những người ấy nói đúng về đức Thế Tôn, không gièm pha đức Thế Tôn với sự sai trái, và tuyên bố về pháp phù hợp với Pháp (của ngài) không? Và có phải bất cứ người nào sống theo pháp có lời nói hợp với giáo lý đều không có cơ sở để chê bai? Bạch ngài, chúng tôi thật tình không có ý lên án đức Thế Tôn.
[79] – Này Sīha, có pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách đúng đắn về ta, có thể nói rằng: “Sa-môn Gotama là người thuyết về không hành động, giảng về pháp không hành động, và huấn luyện các đệ tử với điều ấy.”
Này Sīha, có pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách đúng đắn về ta, có thể nói rằng: “Sa-môn Gotama là người thuyết về hành động, giảng về pháp hành động, và huấn luyện các đệ tử với điều ấy.”
Này Sīha, có pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách đúng đắn về ta, có thể nói rằng: “Sa-môn Gotama là người thuyết về đoạn diệt, giảng về pháp đoạn diệt, và huấn luyện các đệ tử với điều ấy.”
Này Sīha, có pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách đúng đắn về ta, có thể nói rằng: “Sa-môn Gotama là người có sự ghê tởm, giảng về pháp ghê tởm, và huấn luyện các đệ tử với điều ấy.”
Này Sīha, có pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách đúng đắn về ta, có thể nói rằng: “Sa-môn Gotama là người từ bỏ, giảng về pháp từ bỏ, và huấn luyện các đệ tử với điều ấy.”
Này Sīha, có pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách đúng đắn về ta, có thể nói rằng: “Sa-môn Gotama là người thiêu đốt, giảng về pháp thiêu đốt, và huấn luyện các đệ tử với điều ấy.”
Này Sīha, có pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách đúng đắn về ta, có thể nói rằng: “Sa-môn Gotama là người thoát khỏi thai bào, giảng về pháp thoát khỏi thai bào, và huấn luyện các đệ tử với điều ấy.”
Này Sīha, có pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách đúng đắn về ta, có thể nói rằng: “Sa-môn Gotama là người tự tin, giảng về pháp tự tin, và huấn luyện các đệ tử với điều ấy.”
Này Sīha, thế nào là pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách đúng đắn về ta, có thể nói rằng: “Sa-môn Gotama là người thuyết về không hành động, giảng về pháp không hành động, và huấn luyện các đệ tử với điều ấy”? Này Sīha, bởi vì ta giảng về không hành động của thân làm ác, của miệng nói ác, của ý nghĩ ác; ta giảng về không hành động của các pháp ác bất thiện có nhiều dạng. Này Sīha, đây là pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách đúng đắn về ta, có thể nói rằng: “Sa-môn Gotama là người thuyết về không hành động, giảng về pháp không hành động, và huấn luyện các đệ tử với điều ấy.”
Này Sīha, thế nào là pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách đúng đắn về ta, có thể nói rằng: “Sa-môn Gotama là người thuyết về hành động, giảng về pháp hành động, và huấn luyện các đệ tử với điều ấy”? Này Sīha, bởi vì ta giảng về hành động của thân làm thiện, của miệng nói thiện, của ý nghĩ thiện; ta giảng về hành động của các thiện pháp dưới nhiều dạng. Này Sīha, đây là pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách đúng đắn về ta, có thể nói rằng: “Sa-môn Gotama là người thuyết về hành động, giảng về pháp hành động, và huấn luyện các đệ tử với điều ấy.”
Này Sīha, thế nào là pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách đúng đắn về ta, có thể nói rằng: “Sa-môn Gotama là người thuyết về đoạn diệt, giảng về pháp đoạn diệt, và huấn luyện các đệ tử với điều ấy”? Này Sīha, bởi vì ta giảng về sự đoạn diệt của luyến ái, của sân, của si; ta giảng về sự đoạn diệt của các pháp ác bất thiện có nhiều dạng. Này Sīha, đây là pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách đúng đắn về ta, có thể nói rằng: “Sa-môn Gotama là người thuyết về đoạn diệt, giảng về pháp đoạn diệt, và huấn luyện các đệ tử với điều ấy.”
Này Sīha, thế nào là pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách đúng đắn về ta, có thể nói rằng: “Sa-môn Gotama là người có sự ghê tởm, giảng về pháp ghê tởm, và huấn luyện các đệ tử với điều ấy”? Này Sīha, bởi vì ta ghê tởm với việc làm ác của thân, với lờì nói ác của miệng, với suy nghĩ ác của ý; ta giảng pháp về điều ghê tởm trong sự tạo thành các pháp ác bất thiện có nhiều dạng. Này Sīha, đây là pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách đúng đắn về ta, có thể nói rằng: “Sa-môn Gotama là người có sự ghê tởm, giảng về pháp ghê tởm, và huấn luyện các đệ tử với điều ấy.”
Này Sīha, thế nào là pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách đúng đắn về ta, có thể nói rằng: “Sa-môn Gotama là người từ bỏ, giảng về pháp từ bỏ, và huấn luyện các đệ tử với điều ấy”? Này Sīha, bởi vì ta giảng pháp về sự từ bỏ luyến ái, sân, si; ta giảng pháp về sự từ bỏ các pháp ác bất thiện có nhiều dạng. Này Sīha, đây là pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách đúng đắn về ta, có thể nói rằng: “Sa-môn Gotama là người từ bỏ, giảng về pháp từ bỏ, và huấn luyện các đệ tử với điều ấy.”
Này Sīha, thế nào là pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách đúng đắn về ta, có thể nói rằng: “Sa-môn Gotama là người thiêu đốt, giảng về pháp thiêu đốt, và huấn luyện các đệ tử với điều ấy”? Này Sīha, ta giảng về các pháp ác và bất thiện là việc làm ác của thân, lờì nói ác của miệng, suy nghĩ ác của ý cần được thiêu đốt. Này Sīha, người nào có các pháp ác và bất thiện cần được thiêu đốt đã được diệt tận, các rễ đã được cắt lìa, như cây thốt nốt đã bị bứng gốc, đã bị làm cho không còn sự sống, không còn các điều kiện sanh khởi trong tương lai; ta gọi người ấy là: “Người thiêu đốt.” Này Sīha, các pháp ác và bất thiện cần được thiêu đốt của Như Lai đã được diệt tận, các rễ đã được cắt lìa, như cây thốt nốt đã bị bứng gốc, đã bị làm cho không còn sự sống, không còn các điều kiện sanh khởi trong tương lai. Này Sīha, đây là pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách đúng đắn về ta, có thể nói rằng: “Sa-môn Gotama là người thiêu đốt, giảng về pháp thiêu đốt, và huấn luyện các đệ tử với điều ấy.”
Này Sīha, thế nào là pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách đúng đắn về ta, có thể nói rằng: “Sa-môn Gotama là người thoát khỏi thai bào, giảng về pháp thoát khỏi thai bào, và huấn luyện các đệ tử với điều ấy”? Này Sīha, sự sanh vào bào thai trong ngày vị lai của người nào, tức là sự tái sanh và hiện hữu lần nữa đã được diệt tận, các rễ đã được cắt lìa, như cây thốt nốt đã bị bứng gốc, đã bị làm cho không còn sự sống, không còn các điều kiện sanh khởi trong tương lai; ta gọi người ấy là: “Người thoát khỏi thai bào.” Này Sīha, sự sanh vào bào thai trong ngày vị lai của Như Lai, tức là sự hiện hữu lần nữa và là sự tái sanh đã được diệt tận, các rễ đã được cắt lìa, như cây thốt nốt đã bị bứng gốc, đã bị làm cho không còn sự sống, không còn các điều kiện sanh khởi trong tương lai. Này Sīha, đây là pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách đúng đắn về ta, có thể nói rằng: “Sa-môn Gotama là người thoát khỏi thai bào, giảng về pháp thoát khỏi thai bào, và huấn luyện các đệ tử với điều ấy.”
Này Sīha, thế nào là pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách đúng đắn về ta, có thể nói rằng: “Sa-môn Gotama là người tự tin, giảng về pháp tự tin, và huấn luyện các đệ tử với điều ấy”? Này Sīha, bởi vì ta là người tự tin, ta giảng về sự tự tin với sự tự tin tối thượng, và huấn luyện các đệ tử với điều ấy. Này Sīha, đây là pháp môn mà với pháp môn ấy, trong khi nói một cách đúng đắn về ta, có thể nói rằng: “Sa-môn Gotama là người tự tin, giảng về pháp tự tin, và huấn luyện các đệ tử với điều ấy.”
[80] Khi được nói như thế, tướng quân Sīha đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, thật là tuyệt vời! Bạch ngài, thật là tuyệt vời! Bạch ngài, giống như người có thể lật ngửa vật đã được úp lại, mở ra vật đã bị che kín, chỉ đường cho kẻ lạc lối, đem lại cây đèn dầu nơi bóng tối (nghĩ rằng): “Những ai có mắt sẽ thấy được các hình dáng;” tương tợ như thế, Pháp đã được đức Thế Tôn chỉ rõ bằng nhiều phương tiện. Bạch ngài, con đây xin quy y đức Thế Tôn, Giáo Pháp, và Hội chúng tỳ khưu. Xin đức Thế Tôn chấp nhận con là nam cư sĩ đã được quy y kể từ hôm nay cho đến trọn đời.
– Này Sīha, ông hãy tiến hành việc suy xét, việc suy xét đối với những người nổi tiếng như ông là tốt đẹp.
– Bạch ngài, với lời nói này của đức Thế Tôn con càng thêm hoan hỷ và phấn khởi bởi vì đức Thế Tôn đã nói với con như vầy: “Này Sīha, ông hãy tiến hành việc suy xét, việc suy xét đối với những người nổi tiếng như ông là tốt đẹp.” Bạch ngài, bởi vì các ngoại đạo sau khi thâu nhận con làm đệ tử có thể vác cờ đi khắp cả Vesālī (rêu rao) rằng: “Tướng quân Sīha đã tự nguyện trở thành đệ tử của chúng tôi!” thế mà đức Thế Tôn đã nói với con như vầy: “Này Sīha, ông hãy tiến hành việc suy xét, việc suy xét đối với những người nổi tiếng như ông là tốt đẹp.” Bạch ngài, lần thứ nhì con đây xin quy y đức Thế Tôn, Giáo Pháp, và Hội chúng tỳ khưu. Xin đức Thế Tôn chấp nhận con là nam cư sĩ đã được quy y kể từ hôm nay cho đến trọn đời.
– Này Sīha, lâu nay gia đình ông là nguồn nước cho những người Nigaṇṭha, vì thế ông nên suy nghĩ đến việc vật thực cần được bố thí cho những người đã đi đến ấy.
– Bạch ngài, với lời nói này của đức Thế Tôn con càng thêm hoan hỷ và phấn khởi bởi vì đức Thế Tôn đã nói với con như vầy: “Này Sīha, lâu nay gia đình ông là nguồn nước cho những người Nigaṇṭha, vì thế ông nên suy nghĩ đến việc vật thực cần được bố thí cho những người đã đi đến ấy.” Bạch ngài, con đã được nghe điều này: “Sa-môn Gotama nói như vầy: ‘Vật cúng dường chỉ nên dâng đến ta thôi, vật cúng dường không nên dâng đến những người khác. Vật cúng dường chỉ nên dâng đến các đệ tử của ta thôi, vật cúng dường không nên dâng đến các đệ tử của những người khác. Đã dâng đến riêng ta thôi thì có quả báu lớn, đã dâng đến những người khác thì không có quả báu lớn. Đã dâng đến các đệ tử của riêng ta thôi thì có quả báu lớn, đã dâng đến các đệ tử của những người khác thì không có quả báu lớn,’” thế mà đức Thế Tôn lại khuyến khích con việc bố thí cho những người Nigaṇṭha. Bạch ngài, vả lại trong trường hợp này chúng con sẽ biết thời điểm. Bạch ngài, lần thứ ba con đây xin quy y đức Thế Tôn, Giáo Pháp, và Hội chúng tỳ khưu. Xin đức Thế Tôn chấp nhận con là nam cư sĩ đã được quy y kể từ hôm nay cho đến trọn đời.
Sau đó, đức Thế Tôn đã thuyết Pháp theo thứ lớp đến tướng quân Sīha. Tức là ngài đã giảng giải bài thuyết về bố thí, bài thuyết về giới cấm, bài thuyết về cõi trời, sự ô nhiễm hạ liệt tai hại của các dục, sự lợi ích của việc xuất ly. Khi đức Thế Tôn biết được tâm của tướng quân Sīha đã sẵn sàng, dễ uốn nắn, không còn chướng ngại, hướng thượng, tĩnh lặng, ngài đã phô bày Pháp thuyết giảng đã được chư Phật khai mở là: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Cũng giống như tấm vải sạch chưa bị vết nhơ có thể nhuộm màu một cách toàn vẹn; tương tợ như thế, ngay tại chỗ ngồi ấy Pháp nhãn không nhiễm bụi trần, không vết nhơ đã sanh khởi đến tướng quân Sīha: “Điều gì có bản tánh được sanh lên, toàn bộ điều ấy đều có bản tánh hoại diệt.”
Sau đó, khi đã thấy được Pháp, đã thành tựu được Pháp, đã hiểu được Pháp, đã thấm nhuần Pháp, hoài nghi đã không còn, sự lưỡng lự đã dứt hẳn, đã thành tựu niềm tin vào Giáo Pháp của bậc đạo sư, không còn cần sự trợ duyên của người khác, tướng quân Sīha đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, xin đức Thế Tôn và hội chúng tỳ khưu nhận lời bữa trai phạn của con vào ngày mai.
Đức Thế Tôn đã nhận lời bằng thái độ im lặng. Khi ấy, tướng quân Sīha hiểu được sự nhận lời của đức Thế Tôn nên đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi.
Sau đó, tướng quân Sīha đã ra lệnh cho người đàn ông nọ rằng:
– Này khanh, hãy đi và tìm (mua) loại thịt đã được làm sẵn (pavattamaṃsaṃ).
Sau đó, khi trải qua đêm ấy tướng quân Sīha đã cho chuẩn bị sẵn sàng thức ăn thượng hạng loại cứng loại mềm rồi cho người thông báo thời giờ đến đức Thế Tôn:
– Bạch ngài, đã đến giờ, thức ăn đã chuẩn bị xong.
Khi ấy vào buổi sáng, đức Thế Tôn đã mặc y, cầm y bát, rồi đi đến tư dinh của tướng quân Sīha, sau khi đến đã ngồi xuống trên chỗ ngồi được sắp đặt sẵn cùng với hội chúng tỳ khưu. Vào lúc bấy giờ, có nhiều người Nigaṇṭha, từ đường phố (này) đến đường phố (khác) từ giao lộ (này) đến giao lộ (khác), huơ tay kêu gào rằng: “Hôm nay, tướng quân Sīha đã giết con thú lớn và làm bữa trai phạn cho Sa-môn Gotama. Sa-môn Gotama tuy biết được điều ấy, vẫn cố tình thọ dụng thịt được làm với sự xác định (người thọ dụng); (đó là) nghiệp có tính cách liên đới.” Sau đó, có người đàn ông nọ đã đi đến gặp tướng quân Sīha, sau khi đến đã thì thầm vào tai của tướng quân Sīha rằng:
– Thưa tướng quân, ngài cần biết điều này. Những người Nigaṇṭha ấy, từ đường phố (này) đến đường phố (khác) từ giao lộ (này) đến giao lộ (khác), huơ tay kêu gào rằng: “Hôm nay, tướng quân Sīha đã giết con thú lớn và đã làm bữa trai phạn cho Sa-môn Gotama. Sa-môn Gotama vẫn cố tình thọ dụng thịt được làm với sự xác định (người thọ dụng); (đó là) nghiệp có tính cách liên đới.”
– Ông bạn ơi, thôi đi! Đã từ lâu nay, các ngài đại đức ấy có ý muốn phỉ báng đức Phật, có ý muốn phỉ báng đức Pháp, có ý muốn phỉ báng đức Tăng nhưng các ngài đại đức ấy không lượng sức, phí công, láo khoét, đã vu khống với điều không thật mà vẫn không làm tổn hại được đức Thế Tôn ấy. Và cho dầu vì lý do sống còn, chúng tôi cũng không cố ý tước đoạt mạng sống của chúng sanh.
Sau đó, tướng quân Sīha đã tự tay làm hài lòng và thỏa mãn hội chúng tỳ khưu có đức Phật đứng đầu với thức ăn thượng hạng loại cứng loại mềm. Đến khi đức Thế Tôn đã thọ thực xong bàn tay đã rời khỏi bình bát, tướng quân Sīha đã ngồi xuống ở một bên. Khi ấy, đức Thế Tôn đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho tướng quân Sīha đang ngồi một bên bằng bài Pháp thoại, rồi đã từ chỗ ngồi đứng dậy, và ra đi.
Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, khi biết thịt được làm (giết) có liên quan (đến bản thân) không nên thọ dụng; vị nào thọ dụng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, ta cho phép (thọ dụng) cá và thịt có được ba điều tuyệt đối thanh tịnh: không được thấy, không được nghe, không nghi ngờ.[14]
[81] Vào lúc bấy giờ, thành Vesālī có sự sung túc về vật thực, các vụ mùa tốt đẹp, vật thực kiếm được dễ dàng, sự sinh sống được dễ dàng bằng sự mót nhặt hoặc sự tốt bụng (của người khác). Vào lúc bấy giờ, đức Thế Tôn trong lúc thiền tịnh ở nơi thanh vắng có ý nghĩ suy tầm như vầy đã sanh khởi: “Những điều gì mà ta đã cho phép các tỳ khưu trong lúc khó khăn về vật thực, mùa màng bị thất thu, vật thực kiếm được khó khăn như là (vật thực) đã được chuẩn bị ở trong khuôn viên, đã được nấu ở trong khuôn viên, đã được tự mình nấu, do việc thọ lãnh (trái cây) đã được nhặt lên, (vật thực) đã được đem lại từ chỗ đã ăn xong, đã được thọ lãnh trước bữa ăn, đã được mọc ở rừng (hoặc) đã được mọc ở hồ nước, và phải chăng ngay cả hôm nay các tỳ khưu vẫn còn thọ dụng những thứ ấy?”
Sau đó vào lúc chiều tối, khi xuất khỏi thiền tịnh đức Thế Tôn đã bảo đại đức Ānanda rằng:
– Này Ānanda, những điều gì mà ta đã cho phép các tỳ khưu trong lúc khó khăn về vật thực, mùa màng bị thất thu, vật thực kiếm được khó khăn như là (vật thực) đã được chuẩn bị ở trong khuôn viên, đã được nấu ở trong khuôn viên, đã được tự mình nấu, do việc thọ lãnh (trái cây) đã được nhặt lên, đã được đem lại từ chỗ đã ăn xong, đã được thọ lãnh trước bữa ăn, đã được mọc ở rừng (hoặc) đã được mọc ở hồ nước, và phải chăng ngay cả hôm nay các tỳ khưu vẫn còn thọ dụng những thứ ấy?
– Bạch đức Thế Tôn, các vị vẫn thọ dụng.
Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, những điều gì mà ta đã cho phép các tỳ khưu trong lúc khó khăn về vật thực, mùa màng bị thất thu, vật thực kiếm được khó khăn như là (vật thực) đã được chuẩn bị ở trong khuôn viên, đã được nấu ở trong khuôn viên, đã được tự mình nấu, do việc thọ lãnh (trái cây) đã được nhặt lên, (vật thực) đã được đem lại từ chỗ đã ăn xong, đã được thọ lãnh trước bữa ăn, đã được mọc ở rừng (hoặc) đã được mọc ở hồ nước, kể từ hôm nay ta hủy bỏ những điều ấy. Này các tỳ khưu, không nên thọ dụng (vật thực) đã được chuẩn bị ở trong khuôn viên, đã được nấu ở trong khuôn viên, đã được tự mình nấu, do việc thọ lãnh (trái cây) đã được nhặt lên; vị nào thọ dụng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, không nên thọ dụng (vật thực) đã được đem lại từ chỗ đã ăn xong, đã được thọ lãnh trước bữa ăn, đã được mọc ở rừng (hoặc) đã được mọc ở hồ nước; vị nào thọ dụng thì nên được hành xử theo Pháp.[15]
[82] Vào lúc bấy giờ, dân chúng trong xứ sở cho người chất lên các xe hàng nhiều muối, dầu ăn, gạo lức, và vật thực loại cứng rồi đánh xe quây thành vòng tròn ở phía bên ngoài cổng lớn của tu viện và chờ đợi (nghĩ rằng): “Khi nào chúng tôi nhận được phiên, chúng tôi sẽ thực hiện bữa trai phạn.” Và có đám mây đen lớn kéo đến. Khi ấy, những người ấy đã đi đến gặp đại đức Ānanda, sau khi đến đã nói với đại đức Ānanda điều này:
– Thưa ngài Ānanda, ở đây nhiều muối, dầu ăn, gạo lức, và vật thực loại cứng đã được chất trong các xe hàng và chúng đang còn đó. Giờ có đám mây đen lớn kéo đến. Thưa ngài Ānanda, vậy chúng tôi nên thực hành như thế nào?
Khi ấy, đại đức Ānanda đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này Ānanda, như thế thì hội chúng hãy chỉ định trú xá ở ven rào là khu vực làm thành được phép (kappiyabhūmi); hãy tích trữ (vāsetu) vật mà hội chúng mong muốn ở nơi ấy, (có thể) là trú xá (vihāraṃ), hoặc nhà một mái (aḍḍhayogaṃ), hoặc tòa nhà dài (pāsādaṃ), hoặc khu nhà lớn (hammiyaṃ), hoặc hang động (guhaṃ). Và này các tỳ khưu, nên được chỉ định như vầy:
Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên chỉ định trú xá tên (như vầy) là khu vực làm thành được phép. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Hội chúng chỉ định trú xá tên (như vầy) là khu vực làm thành được phép. Đại đức nào đồng ý việc chỉ định trú xá tên (như vầy) là khu vực làm thành được phép xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Trú xá tên (như vầy) đã được hội chúng chỉ định là khu vực làm thành được phép. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
Vào lúc bấy giờ, ngay tại chỗ đã được chỉ định là khu vực làm thành được phép, dân chúng nấu các loại cháo, nấu các món thức ăn, chuẩn bị các món xúp, băm các thứ thịt, chẻ những thanh củi. Sau khi thức dậy vào lúc hừng sáng của đêm, đức Thế Tôn đã nghe tiếng ồn ào, tiếng ầm ĩ, tiếng kêu của những con quạ, sau khi nghe đã hỏi đại đức Ānanda rằng:
– Này Ānanda, tiếng ồn ào, tiếng ầm ĩ ấy, tiếng kêu của những con quạ là gì vậy?
– Bạch ngài, hiện nay dân chúng nấu các loại cháo, nấu các món thức ăn, chuẩn bị các món xúp, băm các thứ thịt, chẻ những thanh củi ngay tại chỗ đã được chỉ định là khu vực làm thành được phép; bạch Thế Tôn, đó chính là tiếng ồn ào, tiếng ầm ĩ, tiếng kêu của những con quạ.
Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, không nên sử dụng khu vực làm thành được phép đã được chỉ định; vị nào sử dụng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, ta cho phép ba loại khu vực làm thành được phép là loại do sự công bố (ussāvanantikaṃ), loại do sự ngẫu nhiên (gonisādikaṃ), và loại có liên quan gia chủ (gahapatikaṃ).
Vào lúc bấy giờ, đại đức Yasoja bị bệnh. Các dược phẩm thuộc về nhu cầu của vị ấy được mang đến. Các vị tỳ khưu đã tích trữ chúng ở ngoài khuôn viên. Các con thú hoang đã ăn đi. Những kẻ trộm đã lấy đi. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép sử dụng khu vực làm thành được phép đã được chỉ định. Này các tỳ khưu, ta cho phép bốn loại khu vực làm thành được phép là loại do sự công bố (ussāvanantikaṃ), loại do sự ngẫu nhiên (gonisādikaṃ), loại có liên quan đến gia chủ (gahapatikaṃ), và loại đã được chỉ định (sammatikaṃ).
[83] Vào lúc bấy giờ, gia chủ Meṇḍaka cư ngụ ở thành phố Bhaddiya. Vị ấy có năng lực thần thông như vầy: Sau khi gội rửa đầu và bảo người quét kho lúa rồi vị ấy ngồi xuống ở bên ngoài cánh cửa thì có trận mưa thóc từ trên trời rơi xuống và làm ngập đầy kho lúa. Người vợ có năng lực thần thông như vầy: Sau khi ngồi xuống bên cạnh cái tô bằng kim loại dung tích chỉ một āḷhaka và có một phần xúp, nàng phân phát thức ăn cho nô tỳ, người làm công, và người hầu; cho đến khi nào nàng chưa đứng dậy thì cái tô vẫn không hết. Cậu con trai có năng lực thần thông như vầy: Sau khi cầm cái túi chỉ chứa một ngàn đồng, cậu ta trả lương sáu tháng cho nô tỳ, người làm công, và người hầu; cho đến khi nào tay của cậu ta chưa rời khỏi thì cái túi vẫn không cạn (tiền). Cô con dâu có năng lực thần thông như vầy: Sau khi ngồi xuống bên cạnh chỉ một cái giỏ có dung tích bốn doṇi, nàng cho nô tỳ, người làm công, và người hầu thức ăn sáu tháng; cho đến khi nào nàng chưa đứng dậy thì cái giỏ vẫn không cạn. Người tớ trai có năng lực thần thông như vầy: Khi anh ta kéo cày một đường thì bảy luống cày xuất hiện.
Đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã nghe rằng: “Nghe nói trong vương quốc của chúng ta có gia chủ Meṇḍaka cư ngụ ở thành phố Bhaddiya. Vị ấy có năng lực thần thông như vầy: Sau khi gội rửa đầu và bảo người quét kho lúa rồi vị ấy ngồi xuống ở bên ngoài cánh cửa thì có trận mưa thóc từ trên trời rơi xuống và làm ngập đầy kho lúa. Người vợ có năng lực thần thông như vầy: Sau khi ngồi xuống bên cạnh cái tô bằng kim loại dung tích chỉ một āḷhaka và có một phần xúp, nàng phân phát thức ăn cho nô tỳ, người làm công, và người hầu; cho đến khi nào nàng chưa đứng dậy thì cái tô vẫn không hết. Cậu con trai có năng lực thần thông như vầy: Sau khi cầm cái túi chỉ chứa một ngàn đồng, cậu ta trả lương sáu tháng cho nô tỳ, người làm công, và người hầu; cho đến khi nào tay của cậu ta chưa rời khỏi thì cái túi vẫn không cạn (tiền). Cô con dâu có năng lực thần thông như vầy: Sau khi ngồi xuống bên cạnh chỉ một cái giỏ có dung tích bốn doṇi, nàng cho nô tỳ, người làm công, và người hầu thức ăn sáu tháng; cho đến khi nào nàng chưa đứng dậy thì cái giỏ vẫn không cạn. Người tớ trai có năng lực thần thông như vầy: Khi anh ta kéo cày một đường thì bảy luống cày xuất hiện.” Khi ấy, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã bảo viên quan đại thần nọ là vị tổng quản rằng:
– Này khanh, nghe nói trong vương quốc của chúng ta có gia chủ Meṇḍaka cư ngụ ở thành phố Bhaddiya. Vị ấy có năng lực thần thông như vầy: Sau khi gội rửa đầu và bảo người quét kho lúa rồi vị ấy ngồi xuống ở bên ngoài cánh cửa thì có trận mưa thóc từ trên trời rơi xuống và làm ngập đầy kho lúa. …(như trên)… Người tớ trai có năng lực thần thông như vầy: Khi anh ta kéo cày một đường thì bảy luống cày xuất hiện. Này khanh, hãy đi và tìm hiểu, ngươi sẽ nhìn thấy như thế nào thì cũng như đích thân ta nhìn thấy vậy.
– Tâu đại vương, xin tuân lệnh.
Rồi viên quan đại thần ấy nghe theo đức vua Seniya Bimbisāsa xứ Magadha cùng với đội quân gồm bốn loại binh chủng đã khởi hành đi thành phố Bhaddiya, tuần tự đã đến thành phố Bhaddiya gặp gia chủ Meṇḍaka, sau khi đến đã nói với gia chủ Meṇḍaka điều này:
– Này gia chủ, bởi vì ta được lệnh của đức vua rằng: “Này khanh, nghe nói trong vương quốc của chúng ta có gia chủ Meṇḍaka cư ngụ ở thành phố Bhaddiya. Vị ấy có năng lực thần thông như vầy: Sau khi gội rửa đầu và bảo người quét kho lúa rồi vị ấy ngồi xuống ở bên ngoài cánh cửa thì có trận mưa thóc từ trên trời rơi xuống và làm ngập đầy kho lúa. …(như trên)… Người tớ trai có năng lực thần thông như vầy: Khi anh ta kéo cày một đường thì bảy luống cày xuất hiện. Này khanh, hãy đi và tìm hiểu, ngươi sẽ nhìn thấy như thế nào thì cũng như đích thân ta nhìn thấy vậy.” Này gia chủ, hãy cho chúng ta thấy năng lực thần thông của ngươi.
Khi ấy, gia chủ Meṇḍaka đã gội rửa đầu và bảo người quét kho lúa rồi ngồi xuống ở bên ngoài cánh cửa thì có trận mưa thóc từ trên trời rơi xuống và làm ngập đầy kho lúa.
– Này gia chủ, năng lực thần thông của ngươi đã được thấy rồi. Hãy cho chúng ta thấy năng lực thần thông của vợ ngươi.
Khi ấy, gia chủ Meṇḍaka đã ra lệnh cho người vợ rằng:
– Như vậy thì nàng hãy phân phát thức ăn cho đội quân gồm bốn loại binh chủng đi.
Khi ấy, sau khi ngồi xuống bên cạnh cái tô bằng kim loại dung tích chỉ một āḷhaka và có một phần xúp, người vợ của gia chủ Meṇḍaka đã phân phát thức ăn cho đội quân gồm bốn loại binh chủng; cho đến khi nào nàng chưa đứng dậy thì cái tô vẫn không hết.
– Này gia chủ, năng lực thần thông của vợ ngươi đã được thấy rồi. Hãy cho chúng ta thấy năng lực thần thông của con trai ngươi.
Khi ấy, gia chủ Meṇḍaka đã ra lệnh cho người con trai rằng:
– Như vậy thì con hãy trả lương sáu tháng chođội quân gồm bốn loại binh chủng đi.
Khi ấy, sau khi cầm một cái túi chỉ chứa một ngàn đồng, người con trai của gia chủ Meṇḍaka đã trả lương sáu tháng cho đội quân gồm bốn loại binh chủng; cho đến khi nào tay của cậu ta chưa rời khỏi thì cái túi vẫn không cạn (tiền).
– Này gia chủ, năng lực thần thông của con trai ngươi đã được thấy rồi. Hãy cho chúng ta thấy năng lực thần thông của con dâu ngươi.
Khi ấy, gia chủ Meṇḍaka đã ra lệnh cho người con dâu rằng:
– Như vậy thì con hãy chođội quân gồm bốn loại binh chủng thức ăn sáu tháng đi.
Khi ấy, sau khi ngồi xuống bên cạnh một cái giỏ có dung tích bốn doṇi, người con dâu của gia chủ Meṇḍakanàng đã cho đội quân gồm bốn loại binh chủng thức ăn sáu tháng; cho đến khi nào nàng chưa đứng dậy thì cái giỏ vẫn không cạn.
– Này gia chủ, năng lực thần thông của con dâu ngươi đã được thấy rồi. Hãy cho chúng ta thấy năng lực thần thông của người tớ trai của ngươi.
– Thưa ngài, năng lực thần thông của người tớ trai của tôi sẽ được nhìn thấy ở ngoài ruộng.
– Này gia chủ, đủ rồi. Năng lực thần thông của người tớ trai của ngươi cũng đã được nhìn thấy rồi.
Sau đó, viên quan đại thần ấy cùng với đội quân gồm bốn loại binh chủng đã quay trở về lại thành Rājagaha rồi đi đến gặp đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha, sau khi đến đã trình sự việc ấy lên đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha.
[84] Sau đó, khi đã ngự tại thành Vesālī theo như ý thích, đức Thế Tôn đã ra đi du hành về phía Bhaddiya cùng với đại chúng tỳ khưu gồm có một ngàn hai trăm năm mươi vị tỳ khưu. Sau đó, trong khi tuần tự du hành đức Thế Tôn đã ngự đến Bhaddiya. Tại nơi đó ở Bhaddiya, đức Thế Tôn ngự tại khu rừng Jātiyā.
Gia chủ Meṇḍaka đã nghe rằng: “Quả thật ngài Sa-môn Gotama con trai dòng Sākya (Thích Ca), từ dòng dõi Sākya đã xuất gia, nay đã ngự đến Bhaddiya và ngụ tại khu rừng Jātiyā. Tiếng đồn tốt đẹp về ngài Gotama ấy đã được lan rộng ra như vầy: ‘Đức Thế Tôn ấy là bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Tối Thượng Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.’ Vị ấy sau khi tự mình chứng ngộ thắng trí đã thấu suốt thế gian này tính luôn cõi chư thiên, cõi Ma Vương, cõi Phạm thiên, cho đến dòng dõi sa-môn, bà-la-môn, các hạng chư thiên và loài người. Vị ấy thuyết giảng Pháp toàn hảo ở đoạn đầu, toàn hảo ở đoạn giữa, và toàn hảo ở đoạn kết, thành tựu về ý nghĩa, thành tựu về văn tự, giảng giải về Phạm hạnh thanh tịnh một cách trọn vẹn và đầy đủ. Tốt thay cho việc diện kiến các vị A-la-hán như thế ấy.”
Sau đó, gia chủ Meṇḍaka đã cho thắng (ngựa vào) những cỗ xe vô cùng lộng lẫy, rồi bước lên cỗ xe vô cùng lộng lẫy, sau đó rời khỏi Bhaddiya bằng những cỗ xe vô cùng lộng lẫy để diện kiến đức Thế Tôn. Nhiều du sĩ ngoại đạo đã nhìn thấy gia chủ Meṇḍaka từ đàng xa đang đi lại, sau khi nhìn thấy đã nói với gia chủ Meṇḍaka điều này:
– Này gia chủ, ngươi đi đâu vậy?
– Thưa các ngài, tôi đi để diện kiến Sa-môn Gotama.
– Này gia chủ, ngươi là người theo thuyết hành động, sao lại đi đến diện kiến Sa-môn Gotama là người thuyết về không hành động? Này gia chủ, chính Sa-môn Gotama là người thuyết về không hành động, giảng về Pháp không hành động, và huấn luyện các đệ tử với điều ấy.
Khi ấy, gia chủ Meṇḍaka đã khởi ý điều này: “Những người du sĩ ngoại đạo ganh tị như thế này thì không còn nghi ngờ gì về đức Thế Tôn ấy là bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác nữa.” Sau khi đã đi hết khoảng đường dành cho cỗ xe, gia chủ Meṇḍaka đã xuống xe rồi bằng chính đôi chân đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Đức Thế Tôn đã thuyết Pháp theo thứ lớp đến gia chủ Meṇḍaka đang ngồi một bên. Tức là ngài đã giảng giải bài thuyết về bố thí, bài thuyết về giới cấm, bài thuyết về cõi trời, sự ô nhiễm hạ liệt tai hại của các dục, sự lợi ích của việc xuất ly. Khi đức Thế Tôn biết được tâm của Gia chủ Meṇḍaka đã sẵn sàng, dễ uốn nắn, không còn chướng ngại, hướng thượng, tĩnh lặng, ngài đã phô bày Pháp thuyết giảng đã được chư Phật khai mở là: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Cũng giống như tấm vải sạch chưa bị vết nhơ có thể nhuộm màu một cách toàn vẹn; tương tợ như thế, ngay tại chỗ ngồi ấy Pháp nhãn không nhiễm bụi trần, không vết nhơ đã sanh khởi đến gia chủ Meṇḍaka: “Điều gì có bản tánh được sanh lên, toàn bộ điều ấy đều có bản tánh hoại diệt.”
Sau đó, khi đã thấy được Pháp, đã thành tựu được Pháp, đã hiểu được Pháp, đã thấm nhuần Pháp, hoài nghi đã không còn, sự lưỡng lự đã dứt hẳn, đã thành tựu niềm tin vào Giáo Pháp của bậc đạo sư, không còn cần sự trợ duyên của người khác, gia chủ Meṇḍaka đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, thật là tuyệt vời! Bạch ngài, thật là tuyệt vời! Bạch ngài, giống như người có thể lật ngửa vật đã được úp lại, mở ra vật đã bị che kín, chỉ đường cho kẻ lạc lối, đem lại cây đèn dầu nơi bóng tối (nghĩ rằng): “Những ai có mắt sẽ thấy được các hình dáng;” tương tợ như thế, Pháp đã được đức Thế Tôn chỉ rõ bằng nhiều phương tiện. Bạch ngài, con đây xin quy y đức Thế Tôn, Giáo Pháp, và Hội chúng tỳ khưu. Xin đức Thế Tôn chấp nhận con là nam cư sĩ đã được quy y kể từ hôm nay cho đến trọn đời. Bạch ngài, xin đức Thế Tôn nhận lời con về bữa trai phạn vào ngày mai cùng với hội chúng tỳ khưu.
Đức Thế Tôn đã nhận lời bằng thái độ im lặng. Khi ấy, gia chủ Meṇḍaka hiểu được sự nhận lời của đức Thế Tôn nên đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi.
Sau đó, khi trải qua đêm ấy gia chủ Meṇḍaka đã cho chuẩn bị sẵn sàng thức ăn thượng hạng loại cứng loại mềm rồi cho người thông báo thời giờ đến đức Thế Tôn:
– Bạch ngài, đã đến giờ, thức ăn đã chuẩn bị xong.
Khi ấy vào buổi sáng, đức Thế Tôn đã mặc y, cầm y bát, rồi đi đến tư gia của gia chủ Meṇḍaka, sau khi đến đã ngồi xuống trên chỗ ngồi được sắp đặt sẵn cùng với hội chúng tỳ khưu. Sau đó, người vợ của gia chủ Meṇḍaka cùng với con trai, con dâu, và người tớ trai đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Đức Thế Tôn đã thuyết Pháp theo thứ lớp đến những người ấy. Tức là ngài đã giảng giải bài thuyết về bố thí, bài thuyết về giới cấm, bài thuyết về cõi trời, sự ô nhiễm hạ liệt tai hại của các dục, sự lợi ích của việc xuất ly. Khi đức Thế Tôn biết được tâm của những người ấy đã sẵn sàng, dễ uốn nắn, không còn chướng ngại, hướng thượng, tĩnh lặng, ngài đã phô bày Pháp thuyết giảng đã được chư Phật khai mở là: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Cũng giống như tấm vải sạch chưa bị vết nhơ có thể nhuộm màu một cách toàn vẹn; tương tợ như thế, ngay tại chỗ ngồi ấy Pháp nhãn không nhiễm bụi trần, không vết nhơ đã sanh khởi đến những người ấy: “Điều gì có bản tánh được sanh lên, toàn bộ điều ấy đều có bản tánh hoại diệt.”
Sau đó, khi đã thấy được Pháp, đã thành tựu được Pháp, đã hiểu được Pháp, đã thấm nhuần Pháp, hoài nghi đã không còn, sự lưỡng lự đã dứt hẳn, đã thành tựu niềm tin vào Giáo Pháp của bậc đạo sư, không còn cần sự trợ duyên của người khác, những người ấy đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, thật là tuyệt vời! Bạch ngài, thật là tuyệt vời! Bạch ngài, giống như người có thể lật ngửa vật đã được úp lại, mở ra vật đã bị che kín, chỉ đường cho kẻ lạc lối, đem lại cây đèn dầu nơi bóng tối (nghĩ rằng): “Những ai có mắt sẽ thấy được các hình dáng;” tương tợ như thế, Pháp đã được đức Thế Tôn chỉ rõ bằng nhiều phương tiện. Bạch ngài, chúng con đây xin quy y đức Thế Tôn, Giáo Pháp, và Hội chúng tỳ khưu. Xin đức Thế Tôn chấp nhận chúng con là những cư sĩ đã được quy y kể từ hôm nay cho đến trọn đời.
Sau đó, gia chủ Meṇḍaka đã tự tay làm hài lòng và thỏa mãn hội chúng tỳ khưu có đức Phật đứng đầu với thức ăn thượng hạng loại cứng loại mềm. Đến khi đức Thế Tôn đã thọ thực xong bàn tay đã rời khỏi bình bát, gia chủ Meṇḍaka đã ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, gia chủ Meṇḍaka đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, cho đến khi nào đức Thế Tôn còn ngụ tại Bhaddiya thì con xin dâng vật thực thường xuyên đến hội chúng tỳ khưu có đức Phật đứng đầu cho đến khi ấy.
Khi ấy, đức Thế Tôn đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho gia chủ Meṇḍaka bằng bài Pháp thoại rồi đã từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi.
[85] Sau đó, khi đã ngự tại Bhaddiya theo như ý thích, đức Thế Tôn đã ra đi du hành về phía Aṅguttarāpa cùng với đại chúng tỳ khưu gồm có một ngàn hai trăm năm mươi vị tỳ khưu mà không thông báo cho gia chủ Meṇḍaka. Gia chủ Meṇḍaka đã nghe rằng: “Nghe nói đức Thế Tôn đã ra đi du hành về phía Aṅguttarāpa cùng với đại chúng tỳ khưu gồm có một ngàn hai trăm năm mươi vị tỳ khưu.” Khi ấy, gia chủ Meṇḍaka đã ra lệnh cho những người nô lệ và những người làm công rằng:
– Này các người, như thế thì sau khi chất lên các xe hàng nhiều muối, dầu ăn, gạo lức, và vật thực loại cứng rồi hãy ra đi. Và một ngàn hai trăm năm mươi người chăn bò sau khi lấy ra một ngàn hai trăm năm mươi con bò cái rồi hãy ra đi. Nơi nào chúng ta gặp được đức Thế Tôn, ở nơi ấy chúng ta sẽ dâng sữa tươi để (ngài) thọ dụng.
Sau đó, gia chủ Meṇḍaka đã gặp được đức Thế Tôn ở khu rừng vắng trên đường đi. Khi ấy, gia chủ Meṇḍaka đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi đứng ở một bên. Khi đã đứng một bên, gia chủ Meṇḍaka đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, xin đức Thế Tôn nhận lời con về bữa trai phạn vào ngày mai cùng với hội chúng tỳ khưu.
Đức Thế Tôn đã nhận lời bằng thái độ im lặng. Khi ấy, gia chủ Meṇḍaka hiểu được sự nhận lời của đức Thế Tôn nên đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi.
Sau đó, khi trải qua đêm ấy gia chủ Meṇḍaka đã cho chuẩn bị sẵn sàng thức ăn thượng hạng loại cứng loại mềm rồi cho người thông báo thời giờ đến đức Thế Tôn:
– Bạch ngài, đã đến giờ, thức ăn đã chuẩn bị xong.
Khi ấy vào buổi sáng, đức Thế Tôn đã mặc y, cầm y bát, rồi đi đến chỗ cúng dường thức ăn của gia chủ Meṇḍaka, sau khi đến đã ngồi xuống trên chỗ ngồi được sắp đặt sẵn cùng với hội chúng tỳ khưu. Khi ấy, gia chủ Meṇḍaka đã ra lệnh cho một ngàn hai trăm năm mươi người chăn bò rằng:
– Này các người, như vậy thì hãy dắt mỗi một con bò cái đến đứng gần mỗi một vị tỳ khưu rồi dâng sữa tươi để (các vị) thọ dụng.
Khi ấy, gia chủ Meṇḍaka đã tự tay làm hài lòng và thỏa mãn hội chúng tỳ khưu có đức Phật đứng đầu với thức ăn thượng hạng loại cứng loại mềm và sữa tươi. Các vị tỳ khưu ngần ngại không thọ lãnh sữa.
– Này các tỳ khưu, hãy thọ lãnh và hãy thọ dụng.
Sau đó, gia chủ Meṇḍaka đã tự tay làm hài lòng và thỏa mãn hội chúng tỳ khưu có đức Phật đứng đầu với thức ăn thượng hạng loại cứng loại mềm và sữa tươi. Đến khi đức Thế Tôn đã thọ thực xong bàn tay đã rời khỏi bình bát, gia chủ Meṇḍaka đã ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, gia chủ Meṇḍaka đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, có những con đường, những khu rừng vắng, ít nước, ít vật thực, công việc không được thuận tiện nếu đi đường không tiên liệu trước. Bạch ngài, tốt thay xin đức Thế Tôn hãy cho phép sự tiên liệu (về hành trình đường xa) đến các vị tỳ khưu.
Khi ấy, đức Thế Tôn đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho gia chủ Meṇḍaka bằng bài Pháp thoại rồi đã từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi.
Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, ta cho phép năm sản phẩm từ bò là sữa tươi (khīraṃ), sữa đông (dadhi), sữa bơ (takkaṃ), bơ đặc (navanītaṃ), bơ lỏng (sappi). Này các tỳ khưu, có những con đường, những khu rừng vắng, ít nước, ít vật thực, sẽ không được thuận tiện khi đi đường nếu không tiên liệu trước. Này các tỳ khưu, vì sự tiên liệu (về hành trình đường xa) ta cho phép tầm cầu về gạo lức với vị có nhu cầu về gạo lức, đậu xanh với vị có nhu cầu về đậu xanh, đậu māsa (?) với vị có nhu cầu về đậu māsa, muối với vị có nhu cầu về muối, đường với vị có nhu cầu về đường, dầu ăn với vị có nhu cầu về dầu ăn, bơ lỏng với vị có nhu cầu về bơ lỏng. Này các tỳ khưu, có những người dân có niềm tin đã được an trú, những người này để tiền vàng ở tay của những người làm các vật trở thành đúng phép (kappiyakāraka) (nói rằng): “Hãy dâng đến ngài đại đức vật đã làm trở thành đúng phép từ (số tiền) này.” Này các tỳ khưu, ta cho phép chấp nhận vật đã làm trở thành đúng phép từ điều ấy, nhưng này các tỳ khưu ta không nói rằng: “Vàng và bạc có thể được chấp nhận, có thể được tầm cầu bởi bất cứ cách thức nào.”
[86] Sau đó, đức Thế Tôn trong khi tuần tự du hành đã ngự đến Āpaṇa. Đạo sĩ bện tóc Keṇiya đã nghe rằng: “Quả thật ngài Sa-môn Gotama con trai dòng Sākya, từ dòng dõi Sākya đã xuất gia, nay đã ngự đến Bhaddiya và ngụ tại khu rừng Jātiyā. Tiếng đồn tốt đẹp về ngài Gotama ấy đã được lan rộng ra như vầy: ‘Đức Thế Tôn ấy là bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Tối Thượng Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.’ Vị ấy sau khi tự mình chứng ngộ thắng trí đã thấu suốt thế gian này tính luôn cõi chư thiên, cõi Ma Vương, cõi Phạm thiên, cho đến dòng dõi sa-môn, bà-la-môn, các hạng chư thiên và loài người. Vị ấy thuyết giảng Pháp toàn hảo ở đoạn đầu, toàn hảo ở đoạn giữa, và toàn hảo ở đoạn kết, thành tựu về ý nghĩa, thành tựu về văn tự, giảng giải về Phạm hạnh thanh tịnh một cách trọn vẹn và đầy đủ. Tốt thay cho việc diện kiến các vị A-la-hán như thế ấy.” Khi ấy, đạo sĩ bện tóc Keṇiya đã khởi ý điều này: “Ta nên cho người đem đến cho Sa-môn Gotama vật gì đây?” Sau đó, đạo sĩ bện tóc Keṇiya đã khởi ý điều này: “Những người ẩn sĩ trước đây là bà-la-môn, là những người làm ra chú thuật, là những người sử dụng chú thuật, những người ấy có hình thức chú thuật cổ điển đã được ca, đã được nói ra, đã được thực hiện mà những người bà-la-môn hiện nay cũng ca theo hình thức ấy, nói ra theo hình thức ấy, giảng giải theo điều đã được giảng giải, nói lại điều đã được nói, (các vị ấy) như là: Aṭṭhako, Vāmako, Vāmadevo, Vessāmitto, Yamataggi, Aṅgiraso, Bhāradvājo, Vāseṭṭho, Kassapo, Bhagu đã không ăn vào buổi tối, đã cử kiêng việc ăn sau ngọ, các vị ấy chấp nhận các thức uống có hình thức như vầy. Sa-môn Gotama cũng không ăn vào buổi tối và kiêng cử việc ăn sau ngọ nên Sa-môn Gotama cũng xứng đáng được chấp nhận các thức uống có hình thức như vầy” nên đã cho người chuẩn bị sẵn sàng rất nhiều thức uống và cho người đem đi bằng những giỏ mang sau vai rồi đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã tỏ vẻ thân thiện với đức Thế Tôn, sau khi trao đổi lời xã giao thân thiện rồi đã đứng ở một bên. Khi đã đứng một bên, đạo sĩ bện tóc Keṇiya đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Xin ngài Gotama hãy thọ lãnh thức uống của tôi.
– Này Keṇiya, như vậy thì hãy dâng cho các vị tỳ khưu.
Các vị tỳ khưu ngần ngại không thọ lãnh.
– Này các tỳ khưu, hãy thọ lãnh và hãy thọ dụng.
Sau đó, đạo sĩ bện tóc Keṇiya đã tự tay làm hài lòng và thỏa mãn hội chúng tỳ khưu có đức Phật đứng đầu với rất nhiều thức uống. Đến khi đức Thế Tôn có cánh tay đã được rửa bàn tay đã rời khỏi bình bát, đạo sĩ bện tóc Keṇiya đã ngồi xuống ở một bên. Khi ấy, đức Thế Tôn đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho đạo sĩ bện tóc Keṇiya bằng bài Pháp thoại. Sau đó, khi đã được đức Thế tôn chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi bằng bài Pháp thoại, đạo sĩ bện tóc Keṇiya đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, xin ngài Gotama hãy nhận lời tôi về bữa trai phạn vào ngày mai cùng với hội chúng tỳ khưu.
– Này Keṇiya, hội chúng tỳ khưu rất đông có đến một ngàn hai trăm năm chục vị tỳ khưu và ngươi đã đặt nhiều niềm tin vào các vị bà-la-môn.
Đến lần thứ nhì, đạo sĩ bện tóc Keṇiya đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài Gotama, dầu cho hội chúng tỳ khưu rất đông có đến một ngàn hai trăm năm chục vị tỳ khưu và (dầu cho) tôi đã đặt nhiều niềm tin vào các vị bà-la-môn, xin ngài Gotama hãy nhận lời tôi về bữa trai phạn vào ngày mai cùng với hội chúng tỳ khưu.
– Này Keṇiya, hội chúng tỳ khưu rất đông có đến một ngàn hai trăm năm chục vị tỳ khưu và ngươi đã đặt nhiều niềm tin vào các vị bà-la-môn.
Đến lần thứ ba, đạo sĩ bện tóc Keṇiya đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài Gotama, dầu cho hội chúng tỳ khưu rất đông có đến một ngàn hai trăm năm chục vị tỳ khưu và (dầu cho) tôi đã đặt nhiều niềm tin vào các vị bà-la-môn, xin ngài Gotama hãy nhận lời tôi về bữa trai phạn vào ngày mai cùng với hội chúng tỳ khưu.
Đức Thế Tôn đã nhận lời bằng thái độ im lặng. Khi ấy, đạo sĩ bện tóc Keṇiya hiểu được sự nhận lời của đức Thế Tôn nên đã từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi.
Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, ta cho phép tám loại thức uống: nước xoài (amba), nước táo hồng (jambu), nước chuối hột (coca), nước chuối không hột (moca), nước mật ong (madhu), nước nho (muddika), nước ngó sen (sāluka), nước dâu (phārusaka). Này các tỳ khưu, ta cho phép tất cả các loại nước cốt trái cây (phalarasaṃ) ngoại trừ nước cốt của ngũ cốc. Này các tỳ khưu, ta cho phép tất cả các loại nước cốt của lá cây (pattarasaṃ) ngoại trừ nước cốt của loại rau cải nấu chín. Này các tỳ khưu, ta cho phép tất cả các loại nước cốt của bông hoa (puppharasaṃ) ngoại trừ nước cốt của bông cây cam thảo (madhukapuppharasaṃ). Này các tỳ khưu, ta cho phép nước cốt của cây mía.
Sau đó, khi trải qua đêm ấy đạo sĩ bện tóc Keṇiya đã cho chuẩn bị sẵn sàng thức ăn thượng hạng loại cứng loại mềm tại khu ẩn dật của mình rồi cho người thông báo thời giờ đến đức Thế Tôn:
– Bạch ngài Gotama, đã đến giờ, thức ăn đã chuẩn bị xong.
Khi ấy vào buổi sáng, đức Thế Tôn đã mặc y, cầm y bát, rồi đi đến khu ẩn dật của đạo sĩ bện tóc Keṇiya, sau khi đến đã ngồi xuống trên chỗ ngồi được sắp đặt sẵn cùng với hội chúng tỳ khưu. Sau đó, đạo sĩ bện tóc Keṇiya đã tự tay làm hài lòng và thỏa mãn hội chúng tỳ khưu có đức Phật đứng đầu với thức ăn thượng hạng loại cứng loại mềm. Đến khi đức Thế Tôn đã thọ thực xong bàn tay đã rời khỏi bình bát, đạo sĩ bện tóc Keṇiya đã ngồi xuống ở một bên. Đức Thế Tôn đã tùy hỷ công đức cho đạo sĩ bện tóc Keṇiya đang ngồi một bên bằng những lời kệ này:
[87]
Trong các loại cúng tế
cúng dường lửa hạng nhất,
kinh cổ Sāvittī
đứng đầu về niêm luật.
vua đứng đầu loài người
biển đứng đầu các sông,
trăng đứng đầu các sao
mặt trời nóng nhất hạng.
Những người mong mỏi phước
cúng dường Tăng nhất hạng.
Sau khi tùy hỷ công đức cho đạo sĩ bện tóc Keṇiya đang ngồi một bên bằng những lời kệ ấy, đức Thế Tôn đã từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi.
[88] Sau đó, khi đã ngự tại Bhaddiya theo như ý thích, đức Thế Tôn đã ra đi du hành về phía Kusinārā cùng với đại chúng tỳ khưu gồm có một ngàn hai trăm năm mươi vị tỳ khưu. Những người dân Malla ở Kusinārā đã nghe rằng: “Nghe nói đức Thế Tôn đi đến Kusinārā cùng với đại chúng tỳ khưu gồm có một ngàn hai trăm năm mươi vị tỳ khưu.” Họ đã ra quy định là: “Ai không đi ra đón đức Thế Tôn sẽ bị hành phạt là năm trăm.”
Vào lúc bấy giờ, Roja người Malla là bạn của đại đức Ānanda. Khi ấy, đức Thế Tôn trong khi tuần tự du hành đã ngự đến Kusinārā. Những người dân Malla ở Kusinārā đã đi ra đón đức Thế Tôn. Khi ấy, Roja người Malla đã đi ra đón đức Thế Tôn rồi đi đến gặp đại đức Ānanda, sau khi đến đã đảnh lễ đại đức Ānanda rồi đứng ở một bên. Đại đức Ānanda đã nói với Roja người Malla đang đứng một bên điều này:
– Này bạn Roja, thật là tuyệt vời khi bạn đã đi ra đón đức Thế Tôn.
– Thưa ngài Ānanda, tôi không có nhiều niềm tin đối với đức Phật, đức Pháp, hay đức Tăng, chỉ vì thân quyến đã ra quy định là: “Ai không đi ra đón đức Thế Tôn sẽ bị hành phạt là năm trăm.” Thưa ngài Ānanda, tôi vì sợ hành phạt như thế của thân quyến nên đã đi ra để đón đức Thế Tôn.
Khi ấy, đại đức Ānanda đã không được hoan hỷ (nghĩ rằng): “Vì sao Roja người Malla lại nói như thế?” Sau đó, đại đức Ānanda đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồì xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, đại đức Ānanda đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, Roja này người Malla được nổi tiếng, là người có danh tiếng, những người có danh tiếng như thế nếu có được niềm tin trong Pháp và Luật này sẽ là người có nhiều sự lợi ích. Bạch ngài, thật tốt đẹp thay xin đức Thế Tôn hãy làm như thế nào đó để Roja người Malla có thể an trú niềm tin vào Pháp và Luật này.
– Này Ānanda, điều ấy không phải là việc khó làm đối với đức Như Lai như là việc Roja người Malla có thể an trú niềm tin vào Pháp và Luật này.
Sau đó, đức Thế Tôn đã phát ra luồng tâm bác ái đến Roja người Malla rồi từ chỗ ngồi đứng dậy và đi vào trú xá.
Khi ấy, Roja người Malla bị tràn ngập bởi luồng tâm bác ái của đức Thế Tôn. Cũng giống như con bê con (đi tìm) bò mẹ, tương tợ như thế (Roja người Malla )đi đến trú xá này đến trú xá khác, phòng này đến phòng khác và hỏi các vị tỳ khưu rằng:
– Thưa ngài, bây giờ đức Thế Tôn bậc A-la-hán Chánh Đẳng Giác ấy đang ngụ ở đâu vậy, bởi vì chúng tôi có ý muốn diện kiến đức Thế Tôn bậc A-la-hán đấng Chánh Đẳng Giác ấy?
– Này đạo hữu Roja, hãy đi đến trú xá có cánh cửa đóng lại kia với sự nhẹ nhàng và chớ có vượt qua (cánh cửa), hãy bước vào hành lang, đằng hắng, và gõ vào thanh cài cửa, rồi đức Thế Tôn sẽ mở cửa cho đạo hữu.
Sau đó, Roja người Malla đã đi đến trú xá có cánh cửa đóng lại kia với sự nhẹ nhàng, không có vượt qua (cánh cửa), rồi bước vào hành lang, đằng hắng, và gõ vào thanh cài cửa. Đức Thế Tôn đã mở cánh cửa ra. Khi ấy, Roja người Malla đã bước vào trú xá, đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Đức Thế Tôn đã thuyết Pháp theo thứ lớp đến Roja người Malla. Tức là ngài đã giảng giải bài thuyết về bố thí, bài thuyết về giới cấm, bài thuyết về cõi trời, sự ô nhiễm hạ liệt tai hại của các dục, sự lợi ích của việc xuất ly. Khi đức Thế Tôn biết được tâm của Roja người Malla đã sẵn sàng, dễ uốn nắn, không còn chướng ngại, hướng thượng, tĩnh lặng, ngài đã phô bày Pháp thuyết giảng đã được chư Phật khai mở là: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Cũng giống như tấm vải sạch chưa bị vết nhơ có thể nhuộm màu một cách toàn vẹn; tương tợ như thế, ngay tại chỗ ngồi ấy Pháp nhãn không nhiễm bụi trần, không vết nhơ đã sanh khởi đến Roja người Malla: “Điều gì có bản tánh được sanh lên, toàn bộ điều ấy đều có bản tánh hoại diệt.”
Sau đó, khi đã thấy được Pháp, đã thành tựu được Pháp, đã hiểu được Pháp, đã thấm nhuần Pháp, hoài nghi đã không còn, sự lưỡng lự đã dứt hẳn, đã thành tựu niềm tin vào Giáo Pháp của bậc đạo sư, không còn cần sự trợ duyên của người khác, Roja người Malla đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, tốt đẹp thay nếu các ngài đại đức có thể thọ lãnh vật dụng là y phục, vật thực, chỗ trú ngụ, và thuốc men trị bịnh của riêng mình con thôi, không phải của người khác.
– Này Roja, nếu những người đã thấy được Pháp với trí tuệ của vị hữu học, với tầm nhìn của vị hữu học như là ngươi đây thì những người ấy cũng khởi ý như vầy: “Đương nhiên các ngài đại đức có thể thọ lãnh vật dụng là y phục, vật thực, chỗ trú ngụ, và thuốc men trị bịnh của riêng mình chúng ta thôi, không phải của người khác.” Này Roja, như thế thì các vị (tỳ khưu) sẽ thọ lãnh của chính ngươi và của những người khác nữa.
Vào lúc bấy giờ, ở Kusinārā sự dâng vật thực theo tuần tự của các bữa ăn hảo hạng đã được quy định. Khi ấy, Roja người Malla đã không nhận được phiên nên đã khởi ý điều này: “Hay là ta nên nhìn vào nhà ăn, trong nhà ăn không có món gì thì ta nên cho chuẩn bị sẵn sàng món đó?” Sau đó, Roja người Malla trong khi nhìn vào nhà ăn đã thấy không có hai món là rau xanh và bánh bột. Khi ấy, Roja người Malla đã đi đến gặp đại đức Ānanda, sau khi đến đã nói với đại đức Ānanda điều này:
– Thưa ngài Ānanda, ở đây trong khi tôi không nhận được phiên nên đã khởi ý điều này: “Hay là ta nên nhìn vào nhà ăn, trong nhà ăn không có món gì thì ta nên cho chuẩn bị sẵn sàng món đó?” Thưa ngài Ānanda, rồi trong khi nhìn vào nhà ăn tôi đây đã thấy không có hai món là rau xanh và bánh bột. Thưa ngài Ānanda, nếu tôi cho chuẩn bị sẵn sàng đức Thế Tôn có thể nhận lãnh rau xanh và bánh bột của tôi không?
– Này Roja, như thế thì tôi sẽ hỏi đức Thế Tôn.
Sau đó, đại đức Ānanda đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này Ānanda, như thế thì (Roja) hãy cho chuẩn bị sẵn sàng.
– Này Roja, như thế thì bạn hãy cho chuẩn bị sẵn sàng.
Sau đó, khi trải qua đêm ấy Roja người Malla đã cho chuẩn bị sẵn sàng rau cải và bánh bột rồi đã đem dâng đến đức Thế Tôn.
– Bạch ngài, xin đức Thế Tôn hãy nhận lãnh rau cải và bánh bột.
– Này Roja, như vậy thì hãy dâng cho các vị tỳ khưu.
Các vị tỳ khưu ngần ngại không thọ lãnh.
– Này các tỳ khưu, hãy thọ lãnh và hãy thọ dụng.
Sau đó, Roja người Malla đã tự tay làm hài lòng và thỏa mãn hội chúng tỳ khưu có đức Phật đứng đầu với rất nhiều rau cải và bánh bột. Đến khi đức Thế Tôn có cánh tay đã được rửa bàn tay đã rời khỏi bình bát, Roja người Malla đã ngồi xuống ở một bên. Khi ấy, đức Thế Tôn đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho Roja người Malla bằng bài Pháp thoại rồi đã từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi.
Sau đó, đức Thế tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, ta cho phép tất cả các loại rau xanh và tất cả các loại bánh bột.
[89] Sau đó, khi đã ngự tại Kusināra theo như ý thích, đức Thế Tôn đã ra đi du hành về phía Ātumā cùng với đại chúng tỳ khưu gồm có một ngàn hai trăm năm mươi vị tỳ khưu.
Vào lúc bấy giờ, có vị nọ trước đây là người thợ cạo và đã xuất gia lúc tuổi già đang ngụ tại Ātumā. Vị ấy có hai người con trai dễ mến, khôn ngoan, khéo léo, thiện nghệ trong nghề thợ cạo từ thầy của họ. Vị xuất gia lúc tuổi già ấy đã nghe rằng: “Nghe nói đức Thế Tôn đi đến Ātumā cùng với đại chúng tỳ khưu gồm có một ngàn hai trăm năm mươi vị tỳ khưu.” Khi ấy, vị xuất gia lúc tuổi già ấy đã nói với hai người con trai ấy rằng:
– Này hai con thương, nghe nói đức Thế Tôn đi đến Ātumā cùng với đại chúng tỳ khưu gồm có một ngàn hai trăm năm mươi vị tỳ khưu. Này hai con thương, hai con hãy mang theo thùng dao cạo đi từ nhà này qua nhà khác với sự thưởng công và hãy gom góp muối, dầu ăn, gạo lức, và vật thực loại cứng; khi đức Thế Tôn đến chúng ta sẽ làm món nước cháo.
– Thưa cha, xin vâng.
Rồi hai người con trai ấy nghe theo lời vị xuất gia lúc tuổi già ấy mang theo thùng dao cạo đi từ nhà này qua nhà khác với sự thưởng công đồng thời gom góp muối, dầu ăn, gạo lức, và vật thực loại cứng. Dân chúng sau khi nhìn thấy hai người con trai ấy dễ mến, khôn ngoan, dầu không có ý muốn thuê làm cũng đã bảo chúng làm, và sau khi bảo chúng làm xong đã thưởng rất nhiều. Khi ấy, hai người con trai ấy đã gom góp nhiều muối, dầu ăn, gạo lức, và vật thực loại cứng.
Sau đó, trong khi tuần tự du hành đức Thế Tôn đã ngự đến Ātumā. Tại nơi ấy ở Ātumā, đức Thế Tôn ngự tại Bhūsāgāra. Sau đó, khi trải qua đêm ấy vị xuất gia lúc tuổi già ấy đã cho chuẩn bị sẵn sàng rất nhiều cháo rồi đã đem dâng đến đức Thế Tôn.
– Bạch ngài, xin đức Thế Tôn hãy thọ lãnh cháo của con.
Các đấng Như Lai dầu biết vẫn hỏi, dầu biết các vị vẫn không hỏi, biết đúng thời các vị mới hỏi, biết đúng thời các vị vẫn không hỏi, có liên quan đến lợi ích các đấng Như lai mới hỏi và không (hỏi việc) không có liên quan đến lợi ích, khi không có liên quan đến lợi ích các đấng Như Lai có cách để cắt đứt vấn đề. Chư Phật Thế Tôn hỏi các vị tỳ khưu vì hai lý do: “Hoặc là chúng ta sẽ thuyết Pháp hoặc là chúng ta sẽ quy định điều học cho các đệ tử.” Khi ấy, đức Thế Tôn đã nói với vị xuất gia lúc tuổi già ấy điều này:
– Này tỳ khưu, cháo này từ đâu vậy?
Khi ấy, vị xuất gia lúc tuổi già ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn đã khiển trách rằng:
– Này kẻ rồ dại, thật không đúng đắn, không hợp lẽ, không tốt đẹp, không xứng pháp sa-môn, không được phép, không nên làm. Này kẻ rồ dại, vì sao ngươi là vị xuất gia lại bảo người khác làm việc không được phép? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)…
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, vị xuất gia không nên bảo người khác làm việc không được phép; vị nào bảo làm thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, vị trước đây là thợ cạo không nên mang theo thùng dao cạo; vị nào mang theo thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Sau đó, khi đã ngự tại Ātumā theo như ý thích, đức Thế Tôn đã ra đi du hành về phía thành Sāvatthi. Sau đó, trong khi tuần tự du hành đức Thế Tôn đã ngự đến thành Sāvatthi. Tại nơi ấy ở thành Sāvatthi, đức Thế Tôn ngụ tại Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika.
Vào lúc bấy giờ, ở trong thành Sāvatthi loại vật thực cứng là trái cây được dồi dào. Khi ấy, các vị tỳ khưu đã khởi ý điều này: “Loại vật thực cứng là trái cây nào đã được cho phép, loại nào không được cho phép?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép tất cả các loại vật thực cứng là trái cây.
[91] Vào lúc bấy giờ, các hạt giống của hội chúng được gieo trồng trên vùng đất của cá nhân, các hạt giống của các cá nhân được gieo trồng trên vùng đất của hội chúng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, các hạt giống của hội chúng đã được gieo trồng trên vùng đất của cá nhân nên được thọ dụng sau khi đã cho chia phần. Các hạt giống của các cá nhân đã được gieo trồng trên vùng đất của hội chúng nên được thọ dụng sau khi đã cho chia phần.
[92] Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu khởi lên sự ngần ngại về vấn đề này về vấn đề nọ: “Điều nào đã được đức Thế Tôn cho phép, điều nào đã không được cho phép?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, điều nào ta chưa cấm rằng: “Điều này không được phép,” và điều ấy phù hợp với điều không được phép và trái nghịch với điều được phép, đối với các ngươi điều ấy là không được phép.
Này các tỳ khưu, điều nào ta chưa cấm rằng: “Điều này không được phép,” và điều ấy phù hợp với điều được phép và trái nghịch với điều không được phép, đối với các ngươi điều ấy là được phép.
Này các tỳ khưu, điều nào ta chưa cho phép rằng: “Điều này được phép,” và điều ấy phù hợp với điều không được phép và trái nghịch với điều được phép, đối với các ngươi điều ấy là không được phép.
Này các tỳ khưu, điều nào ta chưa cho phép rằng: “Điều này được phép,” và điều ấy phù hợp với điều được phép và trái nghịch với điều không được phép, đối với các ngươi điều ấy là được phép.
[93] Khi ấy, các vị tỳ khưu đã khởi ý điều này: “Vật dùng đến hết đêm (trộn lẫn) với vật dùng đến hết ngọ là được phép, hay là không được phép? Vật dùng trong bảy ngày (trộn lẫn) với vật dùng đến hết ngọ là được phép, hay là không được phép? Vật dùng suốt đời (trộn lẫn) với vật dùng đến hết ngọ là được phép, hay là không được phép?[16]
Vật dùng trong bảy ngày (trộn lẫn) với vật dùng đến hết đêm là được phép, hay là không được phép? Vật dùng suốt đời (trộn lẫn) với vật dùng đến hết đêm là được phép, hay là không được phép?
Vật dùng suốt đời (trộn lẫn) với vật dùng trong bảy ngày là được phép, hay là không được phép?”
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, vật dùng đến hết đêm (trộn lẫn) với vật dùng đến hết ngọ (nếu) được thọ lãnh trong ngày hôm ấy thì được phép lúc hợp thời, phi thời không được phép. Vật dùng trong bảy ngày (trộn lẫn) với vật dùng đến hết ngọ (nếu) được thọ lãnh trong ngày hôm ấy thì được phép lúc hợp thời, phi thời không được phép. Vật dùng suốt đời (trộn lẫn) với vật dùng đến hết ngọ (nếu) được thọ lãnh trong ngày hôm ấy thì được phép lúc hợp thời, phi thời không được phép.
Này các tỳ khưu, vật dùng trong bảy ngày (trộn lẫn) với vật dùng đến hết đêm (nếu) được thọ lãnh trong ngày hôm ấy thì được phép trong đêm, không được phép khi đêm đã trôi qua. Vật dùng suốt đời (trộn lẫn) với vật dùng đến hết đêm (nếu) được thọ lãnh trong ngày hôm ấy thì được phép trong đêm, không được phép khi đêm đã trôi qua.
Này các tỳ khưu, vật dùng suốt đời (trộn lẫn) với vật dùng trong bảy ngày (nếu) được thọ lãnh trong ngày hôm ấy thì được phép trong bảy ngày, không được phép khi bảy ngày đã trôi qua.
Dứt Chương Dược Phẩm là chương thứ sáu.
Trong chương này có một trăm lẻ sáu sự việc.
******
Tóm lược chương này:
[94]
Vào mùa thu, sái giờ,
mỡ thú, trong rễ cây,
với các loại bột nghiền,
các nước sắc, lá cây,
trái cây, nhựa thân cây,
và muối gồm sáu loại.
bột tắm, rây, thịt sống,
thuốc bôi, bột nghiền nát,
hộp thuốc bôi các loại,
không đậy, que bôi thuốc,
hộp đựng que bôi thuốc,
túi mang vai, thắt lại,
sợi chỉ, dầu xoa đầu,
lỗ mũi, muỗng ở mũi,
hít khói, và ống dẫn,
nắp đậy, và túi đựng.
Và rượu trong dầu nấu,
đổ nhiều, làm thuốc thoa
bình chứa, dùng hơi nóng,
của nhiều loại lá cây,
nhiều hơi, nước lá cây,
bể nước ngâm, trích máu,
ống sừng, cao bôi chân,
sự phòng ngừa, dao mổ,
nước đông máu, cao mè,
vải cầm máu, băng vải,
bột mù-tạt, xông khói,
thịt lồi, dầu vết thương,
băng vải, các lối chữa,
được thọ lãnh, phân dơ,
đang thực hiện, đất cày,
tro, nước tiểu, da vàng,
mùi thơm, và thuốc xổ,
nước xúp không chất béo,
thêm chút ít chất béo,
mùi vị thịt, hang núi,
tu viện, và bảy ngày,
đường, đậu tây, cháo chua,
tự mình nấu, nấu lại,
lại cho phép, thiếu ăn,
trái cây, mè, vật nhai,
trước bữa, sốt toàn thân
lấy hết hột, lở loét,
và công việc bơm thụt.
Chuyện nàng Suppiyā
lại thêm chuyện thịt người,
voi, ngựa, và chó nhà,
rắn, sư tử, và beo,
thịt gấu rừng, chó sói.
Chờ đến phiên, và cháo,
(đức tin) còn non trẻ,
thêm chuyện nữa về đường.
Sunīdha, nhà nghỉ,
sông Hằng, làng Koṭi,
thuyết giảng về Chân Lý
nàng Ambapālī,
các vị Licchavi,
đã làm được chỉ định,
lúc vật thực dễ dàng,
ngài đã cấm trở lại.
Mây đen, Yasoja,
và chuyện Meṇḍaka,
sản phẩm từ loài bò,
tiên liệu cho đường xa.
Đạo sĩ Keṇiya,
nước xoài, nước táo hồng
chuối có hột, không hột,
nước mật, nước trái nho,
nước ngó sen, nước dâu,
rau xanh và bánh bột,
thợ cạo Ātumā.
(Về lại) Sāvatthi,
trái cây, hột giống trồng.
Thuộc về trường hợp nào?
và thời gian quy định.
[1] Trong trường hợp liên quan đến vật thực, đúng thời là trước ngọ, phi thời là sau ngọ cho đến rạng đông của ngày kế.
[2] Các từ điển và lời giải thích của ngài Buddhaghosa không được hữu dụng lắm để tìm ra ý nghĩa rõ ràng của các loại thảo mộc.
[3] Liên quan đến tội pācittiya (ưng đối trị) 51.
[4] Được ghi lại nghĩa theo lời giải thích của ngài Buddhaghosa. Một số trường hợp khác cũng được dịch theo cách như vậy, trong trường hợp cần thiết, chúng tôi có đính kèm từ Pāli.
[5] Liên quan đến tội nissaggiya pācittiya (ưng xả đối trị) 23.
[6] Kaṅkhā có nghĩa là sự hoài nghi, sự nghi ngờ, sự không chắc chắn. Sau khi dịch tiếp phần dưới, chúng tôi nghĩ rằng đây có thể là biệt hiệu của vị tỳ khưu tên Revata; như thế tên vị ấy có thể dịch là “Revata đa nghi.”
[7] Không rõ loại đậu này là loại đậu gì? Ngài Buddhaghosa giải thích: “Chúng được phép vì đã được nấu chín.” Theo mạch văn, chúng tôi nghĩ rằng loại hạt này dầu đã được nấu chín, và trải qua quá trình tiêu hóa, rồi được thải ra theo đường phân vẫn có thể nẩy mầm và mọc thành cây; nhưng vẫn không nghĩ ra được loại hạt gì có khả năng ấy.
[8] Ngài Buddhaghosa giải thích anto là akappiyakuṭiyaṃ nghĩa là không phải ở nhà làm thành được phép. Xem thêm kappiyabhūmi là khu vực làm thành được phép ở bên dưới [82].
[9] Dựa vào lời giải thích ở phần trên của ngài Buddhaghosa thì bên ngoài (bahi) là ở nhà làm thành được phép.
[10] Nên lưu ý rằng một số điều được đức Thế Tôn cho phép như điều này và các điều kế tiếp chỉ được áp dụng trong thời kỳ vật thực khó khăn.
[11] Liên quan đến tội pācittiya (ưng đối trị) 33.
[12] Pāṭaligāma là một làng (gāma) và Pāṭaliputta thuộc xứ Magadha, nay là thành phố Patna, Ấn Độ.
[13] Một trong sáu vị đứng đầu sáu nhóm ngoại đạo thời đó.
[14] Nếu cá và thú ấy bị giết với sự xác định là sẽ làm thức ăn cho một cá nhân nào đó thọ dụng thì cá nhân người ấy không nên ăn.
[15] Liên quan đến tội pācittiya (ưng đối trị) 35.
[16] Vật dùng đến hết ngọ: Yāvakālika. Vật dùng đến hết đêm: Yāmakālika.Vật dùng trong bảy ngày: Sattāhakālika. Vật dùng suốt đời: Yāvajīvika.
VII. CHƯƠNG KAṬHINA
(KAṬHINAKKHANDHAKAṂ)
[95] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, nhóm ba mươi vị tỳ khưu xứ Pāvā: tất cả đều là các vị chuyên ngụ ở rừng, tất cả đều là các vị chuyên đi khất thực, tất cả đều là các vị mặc y may từ vải dơ bị quăng bỏ, tất cả đều là các vị chỉ sử dụng ba y. Trong khi đang đi đến Sāvatthi để diện kiến đức Thế Tôn, do việc vào mùa (an cư) mưa đã đến gần nên các vị không thể đến được Sāvatthi cho việc vào mùa (an cư) mưa. Các vị đã vào mùa (an cư) mưa ở Sāketa, vào khoảng giữa lộ trình. Các vị đã sống qua mùa (an cư) mưa với vẻ phiền muộn (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn ngự rất gần chúng ta cách đây chỉ sáu do tuần, vậy mà chúng ta không được diện kiến đức Thế Tôn.” Sau đó, khi đã sống qua mùa (an cư) mưa trong thời gian ba tháng, khi đã thực hiện lễ Pavāraṇā (Tự Tứ), trong lúc trời còn đang mưa, trong khi có sự gom tụ nước lại thành vũng bùn lầy, các vị tỳ khưu ấy với các y bị đẫm nước và có dáng điệu mệt mỏi đã đi đến thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên.
Điều này đã trở thành thông lệ đối với chư Phật Thế Tôn là niềm nở với các tỳ khưu đi đến. Khi ấy, đức Thế Tôn đã nói với các vị tỳ khưu ấy điều này:
– Này các tỳ khưu, sức khoẻ có khá không? Mọi việc có được tốt đẹp không? Các ngươi đã sống qua mùa (an cư) mưa có được thoải mái, có sự đoàn kết, thân thiện, không cãi cọ nhau không? Và các ngươi có không bị khó nhọc vì đồ ăn khất thực không?
– Bạch Thế Tôn, sức khoẻ khá. Bạch Thế Tôn, mọi việc đều tốt đẹp. Và bạch ngài, chúng con đã sống qua mùa (an cư) mưa có sự hợp nhất, thân thiện, không cãi cọ nhau, và không bị khó nhọc vì đồ ăn khất thực. Bạch ngài, trường hợp chúng con là nhóm ba mươi vị tỳ khưu xứ Pāvā trong khi đang đi đến Sāvatthi để diện kiến đức Thế Tôn, do việc vào mùa (an cư) mưa đã đến gần nên không thể đến được Sāvatthi cho việc vào mùa (an cư) mưa. Chúng con đã vào mùa (an cư) mưa ở Sāketa, vào khoảng giữa lộ trình. Bạch ngài, chúng con đây đã sống qua mùa (an cư) mưa với vẻ phiền muộn (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn ngự rất gần chúng ta cách đây chỉ sáu do tuần, vậy mà chúng ta không được diện kiến đức Thế Tôn.” Bạch ngài, sau khi đã sống qua mùa (an cư) mưa trong thời gian ba tháng, khi đã thực hiện lễ Pavāraṇā, trong lúc trời còn đang mưa, trong khi có sự gom tụ nước lại thành vũng bùn lầy, chúng con với các y bị đẫm nước và có dáng điệu mệt mỏi đã đi đường xa đến.
[96] Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, ta cho phép thành tựu Kaṭhina cho các tỳ khưu đã sống qua mùa (an cư) mưa. Này các tỳ khưu, khi các ngươi có Kaṭhina đã được thành tựu, năm điều này sẽ trở thành được phép (đối với các ngươi): việc ra đi không phải báo (anāmantacāro), việc ra đi không mang theo (đủ cả ba y) (asamādānacāro), sự thọ thực thành nhóm (gaṇabhojanaṃ), (sử dụng được nhiều) y theo như nhu cầu (yāvadatthacīvaraṃ), sự phát sanh về y tại nơi ấy sẽ là của các vị ấy (yo ca tattha cīvaruppādo so nesaṃ bhavissati). Này các tỳ khưu, khi các ngươi có Kaṭhina đã được thành tựu, năm điều này sẽ được phép đối với các ngươi. Và này các tỳ khưu, Kaṭhina nên được thành tựu như vầy:
Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vải Kaṭhina này đã được phát sanh đến hội chúng. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên trao vải Kaṭhina này đến vị tỳ khưu tên (như vầy) để thành tựu Kaṭhina. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vải Kaṭhina này đã được phát sanh đến hội chúng. Hội chúng trao vải Kaṭhina này đến vị tỳ khưu tên (như vầy) để thành tựu Kaṭhina. Đại đức nào đồng ý việc trao vải Kaṭhina này đến vị tỳ khưu tên (như vầy) để thành tựu Kaṭhina xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Vải Kaṭhina này đã được hội chúng trao đến vị tỳ khưu tên (như vầy) để thành tựu Kaṭhina. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.
Này các tỳ khưu, Kaṭhina đã được thành tựu như vầy, không được thành tựu như vầy.
[97] Và này các tỳ khưu, thế nào là Kaṭhina không được thành tựu? [1]
Kaṭhina không được thành tựu ở giai đoạn đánh dấu về chiều dài, chiều rộng (ullikhitamattena). Kaṭhina không được thành tựu ở giai đoạn giặt (dhovanamattena). Kaṭhina không được thành tựu ở giai đoạn tính toán về y năm điều, hoặc bảy điều, hoặc chín điều, v.v… (cīvaravicāraṇamattena). Kaṭhina không được thành tựu ở giai đoạn cắt theo sự đã tính toán (chedanamattena). Kaṭhina không được thành tựu ở giai đoạn kết chỉ tạm (bandhanamattena). Kaṭhina không được thành tựu ở giai đoạn may lại theo đường chỉ lược cho chắc (ovaṭṭikakaraṇamattena). Kaṭhina không được thành tựu ở giai đoạn gắn miếng vải làm dấu (kaṇḍasakaraṇamattena). Kaṭhina không được thành tựu ở giai đoạn may chắc chắn (daḷhīkammakaraṇamattena). Kaṭhina không được thành tựu ở giai đoạn may đường viền (anuvātakaraṇamattena). Kaṭhina không được thành tựu ở giai đoạn kết lại phần giữa (paribhandakaraṇamattena). Kaṭhina không được thành tựu ở giai đoạn đắp thêm một lớp nữa (ovaṭṭeyyakaraṇamattena). Kaṭhina không được thành tựu ở giai đoạn nhuộm (kambalamaddanamattena). Kaṭhina không được thành tựu do sự ra dấu hiệu gợi ý để thí chủ dâng (nimittakatena). Kaṭhina không được thành tựu do sự giảng giải về Kaṭhina rồi kêu gọi (parikathākatena). Kaṭhina không được thành tựu với sự làm y có tính cách tạm thời (kukkukatena). Kaṭhina không được thành tựu với sự tích trữ (sannidhikatena). Kaṭhina không được thành tựu do sự hủy bỏ vì để qua đêm (nissagiyena). Kaṭhina không được thành tựu với sự không làm thành được phép tức là không làm dấu hoại y (akappakatena). Kaṭhina không được thành tựu với y không phải là y saṅghāṭi tức là y hai lớp. Kaṭhina không được thành tựu với y không phải là thượng y, thường gọi là y vai trái (uttarasaṅgena). Kaṭhina không được thành tựu với y không phải là y nội (antaravāsakena). Kaṭhina không được thành tựu với y không phải là năm điều hoặc nhiều hơn năm điều, không được cắt và kết lại nội trong ngày hôm ấy. Kaṭhina không được thành tựu trừ phi do sự thành tựu bởi cá nhân. Nếu Kaṭhina đã được thành tựu đúng đắn nhưng vị tùy hỷ việc ấy đứng ngoài ranh giới (sīmā), như vậy Kaṭhina vẫn không được thành tựu.
Này các tỳ khưu, như thế ấy là Kaṭhina không được thành tựu.
[98] Và này các tỳ khưu, thế nào là Kaṭhina đã được thành tựu?
Kaṭhina được thành tựu với (vải) mới.[2] Kaṭhina được thành tựu với (vải) được xem như mới (ahatakappena). Kaṭhina được thành tựu với vải áo choàng cũ (pilotikāya). Kaṭhina được thành tựu với vải dơ bị quăng bỏ (paṃsukūlena). Kaṭhina được thành tựu với vải đã được bỏ ở trước cửa tiệm, có người nhặt lấy rồi đem dâng (pāpaṇikena). Kaṭhina được thành tựu với sự không ra dấu hiệu gợi ý để thí chủ dâng (animittakatena). Kaṭhina được thành tựu không do sự giảng giải về Kaṭhina rồi kêu gọi (aparikathākatena). Kaṭhina được thành tựu với sự làm không phải là tạm thời (akukkukatena). Kaṭhina được thành tựu với với sự không tích trữ (asannidhikatena). Kaṭhina được thành tựu do không để qua đêm (anissaggiyena). Kaṭhina được thành tựu với với sự làm thành được phép tức là làm dấu hoại y (kappakatena). Kaṭhina được thành tựu với y saṅghāṭi tức là y hai lớp. Kaṭhina được thành tựu với thượng y thường gọi là y vai trái (uttarāsaṅgena). Kaṭhina được thành tựu với y nội (antaravāsakena). Kaṭhina được thành tựu với y là năm điều hoặc nhiều hơn năm điều, được cắt và kết lại nội trong ngày hôm ấy. Kaṭhina được thành tựu do sự thành tựu bởi cá nhân. Nếu Kaṭhina đã được thành tựu đúng đắn và vị tùy hỷ việc ấy đứng trong ranh giới (sīmā), như vậy Kaṭhina được thành tựu.
Này các tỳ khưu, như thế ấy là Kaṭhina được thành tựu.
[99] Và này các tỳ khưu, thế nào là Kaṭhina hết hiệu lực (ubbhataṃ)?
Này các tỳ khưu, đây là tám điều tiêu đề (mātikā) về sự hết hiệu lực của Kaṭhina: do sự ra đi, do (y) được hoàn tất, do tự mình quyết định, do bị mất, do nghe được (tin), do sự tan vỡ của niềm mong mỏi, do sự vượt qua ranh giới, do sự hết hiệu lực cùng một lúc.[3]
[100] Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, cầm lấy (ādāya) y đã được làm xong, ra đi (nghĩ rằng) “Ta sẽ không trở về.” Sự việc ra đi là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, cầm lấy y (chưa được làm), ra đi. Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới (sīmā) thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Sự việc (y) được hoàn tất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, cầm lấy y (chưa được làm), ra đi. Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ không nhờ (người) làm y này nữa và sẽ không trở về.” Sự việc tự mình quyết định là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, cầm lấy y (chưa được làm), ra đi. Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Trong khi y ấy của vị ấy đang được làm thì bị mất. Sự việc bị mất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, cầm lấy y (chưa được làm), ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và nhờ (người) làm y ấy. Vị ấy, có y đã được làm xong, nghe được (tin) rằng: “Nghe nói Kaṭhina tại trú xứ ấy đã được thâu hồi.”[4] Sự việc nghe được (tin) là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, cầm lấy y (chưa được làm), ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và nhờ (người) làm y ấy. Vị ấy, có y đã được làm xong, (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về, ta sẽ trở về” rồi chờ đợi sự hết hiệu lực Kaṭhina ở bên ngoài. Sự việc vượt qua ranh giới là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, cầm lấy y (chưa được làm), ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và nhờ (người) làm y ấy. Vị ấy, có y đã được làm xong, (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về, ta sẽ trở về.” Thời điểm hết hiệu lực Kaṭhina đã đến. Sự hết hiệu lực Kaṭhina của vị tỳ khưu ấy là chung (lượt) với các vị tỳ khưu.
Dứt bảy trường hợp cầm lấy là phần thứ nhất.
[101] Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, mang theo (samādāya)[5] y đã được làm xong, ra đi (nghĩ rằng) “Ta sẽ không trở về.” Sự việc ra đi là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, mang theo y (chưa được làm), ra đi. Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Sự việc (y) được hoàn tất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, mang theo y (chưa được làm), ra đi. Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ không nhờ (người) làm y này nữa và sẽ không trở về.” Sự việc tự mình quyết định là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, mang theo y (chưa được làm), ra đi. Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Trong khi y ấy của vị ấy đang được làm thì bị mất. Sự việc bị mất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, mang theo y (chưa được làm), ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và nhờ (người) làm y ấy. Vị ấy, có y đã được làm xong, nghe được (tin) rằng: “Nghe nói Kaṭhina tại trú xứ ấy đã được thâu hồi.” Sự việc nghe được (tin) là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, mang theo y (chưa được làm), ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và nhờ (người) làm y ấy. Vị ấy, có y đã được làm xong, (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về, ta sẽ trở về,” và chờ đời sự hết hiệu lực Kaṭhina ở bên ngoài. Sự việc vượt qua ranh giới là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, mang theo y (chưa được làm), ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và nhờ (người) làm y ấy. Vị ấy, có y đã được làm xong, (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về, ta sẽ trở về.” Thời điểm hết hiệu lực Kaṭhina đã đến. Sự hết hiệu lực Kaṭhina của vị tỳ khưu ấy là chung (lượt) với các vị tỳ khưu.
Dứt bảy trường hợp mang theo là phần thứ nhì.
[102] Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, cầm lấy y chưa được hoàn tất, ra đi. Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Sự việc (y) được hoàn tất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, cầm lấy y chưa được hoàn tất, ra đi. Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ không nhờ (người) làm y này nữa và sẽ không trở về.” Sự việc tự mình quyết định là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, cầm lấy y chưa được hoàn tất, ra đi. Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Trong khi y ấy của vị ấy đang được làm thì bị mất. Sự việc bị mất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, cầm lấy y chưa được hoàn tất, ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và nhờ (người) làm y ấy. Vị ấy, có y đã được làm xong, nghe được (tin) rằng: “Nghe nói Kaṭhina tại trú xứ ấy đã được thâu hồi.” Sự việc nghe được (tin) là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, cầm lấy y chưa được hoàn tất, ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và nhờ (người) làm y ấy. Vị ấy, có y đã được làm xong, (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về, ta sẽ trở về” và chờ đợi sự hết hiệu lực Kaṭhina ở bên ngoài. Sự việc vượt qua ranh giới là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, cầm lấy y chưa được hoàn tất, ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và nhờ (người) làm y ấy. Vị ấy, có y đã được làm xong, (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về, ta sẽ trở về.” Thời điểm hết hiệu lực Kaṭhina đã đến. Sự hết hiệu lực Kaṭhina của vị tỳ khưu ấy là chung (lượt) với các vị tỳ khưu.
Dứt sáu trường hợp cầm lấy là phần thứ ba.
[103] Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, mang theo y chưa được hoàn tất, ra đi. Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Sự việc (y) được hoàn tất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, mang theo y chưa được hoàn tất, ra đi. Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ không nhờ (người) làm y này nữa và sẽ không trở về.” Sự việc tự mình quyết định là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, mang theo y chưa được hoàn tất, ra đi. Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Trong khi y ấy của vị ấy đang được làm thì bị mất. Sự việc bị mất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, mang theo y chưa được hoàn tất, ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và nhờ (người) làm y ấy. Vị ấy, có y đã được làm xong, nghe được (tin) rằng: “Nghe nói Kaṭhina tại trú xứ ấy đã được thâu hồi.” Sự việc nghe được (tin) là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, mang theo y chưa được hoàn tất, ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và nhờ (người) làm y ấy. Vị ấy, có y đã được làm xong, (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về, ta sẽ trở về” và chờ đợi sự hết hiệu lực Kaṭhina ở bên ngoài. Sự việc vượt qua ranh giới là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, mang theo y chưa được hoàn tất, ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và nhờ (người) làm y ấy. Vị ấy, có y đã được làm xong, (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về, ta sẽ trở về.” Thời điểm hết hiệu lực Kaṭhina đã đến. Sự hết hiệu lực Kaṭhina của vị tỳ khưu ấy là chung (lượt) với các vị tỳ khưu.
Dứt sáu trường hợp mang theo là phần thứ tư.
[104] Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, cầm lấy y (chưa được làm), ra đi. Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Sự việc (y) được hoàn tất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, cầm lấy y (chưa được làm), ra đi. Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ không nhờ (người) làm y này nữa và sẽ không trở về.” Sự việc tự mình quyết định là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, cầm lấy y (chưa được làm), ra đi. Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Trong khi y ấy của vị ấy đang được làm thì bị mất. Sự việc bị mất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
[105] Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, cầm lấy y (chưa được làm), ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ không trở về.” Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Sự việc (y) được hoàn tất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, cầm lấy y (chưa được làm), ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ không trở về.” Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ không nhờ (người) làm y này nữa.” Sự việc tự mình quyết định là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, cầm lấy y (chưa được làm), ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ không trở về.” Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Trong khi y ấy của vị ấy đang được làm thì bị mất. Sự việc bị mất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
[106] Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, cầm lấy y (chưa được làm), ra đi không có dứt khoát; vị ấy không khởi ý rằng: “Ta sẽ trở về” và vị ấy cũng không khởi ý rằng: “Ta sẽ không trở về.” Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Sự việc (y) được hoàn tất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, cầm lấy y (chưa được làm), ra đi không có dứt khoát; vị ấy không khởi ý rằng: “Ta sẽ trở về” và vị ấy cũng không khởi ý rằng: “Ta sẽ không trở về.” Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ không nhờ (người) làm y này nữa và sẽ không trở về.” Sự việc tự mình quyết định là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, cầm lấy y (chưa được làm), ra đi không có dứt khoát; vị ấy không khởi ý rằng: “Ta sẽ trở về” và vị ấy cũng không khởi ý rằng: “Ta sẽ không trở về.” Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Trong khi y ấy của vị ấy đang được làm thì bị mất. Sự việc bị mất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
[107] Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, cầm lấy y (chưa được làm), ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Sự việc (y) được hoàn tất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, cầm lấy y (chưa được làm), ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ không nhờ (người) làm y này nữa và sẽ không trở về.” Sự việc tự mình quyết định là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, cầm lấy y (chưa được làm), ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Trong khi y ấy của vị ấy đang được làm thì bị mất. Sự việc bị mất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, cầm lấy y (chưa được làm), ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và nhờ (người) làm y ấy. Vị ấy, có y đã được làm xong, nghe được (tin) rằng: “Nghe nói Kaṭhina tại trú xứ ấy đã được thâu hồi.” Sự việc nghe được (tin) là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, cầm lấy y (chưa được làm), ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và nhờ (người) làm y ấy. Vị ấy, có y đã được làm xong, (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về, ta sẽ trở về” và chờ đợi sự hết hiệu lực Kaṭhina ở bên ngoài. Sự việc vượt qua ranh giới là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, cầm lấy y (chưa được làm), ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và nhờ (người) làm y ấy. Vị ấy, có y đã được làm xong, (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về, ta sẽ trở về.” Thời điểm hết hiệu lực Kaṭhina đã đến. Sự hết hiệu lực Kaṭhina của vị tỳ khưu ấy là chung (lượt) với các vị tỳ khưu.
[108] Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, mang theo y (chưa được làm), ra đi. (Tương tợ như ở trường hợp “cầm lấy,” nên được giải thích đầy đủ như thế).
Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, cầm lấy y (chưa được hoàn tất), ra đi. Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Sự việc (y) được hoàn tất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy. (Tương tợ như ở trường hợp “mang theo,” nên được giải thích đầy đủ như thế).
[109] Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, mang theo y chưa được hoàn tất, ra đi. Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Sự việc (y) được hoàn tất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, mang theo y chưa được hoàn tất, ra đi. Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ không nhờ (người) làm y này nữa và sẽ không trở về.” Sự việc tự mình quyết định là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, mang theo y chưa được hoàn tất, ra đi. Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Trong khi y ấy của vị ấy đang được làm thì bị mất. Sự việc bị mất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
[110] Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, mang theo y chưa được hoàn tất, ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ không trở về.” Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Sự việc (y) được hoàn tất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, mang theo y chưa được hoàn tất, ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ không trở về.” Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ không nhờ (người) làm y này nữa.” Sự việc tự mình quyết định là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, mang theo y chưa được hoàn tất, ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ không trở về.” Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Trong khi y ấy của vị ấy đang được làm thì bị mất. Sự việc bị mất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
[111] Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, mang theo y chưa được hoàn tất, ra đi không có dứt khoát; vị ấy không khởi ý rằng: “Ta sẽ trở về” và vị ấy cũng không khởi ý rằng: “Ta sẽ không trở về.” Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Sự việc (y) được hoàn tất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, mang theo y chưa được hoàn tất, ra đi không có dứt khoát; vị ấy không khởi ý rằng: “Ta sẽ trở về” và vị ấy cũng không khởi ý rằng: “Ta sẽ không trở về.” Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ không nhờ (người) làm y này nữa và sẽ không trở về.” Sự việc tự mình quyết định là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, mang theo y chưa được hoàn tất, ra đi không có dứt khoát; vị ấy không khởi ý rằng: “Ta sẽ trở về” và vị ấy cũng không khởi ý rằng: “Ta sẽ không trở về.” Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Trong khi y ấy của vị ấy đang được làm thì bị mất. Sự việc bị mất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
[112] Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, mang theo y chưa được hoàn tất, ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Sự việc (y) được hoàn tất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, mang theo y chưa được hoàn tất, ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ không nhờ (người) làm y này nữa và sẽ không trở về.” Sự việc tự mình quyết định là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, mang theo y chưa được hoàn tất, ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Trong khi y ấy của vị ấy đang được làm thì bị mất. Sự việc bị mất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, mang theo y chưa được hoàn tất, ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và nhờ (người) làm y ấy. Vị ấy, có y đã được làm xong, nghe được (tin) rằng: “Nghe nói Kaṭhina tại trú xứ ấy đã được thâu hồi.” Sự việc nghe được (tin) là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, mang theo y chưa được hoàn tất, ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và nhờ (người) làm y ấy. Vị ấy, có y đã được làm xong, (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về, ta sẽ trở về” và chờ đợi sự hết hiệu lực Kaṭhina ở bên ngoài. Sự việc vượt qua ranh giới là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, mang theo y chưa được hoàn tất, ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và nhờ (người) làm y ấy. Vị ấy, có y đã được làm xong, (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về, ta sẽ trở về.” Thời điểm hết hiệu lực Kaṭhina đã đến. Sự hết hiệu lực Kaṭhina của vị tỳ khưu ấy là chung (lượt) với các vị tỳ khưu.
Dứt tụng phẩm “Cầm Lấy.”
[113] Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu ra đi với niềm mong mỏi về y. Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Vị ấy nhận được không như ý mong mỏi và không nhận được như ý mong mỏi. Vị ấy khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Sự việc (y) được hoàn tất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu ra đi với niềm mong mỏi về y. Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Vị ấy nhận được không như ý mong mỏi và không nhận được như ý mong mỏi. Vị ấy khởi ý như vầy: “Ta sẽ không nhờ (người) làm y này nữa và sẽ không trở về.” Sự việc tự mình quyết định là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu ra đi với niềm mong mỏi về y. Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Vị ấy nhận được không như ý mong mỏi và không nhận được như ý mong mỏi. Vị ấy khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Trong khi y ấy của vị ấy đang được làm thì bị mất. Sự việc bị mất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu ra đi với niềm mong mỏi về y. Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ lưu tâm đến niềm mong mỏi về y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Niềm mong mỏi về y ấy của vị ấy bị tan vỡ. Sự đổ vỡ trong niềm mong mỏi về y là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
[114] Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu ra đi với niềm mong mỏi về y (nghĩ rằng): “Ta sẽ không trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Vị ấy nhận được không như ý mong mỏi và không nhận được như ý mong mỏi. Vị ấy khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Sự việc (y) được hoàn tất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu ra đi với niềm mong mỏi về y (nghĩ rằng): “Ta sẽ không trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Vị ấy nhận được không như ý mong mỏi và không nhận được như ý mong mỏi. Vị ấy khởi ý như vầy: “Ta sẽ không nhờ (người) làm y này nữa.” Sự việc tự mình quyết định là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu ra đi với niềm mong mỏi về y (nghĩ rằng): “Ta sẽ không trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Vị ấy nhận được không như ý mong mỏi và không nhận được như ý mong mỏi. Vị ấy khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Trong khi y ấy của vị ấy đang được làm thì bị mất. Sự việc bị mất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu ra đi với niềm mong mỏi về y (nghĩ rằng): “Ta sẽ không trở về.” Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ lưu tâm đến niềm mong mỏi về y này ở chỗ kia.” Vị ấy lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Niềm mong mỏi về y ấy của vị ấy bị tan vỡ. Sự đổ vỡ trong niềm mong mỏi về y là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
[115] Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu ra đi với niềm mong mỏi về y và không có dứt khoát; vị ấy không khởi ý rằng: “Ta sẽ trở về” và vị ấy cũng không khởi ý rằng: “Ta sẽ không trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Vị ấy nhận được không như ý mong mỏi và không nhận được như ý mong mỏi. Vị ấy khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Sự việc (y) được hoàn tất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu ra đi với niềm mong mỏi về y và không có dứt khoát; vị ấy không khởi ý rằng: “Ta sẽ trở về” và vị ấy cũng không khởi ý rằng: “Ta sẽ không trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Vị ấy nhận được không như ý mong mỏi và không nhận được như ý mong mỏi. Vị ấy khởi ý như vầy: “Ta sẽ không nhờ (người) làm y này nữa và sẽ không trở về.” Sự việc tự mình quyết định là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu ra đi với niềm mong mỏi về y và không có dứt khoát; vị ấy không khởi ý rằng: “Ta sẽ trở về” và vị ấy cũng không khởi ý rằng: “Ta sẽ không trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Vị ấy nhận được không như ý mong mỏi và không nhận được như ý mong mỏi. Vị ấy khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Trong khi y ấy của vị ấy đang được làm thì bị mất. Sự việc bị mất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu ra đi với niềm mong mỏi về y và không có dứt khoát; vị ấy không khởi ý rằng: “Ta sẽ trở về” và vị ấy cũng không khởi ý rằng: “Ta sẽ không trở về.” Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ lưu tâm đến niềm mong mỏi về y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Niềm mong mỏi về y ấy của vị ấy bị tan vỡ. Sự đổ vỡ trong niềm mong mỏi về y là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
Dứt mười hai trường hợp không như ý mong mỏi.
[116] Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu ra đi với niềm mong mỏi về y (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Vị ấy nhận được như ý mong mỏi và không nhận được không như ý mong mỏi. Vị ấy khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Sự việc (y) được hoàn tất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu ra đi với niềm mong mỏi về y (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Vị ấy nhận được như ý mong mỏi và không nhận được không như ý mong mỏi. Vị ấy khởi ý như vầy: “Ta sẽ không nhờ (người) làm y này nữa và sẽ không trở về.” Sự việc tự mình quyết định là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu ra đi với niềm mong mỏi về y (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Vị ấy nhận được như ý mong mỏi và không nhận được không như ý mong mỏi. Vị ấy khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Trong khi y ấy của vị ấy đang được làm thì bị mất. Sự việc bị mất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu ra đi với niềm mong mỏi về y (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ lưu tâm đến niềm mong mỏi về y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Niềm mong mỏi về y ấy của vị ấy bị tan vỡ. Sự đổ vỡ trong niềm mong mỏi về y là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
[117] Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu ra đi với niềm mong mỏi về y (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và nghe được (tin) rằng: “Nghe nói Kaṭhina tại trú xứ ấy đã được thâu hồi.” Vị ấy khởi ý như vầy: “Bởi vì Kaṭhina tại trú xứ ấy đã được thâu hồi, vậy ta sẽ lưu tâm đến niềm mong mỏi về y này ở chỗ kia.” Vị ấy lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Vị ấy nhận được như ý mong mỏi và không nhận được không như ý mong mỏi. Vị ấy khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Sự việc (y) được hoàn tất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu ra đi với niềm mong mỏi về y (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và nghe được (tin) rằng: “Nghe nói Kaṭhina tại trú xứ ấy đã được thâu hồi.” Vị ấy khởi ý như vầy: “Bởi vì Kaṭhina tại trú xứ ấy đã được thâu hồi, vậy ta sẽ lưu tâm đến niềm mong mỏi về y này ở chỗ kia.” Vị ấy lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Vị ấy nhận được như ý mong mỏi và không nhận được không như ý mong mỏi. Vị ấy khởi ý như vầy: “Ta sẽ không nhờ (người) làm y này nữa và sẽ không trở về.” Sự việc tự mình quyết định là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu ra đi với niềm mong mỏi về y (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và nghe được (tin) rằng: “Nghe nói Kaṭhina tại trú xứ ấy đã được thâu hồi.” Vị ấy khởi ý như vầy: “Bởi vì Kaṭhina tại trú xứ ấy đã được thâu hồi, vậy ta sẽ lưu tâm đến niềm mong mỏi về y này ở chỗ kia.” Vị ấy lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Vị ấy nhận được như ý mong mỏi và không nhận được không như ý mong mỏi. Vị ấy khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Trong khi y ấy của vị ấy đang được làm thì bị mất. Sự việc bị mất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu ra đi với niềm mong mỏi về y (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và nghe được (tin) rằng: “Nghe nói Kaṭhina tại trú xứ ấy đã được thâu hồi.” Vị ấy khởi ý như vầy: “Bởi vì Kaṭhina tại trú xứ ấy đã được thâu hồi, vậy ta sẽ lưu tâm đến niềm mong mỏi về y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Niềm mong mỏi về y ấy của vị ấy bị tan vỡ. Sự đổ vỡ trong niềm mong mỏi về y là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
[118] Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu ra đi với niềm mong mỏi về y (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Vị ấy nhận được như ý mong mỏi và không nhận được không như ý mong mỏi. Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Vị ấy, có y đã được làm xong, nghe được (tin) rằng: “Nghe nói Kaṭhina tại trú xứ ấy đã được thâu hồi.” Sự việc nghe được (tin) là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu ra đi với niềm mong mỏi về y (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ lưu tâm đến niềm mong mỏi về y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Niềm mong mỏi về y ấy của vị ấy bị tan vỡ. Sự đổ vỡ trong niềm mong mỏi về y là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu ra đi với niềm mong mỏi về y (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Vị ấy nhận được như ý mong mỏi và không nhận được không như ý mong mỏi. Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Vị ấy, có y đã được làm xong, (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về, ta sẽ trở về” và chờ đợi sự hết hiệu lực Kaṭhina ở bên ngoài. Sự việc vượt qua ranh giới là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu ra đi với niềm mong mỏi về y (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Vị ấy nhận được như ý mong mỏi và không nhận được không như ý mong mỏi. Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Vị ấy, có y đã được làm xong, (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về, ta sẽ trở về.” Thời điểm hết hiệu lực Kaṭhina đã đến. Sự hết hiệu lực Kaṭhina của vị tỳ khưu ấy là chung (lượt) với các vị tỳ khưu.
Dứt mười hai trường hợp như ý mong mỏi.
[119] Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu ra đi chính vì có công việc cần làm nào đó. Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì niềm mong mỏi về y sanh khởi. Vị ấy lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Vị ấy nhận được không như ý mong mỏi và không nhận được như ý mong mỏi. Vị ấy khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Sự việc (y) được hoàn tất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu ra đi chính vì có công việc cần làm nào đó. Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì niềm mong mỏi về y sanh khởi. Vị ấy lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Vị ấy nhận được không như ý mong mỏi và không nhận được như ý mong mỏi. Vị ấy khởi ý như vầy: “Ta sẽ không nhờ (người) làm y này nữa và sẽ không trở về.” Sự việc tự mình quyết định là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu ra đi chính vì có công việc cần làm nào đó. Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì niềm mong mỏi về y sanh khởi. Vị ấy lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Vị ấy nhận được không như ý mong mỏi và không nhận được như ý mong mỏi. Vị ấy khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Trong khi y ấy của vị ấy đang được làm thì bị mất. Sự việc bị mất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu ra đi chính vì có công việc cần làm nào đó. Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì niềm mong mỏi về y sanh khởi. Vị ấy khởi ý như vầy: “Ta sẽ lưu tâm đến niềm mong mỏi về y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Niềm mong mỏi về y ấy của vị ấy bị tan vỡ. Sự đổ vỡ trong niềm mong mỏi về y là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
[120] Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu ra đi chính vì có công việc cần làm nào đó (nghĩ rằng): “Ta sẽ không trở về.” Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì niềm mong mỏi về y sanh khởi. Vị ấy lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Vị ấy nhận được không như ý mong mỏi và không nhận được như ý mong mỏi. Vị ấy khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Sự việc (y) được hoàn tất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu ra đi chính vì có công việc cần làm nào đó (nghĩ rằng): “Ta sẽ không trở về.” Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì niềm mong mỏi về y sanh khởi. Vị ấy lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Vị ấy nhận được không như ý mong mỏi và không nhận được như ý mong mỏi. Vị ấy khởi ý như vầy: “Ta sẽ không nhờ (người) làm y này nữa.” Sự việc tự mình quyết định là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu ra đi chính vì có công việc cần làm nào đó (nghĩ rằng): “Ta sẽ không trở về.” Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì niềm mong mỏi về y sanh khởi. Vị ấy lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Vị ấy nhận được không như ý mong mỏi và không nhận được như ý mong mỏi. Vị ấy khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Trong khi y ấy của vị ấy đang được làm thì bị mất. Sự việc bị mất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu ra đi chính vì có công việc cần làm nào đó (nghĩ rằng): “Ta sẽ không trở về.” Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì niềm mong mỏi về y sanh khởi. Vị ấy khởi ý như vầy: “Ta sẽ lưu tâm đến niềm mong mỏi về y này ở chỗ kia.” Vị ấy lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Niềm mong mỏi về y ấy của vị ấy bị tan vỡ. Sự đổ vỡ trong niềm mong mỏi về y là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
[121] Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu ra đi chính vì có công việc cần làm nào đó và không có dứt khoát; vị ấy không khởi ý rằng: “Ta sẽ trở về” và vị ấy cũng không khởi ý rằng: “Ta sẽ không trở về.” Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì niềm mong mỏi về y sanh khởi. Vị ấy lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Vị ấy nhận được không như ý mong mỏi và không nhận được như ý mong mỏi. Vị ấy khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Sự việc (y) được hoàn tất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu ra đi chính vì có công việc cần làm nào đó và không có dứt khoát; vị ấy không khởi ý rằng: “Ta sẽ trở về” và vị ấy cũng không khởi ý rằng: “Ta sẽ không trở về.” Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì niềm mong mỏi về y sanh khởi. Vị ấy lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Vị ấy nhận được không như ý mong mỏi và không nhận được như ý mong mỏi. Vị ấy khởi ý như vầy: “Ta sẽ không nhờ (người) làm y này nữa và sẽ không trở về.” Sự việc tự mình quyết định là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu ra đi chính vì có công việc cần làm nào đó và không có dứt khoát; vị ấy không khởi ý rằng: “Ta sẽ trở về” và vị ấy cũng không khởi ý rằng: “Ta sẽ không trở về.” Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì niềm mong mỏi về y sanh khởi. Vị ấy lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Vị ấy nhận được không như ý mong mỏi và không nhận được như ý mong mỏi. Vị ấy khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Trong khi y ấy của vị ấy đang được làm thì bị mất. Sự việc bị mất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu ra đi chính vì có công việc cần làm nào đó và không có dứt khoát; vị ấy không khởi ý rằng: “Ta sẽ trở về” và vị ấy cũng không khởi ý rằng: “Ta sẽ không trở về.” Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì niềm mong mỏi về y sanh khởi. Vị ấy khởi ý như vầy: “Ta sẽ lưu tâm đến niềm mong mỏi về y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Niềm mong mỏi về y ấy của vị ấy bị tan vỡ. Sự đổ vỡ trong niềm mong mỏi về y là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
Dứt mười hai trường hợp có công việc cần làm.
[122] Có vị tỳ khưu, có Kaṭhina đã được thành tựu và là vị du hành phương xa, ra đi không mang theo phần chia về y. Các vị tỳ khưu đã hỏi vị du hành phương xa ấy rằng:
– Này đại đức, ngài đã trú mùa (an cư) mưa ở đâu? Và phần chia về y của ngài đâu?
Vị ấy nói như vầy:
– Tôi đã trú mùa (an cư) mưa ở trú xứ kia và phần chia về y của tôi còn ở nơi ấy.
Các vị ấy nói như vầy:
– Này đại đức, hãy đi và đem y ấy lại. Chúng tôi sẽ làm y cho ngài ở đây.
Vị ấy đi về lại trú xứ ấy và hỏi các vị tỳ khưu rằng:
– Này các đại đức, phần chia y của tôi đâu?
Các vị ấy nói như vầy:
– Này đại đức, đây là phần chia y của ngài. Ngài sẽ đi đâu vậy?
Vị ấy nói như vầy:
– Tôi sẽ đi trú xứ kia, các vị tỳ khưu ở đó sẽ làm y cho tôi.
Các vị ấy nói như vầy:
– Này đại đức, được rồi, ngài chớ có đi. Chúng tôi sẽ làm y cho ngài ở đây.
Vị ấy khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Sự việc (y) được hoàn tất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
Có vị tỳ khưu, có Kaṭhina đã được thành tựu và là vị du hành phương xa, ra đi …(như trên)… Sự việc tự mình quyết định là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
Có vị tỳ khưu, có Kaṭhina đã được thành tựu và là vị du hành phương xa, ra đi …(như trên)… Sự việc bị mất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
[123] Có vị tỳ khưu, có Kaṭhina đã được thành tựu và là vị du hành phương xa, ra đi không mang theo phần chia về y. Các vị tỳ khưu đã hỏi vị du hành phương xa ấy rằng:
– Này đại đức, ngài đã trú mùa (an cư) mưa ở đâu? Và phần chia về y của ngài đâu?
Vị ấy nói như vầy:
– Tôi đã trú mùa (an cư) mưa ở trú xứ kia và phần chia về y của tôi còn ở nơi ấy.
Các vị ấy nói như vầy:
– Này đại đức, hãy đi và đem y ấy lại. Chúng tôi sẽ làm y cho ngài ở đây.
Vị ấy đi về lại trú xứ ấy và hỏi các vị tỳ khưu rằng:
– Này các đại đức, phần chia y của tôi đâu?
Các vị ấy nói như vầy:
– Này đại đức, đây là phần chia y của ngài.
Vị ấy cầm lấy y ấy và đi đến trú xứ kia. Giữa đường đi, các vị tỳ khưu hỏi vị ấy rằng:
– Này đại đức, ngài sẽ đi đâu?
Vị ấy nói như vầy:
– Tôi sẽ đi trú xứ kia, các vị tỳ khưu ở đó sẽ làm y cho tôi.
Các vị ấy nói như vầy:
– Này đại đức, được rồi, ngài chớ có đi. Chúng tôi sẽ làm y cho ngài ở đây.
Vị ấy khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chính chỗ này và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Sự việc (y) được hoàn tất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
Có vị tỳ khưu, có Kaṭhina đã được thành tựu và là vị du hành phương xa, ra đi không mang theo phần chia về y. Các vị tỳ khưu đã hỏi vị du hành phương xa ấy rằng:
– Này đại đức, ngài đã trú mùa (an cư) mưa ở đâu? Và phần chia về y của ngài đâu?
Vị ấy nói như vầy:
– Tôi đã trú mùa (an cư) mưa ở trú xứ kia và phần chia về y của tôi còn ở nơi ấy.
Các vị ấy nói như vầy:
– Này đại đức, hãy đi và đem y ấy lại. Chúng tôi sẽ làm y cho ngài ở đây.
Vị ấy đi về lại trú xứ ấy và hỏi các vị tỳ khưu rằng:
– Này các đại đức, phần chia y của tôi đâu?
Các vị ấy nói như vầy:
– Này đại đức, đây là phần chia y của ngài.
Vị ấy cầm lấy y ấy và đi đến trú xứ kia. Giữa đường đi, các vị tỳ khưu hỏi vị ấy rằng:
– Này đại đức, ngài sẽ đi đâu?
Vị ấy nói như vầy:
– Tôi sẽ đi trú xứ kia, các vị tỳ khưu ở đó sẽ làm y cho tôi.
Các vị ấy nói như vầy:
– Này đại đức, được rồi, ngài chớ có đi. Chúng tôi sẽ làm y cho ngài ở đây.
Vị ấy khởi ý như vầy: “Ta sẽ không nhờ (người) làm y này nữa và sẽ không trở về.” Sự việc tự mình quyết định là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
Có vị tỳ khưu, có Kaṭhina đã được thành tựu và là vị du hành phương xa, ra đi không mang theo phần chia về y. Các vị tỳ khưu đã hỏi vị du hành phương xa ấy rằng:
– Này đại đức, ngài đã trú mùa (an cư) mưa ở đâu? Và phần chia về y của ngài đâu?
Vị ấy nói như vầy:
– Tôi đã trú mùa (an cư) mưa ở trú xứ kia và phần chia về y của tôi còn ở nơi ấy.
Các vị ấy nói như vầy:
– Này đại đức, hãy đi và đem y ấy lại. Chúng tôi sẽ làm y cho ngài ở đây.
Vị ấy đi về lại trú xứ ấy và hỏi các vị tỳ khưu rằng:
– Này các đại đức, phần chia y của tôi đâu?
Các vị ấy nói như vầy:
– Này đại đức, đây là phần chia y của ngài.
Vị ấy cầm lấy y ấy và đi đến trú xứ kia. Giữa đường đi, các vị tỳ khưu hỏi vị ấy rằng:
– Này đại đức, ngài sẽ đi đâu?
Vị ấy nói như vầy:
– Tôi sẽ đi trú xứ kia, các vị tỳ khưu ở đó sẽ làm y cho tôi.
Các vị ấy nói như vầy:
– Này đại đức, được rồi, ngài chớ có đi. Chúng tôi sẽ làm y cho ngài ở đây.
Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Trong khi y ấy của vị ấy đang được làm thì bị mất. Sự việc bị mất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
[124] Có vị tỳ khưu, có Kaṭhina đã được thành tựu và là vị du hành phương xa, ra đi không mang theo phần chia về y. Các vị tỳ khưu đã hỏi vị du hành phương xa ấy rằng:
– Này đại đức, ngài đã trú mùa (an cư) mưa ở đâu? Và phần chia về y của ngài đâu?
Vị ấy nói như vầy:
– Tôi đã trú mùa (an cư) mưa ở trú xứ kia và phần chia về y của tôi còn ở nơi ấy.
Các vị ấy nói như vầy:
– Này đại đức, hãy đi và đem y ấy lại. Chúng tôi sẽ làm y cho ngài ở đây.
Vị ấy đi về lại trú xứ ấy và hỏi các vị tỳ khưu rằng:
– Này các đại đức, phần chia y của tôi đâu?
Các vị ấy nói như vầy:
– Này đại đức, đây là phần chia y của ngài.
Vị ấy cầm lấy y ấy và đi đến trú xứ kia. Khi đã đi đến trú xứ kia, vị ấy đã khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chính chỗ này và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Sự việc (y) được hoàn tất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
Có vị tỳ khưu, có Kaṭhina đã được thành tựu và là vị du hành phương xa, ra đi …(như trên)… “Ta sẽ không nhờ (người) làm y này nữa và sẽ không trở về.” Sự việc tự mình quyết định là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
Có vị tỳ khưu, có Kaṭhina đã được thành tựu và là vị du hành phương xa, ra đi …(như trên)… “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Trong khi y ấy của vị ấy đang được làm thì bị mất. Sự việc bị mất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
Dứt chín trường hợp không mang theo.
[125] Có vị tỳ khưu, có Kaṭhina đã được thành tựu và là vị sống ở trú xá với sự an lạc, đã cầm lấy y rồi ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ đi đến trú xứ ấy. Nếu ở nơi ấy có sự an lạc cho ta, ta sẽ cư ngụ. Nếu không có sự an lạc cho ta, ta sẽ đi đến trú xứ kia. Nếu ở nơi kia có sự an lạc cho ta, ta sẽ cư ngụ. Nếu không có sự an lạc cho ta, ta sẽ đi đến trú xứ nọ. Nếu ở nơi nọ có sự an lạc cho ta, ta sẽ cư ngụ. Nếu không có sự an lạc cho ta, ta sẽ trở về.” Khi vị ấy đi khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Sự việc (y) được hoàn tất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
Có vị tỳ khưu, có Kaṭhina đã được thành tựu và là vị sống ở trú xá với sự an lạc, đã cầm lấy y rồi ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ đi đến trú xứ ấy. Nếu ở nơi ấy có sự an lạc cho ta, ta sẽ cư ngụ. Nếu không có sự an lạc cho ta, ta sẽ đi đến trú xứ kia. Nếu ở nơi kia có sự an lạc cho ta, ta sẽ cư ngụ. Nếu không có sự an lạc cho ta, ta sẽ đi đến trú xứ nọ. Nếu ở nơi nọ có sự an lạc cho ta, ta sẽ cư ngụ. Nếu không có sự an lạc cho ta, ta sẽ trở về.” Khi vị ấy đi khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ không nhờ (người) làm y này nữa và sẽ không trở về.” Sự việc tự mình quyết định là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
Có vị tỳ khưu, có Kaṭhina đã được thành tựu và là vị sống ở trú xá với sự an lạc, đã cầm lấy y rồi ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ đi đến trú xứ ấy. Nếu ở nơi ấy có sự an lạc cho ta, ta sẽ cư ngụ. Nếu không có sự an lạc cho ta, ta sẽ đi đến trú xứ kia. Nếu ở nơi kia có sự an lạc cho ta, ta sẽ cư ngụ. Nếu không có sự an lạc cho ta, ta sẽ đi đến trú xứ nọ. Nếu ở nơi nọ có sự an lạc cho ta, ta sẽ cư ngụ. Nếu không có sự an lạc cho ta, ta sẽ trở về.” Khi vị ấy đi khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Trong khi y ấy của vị ấy đang được làm thì bị mất. Sự việc bị mất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
Có vị tỳ khưu, có Kaṭhina đã được thành tựu và là vị sống ở trú xá với sự an lạc, đã cầm lấy y rồi ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ đi đến trú xứ ấy. Nếu ở nơi ấy có sự an lạc cho ta, ta sẽ cư ngụ. Nếu không có sự an lạc cho ta, ta sẽ đi đến trú xứ kia. Nếu ở nơi kia có sự an lạc cho ta, ta sẽ cư ngụ. Nếu không có sự an lạc cho ta, ta sẽ đi đến trú xứ nọ. Nếu ở nơi nọ có sự an lạc cho ta, ta sẽ cư ngụ. Nếu không có sự an lạc cho ta, ta sẽ trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và nhờ (người) làm y ấy. Vị ấy, có y đã được làm xong, (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về, ta sẽ trở về” rồi chờ đợi sự hết hiệu lực Kaṭhina ở bên ngoài. Sự việc vượt qua ranh giới là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.
Có vị tỳ khưu, có Kaṭhina đã được thành tựu và là vị sống ở trú xá với sự an lạc, đã cầm lấy y rồi ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ đi đến trú xứ ấy. Nếu ở nơi ấy có sự an lạc cho ta, ta sẽ cư ngụ. Nếu không có sự an lạc cho ta, ta sẽ đi đến trú xứ kia. Nếu ở nơi kia có sự an lạc cho ta, ta sẽ cư ngụ. Nếu không có sự an lạc cho ta, ta sẽ đi đến trú xứ nọ. Nếu ở nơi nọ có sự an lạc cho ta, ta sẽ cư ngụ. Nếu không có sự an lạc cho ta, ta sẽ trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và nhờ (người) làm y ấy. Vị ấy, có y đã được làm xong, (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về, ta sẽ trở về.” Thời điểm hết hiệu lực Kaṭhina đã đến. Sự hết hiệu lực Kaṭhina của vị tỳ khưu ấy là chung (lượt) với các vị tỳ khưu.
Dứt năm trường hợp trú xá với sự an lạc.
[126] Này các tỳ khưu, đây là hai điều vướng bận (palibodha), hai điều không vướng bận (apalibodha) của Kaṭhina.
Và này các tỳ khưu, hai điều vướng bận của Kaṭhina là gì?
– Sự vướng bận về trú xứ và sự vướng bận về y.
Và này các tỳ khưu, thế nào là sự vướng bận về trú xứ?
– Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu cư ngụ tại trú xứ nọ khởi lên ước muốn rồi ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Này các tỳ khưu, như vậy là có sự vướng bận về trú xứ.
Và này các tỳ khưu, thế nào là sự vướng bận về y?
– Này các tỳ khưu, trường hợp y của vị tỳ khưu chưa được làm, hoặc là chưa được hoàn tất, hoặc là niềm mong mỏi về y chưa bị tan vỡ. Này các tỳ khưu, như vậy là có sự vướng bận về y.
Này các tỳ khưu, đây là hai điều vướng bận của Kaṭhina.
Và này các tỳ khưu, hai điều không vướng bận (apalibodha) của Kaṭhina là gì?
– Sự không vướng bận về trú xứ và sự không vướng bận về y.
Và này các tỳ khưu, thế nào là sự không vướng bận về trú xứ?
– Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu ra đi từ trú xứ ấy với sự buông bỏ, với sự từ bỏ, với sự dứt bỏ, với sự không quan tâm (nghĩ rằng): “Ta sẽ không trở về.” Này các tỳ khưu, như vậy là có sự không vướng bận về trú xứ.
Và này các tỳ khưu, thế nào là sự không vướng bận về y?
– Này các tỳ khưu, trường hợp y của vị tỳ khưu đã được làm xong, hoặc bị mất, hoặc bị hư hỏng, hoặc bị cháy, hoặc là niềm mong mỏi về y bị tan vỡ. Này các tỳ khưu, như vậy là có sự không vướng bận về y.
Này các tỳ khưu, đây là hai điều không vướng bận của Kaṭhina.
Dứt Chương Kaṭhina là chương thứ bảy.
Trong chương này có mười hai sự việc và một trăm mười tám vấn đề được lặp lại.
*******
Tóm lược chương này:
[127]
Ba mươi vị tỳ khưu
người ở xứ Pāvā
với tâm chẳng hài lòng
trú ở Sāketa.
Qua mùa an cư mưa,
các vị đã ra đi
diện kiến bậc Chiến Thắng
với (y) thấm đầy nước.
Đây chuyện Kaṭhina
và năm điều được phép:
không báo, không mang theo,
cũng thế ăn thành nhóm,
và giữ y tùy thích,
y phát sanh sẽ có
cho các vị thành tựu.
Lời đề nghị như thế,
và cũng thế thành tựu,
không thành tựu cũng thế:
được đánh dấu, và giặt,
tính toán, và việc cắt,
kết chỉ tạm, may thêm,
gắn miếng vải làm dấu,
may chắc chắn, may viền,
phần giữa, đắp lớp nữa,
nhuộm, dấu hiệu, lời giảng,
tạm thời, việc trì hoãn,
hủy bỏ, chưa được phép,
ngoại trừ ba y ấy,
ngoại trừ y năm điều,
hoặc nhiều điều hơn nữa,
được cắt rồi kết lại,
không ngoại trừ cá nhân
là được làm đúng đắn,
tùy hỷ đứng ngoài ranh
Kaṭhina không thành,
như thế đức Phật thuyết.
Không dơ, như không dơ,
choàng cũ, đồ quăng bỏ,
vải rơi nơi cửa tiệm,
không ra hiệu, thuyết giảng,
không tạm thời, không hoãn,
không hủy, dấu đã làm,
cũng thế là ba y,
năm điều hoặc hơn thế,
đã cắt, được kết lại,
thành tựu bởi cá nhân,
là việc làm đúng đắn,
tùy hỷ trong ranh giới,
như thế là thành tựu
của việc Kaṭhina.
Sự thu hồi tám điều:
sự ra đi, hoàn tất,
tự quyết định, mất đi,
nghe được, hết mong mỏi,
ranh giới, sự thu hồi
đồng lúc là thứ tám.
Cầm lấy y đã làm,
vị đi “không trở lại,”
Kaṭhina vị ấy
là đã được thu hồi
trong trường hợp ra đi.
Cầm lấy y chưa làm,
ra đi khỏi ranh giới,
vị ấy đã nghĩ rằng:
“Nơi đây ta sẽ làm
và không quay trở lại,”
trong khi được hoàn tất,
thu hồi Kaṭhina.
Cầm lấy, khỏi ranh giới,
vị ấy không nghĩ rằng:
“Ta không quay trở về;”
việc Kaṭhina ấy
của vị ấy thu hồi
là trong khi quyết định.
Cầm lấy y ra đi
khỏi ranh giới đã nghĩ:
“Nơi đây, ta sẽ làm
và không quay về nữa,”
trong khi làm bị mất;
việc Kaṭhina ấy
của vị ấy thu hồi
là trong trường hợp mất.
Cầm lấy rồi ra đi,
“Ta sẽ quay trở về,”
ở ngoài nhờ làm y,
y đã làm nghe được,
Kaṭhina nơi kia
đã được cho thu hồi;
việc Kaṭhina ấy
của vị ấy thu hồi
là trong trường hợp nghe.
Cầm lấy rồi ra đi,
“Ta sẽ quay trở về,”
ở ngoài nhờ làm y,
y đã được làm xong,
ở bên ngoài chờ đợi
thu hồi Kaṭhina;
việc Kaṭhina ấy
của vị ấy thu hồi
là do vượt qua ranh.
Cầm lấy rồi ra đi,
“Ta sẽ quay trở về,”
ở ngoài nhờ làm y,
y đã được làm xong,
“Ta sẽ quay trở về,”
đã đến thời của việc
thu hồi Kaṭhina;
việc Kaṭhina ấy
của vị ấy thu hồi
sanh lên đồng một lượt
với các vị tỳ khưu.
Cầm lấy và mang theo,
có bảy, bảy phương thức,
những trường hợp ra đi,
không có trong nhóm sáu
đường lối chưa hoàn tất.
Cầm lấy đi khỏi ranh,
khởi ý “Sẽ nhờ làm”
làm xong, tự quyết định
bị mất, ba điều này.
Cầm lấy, “Ta không về,
ta làm ngoài ranh giới,”
làm xong, tự quyết định,
bị mất, ba điều này.
Khi không được dứt khoát,
cũng không cho vị ấy,
ba phương thức bên dưới.
Cầm lấy và ra đi
“Ta sẽ quay trở về,
ta làm ngoài ranh giới,”
“Ta sẽ không quay về”
vị nhờ làm hoàn tất,
thu hồi Kaṭhina.
Tự quyết định, bị mất,
nghe được, vượt qua ranh,
được sanh khởi đồng thời
với các vị tỳ khưu,
như vầy mười lăm cách.
Mang theo, chưa hoàn tất,
mang theo như thế nữa,
bốn trường hợp này đây
toàn bộ mười lăm cách.
Không theo sự ước mốn,
và như sự mong mỏi,
có công việc cần làm,
ba điều ấy, nên hiểu
việc ấy từ phương thức
ba, mười hai, mười hai,
không thu gom, an lạc,
năm đường lối, nơi đây,
vướng bận, không vướng bận,
sự tóm tắt được làm
từ điều đã hướng dẫn.
[1] Hai phần [97] và [98] được dịch theo nghĩa dựa vào lời giải thích của ngài Buddhaghosa.
[2] Dịch sát nghĩa là vải chưa bị dơ, chưa bị hư hoại (ahatena). Câu kế là: được xem như là không bị dơ, ngài Buddhaghosa giải thích là đã được giặt hai hoặc ba lần.
[3] Các phần kế tiếp chỉ để giải thích tám điều này. Nên đọc kỹ [126] nói về hai điều vướng bận (palibodha) để nắm được ý nghĩa của các phần kế tiếp từ đây trở đi. Một cách tổng quát, nếu còn được một trong hai điều vướng bận thì Kaṭhina vẫn còn hiệu lực.
[4] Vấn đề thâu hồi Kaṭhina được ghi lại ở Phân Tích Giới Bổn Tỳ Khưu Ni – Bhikkhunīvibhaṅga (điều pācittiya 30, [253]).
[5] Phần [100] và [101] chỉ khác nhau ở chỗ bất biến động từ “ādāya” và “samādāya” là “cầm lấy” và “tự mình cầm lấy,” chúng tôi tạm dùng từ “mang theo” cho trường hợp sau, và không nhận ra tầm quan trọng trong sự việc được nhấn mạnh ở đây.
III. CHƯƠNG Y PHỤC
(CĪVARAKKHANDHAKAṂ)
[128] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Rājagaha, Veḷuvana, nơi nuôi dưỡng các con sóc. Vào lúc bấy giờ, thành Vesālī được phồn thịnh, giàu có, đông dân, nhiều người chen chúc, vật thực dễ dàng, có bảy ngàn bảy trăm lẻ bảy tòa nhà dài, bảy ngàn bảy trăm lẻ bảy lầu mái nhọn, bảy ngàn bảy trăm lẻ bảy công viên, bảy ngàn bảy trăm lẻ bảy hồ sen, có nàng kỷ nữ Ambapālī xinh đẹp, duyên dáng, yêu kiều, được phú cho làn da đẹp hạng nhất, thiện xảo về múa, hát, đàn, được những người đàn ông có lòng say đắm cầu cạnh, nàng qua đêm (với giá) năm mươi (kahāpaṇa). Và có nàng thành Vesālī càng thêm phần rạng rỡ.
Khi ấy, viên thị trưởng thành Rājagaha đã đi đến Vesālī do công việc cần thiết. Viên thị trưởng thành Rājagaha đã nhìn thấy thành Vesālī là phồn thịnh, giàu có, đông dân, nhiều người chen chúc, vật thực dễ dàng, có bảy ngàn bảy trăm lẻ bảy tòa nhà dài, bảy ngàn bảy trăm lẻ bảy lầu mái nhọn, bảy ngàn bảy trăm lẻ bảy công viên, bảy ngàn bảy trăm lẻ bảy hồ sen, có nàng kỷ nữ Ambapālī xinh đẹp, duyên dáng, yêu kiều, được phú cho làn da đẹp hạng nhất, thiện xảo về múa, hát, đàn, được những người đàn ông có lòng say đắm cầu cạnh, nàng qua đêm (với giá) năm mươi (kahāpaṇa), và có nàng thành Vesālī càng thêm phần rạng rỡ. Sau đó, khi đã hoàn tất công việc cần làm ấy ở Vesālī, viên thị trưởng thành Rājagaha đã quay về lại thành Rājagaha và đi đến gặp đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha, sau khi đến đã nói với đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha điều này:
– Tâu bệ hạ, thành Vesālī là phồn thịnh, giàu có, đông dân, nhiều người chen chúc, vật thực dễ dàng, có bảy ngàn bảy trăm lẻ bảy tòa nhà dài, bảy ngàn bảy trăm lẻ bảy lầu mái nhọn, bảy ngàn bảy trăm lẻ bảy công viên, bảy ngàn bảy trăm lẻ bảy hồ sen, có nàng kỷ nữ Ambapālī xinh đẹp, duyên dáng, yêu kiều, được phú cho làn da đẹp hạng nhất, thiện xảo về múa, hát, đàn, được những người đàn ông có lòng say đắm cầu cạnh, nàng qua đêm (với giá) năm mươi (kahāpaṇa), và có nàng thành Vesālī càng thêm phần rạng rỡ. Tâu bệ hạ, tốt đẹp thay nếu chúng ta cũng có thể đào tạo thành kỷ nữ.
– Này khanh, như thế thì khanh hãy tìm người con gái tương tợ rồi đào tạo nàng thành kỷ nữ.
Vào lúc bấy giờ, trong thành Rājagaha có người con gái tên Sālavatī là người xinh đẹp, duyên dáng, yêu kiều, được phú cho làn da đẹp hạng nhất. Khi ấy, viên thị trưởng thành Rājagaha đã đào tạo người con gái Sālavatī thành kỷ nữ. Sau đó chẳng bao lâu, nàng kỷ nữ Sālavatī đã trở nên thiện xảo về múa hát đàn, được những người đàn ông có lòng say đắm cầu cạnh, và nàng qua đêm (với giá) một trăm. Sau đó chẳng bao lâu, nàng kỷ nữ Sālavatī đã mang thai. Khi ấy, nàng kỷ nữ Sālavatī đã khởi ý điều này: “Đàn bà mang thai đâu còn được đàn ông ưa thích. Nếu có người biết rằng: ‘Kỷ nữ Sālavatī mang thai’ thì tất cả các người đeo đuổi sẽ bỏ rơi ta. Hay là ta nên cáo bệnh?” Sau đó, nàng kỷ nữ Sālavatī đã bảo người gác cổng rằng:
– Này chú em gác cổng, chớ để bất cứ người đàn ông nào vào. Và ai hỏi ta thì bảo rằng: “Bị bệnh.”
– Thưa cô chủ, xin vâng. Người gác cổng ấy đã đáp lại nàng kỷ nữ Sālavatī.
Sau đó, khi bào thai ấy được phát triển đầy đủ, nàng kỷ nữ Sālavatī đã sanh ra đứa bé trai. Khi ấy, nàng kỷ nữ Sālavatī đã bảo người tớ gái rằng:
– Này em, giờ hãy đặt đứa bé trai này vào trong giỏ đan loại nhỏ rồi mang đi quăng bỏ ở đống rác.
– Thưa cô chủ, xin vâng.
Rồi người tớ gái ấy nghe theo nàng kỷ nữ Sālavatī đã đặt đứa bé trai ấy vào trong giỏ đan loại nhỏ rồi mang đi quăng bỏ ở đống rác.
Vào lúc bấy giờ, có vương tử tên là Abhaya đang đi chầu vua vào sáng sớm đã nhìn thấy đứa bé trai ấy đang bị bầy quạ bu quanh, sau khi nhìn thấy đã hỏi mọi người rằng:
– Này các khanh, vật gì bị bầy quạ bu quanh vậy?
– Thưa ngài, đứa bé trai.
– Này các khanh, còn sống không?
– Thưa ngài, còn sống.
– Này các khanh, như thế thì hãy mang đứa bé trai ấy về hậu cung của chúng ta và giao cho các vú nuôi chăm sóc.
– Thưa ngài, xin vâng.
Rồi những người dân ấy nghe theo vương tử Abhaya đã mang đứa bé trai ấy về hậu cung của vương tử Abhaya rồi giao cho các vú nuôi (nói rằng):
– Các người hãy chăm sóc.
Họ đã đặt tên đứa bé là “Jīvaka ” (vì khi vương tử Abhaya hỏi là “Cái gì?” thì mọi ngưòi trả lời là “Jīvati” nghĩa là “còn sống”). Và bởi vì “được nuôi dưỡng bởi vương tử” (kumārena posāpitoti) nên đã được đặt tên là “Komārabhacca.”
Sau đó chẳng bao lâu, Jīvaka Komārabhacca đã đạt đến tuổi hiểu biết. Khi ấy, Jīvaka Komārabhacca đã đi đến gặp vương tử Abhaya, sau khi đến đã nói với vương tử Abhaya điều này:
– Thưa ngài, ai là mẹ của con, ai là cha của con?
– Này Jīvaka thương, ta cũng không biết mẹ của con; tuy nhiên ta là cha của con vì con đã được ta nuôi dưỡng.
Khi ấy, Jīvaka Komārabhacca đã khởi ý điều này: “Không có nghề nghiệp không dễ gì sống nhờ vả vào các gia đình vương giả này, hay là ta nên học lấy nghề nghiệp?”
[129] Vào lúc bấy giờ, có người thầy thuốc tiếng tăm lẫy lừng sống ở Takkasilā. Khi ấy, Jīvaka Komārabhacca không xin phép vương tử Abhaya đã đi đến Takkasilā, tuần tự đã đi đến Takkasilā gặp người thầy thuốc ấy, sau khi đến đã nói với người thầy thuốc ấy điều này:
– Thưa thầy, con muốn học nghề.
– Này Jīvaka mến, như vậy thì con có thể học.
Sau đó, Jīvaka Komārabhacca học nhiều, học nhanh chóng, suy nghiệm chính xác, và điều đã được học thì không quên đi. Sau đó, khi trải qua bảy năm Jīvaka Komārabhacca đã khởi ý rằng: “Ta học nhiều, học nhanh chóng, suy nghiệm chính xác, và điều đã được học thì không quên đi. Và trong khi ta đã học được bảy năm rồi mà đích cuối cùng của nghề này vẫn không được biết đến, vậy thì khi nào đích cuối cùng của nghề này mới được biết đến?” Sau đó, Jīvaka Komārabhacca đã đi đến gặp người thầy thuốc ấy, sau khi đến đã nói với người thầy thuốc ấy điều này:
– Thưa thầy, con học nhiều, học nhanh chóng, suy nghiệm chính xác, và điều đã được học thì không quên đi. Và trong khi con đã học được bảy năm rồi mà đích cuối cùng của nghề này vẫn không được biết đến, vậy thì khi nào đích cuối cùng của nghề này mới được biết đến?
– Này Jīvaka mến, như vậy thì con hãy cầm lấy cái thuổng, đi dạo xung quanh Takkasilā một do tuần, nếu con thấy được bất cứ vật gì không phải là dược phẩm thì hãy đem vật ấy về đây.
– Thưa thầy, xin vâng.
Rồi Jīvaka Komārabhacca nghe theo người thuốc ấy đã cầm lấy cái thuổng, và trong khi đi dạo xung quanh Takkasilā một do tuần, đã không nhìn thấy bất cứ vật gì không phải là dược phẩm. Sau đó, Jīvaka Komārabhacca đã đi đến gặp người thầy thuốc ấy, sau khi đến đã nói với người thầy thuốc ấy điều này:
– Thưa thầy, trong khi đi dạo xung quanh Takkasilā một do tuần con đã không thấy được bất cứ vật gì không phải là dược phẩm.
– Này Jīvaka mến, con đã học xong. Bấy nhiêu đó đã đủ cho cuộc sống của con rồi.
Rồi người thầy thuốc ấy đã trao cho Jīvaka Komārabhacca chút ít (tiền) dự phòng đường xa. Sau đó, Jīvaka Komārabhacca đã nhận lấy chút ít (tiền) dự phòng đường xa rồi ra đi về phía thành Rājagaha. Sau đó, vào khoảng giữa cuộc hành trình, ở Sāketa chút ít (tiền) dự phòng đường xa ấy đã hết. Khi ấy, Jīvaka Komārabhacca đã khởi ý điều này: “Những con đường này hoang vắng, ít nước, ít thức ăn, không có (tiền) dự phòng đường xa không phải dễ dàng để đi, hay là ta nên kiếm (tiền) dự phòng đường xa?”
[130] Vào lúc bấy giờ, ở Sāketa có người vợ của nhà đại phú bị bệnh đau đầu đã bảy năm. Nhiều thầy thuốc vô cùng nổi danh và tiếng tăm lừng lẫy đã đi đến và chữa trị dài ngày vẫn không đủ khả năng làm lành bệnh; họ đã nhận lãnh nhiều vàng rồi ra đi. Khi ấy, Jīvaka Komārabhacca đã đi vào Sāketa và hỏi dân chúng rằng:
– Này các người, ai bị bệnh? Tôi chữa trị ai đây?
– Này ông thầy, người vợ nhà đại phú kia bị bệnh đau đầu đã bảy năm. Này ông thầy, hãy đi và chữa trị người vợ nhà đại phú.
Sau đó, Jīvaka Komārabhacca đã đi đến tư gia của vị đại phú, sau khi đến đã bảo người gác cổng rằng:
– Này chú gác cổng, hãy đi và báo cho người vợ nhà đại phú điều này: “Thưa bà, người thầy thuốc đã đến, ông ấy có ý muốn gặp bà.”
– Thưa thầy, xin vâng.
Rồi người gác cổng ấy nghe theo Jīvaka Komārabhacca đã đi đến gặp người vợ nhà đại phú, sau khi đến đã nói với người vợ nhà đại phú điều này:
– Thưa bà, người thầy thuốc đã đến, ông ấy có ý muốn gặp bà.
– Này chú gác cổng, người thầy thuốc ra làm sao?
– Thưa bà, còn trẻ lắm.
– Này chú gác cổng, thôi đủ rồi! Thầy thuốc còn trẻ lắm thì sẽ làm được gì cho ta? Nhiều thầy thuốc vô cùng nổi danh và tiếng tăm lừng lẫy đã đi đến và chữa trị dài ngày vẫn không đủ khả năng làm lành bệnh; họ đã nhận lãnh nhiều vàng rồi ra đi.
Sau đó, người gác cổng ấy đã đi đến gặp Jīvaka Komārabhacca, sau khi đến đã nói với Jīvaka Komārabhacca điều này:
– Thưa thầy, người vợ nhà đại phú đã nói như vầy: “Này chú gác cổng, thôi đủ rồi! Thầy thuốc còn trẻ lắm thì sẽ làm được gì cho ta? Nhiều thầy thuốc vô cùng nổi danh và tiếng tăm lừng lẫy đã đi đến và chữa trị dài ngày vẫn không đủ khả năng làm lành bệnh; họ đã nhận lãnh nhiều vàng rồi ra đi.”
– Này chú gác cổng, hãy đi và báo cho người vợ nhà đại phú như vầy: “Thưa bà, người thầy thuốc đã nói như vầy: ‘Thưa bà, bà không phải đưa trước vật gì. Khi nào khỏi bệnh, khi ấy bà muốn cho vật gì thì bà cứ việc cho vật ấy’.”
– Thưa thầy, xin vâng.
Rồi người gác cổng ấy nghe theo Jīvaka Komārabhacca đã đi đến gặp người vợ nhà đại phú, sau khi đến đã nói với người vợ nhà đại phú điều này:
– Thưa bà, người thầy thuốc đã nói như vầy: “Thưa bà, bà không phải đưa trước vật gì. Khi nào khỏi bệnh, khi ấy bà muốn cho vật gì thì bà cứ việc cho vật ấy.”
– Này chú gác cổng, như thế thì hãy bảo người thầy thuốc đi đến.
– Thưa bà, xin vâng.
Rồi người gác cổng ấy nghe theo người vợ nhà đại phú đã đi đến gặp Jīvaka Komārabhacca, sau khi đến đã nói với Jīvaka Komārabhacca điều này:
– Thưa thầy, người vợ nhà đại phú cho gọi thầy.
Khi ấy, Jīvaka Komārabhacca đã đi đến gặp người vợ nhà đại phú, sau khi đến đã xem xét sự biến đổi ở sắc mặt của người vợ nhà đại phú rồi nói với người vợ nhà đại phú điều này:
– Thưa bà, tôi cần một bụm tay bơ lỏng.
Khi ấy, người vợ nhà đại phú đã bảo người trao cho Jīvaka Komārabhacca một bụm tay bơ lỏng. Sau đó, Jīvaka Komārabhacca đã nấu sôi bụm tay bơ lỏng ấy với nhiều loại dược phẩm rồi bảo người vợ nhà đại phú nằm ngửa ở trên giường và cho vào theo đường mũi. Sau đó, bơ lỏng đã được cho vào theo đường mũi ấy đã đi ra theo đường miệng. Khi ấy, người vợ nhà đại phú đã nhổ bơ lỏng ấy vào vật đựng rồi bảo người tớ gái rằng:
– Này em, hãy thu hồi lại bơ lỏng này bằng lớp gòn.
Khi ấy, Jīvaka Komārabhacca đã khởi ý điều này: “Thật là kỳ lạ! Bà chủ nhà này thật là hà tiện! Bởi vì thứ bơ lỏng chỉ đáng quăng bỏ này còn được bảo thu hồi lại bằng lớp gòn! Và nhiều thứ thuốc vô cùng quý giá của ta đã được sử dụng, rồi bà ta sẽ trả công cán cho ta bằng cái gì đây?” Khi ấy, sau khi xem xét sự biến đổi ở sắc mặt của Jīvaka Komārabhacca, người vợ nhà đại phú đã nói với Jīvaka Komārabhacca điều này:
– Thưa thầy, sao thầy có vẻ lo âu vậy?
– Trong trường hợp này, tôi đã khởi ý điều này: “Thật là kỳ lạ! Bà chủ nhà này thật là hà tiện! Bởi vì thứ bơ lỏng chỉ đáng quăng bỏ này còn được bảo thu hồi lại bằng lớp gòn! Và nhiều thứ thuốc vô cùng quý giá của ta đã được sử dụng, rồi bà ta sẽ trả công cán cho ta bằng cái gì đây?”
– Thưa thầy, chúng tôi là những gia chủ hiểu về điều ấy là sự tiết kiệm. Bơ lỏng ấy là thuốc xoa chân rất tốt cho các tôi tớ và các người làm công, hoặc là dầu cho việc đốt đèn. Thưa thầy, thầy chớ có lo âu. Sự trả công cho thầy sẽ không phải bỏ phí.
Khi ấy, Jīvaka Komārabhacca đã trị dứt chứng bệnh đau đầu bảy năm của người vợ nhà đại phú chỉ bằng có mỗi một việc làm ở mũi. Sau đó, khi được khỏi bệnh người vợ nhà đại phú đã thưởng cho Jīvaka Komārabhacca bốn ngàn. Người con trai (nghĩ rằng): “Mẹ ta đã khỏi bệnh!” nên đã thưởng cho Jīvaka Komārabhacca bốn ngàn. Người con dâu (nghĩ rằng): “Mẹ chồng ta đã khỏi bệnh!” nên đã thưởng cho Jīvaka Komārabhacca bốn ngàn. Người gia chủ đại phú (nghĩ rằng): “Vợ ta đã khỏi bệnh!” nên đã thưởng cho Jīvaka Komārabhacca bốn ngàn, một tôi trai, một tớ gái, và chiếc xe ngựa. Sau đó, Jīvaka Komārabhacca đã cầm lấy mười sáu ngàn ấy, một tôi trai, một tớ gái, và chiếc xe ngựa rồi ra đi đến thành Rājagaha. Tuần tự, Jīvaka Komārabhacca đã đi đến thành Rājagaha gặp vương tử Abhaya, sau khi đến đã nói với vương tử Abhaya điều này:
– Thưa ngài, đây là công việc đầu tiên của con gồm có mười sáu ngàn, một tôi trai, một tớ gái, và chiếc xe ngựa. Thưa ngài, xin ngài hãy nhận lấy cho việc đã nuôi dưỡng con.
– Này Jīvaka thương, thôi đi, hãy để cho chính con. Con hãy cho xây biệt thự trong tư dinh của chúng ta.
– Thưa ngài, xin vâng.
Rồi Jīvaka Komārabhacca nghe theo vương tử Abhaya đã cho xây biệt thự trong tư dinh của vương tử Abhaya
[131] Vào lúc bấy giờ, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha bị bệnh rò rỉ (bhagandalābādha). Các vải choàng đều bị lấm lem bởi máu. Các vương phi thấy được trêu ghẹo rằng:
– Bữa nay, chúa công tới chu kỳ. Kinh nguyệt của chúa công đã có. Chẳng bao lâu nữa chúa công sẽ sanh con.
Vì chuyện ấy, đức vua bị xấu hổ. Sau đó, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã nói với vương tử Abhaya điều này:
– Này khanh Abhaya, trẫm có bệnh giống như vầy. Các vải choàng đều bị lấm lem bởi máu. Các vương phi thấy được trêu ghẹo rằng: “Bữa nay, chúa công tới chu kỳ. Kinh nguyệt của chúa công đã có. Chẳng bao lâu nữa chúa công sẽ sanh con.” Này khanh Abhaya, hãy tìm thầy thuốc hạng nào đó có thể điều trị cho trẫm.
– Tâu bệ hạ, Jīvaka này của thần là thầy thuốc trẻ, giỏi giang, cậu ta sẽ điều trị cho bệ hạ.
– Này khanh Abhaya, như thế thì hãy ra lệnh cho thầy thuốc Jīvaka. Vị ấy sẽ điều trị cho trẫm.
Sau đó, vương tử Abhaya đã truyền lệnh cho Jīvaka Komārabhacca rằng:
– Này con Jīvaka, hãy đi và điều trị cho đức vua.
– Thưa ngài, xin vâng.
Rồi Jīvaka Komārabhacca nghe theo vương tử Abhaya sau khi nhét dược phẩm vào trong móng tay rồi đã đi đến gặp đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha, sau khi đến đã nói với đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha điều này:
– Tâu bệ hạ, hãy để thần xem bệnh của bệ hạ.
Khi ấy, Jīvaka Komārabhacca đã trị dứt căn bệnh rò rỉ của đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha chỉ bằng có mỗi một liều thuốc thoa. Sau đó, khi được khỏi bệnh đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã cho người trang điểm năm trăm người nữ với tất cả các đồ trang sức, xong bảo tháo ra, cho chất thành đống, rồi nói với Jīvaka Komārabhacca điều này:
– Này khanh Jīvaka, tất cả các đồ trang sức này từ năm trăm người nữ là của khanh.
– Tâu bệ hạ, không dám, chỉ xin bệ hạ hãy nhớ cho chức vụ của thần.
– Này khanh Jīvaka, như vậy thì khanh hãy phục vụ trẫm, các cung phi, và hội chúng tỳ khưu có đức Phật đứng đầu.
– Tâu bệ hạ, xin vâng. Jīvaka Komārabhacca đã trả lời đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha.
[132] Vào lúc bấy giờ, có nhà đại phú ở thành Rājagaha bị bệnh đau đầu đã được bảy năm. Nhiều thầy thuốc vô cùng nổi danh và tiếng tăm lừng lẫy đã đi đến và chữa trị dài ngày vẫn không đủ khả năng làm lành bệnh; họ đã nhận lãnh nhiều vàng rồi ra đi. Hơn nữa, ông ta đã bị các thầy thuốc từ chối. Một số thầy thuốc đã nói như vầy: “Trong năm ngày nữa, người gia chủ đại phú này sẽ chết.” Một số thầy thuốc khác đã nói như vầy: “Trong bảy ngày nữa, người gia chủ đại phú này sẽ chết.” Khi ấy, vị thị trưởng thành Rājagaha đã khởi ý điều này: “Người gia chủ đại phú này có nhiều cống hiến cho đức vua và cho thị trấn nữa. Tuy nhiên, ông ta đã bị các thầy thuốc từ chối. Một số thầy thuốc đã nói như vầy: ‘Trong năm ngày nữa, người gia chủ đại phú này sẽ chết.’ Một số thầy thuốc khác đã nói như vầy: ‘Trong bảy ngày nữa, người gia chủ đại phú này sẽ chết.’ Và Jīvaka này là thầy thuốc của đức vua, trẻ tuổi, và giỏi giang, hay là chúng ta nên cầu xin đức vua phái thầy thuốc Jīvaka điều trị cho người gia chủ đại phú vậy?” Sau đó, viên thị trưởng thành Rājagaha đã đi đến gặp đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha, sau khi đến đã nói với đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha điều này:
– Tâu bệ hạ, người gia chủ đại phú này có nhiều cống hiến cho đức vua và cho thị trấn nữa. Tuy nhiên, ông ta đã bị các thầy thuốc từ chối. Một số thầy thuốc đã nói như vầy: “Trong năm ngày nữa, người gia chủ đại phú này sẽ chết.” Một số thầy thuốc khác đã nói như vầy: “Trong bảy ngày nữa, người gia chủ đại phú này sẽ chết.”Tâu bệ hạ, tốt đẹp thay xin bệ hạ hãy ra lệnh cho thầy thuốc Jīvaka điều trị cho người gia chủ đại phú.
Khi ấy, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã ra lệnh cho Jīvaka Komārabhacca rằng:
– Này khanh Jīvaka, hãy đi và điều trị cho người gia chủ đại phú.
– Tâu bệ hạ, xin vâng.
Rồi Jīvaka Komārabhacca nghe theo lời đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã đi đến gặp người gia chủ đại phú, sau khi đến đã xem xét sự biến đổi ở sắc mặt của người gia chủ đại phú rồi đã nói với người gia chủ đại phú điều này:
– Này gia chủ, nếu tôi chữa ông khỏi bệnh ấy, tôi sẽ được công cán gì đây?
– Thưa thầy, tất cả tài sản sẽ là của thầy và tôi sẽ là đầy tớ của thầy.
– Này gia chủ, ông có thể nằm một bên hông trong bảy tháng không?
– Thưa thầy, tôi có thể nằm một bên hông trong bảy tháng.
– Này gia chủ, ông có thể nằm bên hông kia trong bảy tháng không?
– Thưa thầy, tôi có thể nằm bên hông kia trong bảy tháng.
– Này gia chủ, ông có thể nằm ngửa trong bảy tháng không?
– Thưa thầy, tôi có thể nằm ngửa trong bảy tháng.
Sau đó, Jīvaka Komārabhacca đã bảo người gia chủ đại phú nằm xuống trên giường, sau khi buộc chặt ở trên giường rồi đã cắt làn da đầu, tách đôi vết mổ, rồi lôi ra hai con sâu đưa cho mọi người thấy (nói rằng):
– Hãy xem hai con sâu một nhỏ một lớn này. Các vị thầy nào đã nói như vầy: “Trong năm ngày nữa, người gia chủ đại phú này sẽ chết,” các vị ấy đã thấy con sâu lớn này trong năm ngày nữa sẽ xâm nhập bộ não của người gia chủ đại phú; do sự xâm nhập vào bộ não mà người gia chủ đại phú sẽ phải chết. Các vị thầy ấy đã nhìn thấy đúng. Còn các vị thầy nào đã nói như vầy: “Trong bảy ngày nữa, người gia chủ đại phú này sẽ chết,” các vị ấy đã thấy con sâu nhỏ này trong bảy ngày nữa sẽ xâm nhập bộ não của người gia chủ đại phú; do sự xâm nhập vào bộ não mà người gia chủ đại phú sẽ phải chết. Các vị thầy ấy đã nhìn thấy đúng.
Rồi Jīvaka Komārabhacca đã khép lại vết mổ, khâu lại đường cắt ở đầu, và bôi thuốc mỡ vào.
Sau đó, khi trải qua bảy ngày người gia chủ đại phú đã nói với Jīvaka Komārabhacca điều này:
– Thưa thầy, tôi không thể nằm một bên hông trong bảy tháng.
– Này gia chủ, không phải ông đã cam đoan với tôi rằng: “Thưa thầy, tôi có thể nằm một bên hông trong bảy tháng” hay sao?
– Thưa thầy, đúng vậy. Tôi đã cam đoan, nhưng mà tôi sẽ chết mất. Tôi không thể nằm một bên hông trong bảy tháng.
– Này gia chủ, như thế thì ngươi hãy nằm bên hông kia trong bảy tháng.
Sau đó, khi trải qua bảy ngày người gia chủ đại phú đã nói với Jīvaka Komārabhacca điều này:
– Thưa thầy, tôi không thể nằm bên hông kia trong bảy tháng.
– Này gia chủ, không phải ông đã cam đoan với tôi rằng: “Thưa thầy, tôi có thể nằm bên hông kia trong bảy tháng” hay sao?
– Thưa thầy, đúng vậy. Tôi đã cam đoan, nhưng mà tôi sẽ chết mất. Tôi không thể nằm một bên hông trong bảy tháng.
– Này gia chủ, như thế thì ngươi hãy nằm ngửa trong bảy tháng.
Sau đó, khi trải qua bảy ngày người gia chủ đại phú đã nói với Jīvaka Komārabhacca điều này:
– Thưa thầy, tôi không thể nằm ngửa trong bảy tháng.
– Này gia chủ, không phải ông đã cam đoan với tôi rằng: “Thưa thầy, tôi có thể nằm ngửa trong bảy tháng” hay sao?
– Thưa thầy, đúng vậy. Tôi đã cam đoan, nhưng mà tôi sẽ chết. Tôi không thể nằm ngửa trong bảy tháng.
– Này gia chủ, nếu tôi không nói nhiều lên như thế thì ông không thể nằm xuống được như vầy. Hơn nữa, tôi đã tính trước và biết rằng: “Trong ba lần bảy ngày, người gia chủ đại phú sẽ khỏi bệnh.” Này gia chủ, hãy đứng dậy, ông đã khỏi bệnh. Ông hãy xem coi “Công cán của tôi là cái gì?”
– Thưa thầy, tất cả tài sản hãy là của thầy và tôi sẽ là đầy tớ của thầy.
– Này gia chủ, thôi đi. Ông chớ có cho tôi tất cả tài sản và chớ có là đầy tớ của tôi. Hãy trao cho đức vua một trăm ngàn và tôi một trăm ngàn.
Sau đó, người gia chủ đại phú được khỏi bệnh đã trao cho đức vua một trăm ngàn và Jīvaka Komārabhacca một trăm ngàn.
[133] Vào lúc bấy giờ, người con trai của nhà đại phú ở Bārāṇasī (Ba La Nại) trong lúc chơi giỡn trò nhào lộn bị bệnh xoắn ruột. Vì thế, ngay cả cháo húp vào cũng không được tiêu hóa đúng đắn, vật thực ăn vào cũng không được tiêu hóa đúng đắn, thậm chí việc tiểu tiện đại tiện cũng không bình thường. Do đó, cậu trai trở nên ốm o, cằn cỗi, xuống sắc, có vẻ xanh xao, thân hình nổi đầy gân. Khi ấy, nhà đại phú thành Bārāṇasī đã khởi ý điều này: “Con trai ta có chứng bệnh như thế này. Ngay cả cháo húp vào cũng không được tiêu hóa đúng đắn, vật thực ăn vào cũng không được tiêu hóa đúng đắn, thậm chí việc tiểu tiện đại tiện cũng không bình thường. Do đó, con trai ta trở nên ốm o, cằn cỗi, xuống sắc, có vẻ xanh xao, thân hình nổi đầy gân. Hay là ta nên đi đến thành Rājagaha cầu xin đức vua phái thầy thuốc Jīvaka điều trị cho con trai của ta vậy?” Sau đó, nhà đại phú ở Bārāṇasī đã đi đến gặp đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha, sau khi đến đã nói với đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha điều này:
– Tâu bệ hạ, con trai thần có chứng bệnh như thế này. Ngay cả cháo húp vào cũng không được tiêu hóa đúng đắn, vật thực ăn vào cũng không được tiêu hóa đúng đắn, thậm chí việc tiểu tiện đại tiện cũng không bình thường. Do đó, con trai thần trở nên ốm o, cằn cỗi, xuống sắc, có vẻ xanh xao, thân hình nổi đầy gân. Tâu bệ hạ, tốt đẹp thay xin bệ hạ hãy ra lệnh cho thầy thuốc Jīvaka điều trị cho con trai của thần.
Khi ấy, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã ra lệnh cho Jīvaka Komārabhacca rằng:
– Này khanh Jīvaka, hãy đi. Sau khi đi đến Bārāṇasī khanh hãy điều trị cho con trai nhà đại phú ở Bārāṇasī.
– Tâu bệ hạ, xin vâng.
Rồi Jīvaka Komārabhacca nghe theo lời đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã đi Bārāṇasī gặp người con trai nhà đại phú ở Bārāṇasī, sau khi đến đã xem xét sự biến đổi ở sắc mặt của người con trai nhà đại phú ở Bārāṇasī rồi bảo mọi người tránh đi, dùng màn che vây kín lại, cột chặt (người con trai) vào cây cột nhà, bảo người vợ đứng ở phía trước, rồi cắt làn da ở bụng, lấy ruột ra, đưa cho người vợ thấy (nói rằng):
– Hãy nhìn xem bệnh của tướng công bà. Vì điều này mà ngay cả cháo húp vào cũng không được tiêu hóa đúng đắn, vật thực ăn vào cũng không được tiêu hóa đúng đắn, thậm chí việc tiểu tiện đại tiện cũng không bình thường. Vì điều ấy, người này trở nên ốm o, cằn cỗi, xuống sắc, có vẻ xanh xao, thân hình nổi đầy gân.
Rồi Jīvaka Komārabhacca đã tháo gở phần ruột bị xoắn, đặt các thứ ruột vào trở lại, khâu lại làn da bụng, rồi bôi thuốc mỡ vào.
Sau đó chẳng bao lâu, người con trai nhà đại phú ở Bārāṇasī đã được khỏi bệnh. Khi ấy, người con trai nhà đại phú ở Bārāṇasī (nghĩ rằng): “Ta đã được khỏi bệnh” rồi đã thưởng cho Jīvaka Komārabhacca mười sáu ngàn. Khi ấy, Jīvaka Komārabhacca đã cầm lấy mười sáu ngàn ấy rồi quay trở về lại thành Rājagaha.
[134] Vào lúc bấy giờ, đức vua Pajjota xứ Ujjenī bị bệnh vàng da. Nhiều thầy thuốc vô cùng nổi danh và tiếng tăm lừng lẫy đã đi đến và chữa trị dài ngày vẫn không đủ khả năng làm lành bệnh; họ đã nhận lãnh nhiều vàng rồi ra đi. Sau đó, đức vua Pajjota đã phái sứ giả đi đến tâu trực tiếp với đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha rằng:
– Tâu bệ hạ, tôi bị bệnh như thế này. Tâu bệ hạ, tốt đẹp thay xin bệ hạ hãy ra lệnh cho thầy thuốc Jīvaka điều trị cho tôi.
Khi ấy, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã ra lệnh cho Jīvaka Komārabhacca rằng:
– Này khanh Jīvaka, hãy đi. Sau khi đi đến Ujjenī khanh hãy điều trị cho đức vua Pajjota.
– Tâu bệ hạ, xin vâng.
Rồi Jīvaka Komārabhacca nghe theo lời đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã đi Ujjenī gặp đức vua Pajjota, sau khi đến đã xem xét sự biến đổi ở sắc mặt của đức vua Pajjota rồi đã nói điều này:
– Tâu bệ hạ, thần sẽ đun sôi bơ lỏng và bệ hạ sẽ uống thứ ấy.
– Này khanh Jīvaka, thôi đi. Ngươi hãy làm khỏi bệnh bằng cách nào mà có thể không dùng bơ lỏng. Đối với ta, bơ lỏng ghê tởm và không thích hợp.
Khi ấy, Jīvaka Komārabhacca đã khởi ý điều này: “Bệnh của đức vua này là như thế ấy; không dùng bơ lỏng ta không thể nào làm khỏi bệnh được. Hay là ta nên nấu sôi bơ lỏng có màu cam, hương của cam, và vị của cam?” Sau đó, Jīvaka Komārabhacca đã nấu sôi bơ lỏng có màu cam, hương của cam, và vị của cam với nhiều loại dược phẩm. Khi ấy, Jīvaka Komārabhacca đã khởi ý điều này: “Bơ lỏng khi đã được đức vua này uống vào, trong khi được tiêu hóa sẽ làm ợ chua. Đức vua này thì tàn bạo có thể cho người giết ta, hay là ta nên hỏi phòng xa trước?” Sau đó, Jīvaka Komārabhacca đã đi đến gặp đức vua Pajjota, sau khi đến đã nói với đức vua Pajjota điều này:
– Tâu bệ hạ, những người thầy thuốc chúng tôi nhổ các thứ rễ cây, thu hoạch các thứ dược phẩm vào thời điểm thích hợp. Tốt đẹp thay xin bệ hạ hãy ra lệnh cho các trạm xe và các cổng thành rằng: “Jīvaka muốn đi bằng xe nào thì hãy để cho đi bằng xe đó, muốn đi ra bằng cổng nào thì hãy để cho đi ra bằng cổng đó, muốn đi ra lúc nào thì hãy cho đi ra lúc đó, muốn đi vào lúc nào thì hãy cho đi vào lúc đó.”
Sau đó, đức vua Pajjota đã ra lệnh cho các trạm xe và các cổng thành rằng:
– Jīvaka muốn đi bằng xe nào thì hãy để cho đi bằng xe đó, muốn đi ra bằng cổng nào thì hãy để cho đi ra bằng cổng đó, muốn đi ra lúc nào thì hãy cho đi ra lúc đó, muốn đi vào lúc nào thì hãy cho đi vào lúc đó.
Vào lúc bấy giờ, đức vua Pajjota có con voi cái tên là Bhaddavatikā có thể đi năm mươi do tuần (trong một ngày). Rồi Jīvaka Komārabhacca đã đem lại thứ bơ lỏng ấy cho đức vua Pajjota (nói rằng):
– Xin bệ hạ hãy uống cam.
Sau đó, khi đã cho đức vua Pajjota uống bơ lỏng xong, Jīvaka Komārabhacca đã đi ra chuồng voi và vội vã rời thành phố bằng con voi cái Bhaddavatikā. Sau đó, khi đã được đức vua Pajjota uống vào và trong khi tiêu hóa, bơ lỏng ấy đã làm ợ chua.Khi ấy, đức vua Pajjota đã nói với mọi người điều này:
– Này các khanh, Jīvaka xảo trá đã làm cho ta phải uống bơ lỏng. Như thế thì các khanh hãy truy nã thầy thuốc Jīvaka.
– Tâu bệ hạ, (thầy thuốc Jīvaka) đã vội vã rời thành phố bằng con voi cái Bhaddavatikā rồi.
Vào lúc bấy giờ, đức vua Pajjota có nam nô lệ tên là Kāka được sanh ra có nguồn gốc phi nhân có thể đi sáu mươi do tuần (trong một ngày). Khi ấy, đức vua Pajjota đã ra lệnh cho nô lệ Kāka rằng:
– Này khanh Kāka, hãy đi và hãy đem thầy thuốc Jīvaka quay trở về (nói rằng): “Thưa thầy, đức vua bảo đem thầy quay trở về.” Này khanh Kāka, bọn thầy thuốc ấy vốn vô cùng quỷ quyệt nên khanh chớ có nhận lãnh bất cứ vật gì từ ông ta.
Sau đó, vào khoảng giữa đường đi tại thành Kosambī, người nô lệ Kāka đã bắt gặp Jīvaka Komārabhacca đang dùng điểm tâm. Khi ấy, người nô lệ Kāka đã nói với Jīvaka Komārabhacca điều này:
– Thưa thầy, đức vua bảo đem thầy quay trở về.
– Này chú em Kāka, hãy chờ cho ta ăn. Này chú em Kāka, ngươi cũng nên ăn đi.
– Thưa thầy, thôi đi. Tôi đã được đức vua ra lệnh rằng: “Này khanh Kāka, bọn thầy thuốc ấy vốn vô cùng quỷ quyệt nên khanh chớ có nhận lãnh bất cứ vật gì từ ông ta.”
Vào lúc bấy giờ, Jīvaka Komārabhacca đã dùng móng tay khảy lấy (chút) dược phẩm rồi ăn trái cây āmalaka và uống nước. Khi ấy, Jīvaka Komārabhacca đã nói với nô lệ Kāka điều này:
– Này chú em Kāka, ngươi hãy ăn trái cây āmalaka và nên uống nước.
Khi ấy, nô lệ Kāka (nghĩ rằng): “Thầy thuốc này ăn trái cây āmalaka và uống nước. Điều ấy xem ra không có điều gì là sai trái cả” rồi đã ăn nửa trái āmalaka và uống nước. Khi người nô lệ ấy vừa ăn vào nửa phần của trái āmalaka ấy liền bị ói ra ngay tại chỗ ấy. Khi ấy, nô lệ Kāka đã nói với Jīvaka Komārabhacca điều này:
– Thưa thầy, tôi có được còn mạng sống không?
– Này chú em Kāka, chớ có sợ. Rồi chính ngươi sẽ được khỏi bệnh. Còn đức vua thì tàn bạo, đức vua ấy cũng có thể ra lệnh giết ta; vì thế ta không quay trở lại.
Sau khi đã trao con voi cái Bhaddavatikā cho nô lệ Kāka dắt trở về, Jīvaka Komārabhacca đã ra đi về phía thành Rājagaha, tuần tự đã đi đến thành Rājagaha gặp đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha, sau khi đến đã trình sự việc ấy cho đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha.
– Này khanh Jīvaka, khanh đã làm tuyệt lắm. Bởi vì nếu khanh không vội vã ra đi, đức vua Pajjota tàn bạo ấy cũng có thể ra lệnh giết khanh.
Sau đó, đức vua Pajjota khi được khỏi bệnh đã phái sứ giả đi đến gặp Jīvaka Komārabhacca (nói rằng):
– Jīvaka hãy đi đến. Trẫm sẽ ban đặc ân.
(Jīvaka Komārabhacca đã nhắn lại rằng:)
– Tâu bệ hạ, thôi đi. Chỉ xin bệ hạ nhớ cho chức vụ của thần.
Vào lúc bấy giờ, đức vua Pajjota được phát sanh xấp vải đôi sản xuất tại xứ Sivi là loại hạng nhất, phẩm chất tốt, nổi tiếng, cao quý, và sang trọng trong vô số các loại vải, trong vô số các xấp vải đôi, trong hàng trăm xấp vải đôi, trong hàng ngàn xấp vải đôi, trong hàng trăm ngàn xấp vải đôi. Sau đó, đức vua Pajjota đã phái người đem xấp vải đôi sản xuất tại xứ Sivi ban cho Jīvaka Komārabhacca. Khi ấy, Jīvaka Komārabhacca đã khởi ý điều này: “Xấp vải đôi sản xuất tại xứ Sivi đã được đức vua Pajjota gởi đến cho ta là loại hạng nhất, phẩm chất tốt, nổi tiếng, cao quý, và sang trọng trong vô số các loại vải, trong vô số các xấp vải đôi, trong hàng trăm xấp vải đôi, trong hàng ngàn xấp vải đôi, trong hàng trăm ngàn xấp vải đôi; không ai xứng đáng để sử dụng xấp vải đôi này ngoại trừ đức Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác ấy hoặc là đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha.”
[135] Vào lúc bấy giờ, cơ thể của đức Thế Tôn phát ra mùi khó chịu. Khi ấy, đức Thế Tôn đã bảo với đại đức Ānanda rằng:
– Này Ānanda, cơ thể của Như Lai phát ra mùi khó chịu. Như Lai muốn uống liều thuốc xổ.
Sau đó, đại đức Ānanda đã đi đến gặp Jīvaka Komārabhacca, sau khi đến đã nói với Jīvaka Komārabhacca điều này:
– Này đạo hữu Jīvaka, cơ thể của Như Lai phát ra mùi khó chịu. Như Lai muốn uống liều thuốc xổ.
– Thưa ngài Ānanda, như thế thì ngài hãy thoa dầu nơi cơ thể của đức Thế Tôn một vài ngày.
Sau đó, khi đã thoa dầu nơi cơ thể của đức Thế Tôn một vài ngày, đại đức Ānanda đã đi đến gặp Jīvaka Komārabhacca, sau khi đến đã nói với Jīvaka Komārabhacca điều này:
– Này đạo hữu Jīvaka, cơ thể của Như Lai đã được thoa dầu, đạo hữu hãy suy nghĩ xem bây giờ là thời điểm của việc gì.
Khi ấy, Jīvaka Komārabhacca đã khởi ý điều này: “Thật là không đúng đắn cho ta việc ta dâng đức Thế Tôn liều thuốc xổ thô tháo, hay là ta nên dùng ba nắm sen và nhiều loại dược phẩm trộn lẫn nhau rồi dâng đến đức Như Lai?” Sau đó, Jīvaka Komārabhacca đã dùng ba nắm sen và nhiều loại dược phẩm trộn lẫn nhau rồi đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã dâng lên đức Thế Tôn một nắm sen (nói rằng):
– Bạch ngài, xin đức Thế Tôn hít vào nắm sen thứ nhất này, liều này sẽ làm đức Thế Tôn xổ mười lần.
Rồi đã dâng đức Thế Tôn nắm sen thứ hai (nói rằng):
– Bạch ngài, xin đức Thế Tôn hít vào nắm sen thứ hai này, liều này sẽ làm đức Thế Tôn xổ mười lần.
Rồi đã dâng đức Thế Tôn nắm sen thứ ba (nói rằng):
– Bạch ngài, xin đức Thế Tôn hít vào nắm sen thứ ba này, liều này sẽ làm đức Thế Tôn xổ mười lần. Như thế đức Thế Tôn sẽ có liều thuốc xổ tổng cộng ba mươi lần.
Sau đó, khi đã dâng đức Thế Tôn liều thuốc xổ tổng cộng ba mươi lần, Jīvaka Komārabhacca đã đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi. Khi ấy, trong khi đang đi ra khỏi cổng ra vào, Jīvaka Komārabhacca đã khởi ý điều này: “Ta đã dâng lên đức Thế Tôn liều thuốc xổ tổng cộng ba mươi lần nhưng do cơ thể của đức Như Lai đã bị phát ra mùi khó chịu nên sẽ không làm đức Thế Tôn xổ đầy đủ ba mươi lần mà chỉ làm đức Thế Tôn xổ hai mươi chín lần. Tuy nhiên, khi đức Thế Tôn đã được xổ, ngài sẽ tắm; và khi tắm, liều thuốc sẽ làm đức Thế Tôn xổ một lần nữa. Như thế, đức Thế Tôn sẽ có được liều thuốc xổ tổng cộng ba mươi lần.”
Khi ấy, đức Thế Tôn sau khi dùng tâm biết được ý nghĩ suy tầm của Jīvaka Komārabhacca nên đã bảo đại đức Ānanda rằng:
– Này Ānanda, ở đây trong khi đang đi ra khỏi cổng ra vào, Jīvaka Komārabhacca đã khởi ý điều này: “Ta đã dâng lên đức Thế Tôn liều thuốc xổ tổng cộng ba mươi lần nhưng do cơ thể của đức Như Lai đã bị phát ra mùi khó chịu nên sẽ không làm đức Thế Tôn xổ đầy đủ ba mươi lần mà chỉ làm đức Thế Tôn xổ hai mươi chín lần. Tuy nhiên, khi đức Thế Tôn đã được xổ, ngài sẽ tắm; và khi tắm, liều thuốc sẽ làm đức Thế Tôn xổ một lần nữa. Như thế, đức Thế Tôn sẽ có được liều thuốc xổ tổng cộng ba mươi lần.” Này Ānanda, như thế thì ngươi hãy chuẩn bị sẵn sàng nước nóng.
– Bạch ngài, xin vâng.
Rồi đại đức Ānanda nghe theo đức Thế Tôn đã chuẩn bị sẵn sàng nước nóng.
Sau đó, Jīvaka Komārabhacca đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, Jīvaka Komārabhacca đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, đức Thế Tôn đã được xổ chưa?
– Này Jīvaka, ta đã được xổ.
– Bạch ngài, ở đây trong khi đang đi ra khỏi cổng ra vào, con đã khởi ý điều này: “Ta đã dâng lên đức Thế Tôn liều thuốc xổ tổng cộng ba mươi lần nhưng do cơ thể của đức Như Lai đã bị phát ra mùi khó chịu nên sẽ không làm đức Thế Tôn xổ đầy đủ ba mươi lần mà chỉ làm đức Thế Tôn xổ hai mươi chín lần. Tuy nhiên, khi đức Thế Tôn đã được xổ, ngài sẽ tắm; và khi tắm, liều thuốc sẽ làm đức Thế Tôn xổ một lần nữa. Như thế, đức Thế Tôn sẽ có được liều thuốc xổ tổng cộng ba mươi lần.” Bạch ngài, xin đức Thế Tôn hãy tắm, xin đấng Thiện Thệ hãy tắm.
Khi ấy, đức Thế Tôn đã tắm nước nóng. Khi tắm, (liều thuốc) đã làm đức Thế Tôn xổ một lần nữa. Như thế, đức Thế Tôn đã có được liều thuốc xổ tổng cộng ba mươi lần. Sau đó, Jīvaka Komārabhacca đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, cho đến khi cơ thể của đức Thế Tôn trở lại bình thường, cần kiêng đồ khất thực là nước trái cây.
Sau đó chẳng bao lâu, cơ thể của đức Thế Tôn đã được bình thường. Khi ấy, Jīvaka Komārabhacca đã cầm lấy xấp vải đôi sản xuất tại xứ Sivi ấy đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, Jīvaka Komārabhacca đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, con cầu xin đức Thế Tôn một điều ước muốn.
– Này Jīvaka, các đấng Như Lai đã vượt khỏi các điều ước muốn.
– Bạch ngài, điều ấy là hợp lý, điều ấy không bị chê trách.
– Này Jīvaka, hãy nói đi.
– Bạch ngài, đức Thế Tôn là vị sử dụng y may từ vải bị quăng bỏ, và hội chúng tỳ khưu cũng vậy. Bạch ngài, xấp vải đôi sản xuất tại xứ Sivi này của con đã được gởi đến từ vua Pajjota là loại hạng nhất, phẩm chất tốt, nổi tiếng, cao quý, và sang trọng trong vô số các loại vải, trong vô số các xấp vải đôi, trong hàng trăm xấp vải đôi, trong hàng ngàn xấp vải đôi, trong hàng trăm ngàn xấp vải đôi. Bạch ngài, xin ngài thọ lãnh xấp vải đôi sản xuất tại xứ Sivi này của con và cho phép y của gia chủ (gahapaticīvaraṃ) [1] đến hội chúng tỳ khưu.
Đức Thế Tôn đã thọ lãnh xấp vải đôi sản xuất tại xứ Sivi. Khi ấy, đức Thế Tôn đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho Jīvaka Komārabhacca bằng bài Pháp thoại. Sau đó, khi đã được đức Thế Tôn chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi bằng bài Pháp thoại, Jīvaka Komārabhacca đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi.
Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, ta cho phép y của gia chủ. Vị nào thích thì hãy là vị sử dụng y may từ vải bị quăng bỏ, vị nào thích thì hãy chấp nhận y của gia chủ. Và này các tỳ khưu, ta ngợi khen sự biết đủ (dầu) với loại này hay loại kia (itarītarena).
[136] Rồi dân chúng trong thành Rājagaha đã nghe được rằng: “Nghe nói đức Thế Tôn đã cho phép y của gia chủ đến các vị tỳ khưu.” Và những người dân ấy đã trở nên mừng rỡ phấn chấn (nghĩ rằng): “Giờ đây, chúng ta sẽ dâng các vật bố thí, chúng ta sẽ làm các việc phước thiện, bởi vì đức Thế đã cho phép y của gia chủ đến các vị tỳ khưu.” Và chỉ trong một ngày, ở trong thành Rājagaha nhiều ngàn y đã được phát sanh.
Rồi dân chúng trong nước đã nghe được rằng: “Nghe nói đức Thế Tôn đã cho phép y của gia chủ đến các vị tỳ khưu.” Và những người dân ấy đã trở nên mừng rỡ phấn chấn (nghĩ rằng): “Giờ đây, chúng ta sẽ dâng các vật bố thí, chúng ta sẽ làm các việc phước thiện, bởi vì đức Thế đã cho phép y của gia chủ đến các vị tỳ khưu.” Và chỉ trong một ngày, ở trong nước nhiều ngàn y đã được phát sanh.
[137] Vào lúc bấy giờ, có tấm vải choàng (pāvāro) được phát sanh đến hội chúng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép tấm vải choàng.
Có tấm vải choàng bằng tơ lụa (koseyyapāvāro) được phát sanh đến hội chúng.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép tấm vải choàng bằng tơ lụa.
Có tấm choàng lông (kojava) được phát sanh đến hội chúng.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép tấm choàng lông.
Dứt tụng phẩm thứ nhất.
[138] Vào lúc bấy giờ, đức vua xứ Kāsī đã gởi đến Jīvaka Komārabhacca tấm mền len (kambalaṃ) trị giá nửa kāsī[2] hoặc tương đương với nửa kāsī. Sau đó, Jīvaka Komārabhacca đã cầm lấy tấm mền len trị giá nửa kāsī ấy đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Sau khi đã ngồi xuống một bên, Jīvaka Komārabhacca đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, tấm mền len này của con trị giá nửa kāsī hoặc tương đương với nửa kāsī đã được đức vua xứ Kāsī gởi đến. Bạch ngài, xin đức Thế Tôn nhận lãnh tấm mền, điều ấy sẽ đem lại sự lợi ích và sự an lạc lâu dài cho con.
Đức Thế Tôn đã thọ lãnh tấm mền len. Khi ấy, đức Thế Tôn đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho Jīvaka Komārabhacca bằng bài Pháp thoại. Sau đó, khi đã được đức Thế Tôn chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi bằng bài Pháp thoại, Jīvaka Komārabhacca đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi.
Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) tấm mền len.
[139] Vào lúc bấy giờ, có các y loại đặc biệt phát sanh đến hội chúng. Khi ấy, các tỳ khưu đã khởi ý điều này: “Loại y nào đã được đức Thế Tôn cho phép, loại nào không được cho phép?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép sáu loại y: loại bằng sợi lanh (khomaṃ), loại bằng bông vải (kappāsikaṃ), loại bằng tơ lụa (koseyyaṃ), loại bằng sợi len (kambalaṃ), loại bằng gai thô (sāṇam), loại bằng chỉ bố (bhaṅgaṃ).
Vào lúc bấy giờ, những vị tỳ khưu nào chấp nhận y của gia chủ, những vị ấy ngần ngại không chấp nhận loại vải dơ bị quăng bỏ (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn cho phép chỉ một loại y chứ không phải hai.” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép vị chấp nhận y của gia chủ chấp nhận luôn cả loại vải dơ bị quăng bỏ và này các tỳ khưu ta ngợi khen sự biết đủ với cả hai loại ấy,
[140] Vào lúc bấy giờ, có nhiều vị tỳ khưu đang đi đường xa ở trong xứ Kosala. Một số tỳ khưu đã đi vào bãi tha ma để kiếm vải dơ bị quăng bỏ. Một số tỳ khưu đã không chờ đợi. Những vị tỳ khưu đi vào bãi tha ma đã nhặt được nhiều vải quấn tử thi. Những vị tỳ khưu không chờ đợi đã nói như vầy:
– Này các đại đức, hãy chia phần cho cả chúng tôi nữa.
Những vị kia đã nói như vầy:
– Này các đại đức, chúng tôi sẽ không chia phần cho các vị. Tại sao các vị đã không chờ đợi?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép không chia phần cho các vị không chờ đợi nếu không có ý muốn.
Vào lúc bấy giờ, có nhiều vị tỳ khưu đang đi đường xa ở trong xứ Kosala. Một số tỳ khưu đã đi vào bãi tha ma để kiếm vải dơ bị quăng bỏ. Một số tỳ khưu đã chờ đợi. Những vị tỳ khưu đi vào bãi tha ma đã nhặt được nhiều vải quấn tử thi. Những tỳ khưu chờ đợi đã nói như vầy:
– Này các đại đức, hãy chia phần cho cả chúng tôi nữa.
Những vị kia đã nói như vầy:
– Này các đại đức, chúng tôi sẽ không chia phần cho các vị. Tại sao các vị đã không đi vào?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép chia phần cho các vị đã chờ đợi mặc dầu không muốn.
Vào lúc bấy giờ, có nhiều vị tỳ khưu đang đi đường xa ở trong xứ Kosala. Một số tỳ khưu đã đi vào bãi tha ma trước để kiếm vải dơ bị quăng bỏ. Một số tỳ khưu đã đi vào sau. Những vị tỳ khưu đi vào bãi tha ma trước đã nhặt được nhiều vải quấn tử thi. Những vị tỳ khưu đi vào sau đã không nhặt được. Những vị ấy đã nói như vầy:
– Này các đại đức, hãy chia phần cho cả chúng tôi nữa.
Những vị kia đã nói như vầy:
– Này các đại đức, chúng tôi sẽ không chia phần cho các vị. Tại sao các vị đã đi vào sau?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép không chia phần cho các vị đi vào sau nếu không có ý muốn.
Vào lúc bấy giờ, có nhiều vị tỳ khưu đang đi đường xa ở trong xứ Kosala. Các vị đã đi vào bãi tha ma cùng một lúc để kiếm vải dơ bị quăng bỏ. Một số vị tỳ khưu đã nhặt được nhiều vải quấn tử thi. Một số vị tỳ khưu đã không nhặt được. Những vị tỳ khưu không nhặt được đã nói như vầy:
– Này các đại đức, hãy chia phần cho cả chúng tôi nữa.
Những vị kia đã nói như vầy:
– Này các đại đức, chúng tôi sẽ không chia phần cho các vị. Tại sao các vị đã không nhặt được?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép chia phần cho các vị đi vào cùng một lúc mặc dầu không muốn.
Vào lúc bấy giờ, có nhiều vị tỳ khưu đang đi đường xa ở trong xứ Kosala. Các vị đã cam kết với nhau rồi đi vào bãi tha ma để kiếm vải dơ bị quăng bỏ. Một số vị tỳ khưu đã nhặt được nhiều vải quấn tử thi. Một số vị tỳ khưu đã không nhặt được. Những vị tỳ khưu không nhặt được đã nói như vầy:
– Này các đại đức, hãy chia phần cho cả chúng tôi nữa.
Những vị kia đã nói như vầy:
– Này các đại đức, chúng tôi sẽ không chia phần cho các vị. Tại sao các vị đã không nhặt được?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép chia phần cho các vị đã đi vào sau khi cam kết mặc dầu không muốn.
[141] Vào lúc bấy giờ, dân chúng cầm y đi đến tu viện. Họ không gặp được vị có trách nhiệm tiếp nhận nên đã mang về. Y phát sanh lên bị ít đi. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép chỉ định vị tiếp nhận y (cīvarapaṭiggāhaka) là vị tỳ khưu hội đủ năm điều: vị không thể bị chi phối bởi sự ưa thích, không thể bị chi phối bởi sự sân hận, không thể bị chi phối bởi sự si mê, không thể bị chi phối bởi sự sợ hãi, vị biết (vật) được nhận hay không được nhận. Và này các tỳ khưu, nên chỉ định như vầy:
Trước hết, vị tỳ khưu cần được yêu cầu; sau khi yêu cầu, hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên chỉ định vị tỳ khưu tên (như vầy) là vị tiếp nhận y. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Hội chúng chỉ định vị tỳ khưu tên (như vầy) là vị tiếp nhận y. Đại đức nào đồng ý việc chỉ định vị tỳ khưu tên (như vầy) là vị tiếp nhận y xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Vị tỳ khưu tên (như vầy) đã được hội chúng chỉ định là vị tiếp nhận y. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
[142] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu là các vị tiếp nhận y sau khi thọ lãnh y bỏ ngay tại chỗ ấy rồi ra đi. Y bị mất. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép chỉ định vị cất giữ y (cīvaranidāhaka) là vị tỳ khưu hội đủ năm điều: vị không thể bị chi phối bởi sự ưa thích, không thể bị chi phối bởi sự sân hận, không thể bị chi phối bởi sự si mê, không thể bị chi phối bởi sự sợ hãi, vị biết (vật) đã được cất giữ hay đã không được cất giữ. Và này các tỳ khưu, nên chỉ định như vầy:
Trước hết, vị tỳ khưu cần được yêu cầu; sau khi yêu cầu, hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên chỉ định vị tỳ khưu tên (như vầy) là vị cất giữ y. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Hội chúng chỉ định vị tỳ khưu tên (như vầy) là vị cất giữ y. Đại đức nào đồng ý việc chỉ định vị tỳ khưu tên (như vầy) là vị cất giữ y xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Vị tỳ khưu tên (như vầy) đã được hội chúng chỉ định là vị cất giữ y. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
[143] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu là các vị cất giữ y cất giữ y ở mái che, ở gốc cây, ở hốc cây nimba, và ở ngoài trời. Các y đã bị gặm nhấm bởi các con chuột và loài mối. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép chỉ định nhà kho chứa đồ (bhaṇḍāgāraṃ) thuộc loại nào mà hội chúng thích là trú xá (vihāraṃ), nhà một mái (aḍḍhayogaṃ), tòa nhà dài (pāsādaṃ), khu nhà lớn (hammiyaṃ), hang động (guhaṃ). Và này các tỳ khưu, nên được chỉ định như vầy:
Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên chỉ định trú xá tên (như vầy) là nhà kho chứa đồ. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Hội chúng chỉ định trú xá tên (như vầy) là nhà kho chứa đồ. Đại đức nào đồng ý việc chỉ định trú xá tên (như vầy) là nhà kho chứa đồ xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Trú xá tên (như vầy) đã được hội chúng chỉ định là nhà kho chứa đồ. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
[144] Vào lúc bấy giờ, y ở trong nhà kho chứa đồ không được bảo quản. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép chỉ định vị quản lý nhà kho (bhaṇḍāgārika) là vị tỳ khưu hội đủ năm điều: vị không thể bị chi phối bởi sự ưa thích, không thể bị chi phối bởi sự sân hận, không thể bị chi phối bởi sự si mê, không thể bị chi phối bởi sự sợ hãi, vị biết (vật) đã được bảo quản hay đã không được bảo quản. Và này các tỳ khưu, nên chỉ định như vầy:
Trước hết, vị tỳ khưu cần được yêu cầu; sau khi yêu cầu, hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên chỉ định vị tỳ khưu tên (như vầy) là vị quản lý nhà kho. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Hội chúng chỉ định vị tỳ khưu tên (như vầy) là vị quản lý nhà kho. Đại đức nào đồng ý việc chỉ định vị tỳ khưu tên (như vầy) là vị quản lý nhà kho xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Vị tỳ khưu tên (như vầy) đã được hội chúng chỉ định là vị quản lý nhà kho. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
[145] Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu nhóm Lục Sư làm cho vị quản lý nhà kho xao lãng (phận sự). Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên làm vị giữ nhà kho xao lãng (phận sự); vị nào làm xao lãng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[146] Vào lúc bấy giờ, trong nhà kho chứa đồ của hội chúng y được dồi dào. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép hội chúng chia phần theo sự hiện diện.
Vào lúc bấy giờ, tất cả hội chúng trong lúc chia phần y đã gây ra cảnh náo động. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép chỉ định vị chia y (cīvarabhājaka) là vị tỳ khưu hội đủ năm điều: vị không thể bị chi phối bởi sự ưa thích, không thể bị chi phối bởi sự sân hận, không thể chi phối bởi sự si mê, không thể bị chi phối bởi sự sợ hãi, vị biết (y) đã được phân chia hay chưa được phân chia. Và này các tỳ khưu, nên chỉ định như vầy:
Trước hết, vị tỳ khưu cần được yêu cầu; sau khi yêu cầu, hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên chỉ định vị tỳ khưu tên (như vầy) là vị chia y. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Hội chúng chỉ định vị tỳ khưu tên (như vầy) là vị chia y. Đại đức nào đồng ý việc chỉ định vị tỳ khưu tên (như vầy) là vị chia y xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Vị tỳ khưu tên (như vầy) đã được hội chúng chỉ định là vị chia y. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
Sau đó, các tỳ khưu là vị chia y đã khởi ý điều này: “Y nên được chia như thế nào?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép trước tiên phân loại, phỏng định giá trị, làm cho đồng đều (giá trị), đếm số tỳ khưu, gom lại thành nhóm, rồi xác định phần chia về y.
Khi ấy, các vị tỳ khưu chia y đã khởi ý điều này: “Phần chia về y có nên được cho đến sa di hay không?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép cho các sa di một nửa của phần chia về y.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ có ý muốn vượt qua (uttaritukāmo) (sông hoặc đoạn đường hoang vắng) với phần chia của bản thân. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép trao cho phần chia của bản thân đến vị đang (chuẩn bị) vượt qua (sông hoặc đoạn đường hoang vắng).
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ có ý muốn vượt qua (sông hoặc đoạn đường hoang vắng) với phần chia nhiều hơn. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép trao cho phần chia nhiều hơn khi vật đền bù được trao lại.
Sau đó, các vị tỳ khưu chia y đã khởi ý điều này: “Phần chia về y nên được trao cho như thế nào, theo thứ tự đi đến hay là theo thâm niên?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép bốc thăm để làm hoan hỷ các vị không được phần (vikalake tosetvā kusapātaṃ kātunti).
[147] Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu nhuộm y với phân bò và đất sét đỏ. Y có màu sắc xấu. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép sáu loại thuốc nhuộm: thuốc nhuộm từ rễ cây, thuốc nhuộm từ thân cây, thuốc nhuộm từ vỏ cây, thuốc nhuộm từ lá cây, thuốc nhuộm từ bông hoa, thuốc nhuộm từ trái cây.
Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu nhuộm y với nước lạnh. Y có mùi hôi. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép nồi nhuộm loại nhỏ để nấu thuốc nhuộm.
Thuốc nhuộm bị tràn ra. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép buộc vòng đế tròn (uttarāḷuvaṃ bandhituṃ) (ở phần trên mặt nước của nồi thuốc nhuộm).
Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu không biết thuốc nhuộm đã được nấu hay chưa được nấu. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép nhỏ giọt vào trong nước hoặc ở bề lưng của móng tay.
Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu khi đổ thuốc nhuộm ra, cái nồi bị xoay tròn. Cái nồi bị bể. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép cái môi múc thuốc nhuộm, cái gàu có cán.
Vào lúc bấy giờ, cái thùng để nhuộm của các vị tỳ khưu chưa được sử dụng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép chậu nhuộm, lu nhuộm.
Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu vò nhồi y trong cái đĩa, trong bình bát. Y đã bị thủng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép máng nhuộm.
Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu trải y ra ở trên nền đất. Y bị lấm bụi. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép thảm cỏ.
Thảm cỏ bị mối nhấm. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép sào máng y, dây treo y.
Các vị treo cao lên ở giữa. Thuốc nhuộm chảy ra hai bên. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép buộc ở các góc (y).
Góc (y) bị sờn. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép sợi chỉ ở các góc (y).
Thuốc nhuộm chảy ở một bên. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép nhuộm bằng cách trở y đầu này, rồi đảo trở lại, và không được bỏ đi khi nước chưa ngừng nhỏ giọt.
Vào lúc bấy giờ, y bị cứng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép ngâm trong nước
Vào lúc bấy giờ, y bị thô nhám. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép đập bằng bàn tay.
[148] Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu nhóm Lục Sư mặc các y chưa được cắt, mặc các y màu ngà voi. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên mặc các y chưa được cắt; vị nào mặc thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[149] Sau đó, khi đã ngự tại thành Rājagaha theo như ý thích, đức Thế Tôn đã ra đi du hành đến Dakkhiṇāgiri. Đức Thế Tôn đã nhìn thấy mảnh ruộng ở Magadha được kết nối bằng những khoảnh vuông vức, được kết nối bằng những đường biên dài rộng xung quanh, được kết nối bằng những đường biên ở giữa, được kết nối bằng những mảnh vuông giao nhau, sau khi nhìn thấy đã bảo đại đức Ānanda rằng:
– Này Ānanda, ngươi có nhìn thấy mảnh ruộng ở Magadha của chúng ta được kết nối bằng những khoảnh vuông vức, được kết nối bằng những đường biên dài rộng xung quanh, được kết nối bằng những đường biên ở giữa, được kết nối bằng những mảnh vuông giao nhau không?
– Bạch ngài, thưa có.
– Này Ānanda, ngươi có khả năng thực hiện các y có kiểu mẫu như thế cho các vị tỳ khưu không?
– Bạch Thế Tôn, con có khả năng.
Sau đó, khi đã ngự tại Dakkhiṇāgiri theo như ý thích, đức Thế Tôn đã quay trở về lại thành Rājagaha. Khi ấy, đại đức Ānanda sau khi thực hiện các y cho nhiều vị tỳ khưu đã đi đ ến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, xin Thế Tôn hãy nhìn xem các y con đã thực hiện.
Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, Ānanda thật thông thái. Này các tỳ khưu, Ānanda có đại trí tuệ bởi vì vị ấy hiểu ý nghĩa một cách đầy đủ của điều đã được ta nói ra một cách vắn tắt. Vị ấy làm được dải nối theo chiều dọc (của y), vị ấy làm được dải nối theo chiều ngang (của y), vị ấy làm được mảnh lớn thuộc dải điều (của y), vị ấy làm được mảnh nhỏ thuộc dải điều (của y), vị ấy làm được mảnh lớn thuộc dải điều giữa (của y), vị ấy làm được mảnh lớn thuộc các dải điều bên (của y), vị ấy làm được mảnh nhỏ thuộc dải điều giữa (của y), vị ấy làm được mảnh nhỏ thuộc các dải điều kế (của y), vị ấy làm được mảnh nhỏ thuộc hai dải điều biên (của y), (như thế y) sẽ được cắt ra, sần sùi khi được ráp lại, phù hợp với sa-môn, không còn được mong mỏi bởi những kẻ đối nghịch.
Này các tỳ khưu, ta cho phép y hai lớp (saṅghāṭi) đã được cắt ra, thượng y (uttarāsaṅgaṃ) đã được cắt ra, y nội (antaravāsakaṃ) đã được cắt ra (rồi ráp lại).
[150] Sau đó, khi đã ngự tại thành Rājagaha theo như ý thích, đức Thế Tôn đã ra đi du hành đến thành Vesālī. Khi đang đi trên đoạn đường xa giữa Rājagaha và Vesālī, đức Thế Tôn đã nhìn thấy nhiều vị tỳ khưu đang đi ngược chiều với các y được túm lại thành đống, các vị đã làm cuộn y ở trên đầu, các vị đã làm cuộn y ở vai, các vị đã làm cuộn y ở hông; sau khi nhìn thấy đức Thế Tôn đã khởi ý điều này: “Những kẻ rồ dại này đã xoay xở được nhiều y thật mau mắn, hay là ta nên xác định sự hạn chế về y và quy định sự giới hạn về y?”
Sau đó, trong khi tuần tự du hành đức Thế Tôn đã ngự đến thành Vesālī. Tại nơi đó ở Vesālī, đức Thế Tôn ngụ tại điện thờ Gotamaka.
Vào lúc bấy giờ, trong khoảng thời gian tám đêm của mùa đông lạnh lẽo vào những lúc tuyết rơi, đức Thế Tôn đã ngồi ở ngoài trời vào ban đêm chỉ với một y và đức Thế Tôn đã không có cảm giác lạnh. Khi canh đầu đã qua, cảm giác lạnh đã xuất hiện ở đức Thế Tôn, đức Thế Tôn đã trùm lên y thứ hai và đức Thế Tôn đã không còn cảm giác lạnh. Khi canh giữa đã qua, cảm giác lạnh đã xuất hiện ở đức Thế Tôn, đức Thế Tôn đã trùm lên y thứ ba và đức Thế Tôn đã không còn cảm giác lạnh. Khi canh cuối đã qua, hừng đông đã rạng, trời đêm lộ vẻ rạng rỡ, cảm giác lạnh đã xuất hiện ở đức Thế Tôn, đức Thế Tôn đã trùm lên y thứ tư và đức Thế Tôn đã không còn cảm giác lạnh. Khi ấy, đức Thế Tôn đã khởi ý điều này: “Các vị nào ở trong Pháp và Luật này là con trai của những nhà danh giá thường bị ảnh hưởng bởi sự lạnh và khiếp sợ sự lạnh, các vị ấy có thể đối phó (với sự lạnh) bằng ba y, hay là ta nên xác định sự hạn chế về y và quy định sự giới hạn về y cho các tỳ khưu, (hay là) ta nên cho phép ba y?” Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, ở đây trong khi đi trên đoạn đường xa giữa Rājagaha và Vesālī, ta đã nhìn thấy nhiều vị tỳ khưu đang đi ngược chiều với các y được túm lại thành đống, các vị đã làm cuộn y ở trên đầu, các vị đã làm cuộn y ở vai, các vị đã làm cuộn y ở hông, sau khi nhìn thấy ta đã khởi ý điều này: “Những kẻ rồ dại này đã xoay xở được nhiều y thật mau mắn, hay là ta nên xác định sự hạn chế về y và quy định sự giới hạn về y?” Này các tỳ khưu, ở đây trong khoảng thời gian tám đêm của mùa đông lạnh lẽo vào những lúc tuyết rơi, ta đã ngồi ở ngoài trời vào ban đêm chỉ với một y và ta đã không có cảm giác lạnh. Khi canh đầu đã qua, cảm giác lạnh đã xuất hiện ở ta, ta đã trùm lên y thứ hai và ta đã không còn cảm giác lạnh. Khi canh giữa đã qua, cảm giác lạnh đã xuất hiện ở ta, ta đã trùm lên y thứ ba và ta đã không còn cảm giác lạnh. Khi canh cuối đã qua, khi hừng đông đã rạng, trời đêm lộ vẻ rạng rỡ, cảm giác lạnh đã xuất hiện ở ta, ta đã trùm lên y thứ tư và ta đã không còn cảm giác lạnh. Khi ấy, ta đã khởi ý điều này: “Các vị nào ở trong Pháp và Luật này là con trai của những nhà danh giá thường bị ảnh hưởng bởi sự lạnh và khiếp sợ sự lạnh, các vị ấy có thể đối phó (với sự lạnh) bằng ba y, hay là ta nên xác định sự hạn chế về y và quy định sự giới hạn về y cho các tỳ khưu, (hay là) ta nên cho phép ba y?” Này các tỳ khưu, ta cho phép ba y gồm có y saṅghāṭi (tăng-già-lê) hai lớp, thượng y (uttarāsaṅgaṃ) một lớp, và y nội (antaravāsakaṃ) một lớp.
[151] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn đã cho phép ba y” rồi đi vào làng với ba y nọ, mặc ở trong tu viện với ba y khác, và đi xuống tắm với ba y khác nữa. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại sử dụng y phụ trội (atirekacīvaraṃ)?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, không nên sử dụng y phụ trội, vị nào sử dụng thì nên được hành xử theo Pháp.[3]
Vào lúc bấy giờ, y phụ trội đã phát sanh đến đại đức Ānanda. Và đại đức Ānanda có ý muốn dâng y ấy đến đại đức Sāriputta. Đại đức Sāriputta đang ngụ ở Sāketa. Khi ấy, đại đức Ānanda đã khởi ý điều này: “Đức Thế Tôn đã quy định rằng: ‘Không nên sử dụng y phụ trội.’ Và y phụ trội này đã phát sanh đến ta. Và ta có ý muốn dâng y này đến đại đức Sāriputta mà đại đức Sāriputta lại đang ngụ ở Sāketa. Vậy ta nên thực hành như thế nào?” Sau đó, đại đức Ānanda đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này Ānanda, bao lâu nữa Sāriputta sẽ đi lại đây?
– Bạch Thế Tôn, ngày thứ chín hoặc ngày thứ mười.
Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, ta cho phép cất giữ y phụ trội tối đa mười ngày.
Vào lúc bấy giờ, có y phụ trội phát sanh đến các tỳ khưu. Khi ấy, các vị tỳ khưu đã khởi ý điều này: “Chúng ta nên thực hành như thế nào đối với các y phụ trội?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép chú nguyện để dùng chung (vikappetuṃ) y phụ trội.
[152] Sau đó, khi đã ngự tại thành Vesālī theo như ý thích, đức Thế Tôn đã ra đi du hành về phía thành Bāraṇasī. Trong khi tuần tự du hành, ngài đã ngự đến thành Bārāṇasī. Tại nơi đó ở Bārāṇasī, đức Thế Tôn ngự tại Isipatana, nơi vườn nai.
Vào lúc bấy giờ, y nội của vị tỳ khưu nọ bị rách. Khi ấy, vị tỳ khưu ấy khởi ý điều này: “Đức Thế Tôn đã cho phép ba y gồm có y saṅghāṭi hai lớp, thượng y một lớp, và y nội một lớp. Và y nội này của ta bị rách, hay là ta nên đắp thêm miếng vá, như thế xung quanh sẽ là hai lớp và ở giữa là một lớp?” Sau đó, vị tỳ khưu ấy đã đắp thêm miếng vá. Đức Thế Tôn trong khi đi dạo quanh các chỗ trú ngụ đã nhìn thấy vị tỳ khưu ấy đang đắp thêm miếng vá, sau khi nhìn thấy đã đi đến gặp vị tỳ khưu ấy, sau khi đến đã nói với vị tỳ khưu ấy điều này:
– Này tỳ khưu, ngươi làm gì vậy?
– Bạch Thế Tôn, con đắp thêm miếng vá.
– Này tỳ khưu, thật tốt thay, thật tốt thay! Này tỳ khưu, thật tốt thay việc ngươi đắp thêm miếng vá!
Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, ta cho phép khi vải còn mới hoặc được xem như mới thì y saṅghāṭi là hai lớp, thượng y là một lớp, và y nội là một lớp. Khi vải đã bị sờn bởi thời gian thì y saṅghāṭi là bốn lớp, thượng y là hai lớp, và y nội là hai lớp. Nên thực hiện việc nỗ lực (tìm kiếm) vải dơ bị quăng bỏ hay (được bỏ rơi) ở các cửa tiệm theo như nhu cầu. Này các tỳ khưu, ta cho phép (đắp thêm) miếng vá, (dùng) chỉ mạng, (đắp chồng) lớp nữa, miếng vá nhỏ, và việc may lại cho chắc chắn.
[153] Sau đó, khi đã ngự tại thành Rājagaha theo như ý thích, đức Thế Tôn đã ra đi du hành về phía thành Sāvatthi. Trong khi tuần tự du hành, ngài đã ngự đến thành Sāvatthi. Tại nơi đó ở Sāvatthi, đức Thế Tôn ngự tại Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika.
Khi ấy, bà Visākhā mẹ của Migāra đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Đức Thế Tôn đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho bà Visākhā mẹ của Migāra đang ngồi một bên bằng bài Pháp thoại. Sau đó, khi đã được đức Thế Tôn chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi bằng bài Pháp thoại, bà Visākhā mẹ của Migāra đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, xin đức Thế Tôn nhận lời con về bữa trai phạn vào ngày mai cùng với hội chúng tỳ khưu.
Đức Thế Tôn đã nhận lời bằng thái độ im lặng. Khi ấy, bà Visākhā mẹ của Migāra hiểu được sự nhận lời của đức Thế Tôn nên đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi.
Vào lúc bấy giờ, khi trải qua đêm ấy có đám mây lớn khắp cả bốn châu đã đổ mưa xuống. Khi ấy, đức Thế Tôn đã bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, trời mưa ở Jetavana như thế nào thì trời mưa ở bốn châu cũng như thế ấy. Này các tỳ khưu, hãy để cho thân thể ướt đẫm nước mưa, đây là trận mưa lớn khắp cả bốn châu lần cuối cùng.
– Bạch ngài, xin vâng. Rồi các vị tỳ khưu ấy nghe theo đức Thế Tôn cởi các y ra và để cho thân thể ướt đẫm nước mưa.
Khi ấy, bà Visākhā mẹ của Migāra đã cho chuẩn bị sẵn sàng vật thực thượng hạng loại cứng loại mềm rồi bảo người tớ gái rằng:
– Này em, hãy đi. Sau khi đến tu viện, hãy thông báo thời giờ rằng: “Bạch ngài, đã đến giờ, thức ăn đã chuẩn bị xong.”
– Thưa bà, xin vâng.
Rồi người tớ gái nghe theo bà Visākhā mẹ của Migāra đã đi đến tu viện và nhìn thấy các vị tỳ khưu có các y đã được cởi ra và đang để cho thân thể ướt đẫm nước mưa, sau khi nhìn thấy (nghĩ rằng): “Các tỳ khưu không có ở trong tu viện, (chỉ có) các đạo sĩ lõa thể đang để cho thân thể ướt đẫm nước mưa” rồi đã đi đến gặp bà Visākhā mẹ của Migāra, sau khi đến đã nói với bà Visākhā mẹ của Migāra điều này:
– Thưa bà, các tỳ khưu không có ở trong tu viện, (chỉ có) các đạo sĩ lõa thể đang để cho thân thể ướt đẫm nước mưa.
Khi ấy, bà Visākhā mẹ của Migāra là người trí tuệ, kinh nghiệm, thông minh đã khởi ý điều này: “Chắc chắn là các ngài đại đức có các y đã được cởi ra và để cho thân thể ướt đẫm nước mưa! Cô gái đần độn này đây đã nghĩ rằng: ‘Các tỳ khưu không có ở trong tu viện, (chỉ có) các đạo sĩ lõa thể đang để cho thân thể ướt đẫm nước mưa,’” nên đã bảo người tớ gái rằng:
– Này em, hãy đi. Sau khi đến tu viện, hãy thông báo thời giờ rằng: “Bạch ngài, đã đến giờ, thức ăn đã chuẩn bị xong.”
Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy sau khi đã làm cho mát mẻ thân hình, có cơ thể được khoẻ khoắn, nên đã mặc y rồi đi vào trú xá của mình. Sau đó, người tớ gái ấy đã đi đến tu viện, trong khi không nhìn thấy các vị tỳ khưu (nên nghĩ rằng): “Các tỳ khưu không có ở trong tu viện, tu viện thì trống không” rồi đã đi đến gặp bà Visākhā mẹ của Migāra, sau khi đến đã nói với bà Visākhā mẹ của Migāra điều này:
– Thưa bà, các tỳ khưu không có ở trong tu viện, tu viện thì trống không.
Khi ấy, bà Visākhā mẹ của Migāra là người trí tuệ, kinh nghiệm, thông minh đã khởi ý điều này: “Chắc chắn là các ngài đại đức sau khi đã làm cho mát mẻ thân hình, có cơ thể được khoẻ khoắn, nên đã mặc y rồi đi vào trú xá của mình. Cô gái đần độn này đây đã nghĩ rằng: ‘Các tỳ khưu không có ở trong tu viện, tu viện thì trống không,’” nên lại bảo người tớ gái rằng:
– Này em, hãy đi. Sau khi đến tu viện, hãy thông báo thời giờ rằng: “Bạch ngài, đã đến giờ, thức ăn đã chuẩn bị xong.”
Khi ấy, đức Thế Tôn đã bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, hãy sẵn sàng y bát, đã đến thời điểm của bữa ăn.
– Bạch ngài, xin vâng. Các vị tỳ khưu ấy đã đáp lời đức Thế Tôn
Sau đó, giống như người đàn ông có sức mạnh có thể duỗi ra cánh tay đã được co lại hoặc có thể co lại cánh tay đã được duỗi ra, tương tợ như thế đức Thế Tôn đã biến mất tại Jetavana rồi hiện ra ở cổng nhà của bà Visākhā mẹ của Migāra. Đức Thế Tôn đã ngồi xuống trên chỗ ngồi đã được sắp đặt sẵn cùng với hội chúng tỳ khưu.
Khi ấy , bà Visākhā mẹ của Migāra (nghĩ rằng): “Thật kỳ diệu thay! Thật phi thường thay! Đức Như Lai có đại thần lực, có đại oai lực! Bởi vì trong khi cơn lụt đang dâng tới mức đầu gối, trong khi cơn lụt đang dâng lên tới hông thế mà không một vị tỳ khưu nào có các bàn chân hoặc các y bị ướt!” nên mừng rỡ phấn chấn rồi đã tự tay làm hài lòng và thỏa mãn hội chúng tỳ khưu có đức Phật đứng đầu với thức ăn thượng hạng loại cứng loại mềm. Đến khi đức Thế Tôn đã thọ thực xong bàn tay đã rời khỏi bình bát, bà Visākhā mẹ của Migāra đã ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, bà Visākhā mẹ của Migāra đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, con cầu xin đức Thế Tôn tám điều ước muốn.
– Này Visākhā, các đấng Như Lai đã vượt khỏi các điều ước muốn.
– Bạch ngài, các điều ấy là hợp lý, các điều ấy không bị chê trách.
– Này Visākhā, hãy nói đi.
– Bạch ngài, con muốn dâng vải choàng (tắm) mưa đến hội chúng, dâng bữa ăn dành cho vị vãng lai (āgantukabhattaṃ), dâng bữa ăn dành cho vị ra đi (gamikabhattaṃ), dâng bữa ăn dành cho vị bị bệnh (gilānabhattaṃ), dâng bữa ăn dành cho vị chăm sóc bệnh (gilānupaṭṭhākabhattaṃ), dâng dược phẩm dành cho vị bị bệnh (gilānabhesajjaṃ), dâng cháo hàng ngày (dhuvayāguṃ), dâng vải choàng tắm (udakasāṭikaṃ) đến hội chúng tỳ khưu ni đến trọn đời.
– Này Visākhā, trong khi thấy rõ sự hữu dụng gì mà bà lại cầu xin Như Lai tám điều ước muốn?
– Bạch ngài, ở đây con đã bảo người tớ gái rằng: “Này em, hãy đi. Sau khi đến tu viện, hãy thông báo thời giờ rằng: ‘Bạch ngài, đã đến giờ, thức ăn đã chuẩn bị xong’.” Khi ấy, người tớ gái ấy đã đi đến tu viện và nhìn thấy các vị tỳ khưu có các y đã được cởi ra và đang để cho thân thể ướt đẫm nước mưa, sau khi nhìn thấy (nghĩ rằng): “Các tỳ khưu không có ở trong tu viện, (chỉ có) các đạo sĩ lõa thể đang để cho thân thể ướt đẫm nước mưa” rồi đã đi đến gặp con, sau khi đến đã nói với con điều này: “Thưa bà, các tỳ khưu không có ở trong tu viện, (chỉ có) các đạo sĩ lõa thể đang để cho thân thể ướt đẫm nước mưa.” Bạch ngài, sự trần truồng là không tinh khiết, ghê tởm, bị lên án. Bạch ngài, trong khi thấy rõ sự hữu dụng này mà con muốn dâng đến hội chúng vải choàng (tắm) mưa đến trọn đời.
Bạch ngài còn có điều khác nữa, vị tỳ khưu vãng lai không rành rẽ đường xá, không rành rẽ khu vực, đi khất thực trong khi đang mệt nhọc. Vị ấy sau khi thọ thực bữa ăn dành cho vị vãng lai của con được rành rẽ đường xá, được rành rẽ khu vực, sẽ đi khất thực trong khi không còn mệt nhọc. Bạch ngài, trong khi thấy rõ sự hữu dụng này mà con muốn dâng đến hội chúng bữa ăn dành cho vị vãng lai đến trọn đời.
Bạch ngài còn có điều khác nữa, vị tỳ khưu ra đi trong khi tự mình tìm kiếm vật thực sẽ bị trễ đoàn lữ hành, hoặc sẽ đến nơi (mà vị ấy) có ý muốn đi đến vào lúc trời tối, sẽ phải đi đường xa trong khi đang mệt nhọc. Vị ấy sau khi thọ thực bữa ăn dành cho vị ra đi của con sẽ không bị trễ đoàn lữ hành, sẽ không đến nơi (mà vị ấy) có ý muốn đi đến vào lúc trời tối, sẽ đi đường xa trong khi không mệt nhọc. Bạch ngài, trong khi thấy rõ sự hữu dụng này mà con muốn dâng đến hội chúng bữa ăn dành cho vị ra đi đến trọn đời.
Bạch ngài còn có điều khác nữa, vị tỳ khưu bị bệnh trong khi không nhận được các thức ăn thích hợp, bệnh tình sẽ trầm trọng, hoặc sẽ chết đi. Trong khi vị ấy thọ dụng bữa ăn dành cho vị bệnh của con, bệnh tình sẽ không trầm trọng, sẽ không chết đi. Bạch ngài, trong khi thấy rõ sự hữu dụng này mà con muốn dâng đến hội chúng bữa ăn dành cho vị bị bệnh đến trọn đời.
Bạch ngài còn có điều khác nữa, vị tỳ khưu là vị chăm sóc bệnh trong khi tự mình tìm kiếm thức ăn sẽ đem lại bữa ăn của vị bệnh lúc mặt trời đã lên (cao) và sẽ bị lỡ bữa ăn. Vị ấy sau khi thọ dụng bữa ăn dành cho vị chăm sóc bệnh của con sẽ đem lại thức ăn của vị bệnh lúc đúng thời và sẽ không bị lỡ bữa ăn. Bạch ngài, trong khi thấy rõ sự hữu dụng này mà con muốn dâng đến hội chúng bữa ăn dành cho vị chăm sóc bệnh đến trọn đời.
Bạch ngài còn có điều khác nữa, vị tỳ khưu bị bệnh trong khi không nhận được các loại dược phẩm thích hợp, bệnh tình sẽ trầm trọng, hoặc sẽ chết đi. Trong khi vị ấy thọ dụng dược phẩm dành cho vị bệnh của con, bệnh tình sẽ không trầm trọng, sẽ không chết đi. Bạch ngài, trong khi thấy rõ sự hữu dụng này mà con muốn dâng đến hội chúng dược phẩm dành cho vị bị bệnh đến trọn đời.
Bạch ngài còn có điều khác nữa, ở Andhakavinda do thấy rõ mười điều lợi ích mà đức Thế Tôn đã cho phép (thọ dụng) cháo. Bạch ngài, trong khi thấy rõ sự hữu dụng này mà con muốn dâng đến hội chúng cháo hàng ngày đến trọn đời.
Bạch ngài còn có điều khác nữa, các tỳ khưu ni trong khi tắm trần truồng với các cô điếm ở một bãi tắm của sông Aciravatī, bạch ngài các cô điếm ấy đã chế giễu các tỳ khưu ni rằng: “Các bà đại đức ơi, vì điều gì mà các bà thực hành Phạm hạnh trong lúc đang còn trẻ vậy? Chớ không phải là các dục lạc nên được thỏa thích hay sao? Khi nào trở nên già cả, các bà sẽ thực hành Phạm hạnh, như thế các bà sẽ vớ được cả hai đầu mối.” Bạch ngài, khi bị các cô điếm chế giễu các tỳ khưu ni ấy đã mắc cở. Bạch ngài, sự trần truồng của phụ nữ là không tinh khiết, ghê tởm, bị lên án. Bạch ngài, trong khi thấy rõ sự hữu dụng này mà con muốn dâng đến hội chúng tỳ khưu ni vải choàng tắm đến trọn đời.
– Này Visākhā, trong khi thấy rõ lợi ích gì mà bà lại cầu xin Như Lai tám điều ước muốn?
– Bạch ngài, ở đây các tỳ khưu đã sống qua mùa (an cư) mưa ở các phương sẽ đi đến Sāvatthi để diện kiến đức Thế Tôn, các vị ấy sau khi đi đến gặp đức Thế Tôn sẽ hỏi rằng: “Bạch ngài, vị tỳ khưu tên (như vầy) đã từ trần. Cõi tái sanh của vị ấy là gì? Cảnh giới tương lai của vị ấy là gì?” Đức Thế Tôn sẽ nói về vị ấy rằng: “Trong quả vị Nhập Lưu, hoặc là trong quả vị Nhất Lai, hoặc là trong quả vị Bất Lai, hoặc là trong quả vị A-la-hán.” Con sẽ đi đến gặp (các vị) và hỏi rằng: “Thưa các ngài, có phải vị đại đức ấy trước đây đã đi đến Sāvatthi?” Nếu các vị trả lời con rằng: “Vị tỳ khưu ấy trước đây đã đi đến Sāvatthi.” Trường hợp ấy, con sẽ đi đến kết luận là: “Chắc chắn rằng vị đại đức ấy đã thọ dụng hoặc là vải choàng (tắm) mưa, hoặc là bữa ăn dành cho vị vãng lai, hoặc là bữa ăn dành cho vị ra đi, hoặc là bữa ăn dành cho vị bị bệnh, hoặc là bữa ăn dành cho vị chăm sóc bệnh, hoặc là dược phẩm dành cho vị bị bệnh, hoặc là cháo hàng ngày.” Trong khi nhớ lại điều ấy, sự hân hoan sẽ được sanh khởi ở con đây, do sự hân hoan mà hỷ sẽ được sanh khởi, do tâm có hỷ mà thân sẽ khinh an, do thân được khinh an con sẽ cảm giác sự an lạc, có sự an lạc tâm sẽ được định, con sẽ có được sự tu tập về Căn Quyền, có sự tu tập về Lực, có sự tu tập về Giác Chi. Bạch ngài, trong khi thấy rõ lợi ích này mà con cầu xin Như Lai tám điều ước muốn.
– Này Visākhā, thật tốt lắm, thật tốt lắm! Này Visākhā, thật tốt thay trong khi thấy rõ lợi ích này mà bà cầu xin Như Lai tám điều ước muốn. Này Visākhā, ta cho phép bà tám điều ước muốn.
Sau đó, đức Thế Tôn đã tùy hỷ công đức cho bà Visākhā mẹ của Migāra bằng những lời kệ này:
[154]
Trong khi dâng cơm nước
nữ nhân được hân hoan,
thành tựu về giới luật
là đệ tử Thiện Thệ.
Vượt qua được bỏn xẻn,
người cúng dường vật thí
được hứa hẹn cõi trời,
hết sầu được an lạc.
Cô ấy đạt sức mạnh
và tuổi thọ của trời
đã đi vào đạo lộ
không nhiễm ô, thanh tịnh.
Cô ấy mong tạo phước
được an lạc, vô bệnh,
và vui hưởng dài lâu,
trong cuộc sống thiên đình.
[155] Sau đó, khi đã tùy hỷ công đức cho bà Visākhā mẹ của Migāra bằng những lời kệ này, đức Thế Tôn đã từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi. Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, ta cho phép vải choàng (tắm) mưa, bữa ăn dành cho vị vãng lai, bữa ăn dành cho vị ra đi, bữa ăn dành cho vị bị bệnh, bữa ăn dành cho vị chăm sóc bệnh, dược phẩm dành cho vị bị bệnh, cháo hàng ngày, vải choàng tắm đến hội chúng tỳ khưu ni.
Dứt tụng phẩm Visākhā.
[156] Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu sau khi thọ thực thức ăn thượng hạng, có niệm bị xao lãng, không được giác tĩnh, và rơi vào giấc ngủ. Trong khi các vị có niệm bị xao lãng, không được giác tĩnh, và rơi vào giấc ngủ rồi tinh dịch bị xuất ra do chiêm bao khiến chỗ nằm ngồi bị lấm lem vì chất dơ. Khi ấy, đức Thế Tôn trong lúc đang đi dạo quanh các trú xá cùng với đại đức Ānanda là sa-môn hầu cận đã nhìn thấy chỗ nằm ngồi bị lấm lem vì chất dơ, sau khi nhìn thấy đã bảo đại đức Ānanda rằng:
– Này Ānanda, tại sao chỗ nằm ngồi này bị lấm lem?
– Bạch ngài, hiện nay các vị tỳ khưu sau khi thọ thực thức ăn thượng hạng, có niệm bị xao lãng, không được giác tĩnh, và rơi vào giấc ngủ. Trong khi các vị có niệm bị xao lãng, không được giác tĩnh, và rơi vào giấc ngủ rồi tinh dịch bị xuất ra do chiêm bao. Bạch đức Thế Tôn, do đó chỗ nằm ngồi này bị lấm lem vì chất dơ.
– Này Ānanda, điều ấy là như thế! Này Ānanda, điều ấy là như thế! Này Ānanda, tinh dịch bị xuất ra do chiêm bao vì các vị ấy có niệm bị xao lãng, không được giác tĩnh, và rơi vào giấc ngủ. Này Ānanda, các vị tỳ khưu nào có niệm được thiết lập, được giác tĩnh, và rơi vào giấc ngủ, tinh dịch của các vị ấy không bị xuất ra. Này Ānanda, các vị nào dầu là phàm nhân đã xa lìa sự tham đắm trong các dục, tinh dịch của các vị ấy không bị xuất ra. Này Ānanda, tinh dịch của vị A-la-hán có thể bị xuất ra là điều không có thực tế, không có cơ sở.
Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, ở đây trong lúc đang đi dạo quanh các trú xá cùng với Ānanda là sa-môn hầu cận ta đã nhìn thấy chỗ nằm ngồi bị lấm lem vì chất dơ, sau khi nhìn thấy đã hỏi Ānanda rằng: “Này Ānanda, tại sao chỗ nằm ngồi này bị lấm lem?” “Bạch ngài, hiện nay các vị tỳ khưu sau khi thọ thực thức ăn thượng hạng, có niệm bị xao lãng, không được giác tĩnh, và rơi vào giấc ngủ. Trong khi các vị có niệm bị xao lãng, không được giác tĩnh, và rơi vào giấc ngủ, rồi tinh dịch bị xuất ra do chiêm bao. Bạch đức Thế Tôn, do đó chỗ nằm ngồi này đã bị lấm lem vì chất dơ.” “Này Ānanda, điều ấy là như thế! Này Ānanda, điều ấy là như thế! Này Ānanda, tinh dịch bị xuất ra do chiêm bao vì các vị ấy có niệm bị xao lãng, không được giác tĩnh, và rơi vào giấc ngủ. Này Ānanda, các vị tỳ khưu nào có niệm được thiết lập, được giác tĩnh, và rơi vào giấc ngủ, tinh dịch của các vị ấy không bị xuất ra. Này Ānanda, các vị nào dầu là phàm nhân đã xa lìa sự tham đắm trong các dục, tinh dịch của các vị ấy không bị xuất ra. Này Ānanda, tinh dịch của vị A-la-hán có thể bị xuất ra là điều không có thực tế, không có cơ sở.” Này các tỳ khưu, đây là năm điều bất lợi của vị có niệm bị xao lãng, không được giác tĩnh, và rơi vào giấc ngủ: (Vị ấy) ngủ khổ sở, thức dậy khổ sở, thấy mộng điều ác xấu, chư thiên không hộ trì, tinh dịch bị xuất ra. Này các tỳ khưu, đây là năm điều bất lợi của vị có niệm bị xao lãng, không được giác tĩnh, và rơi vào giấc ngủ. Này các tỳ khưu, đây là năm điều thuận lợi của vị có niệm được thiết lập, được giác tĩnh, và rơi vào giấc ngủ: (Vị ấy) ngủ an lạc, thức dậy an lạc, không thấy mộng điều ác xấu, chư thiên hộ trì, tinh dịch không bị xuất ra. Này các tỳ khưu, đây là năm điều thuận lợi của vị có niệm được thiết lập, được giác tĩnh, và rơi vào giấc ngủ. Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) y lót ngồi (nisīdanaṃ) để bảo vệ cơ thể, để bảo vệ y, để bảo vệ chỗ ngồi.
Vào lúc bấy giờ, y lót ngồi quá nhỏ nên không bảo vệ được toàn bộ chỗ ngồi. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép làm tấm trải nằm (paccattharanaṃ)[4] lớn theo như (kích thước) mong muốn.
[157] Vào lúc bấy giờ, thầy tế độ của đại đức Ānanda là đại đức Velaṭṭhasīsa có bệnh ghẻ sần sùi (thullakacchābādho). Các y của vị ấy bị dính vào thân vì chất máu mủ, các vị tỳ khưu phải liên tục tẩm ướt các y với nước và kéo ra. Đức Thế Tôn trong khi đi dạo quanh các chỗ trú ngụ đã nhìn thấy các vị tỳ khưu ấy liên tục tẩm ướt các y với nước và kéo ra, sau khi nhìn thấy đã đi đến gần các vị tỳ khưu ấy, sau khi đến đã nói với các vị tỳ khưu ấy điều này:
– Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu này bị bệnh gì vậy?
– Bạch ngài, đại đức này bị bệnh ghẻ sần sùi, các y bị dính vào thân vì chất máu mủ, chúng con phải liên tục tẩm ướt các y với nước và kéo ra.
Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) y đắp ghẻ (kaṇḍupaṭicchādī) đến vị nào bị ghẻ ngứa, hoặc bị nhọt, hoặc có vết thương chảy mủ, hoặc bị ghẻ sần sùi.
[158] Khi ấy, bà Visākhā mẹ của Migāra cầm cái khăn lau mặt đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, bà Visākhā mẹ của Migāra đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, xin hãy thọ lãnh cái khăn lau mặt của con vì điều ấy đem lại sự lợi ích và sự an vui lâu dài cho con.
Đức Thế Tôn đã thọ nhận cái khăn lau mặt. Khi ấy, đức Thế Tôn đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho bà Visākhā mẹ của Migāra bằng bài Pháp thoại. Sau đó, khi đã được đức Thế Tôn chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi bằng bài Pháp thoại, bà Visākhā mẹ của Migāra đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi. Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) khăn lau mặt (mukhapuñchanacolaṃ).
[159] Vào lúc bấy giờ, Roja người Malla là bạn của đại đức Ānanda. Tấm vải dệt bằng sợi lanh của Roja người Malla đã bị đánh rơi nơi khuôn viên của đại đức Ānanda. Và đại đức Ānanda có nhu cầu về vải dệt bằng sợi lanh. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép lấy do sự thân thiết (đồ vật) của người hội đủ năm điều: là vị quen biết, thân thiết, (vị ấy) đã nói trước, (vị ấy) còn sống, và vị lấy biết được rằng: “Khi được ta lấy thì vị ấy sẽ hoan hỷ.” Này các tỳ khưu, ta cho phép lấy do sự thân thiết (đồ vật) của người hội đủ năm điều này.
[160] Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu có được đầy đủ ba y nhưng có nhu cầu về các đồ lọc nước và túi mang. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép miếng vải phụ tùng (parikkhāracolaṃ).
Khi ấy, các vị tỳ khưu đã khởi ý điều này: “Các vật nào đã được đức Thế Tôn cho phép như là ‘Ba y,’ hoặc là ‘Vải choàng (tắm) mưa,’ hoặc là ‘Y lót ngồi,’ hoặc là ‘Tấm trải nằm,’ hoặc là ‘Y đắp ghẻ,’ hoặc là ‘Khăn lau mặt,’ hoặc là ‘Miếng vải phụ tùng,’ tất cả các thứ ấy cần được chú nguyện để dùng riêng (adhiṭṭhātuṃ) hay là chú nguyện để dùng chung (vikappetuṃ)?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép chú nguyện để dùng riêng ba y không được chú nguyện để dùng chung, chú nguyện để dùng riêng vải choàng (tắm) mưa trong bốn tháng của mùa mưa sau đó chú nguyện để dùng chung vào các tháng khác, chú nguyện để dùng riêng y lót ngồi không được chú nguyện để dùng chung, chú nguyện để dùng riêng tấm trải nằm không được chú nguyện để dùng chung, chú nguyện để dùng riêng y đắp ghẻ lúc còn bị bệnh sau đó chú nguyện để dùng chung vào lúc khác, chú nguyện để dùng riêng khăn lau mặt không được chú nguyện để dùng chung, chú nguyện để dùng riêng miếng vải phụ tùng không được chú nguyện để dùng chung.
Khi ấy, các vị tỳ khưu đã khởi ý điều này: “Y nên được chú nguyện để dùng chung (có kích thước) tối thiểu là bao nhiêu?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép chú nguyện để dùng chung y (có kích thước) tối thiểu với chiều dài là tám ngón tay với chiều rộng là bốn ngón tay theo ngón tay tiêu chuẩn (sugataṅgulena).
Vào lúc bấy giờ, y làm bằng vải dơ bị quăng bỏ của đại đức Mahākassapa là nặng nề. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép (thực hiện) việc mạng bằng chỉ.
(Y) có góc bị thừa. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép cắt góc bị thừa.
Các mối chỉ bị xổ ra (ở chỗ bị cắt). Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép gắn vào miếng vải viền hoặc miếng vải bọc lại.
Vào lúc bấy giờ, các mảnh vải của y hai lớp (saṅghāṭi) bị tưa ra (lujjanti). Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép làm (đường chỉ may) ở tám chỗ (aṭṭhapadakam kātuṃ).
[161] Vào lúc bấy giờ, trong lúc y của vị tỳ khưu nọ đang được làm, toàn bộ các mảnh cắt không đủ. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép hai (y) đã được cắt, một (y) không cắt.
Hai (y) đã được cắt một (y) không cắt không đủ. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép hai (y) không cắt, một (y) đã được cắt.
Hai (y) không cắt một (y) đã được cắt không đủ. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép đặt vào miếng vải khác loại (anvādhikaṃ). Và này các tỳ khưu, không nên sử dụng toàn bộ (ba y) không cắt; vị nào sử dụng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[162] Vào lúc bấy giờ, có nhiều y được phát sanh đến vị tỳ khưu nọ. Và vị ấy có ý muốn cho đến cha mẹ y ấy. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, điều gì ta có thể nói trong khi vị ấy cho đến cha mẹ? Này các tỳ khưu, ta cho phép cho đến cha mẹ. Và này các tỳ khưu, không nên lãng phí vật bố thí vì đức tin; vị nào lãng phí thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[163] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đã để y hai lớp (saṅghāṭi) trong khu rừng Andhavana rồi đi vào làng để khất thực với y nội và thượng y. Những kẻ trộm đã lấy trộm y ấy. Vị tỳ khưu ấy trở thành ăn mặc bê bối y phục luộm thuộm. Các tỳ khưu đã nói như vầy:
– Này đại đức, vì sao ngài lại trở thành ăn mặc bê bối y phục luộm thuộm?
– Này các đại đức, ở đây tôi đã để y ở trong khu rừng Andhavana rồi đi vào làng để khất thực với y nội và thượng y. Những kẻ trộm đã lấy trộm y ấy, vì thế tôi trở thành ăn mặc bê bối y phục luộm thuộm.
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên đi vào làng với y nội và thượng y; vị nào đi vào thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vào lúc bấy giờ, đại đức Ānanda vì thiếu sự ghi nhớ nên đã đi vào làng để khất thực với y nội và thượng y. Các tỳ khưu đã nói với đại đức Ānanda điều này:
– Này đại đức Ānanda, không phải đức Thế Tôn đã quy định rằng: “Không nên đi vào làng với y nội và thượng y” hay sao? Này đại đức, vì sao ngài đã đi vào làng với y nội và thượng y?
– Này các đại đức, điều đã được đức Thế Tôn quy định rằng: “Không nên đi vào làng với y nội và thượng y” là sự thật. Này các đại đức, tuy nhiên vì thiếu sự ghi nhớ nên tôi đã đi vào (làng như thế).
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, có năm điều kiện cho việc để lại y hai lớp (saṅghāṭi): vị bị bệnh, hoặc là sự quy định về mùa mưa (vassikasaṅketaṃ),[5] hoặc là phải đi qua bên kia sông, hoặc là trú xá có sự an toàn với then cài, hoặc là vị có Kaṭhina đã được thành tựu. Này các tỳ khưu, đây là năm điều kiện cho việc để lại y hai lớp.
Này các tỳ khưu, có năm điều kiện cho việc để lại thượng y (uttarāsaṅga): vị bị bệnh, hoặc là sự quy định về mùa mưa, hoặc là phải đi qua bên kia sông, hoặc là trú xá có sự an toàn với then cài, hoặc là vị có Kaṭhina đã được thành tựu. Này các tỳ khưu, đây là năm điều kiện cho việc để lại thượng y.
Này các tỳ khưu, có năm điều kiện cho việc để lại y nội (antaravāsaka): vị bị bệnh, hoặc là sự quy định về mùa mưa, hoặc là phải đi qua bên kia sông, hoặc là trú xá có sự an toàn với then cài, hoặc là vị có Kaṭhina đã được thành tựu. Này các tỳ khưu, đây là năm điều kiện cho việc để lại y nội.
Này các tỳ khưu, có năm điều kiện cho việc để lại vải choàng (tắm) mưa (vassikasāṭikā): vị bị bệnh, hoặc là sự quy định về mùa mưa, hoặc là phải đi ra khỏi ranh giới, hoặc là phải đi qua bên kia sông, hoặc là trú xá có sự an toàn với then cài, hoặc là vải choàng (tắm) mưa không được làm hoặc được làm chưa hoàn tất. Này các tỳ khưu, đây là năm điều kiện cho việc để lại vải choàng (tắm) mưa.
[164] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ sống mùa (an cư) mưa có một mình. Ở đó, dân chúng đã dâng các y (nói rằng): “Chúng tôi dâng đến hội chúng.” Khi ấy, vị tỳ khưu ấy khởi đã ý điều này: “Đức Thế Tôn đã quy định rằng: ‘Hội chúng tối thiểu là nhóm bốn vị’ và ta chỉ có mỗi một mình. Và các người này đã dâng các y (nói rằng): ‘Chúng tôi dâng đến hội chúng,’ hay là ta nên đem các y thuộc về hội chúng này đến Sāvatthi?” Sau đó, vị tỳ khưu ấy đã cầm lấy các y ấy đi đến Sāvatthi và trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này tỳ khưu, các y ấy là của chính ngươi cho đến khi hết hiệu lực của Kaṭhina. Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu sống mùa (an cư) mưa có một mình. Ở đó, dân chúng dâng các y (nói rằng): “Chúng tôi dâng đến hội chúng.” Này các tỳ khưu, ta cho phép các y ấy là của chính vị ấy cho đến khi hết hiệu lực của Kaṭhina.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ sống ngoài mùa (an cư) mưa có một mình. Ở đó, dân chúng đã dâng các y (nói rằng): “Chúng tôi dâng đến hội chúng.” Khi ấy, vị tỳ khưu ấy đã khởi ý điều này: “Đức Thế Tôn đã quy định rằng: ‘Hội chúng ít nhất là nhóm bốn vị’ và ta chỉ có mỗi một mình. Và các người này đã dâng các y (nói rằng): ‘Chúng tôi dâng đến hội chúng,’ hay là ta nên đem các y thuộc về hội chúng này đến Sāvatthi?” Sau đó, vị tỳ khưu ấy đã cầm lấy các y ấy đi đến Sāvatthi và trình sự việc ấy đến các vị tỳ khưu. Các vị tỳ khưu đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép chia ra cho hội chúng đang hiện diện. Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu sống ngoài mùa (an cư) mưa có một mình. Ở đó, dân chúng dâng các y (nói rằng): “Chúng tôi dâng đến hội chúng.” Này các tỳ khưu, ta cho phép vị tỳ khưu ấy chú nguyện các y ấy rằng: “Những y này là của tôi.” Này các tỳ khưu, nếu trong khi y ấy chưa được chú nguyện thành của vị tỳ khưu ấy thì có vị tỳ khưu khác đi đến, nên chia thành phần đồng đều nhau. Này các tỳ khưu, nếu trong khi y ấy đang được chia bởi các vị tỳ khưu ấy nhưng chưa được bốc thăm thì có vị tỳ khưu khác đi đến, nên chia thành phần đồng đều nhau. Này các tỳ khưu, nếu trong khi y ấy đang được chia bởi các vị tỳ khưu ấy và đã được bốc thăm thì có tỳ khưu khác đi đến, không cần phải chia phần nếu không thích.
Vào lúc bấy giờ, có hai vị trưởng lão là anh em: đại đức Isidāsa và đại đức Isibhatta đã sống qua mùa (an cư) mưa ở Sāvatthi rồi đã đi đến chỗ trú ngụ là ngôi làng nọ. Dân chúng (nghĩ rằng): “Đã lâu lắm các trưởng lão mới ghé đến” rồi đã dâng các thức ăn cùng với các y. Các tỳ khưu thường trú đã hỏi hai vị trưởng lão rằng:
– Thưa các ngài, những y thuộc hội chúng này đã được phát sanh nhờ vào (niềm tin nơi) các trưởng lão, các trưởng lão sẽ hoan hỷ phần chia hay không?
Hai vị trưởng lão đã nói như vầy:
– Này các đại đức, theo như chúng tôi biết về Pháp đã được thuyết giảng bởi đức Thế Tôn thì các y ấy là thuộc về của chính các vị cho đến khi Kaṭhina hết hiệu lực.
Vào lúc bấy giờ, có ba vị tỳ khưu sống mùa (an cư) mưa ở trong thành Rājagaha. Ở đó, dân chúng dâng các y (nói rằng): “Chúng tôi dâng đến hội chúng.” Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đã khởi ý điều này: “Đức Thế Tôn đã quy định rằng: ‘Hội chúng ít nhất là nhóm bốn vị” và chúng ta chỉ có ba người. Và các người này dâng các y (nói rằng): ‘Chúng tôi dâng đến hội chúng,’ vậy chúng ta nên thực hành thế nào?” Vào lúc bấy giờ, có nhiều trưởng lão là đại đức Nīlavāsī, đại đức Sāṇavāsī, đại đức Gopaka, đại đức Bhagu, và đại đức Phalikasandāna cư ngụ tại Pāṭaliputta ở tu viện Kukkuṭa. Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đã đi đến Pāṭaliputta và hỏi các vị trưởng lão. Các vị trưởng lão đã nói như vầy:
– Này các đại đức, theo như chúng tôi biết về Pháp đã được thuyết giảng bởi đức Thế Tôn thì các y ấy là thuộc về của chính các vị cho đến khi Kaṭhina hết hiệu lực.
[165] Vào lúc bấy giờ, đại đức Upananda con trai giòng Sākya đã sống qua mùa (an cư) mưa ở Sāvatthi rồi đã đi đến chỗ trú ngụ là ngôi làng nọ. Ở đó, các vị tỳ khưu đã tụ hội lại với ý định chia y. Các vị ấy đã nói như vầy:
– Này đại đức, các y này thuộc về hội chúng sẽ được chia ra, ngài sẽ chấp nhận phần chia hay không?
– Này các đại đức, xin vâng, tôi sẽ chấp nhận.
Sau khi nhận phần y ở nơi đó, vị ấy đã đi sang trú xứ khác. Ở nơi đó, các vị tỳ khưu đã tụ hội lại với ý định chia y. Các vị ấy cũng đã nói như vầy:
– Này đại đức, các y này thuộc về hội chúng sẽ được chia ra, ngài sẽ chấp nhận phần chia hay không?
– Này các đại đức, xin vâng, tôi sẽ chấp nhận.
Sau khi nhận phần y ở nơi đó nữa, vị ấy đã đi sang trú xứ khác. Ở nơi đó, các vị tỳ khưu đã tụ hội lại với ý định chia y. Các vị ấy cũng đã nói như vầy:
– Này đại đức, các y này thuộc về hội chúng sẽ được chia ra, ngài sẽ chấp nhận phần chia hay không?
– Này các đại đức, xin vâng, tôi sẽ chấp nhận.
Sau khi nhận phần y ở nơi đó nữa, vị ấy đã cầm lấy gói y lớn rồi quay trở về lại Sāvatthi. Các vị tỳ khưu đã nói như vầy:
– Này đại đức Upananda, ngài có được nhiều phước báu. Nhiều y đã được phát sanh đến ngài.
– Này các đại đức, tôi có phước báu là do đâu? Ở đây, tôi đã sống qua mùa (an cư) mưa ở Sāvatthi rồi đã đi đến chỗ trú ngụ là ngôi làng nọ. Ở đó, các vị tỳ khưu đã tụ hội lại với ý định chia y. Các vị ấy đã nói với tôi như vầy: “Này đại đức, các y này thuộc về hội chúng sẽ được chia ra, ngài sẽ chấp nhận phần chia hay không?” “Này các đại đức, xin vâng, tôi sẽ chấp nhận.” Sau khi nhận phần y ở nơi đó, tôi đã đi sang trú xứ khác. Ở nơi đó, các vị tỳ khưu đã tụ hội lại với ý định chia y. Các vị ấy cũng đã nói với tôi như vầy: “Này đại đức, các y này thuộc về hội chúng sẽ được chia ra, ngài sẽ chấp nhận phần chia hay không?” “Này các đại đức, xin vâng, tôi sẽ chấp nhận.” Sau khi nhận phần y ở nơi đó nữa, tôi đã đi sang trú xứ khác. Ở nơi đó, các vị tỳ khưu đã tụ hội lại với ý định chia y. Các vị ấy cũng đã nói với tôi như vầy: “Này đại đức, các y này thuộc về hội chúng sẽ được chia ra, ngài sẽ chấp nhận phần chia hay không?” “Này các đại đức, xin vâng, tôi sẽ chấp nhận.” Tôi đã nhận phần chia y ở nơi đó nữa, như thế mà nhiều y đã được phát sanh đến tôi.
– Này đại đức Upananda, có phải ngài đã sống mùa (an cư) mưa ở nơi khác và chấp nhận phần chia y ở nơi khác?
– Này các đại đức, đúng vậy.
Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Vì sao đại đức Upananda đã sống mùa (an cư) mưa ở nơi khác lại chấp nhận phần chia y ở nơi khác?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này Upananda, nghe nói ngươi đã sống mùa (an cư) mưa ở nơi khác và chấp nhận phần chia y ở nơi khác, có đúng không vậy?
– Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
– Này kẻ rồ dại, vì sao ngươi sống mùa (an cư) mưa ở nơi khác lại chấp nhận phần chia y ở nơi khác? Này kẻ rồ dại, việc sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)…
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, vị sống mùa (an cư) mưa ở nơi khác không nên chấp nhận phần chia y ở nơi khác; vị nào chấp nhận thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vào lúc bấy giờ, đại đức Upananda một mình đã sống mùa (an cư) mưa ở hai trú xứ (nghĩ rằng): “Như vầy nhiều y sẽ được phát sanh đến ta.” Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đã khởi ý điều này: “Phần san sẻ về y nên được cho đến đại đức Upananda như thế nào?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, hãy cho đến kẻ rồ dại phần của một người. Này các tỳ khưu, trường hợp một vị tỳ khưu sống mùa (an cư) mưa ở hai trú xứ[6] (nghĩ rằng): “Như vầy nhiều y sẽ được phát sanh đến ta.” Nếu vị ấy sống chỗ này một nửa (thời gian) chỗ kia một nửa (thời gian) thì nên cho phần san sẻ về y (cīvarapaṭiviso) gồm một nửa của nơi này một nửa của nơi kia, hoặc ở chỗ nào vị ấy sống nhiều hơn thì phần san sẻ về y nên được cho từ chỗ đó.
[166] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh kiết lỵ. Vị ấy đã bị té vào đống phân và nước tiểu của chính mình. Khi ấy, trong lúc đang đi dạo quanh các trú xá cùng với đại đức Ānanda là sa-môn hầu cận, đức Thế Tôn đã đi đến trú xá của vị tỳ khưu ấy. Đức Thế Tôn đã nhìn thấy vị tỳ khưu ấy té và đang nằm trên đống phân và nước tiểu của chính mình, sau khi nhìn thấy đã đi đến gần vị tỳ khưu ấy, sau khi đến đã nói với vị tỳ khưu ấy điều này:
– Này tỳ khưu, ngươi bị bệnh gì?
– Bạch Thế Tôn, con bị bệnh kiết lỵ.
– Này tỳ khưu, ngươi không có người phục vụ?
– Bạch Thế Tôn, không có.
– Vì sao các vị tỳ khưu lại không phục vụ ngươi?
– Bạch ngài, con là người không có làm gì cho các vị tỳ khưu, do đó các vị tỳ khưu không phục vụ con.
Khi ấy, đức Thế Tôn đã bảo đại đức Ānanda rằng:
– Này Ānanda, hãy đi và mang nước lại. Chúng ta sẽ tắm cho vị tỳ khưu này.
– Bạch ngài, xin vâng.
Rồi đại đức Ānanda nghe theo đức Thế Tôn đã mang nước lại. Đức Thế Tôn đã xối nước và đại đức Ānanda đã rửa ráy toàn bộ. Rồi đức Thế Tôn đã đỡ phần đầu còn đại đức Ānanda nâng lên ở phần chân và đặt ở trên giường. Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội chúng tỳ khưu lại rồi hỏi các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, có phải có vị tỷ kheo trong trú xá ở đàng kia bị bệnh?
– Bạch Thế Tôn, thưa có.
– Này các tỳ khưu, vị ấy bị bệnh gì?
– Bạch ngài, đại đức ấy bị bệnh kiết lỵ.
– Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy có người phục vụ không?
– Bạch Thế Tôn, không có.
– Vì sao các tỳ khưu lại không phục vụ vị ấy?
– Bạch ngài, vị tỳ khưu ấy là người không có làm gì cho các tỳ khưu, do đó các tỳ khưu không phục vụ vị ấy.
– Này các tỳ khưu, các ngươi không có mẹ, không có cha là những người có thể phục vụ các ngươi. Này các tỳ khưu, nếu các ngươi không phục vụ lẫn nhau thì khi ấy lấy ai sẽ phục vụ đây? Này các tỳ khưu, vị nào có thể phục vụ ta, vị ấy nên phục vụ những người bệnh. Nếu có thầy tế độ, thầy tế độ nên phục vụ đến hết đời hoặc nên chờ đợi vị ấy được hồi phục. Nếu có thầy dạy học, thầy dạy học nên phục vụ đến hết đời hoặc nên chờ đợi vị ấy được hồi phục. Nếu có đệ tử, người đệ tử nên phục vụ đến hết đời hoặc nên chờ đợi vị ấy được hồi phục. Nếu có học trò, người học trò nên phục vụ đến hết đời hoặc nên chờ đợi vị ấy được hồi phục. Nếu có vị đồng thầy tế độ, vị đồng thầy tế độ nên phục vụ đến hết đời hoặc nên chờ đợi vị ấy được hồi phục. Nếu có vị đồng thầy dạy học, vị đồng thầy dạy học nên phục vụ đến hết đời hoặc nên chờ đợi vị ấy được hồi phục. Nếu không có thầy tế độ, hoặc thầy dạy học, hoặc người đệ tử, hoặc người học trò, hoặc vị đồng thầy tế độ, hoặc vị đồng thầy dạy học, hội chúng nên phục vụ; nếu không phục vụ thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Này các tỳ khưu, vị bị bệnh là khó phục vụ khi hội đủ năm điều: Là vị không làm việc cần làm; là vị không biết sự vừa phải trong việc cần làm; là vị không quen dùng dược phẩm; là vị không giải thích cho người phục vụ bệnh nhân luôn muốn điều tốt đẹp một cách rõ ràng, đúng theo thực trạng như (bệnh) đã tăng thêm là “(Bệnh) đã tăng thêm,” (bệnh) đã giảm là: “(Bệnh) đã giảm,” (bệnh) ổn định là: “(Bệnh) ổn định;” là loại người không chịu đựng được các cảm thọ khổ, khốc liệt, sắc bén, gay gắt, không chút thích thú, khó chịu, chết người thuộc cơ thể đã sanh khởi. Này các tỳ khưu, người bệnh hội đủ năm điều này là khó phục vụ.
Này các tỳ khưu, vị bị bệnh là dễ phục vụ khi hội đủ năm điều: Là vị làm việc cần làm; là vị biết sự vừa phải trong việc cần làm; là vị quen dùng dược phẩm; là vị giải thích cho người phục vụ bệnh nhân luôn muốn điều tốt đẹp một cách rõ ràng, đúng theo thực trạng như (bệnh) đã tăng thêm là “(Bệnh) đã tăng thêm,” (bệnh) đã giảm là: “(Bệnh) đã giảm,” (bệnh) ổn định là: “(Bệnh) ổn định;” là loại người chịu đựng được các cảm thọ khổ, khốc liệt, sắc bén, gay gắt, không chút thích thú, khó chịu, chết người thuộc cơ thể đã sanh khởi. Này các tỳ khưu, người bệnh hội đủ năm điều này là dễ phục vụ.
Này các tỳ khưu, người phục vụ bệnh nhân không thích hợp để phục vụ người bệnh là vị hội đủ năm điều: Là vị không có khả năng để phân phát thuốc men; không biết điều gì cần làm và điều gì không cần làm, làm điều không cần thiết và không làm điều cần thiết; phục vụ người bệnh vì mục đích tài vật và không có tâm từ; ghê tởm việc dọn dẹp nước tiểu, phân, nước giải, vật nôn mửa; không có khả năng để chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho người bệnh bằng bài Pháp thoại lúc này lúc khác. Này các tỳ khưu, người phục vụ bệnh nhân hội đủ năm điều này là không thích hợp để phục vụ người bệnh.
Này các tỳ khưu, người phục vụ bệnh nhân thích hợp để phục vụ người bệnh là vị hội đủ năm điều: Là vị có khả năng để phân phát thuốc men; biết điều gì cần làm và điều gì không cần làm, không làm điều không cần thiết và làm điều cần thiết; có tâm từ và phục vụ người bệnh không vì mục đích tài vật; không ghê tởm việc dọn dẹp nước tiểu, phân, nước giải, vật nôn mửa; có khả năng để chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho người bệnh bằng bài Pháp thoại lúc này lúc khác. Này các tỳ khưu, người phục vụ bệnh nhân hội đủ năm điều này là thích hợp để phục vụ người bệnh.
[167] Vào lúc bấy giờ, có hai vị tỳ khưu đang đi đường xa trong xứ Kosala. Hai vị ấy đã đi đến trú xứ nọ. Ở đó, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đã bàn bạc điều này: “Này đại đức, việc phục vụ người bệnh đã được đức Thế Tôn khen ngợi. Này đại đức, vậy chúng ta hãy phục vụ vị tỳ khưu này.” Các vị ấy đã phục vụ vị kia. Trong khi được các vị ấy phục vụ, vị kia đã từ trần. Sau đó, các vị tỳ khưu đã cầm lấy y bát của vị tỳ khưu kia đi đến Sāvatthi và đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, đối với vị tỳ khưu khi từ trần, hội chúng là chủ của các y và bình bát, tuy nhiên các vị phục vụ người bệnh lại có nhiều công đức. Này các tỳ khưu, ta cho phép ban cho các vị phục vụ người bệnh ba y và bình bát thông qua hội chúng. Và này các tỳ khưu, nên được ban cho như vầy:
Vị tỳ khưu phục vụ người bệnh ấy nên đi đến gặp hội chúng và nên nói như vầy: “Bạch các ngài, vị tỳ khưu tên (như vầy) đã từ trần, đây là ba y và bình bát của vị ấy.” Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu tên (như vầy) đã từ trần, đây là ba y và bình bát của vị ấy. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên cho ba y và bình bát này đến các vị phục vụ người bệnh. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu tên (như vầy) đã từ trần, đây là ba y và bình bát của vị ấy. Hội chúng cho ba y và bình bát này đến các vị phục vụ người bệnh. Đại đức nào đồng ý việc cho ba y và bình bát này đến các vị phục vụ người bệnh xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Ba y và bình bát này đã được hội chúng cho đến các vị phục vụ người bệnh. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
Vào lúc bấy giờ, có vị sa di nọ từ trần. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, đối với vị sa di khi từ trần, hội chúng là chủ của các y và bình bát, tuy nhiên các vị phục vụ người bệnh lại có nhiều công đức. Này các tỳ khưu, ta cho phép ban cho các vị phục vụ người bệnh y và bình bát thông qua hội chúng. Và này các tỳ khưu, nên được ban cho như vầy:
Vị tỳ khưu phục vụ người bệnh ấy nên đi đến gặp hội chúng và nên nói như vầy: “Bạch các ngài, vị sa di tên (như vầy) đã từ trần, đây là y và bình bát của vị ấy.” Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị sa di tên (như vầy) đã từ trần, đây là y và bình bát của vị ấy. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên cho y và bình bát này đến các vị phục vụ người bệnh. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị sa di tên (như vầy) đã từ trần, đây là y và bình bát của vị ấy. Hội chúng cho y và bình bát này đến các vị phục vụ người bệnh. Đại đức nào đồng ý việc cho y và bình bát này đến các vị phục vụ người bệnh xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Y và bình bát này đã được hội chúng cho đến các vị phục vụ người bệnh. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ và vị sa di đã phục vụ vị bị bệnh. Trong khi được các vị ấy phục vụ, vị kia đã từ trần. Khi ấy, vị tỳ khưu phục vụ người bệnh đã khởi ý điều này: “Phần san sẻ về y của vị sa di là vị phục vụ người bệnh nên được cho như thế nào đây?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép cho đến vị sa di là vị phục vụ người bệnh phần san sẻ đồng đều.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ có nhiều đồ đạc và có nhiều vật dụng đã từ trần. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, đối với vị tỳ khưu khi từ trần, hội chúng là chủ của các y và bình bát, tuy nhiên các vị phục vụ người bệnh lại có nhiều công đức. Này các tỳ khưu, ta cho phép ban cho các vị phục vụ người bệnh ba y và bình bát thông qua hội chúng, (cho phép) hội chúng đang hiện diện phân chia đồ đạc loại nhẹ và vật dụng loại nhẹ ở nơi ấy, (cho phép) đồ đạc loại nặng và vật dụng cần thiết loại nặng ở nơi ấy là của hội chúng bốn phương đã đi đến hoặc sẽ đi đến, không được phân tán, không được phân chia.
[168] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ sau khi làm cho trở thành trần truồng rồi đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, đức Thế Tôn là người thường ngợi khen về sự ít ham muốn, sự biết đủ, sự tận diệt, sự đoạn trừ, sự hài lòng, sự không gom góp, sự ra sức tinh tấn bằng nhiều phương thức. Bạch ngài, sự trần truồng này đưa đến sự ít ham muốn, sự biết đủ, sự tận diệt, sự đoạn trừ, sự hài lòng, sự không gom góp, sự ra sức tinh tấn theo nhiều phương thức. Bạch ngài, tốt đẹp thay xin đức Thế Tôn hãy cho phép sự trần truồng đến các tỳ khưu.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
– Này kẻ rồ dại, thật không đúng đắn, …(như trên)… Này kẻ rồ dại, tại sao ngươi lại thực hành nghi thức của ngoại đạo là sự lõa thể? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)…
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, không nên thực hành nghi thức của ngoại đạo là sự lõa thể; vị nào thực hành thì phạm tội thullaccaya (trọng tội).
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ che thân bằng cỏ kusa …(như trên)… che thân bằng vỏ cây …(như trên)… che thân bằng tấm ván gỗ …(như trên)… che thân bằng mền dệt bằng tóc …(như trên)… che thân bằng mền dệt bằng lông ngựa …(như trên)… che thân bằng cánh chim cú …(như trên)… che thân bằng da linh dương rồi đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, đức Thế Tôn là người thường ngợi khen về sự ít ham muốn, sự biết đủ, sự tận diệt, sự đoạn trừ, sự hài lòng, sự không gom góp, sự ra sức tinh tấn bằng nhiều phương thức. Bạch ngài, (việc che thân bằng) da linh dương này đưa đến sự ít ham muốn, sự biết đủ, sự tận diệt, sự đoạn trừ, sự hài lòng, sự không gom góp, sự ra sức tinh tấn theo nhiều phương thức. Bạch ngài, tốt đẹp thay xin đức Thế Tôn hãy cho phép (việc che thân bằng) da linh dương đến các tỳ khưu.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
– Này kẻ rồ dại, thật không đúng đắn, …(như trên)… Này kẻ rồ dại, tại sao ngươi lại mặc biểu tượng của ngoại đạo là (che thân bằng) da linh dương? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)…
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, không nên mặc biểu tượng của ngoại đạo là (che thân bằng) da linh dương; vị nào mặc thì phạm tội thullaccaya (trọng tội).
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ mặc (y làm bằng) sợi của cây akka, …(như trên)… mặc (y làm bằng) sợi của cây makaci rồi đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, đức Thế Tôn là người thường ngợi khen về sự ít ham muốn, sự biết đủ, sự tận diệt, sự đoạn trừ, sự hài lòng, sự không gom góp, sự ra sức tinh tấn bằng nhiều phương thức. Bạch ngài, (y làm bằng) sợi của cây makaci này đưa đến sự ít ham muốn, sự biết đủ, sự tận diệt, sự đoạn trừ, sự hài lòng, sự không gom góp, sự ra sức tinh tấn theo nhiều phương thức. Bạch ngài, tốt đẹp thay xin đức Thế Tôn hãy cho phép (y làm bằng) sợi của cây makaci đến các tỳ khưu.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
– Này kẻ rồ dại, thật không đúng đắn, …(như trên)… Này kẻ rồ dại, tại sao ngươi lại mặc (y làm bằng) sợi của cây makaci? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)…
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, không nên mặc (y làm bằng) sợi của cây makaci; vị nào mặc thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[169] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư mặc các y toàn màu xanh đậm, mặc các y toàn màu vàng, mặc các y toàn màu đỏ, mặc các y toàn màu đỏ sậm, mặc các y toàn màu đen, mặc các y toàn màu nổi bật, mặc các y toàn màu sáng chói, mặc các y không cắt đường viền, mặc các y có đường viền rộng, mặc các y có đường viền vẽ bông hoa, mặc các y có đường viền vẽ hình rắn hổ mang, mặc áo choàng ngắn, mặc loại vải dệt bằng sợi vỏ cây tirīṭaka, mang khăn xếp đội đầu. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy?
Các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, không nên mặc các y toàn màu xanh đậm, không nên mặc các y toàn màu vàng, không nên mặc các y toàn màu đỏ, không nên mặc các y toàn màu đỏ sậm, không nên mặc các y toàn màu đen, không nên mặc các y toàn màu nổi bật, không nên mặc các y toàn màu sáng chói, không nên mặc các y không cắt đường viền, không nên mặc các y có đường viền rộng, không nên mặc các y có đường viền vẽ bông hoa, không nên mặc các y có đường viền vẽ hình rắn hổ mang, không nên mặc áo choàng ngắn, không nên mặc loại vải dệt bằng sợi vỏ cây tirīṭaka, không nên mang khăn xếp đội đầu; vị nào mang thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[170] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu đã sống qua mùa (an cư) mưa khi y chưa phát sanh lại ra đi, hoàn tục, từ trần, được biết là sa di, được biết là người xả bỏ điều học, được biết là vị phạm tội cực nặng, được biết là vị bị điên, được biết là vị có tâm rối loạn, được biết là vị bị thọ khổ, được biết là vị bị án treo trong việc không nhìn nhận tội, được biết là vị bị án treo trong việc không sửa chữa lỗi, được biết là vị bị án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác, được biết là kẻ vô căn, được biết là kẻ trộm tướng mạo (tỳ khưu), được biết là kẻ đi theo ngoại đạo, được biết là thú vật, được biết là kẻ giết mẹ, được biết là kẻ giết cha, được biết là kẻ giết A-la-hán, được biết là kẻ làm ô uế tỳ khưu ni, được biết là kẻ chia rẽ hội chúng, được biết là kẻ làm đức Phật chảy máu, được biết là kẻ lưỡng căn. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu đã sống qua mùa (an cư) mưa khi y chưa phát sanh lại ra đi, nên trao cho vị nhận thế thích hợp đang hiện diện. Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu đã sống qua mùa (an cư) mưa khi y chưa phát sanh lại hoàn tục, từ trần, được biết là (xuống) sa di, được biết là người xả bỏ điều học, được biết là vị phạm tội cực nặng, hội chúng là chủ quản. Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu đã sống qua mùa (an cư) mưa khi y chưa phát sanh thì được biết là vị bị điên, được biết là vị có tâm rối loạn, được biết là vị bị thọ khổ, được biết là vị bị án treo trong việc không nhìn nhận tội, được biết là vị bị án treo trong việc không sửa chữa lỗi, được biết là vị bị án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác, nên trao cho vị nhận thế thích hợp đang hiện diện. Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu đã sống qua mùa (an cư) mưa khi y chưa phát sanh được biết là kẻ vô căn, …(như trên)…, được biết là kẻ lưỡng căn, hội chúng là chủ quản.
Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu đã sống qua mùa (an cư) mưa khi y đã được phát sanh nhưng chưa phân chia lại ra đi, nên trao cho vị nhận thế thích hợp đang hiện diện. Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu đã sống qua mùa (an cư) mưa khi y đã được phát sanh nhưng chưa phân chia lại hoàn tục, từ trần, được biết là (xuống) sa di, được biết là người xả bỏ điều học, được biết là vị phạm tội cực nặng, hội chúng là chủ quản. Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu đã sống qua mùa (an cư) mưa khi y đã được phát sanh nhưng chưa phân chia thì được biết là vị bị điên, được biết là vị có tâm rối loạn, được biết là vị bị thọ khổ, được biết là vị bị án treo trong việc không nhìn nhận tội, được biết là vị bị án treo trong việc không sửa chữa lỗi, được biết là vị bị án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác, nên trao cho vị nhận thế thích hợp đang hiện diện. Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu đã sống qua mùa (an cư) mưa khi y đã được phát sanh nhưng chưa phân chia được biết là kẻ vô căn, …(như trên)…, được biết là kẻ lưỡng căn, hội chúng là chủ quản.
Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu đã sống qua mùa (an cư) mưa và y chưa được phát sanh thì hội chúng bị chia rẽ. Ở đó, dân chúng dâng nước cho một nhóm và dâng y cho một nhóm (nói rằng): “Chúng tôi dâng y đến hội chúng.” (Y) ấy là của hội chúng. Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu đã sống qua mùa (an cư) mưa và y chưa được phát sanh thì hội chúng bị chia rẽ. Ở đó, dân chúng dâng nước cho một nhóm và dâng y cho chính nhóm ấy (nói rằng): “Chúng tôi dâng y đến hội chúng.” (Y) ấy là của hội chúng.
Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu đã sống qua mùa (an cư) mưa và y chưa được phát sanh thì hội chúng bị chia rẽ. Ở đó, dân chúng dâng nước cho một nhóm và dâng y cho một nhóm (nói rằng): “Chúng tôi dâng y đến nhóm.” (Y) ấy là (riêng) của nhóm. Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu đã sống qua mùa (an cư) mưa và y chưa được phát sanh thì hội chúng bị chia rẽ. Ở đó, dân chúng dâng nước cho một nhóm và dâng y cho chính nhóm ấy (nói rằng): “Chúng tôi dâng y đến nhóm.” (Y) ấy là (riêng) của nhóm.
Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu đã sống qua mùa (an cư) mưa và y đã được phát sanh nhưng chưa chia phần thì hội chúng bị chia rẽ. Nên chia đồng đều cho tất cả.
[171] Vào lúc bấy giờ, đại đức Revata gởi y cho đại đức Sāriputta qua tay của vị tỳ khưu nọ (nói rằng): “Hãy trao y này đến vị trưởng lão.” Sau đó ở khoảng giữa đường đi, vị tỳ khưu ấy đã lấy y ấy do sự thân thiết với đại đức Revata. Sau đó, đại đức Revata đã đích thân đi đến đại đức Sāriputta và hỏi rằng:
– Thưa ngài, tôi đã gởi y cho ngài trưởng lão. Y ấy đã đến chưa?
– Này sư đệ, ta không nhìn thấy y ấy.
Sau đó, đại đức Revata đã nói với vị tỳ khưu ấy điều này:
– Này đại đức, tôi đã gởi y của ngài trưởng lão qua tay của đại đức. Y ấy đâu rồi?
– Thưa đại đức, tôi đã lấy y ấy do sự thân thiết với đại đức.
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu gởi y qua tay của vị tỳ khưu (nói rằng): “Hãy trao y này đến vị tên (như vầy).” Ở khoảng giữa đường đi, vị ấy lấy (y ấy) do sự thân thiết với vị gởi đi; (y) đã được lấy đúng đắn. Vị ấy lấy (y ấy) do sự thân thiết với vị sẽ nhận; (y) đã được lấy sai trái.
Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu gởi y qua tay của vị tỳ khưu (nói rằng): “Hãy trao y này đến vị tên (như vầy).” Ở khoảng giữa đường đi, vị ấy lấy (y ấy) do sự thân thiết với vị sẽ nhận; (y) đã được lấy sai trái. Vị ấy lấy (y ấy) do sự thân thiết với vị gởi đi; (y) đã được lấy đúng đắn.
Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu gởi y qua tay của vị tỳ khưu (nói rằng): “Hãy trao y này đến vị tên (như vầy).” Ở khoảng giữa đường đi, vị ấy nghe rằng: “Vị gởi (y) đã từ trần” rồi xác định y của người đã chết là thuộc về vị ấy; (y) đã được xác định đúng đắn. Vị ấy lấy (y ấy) do sự thân thiết với vị sẽ nhận; (y) đã được lấy sai trái.
Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu gởi y qua tay của vị tỳ khưu (nói rằng): “Hãy trao y này đến vị tên (như vầy).” Ở khoảng giữa đường đi, vị ấy nghe rằng: “Vị sẽ nhận (y) đã từ trần” rồi xác định y của người đã chết là thuộc về vị ấy; (y) đã được xác định sai trái. Vị ấy lấy (y ấy) do sự thân thiết với vị gởi; (y) đã được lấy đúng đắn.
Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu gởi y qua tay của vị tỳ khưu (nói rằng): “Hãy trao y này đến vị tên (như vầy).” Ở khoảng giữa đường đi, vị ấy nghe rằng: “Cả hai đã từ trần” rồi xác định y của người đã chết là thuộc về vị gởi đi; (y) đã được xác định đúng đắn. Vị ấy xác định y của người đã chết là thuộc về vị sẽ nhận; (y) đã được xác định sai trái.
Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu gởi y qua tay của vị tỳ khưu (nói rằng): “Tôi cho y này đến vị tên (như vầy).” Ở khoảng giữa đường đi, vị ấy lấy (y ấy) do sự thân thiết với vị gởi; (y) đã được lấy sai trái. Vị ấy lấy (y ấy) do sự thân thiết với vị sẽ nhận; (y) đã được lấy đúng đắn.
Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu gởi y qua tay của vị tỳ khưu (nói rằng): “Tôi cho y này đến vị tên (như vầy).” Ở khoảng giữa đường đi, vị ấy lấy (y ấy) do sự thân thiết với vị sẽ nhận; (y) đã được lấy đúng đắn. Vị ấy lấy (y ấy) do sự thân thiết với vị gởi; (y) đã được lấy sai trái.
Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu gởi y qua tay của vị tỳ khưu (nói rằng): “Tôi cho y này đến vị tên (như vầy).” Ở khoảng giữa đường đi, vị ấy nghe rằng: “Vị gởi (y) đã từ trần” rồi xác định y của người đã chết là thuộc về vị ấy; (y) đã được xác định sai trái. Vị ấy lấy (y ấy) do sự thân thiết với vị sẽ nhận; (y) đã được lấy đúng đắn.
Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu gởi y qua tay của vị tỳ khưu (nói rằng): “Tôi cho y này đến vị tên (như vầy).” Ở khoảng giữa đường đi, vị ấy nghe rằng: “Vị sẽ nhận (y) đã từ trần” rồi xác định y của người đã chết là thuộc về vị ấy; (y) đã được xác định đúng đắn. Vị ấy lấy (y ấy) do sự thân thiết với vị gởi; (y) đã được lấy sai trái.
Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu gởi y qua tay của vị tỳ khưu (nói rằng): “Tôi cho y này đến vị tên (như vầy).” Ở khoảng giữa đường đi, vị ấy nghe rằng: “Cả hai đã từ trần” rồi xác định y của người đã chết là thuộc về vị gởi đi; (y) đã được xác định sai trái. Vị ấy xác định y của người đã chết là thuộc về vị sẽ nhận; (y) đã được xác định đúng đắn.
[172] Này các tỳ khưu, có tám tiêu đề về việc phát sanh y: (thí chủ) dâng trong ranh giới (sīmā), (thí chủ) dâng theo sự thỏa thuận, (thí chủ) dâng theo sự thông báo về vật thực, (thí chủ) dâng đến hội chúng, (thí chủ) dâng đến cả hai hội chúng (tỳ khưu và tỳ khưu ni), (thí chủ) dâng đến hội chúng đã sống qua mùa (an cư) mưa, (thí chủ) dâng sau khi đã thông báo, (thí chủ) dâng đến cá nhân.
(Thí chủ) dâng trong ranh giới (sīmāya deti) thì nên chia phần cho hết thảy các vị tỳ khưu đang ở trong ranh giới. (Thí chủ) dâng theo sự thỏa thuận (katikāya deti) thì toàn bộ các trú xứ đều có phần nhận lãnh đồng đều, (nghĩa là) khi được dâng ở một trú xứ thì được dâng cho tất cả. (Thí chủ) dâng theo sự thông báo về vật thực (bhikkhāpaññattiyā deti) là nơi nào các sự hộ độ thường xuyên được thực hiện đến hội chúng thì dâng nơi ấy. (Thí chủ) dâng đến hội chúng thì nên chia phần đến hội chúng đang hiện diện. (Thí chủ) dâng đến cả hai hội chúng thì dù cho có nhiều tỳ khưu mà có một tỳ khưu ni cũng nên được chia một nửa. Dù cho có nhiều tỳ khưu ni mà có một tỳ khưu cũng nên được chia một nửa. (Thí chủ) dâng đến hội chúng đã sống qua mùa (an cư) mưa (vassaṃ vutthassa saṅghassa deti) thì nên chia phần cho hết thảy các vị tỳ khưu đã sống qua mùa (an cư) mưa ở trú xứ ấy. (Thí chủ) dâng sau khi đã thông báo (ādissa deti) về cháo, hoặc về bữa ăn, hoặc về vật thực cứng, hoặc về y, hoặc về chỗ trú ngụ, hoặc về dược phẩm. (Thí chủ) dâng đến cá nhân (puggalassa deti) là (nói rằng): “Tôi đã dâng y này đến vị tên (như vầy).”
Dứt Chương Y Phục là chương thứ tám.
Trong chương này có chín mươi sáu sự việc.
******
Tóm lược chương này:
[173]
Thị trưởng Vương Xá nhìn
kỷ nữ Vesālī
đến khi quay về lại
thành Rājagaha
báo điều ấy đến vua.
Người con trai kỷ nữ
Sālavatikā
con (nuôi) Abhaya
bởi vì vương tử hỏi:
“Jīvati?” “Còn sống?”
gọi tên “Jīvaka.”
Rồi chàng trai đi đến
thành Takkasilā
học xong được thành tài
trị lành bệnh bảy năm
bằng việc làm ở mũi.
Bệnh rò rỉ của vua
trị dứt bằng thuốc thoa,
“Hãy phục vụ cho ta,
các cung phi hoàng tộc,
đức Phật và Tăng-già.
Và chuyện đại phú gia
thành Rājagaha,
điều trị chứng xoắn ruột,
trị dứt bệnh rất nặng
của vua Pajjota
bằng bơ lỏng uống vào.
Chức vụ, vải Sivi,
bôi dầu bệnh bốc mùi,
với ba nắm sen xanh,
là ba mươi lần xổ,
lành bệnh xin điều ước,
Ngài nhận vải Sivi,
đức Như Lai cho phép
y dâng của gia chủ,
choàng vải, choàng tơ lụa,
choàng lông, nửa Kāsī,
và nhiều loại, hoan hỷ.
Các vị chờ, không chờ,
vào trước như vào sau,
cam kết, họ mang lại,
kho chứa, không bảo quản,
cũng thế làm xao lãng.
Có nhiều, cảnh náo động,
nên chia như thế nào?
Nên cho như thế nào?
Với phần chia nhiều hơn,
san sẻ cho làm sao?
Với phân và nước lạnh,
bị trào ra, không biết,
đổ ra, và chậu nhuộm,
trong đĩa, và nền đất,
mối, ở giữa, bị sờn,
một bên, và bị cứng,
thô, không cắt, kết lại.
Ngài thấy mang đống y,
sau khi đã suy xét,
đấng Thích Ca Mâu Ni
đã cho phép ba y,
với y phụ trội khác,
phát sanh, và y rách.
(Mây đen) bốn châu lục,
bà cầu xin điều ước
được dâng choàng tắm mưa,
vị vãng lai, xuất hành,
vị bệnh, người nuôi bệnh,
dược phẩm, cháo thường xuyên,
và choàng tắm (các ni).
Thượng hạng, y quá nhỏ,
ghẻ sần sùi, khăn mặt,
sợi lanh, được đầy đủ,
chú nguyện, việc cuối cùng,
điều quan trọng đã làm.
Không vuông, chỉ bị rời,
bị tưa, làm không đủ,
thêm vải khác, có nhiều,
rừng Andha, thiếu niệm,
sống an cư một mình,
và trong những mùa khác.
Hai vị là anh em,
chuyện Rājagaha,
vị Upananda
cũng ở hai (chỗ ngụ).
Vị bị bệnh kiết lỵ,
cả hai và vị bệnh,
lõa thể, cỏ kusa,
vỏ cây, tấm ván gỗ,
và mền dệt bằng tóc,
lông ngựa, cánh cú mèo,
sợi của cây akka,
của cây makaci,
màu xanh, và màu vàng,
màu đỏ, và đỏ sậm,
đen, nổi bật, sáng chói,
và đường viền không cắt,
rộng, vẽ hoa, rắn hổ,
áo choàng, sợi vỏ cây,
và khăn xếp đội đầu.
Chưa phát sanh, ra đi,
đến hội chúng chia rẽ,
dâng đến nhóm, hội chúng.
Ngài Revata gởi,
vị lấy do thân thiết,
và vị ấy chú nguyện.
Tiêu đề nói về y
thì có được tám điều.
[1] Ngài Buddhaghosa giải thích rằng y được dâng bởi gia chủ.
[2] Ngài Buddhaghosa giải thích rằng 1 kāsī là một ngàn (?), có thể là loại tiền vàng kahāpaṇa.
[3] Liên quan đến tội nissaggiya pācittiya (ưng xả đối trị) thứ nhất.
[4] Tấm trải nằm (paccattharanaṃ) tức là ngọa cụ, y lót ngồi (nisīdanaṃ) tức là tọa cụ.
[5] Ngài Buddhaghosa giải thích là trong bốn tháng mùa mưa.
[6] Chúng tôi lấy làm ngạc nhiên về trường hợp một vị tỳ khưu sống mùa (an cư) mưa ở hai nơi. Ngài Buddhaghosa giải thích vị ấy sống thay đổi chỗ ở trong thời hạn từ một ngày đến bảy ngày theo quy định về mùa (an cư) mưa. Quý vị nếu có thắc mắc nên kiểm tra lại ở bản chú giải Samantapāsādikā.
IX. CHƯƠNG CAMPĀ
(CAMPEYYAKKHANDHAKAṂ)
[174] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại Campā ở bờ hồ sen Gaggarā. Vào lúc bấy giờ, trong xứ Kāsī có ngôi làng tên là Vāsabha. Ở đó có vị tỳ khưu tên Kassapagotta là vị thường trú, gắn bó với truyền thống, thực hiện sự nỗ lực (nghĩ rằng): “Làm thế nào để các vị tỳ khưu hiền thiện chưa đi đến có thể đi đến, các vị tỳ khưu hiền thiện đã đến rồi có thể sống an lạc, và trú xứ này có thể đạt được sự lớn mạnh, sự tăng trưởng, và sự phát triển?”
Vào lúc bấy giờ, có nhiều vị tỳ khưu trong khi đi du hành ở xứ Kāsī đã đến trú ngụ tại làng Vāsabha. Tỳ khưu Kassapagotta đã nhìn thấy các vị tỳ khưu ấy từ đàng xa đang đi lại, sau khi nhìn thấy đã sắp xếp chỗ ngồi, đã đem lại nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân, rồi đã đi ra tiếp rước y bát, dâng nước uống, đã nỗ lực trong việc tắm (của các vị ấy), và cũng đã nỗ lực trong vấn đề cháo, vật thực cứng, và bữa ăn nữa. Khi ấy, các vị tỳ khưu vãng lai ấy đã bàn bạc điều này: “Này các đại đức, vị tỳ khưu thường trú này tốt thật! Vị ấy đã nỗ lực trong việc tắm (của chúng ta), và cũng đã nỗ lực trong vấn đề cháo, vật thực cứng, và bữa ăn nữa. Này các đại đức, vậy thì chúng ta hãy sắp xếp việc định cư ngay tại nơi đây trong làng Vāsabha.” Sau đó, các vị tỳ khưu vãng lai ấy đã sắp xếp việc định cư ngay tại nơi ấy trong làng Vāsabha.
Khi ấy, tỳ khưu Kassapagotta đã khởi ý điều này: “Sự mệt nhọc vì việc đi đến của các vị tỳ khưu vãng lai này (nay) đã được tiêu tan. Các vị này (trước đây) không biết các chỗ đi khất thực, bây giờ các vị ấy biết các chỗ đi khất thực. Thật khó khăn khi phải nỗ lực trọn đời cho những người khác gia tộc, và sự gợi ý (yêu cầu) lại không được dân chúng hoan hỷ. Hay là ta sẽ không nỗ lực trong vấn đề cháo, vật thực cứng, và bữa ăn nữa?” Vị ấy đã không nỗ lực trong vấn đề cháo, vật thực cứng, và bữa ăn nữa. Sau đó, các tỳ khưu vãng lai đã bàn bạc điều này: “Này các đại đức, trước đây chính vị tỳ khưu thường trú này đã nỗ lực trong việc tắm (của chúng ta) và cũng đã nỗ lực trong vấn đề cháo, vật thực cứng, và bữa ăn nữa. Hiện nay, vị này đây không nỗ lực trong vấn đề cháo, vật thực cứng, và bữa ăn nữa. Này các đại đức, giờ đây vị tỳ khưu thường trú này đã trở nên hư hỏng. Này các đại đức, vậy chúng ta hãy thi hành án treo đối với vị tỳ khưu thường trú này đi.” Sau đó, các vị tỳ khưu vãng lai ấy đã tụ họp lại và nói với tỳ khưu Kassapagotta điều này:
– Này đại đức, trước đây chính đại đức đã nỗ lực trong việc tắm (của chúng tôi) và cũng đã nỗ lực trong vấn đề cháo, vật thực cứng, và bữa ăn nữa. Hiện nay, đại đức đây không nỗ lực trong vấn đề cháo, vật thực cứng, và bữa ăn nữa. Này đại đức, đại đức đã phạm tội. Đại đức có nhìn nhận tội ấy không?
– Này các đại đức, tôi không có tội cho nên tôi không thể nhìn nhận được.
Khi ấy, các tỳ khưu vãng lai ấy đã thi hành án treo trong việc không nhìn nhận tội đối với tỳ khưu Kassapagotta.
Khi ấy, tỳ khưu Kassapagotta đã khởi ý điều này: “Thật sự ta không hiểu được sự việc này: ‘Điều ấy là tội hay không phải tội, ta có phạm tội hay không phạm, và ta đã bị án treo hay không bị án treo, đúng Pháp hay không đúng Pháp, có thể sửa đổi hay không thể sửa đổi, đáng được duy trì hay không đáng được duy trì?’ Hay là ta nên đi Campā và hỏi đức Thế Tôn về sự việc này?” Sau đó, tỳ khưu Kassapagotta đã thu xếp chỗ trú ngụ rồi cầm y bát ra đi về phía Campā. Tuần tự, vị ấy đã đến Campā gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên.
Điều này đã trở thành thông lệ của chư Phật Thế Tôn là niềm nở đối với các tỳ khưu đi đến. Khi ấy, đức Thế Tôn đã nói với tỳ khưu Kassapagotta điều này:
– Này tỳ khưu, sức khoẻ có khá không? Mọi việc có được tốt đẹp không? Ngươi đi đường xa có được ít mệt nhọc không? Và này tỳ khưu, ngươi từ đâu đến vậy?
– Bạch Thế Tôn, sức khoẻ khá. Bạch Thế Tôn, mọi việc được tốt đẹp. Và bạch ngài, con đi đường xa ít có mệt nhọc. Bạch ngài, trong xứ Kāsī có ngôi làng tên là Vāsabha. Ở đó, con là vị thường trú, gắn bó với truyền thống, thực hiện sự nỗ lực (nghĩ rằng): “Làm thế nào để các vị tỳ khưu hiền thiện chưa đi đến có thể đi đến, các vị tỳ khưu hiền thiện đã đến rồi có thể sống an lạc, và trú xứ này có thể đạt được sự lớn mạnh, sự tăng trưởng, và sự phát triển?” Bạch ngài, sau đó có nhiều vị tỳ khưu trong khi đi du hành ở xứ Kāsī đã đến trú ngụ tại làng Vāsabha. Bạch ngài, con đã nhìn thấy các vị tỳ khưu ấy từ đàng xa đang đi lại, sau khi nhìn thấy đã sắp xếp chỗ ngồi, đã đem lại nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân, rồi đã đi ra tiếp rước y bát, dâng nước uống, đã nỗ lực trong việc tắm (của các vị ấy), và cũng đã nỗ lực trong vấn đề cháo, vật thực cứng, và bữa ăn nữa. Bạch ngài, khi ấy các vị tỳ khưu vãng lai ấy đã bàn bạc điều này: “Này các đại đức, vị tỳ khưu thường trú này tốt thật! Vị ấy đã nỗ lực trong việc tắm (của chúng ta), và cũng đã nỗ lực trong vấn đề cháo, vật thực cứng, và bữa ăn nữa. Này các đại đức, vậy thì chúng ta hãy sắp xếp việc định cư ngay tại nơi đây trong làng Vāsabha.” Bạch ngài, sau đó các vị tỳ khưu vãng lai ấy đã sắp xếp việc định cư ngay tại nơi ấy trong làng Vāsabha. Bạch ngài, khi ấy con đây đã khởi ý điều này: “Sự mệt nhọc vì việc đi đến của các vị tỳ khưu vãng lai này (nay) đã được tiêu tan. Các vị này (trước đây) không biết các chỗ đi khất thực, bây giờ các vị ấy biết các chỗ đi khất thực. Thật khó khăn khi phải nỗ lực trọn đời cho những người khác gia tộc, và sự gợi ý (yêu cầu) lại không được dân chúng hoan hỷ. Hay là ta sẽ không nỗ lực trong vấn đề cháo, vật thực cứng, và bữa ăn nữa?” Bạch ngài, con đây đã không nỗ lực trong vấn đề cháo, vật thực cứng, và bữa ăn nữa. Bạch ngài, sau đó các tỳ khưu vãng lai ấy đã bàn bạc điều này: “Này các đại đức, trước đây chính vị tỳ khưu thường trú này đã nỗ lực trong việc tắm (của chúng ta) và cũng đã nỗ lực trong vấn đề cháo, vật thực cứng, và bữa ăn nữa. Hiện nay, vị này đây không nỗ lực trong vấn đề cháo, vật thực cứng, và bữa ăn nữa. Này các đại đức, giờ đây vị tỳ khưu thường trú này đã trở nên hư hỏng. Này các đại đức, vậy chúng ta hãy thi hành án treo đối với vị tỳ khưu thường trú này đi.” Bạch ngài, sau đó các vị tỳ khưu vãng lai ấy đã tụ họp lại và nói với con điều này: “Này đại đức, trước đây chính đại đức đã nỗ lực trong việc tắm (của chúng tôi) và cũng đã nỗ lực trong vấn đề cháo, vật thực cứng, và bữa ăn nữa. Hiện nay, đại đức đây không nỗ lực trong vấn đề cháo, vật thực cứng, và bữa ăn nữa. Này đại đức, đại đức đã phạm tội. Đại đức có nhìn nhận tội ấy không?” “Này các đại đức, tôi không có tội cho nên tôi không thể nhìn nhận được.” Bạch ngài, khi ấy các tỳ khưu vãng lai ấy đã thi hành án treo trong việc không nhìn nhận tội đối với con. Bạch ngài, khi ấy con đã khởi ý điều này: “Thật sự ta không hiểu được sự việc này: ‘Điều ấy là tội hay không phải tội, ta có phạm tội hay không phạm, và ta đã bị án treo hay không bị án treo, đúng Pháp hay không đúng Pháp, có thể sửa đổi hay không thể sửa đổi, đáng được duy trì hay không đáng được duy trì?’ Hay là ta nên đi Campā và hỏi đức Thế Tôn về sự việc này?” Bạch Thế Tôn, con từ nơi đó đi đến.
– Này tỳ khưu, việc ấy là vô tội, việc ấy không phải là tội. Ngươi là không có tội, ngươi không có phạm tội. Ngươi là không bị án treo, ngươi không có bị án treo. Ngươi đã bị án treo bởi hành sự không đúng Pháp, có thể sửa đổi, không đáng được duy trì. Này tỳ khưu, ngươi hãy đi và hãy sắp xếp việc định cư ngay tại nơi ấy trong làng Vāsabha.
– Bạch ngài, xin vâng.
Rồi vị tỳ khưu Kassapagotta nghe theo đức Thế Tôn, đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi về làng Vāsabha.
Khi ấy, các vị tỳ khưu vãng lai ấy đã trở nên hối hận, đã trở nên ăn năn (nghĩ rằng): “Thật là bất lợi cho chúng ta, thật là không có lợi ích cho chúng ta, rồi chúng ta sẽ gặt quả xấu, rồi chúng ta sẽ không được quả tốt; chúng ta đã thi hành án treo không có cơ sở không có nguyên nhân đối với vị tỳ khưu trong sạch không có phạm tội. Này các đại đức, vậy chúng ta hãy đi Campā và sám hối sự sai trái trong tội lỗi ấy nơi đức Thế Tôn.” Sau đó, các vị tỳ khưu vãng lai ấy đã thu xếp chỗ trú ngụ rồi cầm y bát ra đi về hướng Campā. Tuần tự, các vị ấy đã đến Campā gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên.
Điều này đã trở thành thông lệ của chư Phật Thế Tôn là niềm nở đối với các tỳ khưu đi đến. Khi ấy, đức Thế Tôn đã nói với các vị tỳ khưu ấy điều này:
– Này các tỳ khưu, sức khoẻ có khá không ? Mọi việc có được tốt đẹp không? Các ngươi đi đường xa có được ít mệt nhọc không? Và này các tỳ khưu, các ngươi từ đâu đi đến vậy?
– Bạch Thế Tôn, sức khoẻ khá. Bạch Thế Tôn, mọi việc được tốt đẹp. Và bạch ngài, chúng con đi đường xa ít có mệt nhọc. Bạch ngài, trong xứ Kāsī có ngôi làng tên là Vāsabha. Bạch Thế Tôn, chúng con từ nơi đó đi đến.
– Này các tỳ khưu, các ngươi đã thi hành án treo vị tỳ khưu thường trú có phải không?
– Bạch Thế Tôn, thưa phải.
– Này các tỳ khưu, dựa trên cơ sở gì vậy, dựa vào nguyên nhân gì vậy?
– Bạch Thế Tôn, không có cơ sở, không có nguyên nhân.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
– Này các tỳ khưu, thật không đúng đắn, không hợp lẽ, không tốt đẹp, không xứng pháp sa-môn, không được phép, không nên làm. Vì sao những kẻ rồ dại các ngươi lại thi hành án treo không có cơ sở, không có nguyên nhân đối với vị tỳ khưu trong sạch không có phạm tội? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)…
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, không nên thi hành án treo không có cơ sở, không có nguyên nhân đối với vị tỳ khưu trong sạch không có phạm tội; vị nào thi hành án treo thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp thượng y một bên vai, quỳ xuống đê đầu ở hai chân của đức Thế Tôn, rồi nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, tội lỗi đã chiếm ngự lấy chúng con khiến chúng con trở nên đần độn, ngu si, không có đạo đức là việc chúng con thi hành án treo không có cơ sở, không có nguyên nhân đối với vị tỳ khưu trong sạch không có phạm tội. Bạch ngài, xin đức Thế Tôn ghi nhận sự sai trái trong tội lỗi ấy của chúng con hầu để ngăn ngừa trong tương lai.
– Này các tỳ khưu, đúng như vậy. Tội lỗi đã chiếm ngự lấy các ngươi khiến các ngươi trở nên đần độn, ngu si, không có đạo đức là việc các ngươi thi hành án treo không có cơ sở, không có nguyên nhân đối với vị tỳ khưu trong sạch không có phạm tội. Này các tỳ khưu, chính từ việc đó các ngươi đã thấy được sự sai trái trong tội lỗi và sửa đổi đúng theo Pháp, chúng ta nhận biết điều ấy cho các ngươi. Này các tỳ khưu, chính điều này là sự tiến bộ trong giới luật của bậc Thánh: “Người nào sau khi thấy được sự sai trái trong tội lỗi và sửa đổi đúng theo Pháp sẽ có được sự ngăn ngừa trong tương lai.”
[175] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ở Campā đã thực thi các hành sự có hình thức như vầy: Các vị thực thi hành sự sai Pháp theo phe nhóm, các vị thực thi hành sự sai Pháp có sự hợp nhất, các vị thực thi hành sự đúng Pháp theo phe nhóm, các vị thực thi hành sự có hình thức bên ngoài đúng Pháp (dhammapaṭirūpakena) theo phe nhóm, các vị thực thi hành sự có hình thức bên ngoài đúng Pháp có sự hợp nhất, chỉ một vị thi hành án treo một vị, chỉ một vị thi hành án treo hai vị, chỉ một vị thi hành án treo một số vị, chỉ một vị thi hành án treo cả hội chúng, chỉ hai vị thi hành án treo một vị, chỉ hai vị thi hành án treo hai vị, chỉ hai vị thi hành án treo một số vị, chỉ hai vị thi hành án treo cả hội chúng, chỉ một số vị thi hành án treo một vị, chỉ một số vị thi hành án treo hai vị, chỉ một số vị thi hành án treo một số vị, chỉ một số vị thi hành án treo cả hội chúng, hội chúng thi hành án treo hội chúng.
Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Vì sao các tỳ khưu ở Campā lại thực thi các hành sự có hình thức như vầy: Các vị thực thi hành sự sai Pháp theo phe nhóm, …(như trên)…, hội chúng thi hành án treo hội chúng?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ở Campā thực thi các hành sự có hình thức như vầy: Các vị thực thi hành sự sai Pháp theo phe nhóm, …(như trên)…, hội chúng thi hành án treo hội chúng, có đúng không vậy?
– Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
…(như trên)… Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại và bảo các tỳ khưu rằng:
[176] – Này các tỳ khưu, nếu hành sự là sai Pháp, theo phe nhóm thì không phải là hành sự và không nên thực thi. Này các tỳ khưu, nếu hành sự là sai Pháp, có sự hợp nhất thì không phải là hành sự và không nên thực thi. Này các tỳ khưu, nếu hành sự là đúng Pháp, theo phe nhóm thì không phải là hành sự và không nên thực thi. Này các tỳ khưu, nếu hành sự có hình thức bên ngoài đúng Pháp, theo phe nhóm thì không phải là hành sự và không nên thực thi. Này các tỳ khưu, nếu hành sự có hình thức bên ngoài đúng Pháp, có sự hợp nhất, thì không phải là hành sự và không nên thực thi. Chỉ một vị thi hành án treo một vị thì không phải là hành sự và không nên thực thi. Chỉ một vị thi hành án treo hai vị thì không phải là hành sự và không nên thực thi. Chỉ một vị thi hành án treo một số vị thì không phải là hành sự và không nên thực thi. Chỉ một vị thi hành án treo cả hội chúng thì không phải là hành sự và không nên thực thi. Chỉ hai vị thi hành án treo một vị thì không phải là hành sự và không nên thực thi. Chỉ hai vị thi hành án treo hai vị thì không phải là hành sự và không nên thực thi. Chỉ hai vị thi hành án treo một số vị thì không phải là hành sự và không nên thực thi. Chỉ hai vị thi hành án treo cả hội chúng thì không phải là hành sự và không nên thực thi. Chỉ một số vị thi hành án treo một vị thì không phải là hành sự và không nên thực thi. Chỉ một số vị thi hành án treo hai vị thì không phải là hành sự và không nên thực thi. Chỉ một số vị thi hành án treo một số vị thì không phải là hành sự và không nên thực thi. Chỉ một số vị thi hành án treo cả hội chúng thì không phải là hành sự và không nên thực thi. Hội chúng thi hành án treo hội chúng thì không phải là hành sự và không nên thực thi.
[177] Này các tỳ khưu, đây là bốn loại hành sự: Hành sự sai Pháp theo phe nhóm, hành sự sai Pháp có sự hợp nhất, hành sự đúng Pháp theo phe nhóm, hành sự đúng Pháp có sự hợp nhất.
Này các tỳ khưu, trường hợp ấy tức là hành sự sai Pháp theo phe nhóm. Này các tỳ khưu, hành sự này có bản chất sai Pháp, có bản chất phe nhóm, có thể sửa đổi, không đáng được duy trì. Này các tỳ khưu, hành sự như thế không nên thực thi và hành sự như thế không được ta cho phép.
Này các tỳ khưu, trường hợp ấy tức là hành sự sai Pháp có sự hợp nhất. Này các tỳ khưu, hành sự này có bản chất sai Pháp, có thể sửa đổi, không đáng được duy trì. Này các tỳ khưu, hành sự như thế không nên thực thi và hành sự như thế không được ta cho phép.
Này các tỳ khưu, trường hợp ấy tức là hành sự đúng Pháp theo phe nhóm. Này các tỳ khưu, hành sự này có bản chất phe nhóm, có thể sửa đổi, không đáng được duy trì. Này các tỳ khưu, hành sự như thế không nên thực thi và hành sự như thế không được ta cho phép.
Này các tỳ khưu, trường hợp ấy tức là hành sự đúng Pháp có sự hợp nhất. Này các tỳ khưu, hành sự này có bản chất đúng Pháp, có bản chất hợp nhất, không thể sửa đổi, đáng được duy trì. Này các tỳ khưu, hành sự như thế nên được thực thi và hành sự như thế được ta cho phép.
Này các tỳ khưu, do đó ở đây: “Chúng ta sẽ thực thi hành sự như vầy tức là đúng Pháp có sự hợp nhất.” Này các tỳ khưu, các ngươi nên học tập theo đúng như thế.
[178] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư thực thi các hành sự như vầy: Các vị thực thi hành sự sai Pháp theo phe nhóm, các vị thực thi hành sự sai Pháp có sự hợp nhất, các vị thực thi hành sự đúng Pháp theo phe nhóm, các vị thực thi hành sự có hình thức bên ngoài đúng Pháp theo phe nhóm, các vị thực thi hành sự có hình thức bên ngoài đúng Pháp có sự hợp nhất, các vị thực thi hành sự thiếu lời đề nghị (ñatti) nhưng có các lời khẳng định (anussāvana), các vị thực thi hành sự thiếu các lời khẳng định nhưng có lời đề nghị, các vị thực thi hành sự thiếu lời đề nghị và thiếu luôn các lời khẳng định, các vị thực thi hành sự đối nghịch với Pháp, các vị thực thi hành sự đối nghịch với Luật, các vị thực thi hành sự đối nghịch với lời dạy của bậc Đạo Sư, các vị thực thi hành sự đã bị chê trách khi được thực thi, không đúng Pháp, có thể sửa đổi, không đáng được duy trì. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại thực thi các hành sự như vầy: Các vị thực thi hành sự sai Pháp theo phe nhóm, …(như trên)…, các vị thực thi hành sự đã bị chê trách khi được thực thi, không đúng Pháp, có thể sửa đổi, không đáng được duy trì?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu nhóm Lục Sư thực thi các hành sự như vầy: Các vị thực thi hành sự sai Pháp theo phe nhóm, …(như trên)…, các vị thực thi hành sự đã bị chê trách khi được thực thi, không đúng Pháp, có thể sửa đổi, không đáng được duy trì,, có đúng không vậy?
– Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
…(như trên)… Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại và bảo các tỳ khưu rằng:
[179] – Này các tỳ khưu, nếu là hành sự sai Pháp theo phe nhóm thì không phải là hành sự và không nên thực thi. Này các tỳ khưu, nếu là hành sự sai Pháp có sự hợp nhất thì không phải là hành sự và không nên thực thi. Này các tỳ khưu, nếu là hành sự đúng Pháp theo phe nhóm thì không phải là hành sự và không nên thực thi. Này các tỳ khưu, nếu là hành sự có hình thức bên ngoài đúng Pháp theo phe nhóm thì không phải là hành sự và không nên thực thi. Này các tỳ khưu, nếu là hành sự có hình thức bên ngoài đúng Pháp có sự hợp nhất thì không phải là hành sự và không nên thực thi. Này các tỳ khưu, nếu là hành sự thiếu lời đề nghị nhưng có các lời khẳng định thì không phải là hành sự và không nên thực thi. Này các tỳ khưu, nếu là hành sự thiếu các lời khẳng định nhưng có lời đề nghị thì không phải là hành sự và không nên thực thi. Này các tỳ khưu, nếu là hành sự thiếu lời đề nghị và thiếu luôn các lời khẳng định thì không phải là hành sự và không nên thực thi. Này các tỳ khưu, nếu là hành sự đối nghịch với Pháp thì không phải là hành sự và không nên thực thi. Này các tỳ khưu, nếu đối nghịch với Luật thì không phải là hành sự và không nên thực thi. Này các tỳ khưu, nếu là hành sự đối nghịch với lời dạy của bậc Đạo Sư thì không phải là hành sự và không nên thực thi. Này các tỳ khưu, nếu là hành sự đã bị chê trách khi được thực thi, không đúng Pháp, có thể sửa đổi, không đáng được duy trì thì không phải là hành sự và không nên thực thi.
[180] Này các tỳ khưu, đây là sáu loại hành sự: Hành sự sai Pháp, hành sự theo phe nhóm, hành sự có sự hợp nhất, hành sự có hình thức bên ngoài đúng Pháp theo phe nhóm, hành sự có hình thức bên ngoài đúng Pháp có sự hợp nhất, hành sự đúng Pháp có sự hợp nhất.
[181] Và này các tỳ khưu, thế nào là hành sự sai Pháp?
Này các tỳ khưu, trong hành sự được thông báo đến lần thứ hai (ñattidutiya kamma), nếu thực thi hành sự với một lời đề nghị và không công bố lời khẳng định của hành sự, (như thế là) hành sự sai Pháp. Này các tỳ khưu, trong hành sự được thông báo đến lần thứ hai, nếu thực thi hành sự với hai lời đề nghị và không công bố lời khẳng định của hành sự, (như thế là) hành sự sai Pháp. Này các tỳ khưu, trong hành sự được thông báo đến lần thứ hai, nếu thực thi hành sự với một lời khẳng định của hành sự và không xác định lời đề nghị, (như thế là) hành sự sai Pháp. Này các tỳ khưu, trong hành sự được thông báo đến lần thứ hai, nếu thực thi hành sự với hai lời khẳng định của hành sự và không xác định lời đề nghị, (như thế là) hành sự sai Pháp.
Này các tỳ khưu, trong hành sự được thông báo đến lần thứ tư (ñatticatuttha kamma), nếu thực thi hành sự với một lời đề nghị và không công bố lời khẳng định của hành sự, (như thế là) hành sự sai Pháp. Này các tỳ khưu, trong hành sự được thông báo đến lần thứ tư, nếu thực thi hành sự với hai lời đề nghị và không công bố lời khẳng định của hành sự, (như thế là) hành sự sai Pháp. Này các tỳ khưu, trong hành sự được thông báo đến lần thứ tư, nếu thực thi hành sự với một lời khẳng định của hành sự và không xác định lời đề nghị, (như thế là) hành sự sai Pháp. Này các tỳ khưu, trong hành sự được thông báo đến lần thứ tư, nếu thực thi hành sự với hai lời khẳng định của hành sự, với ba lời khẳng định của hành sự, với bốn lời khẳng định của hành sự và không xác định lời đề nghị, (như thế là) hành sự sai Pháp.
Này các tỳ khưu, đây được gọi là hành sự sai Pháp.
[182] Và này các tỳ khưu, thế nào là hành sự theo phe nhóm?
Này các tỳ khưu, nếu trong hành sự được thông báo đến lần thứ hai (ñattidutiya kamma), các vị tỳ khưu với số lượng cần thiết cho hành sự (kammappattā) các vị ấy không đến, sự tùy thuận của các vị cần phải gởi tùy thuận không được đem đến, các vị hiện diện phản đối, (như thế là) hành sự theo phe nhóm. Này các tỳ khưu, nếu trong hành sự được thông báo đến lần thứ hai, các vị tỳ khưu với số lượng cần thiết cho hành sự các vị ấy đã đến, sự tùy thuận của các vị cần phải gởi tùy thuận không được đem đến, các vị hiện diện phản đối, (như thế là) hành sự theo phe nhóm. Này các tỳ khưu, nếu trong hành sự được thông báo đến lần thứ hai, các vị tỳ khưu với số lượng cần thiết cho hành sự các vị ấy đã đến, sự tùy thuận của các vị cần phải gởi tùy thuận đã được đem đến, các vị hiện diện phản đối, (như thế là) hành sự theo phe nhóm.
Này các tỳ khưu, nếu trong hành sự được thông báo đến lần thứ tư (ñatticatuttha kamma), các vị tỳ khưu với số lượng cần thiết cho hành sự các vị ấy không đến, sự tùy thuận của các vị cần phải gởi tùy thuận không được đem đến, các vị hiện diện phản đối, (như thế là) hành sự theo phe nhóm. Này các tỳ khưu, nếu trong hành sự được thông báo đến lần thứ tư, các vị tỳ khưu với số lượng cần thiết cho hành sự các vị ấy đã đến, sự tùy thuận của các vị cần phải gởi tùy thuận không được đem đến, các vị hiện diện phản đối, (như thế là) hành sự theo phe nhóm. Này các tỳ khưu, nếu trong hành sự được thông báo đến lần thứ tư, các vị tỳ khưu với số lượng cần thiết cho hành sự các vị ấy đã đến, sự tùy thuận của các vị cần phải gởi tùy thuận đã được đem đến, các vị hiện diện phản đối, (như thế là) hành sự theo phe nhóm.
Này các tỳ khưu, đây được gọi là hành sự theo phe nhóm.
[183] Và này các tỳ khưu, thế nào là hành sự có sự hợp nhất?
Này các tỳ khưu, nếu trong hành sự được thông báo đến lần thứ hai, các vị tỳ khưu với số lượng cần thiết cho hành sự các vị ấy đã đến, sự tùy thuận của các vị cần phải gởi tùy thuận đã được đem đến, các vị hiện diện không phản đối, (như thế là) hành sự có sự hợp nhất. Này các tỳ khưu, nếu trong hành sự được thông báo đến lần thứ tư, các vị tỳ khưu với số lượng cần thiết cho hành sự các vị ấy đã đến, sự tùy thuận của các vị cần phải gởi tùy thuận đã được đem đến, các vị hiện diện không phản đối, (như thế là) hành sự có sự hợp nhất.
Này các tỳ khưu, đây được gọi là hành sự có sự hợp nhất.
[184] Này các tỳ khưu, thế nào là hành sự có hình thức bên ngoài đúng Pháp theo phe nhóm?
Này các tỳ khưu, nếu trong hành sự được thông báo đến lần thứ hai, (vị tỳ khưu) công bố lời khẳng định trước và xác định lời đề nghị sau, các vị tỳ khưu với số lượng cần thiết cho hành sự các vị ấy chưa đến, sự tùy thuận của các vị cần phải gởi tùy thuận chưa được đem đến, các vị hiện diện phản đối, (như thế là) hành sự có hình thức bên ngoài đúng Pháp theo phe nhóm. Này các tỳ khưu, nếu trong hành sự được thông báo đến lần thứ hai, (vị tỳ khưu) công bố lời khẳng định trước và xác định lời đề nghị sau, các vị tỳ khưu với số lượng cần thiết cho hành sự các vị ấy đã đến, sự tùy thuận của các vị cần phải gởi tùy thuận chưa được đem đến, các vị hiện diện phản đối, (như thế là) hành sự có hình thức bên ngoài đúng Pháp theo phe nhóm. Này các tỳ khưu, nếu trong hành sự được thông báo đến lần thứ hai, (vị tỳ khưu) công bố lời khẳng định trước và xác định lời đề nghị sau, các vị tỳ khưu với số lượng cần thiết cho hành sự các vị ấy đã đến, sự tùy thuận của các vị cần phải gởi tùy thuận đã được đem đến, các vị hiện diện phản đối, (như thế là) hành sự có hình thức bên ngoài đúng Pháp theo phe nhóm.
Này các tỳ khưu, nếu trong hành sự được thông báo đến lần thứ tư, (vị tỳ khưu) công bố lời khẳng định trước và xác định lời đề nghị sau, các vị tỳ khưu với số lượng cần thiết cho hành sự các vị ấy chưa đến, sự tùy thuận của các vị cần phải gởi tùy thuận chưa được đem đến, các vị hiện diện phản đối, (như thế là) hành sự có hình thức bên ngoài đúng Pháp theo phe nhóm. Này các tỳ khưu, nếu trong hành sự được thông báo đến lần thứ tư, (vị tỳ khưu) công bố lời khẳng định trước và xác định lời đề nghị sau, các vị tỳ khưu với số lượng cần thiết cho hành sự các vị ấy đã đến, sự tùy thuận của các vị cần phải gởi tùy thuận chưa được đem đến, các vị hiện diện phản đối, (như thế là) hành sự có hình thức bên ngoài đúng Pháp theo phe nhóm. Này các tỳ khưu, nếu trong hành sự được thông báo đến lần thứ tư, (vị tỳ khưu) công bố lời khẳng định trước và xác định lời đề nghị sau, các vị tỳ khưu với số lượng cần thiết cho hành sự các vị ấy đã đến, sự tùy thuận của các vị cần phải gởi tùy thuận đã được đem đến, các vị hiện diện phản đối, (như thế là) hành sự có hình thức bên ngoài đúng Pháp theo phe nhóm.
Này các tỳ khưu, đây được gọi là hành sự có hình thức bên ngoài đúng Pháp theo phe nhóm.
[185] Này các tỳ khưu, thế nào là hành sự có hình thức bên ngoài đúng Pháp có sự hợp nhất?
Này các tỳ khưu, nếu trong hành sự được thông báo đến lần thứ hai, (vị tỳ khưu) công bố lời khẳng định trước và xác định lời đề nghị sau, các vị tỳ khưu với số lượng cần thiết cho hành sự các vị ấy đã đến, sự tùy thuận của các vị cần phải gởi tùy thuận đã được đem đến, các vị hiện diện không phản đối, (như thế là) hành sự có hình thức bên ngoài đúng Pháp có sự hợp nhất. Này các tỳ khưu, nếu trong hành sự được thông báo đến lần thứ tư, (vị tỳ khưu) công bố lời khẳng định trước và xác định lời đề nghị sau, các vị tỳ khưu với số lượng cần thiết cho hành sự các vị ấy đã đến, sự tùy thuận của các vị cần phải gởi tùy thuận đã được đem đến, các vị hiện diện không phản đối, (như thế là) hành sự có hình thức bên ngoài đúng Pháp có sự hợp nhất.
Này các tỳ khưu, đây được gọi là hành sự có hình thức bên ngoài đúng Pháp có sự hợp nhất.
[186] Này các tỳ khưu, thế nào là hành sự đúng Pháp có sự hợp nhất?
Này các tỳ khưu, nếu trong hành sự được thông báo đến lần thứ hai, (vị tỳ khưu) xác định lời đề nghị trước và thực thi hành sự với một lời khẳng định của hành sự sau, các vị tỳ khưu với số lượng cần thiết cho hành sự các vị ấy đã đến, sự tùy thuận của các vị cần phải gởi tùy thuận đã được đem đến, các vị hiện diện không phản đối, (như thế là) hành sự đúng Pháp có sự hợp nhất. Này các tỳ khưu, nếu trong hành sự được thông báo đến lần thứ tư, (vị tỳ khưu) xác định lời đề nghị trước và thực thi hành sự với ba lời khẳng định của hành sự sau, các vị tỳ khưu với số lượng cần thiết cho hành sự các vị ấy đã đến, sự tùy thuận của các vị cần phải gởi tùy thuận đã được đem đến, các vị hiện diện không phản đối, (như thế là) hành sự đúng Pháp có sự hợp nhất.
Này các tỳ khưu, đây được gọi là hành sự đúng Pháp có sự hợp nhất.
[187] Có năm hội chúng: Hội chúng tỳ khưu với nhóm bốn vị, hội chúng tỳ khưu với nhóm năm vị, hội chúng tỳ khưu với nhóm mười vị, hội chúng tỳ khưu với nhóm hai mươi vị, hội chúng tỳ khưu với nhóm trên hai mươi vị.
Này các tỳ khưu, ở đây hội chúng tỳ khưu với nhóm bốn vị này có thể thành tựu đúng Pháp với sự hợp nhất tất cả các loại hành sự ngoại trừ ba hành sự: tu lên bậc trên, lễ Pavāraṇā (Tự Tứ), và sự giải tội (abbhāna).
Này các tỳ khưu, ở đây hội chúng tỳ khưu với nhóm năm vị này có thể thành tựu đúng Pháp với sự hợp nhất tất cả các loại hành sự ngoại trừ hai hành sự: tu lên bậc trên ở các nước trung tâm (majjhimesu janapadesu) và sự giải tội.
Này các tỳ khưu, ở đây hội chúng tỳ khưu với nhóm mười vị này có thể thành tựu đúng Pháp với sự hợp nhất tất cả các loại hành sự ngoại trừ một hành sự là sự giải tội.
Này các tỳ khưu, ở đây hội chúng tỳ khưu với nhóm hai mươi vị này có thể thành tựu đúng Pháp với sự hợp nhất tất cả các loại hành sự.
Này các tỳ khưu, ở đây hội chúng tỳ khưu với nhóm trên hai mươi vị này có thể thành tựu đúng Pháp với sự hợp nhất tất cả các loại hành sự.
[188] Này các tỳ khưu, nếu hành sự là công việc của nhóm bốn vị và thực thi hành sự (với nhóm) có vị thứ tư là tỳ khưu ni thì (hành sự ấy) không phải là hành sự và không nên thực thi. Này các tỳ khưu, nếu hành sự là công việc của nhóm bốn vị và thực thi hành sự (với nhóm) có vị thứ tư là cô ni tu tập sự …(như trên)… có vị thứ tư là sa di, có vị thứ tư là sa di ni, có vị thứ tư là vị xả bỏ điều học, có vị thứ tư là vị bị phạm tội cực nặng, có vị thứ tư là vị bị án treo trong việc không nhìn nhận tội, có vị thứ tư là vị bị án treo trong việc không sửa chữa lỗi, có vị thứ tư là vị bị án treo trong việc không chịu từ bỏ tà kiến ác, có vị thứ tư là kẻ vô căn, có vị thứ tư là kẻ trộm tướng mạo (tỳ khưu), có vị thứ tư là kẻ đã đi theo ngoại đạo, có vị thứ tư là loài thú, có vị thứ tư là kẻ giết mẹ, có vị thứ tư là kẻ giết cha, có vị thứ tư là kẻ giết A-la-hán, có vị thứ tư là kẻ làm ô uế tỳ khưu ni, có vị thứ tư là kẻ chia rẽ hội chúng, có vị thứ tư là kẻ làm chảy máu (đức Phật), có vị thứ tư là kẻ lưỡng căn, có vị thứ tư là vị không đồng cộng trú, có vị thứ tư đứng ở ranh giới khác (nānāsīmāya), có vị thứ tư đứng trên không trung nhờ vào thần thông … Nếu hành sự là công việc của nhóm bốn vị và thực thi hành sự (với nhóm) có vị thứ tư là đối tượng mà hội chúng thực thi hành sự đến, thì (hành sự ấy) không phải là hành sự và không nên thực thi.
Công việc của nhóm bốn vị.
[189] Này các tỳ khưu, nếu hành sự là công việc của nhóm năm vị và thực thi hành sự (với nhóm) có vị thứ năm là tỳ khưu ni thì (hành sự ấy) không phải là hành sự và không nên thực thi. Này các tỳ khưu, nếu hành sự là công việc của nhóm năm vị và thực thi hành sự (với nhóm) có vị thứ năm là cô ni tu tập sự …(như trên)… có vị thứ năm là sa di, có vị thứ năm là sa di ni, có vị thứ năm là vị xả bỏ điều học, có vị thứ năm là vị bị phạm tội cực nặng, có vị thứ năm là vị bị án treo trong việc không nhìn nhận tội, có vị thứ năm là vị bị án treo trong việc không sửa chữa lỗi, có vị thứ năm là vị bị án treo trong việc không chịu từ bỏ tà kiến ác, có vị thứ năm là kẻ vô căn, có vị thứ năm là kẻ trộm tướng mạo (tỳ khưu), có vị thứ năm là kẻ đã đi theo ngoại đạo, có vị thứ năm là loài thú, có vị thứ năm là kẻ giết mẹ, có vị thứ năm là kẻ giết cha, có vị thứ năm là kẻ giết A-la-hán, có vị thứ năm là kẻ làm ô uế tỳ khưu ni, có vị thứ năm là kẻ chia rẽ hội chúng, có vị thứ năm là kẻ làm chảy máu (đức Phật), có vị thứ năm là kẻ lưỡng căn, có vị thứ năm là vị không đồng cộng trú, có vị thứ năm đứng ở ranh giới khác, có vị thứ năm đứng trên không trung nhờ vào thần thông … Nếu hành sự là công việc của nhóm năm vị và thực thi hành sự (với nhóm) có vị thứ năm là đối tượng mà hội chúng thực thi hành sự đến, thì (hành sự ấy) không phải là hành sự và không nên thực thi.
Công việc của nhóm năm vị.
[190] Này các tỳ khưu, nếu hành sự là công việc của nhóm mười vị và thực thi hành sự (với nhóm) có vị thứ mười là tỳ khưu ni thì (hành sự ấy) không phải là hành sự và không nên thực thi. Này các tỳ khưu, nếu hành sự là công việc của nhóm mười vị và thực thi hành sự (với nhóm) có vị thứ mười là cô ni tu tập sự …(như trên)… có vị thứ mười là sa di, có vị thứ mười là sa di ni, có vị thứ mười là vị xả bỏ điều học, có vị thứ mười là vị bị phạm tội cực nặng, có vị thứ mười là vị bị án treo trong việc không nhìn nhận tội, có vị thứ mười là vị bị án treo trong việc không sửa chữa lỗi, có vị thứ mười là vị bị án treo trong việc không chịu từ bỏ tà kiến ác, có vị thứ mười là kẻ vô căn, có vị thứ mười là kẻ trộm tướng mạo (tỳ khưu), có vị thứ mười là kẻ đã đi theo ngoại đạo, có vị thứ mười là loài thú, có vị thứ mười là kẻ giết mẹ, có vị thứ mười là kẻ giết cha, có vị thứ mười là kẻ giết A-la-hán, có vị thứ mười là kẻ làm ô uế tỳ khưu ni, có vị thứ mười là kẻ chia rẽ hội chúng, có vị thứ mười là kẻ làm chảy máu (đức Phật), có vị thứ mười là kẻ lưỡng căn, có vị thứ mười là vị không đồng cộng trú, có vị thứ mười đứng ở ranh giới khác, có vị thứ mười đứng trên không trung nhờ vào thần thông … Nếu hành sự là công việc của nhóm mười vị và thực thi hành sự (với nhóm) có vị thứ mười là đối tượng mà hội chúng thực thi hành sự đến, thì (hành sự ấy) không phải là hành sự và không nên thực thi.
Công việc của nhóm mười vị.
[191] Này các tỳ khưu, nếu hành sự là công việc của nhóm hai mươi vị và thực thi hành sự (với nhóm) có vị thứ hai mươi là tỳ khưu ni thì (hành sự ấy) không phải là hành sự và không nên thực thi. Này các tỳ khưu, nếu hành sự là công việc của nhóm hai mươi vị và thực thi hành sự (với nhóm) có vị thứ hai mươi là cô ni tu tập sự …(như trên)… có vị thứ hai mươi là sa di, có vị thứ hai mươi là sa di ni, có vị thứ hai mươi là vị xả bỏ điều học, có vị thứ hai mươi là vị bị phạm tội cực nặng, có vị thứ hai mươi là vị bị án treo trong việc không nhìn nhận tội, có vị thứ hai mươi là vị bị án treo trong việc không sửa chữa lỗi, có vị thứ hai mươi là vị bị án treo trong việc không chịu từ bỏ tà kiến ác, có vị thứ hai mươi là kẻ vô căn, có vị thứ hai mươi là kẻ trộm tướng mạo (tỳ khưu), có vị thứ hai mươi là kẻ đã đi theo ngoại đạo, có vị thứ hai mươi là loài thú, có vị thứ hai mươi là kẻ giết mẹ, có vị thứ hai mươi là kẻ giết cha, có vị thứ hai mươi là kẻ giết A-la-hán, có vị thứ hai mươi là kẻ làm ô uế tỳ khưu ni, có vị thứ hai mươi là kẻ chia rẽ hội chúng, có vị thứ hai mươi là kẻ làm chảy máu (đức Phật), có vị thứ hai mươi là kẻ lưỡng căn, có vị thứ hai mươi là vị không đồng cộng trú, có vị thứ hai mươi đứng ở ranh giới khác … Nếu hành sự là công việc của nhóm hai mươi vị và thực thi hành sự (với nhóm) có vị thứ hai mươi là đối tượng mà hội chúng thực thi hành sự đến, thì (hành sự ấy) không phải là hành sự và không nên thực thi.
Công việc của nhóm hai mươi vị.
[192] Này các tỳ khưu, nếu (hội chúng có) vị thứ tư là vị đang thực thi hành phạt parivāsa rồi ban cho hành phạt parivāsa, cho (thực hành) trở lại từ đầu, ban cho hành phạt mānatta, có vị ấy là vị thứ hai mươi rồi giải tội thì (hành sự ấy) không phải là hành sự và không nên thực thi.
Này các tỳ khưu, nếu (hội chúng có) vị thứ tư là vị xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu rồi ban cho hành phạt parivāsa, cho (thực hành) trở lại từ đầu, ban cho hành phạt mānatta, có vị ấy là vị thứ hai mươi rồi giải tội thì (hành sự ấy) không phải là hành sự và không nên thực thi.
Này các tỳ khưu, nếu (hội chúng có) vị thứ tư là vị xứng đáng hành phạt mānatta rồi ban cho hành phạt parivāsa, cho (thực hành) trở lại từ đầu, ban cho hành phạt mānatta, có vị ấy là vị thứ hai mươi rồi giải tội thì (hành sự ấy) không phải là hành sự và không nên thực thi.
Này các tỳ khưu, nếu (hội chúng có) vị thứ tư là vị đang thực thi hành phạt mānatta rồi ban cho hành phạt parivāsa, cho (thực hành) trở lại từ đầu, ban cho hành phạt mānatta, có vị ấy là vị thứ hai mươi rồi giải tội thì (hành sự ấy) không phải là hành sự và không nên thực thi.
Này các tỳ khưu, nếu (hội chúng có) vị thứ tư là vị xứng đáng sự giải tội rồi ban cho hành phạt parivāsa, cho (thực hành) trở lại từ đầu, ban cho hành phạt mānatta, có vị ấy là vị thứ hai mươi rồi giải tội thì (hành sự ấy) không phải là hành sự và không nên thực thi.
[193] Này các tỳ khưu, sự phản đối giữa hội chúng của một hạng người có giá trị, của một hạng người không có giá trị.
Này các tỳ khưu, sự phản đối giữa hội chúng của hạng người nào không có giá trị?
Này các tỳ khưu, sự phản đối giữa hội chúng của vị tỳ khưu ni không có giá trị. Này các tỳ khưu, của cô ni tu tập sự …(như trên)… Này các tỳ khưu, của sa di …(như trên)… Này các tỳ khưu, của sa di ni …(như trên)… Này các tỳ khưu, của vị xả bỏ điều học …(như trên)… Này các tỳ khưu, của vị bị phạm tội cực nặng …(như trên)… Này các tỳ khưu, của vị bị điên …(như trên)… Này các tỳ khưu, của vị có tâm bị rối loạn …(như trên)… Này các tỳ khưu, của vị bị thọ khổ hành hạ …(như trên)… Này các tỳ khưu, của vị bị án treo trong việc không nhìn nhận tội …(như trên)… Này các tỳ khưu, của vị bị án treo trong việc không sửa chữa lỗi …(như trên)… Này các tỳ khưu, của vị bị án treo trong việc không chịu từ bỏ tà kiến ác …(như trên)… Này các tỳ khưu, của kẻ vô căn …(như trên)… Này các tỳ khưu, của kẻ trộm tướng mạo (tỳ khưu) …(như trên)… Này các tỳ khưu, của kẻ đã đi theo ngoại đạo …(như trên)… Này các tỳ khưu, của loài thú …(như trên)… Này các tỳ khưu, của kẻ giết mẹ …(như trên)… Này các tỳ khưu, của kẻ giết cha …(như trên)… Này các tỳ khưu, của kẻ giết A-la-hán …(như trên)… Này các tỳ khưu, của kẻ làm ô uế tỳ khưu ni …(như trên)… Này các tỳ khưu, của kẻ chia rẽ hội chúng …(như trên)… Này các tỳ khưu, của kẻ làm chảy máu (đức Phật) …(như trên)… Này các tỳ khưu, của kẻ lưỡng căn …(như trên)… Này các tỳ khưu, của vị không đồng cộng trú …(như trên)… Này các tỳ khưu, của vị đứng ở ranh giới khác …(như trên)… Này các tỳ khưu, của vị đứng trên không trung nhờ vào thần thông …(như trên)… Này các tỳ khưu, vị nào mà hội chúng (đang) thực thi hành sự cho, sự phản đối giữa hội chúng của vị ấy không có giá trị.
Này các tỳ khưu, sự phản đối giữa hội chúng của những hạng người này không có giá trị.
Này các tỳ khưu, sự phản đối giữa hội chúng của hạng người nào có giá trị?
Này các tỳ khưu, sự phản đối giữa hội chúng có giá trị là (sự phản đối) của vị tỳ khưu trong sạch (pakatatta bhikkhu), đồng cộng trú, đứng chung ranh giới, cho dù vị ấy chỉ báo cho vị tỳ khưu kế bên biết.
Này các tỳ khưu, sự phản đối giữa hội chúng của hạng người này có giá trị.
[194] Này các tỳ khưu, đây là hai trường hợp mời ra (nissāraṇā). Này các tỳ khưu, có người không đáng để bị sự mời ra, nhưng nếu hội chúng mời vị ấy ra, một vị đã được mời ra đúng, một vị đã bị mời ra sai.
Và này các tỳ khưu, thế nào là người không đáng để bị sự mời ra, nhưng nếu hội chúng mời vị ấy ra, thì (vị ấy) đã bị mời ra sai? Này các tỳ khưu, trong trường hợp này vị tỳ khưu là trong sạch, không có phạm tội, nhưng nếu hội chúng mời vị ấy ra thì (vị ấy) đã bị mời ra sai. Này các tỳ khưu, vị này được gọi là người không đáng để bị sự mời ra, nhưng nếu hội chúng mời vị ấy ra thì (vị ấy) đã bị mời ra sai.
Và này các tỳ khưu, thế nào là người không đáng để bị sự mời ra, nhưng nếu hội chúng mời vị ấy ra thì (vị ấy) đã được mời ra đúng? Này các tỳ khưu, trong trường hợp này vị tỳ khưu là ngu si, thiếu kinh nghiệm, phạm nhiều tội, không chịu giải tội, năng thân cận giới tục gia, sống không nghiêm chỉnh lẫn lộn cùng người thế tục, nhưng nếu hội chúng mời vị ấy ra thì (vị ấy) đã được mời ra đúng. Này các tỳ khưu, vị này được gọi là người không đáng để bị sự mời ra, nhưng nếu hội chúng mời vị ấy ra thì (vị ấy) đã được mời ra đúng.
[195] Này các tỳ khưu, đây là hai trường hợp phục hồi. Này các tỳ khưu, có người không đáng để được sự phục hồi, nhưng nếu hội chúng phục hồi vị ấy, một vị đã được phục hồi đúng, một vị đã được phục hồi sai.
Và này các tỳ khưu, thế nào là người không đáng để được sự phục hồi, nhưng nếu hội chúng phục hồi vị ấy thì (vị ấy) đã được phục hồi sai? Này các tỳ khưu, kẻ vô căn (paṇḍako) không đáng để được sự phục hồi, nhưng nếu hội chúng phục hồi vị ấy thì (vị ấy) đã được phục hồi sai. Này các tỳ khưu, kẻ trộm tướng mạo (tỳ khưu) …(như trên)… Này các tỳ khưu, kẻ đã đi theo ngoại đạo. Này các tỳ khưu, loài thú. Này các tỳ khưu, kẻ giết mẹ. Này các tỳ khưu, kẻ giết cha. Này các tỳ khưu, kẻ giết A-la-hán. Này các tỳ khưu, kẻ làm ô uế tỳ khưu ni. Này các tỳ khưu, kẻ chia rẽ hội chúng. Này các tỳ khưu, kẻ làm chảy máu (đức Phật). Này các tỳ khưu, kẻ lưỡng căn không đáng để được sự phục hồi, nhưng nếu hội chúng phục hồi vị ấy thì (vị ấy) đã được phục hồi sai. Này các tỳ khưu, vị này được gọi là người không đáng để được sự phục hồi, nhưng nếu hội chúng phục hồi vị ấy thì (những vị ấy) đã được phục hồi sai.
Và này các tỳ khưu, thế nào là người không đáng để được sự phục hồi, nhưng nếu hội chúng phục hồi vị ấy thì (vị ấy) đã được phục hồi đúng? Này các tỳ khưu, vị bị đứt cánh tay không đáng để được sự phục hồi, nhưng nếu hội chúng phục hồi vị ấy, thì (vị ấy) đã được phục hồi đúng. Này các tỳ khưu, vị bị đứt bàn chân …(như trên)… Này các tỳ khưu, vị bị đứt cánh tay và bàn chân. Này các tỳ khưu, vị bị sứt tai. Này các tỳ khưu, vị bị sứt mũi. Này các tỳ khưu, vị bị sứt tai và mũi. Này các tỳ khưu, vị bị đứt ngón tay. Này các tỳ khưu, vị bị đứt móng tay. Này các tỳ khưu, vị bị đứt gân chân. Này các tỳ khưu, vị có bàn tay dính liền giống cánh dơi. Này các tỳ khưu, vị gù lưng. Này các tỳ khưu, vị lùn tịt. Này các tỳ khưu, vị có bướu cổ. Này các tỳ khưu, vị bị hành phạt đóng dấu. Này các tỳ khưu, vị bị hành phạt đánh bằng roi. Này các tỳ khưu, vị bị cáo thị tầm nã. Này các tỳ khưu, vị bị phù chân voi. Này các tỳ khưu, vị bị bệnh trầm trọng kinh niên. Này các tỳ khưu, vị bôi nhọ tập thể. Này các tỳ khưu, vị bị chột mắt. Này các tỳ khưu, vị tứ chi bị co rút. Này các tỳ khưu, vị bị què. Này các tỳ khưu, vị bị liệt nửa thân. Này các tỳ khưu, vị đi khập khiễng. Này các tỳ khưu, vị già yếu. Này các tỳ khưu, vị bị mù. Này các tỳ khưu, vị bị câm. Này các tỳ khưu, vị bị điếc. Này các tỳ khưu, vị bị mù và câm. Này các tỳ khưu, vị bị mù và điếc. Này các tỳ khưu, vị bị câm và điếc. Này các tỳ khưu, vị bị mù câm và điếc không đáng để được sự phục hồi, nhưng nếu hội chúng phục hồi vị ấy, thì (vị ấy) đã được phục hồi đúng. Này các tỳ khưu, vị này được gọi là người không đáng để được sự phục hồi, nhưng nếu hội chúng phục hồi vị ấy, thì (vị ấy) đã được phục hồi đúng.
Tụng phẩm “Làng Vāsabha” là phần thứ nhất.
[196] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu không có tội cần phải được nhìn nhận. Hội chúng, hoặc nhiều vị, hoặc một vị quở trách vị ấy về việc ấy: “Này đại đức, đại đức đã phạm tội, đại đức có thấy tội ấy không?” Vị ấy đáp như vầy: “Này đại đức, không có tội gì ở tôi để tôi có thể thấy.” Hội chúng phạt án treo vị ấy trong việc không nhìn nhận tội; (như vậy) là hành sự sai Pháp.
Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu không có tội cần phải được sửa đổi. Hội chúng, hoặc nhiều vị, hoặc một vị quở trách vị ấy về việc ấy: “Này đại đức, đại đức đã phạm tội, đại đức hãy sửa đổi tội ấy.” Vị ấy đáp như vầy: “Này đại đức, không có tội gì ở tôi để tôi có thể sửa đổi.” Hội chúng phạt án treo vị ấy trong việc không sửa chữa lỗi; (như vậy) là hành sự sai Pháp.
Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu không có tà kiến ác cần phải được từ bỏ. Hội chúng, hoặc nhiều vị, hoặc một vị quở trách vị ấy về việc ấy: “Này đại đức, tri kiến của đại đức là ác xấu, đại đức hãy từ bỏ tà kiến ác ấy.” Vị ấy đáp như vầy: “Này đại đức, không có tà kiến ác gì ở tôi để tôi có thể từ bỏ.” Hội chúng phạt án treo vị ấy trong việc không từ bỏ tà kiến ác; (như vậy) là hành sự sai Pháp.
Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu không có tội cần phải được nhìn nhận, không có tội cần phải được sửa đổi. Hội chúng, hoặc nhiều vị, hoặc một vị quở trách vị ấy về việc ấy: “Này đại đức, đại đức đã phạm tội, đại đức có thấy tội ấy không? Đại đức hãy sửa đổi tội ấy” Vị ấy đáp như vầy: “Này đại đức, không có tội gì ở tôi để tôi có thể thấy. Không có tội gì ở tôi để tôi có thể sửa đổi.” Hội chúng phạt án treo vị ấy trong việc không nhìn nhận (tội) hay là trong việc không sửa chữa (lỗi); (như vậy) là hành sự sai Pháp.
Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu không có tội cần phải được nhìn nhận, không có tà kiến ác cần phải được từ bỏ. Hội chúng, hoặc nhiều vị, hoặc một vị quở trách vị ấy về việc ấy: “Này đại đức, đại đức đã phạm tội, đại đức có thấy tội ấy không? Tri kiến của đại đức là ác xấu, đại đức hãy từ bỏ tà kiến ác ấy.” Vị ấy đáp như vầy: “Này đại đức, không có tội gì ở tôi để tôi có thể thấy. Không có tà kiến ác gì ở tôi để tôi có thể từ bỏ.” Hội chúng phạt án treo vị ấy trong việc không nhìn nhận (tội) hay là trong việc không từ bỏ (tà kiến ác); (như vậy) là hành sự sai Pháp.
Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu không có tội cần phải được sửa đổi, không có tà kiến ác cần phải được từ bỏ. Hội chúng, hoặc nhiều vị, hoặc một vị quở trách vị ấy về việc ấy: “Này đại đức, đại đức đã phạm tội, đại đức hãy sửa đổi tội ấy. Tri kiến của đại đức là ác xấu, đại đức hãy từ bỏ tà kiến ác ấy.” Vị ấy đáp như vầy: “Này đại đức, không có tội gì ở tôi để tôi có thể sửa đổi. Không có tà kiến ác gì ở tôi để tôi có thể từ bỏ.” Hội chúng phạt án treo vị ấy trong việc không sửa chữa (lỗi) hay là trong việc không từ bỏ (tà kiến ác); (như vậy) là hành sự sai Pháp.
Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu không có tội cần phải được nhìn nhận, không có tội cần phải được sửa đổi, không có tà kiến ác cần phải được từ bỏ. Hội chúng, hoặc nhiều vị, hoặc một vị quở trách vị ấy về việc ấy: “Này đại đức, đại đức đã phạm tội, đại đức có thấy tội ấy không? Đại đức hãy sửa đổi tội ấy. Tri kiến của đại đức là ác xấu, đại đức hãy từ bỏ tà kiến ác ấy.” Vị ấy đáp như vầy: “Này đại đức, không có tội gì ở tôi để tôi có thể thấy. Không có tội gì ở tôi để tôi có thể sửa đổi. Không có tà kiến ác gì ở tôi để tôi có thể từ bỏ.” Hội chúng phạt án treo vị ấy trong việc không nhìn nhận (tội), hay là trong việc không sửa chữa (lỗi), hay là trong việc không từ bỏ (tà kiến ác); (như vậy) là hành sự sai Pháp.
[197] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu có tội cần phải được nhìn nhận. Hội chúng, hoặc nhiều vị, hoặc một vị quở trách vị ấy về việc ấy: “Này đại đức, đại đức đã phạm tội, đại đức có thấy tội ấy không?” Vị ấy đáp như vầy: “Này đại đức, đúng vậy, tôi có thấy.” Hội chúng phạt án treo vị ấy trong việc không nhìn nhận tội; (như vậy) là hành sự sai Pháp.
Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu có tội cần phải được sửa đổi. Hội chúng, hoặc nhiều vị, hoặc một vị quở trách vị ấy về việc ấy: “Này đại đức, đại đức đã phạm tội, đại đức hãy sửa đổi tội ấy.” Vị ấy đáp như vầy: “Này đại đức, đúng vậy, tôi sẽ sửa đổi.” Hội chúng phạt án treo vị ấy trong việc không sửa chữa lỗi; (như vậy) là hành sự sai Pháp.
Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu có tà kiến ác cần phải được từ bỏ. Hội chúng, hoặc nhiều vị, hoặc một vị quở trách vị ấy về việc ấy: “Này đại đức, tri kiến của đại đức là ác xấu, đại đức hãy từ bỏ tà kiến ác ấy.” Vị ấy đáp như vầy: “Này đại đức, đúng vậy, tôi sẽ từ bỏ.” Hội chúng phạt án treo vị ấy trong việc không từ bỏ tà kiến ác; (như vậy) là hành sự sai Pháp.
Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu có tội cần phải được nhìn nhận, có tội cần phải được sửa đổi. …(như trên)… có tội cần phải được nhìn nhận, có tà kiến ác cần phải được từ bỏ. …(như trên)… có tội cần phải được sửa đổi, có tà kiến ác cần phải được từ bỏ. …(như trên)… có tội cần phải được nhìn nhận, có tội cần phải được sửa đổi, có tà kiến ác cần phải được từ bỏ. Hội chúng, hoặc nhiều vị, hoặc một vị quở trách vị ấy về việc ấy: “Này đại đức, đại đức đã phạm tội, đại đức có thấy tội ấy không? Đại đức hãy sửa đổi tội ấy. Tri kiến của đại đức là ác xấu, đại đức hãy từ bỏ tà kiến ác ấy.” Vị ấy đáp như vầy: “Này đại đức, đúng vậy, tôi có thấy. Đúng vậy, tôi sẽ sửa đổi. Đúng vậy, tôi sẽ từ bỏ.” Hội chúng phạt án treo vị ấy trong việc không nhìn nhận (tội), hay là trong việc không sửa chữa (lỗi), hay là trong việc không từ bỏ (tà kiến ác); (như vậy) là hành sự sai Pháp.
[198] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu có tội cần phải được nhìn nhận. Hội chúng, hoặc nhiều vị, hoặc một vị quở trách vị ấy về việc ấy: “Này đại đức, đại đức đã phạm tội, đại đức có thấy tội ấy không?” Vị ấy đáp như vầy: “Này đại đức, không có tội gì ở tôi để tôi có thể thấy.” Hội chúng phạt án treo vị ấy trong việc không nhìn nhận tội; (như vậy) là hành sự đúng Pháp.
Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu có tội cần phải được sửa đổi. Hội chúng, hoặc nhiều vị, hoặc một vị quở trách vị ấy về việc ấy: “Này đại đức, đại đức đã phạm tội, đại đức hãy sửa đổi tội ấy.” Vị ấy đáp như vầy: “Không có tội gì ở tôi để tôi có thể sửa đổi.” Hội chúng phạt án treo vị ấy trong việc không sửa chữa lỗi; (như vậy) là hành sự đúng Pháp.
Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu có tà kiến ác cần phải được từ bỏ. Hội chúng, hoặc nhiều vị, hoặc một vị quở trách vị ấy về việc ấy: “Này đại đức, tri kiến của đại đức là ác xấu, đại đức hãy từ bỏ tà kiến ác ấy.” Vị ấy đáp như vầy: “Không có tà kiến ác gì ở tôi để tôi có thể từ bỏ.” Hội chúng phạt án treo vị ấy trong việc không từ bỏ tà kiến ác; (như vậy) là hành sự đúng Pháp.
Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu có tội cần phải được nhìn nhận, có tội cần phải được sửa đổi. …(như trên)… có tội cần phải được nhìn nhận, có tà kiến ác cần phải được từ bỏ. …(như trên)… có tội cần phải được sửa đổi, có tà kiến ác cần phải được từ bỏ. …(như trên)… có tội cần phải được nhìn nhận, có tội cần phải được sửa đổi, có tà kiến ác cần phải được từ bỏ. Hội chúng, hoặc nhiều vị, hoặc một vị quở trách vị ấy về việc ấy: “Này đại đức, đại đức đã phạm tội, đại đức có thấy tội ấy không? Đại đức hãy sửa đổi tội ấy. Tri kiến của đại đức là ác xấu, đại đức hãy từ bỏ tà kiến ác ấy.” Vị ấy đáp như vầy: “Này đại đức, không có tội gì ở tôi để tôi có thể thấy. Không có tội gì ở tôi để tôi có thể sửa đổi. Không có tà kiến ác gì ở tôi để tôi có thể từ bỏ.” Hội chúng phạt án treo vị ấy trong việc không nhìn nhận (tội), hay là trong việc không sửa chữa (lỗi), hay là trong việc không từ bỏ (tà kiến ác); (như vậy) là hành sự đúng Pháp.
[199] Khi ấy, đại đức Upāli đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, đại đức Upāli đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, việc hội chúng hợp nhất thực thi hành sự cần được thực thi với sự hiện diện nhưng không có sự hiện diện, bạch ngài có phải việc ấy là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật?
– Này Upāli, việc ấy là hành sự sai Pháp, là hành sự sai Luật.
– Bạch ngài, việc hội chúng hợp nhất thực thi hành sự cần được thực thi với sự tra hỏi nhưng không có sự tra hỏi, thực thi hành sự cần được thực thi với sự thừa nhận nhưng không có sự thừa nhận, ban cho cách hành xử Luật khi không điên cuồng đến vị xứng đáng với cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ, thực thi hành sự theo tội của vị ấy đến vị xứng đáng với cách hành xử Luật khi không điên cuồng, thực thi hành sự khiển trách đến vị xứng đáng hành sự theo tội của vị ấy, thực thi hành sự chỉ dạy đến vị xứng đáng hành sự khiển trách, thực thi hành sự xua đuổi đến vị xứng đáng hành sự chỉ dạy, thực thi hành sự hòa giải đến vị xứng đáng hành sự xua đuổi, thực thi hành sự án treo đến vị xứng đáng hành sự hòa giải, ban cho hành phạt parivāsa đến vị xứng đáng hành sự án treo, cho (thực hành) trở lại từ đầu vị xứng đáng hành phạt parivāsa, ban cho hành phạt mānatta đến vị xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu, giải tội cho vị xứng đáng hành phạt mānatta, ban phép tu lên bậc trên đến vị xứng đáng sự giải tội, bạch ngài có phải việc ấy là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật?
– Này Upāli, việc ấy là hành sự sai Pháp, là hành sự sai Luật. Này Upāli, việc hội chúng hợp nhất thực thi hành sự cần được thực thi với sự hiện diện nhưng không có sự hiện diện, này Upāli, như thế là hành sự sai Pháp, là hành sự sai Luật, và như thế hội chúng có sự vượt quá chức năng. Này Upāli, việc hội chúng hợp nhất thực thi hành sự cần được thực thi với sự tra hỏi nhưng không có sự tra hỏi, thực thi hành sự cần được thực thi với sự thừa nhận nhưng không có sự thừa nhận, ban cho cách hành xử Luật khi không điên cuồng đến vị xứng đáng với cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ, thực thi hành sự theo tội của vị ấy đến vị xứng đáng với cách hành xử Luật khi không điên cuồng, thực thi hành sự khiển trách đến vị xứng đáng hành sự theo tội của vị ấy, thực thi hành sự chỉ dạy đến vị xứng đáng hành sự khiển trách, thực thi hành sự xua đuổi đến vị xứng đáng hành sự chỉ dạy, thực thi hành sự hòa giải đến vị xứng đáng hành sự xua đuổi, thực thi hành sự án treo đến vị xứng đáng hành sự hòa giải, ban cho hành phạt parivāsa đến vị xứng đáng hành sự án treo, cho (thực hành) trở lại từ đầu vị xứng đáng hành phạt parivāsa, ban cho hành phạt mānatta đến vị xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu, giải tội cho vị xứng đáng hành phạt mānatta, ban phép tu lên bậc trên đến vị xứng đáng sự giải tội, này Upāli, như thế là hành sự sai Pháp, là hành sự sai Luật, và như thế hội chúng có sự vượt quá chức năng.
[200] – Bạch ngài, việc hội chúng hợp nhất thực thi hành sự cần được thực thi với sự hiện diện (và) có sự hiện diện, bạch ngài có phải việc ấy là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật?
– Này Upāli, việc ấy là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật.
– Bạch ngài, việc hội chúng hợp nhất thực thi hành sự cần được thực thi với sự tra hỏi (và) có sự tra hỏi, thực thi hành sự cần được thực thi với sự thừa nhận (và) có sự thừa nhận, ban cho cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ đến vị xứng đáng với cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ, ban cho cách hành xử Luật khi không điên cuồng đến vị xứng đáng với cách hành xử Luật khi không điên cuồng, thực thi hành sự theo tội của vị ấy đến vị xứng đáng hành sự theo tội của vị ấy, thực thi hành sự khiển trách đến vị xứng đáng hành sự khiển trách, thực thi hành sự chỉ dạy đến vị xứng đáng hành sự chỉ dạy, thực thi hành sự xua đuổi đến vị xứng đáng hành sự xua đuổi, thực thi hành sự hòa giải đến vị xứng đáng hành sự hòa giải, thực thi hành sự án treo đến vị xứng đáng hành sự án treo, ban cho hành phạt parivāsa đến vị xứng đáng hành phạt parivāsa, cho (thực hành) trở lại từ đầu đến vị xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu, ban cho hành phạt mānatta đến vị xứng đáng hành phạt mānatta, giải tội cho vị xứng đáng sự giải tội, ban phép tu lên bậc trên đến vị xứng đáng việc tu lên bậc trên, bạch ngài có phải việc ấy là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật?
– Này Upāli, việc ấy là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật. Này Upāli, việc hội chúng hợp nhất thực thi hành sự cần được thực thi với sự hiện diện (và) có sự hiện diện, này Upāli, như thế là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, và như thế hội chúng không có sự vượt quá chức năng. Này Upāli, việc hội chúng hợp nhất thực thi hành sự cần được thực thi với sự tra hỏi (và) có sự tra hỏi, thực thi hành sự cần được thực thi với sự thừa nhận (và) có sự thừa nhận, ban cho cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ đến vị xứng đáng với cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ, ban cho cách hành xử Luật khi không điên cuồng đến vị xứng đáng với cách hành xử Luật khi không điên cuồng, thực thi hành sự theo tội của vị ấy đến vị xứng đáng hành sự theo tội của vị ấy, thực thi hành sự khiển trách đến vị xứng đáng hành sự khiển trách, thực thi hành sự chỉ dạy đến vị xứng đáng hành sự chỉ dạy, thực thi hành sự xua đuổi đến vị xứng đáng hành sự xua đuổi, thực thi hành sự hòa giải đến vị xứng đáng hành sự hòa giải, thực thi hành sự án treo đến vị xứng đáng hành sự án treo, ban cho hành phạt parivāsa đến vị xứng đáng hành phạt parivāsa, cho (thực hành) trở lại từ đầu đến vị xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu, ban cho hành phạt mānatta đến vị xứng đáng hành phạt mānatta, giải tội cho vị xứng đáng sự giải tội, ban phép tu lên bậc trên đến vị xứng đáng việc tu lên bậc trên, này Upāli, như thế là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, và như thế hội chúng không có sự vượt quá chức năng.
[201] – Bạch ngài, việc hội chúng hợp nhất ban cho cách hành xử Luật khi không điên cuồng đến vị xứng đáng với cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ, ban cho cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ đến vị xứng đáng với cách hành xử Luật khi không điên cuồng, bạch ngài có phải việc ấy là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật?
– Này Upāli, việc ấy là hành sự sai Pháp, là hành sự sai Luật.
– Bạch ngài, việc hội chúng hợp nhất thực thi hành sự theo tội của vị ấy đến vị xứng đáng với cách hành xử Luật khi không điên cuồng, ban cho cách hành xử Luật khi không điên cuồng đến vị xứng đáng hành sự theo tội của vị ấy, thực thi hành sự khiển trách đến vị xứng đáng hành sự theo tội của vị ấy, thực thi hành sự theo tội của vị ấy đến vị xứng đáng hành sự khiển trách, thực thi hành sự chỉ dạy đến vị xứng đáng hành sự khiển trách, thực thi hành sự khiển trách đến vị xứng đáng hành sự chỉ dạy, thực thi hành sự xua đuổi đến vị xứng đáng hành sự chỉ dạy, thực thi hành sự chỉ dạy đến vị xứng đáng hành sự xua đuổi, thực thi hành sự hòa giải đến vị xứng đáng hành sự xua đuổi, thực thi hành sự xua đuổi đến vị xứng đáng hành sự hòa giải, thực thi hành sự án treo đến vị xứng đáng hành sự hòa giải, thực thi hành sự hòa giải đến vị xứng đáng hành sự án treo, ban cho hành phạt parivāsa đến vị xứng đáng hành sự án treo, thực thi hành sự án treo đến vị xứng đáng hành phạt parivāsa, cho (thực hành) trở lại từ đầu vị xứng đáng hành phạt parivāsa, ban cho hành phạt parivāsa đến vị xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu, ban cho hành phạt mānatta đến vị xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu, cho (thực hành) trở lại từ đầu vị xứng đáng hành phạt mānatta, giải tội cho vị xứng đáng hành phạt mānatta, ban cho hành phạt mānatta đến vị xứng đáng sự giải tội, ban phép tu lên bậc trên đến vị xứng đáng sự giải tội, giải tội cho vị xứng đáng việc tu lên bậc trên, bạch ngài có phải việc ấy là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật?
– Này Upāli, như thế là hành sự sai Pháp, là hành sự sai Luật. Này Upāli, việc hội chúng hợp nhất ban cho cách hành xử Luật khi không điên cuồng đến vị xứng đáng với cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ, ban cho cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ đến vị xứng đáng với cách hành xử Luật khi không điên cuồng, này Upāli, như thế là hành sự sai Pháp, là hành sự sai Luật, và như thế hội chúng có sự vượt quá chức năng. Này Upāli, việc hội chúng hợp nhất thực thi hành sự theo tội của vị ấy đến vị xứng đáng với cách hành xử Luật khi không điên cuồng, ban cho cách hành xử Luật khi không điên cuồng đến vị xứng đáng hành sự theo tội của vị ấy, thực thi hành sự khiển trách đến vị xứng đáng hành sự theo tội của vị ấy, thực thi hành sự theo tội của vị ấy đến vị xứng đáng hành sự khiển trách, thực thi hành sự chỉ dạy đến vị xứng đáng hành sự khiển trách, thực thi hành sự khiển trách đến vị xứng đáng hành sự chỉ dạy, thực thi hành sự xua đuổi đến vị xứng đáng hành sự chỉ dạy, thực thi hành sự chỉ dạy đến vị xứng đáng hành sự xua đuổi, thực thi hành sự hòa giải đến vị xứng đáng hành sự xua đuổi, thực thi hành sự xua đuổi đến vị xứng đáng hành sự hòa giải, thực thi hành sự án treo đến vị xứng đáng hành sự hòa giải, thực thi hành sự hòa giải đến vị xứng đáng hành sự án treo, ban cho hành phạt parivāsa đến vị xứng đáng hành sự án treo, thực thi hành sự án treo đến vị xứng đáng hành phạt parivāsa, cho (thực hành) trở lại từ đầu vị xứng đáng hành phạt parivāsa, ban cho hành phạt parivāsa đến vị xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu, ban cho hành phạt mānatta đến vị xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu, cho (thực hành) trở lại từ đầu vị xứng đáng hành phạt mānatta, giải tội cho vị xứng đáng hành phạt mānatta, ban cho hành phạt mānatta đến vị xứng đáng sự giải tội, ban phép tu lên bậc trên đến vị xứng đáng sự giải tội, giải tội cho vị xứng đáng việc tu lên bậc trên, này Upāli, như thế là hành sự sai Pháp, là hành sự sai Luật, và như thế hội chúng có sự vượt quá chức năng.
[202] – Bạch ngài, việc hội chúng hợp nhất ban cho cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ đến vị xứng đáng với cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ, ban cho cách hành xử Luật khi không điên cuồng đến vị xứng đáng với cách hành xử Luật khi không điên cuồng, bạch ngài có phải việc ấy là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật?
– Này Upāli, việc ấy là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật.
– Bạch ngài, việc hội chúng hợp nhất ban cho cách hành xử Luật khi không điên cuồng đến vị xứng đáng với cách hành xử Luật khi không điên cuồng, thực thi hành sự theo tội của vị ấy đến vị xứng đáng hành sự theo tội của vị ấy, thực thi hành sự khiển trách đến vị xứng đáng hành sự khiển trách, thực thi hành sự chỉ dạy đến vị xứng đáng hành sự chỉ dạy, thực thi hành sự xua đuổi đến vị xứng đáng hành sự xua đuổi, thực thi hành sự hòa giải đến vị xứng đáng hành sự hòa giải, thực thi hành sự án treo đến vị xứng đáng hành sự án treo, ban cho hành phạt parivāsa đến vị xứng đáng hành phạt parivāsa, cho (thực hành) trở lại từ đầu đến vị xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu, ban cho hành phạt mānatta đến vị xứng đáng hành phạt mānatta, giải tội cho vị xứng đáng sự giải tội, ban phép tu lên bậc trên đến vị xứng đáng việc tu lên bậc trên, bạch ngài có phải việc ấy là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật?
– Này Upāli, việc ấy là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật. Này Upāli, việc hội chúng hợp nhất ban cho cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ đến vị xứng đáng với cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ, ban cho cách hành xử Luật khi không điên cuồng đến vị xứng đáng với cách hành xử Luật khi không điên cuồng, này Upāli, như thế là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, và như thế hội chúng không có sự vượt quá chức năng. Này Upāli, việc hội chúng hợp nhất ban cho cách hành xử Luật khi không điên cuồng đến vị xứng đáng với cách hành xử Luật khi không điên cuồng, thực thi hành sự theo tội của vị ấy đến vị xứng đáng hành sự theo tội của vị ấy, thực thi hành sự khiển trách đến vị xứng đáng hành sự khiển trách, thực thi hành sự chỉ dạy đến vị xứng đáng hành sự chỉ dạy, thực thi hành sự xua đuổi đến vị xứng đáng hành sự xua đuổi, thực thi hành sự hòa giải đến vị xứng đáng hành sự hòa giải, thực thi hành sự án treo đến vị xứng đáng hành sự án treo, ban cho hành phạt parivāsa đến vị xứng đáng hành phạt parivāsa, cho (thực hành) trở lại từ đầu đến vị xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu, ban cho hành phạt mānatta đến vị xứng đáng hành phạt mānatta, giải tội cho vị xứng đáng sự giải tội, ban phép tu lên bậc trên đến vị xứng đáng việc tu lên bậc trên, này Upāli, như thế là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, và như thế hội chúng không có sự vượt quá chức năng.
[203] Sau đó, đức Thế Tôn đã bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, việc hội chúng hợp nhất ban cho cách hành xử Luật khi không điên cuồng đến vị xứng đáng với cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ, này các tỳ khưu, như thế là hành sự sai Pháp, là hành sự sai Luật, và như thế hội chúng có sự vượt quá chức năng. Này các tỳ khưu, việc hội chúng hợp nhất thực thi hành sự theo tội của vị ấy đến vị xứng đáng với cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ, thực thi hành sự khiển trách đến vị xứng đáng với cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ, thực thi hành sự chỉ dạy đến vị xứng đáng với cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ, thực thi hành sự xua đuổi đến vị xứng đáng với cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ, thực thi hành sự hòa giải đến vị xứng đáng với cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ, thực thi hành sự án treo đến vị xứng đáng với cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ, ban cho hành phạt parivāsa đến vị xứng đáng với cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ, cho (thực hành) trở lại từ đầu vị xứng đáng với cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ, ban cho hành phạt mānatta đến vị xứng đáng với cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ, giải tội cho vị xứng đáng với cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ, ban phép tu lên bậc trên đến vị xứng đáng với cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ, này các tỳ khưu, như thế là hành sự sai Pháp, là hành sự sai Luật, và như thế hội chúng có sự vượt quá chức năng.
Này các tỳ khưu, việc hội chúng hợp nhất thực thi hành sự theo tội của vị ấy đến vị xứng đáng với cách hành xử Luật khi không điên cuồng, này các tỳ khưu, như thế là hành sự sai Pháp, là hành sự sai Luật, và như thế hội chúng có sự vượt quá chức năng. Này các tỳ khưu, việc hội chúng hợp nhất thực thi hành sự khiển trách đến vị xứng đáng với cách hành xử Luật khi không điên cuồng, thực thi hành sự chỉ dạy đến vị xứng đáng với cách hành xử Luật khi không điên cuồng, thực thi hành sự xua đuổi đến vị xứng đáng với cách hành xử Luật khi không điên cuồng, thực thi hành sự hòa giải đến vị xứng đáng với cách hành xử Luật khi không điên cuồng, thực thi hành sự án treo đến vị xứng đáng với cách hành xử Luật khi không điên cuồng, ban cho hành phạt parivāsa đến vị xứng đáng với cách hành xử Luật khi không điên cuồng, cho (thực hành) trở lại từ đầu vị xứng đáng với cách hành xử Luật khi không điên cuồng, ban cho hành phạt mānatta đến vị xứng đáng với cách hành xử Luật khi không điên cuồng, giải tội cho vị xứng đáng với cách hành xử Luật khi không điên cuồng, ban phép tu lên bậc trên đến vị xứng đáng với cách hành xử Luật khi không điên cuồng, ban cho cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ đến vị xứng đáng với cách hành xử Luật khi không điên cuồng, này các tỳ khưu, như thế là hành sự sai Pháp, là hành sự sai Luật, và như thế hội chúng có sự vượt quá chức năng.
Này các tỳ khưu, việc hội chúng hợp nhất thực thi hành sự khiển trách đến vị xứng đáng hành sự theo tội của vị ấy, thực thi hành sự chỉ dạy đến vị xứng đáng hành sự theo tội của vị ấy, thực thi hành sự xua đuổi đến vị xứng đáng hành sự theo tội của vị ấy, thực thi hành sự hòa giải đến vị xứng đáng hành sự theo tội của vị ấy, thực thi hành sự án treo đến vị xứng đáng hành sự theo tội của vị ấy, ban cho hành phạt parivāsa đến vị xứng đáng hành sự theo tội của vị ấy, …(như trên)…, ban cho cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ đến vị xứng đáng hành sự theo tội của vị ấy, ban cho cách hành xử Luật khi không điên cuồng đến vị xứng đáng hành sự theo tội của vị ấy, này các tỳ khưu, như thế là hành sự sai Pháp, là hành sự sai Luật, và như thế hội chúng có sự vượt quá chức năng.
Này các tỳ khưu, việc hội chúng hợp nhất …(như trên)… đến vị xứng đáng hành sự khiển trách, đến vị xứng đáng hành sự chỉ dạy, đến vị xứng đáng hành sự xua đuổi, đến vị xứng đáng hành sự hòa giải, đến vị xứng đáng hành sự án treo, đến vị xứng đáng hành phạt parivāsa, đến vị xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu, đến vị xứng đáng hành phạt mānatta, đến vị xứng đáng sự giải tội, ban cho cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ đến vị xứng đáng việc tu lên bậc trên, ban cho cách hành xử Luật khi không điên cuồng đến vị xứng đáng việc tu lên bậc trên, thực thi hành sự theo tội của vị ấy đến vị xứng đáng việc tu lên bậc trên, thực thi hành sự khiển trách đến vị xứng đáng việc tu lên bậc trên, thực thi hành sự chỉ dạy đến vị xứng đáng việc tu lên bậc trên, thực thi hành sự xua đuổi đến vị xứng đáng việc tu lên bậc trên, thực thi hành sự hòa giải đến vị xứng đáng việc tu lên bậc trên, thực thi hành sự án treo đến vị xứng đáng việc tu lên bậc trên, ban cho hành phạt parivāsa đến vị xứng đáng việc tu lên bậc trên, cho (thực hành) trở lại từ đầu vị xứng đáng việc tu lên bậc trên, ban cho hành phạt mānatta đến vị xứng đáng việc tu lên bậc trên, giải tội cho vị xứng đáng việc tu lên bậc trên, này các tỳ khưu, như thế là hành sự sai Pháp, là hành sự sai Luật, và như thế hội chúng có sự vượt quá chức năng
Tụng phẩm “Những câu hỏi của Upāli” là phần thứ nhì.
[204] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu là vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng. Nếu ở đó, các vị tỳ khưu (bàn bạc) như vầy: “Này các đại đức, vị tỳ khưu này là vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng, vậy chúng ta hãy thực thi hành sự khiển trách đến vị này.” Các vị ấy thực thi hành sự khiển trách đến vị ấy sai Pháp theo phe nhóm. Vị ấy từ trú xứ ấy đi đến trú xứ khác. Tại nơi ấy, các vị tỳ khưu (bàn bạc) như vầy: “Này các đại đức, vị tỳ khưu này đã được hội chúng thực thi hành sự khiển trách sai Pháp theo phe nhóm, vậy chúng ta hãy thực thi hành sự khiển trách đến vị này.” Các vị ấy thực thi hành sự khiển trách đến vị ấy sai Pháp có sự hợp nhất. Vị ấy từ trú xứ ấy đi đến trú xứ khác. Tại nơi ấy, các vị tỳ khưu (bàn bạc) như vầy: “Này các đại đức, vị tỳ khưu này đã được hội chúng thực thi hành sự khiển trách sai Pháp có sự hợp nhất, vậy chúng ta hãy thực thi hành sự khiển trách đến vị này.” Các vị ấy thực thi hành sự khiển trách đến vị ấy đúng Pháp theo phe nhóm. Vị ấy từ trú xứ ấy đi đến trú xứ khác. Tại nơi ấy, các vị tỳ khưu (bàn bạc) như vầy: “Này các đại đức, vị tỳ khưu này đã được hội chúng thực thi hành sự khiển trách đúng Pháp theo phe nhóm, vậy chúng ta hãy thực thi hành sự khiển trách đến vị này.” Các vị ấy thực thi hành sự khiển trách đến vị ấy có hình thức bên ngoài đúng Pháp (dhammapaṭirūpakena) theo phe nhóm. Vị ấy từ trú xứ ấy đi đến trú xứ khác. Tại nơi ấy, các vị tỳ khưu (bàn bạc) như vầy: “Này các đại đức, vị tỳ khưu này đã được hội chúng thực thi hành sự khiển trách có hình thức bên ngoài đúng Pháp theo phe nhóm, vậy chúng ta hãy thực thi hành sự khiển trách đến vị này.” Các vị ấy thực thi hành sự khiển trách đến vị ấy có hình thức bên ngoài đúng Pháp có sự hợp nhất.
[205] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu là vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng. Nếu ở đó, các vị tỳ khưu (bàn bạc) như vầy: “Này các đại đức, vị tỳ khưu này là vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng, vậy chúng ta hãy thực thi hành sự khiển trách đến vị này.” Các vị ấy thực thi hành sự khiển trách đến vị ấy sai Pháp có sự hợp nhất. Vị ấy từ trú xứ ấy đi đến trú xứ khác. Tại nơi ấy, các vị tỳ khưu (bàn bạc) như vầy: “Này các đại đức, vị tỳ khưu này đã được hội chúng thực thi hành sự khiển trách sai Pháp có sự hợp nhất, vậy chúng ta hãy thực thi hành sự khiển trách đến vị này.” Các vị ấy thực thi hành sự khiển trách đến vị ấy đúng Pháp theo phe nhóm. Vị ấy từ trú xứ ấy đi đến trú xứ khác. Tại nơi ấy, các vị tỳ khưu (bàn bạc) như vầy: “Này các đại đức, vị tỳ khưu này đã được hội chúng thực thi hành sự khiển trách đúng Pháp theo phe nhóm, vậy chúng ta hãy thực thi hành sự khiển trách đến vị này.” Các vị ấy thực thi hành sự khiển trách đến vị ấy có hình thức bên ngoài đúng Pháp theo phe nhóm. Vị ấy từ trú xứ ấy đi đến trú xứ khác. Tại nơi ấy, các vị tỳ khưu (bàn bạc) như vầy: “Này các đại đức, vị tỳ khưu này đã được hội chúng thực thi hành sự khiển trách có hình thức bên ngoài đúng Pháp theo phe nhóm, vậy chúng ta hãy thực thi hành sự khiển trách đến vị này.” Các vị ấy thực thi hành sự khiển trách đến vị ấy có hình thức bên ngoài đúng Pháp có sự hợp nhất. Vị ấy từ trú xứ ấy đi đến trú xứ khác. Tại nơi ấy, các vị tỳ khưu (bàn bạc) như vầy: “Này các đại đức, vị tỳ khưu này đã được hội chúng thực thi hành sự khiển trách có hình thức bên ngoài đúng Pháp có sự hợp nhất, vậy chúng ta hãy thực thi hành sự khiển trách đến vị này.” Các vị ấy thực thi hành sự khiển trách đến vị ấy sai Pháp theo phe nhóm.
[206] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu là vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng. Nếu ở đó, các vị tỳ khưu (bàn bạc) như vầy: “Này các đại đức, vị tỳ khưu này là vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng, vậy chúng ta hãy thực thi hành sự khiển trách đến vị này.” Các vị ấy thực thi hành sự khiển trách đến vị ấy đúng Pháp theo phe nhóm. Vị ấy từ trú xứ ấy đi đến trú xứ khác. Tại nơi ấy, các vị tỳ khưu (bàn bạc) như vầy: “Này các đại đức, vị tỳ khưu này đã được hội chúng thực thi hành sự khiển trách đúng Pháp theo phe nhóm, vậy chúng ta hãy thực thi hành sự khiển trách đến vị này.” Các vị ấy thực thi hành sự khiển trách đến vị ấy có hình thức bên ngoài đúng Pháp theo phe nhóm. Vị ấy từ trú xứ ấy đi đến trú xứ khác. Tại nơi ấy, các vị tỳ khưu (bàn bạc) như vầy: “Này các đại đức, vị tỳ khưu này đã được hội chúng thực thi hành sự khiển trách có hình thức bên ngoài đúng Pháp theo phe nhóm, vậy chúng ta hãy thực thi hành sự khiển trách đến vị này.” Các vị ấy thực thi hành sự khiển trách đến vị ấy có hình thức bên ngoài đúng Pháp có sự hợp nhất. Vị ấy từ trú xứ ấy đi đến trú xứ khác. Tại nơi ấy, các vị tỳ khưu (bàn bạc) như vầy: “Này các đại đức, vị tỳ khưu này đã được hội chúng thực thi hành sự khiển trách có hình thức bên ngoài đúng Pháp có sự hợp nhất, vậy chúng ta hãy thực thi hành sự khiển trách đến vị này.” Các vị ấy thực thi hành sự khiển trách đến vị ấy sai Pháp theo phe nhóm. Vị ấy từ trú xứ ấy đi đến trú xứ khác. Tại nơi ấy, các vị tỳ khưu (bàn bạc) như vầy: “Này các đại đức, vị tỳ khưu này đã được hội chúng thực thi hành sự khiển trách sai Pháp theo phe nhóm, vậy chúng ta hãy thực thi hành sự khiển trách đến vị này.” Các vị ấy thực thi hành sự khiển trách đến vị ấy sai Pháp có sự hợp nhất.
[207] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu là vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng. Nếu ở đó, các vị tỳ khưu (bàn bạc) như vầy: “Này các đại đức, vị tỳ khưu này là vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng, vậy chúng ta hãy thực thi hành sự khiển trách đến vị này.” Các vị ấy thực thi hành sự khiển trách đến vị ấy có hình thức bên ngoài đúng Pháp theo phe nhóm. Vị ấy từ trú xứ ấy đi đến trú xứ khác. Tại nơi ấy, các vị tỳ khưu (bàn bạc) như vầy: “Này các đại đức, vị tỳ khưu này đã được hội chúng thực thi hành sự khiển trách có hình thức bên ngoài đúng Pháp theo phe nhóm, vậy chúng ta hãy thực thi hành sự khiển trách đến vị này.” Các vị ấy thực thi hành sự khiển trách đến vị ấy có hình thức bên ngoài đúng Pháp có sự hợp nhất. Vị ấy từ trú xứ ấy đi đến trú xứ khác. Tại nơi ấy, các vị tỳ khưu (bàn bạc) như vầy: “Này các đại đức, vị tỳ khưu này đã được hội chúng thực thi hành sự khiển trách có hình thức bên ngoài đúng Pháp có sự hợp nhất, vậy chúng ta hãy thực thi hành sự khiển trách đến vị này.” Các vị ấy thực thi hành sự khiển trách đến vị ấy sai Pháp theo phe nhóm. Vị ấy từ trú xứ ấy đi đến trú xứ khác. Tại nơi ấy, các vị tỳ khưu (bàn bạc) như vầy: “Này các đại đức, vị tỳ khưu này đã được hội chúng thực thi hành sự khiển trách sai Pháp theo phe nhóm, vậy chúng ta hãy thực thi hành sự khiển trách đến vị này.” Các vị ấy thực thi hành sự khiển trách đến vị ấy sai Pháp có sự hợp nhất. Vị ấy từ trú xứ ấy đi đến trú xứ khác. Tại nơi ấy, các vị tỳ khưu (bàn bạc) như vầy: “Này các đại đức, vị tỳ khưu này đã được hội chúng thực thi hành sự khiển trách sai Pháp có sự hợp nhất, vậy chúng ta hãy thực thi hành sự khiển trách đến vị này.” Các vị ấy thực thi hành sự khiển trách đến vị ấy đúng Pháp theo phe nhóm.
[208] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu là vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng. Nếu ở đó, các vị tỳ khưu (bàn bạc) như vầy: “Này các đại đức, vị tỳ khưu này là vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng, vậy chúng ta hãy thực thi hành sự khiển trách đến vị này.” Các vị ấy thực thi hành sự khiển trách đến vị ấy có hình thức bên ngoài đúng Pháp có sự hợp nhất. Vị ấy từ trú xứ ấy đi đến trú xứ khác. Tại nơi ấy, các vị tỳ khưu (bàn bạc) như vầy: “Này các đại đức, vị tỳ khưu này đã được hội chúng thực thi hành sự khiển trách có hình thức bên ngoài đúng Pháp có sự hợp nhất, vậy chúng ta hãy thực thi hành sự khiển trách đến vị này.” Các vị ấy thực thi hành sự khiển trách đến vị ấy sai Pháp theo phe nhóm. Vị ấy từ trú xứ ấy đi đến trú xứ khác. Tại nơi ấy, các vị tỳ khưu (bàn bạc) như vầy: “Này các đại đức, vị tỳ khưu này đã được hội chúng thực thi hành sự khiển trách sai Pháp theo phe nhóm, vậy chúng ta hãy thực thi hành sự khiển trách đến vị này.” Các vị ấy thực thi hành sự khiển trách đến vị ấy sai Pháp có sự hợp nhất. Vị ấy từ trú xứ ấy đi đến trú xứ khác. Tại nơi ấy, các vị tỳ khưu (bàn bạc) như vầy: “Này các đại đức, vị tỳ khưu này đã được hội chúng thực thi hành sự khiển trách sai Pháp có sự hợp nhất, vậy chúng ta hãy thực thi hành sự khiển trách đến vị này.” Các vị ấy thực thi hành sự khiển trách đến vị ấy đúng Pháp theo phe nhóm. Vị ấy từ trú xứ ấy đi đến trú xứ khác. Tại nơi ấy, các vị tỳ khưu (bàn bạc) như vầy: “Này các đại đức, vị tỳ khưu này đã được hội chúng thực thi hành sự khiển trách đúng Pháp theo phe nhóm, vậy chúng ta hãy thực thi hành sự khiển trách đến vị này.” Các vị ấy thực thi hành sự khiển trách đến vị ấy có hình thức bên ngoài đúng Pháp theo phe nhóm.
[209] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu là ngu si, thiếu kinh nghiệm, phạm nhiều tội, không chịu giải tội, năng thân cận giới tục gia, sống không nghiêm chỉnh lẫn lộn cùng người thế tục. Nếu ở đó, các vị tỳ khưu (bàn bạc) như vầy: “Này các đại đức, vị tỳ khưu này là ngu si, thiếu kinh nghiệm, phạm nhiều tội, không chịu giải tội, năng thân cận giới tục gia, sống không nghiêm chỉnh lẫn lộn cùng người thế tục, vậy chúng ta hãy thực thi hành sự chỉ dạy đến vị này.” Các vị ấy thực thi hành sự chỉ dạy đến vị ấy sai Pháp theo phe nhóm. Vị ấy từ trú xứ ấy đi đến trú xứ khác. Tại nơi ấy, các vị tỳ khưu (bàn bạc) như vầy: “Này các đại đức, vị tỳ khưu này đã được hội chúng thực thi hành sự chỉ dạy sai Pháp theo phe nhóm, vậy chúng ta hãy thực thi hành sự chỉ dạy đến vị này.” Các vị ấy thực thi hành sự chỉ dạy đến vị ấy sai Pháp có sự hợp nhất. …(như trên)… đúng Pháp theo phe nhóm, có hình thức bên ngoài đúng Pháp theo phe nhóm, có hình thức bên ngoài đúng Pháp có sự hợp nhất. (Nên thực hiện tròn đủ giống như ở phần bên dưới).
[210] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu là vị làm hư hỏng các gia đình và có hạnh kiểm xấu xa. Nếu ở đó, các vị tỳ khưu (bàn bạc) như vầy: “Này các đại đức, vị tỳ khưu này là vị làm hư hỏng các gia đình và có hạnh kiểm xấu xa, vậy chúng ta hãy thực thi hành sự xua đuổi đến vị này.” Các vị ấy thực thi hành sự xua đuổi đến vị ấy sai Pháp theo phe nhóm. Vị ấy từ trú xứ ấy đi đến trú xứ khác. Tại nơi ấy, các vị tỳ khưu (bàn bạc) như vầy: “Này các đại đức, vị tỳ khưu này đã được hội chúng thực thi hành sự xua đuổi sai Pháp theo phe nhóm, vậy chúng ta hãy thực thi hành sự xua đuổi đến vị này.” Các vị ấy thực thi hành sự xua đuổi đến vị ấy sai Pháp có sự hợp nhất. …(như trên)… đúng Pháp theo phe nhóm, có hình thức bên ngoài đúng Pháp theo phe nhóm, có hình thức bên ngoài đúng Pháp có sự hợp nhất. (Nên thực hiện tròn đủ).
[211] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu mắng nhiếc nói xấu các gia chủ. Nếu ở đó, các vị tỳ khưu (bàn bạc) như vầy: “Này các đại đức, vị tỳ khưu này mắng nhiếc nói xấu các gia chủ, vậy chúng ta hãy thực thi hành sự hòa giải đến vị này.” Các vị ấy thực thi hành sự hòa giải đến vị ấy sai Pháp theo phe nhóm. …(như trên)… sai Pháp có sự hợp nhất, đúng Pháp theo phe nhóm, có hình thức bên ngoài đúng Pháp theo phe nhóm, có hình thức bên ngoài đúng Pháp có sự hợp nhất. (Nên thực hiện tròn đủ).
[212] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu sau khi phạm tội lại không muốn nhìn nhận tội. Nếu ở đó, các vị tỳ khưu (bàn bạc) như vầy: “Này các đại đức, vị tỳ khưu này sau khi phạm tội lại không muốn nhìn nhận tội, vậy chúng ta hãy thực thi hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội đến vị này.” Các vị ấy thực thi hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội đến vị ấy sai Pháp theo phe nhóm. …(như trên)… sai Pháp có sự hợp nhất, đúng Pháp theo phe nhóm, có hình thức bên ngoài đúng Pháp theo phe nhóm, có hình thức bên ngoài đúng Pháp có sự hợp nhất. (Nên thực hiện tròn đủ).
Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu sau khi phạm tội lại không muốn sửa chữa lỗi. Nếu ở đó, các vị tỳ khưu (bàn bạc) như vầy: “Này các đại đức, vị tỳ khưu này sau khi phạm tội lại không muốn sửa chữa lỗi, vậy chúng ta hãy thực thi hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi đến vị này.” Các vị ấy thực thi hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi đến vị ấy sai Pháp theo phe nhóm. …(như trên)… sai Pháp có sự hợp nhất, đúng Pháp theo phe nhóm, có hình thức bên ngoài đúng Pháp theo phe nhóm, có hình thức bên ngoài đúng Pháp có sự hợp nhất. (Nên thực hiện tròn đủ).
Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu không muốn từ bỏ tà kiến ác. Nếu ở đó, các vị tỳ khưu (bàn bạc) như vầy: “Này các đại đức, vị tỳ khưu này không muốn từ bỏ tà kiến ác, vậy chúng ta hãy thực thi hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác đến vị này.” Các vị ấy thực thi hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác đến vị ấy sai Pháp theo phe nhóm. …(như trên)… sai Pháp có sự hợp nhất, đúng Pháp theo phe nhóm, có hình thức bên ngoài đúng Pháp theo phe nhóm, có hình thức bên ngoài đúng Pháp có sự hợp nhất. (Nên thực hiện tròn đủ).
[213] Này các tỳ khưu, trường hợp được hội chúng thực thi hành sự khiển trách, vị tỳ khưu làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, rồi cầu xin sự thu hồi hành sự khiển trách. Nếu ở đó, các vị tỳ khưu (bàn bạc) như vầy: “Này các đại đức, khi được hội chúng thực thi hành sự khiển trách, vị tỳ khưu này làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, giờ cầu xin sự thu hồi hành sự khiển trách, vậy chúng ta hãy thu hồi hành sự khiển trách cho vị này.” Các vị ấy thu hồi hành sự khiển trách cho vị ấy sai Pháp theo phe nhóm. Vị ấy từ trú xứ ấy đi đến trú xứ khác. Tại nơi ấy, các vị tỳ khưu (bàn bạc) như vầy: “Này các đại đức, vị tỳ khưu này đã được hội chúng thu hồi hành sự khiển trách sai Pháp theo phe nhóm, vậy chúng ta hãy thu hồi hành sự khiển trách cho vị này.” Các vị ấy thu hồi hành sự khiển trách cho vị ấy sai Pháp có sự hợp nhất. …(như trên)… đúng Pháp theo phe nhóm, có hình thức bên ngoài đúng Pháp theo phe nhóm, có hình thức bên ngoài đúng Pháp có sự hợp nhất.
Này các tỳ khưu, trường hợp được hội chúng thực thi hành sự khiển trách, vị tỳ khưu làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, rồi cầu xin sự thu hồi hành sự khiển trách. Nếu ở đó, các vị tỳ khưu (bàn bạc) như vầy: “Này các đại đức, khi được hội chúng thực thi hành sự khiển trách, vị tỳ khưu này làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, giờ cầu xin sự thu hồi hành sự khiển trách, vậy chúng ta hãy thu hồi hành sự khiển trách cho vị này.” Các vị ấy thu hồi hành sự khiển trách cho vị ấy sai Pháp có sự hợp nhất. …(như trên)… đúng Pháp theo phe nhóm, có hình thức bên ngoài đúng Pháp theo phe nhóm, có hình thức bên ngoài đúng Pháp có sự hợp nhất, sai Pháp theo phe nhóm.
Này các tỳ khưu, trường hợp được hội chúng thực thi hành sự khiển trách, vị tỳ khưu làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, rồi cầu xin sự thu hồi hành sự khiển trách. Nếu ở đó, các vị tỳ khưu (bàn bạc) như vầy: “Này các đại đức, khi được hội chúng thực thi hành sự khiển trách, vị tỳ khưu này làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, giờ cầu xin sự thu hồi hành sự khiển trách, vậy chúng ta hãy thu hồi hành sự khiển trách cho vị này.” Các vị ấy thu hồi hành sự khiển trách cho vị ấy đúng Pháp theo phe nhóm. …(như trên)… có hình thức bên ngoài đúng Pháp theo phe nhóm, có hình thức bên ngoài đúng Pháp có sự hợp nhất, sai Pháp theo phe nhóm, sai Pháp có sự hợp nhất.
Này các tỳ khưu, trường hợp được hội chúng thực thi hành sự khiển trách, vị tỳ khưu làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, rồi cầu xin sự thu hồi hành sự khiển trách. Nếu ở đó, các vị tỳ khưu (bàn bạc) như vầy: “Này các đại đức, khi được hội chúng thực thi hành sự khiển trách, vị tỳ khưu này làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, giờ cầu xin sự thu hồi hành sự khiển trách, vậy chúng ta hãy thu hồi hành sự khiển trách cho vị này.” Các vị ấy thu hồi hành sự khiển trách cho vị ấy có hình thức bên ngoài đúng Pháp theo phe nhóm. …(như trên)… có hình thức bên ngoài đúng Pháp có sự hợp nhất, sai Pháp theo phe nhóm, sai Pháp có sự hợp nhất, đúng Pháp theo phe nhóm.
Này các tỳ khưu, trường hợp được hội chúng thực thi hành sự khiển trách, vị tỳ khưu làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, rồi cầu xin sự thu hồi hành sự khiển trách. Nếu ở đó, các vị tỳ khưu (bàn bạc) như vầy: “Này các đại đức, khi được hội chúng thực thi hành sự khiển trách, vị tỳ khưu này làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, giờ cầu xin sự thu hồi hành sự khiển trách, vậy chúng ta hãy thu hồi hành sự khiển trách cho vị này.” Các vị ấy thu hồi hành sự khiển trách cho vị ấy có hình thức bên ngoài đúng Pháp có sự hợp nhất. …(như trên)… sai Pháp theo phe nhóm, sai Pháp có sự hợp nhất, đúng Pháp theo phe nhóm, có hình thức bên ngoài đúng Pháp theo phe nhóm.
[214] Này các tỳ khưu, trường hợp được hội chúng thực thi hành sự chỉ dạy, vị tỳ khưu làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, rồi cầu xin sự thu hồi hành sự chỉ dạy. Nếu ở đó, các vị tỳ khưu (bàn bạc) như vầy: “Này các đại đức, khi được hội chúng thực thi hành sự chỉ dạy, vị tỳ khưu này làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, giờ cầu xin sự thu hồi hành sự chỉ dạy, vậy chúng ta hãy thu hồi hành sự chỉ dạy cho vị này.” Các vị ấy thu hồi hành sự chỉ dạy cho vị ấy sai Pháp theo phe nhóm. …(như trên)… sai Pháp có sự hợp nhất, đúng Pháp theo phe nhóm, có hình thức bên ngoài đúng Pháp theo phe nhóm, có hình thức bên ngoài đúng Pháp có sự hợp nhất. (Nên thực hiện tròn đủ).
[215] Này các tỳ khưu, trường hợp được hội chúng thực thi hành sự xua đuổi, vị tỳ khưu làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, rồi cầu xin sự thu hồi hành sự xua đuổi. Nếu ở đó, các vị tỳ khưu (bàn bạc) như vầy: “Này các đại đức, khi được hội chúng thực thi hành sự xua đuổi, vị tỳ khưu này làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, giờ cầu xin sự thu hồi hành sự xua đuổi, vậy chúng ta hãy thu hồi hành sự xua đuổi cho vị này.” Các vị ấy thu hồi hành sự xua đuổi cho vị ấy sai Pháp theo phe nhóm. …(như trên)… sai Pháp có sự hợp nhất, đúng Pháp theo phe nhóm, có hình thức bên ngoài đúng Pháp theo phe nhóm, có hình thức bên ngoài đúng Pháp có sự hợp nhất. (Nên thực hiện tròn đủ).
[216] Này các tỳ khưu, trường hợp được hội chúng thực thi hành sự hòa giải, vị tỳ khưu làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, rồi cầu xin sự thu hồi hành sự hòa giải. Nếu ở đó, các vị tỳ khưu (bàn bạc) như vầy: “Này các đại đức, khi được hội chúng thực thi hành sự hòa giải, vị tỳ khưu này làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, giờ cầu xin sự thu hồi hành sự hòa giải, vậy chúng ta hãy thu hồi hành sự hòa giải cho vị này.” Các vị ấy thu hồi hành sự hòa giải cho vị ấy sai Pháp theo phe nhóm. …(như trên)… sai Pháp có sự hợp nhất, đúng Pháp theo phe nhóm, có hình thức bên ngoài đúng Pháp theo phe nhóm, có hình thức bên ngoài đúng Pháp có sự hợp nhất. (Nên thực hiện tròn đủ).
[217] Này các tỳ khưu, trường hợp được hội chúng thực thi hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội, vị tỳ khưu làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, rồi cầu xin sự thu hồi hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội. Nếu ở đó, các vị tỳ khưu (bàn bạc) như vầy: “Này các đại đức, khi được hội chúng thực thi hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội, vị tỳ khưu này làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, giờ cầu xin sự thu hồi hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội, vậy chúng ta hãy thu hồi hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội cho vị này.” Các vị ấy thu hồi hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội cho vị ấy sai Pháp theo phe nhóm. …(như trên)… sai Pháp có sự hợp nhất, đúng Pháp theo phe nhóm, có hình thức bên ngoài đúng Pháp theo phe nhóm, có hình thức bên ngoài đúng Pháp có sự hợp nhất. (Nên thực hiện tròn đủ).
Này các tỳ khưu, trường hợp được hội chúng thực thi hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi, vị tỳ khưu làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, rồi cầu xin sự thu hồi hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi. Nếu ở đó, các vị tỳ khưu (bàn bạc) như vầy: “Này các đại đức, khi được hội chúng thực thi hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi, vị tỳ khưu này làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, giờ cầu xin sự thu hồi hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi, vậy chúng ta hãy thu hồi hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi cho vị này.” Các vị ấy thu hồi hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi cho vị ấy sai Pháp theo phe nhóm. …(như trên)… sai Pháp có sự hợp nhất, đúng Pháp theo phe nhóm, có hình thức bên ngoài đúng Pháp theo phe nhóm, có hình thức bên ngoài đúng Pháp có sự hợp nhất. (Nên thực hiện tròn đủ).
Này các tỳ khưu, trường hợp được hội chúng thực thi hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác, vị tỳ khưu làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, rồi cầu xin sự thu hồi hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác. Nếu ở đó, các vị tỳ khưu (bàn bạc) như vầy: “Này các đại đức, khi được hội chúng thực thi hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác, vị tỳ khưu này làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, giờ cầu xin sự thu hồi hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác, vậy chúng ta hãy thu hồi hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác cho vị này.” Các vị ấy thu hồi hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác cho vị ấy sai Pháp theo phe nhóm. …(như trên)… sai Pháp có sự hợp nhất, đúng Pháp theo phe nhóm, có hình thức bên ngoài đúng Pháp theo phe nhóm, có hình thức bên ngoài đúng Pháp có sự hợp nhất. (Nên thực hiện tròn đủ).
[218] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu là vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng. Nếu ở đó, các vị tỳ khưu (bàn bạc) như vầy: “Này các đại đức, vị tỳ khưu này là vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng, vậy chúng ta hãy thực thi hành sự khiển trách đến vị này.” Các vị ấy thực thi hành sự khiển trách đến vị ấy sai Pháp theo phe nhóm. Ở tại nơi ấy, hội chúng tranh cãi rằng: “Hành sự sai Pháp theo phe nhóm, hành sự sai Pháp có sự hợp nhất, hành sự đúng Pháp theo phe nhóm, hành sự có hình thức bên ngoài đúng Pháp theo phe nhóm, hành sự có hình thức bên ngoài đúng Pháp có sự hợp nhất, hành sự chưa được thực hiện, hành sự đã được thực hiện sai, hành sự cần được thực hiện lại.” Này các tỳ khưu, tại đó các vị tỳ khưu nào đã nói như vầy: “Hành sự sai Pháp theo phe nhóm” và các vị tỳ khưu nào đã nói như vầy: “Hành sự chưa được thực hiện, hành sự đã được thực hiện sai, hành sự cần được thực hiện lại,” trong trường hợp này, các vị tỳ khưu ấy là các vị nói đúng Pháp.
[219] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu là vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng. Nếu ở đó, các vị tỳ khưu (bàn bạc) như vầy: “Này các đại đức, vị tỳ khưu này là vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng, vậy chúng ta hãy thực thi hành sự khiển trách đến vị này.” Các vị ấy thực thi hành sự khiển trách đến vị ấy sai Pháp có sự hợp nhất. Ở tại nơi ấy, hội chúng tranh cãi rằng: “Hành sự sai Pháp theo phe nhóm, hành sự sai Pháp có sự hợp nhất, hành sự đúng Pháp theo phe nhóm, hành sự có hình thức bên ngoài đúng Pháp theo phe nhóm, hành sự có hình thức bên ngoài đúng Pháp có sự hợp nhất, hành sự chưa được thực hiện, hành sự đã được thực hiện sai, hành sự cần được thực hiện lại.” Này các tỳ khưu, tại đó các vị tỳ khưu nào đã nói như vầy: “Hành sự sai Pháp có sự hợp nhất” và các vị tỳ khưu nào đã nói như vầy: “Hành sự chưa được thực hiện, hành sự đã được thực hiện sai, hành sự cần được thực hiện lại,” trong trường hợp này, các vị tỳ khưu ấy là các vị nói đúng Pháp.
[220] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu là vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng. Nếu ở đó, các vị tỳ khưu (bàn bạc) như vầy: “Này các đại đức, vị tỳ khưu này là vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng, vậy chúng ta hãy thực thi hành sự khiển trách đến vị này.” Các vị ấy thực thi hành sự khiển trách đến vị ấy đúng Pháp theo phe nhóm. Ở tại nơi ấy, hội chúng tranh cãi rằng: “Hành sự sai Pháp theo phe nhóm, hành sự sai Pháp có sự hợp nhất, hành sự đúng Pháp theo phe nhóm, hành sự có hình thức bên ngoài đúng Pháp theo phe nhóm, hành sự có hình thức bên ngoài đúng Pháp có sự hợp nhất, hành sự chưa được thực hiện, hành sự đã được thực hiện sai, hành sự cần được thực hiện lại.” Này các tỳ khưu, tại đó các vị tỳ khưu nào đã nói như vầy: “Hành sự đúng Pháp theo phe nhóm” và các vị tỳ khưu nào đã nói như vầy: “Hành sự chưa được thực hiện, hành sự đã được thực hiện sai, hành sự cần được thực hiện lại,” trong trường hợp này. các vị tỳ khưu ấy là các vị nói đúng Pháp.
[221] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu là vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng. Nếu ở đó, các vị tỳ khưu (bàn bạc) như vầy: “Này các đại đức, vị tỳ khưu này là vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng, vậy chúng ta hãy thực thi hành sự khiển trách đến vị này.” Các vị ấy thực thi hành sự khiển trách đến vị ấy có hình thức bên ngoài đúng Pháp theo phe nhóm. Ở tại nơi ấy, hội chúng tranh cãi rằng: “Hành sự sai Pháp theo phe nhóm, hành sự sai Pháp có sự hợp nhất, hành sự đúng Pháp theo phe nhóm, hành sự có hình thức bên ngoài đúng Pháp theo phe nhóm, hành sự có hình thức bên ngoài đúng Pháp có sự hợp nhất, hành sự chưa được thực hiện, hành sự đã được thực hiện sai, hành sự cần được thực hiện lại.” Này các tỳ khưu, tại đó các vị tỳ khưu nào đã nói như vầy: “Hành sự có hình thức bên ngoài đúng Pháp theo phe nhóm” và các vị tỳ khưu nào đã nói như vầy: “Hành sự chưa được thực hiện, hành sự đã được thực hiện sai, hành sự cần được thực hiện lại,” trong trường hợp này, các vị tỳ khưu ấy là các vị nói đúng Pháp.
[222] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu là vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng. Nếu ở đó, các vị tỳ khưu (bàn bạc) như vầy: “Này các đại đức, vị tỳ khưu này là vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng, vậy chúng ta hãy thực thi hành sự khiển trách đến vị này.” Các vị ấy thực thi hành sự khiển trách đến vị ấy có hình thức bên ngoài đúng Pháp có sự hợp nhất. Ở tại nơi ấy, hội chúng tranh cãi rằng: “Hành sự sai Pháp theo phe nhóm, hành sự sai Pháp có sự hợp nhất, hành sự đúng Pháp theo phe nhóm, hành sự có hình thức bên ngoài đúng Pháp theo phe nhóm, hành sự có hình thức bên ngoài đúng Pháp có sự hợp nhất, hành sự chưa được thực hiện, hành sự đã được thực hiện sai, hành sự cần được thực hiện lại.” Này các tỳ khưu, tại đó các vị tỳ khưu nào đã nói như vầy: “Hành sự có hình thức bên ngoài đúng Pháp có sự hợp nhất” và các vị tỳ khưu nào đã nói như vầy: “Hành sự chưa được thực hiện, hành sự đã được thực hiện sai, hành sự cần được thực hiện lại,” trong trường hợp này, các vị tỳ khưu ấy là các vị nói đúng Pháp.
[223] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu là ngu si, thiếu kinh nghiệm, phạm nhiều tội, không chịu giải tội, năng thân cận giới tục gia, sống không nghiêm chỉnh lẫn lộn cùng người thế tục. Nếu ở đó, các vị tỳ khưu (bàn bạc) như vầy: “Này các đại đức, vị tỳ khưu này là ngu si, thiếu kinh nghiệm, phạm nhiều tội, không chịu giải tội, năng thân cận giới tục gia, sống không nghiêm chỉnh lẫn lộn cùng người thế tục, vậy chúng ta hãy thực thi hành sự chỉ dạy đến vị này.” Các vị ấy thực thi hành sự chỉ dạy đến vị ấy sai Pháp theo phe nhóm. …(như trên)… sai Pháp có sự hợp nhất, đúng Pháp theo phe nhóm, có hình thức bên ngoài đúng Pháp theo phe nhóm, có hình thức bên ngoài đúng Pháp có sự hợp nhất. Ở tại nơi ấy, hội chúng tranh cãi rằng: “Hành sự sai Pháp theo phe nhóm, hành sự sai Pháp có sự hợp nhất, hành sự đúng Pháp theo phe nhóm, hành sự có hình thức bên ngoài đúng Pháp theo phe nhóm, hành sự có hình thức bên ngoài đúng Pháp có sự hợp nhất, hành sự chưa được thực hiện, hành sự đã được thực hiện sai, hành sự cần được thực hiện lại.” Này các tỳ khưu, tại đó các vị tỳ khưu nào đã nói như vầy: “Hành sự có hình thức bên ngoài đúng Pháp có sự hợp nhất” và các vị tỳ khưu nào đã nói như vầy: “Hành sự chưa được thực hiện, hành sự đã được thực hiện sai, hành sự cần được thực hiện lại,” trong trường hợp này, các vị tỳ khưu ấy là các vị nói đúng Pháp.
Năm trường hợp này đã được tóm lược lại.
[224] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu là vị làm hư hỏng các gia đình và có hạnh kiểm xấu xa. Nếu ở đó, các vị tỳ khưu (bàn bạc) như vầy: “Này các đại đức, vị tỳ khưu này là vị làm hư hỏng các gia đình và có hạnh kiểm xấu xa, vậy chúng ta hãy thực thi hành sự xua đuổi đến vị này.” Các vị ấy thực thi hành sự xua đuổi đến vị ấy sai Pháp theo phe nhóm. …(như trên)… sai Pháp có sự hợp nhất, đúng Pháp theo phe nhóm, có hình thức bên ngoài đúng Pháp theo phe nhóm, có hình thức bên ngoài đúng Pháp có sự hợp nhất. Ở tại nơi ấy, hội chúng tranh cãi rằng: “Hành sự sai Pháp theo phe nhóm, hành sự sai Pháp có sự hợp nhất, hành sự đúng Pháp theo phe nhóm, hành sự có hình thức bên ngoài đúng Pháp theo phe nhóm, hành sự có hình thức bên ngoài đúng Pháp có sự hợp nhất, hành sự chưa được thực hiện, hành sự đã được thực hiện sai, hành sự cần được thực hiện lại.” Này các tỳ khưu, tại đó các vị tỳ khưu nào đã nói như vầy: “Hành sự có hình thức bên ngoài đúng Pháp có sự hợp nhất” và các vị tỳ khưu nào đã nói như vầy: “Hành sự chưa được thực hiện, hành sự đã được thực hiện sai, hành sự cần được thực hiện lại,” trong trường hợp này, các vị tỳ khưu ấy là các vị nói đúng Pháp.
Năm trường hợp này đã được tóm lược lại.
[225] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu mắng nhiếc nói xấu các gia chủ. Nếu ở đó, các vị tỳ khưu (bàn bạc) như vầy: “Này các đại đức, vị tỳ khưu này mắng nhiếc nói xấu các gia chủ, vậy chúng ta hãy thực thi hành sự hòa giải đến vị này.” Các vị ấy thực thi hành sự hòa giải đến vị ấy sai Pháp theo phe nhóm. …(như trên)… sai Pháp có sự hợp nhất, đúng Pháp theo phe nhóm, có hình thức bên ngoài đúng Pháp theo phe nhóm, có hình thức bên ngoài đúng Pháp có sự hợp nhất. Ở tại nơi ấy, hội chúng tranh cãi rằng: “Hành sự sai Pháp theo phe nhóm, hành sự sai Pháp có sự hợp nhất, hành sự đúng Pháp theo phe nhóm, hành sự có hình thức bên ngoài đúng Pháp theo phe nhóm, hành sự có hình thức bên ngoài đúng Pháp có sự hợp nhất, hành sự chưa được thực hiện, hành sự đã được thực hiện sai, hành sự cần được thực hiện lại.” Này các tỳ khưu, tại đó các vị tỳ khưu nào đã nói như vầy: “Hành sự có hình thức bên ngoài đúng Pháp có sự hợp nhất” và các vị tỳ khưu nào đã nói như vầy: “Hành sự chưa được thực hiện, hành sự đã được thực hiện sai, hành sự cần được thực hiện lại,” trong trường hợp này, các vị tỳ khưu ấy là các vị nói đúng Pháp.
Năm trường hợp này đã được tóm lược lại.
[226] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu sau khi phạm tội lại không muốn nhìn nhận tội. Nếu ở đó, các vị tỳ khưu (bàn bạc) như vầy: “Này các đại đức, vị tỳ khưu này sau khi phạm tội lại không muốn nhìn nhận tội, vậy chúng ta hãy thực thi hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội đến vị này.” Các vị ấy thực thi hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội đến vị ấy sai Pháp theo phe nhóm. …(như trên)… sai Pháp có sự hợp nhất, đúng Pháp theo phe nhóm, có hình thức bên ngoài đúng Pháp theo phe nhóm, có hình thức bên ngoài đúng Pháp có sự hợp nhất. Ở tại nơi ấy, hội chúng tranh cãi rằng: “Hành sự sai Pháp theo phe nhóm, hành sự sai Pháp có sự hợp nhất, hành sự đúng Pháp theo phe nhóm, hành sự có hình thức bên ngoài đúng Pháp theo phe nhóm, hành sự có hình thức bên ngoài đúng Pháp có sự hợp nhất, hành sự chưa được thực hiện, hành sự đã được thực hiện sai, hành sự cần được thực hiện lại.” Này các tỳ khưu, tại đó các vị tỳ khưu nào đã nói như vầy: “Hành sự có hình thức bên ngoài đúng Pháp có sự hợp nhất” và các vị tỳ khưu nào đã nói như vầy: “Hành sự chưa được thực hiện, hành sự đã được thực hiện sai, hành sự cần được thực hiện lại,” trong trường hợp này, các vị tỳ khưu ấy là các vị nói đúng Pháp.
Năm trường hợp này đã được tóm lược lại.
Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu sau khi phạm tội lại không muốn sửa chữa lỗi. Nếu ở đó, các vị tỳ khưu (bàn bạc) như vầy: “Này các đại đức, vị tỳ khưu này sau khi phạm tội lại không muốn sửa chữa lỗi, vậy chúng ta hãy thực thi hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi đến vị này.” Các vị ấy thực thi hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi đến vị ấy sai Pháp theo phe nhóm. …(như trên)… sai Pháp có sự hợp nhất, đúng Pháp theo phe nhóm, có hình thức bên ngoài đúng Pháp theo phe nhóm, có hình thức bên ngoài đúng Pháp có sự hợp nhất. Ở tại nơi ấy, hội chúng tranh cãi rằng: “Hành sự sai Pháp theo phe nhóm, hành sự sai Pháp có sự hợp nhất, hành sự đúng Pháp theo phe nhóm, hành sự có hình thức bên ngoài đúng Pháp theo phe nhóm, hành sự có hình thức bên ngoài đúng Pháp có sự hợp nhất, hành sự chưa được thực hiện, hành sự đã được thực hiện sai, hành sự cần được thực hiện lại.” Này các tỳ khưu, tại đó các vị tỳ khưu nào đã nói như vầy: “Hành sự có hình thức bên ngoài đúng Pháp có sự hợp nhất” và các vị tỳ khưu nào đã nói như vầy: “Hành sự chưa được thực hiện, hành sự đã được thực hiện sai, hành sự cần được thực hiện lại,” trong trường hợp này, các vị tỳ khưu ấy là các vị nói đúng Pháp.
Năm trường hợp này đã được tóm lược lại.
Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu không muốn từ bỏ tà kiến ác. Nếu ở đó, các vị tỳ khưu (bàn bạc) như vầy: “Này các đại đức, vị tỳ khưu này không muốn từ bỏ tà kiến ác, vậy chúng ta hãy thực thi hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác đến vị này.” Các vị ấy thực thi hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác đến vị ấy sai Pháp theo phe nhóm. …(như trên)… sai Pháp có sự hợp nhất, đúng Pháp theo phe nhóm, có hình thức bên ngoài đúng Pháp theo phe nhóm, có hình thức bên ngoài đúng Pháp có sự hợp nhất. Ở tại nơi ấy, hội chúng tranh cãi rằng: “Hành sự sai Pháp theo phe nhóm, hành sự sai Pháp có sự hợp nhất, hành sự đúng Pháp theo phe nhóm, hành sự có hình thức bên ngoài đúng Pháp theo phe nhóm, hành sự có hình thức bên ngoài đúng Pháp có sự hợp nhất, hành sự chưa được thực hiện, hành sự đã được thực hiện sai, hành sự cần được thực hiện lại.” Này các tỳ khưu, tại đó các vị tỳ khưu nào đã nói như vầy: “Hành sự có hình thức bên ngoài đúng Pháp có sự hợp nhất” và các vị tỳ khưu nào đã nói như vầy: “Hành sự chưa được thực hiện, hành sự đã được thực hiện sai, hành sự cần được thực hiện lại,” trong trường hợp này, các vị tỳ khưu ấy là các vị nói đúng Pháp.
Năm trường hợp này đã được tóm lược lại.
[227] Này các tỳ khưu, trường hợp được hội chúng thực thi hành sự khiển trách, vị tỳ khưu làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, rồi cầu xin sự thu hồi hành sự khiển trách. Nếu ở đó, các vị tỳ khưu (bàn bạc) như vầy: “Này các đại đức, khi được hội chúng thực thi hành sự khiển trách, vị tỳ khưu này làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, giờ cầu xin sự thu hồi hành sự khiển trách, vậy chúng ta hãy thu hồi hành sự khiển trách cho vị này.” Các vị ấy thu hồi hành sự khiển trách cho vị ấy sai Pháp theo phe nhóm. Ở tại nơi ấy, hội chúng tranh cãi rằng: “Hành sự sai Pháp theo phe nhóm, hành sự sai Pháp có sự hợp nhất, hành sự đúng Pháp theo phe nhóm, hành sự có hình thức bên ngoài đúng Pháp theo phe nhóm, hành sự có hình thức bên ngoài đúng Pháp có sự hợp nhất, hành sự chưa được thực hiện, hành sự đã được thực hiện sai, hành sự cần được thực hiện lại.” Này các tỳ khưu, tại đó các vị tỳ khưu nào đã nói như vầy: “Hành sự sai Pháp theo phe nhóm” và các vị tỳ khưu nào đã nói như vầy: “Hành sự chưa được thực hiện, hành sự đã được thực hiện sai, hành sự cần được thực hiện lại,” trong trường hợp này, các vị tỳ khưu ấy là các vị nói đúng Pháp.
[228] Này các tỳ khưu, trường hợp được hội chúng thực thi hành sự khiển trách, vị tỳ khưu làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, rồi cầu xin sự thu hồi hành sự khiển trách. Nếu ở đó, các vị tỳ khưu (bàn bạc) như vầy: “Này các đại đức, khi được hội chúng thực thi hành sự khiển trách, vị tỳ khưu này làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, giờ cầu xin sự thu hồi hành sự khiển trách, vậy chúng ta hãy thu hồi hành sự khiển trách cho vị này.” Các vị ấy thu hồi hành sự khiển trách cho vị ấy sai Pháp có sự hợp nhất. Ở tại nơi ấy, hội chúng tranh cãi rằng: “Hành sự sai Pháp theo phe nhóm, hành sự sai Pháp có sự hợp nhất, hành sự đúng Pháp theo phe nhóm, hành sự có hình thức bên ngoài đúng Pháp theo phe nhóm, hành sự có hình thức bên ngoài đúng Pháp có sự hợp nhất, hành sự chưa được thực hiện, hành sự đã được thực hiện sai, hành sự cần được thực hiện lại.” Này các tỳ khưu, tại đó các vị tỳ khưu nào đã nói như vầy: “Hành sự sai Pháp có sự hợp nhất” và các vị tỳ khưu nào đã nói như vầy: “Hành sự chưa được thực hiện, hành sự đã được thực hiện sai, hành sự cần được thực hiện lại,” trong trường hợp này, các vị tỳ khưu ấy là các vị nói đúng Pháp.
[229] Này các tỳ khưu, trường hợp được hội chúng thực thi hành sự khiển trách, vị tỳ khưu làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, rồi cầu xin sự thu hồi hành sự khiển trách. Nếu ở đó, các vị tỳ khưu (bàn bạc) như vầy: “Này các đại đức, khi được hội chúng thực thi hành sự khiển trách, vị tỳ khưu này làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, giờ cầu xin sự thu hồi hành sự khiển trách, vậy chúng ta hãy thu hồi hành sự khiển trách cho vị này.” Các vị ấy thu hồi hành sự khiển trách cho vị ấy đúng Pháp theo phe nhóm. Ở tại nơi ấy, hội chúng tranh cãi rằng: “Hành sự sai Pháp theo phe nhóm, hành sự sai Pháp có sự hợp nhất, hành sự đúng Pháp theo phe nhóm, hành sự có hình thức bên ngoài đúng Pháp theo phe nhóm, hành sự có hình thức bên ngoài đúng Pháp có sự hợp nhất, hành sự chưa được thực hiện, hành sự đã được thực hiện sai, hành sự cần được thực hiện lại.” Này các tỳ khưu, tại đó các vị tỳ khưu nào đã nói như vầy: “Hành sự đúng Pháp theo phe nhóm” và các vị tỳ khưu nào đã nói như vầy: “Hành sự chưa được thực hiện, hành sự đã được thực hiện sai, hành sự cần được thực hiện lại,” trong trường hợp này, các vị tỳ khưu ấy là các vị nói đúng Pháp.
[230] Này các tỳ khưu, trường hợp được hội chúng thực thi hành sự khiển trách, vị tỳ khưu làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, rồi cầu xin sự thu hồi hành sự khiển trách. Nếu ở đó, các vị tỳ khưu (bàn bạc) như vầy: “Này các đại đức, khi được hội chúng thực thi hành sự khiển trách, vị tỳ khưu này làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, giờ cầu xin sự thu hồi hành sự khiển trách, vậy chúng ta hãy thu hồi hành sự khiển trách cho vị này.” Các vị ấy thu hồi hành sự khiển trách cho vị ấy có hình thức bên ngoài đúng Pháp theo phe nhóm. Ở tại nơi ấy, hội chúng tranh cãi rằng: “Hành sự sai Pháp theo phe nhóm, hành sự sai Pháp có sự hợp nhất, hành sự đúng Pháp theo phe nhóm, hành sự có hình thức bên ngoài đúng Pháp theo phe nhóm, hành sự có hình thức bên ngoài đúng Pháp có sự hợp nhất, hành sự chưa được thực hiện, hành sự đã được thực hiện sai, hành sự cần được thực hiện lại.” Này các tỳ khưu, tại đó các vị tỳ khưu nào đã nói như vầy: “Hành sự có hình thức bên ngoài đúng Pháp theo phe nhóm” và các vị tỳ khưu nào đã nói như vầy: “Hành sự chưa được thực hiện, hành sự đã được thực hiện sai, hành sự cần được thực hiện lại,” trong trường hợp này, các vị tỳ khưu ấy là các vị nói đúng Pháp.
[231] Này các tỳ khưu, trường hợp được hội chúng thực thi hành sự khiển trách, vị tỳ khưu làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, rồi cầu xin sự thu hồi hành sự khiển trách. Nếu ở đó, các vị tỳ khưu (bàn bạc) như vầy: “Này các đại đức, khi được hội chúng thực thi hành sự khiển trách, vị tỳ khưu này làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, giờ cầu xin sự thu hồi hành sự khiển trách, vậy chúng ta hãy thu hồi hành sự khiển trách cho vị này.” Các vị ấy thu hồi hành sự khiển trách cho vị ấy có hình thức bên ngoài đúng Pháp có sự hợp nhất. Ở tại nơi ấy, hội chúng tranh cãi rằng: “Hành sự sai Pháp theo phe nhóm, hành sự sai Pháp có sự hợp nhất, hành sự đúng Pháp theo phe nhóm, hành sự có hình thức bên ngoài đúng Pháp theo phe nhóm, hành sự có hình thức bên ngoài đúng Pháp có sự hợp nhất, hành sự chưa được thực hiện, hành sự đã được thực hiện sai, hành sự cần được thực hiện lại.” Này các tỳ khưu, tại đó các vị tỳ khưu nào đã nói như vầy: “Hành sự có hình thức bên ngoài đúng Pháp có sự hợp nhất” và các vị tỳ khưu nào đã nói như vầy: “Hành sự chưa được thực hiện, hành sự đã được thực hiện sai, hành sự cần được thực hiện lại,” trong trường hợp này, các vị tỳ khưu ấy là các vị nói đúng Pháp.
[232] Này các tỳ khưu, trường hợp được hội chúng thực thi hành sự chỉ dạy, vị tỳ khưu làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, rồi cầu xin sự thu hồi hành sự chỉ dạy. Nếu ở đó, các vị tỳ khưu (bàn bạc) như vầy: “Này các đại đức, khi được hội chúng thực thi hành sự chỉ dạy, vị tỳ khưu này làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, giờ cầu xin sự thu hồi hành sự chỉ dạy, vậy chúng ta hãy thu hồi hành sự chỉ dạy cho vị này.” Các vị ấy thu hồi hành sự chỉ dạy cho vị ấy sai Pháp theo phe nhóm. …(như trên)… sai Pháp có sự hợp nhất, đúng Pháp theo phe nhóm, có hình thức bên ngoài đúng Pháp theo phe nhóm, có hình thức bên ngoài đúng Pháp có sự hợp nhất. Ở tại nơi ấy, hội chúng tranh cãi rằng: “Hành sự sai Pháp theo phe nhóm, hành sự sai Pháp có sự hợp nhất, hành sự đúng Pháp theo phe nhóm, hành sự có hình thức bên ngoài đúng Pháp theo phe nhóm, hành sự có hình thức bên ngoài đúng Pháp có sự hợp nhất, hành sự chưa được thực hiện, hành sự đã được thực hiện sai, hành sự cần được thực hiện lại.” Này các tỳ khưu, tại đó các vị tỳ khưu nào đã nói như vầy: “Hành sự có hình thức bên ngoài đúng Pháp có sự hợp nhất” và các vị tỳ khưu nào đã nói như vầy: “Hành sự chưa được thực hiện, hành sự đã được thực hiện sai, hành sự cần được thực hiện lại,” trong trường hợp này, các vị tỳ khưu ấy là các vị nói đúng Pháp.
Năm trường hợp này đã được tóm lược lại.
[233] Này các tỳ khưu, trường hợp được hội chúng thực thi hành sự xua đuổi, vị tỳ khưu làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, rồi cầu xin sự thu hồi hành sự xua đuổi. Nếu ở đó, các vị tỳ khưu (bàn bạc) như vầy: “Này các đại đức, khi được hội chúng thực thi hành sự xua đuổi, vị tỳ khưu này làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, giờ cầu xin sự thu hồi hành sự xua đuổi, vậy chúng ta hãy thu hồi hành sự xua đuổi cho vị này.” Các vị ấy thu hồi hành sự xua đuổi cho vị ấy sai Pháp theo phe nhóm. …(như trên)… sai Pháp có sự hợp nhất, đúng Pháp theo phe nhóm, có hình thức bên ngoài đúng Pháp theo phe nhóm, có hình thức bên ngoài đúng Pháp có sự hợp nhất. Ở tại nơi ấy, hội chúng tranh cãi rằng: “Hành sự sai Pháp theo phe nhóm, hành sự sai Pháp có sự hợp nhất, hành sự đúng Pháp theo phe nhóm, hành sự có hình thức bên ngoài đúng Pháp theo phe nhóm, hành sự có hình thức bên ngoài đúng Pháp có sự hợp nhất, hành sự chưa được thực hiện, hành sự đã được thực hiện sai, hành sự cần được thực hiện lại.” Này các tỳ khưu, tại đó các vị tỳ khưu nào đã nói như vầy: “Hành sự có hình thức bên ngoài đúng Pháp có sự hợp nhất” và các vị tỳ khưu nào đã nói như vầy: “Hành sự chưa được thực hiện, hành sự đã được thực hiện sai, hành sự cần được thực hiện lại,” trong trường hợp này, các vị tỳ khưu ấy là các vị nói đúng Pháp.
Năm trường hợp này đã được tóm lược lại.
[234] Này các tỳ khưu, trường hợp được hội chúng thực thi hành sự hòa giải, vị tỳ khưu làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, rồi cầu xin sự thu hồi hành sự hòa giải. Nếu ở đó, các vị tỳ khưu (bàn bạc) như vầy: “Này các đại đức, khi được hội chúng thực thi hành sự hòa giải, vị tỳ khưu này làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, giờ cầu xin sự thu hồi hành sự hòa giải, vậy chúng ta hãy thu hồi hành sự hòa giải cho vị này.” Các vị ấy thu hồi hành sự chỉ dạy cho vị ấy sai Pháp theo phe nhóm. …(như trên)… sai Pháp có sự hợp nhất, đúng Pháp theo phe nhóm, có hình thức bên ngoài đúng Pháp theo phe nhóm, có hình thức bên ngoài đúng Pháp có sự hợp nhất. Ở tại nơi ấy, hội chúng tranh cãi rằng: “Hành sự sai Pháp theo phe nhóm, hành sự sai Pháp có sự hợp nhất, hành sự đúng Pháp theo phe nhóm, hành sự có hình thức bên ngoài đúng Pháp theo phe nhóm, hành sự có hình thức bên ngoài đúng Pháp có sự hợp nhất, hành sự chưa được thực hiện, hành sự đã được thực hiện sai, hành sự cần được thực hiện lại.” Này các tỳ khưu, tại đó các vị tỳ khưu nào đã nói như vầy: “Hành sự có hình thức bên ngoài đúng Pháp có sự hợp nhất” và các vị tỳ khưu nào đã nói như vầy: “Hành sự chưa được thực hiện, hành sự đã được thực hiện sai, hành sự cần được thực hiện lại,” trong trường hợp này, các vị tỳ khưu ấy là các vị nói đúng Pháp.
Năm trường hợp này đã được tóm lược lại.
[235] Này các tỳ khưu, trường hợp được hội chúng thực thi hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội, vị tỳ khưu làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, rồi cầu xin sự thu hồi hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội. Nếu ở đó, các vị tỳ khưu (bàn bạc) như vầy: “Này các đại đức, khi được hội chúng thực thi hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội, vị tỳ khưu này làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, giờ cầu xin sự thu hồi hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội, vậy chúng ta hãy thu hồi hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội cho vị này.” Các vị ấy thu hồi hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội cho vị ấy sai Pháp theo phe nhóm. …(như trên)… sai Pháp có sự hợp nhất, đúng Pháp theo phe nhóm, có hình thức bên ngoài đúng Pháp theo phe nhóm, có hình thức bên ngoài đúng Pháp có sự hợp nhất. Ở tại nơi ấy, hội chúng tranh cãi rằng: “Hành sự sai Pháp theo phe nhóm, hành sự sai Pháp có sự hợp nhất, hành sự đúng Pháp theo phe nhóm, hành sự có hình thức bên ngoài đúng Pháp theo phe nhóm, hành sự có hình thức bên ngoài đúng Pháp có sự hợp nhất, hành sự chưa được thực hiện, hành sự đã được thực hiện sai, hành sự cần được thực hiện lại.” Này các tỳ khưu, tại đó các vị tỳ khưu nào đã nói như vầy: “Hành sự có hình thức bên ngoài đúng Pháp có sự hợp nhất” và các vị tỳ khưu nào đã nói như vầy: “Hành sự chưa được thực hiện, hành sự đã được thực hiện sai, hành sự cần được thực hiện lại,” trong trường hợp này, các vị tỳ khưu ấy là các vị nói đúng Pháp.
Năm trường hợp này đã được tóm lược lại.
Này các tỳ khưu, trường hợp được hội chúng thực thi hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi, vị tỳ khưu làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, rồi cầu xin sự thu hồi hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi. Nếu ở đó, các vị tỳ khưu (bàn bạc) như vầy: “Này các đại đức, khi được hội chúng thực thi hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi, vị tỳ khưu này làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, giờ cầu xin sự thu hồi hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi, vậy chúng ta hãy thu hồi hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi cho vị này.” Các vị ấy thu hồi hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi cho vị ấy sai Pháp theo phe nhóm. …(như trên)… sai Pháp có sự hợp nhất, đúng Pháp theo phe nhóm, có hình thức bên ngoài đúng Pháp theo phe nhóm, có hình thức bên ngoài đúng Pháp có sự hợp nhất. Ở tại nơi ấy, hội chúng tranh cãi rằng: “Hành sự sai Pháp theo phe nhóm, hành sự sai Pháp có sự hợp nhất, hành sự đúng Pháp theo phe nhóm, hành sự có hình thức bên ngoài đúng Pháp theo phe nhóm, hành sự có hình thức bên ngoài đúng Pháp có sự hợp nhất, hành sự chưa được thực hiện, hành sự đã được thực hiện sai, hành sự cần được thực hiện lại.” Này các tỳ khưu, tại đó các vị tỳ khưu nào đã nói như vầy: “Hành sự có hình thức bên ngoài đúng Pháp có sự hợp nhất” và các vị tỳ khưu nào đã nói như vầy: “Hành sự chưa được thực hiện, hành sự đã được thực hiện sai, hành sự cần được thực hiện lại,” trong trường hợp này, các vị tỳ khưu ấy là các vị nói đúng Pháp.
Năm trường hợp này đã được tóm lược lại.
[236] Này các tỳ khưu, trường hợp được hội chúng thực thi hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác, vị tỳ khưu làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, rồi cầu xin sự thu hồi hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác. Nếu ở đó, các vị tỳ khưu (bàn bạc) như vầy: “Này các đại đức, khi được hội chúng thực thi hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác, vị tỳ khưu này làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, giờ cầu xin sự thu hồi hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác, vậy chúng ta hãy thu hồi hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác cho vị này.” Các vị ấy thu hồi hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác cho vị ấy sai Pháp theo phe nhóm. …(như trên)… sai Pháp có sự hợp nhất, đúng Pháp theo phe nhóm, có hình thức bên ngoài đúng Pháp theo phe nhóm, có hình thức bên ngoài đúng Pháp có sự hợp nhất. Ở tại nơi ấy, hội chúng tranh cãi rằng: “Hành sự sai Pháp theo phe nhóm, hành sự sai Pháp có sự hợp nhất, hành sự đúng Pháp theo phe nhóm, hành sự có hình thức bên ngoài đúng Pháp theo phe nhóm, hành sự có hình thức bên ngoài đúng Pháp có sự hợp nhất, hành sự chưa được thực hiện, hành sự đã được thực hiện sai, hành sự cần được thực hiện lại.” Này các tỳ khưu, tại đó các vị tỳ khưu nào đã nói như vầy: “Hành sự có hình thức bên ngoài đúng Pháp có sự hợp nhất” và các vị tỳ khưu nào đã nói như vầy: “Hành sự chưa được thực hiện, hành sự đã được thực hiện sai, hành sự cần được thực hiện lại,” trong trường hợp này, các vị tỳ khưu ấy là các vị nói đúng Pháp.
Năm trường hợp này đã được tóm lược lại.
Chương Campā là chương thứ chín.
Trong chương này có ba mươi sáu sự kiện.
*******
Tóm lược chương này:
[237]
Đức Thế Tôn đã ngự
ở trong xứ Campā
chuyện làng Vasabha
vị ấy đã nỗ lực
ước muốn khách vãng lai.
“Các vị biết được làm”
biết rồi, kể từ đây
không ra sức nỗ lực
“Treo tội vị không làm.”
Vị ấy đến bên Phật,
hành sự không đúng Pháp
lại còn phe nhóm nữa,
hợp nhất và sai Pháp,
đúng Pháp và phe nhóm,
hình thức đúng phe nhóm,
hình thức đúng hợp nhất,
một treo tội một vị,
một treo hai, nhiều vị,
một treo cả hội chúng.
Bậc Toàn Tri hàng đầu
nghe qua liền bác bỏ:
“Hành sự là sai Pháp.”
Hành sự thiếu đề nghị
và đủ lời khẳng định,
thiếu đi lời khẳng định
nhưng có lời đề nghị,
cả hai đều khiếm khuyết,
và đối nghịch Chánh Pháp,
và không theo đúng Luật,
bậc Đạo Sư chê trách,
có thể sửa đổi lại,
không đáng được duy trì.
Sai Pháp theo phe nhóm,
sai Pháp có hợp nhất,
hai hình thức đúng pháp,
và Như Lai chấp nhận
đúng Pháp có hợp nhất.
Nhóm bốn, nhóm năm vị,
nhóm mười, và hai mươi,
và nhóm hơn hai mươi
như thế là hội chúng
có được năm hình thức.
Ngoại trừ tu bậc trên,
và hành sự Tự Tứ,
với công việc phục vị,
thuộc hành sự nhóm bốn.
Trừ đi hai hành sự:
tu bậc trên trung độ
phục vị, thuộc nhóm năm.
Tất cả mọi hành sự
trừ mỗi việc phục vị
thuộc nhóm mười tỳ khưu.
Thực hiện mọi hành sự
hội chúng có hai mươi
thực thi được mọi chỗ.
Tỳ khưu ni, học nữ,
sa di, sa di ni,
xả giới, tội cực nặng,
án treo không thấy tội,
không sửa đổi, tà kiến,
vô căn, trộm tướng mạo,
ngoại đạo, loài thú vật,
giết mẹ, cha, La Hán,
làm xấu tỳ khưu ni,
chia rẽ, chảy máu Phật,
lưỡng căn, khác cộng trú,
khác ranh giới, thần thông,
hội chúng đang thực thi
hành sự chính vị ấy,
các thứ là hai mươi
đấng Toàn Giác phủ nhận
chúng không đủ lập nhóm.
Vị pārivāsa
chính là vị thứ tư
ban hành phạt biệt trú,
cho trở lại từ đầu,
hành phạt mānatta,
hoặc là sự phục vị,
không phải là hành sự,
và không nên thực hành.
Vị xứng trở lại đầu,
hành phạt mānatta,
xứng đáng sự phục vị,
đức Toàn Giác giảng rõ
năm hạng không hành sự.
Tỳ khưu ni, học nữ,
sa di, sa di ni,
xả giới, tội cực nặng,
án treo không thấy tội,
không sửa đổi, tà kiến,
vô căn, trộm tướng mạo,
ngoại đạo, loài thú vật,
giết mẹ, cha, La Hán,
làm xấu tỳ khưu ni,
chia rẽ, chảy máu Phật,
lưỡng căn, khác cộng trú,
khác ranh giới, thần thông,
hội chúng đang thực thi
hành sự chính vị ấy,
hai mươi bảy người này
phản đối không hiệu qủa,
của tỳ khưu bình thường
lời phản đối giá trị.
Mời ra vị trong sạch
là sai, còn vị dốt
là đã mời ra đúng.
Phục hồi kẻ vô căn,
trộm tướng mạo (tỳ khưu),
theo ngoại đạo, thú vật,
giết mẹ, cha, La Hán,
làm xấu, chia rẽ chúng,
và đổ máu đức Phật,
và thêm người lưỡng căn,
cả mười một người này,
không đáng sự phục hồi.
Tay, chân, hoặc cả hai,
tai, mũi, hoặc cả hai,
ngón tai, móng, và gân,
tay liền ngón, gù lưng,
lùn tịt, và bướu cổ,
bị đóng dấu, roi đánh,
bị ghi tên, chân phù,
bệnh nặng, và chột mắt,
tật tứ chi, khập khiễng,
và bị liệt nửa người,
không đi đứng, già yếu,
mù lòa, câm, và điếc,
mù câm, và mù điếc,
và luôn cả câm điếc,
hoặc cả mù câm điếc,
hết thảy ba mươi hai,
phục hồi các vị ấy,
đấng Toàn Giác đã giảng.
Không có không thấy được,
không sửa đổi, không bỏ,
hành án treo vị ấy,
bảy trường hợp sai Pháp.
Đã phạm, chịu sửa đổi
bảy trường hợp sai Pháp,
đã phạm, không hành theo
bảy trường hợp đúng Pháp.
Hiện diện, có tra hỏi,
thực hành theo thú nhận,
có niệm, không si mê,
theo tội, nên khiển trách,
nên xua đuổi, hòa giải,
án treo, và biệt trú,
cho trở lại từ đầu,
hành phạt mānatta,
giải tội, tu bậc trên,
tội này, phạt tội khác,
mười sáu việc sai Pháp,
tội nào xử tội nấy,
thực thi tội đúng người
mười sáu việc đúng Pháp.
Tương xứng, nếu đổi lại,
mười sáu là sai Pháp.
Theo gốc ấy từng cặp,
đã làm đến vị ấy,
mười sáu là đúng Pháp,
mỗi một gốc tròn đủ,
“là hành sự sai Pháp”
bậc Chiến Thắng đã dạy.
Hội chúng đã thực thi
loại hành sự khiển trách
là vị gây cãi cọ,
hành sự không đúng Pháp,
theo nhóm đã ra đi
đến nơi trú xứ khác,
họ hành sự vị ấy
loại khiển trách như vậy
sai Pháp có hợp nhất,
ở một nơi khác nữa,
họ hành sự vị ấy
loại khiển trách như vậy
đúng Pháp theo phe nhóm,
cũng thế, họ hành sự
có hình thức phe nhóm
nhưng được sự hợp nhất,
sai Pháp có hợp nhất.,
đúng Pháp theo phe nhóm,
có hình thức phe nhóm,
và các trường hợp này
có được sự hợp nhất,
thực hiện mỗi một gốc
khéo léo buộc tròn vòng.
Ngu si, thiếu kinh nghiệm
là hành sự chỉ dạy,
làm xấu các gia đình
là (hành sự) xua đuổi,
và hành sự hòa giải
làm cho vị chửi mắng,
không thấy không sửa đổi,
vị không bỏ tà kiến,
hành án treo các vị
bậc Đạo Sư giảng rồi.
Trí tuệ các hành sự
khuôn mẫu ở phần trên,
bậc trí nên áp dụng
vào hành sự khiển trách.
Các vị đã phù hợp,
thực hành được đúng đắn
vị nêu lên cầu thỉnh
thâu hồi các hành sự
của các vị theo đúng
như hành sự dưới đây.
Ở đây vị tranh cãi
hành sự nơi này nọ,
“Chưa làm và làm sai,
cần phải được làm lại,”
trong thâu hồi hành sự
các vị tỳ khưu ấy
các vị nói đúng Pháp.
Đại Hiền sĩ thấy được
việc thành tựu hành sự
bị khiếm khuyết hư hỏng
vị ấy bảo thâu hồi
như một nhà phẩu thuật
chỉ dạy về phương thuốc.
X. CHƯƠNG KOSAMBĪ
(KOSAMBIKKHANDHAKAṂ)
[238] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại Kosambī, tu viện Ghosita. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ phạm tội. Vị ấy có quan điểm về tội ấy là có tội còn các tỳ khưu khác có quan điểm về tội ấy là vô tội. Vào một lúc khác, vị ấy có quan điểm về tội ấy là vô tội còn các tỳ khưu khác có quan điểm về tội ấy là có tội. Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đã nói với vị tỳ khưu ấy điều này:
– Này đại đức, đại đức đã phạm tội, đại đức có thấy tội ấy không?
– Này các đại đức, không có tội gì ở tôi để tôi có thể thấy.
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã đạt được sự hợp nhất và phạt án treo vị tỳ khưu ấy trong việc không nhìn nhận tội. Và vị tỳ khưu ấy là vị nghe nhiều, kinh điển được truyền thừa, rành rẽ về Pháp, rành rẽ về Luật, rành rẽ về các đầu đề, là bậc trí tuệ, có khả năng, thông minh, khiêm nhường, có hối hận, ưa thích sự học tập. Khi ấy, vị tỳ khưu ấy đã đi đến gặp các tỳ khưu thân thiết đồng quan điểm và đã nói điều này:
– Này các đại đức, điều ấy là vô tội, điều ấy không phải là tội. Tôi là không phạm (tội), tôi không phải là phạm (tội). Tôi là không bị án treo, tôi không phải là bị án treo, tôi đã bị án treo bởi hành sự sai Pháp, có thể sửa đổi, không đáng duy trì. Vì Pháp vì Luật, các đại đức hãy về phe của tôi.
Rồi vị tỳ khưu ấy đã có được các tỳ khưu thân thiết đồng quan điểm về cùng phe. Vị ấy cũng đã phái sứ giả đến gặp các vị tỳ khưu thân thiết đồng quan điểm trong cả nước (nói rằng): “Này các đại đức, điều ấy là vô tội, điều ấy không phải là tội. Tôi là không phạm (tội), tôi không phải là phạm (tội). Tôi là không bị án treo, tôi không phải là bị án treo, tôi đã bị án treo bởi hành sự sai Pháp, có thể sửa đổi, không đáng duy trì. Vì Pháp vì Luật, các đại đức hãy về phe của tôi.” Rồi vị tỳ khưu ấy đã có được các vị tỳ khưu thân thiết đồng quan điểm trong cả nước về cùng phe.
Sau đó, các tỳ khưu ủng hộ vị bị án treo ấy đã đi đến gặp các tỳ khưu đã ban án treo, sau khi đến đã nói với các tỳ khưu đã ban án treo điều này:
– Này các đại đức, điều ấy là vô tội, điều ấy không phải là tội. Vị tỳ khưu ấy là không phạm (tội), vị tỳ khưu ấy không phải là phạm (tội). Vị tỳ khưu ấy là không bị án treo, vị tỳ khưu ấy không phải là bị án treo, vị tỳ khưu ấy đã bị án treo bởi hành sự sai Pháp, có thể sửa đổi, không đáng duy trì.
Khi được nói như thế, các tỳ khưu đã ban án treo đã nói với các tỳ khưu ủng hộ vị bị án treo điều này:
– Điều ấy là có tội, điều ấy không phải là vô tội. Vị tỳ khưu ấy là phạm (tội), vị tỳ khưu ấy không phải là không phạm (tội). Vị tỳ khưu ấy đã bị án treo, vị tỳ khưu ấy không phải là không bị án treo, vị tỳ khưu ấy đã bị án treo bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì. Này các đại đức, chớ có ủng hộ, chớ có theo phe vị tỳ khưu đã bị án treo ấy.
Trong khi các tỳ khưu đã ban án treo nói như thế, các tỳ khưu ủng hộ vị bị án treo ấy cũng đã ủng hộ và đã theo phe vị tỳ khưu đã bị án treo ấy y như trước đây.
[239] Sau đó, có vị tỳ khưu nọ đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, vị tỳ khưu ấy đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, trường hợp có vị tỳ khưu nọ đã phạm tội, vị ấy đã có quan điểm về tội ấy là có tội còn các vị tỳ khưu khác đã có quan điểm về tội ấy là vô tội. Vào một lúc khác, vị ấy đã có quan điểm về tội ấy là vô tội còn các vị tỳ khưu khác đã có quan điểm về tội ấy là có tội. Bạch ngài, khi ấy các vị tỳ khưu ấy đã nói với vị tỳ khưu ấy điều này: “Này đại đức, đại đức đã phạm tội, đại đức có thấy tội ấy không?” “Này các đại đức, không có tội gì ở tôi để tôi có thể thấy.” Bạch ngài, sau đó các vị tỳ khưu ấy đã đạt được sự hợp nhất và đã phạt án treo vị tỳ khưu ấy trong việc không nhìn nhận tội. Và bạch ngài, vị tỳ khưu ấy là vị nghe nhiều, kinh điển được truyền thừa, rành rẽ về Pháp, rành rẽ về Luật, rành rẽ về các đầu đề, là bậc trí tuệ, có khả năng, thông minh, khiêm nhường, có hối hận, ưa thích sự học tập. Bạch ngài, khi ấy vị tỳ khưu ấy đã đi đến gặp các tỳ khưu thân thiết đồng quan điểm và đã nói điều này: “Này các đại đức, điều ấy là vô tội, điều ấy không phải là tội. Tôi là không phạm (tội), tôi không phải là phạm (tội). Tôi là không bị án treo, tôi không phải là bị án treo, tôi đã bị án treo bởi hành sự sai Pháp, có thể sửa đổi, không đáng duy trì. Vì Pháp vì Luật, các đại đức hãy về phe của tôi.” Bạch ngài, rồi vị tỳ khưu ấy đã có được các tỳ khưu thân thiết đồng quan điểm về cùng phe. Vị ấy cũng đã phái sứ giả đến gặp trực tiếp các tỳ khưu thân thiết đồng quan điểm trong cả nước (nói rằng): “Này các đại đức, điều ấy là vô tội, điều ấy không phải là tội. Tôi là không phạm (tội), tôi không phải là phạm (tội). Tôi là không bị án treo, tôi không phải là bị án treo, tôi đã bị án treo bởi hành sự sai Pháp, có thể sửa đổi, không đáng duy trì. Vì Pháp vì Luật, các đại đức hãy về phe của tôi.” Bạch ngài, rồi vị tỳ khưu ấy đã có được các tỳ khưu thân thiết đồng quan điểm trong cả nước về cùng phe. Bạch ngài, sau đó các tỳ khưu ủng hộ vị bị án treo ấy đã đi đến gặp các tỳ khưu đã ban án treo, sau khi đến đã nói với các tỳ khưu đã ban án treo điều này: “Này các đại đức, điều ấy là vô tội, điều ấy không phải là tội. Vị tỳ khưu ấy là không phạm (tội), vị tỳ khưu ấy không phải là phạm (tội). Vị tỳ khưu ấy là không bị án treo, vị tỳ khưu ấy không phải là bị án treo, vị tỳ khưu ấy đã bị án treo bởi hành sự sai Pháp, có thể sửa đổi, không đáng duy trì.” Bạch ngài, khi được nói như thế các tỳ khưu đã ban án treo đã nói với các tỳ khưu ủng hộ vị bị án treo điều này: “Điều ấy là có tội, điều ấy không phải là vô tội. Vị tỳ khưu ấy là phạm (tội), vị tỳ khưu ấy không phải là không phạm (tội). Vị tỳ khưu ấy đã bị án treo, vị tỳ khưu ấy không phải là không bị án treo, vị tỳ khưu ấy đã bị án treo bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì. Này các đại đức, chớ có ủng hộ, chớ có theo phe vị tỳ khưu đã bị án treo ấy.” Bạch ngài, trong khi các tỳ khưu đã ban án treo nói như thế, các tỳ khưu ủng hộ vị bị án treo ấy cũng đã ủng hộ và đã theo phe vị tỳ khưu đã bị án treo y như trước đây.
Khi ấy, đức Thế Tôn (nghĩ rằng): “Hội chúng tỳ khưu đã bị chia rẽ! Hội chúng tỳ khưu đã bị chia rẽ!” rồi đã từ chỗ ngồi đứng dậy đi đến gặp các vị tỳ khưu đã ban án treo, sau khi đến đã ngồi xuống trên chỗ ngồi được sắp đặt sẵn. Sau khi ngồi xuống, đức Thế Tôn đã nói với các vị tỳ khưu đã ban án treo điều này:
– Này các tỳ khưu, các ngươi chớ có nghĩ rằng vị tỳ khưu nên được ban án treo trong mọi trường hợp (lập luận rằng): “Đối với chúng tôi, điều ấy là rõ ràng! Đối với chúng tôi, điều ấy là rõ ràng!” Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm tội, vị ấy có quan điểm về tội ấy là vô tội còn các tỳ khưu khác có quan điểm về tội ấy là có tội. Này các tỳ khưu, nếu các tỳ khưu ấy nghĩ về vị tỳ khưu ấy như vầy: “Vị đại đức này là vị nghe nhiều, …(như trên)…, là vị ưa thích sự học tập. Nếu chúng ta sẽ ban án treo trong việc không nhìn nhận tội cho vị tỳ khưu này, chúng ta sẽ không thực hành lễ Uposatha (Bố Tát) với vị tỳ khưu này, chúng ta sẽ thực hành lễ Uposatha không có vị tỳ khưu này; từ nguyên nhân ấy, hội chúng sẽ có sự xung đột, sự cãi cọ, sự lý luận, sự tranh luận, sự chia rẽ hội chúng, sự bất đồng trong hội chúng, sự đấu khẩu trong hội chúng, sự khác biệt trong hội chúng.” Này các tỳ khưu, các tỳ khưu có quan tâm về sự chia rẽ không nên ban án treo trong việc không nhìn nhận tội đến vị tỳ khưu ấy.
Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm tội, vị ấy có quan điểm về tội ấy là vô tội còn các tỳ khưu khác có quan điểm về tội ấy là có tội. Này các tỳ khưu, nếu các tỳ khưu ấy nghĩ về vị tỳ khưu ấy như vầy: “Vị đại đức này là vị nghe nhiều, …(như trên)…, là vị ưa thích sự học tập. Nếu chúng ta sẽ ban án treo trong việc không nhìn nhận tội cho vị tỳ khưu này, chúng ta sẽ không thực hành lễ Pavāraṇā (Tự Tứ) với vị tỳ khưu này, chúng ta sẽ thực hành lễ Pavāraṇā không có vị tỳ khưu này, chúng ta sẽ không làm hành sự của hội chúng với vị tỳ khưu này, chúng ta sẽ làm hành sự của hội chúng không có vị tỳ khưu này, chúng ta sẽ không ngồi chung chỗ ngồi với vị tỳ khưu này, chúng ta sẽ ngồi ở chỗ ngồi không có vị tỳ khưu này, chúng ta sẽ không ngồi ăn cháo với vị tỳ khưu này, chúng ta sẽ ngồi ăn cháo không có vị tỳ khưu này, chúng ta sẽ không ngồi trong nhà ăn với vị tỳ khưu này, chúng ta sẽ ngồi trong nhà ăn không có vị tỳ khưu này, chúng ta sẽ không trú trong một mái che với vị tỳ khưu này, chúng ta sẽ trú trong một mái che không có vị tỳ khưu này, chúng ta sẽ không thực hiện sự đảnh lễ, sự đứng dậy chào, sự chắp tay, hành động thích hợp theo sự thâm niên với vị tỳ khưu này, chúng ta sẽ thực hiện sự đảnh lễ, sự đứng dậy chào, sự chắp tay, hành động thích hợp theo sự thâm niên không với vị tỳ khưu này; từ nguyên nhân ấy, hội chúng sẽ có sự xung đột, sự cãi cọ, sự lý luận, sự tranh luận, sự chia rẽ hội chúng, sự bất đồng trong hội chúng, sự đấu khẩu trong hội chúng, sự khác biệt trong hội chúng.” Này các tỳ khưu, các tỳ khưu có quan tâm về sự chia rẽ không nên ban án treo trong việc không nhìn nhận tội đến vị tỳ khưu ấy.
Sau đó, khi đã giảng giải sự việc ấy cho các tỳ khưu đã ban án treo, đức Thế Tôn đã từ chỗ ngồi đứng dậy đi đến gặp các tỳ khưu ủng hộ vị bị án treo, sau khi đến đã ngồi xuống trên chỗ ngồi được sắp đặt sẵn. Sau khi ngồi xuống, đức Thế Tôn đã nói với các tỳ khưu ủng hộ vị bị án treo điều này:
– Này các tỳ khưu, các ngươi sau khi phạm tội chớ có nghĩ rằng không nên sửa chữa lỗi (cho rằng): “Chúng tôi không phạm! Chúng tôi không phạm!” Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm tội, vị ấy có quan điểm về tội ấy là vô tội còn các tỳ khưu khác có quan điểm về tội ấy là có tội. Này các tỳ khưu, nếu vị tỳ khưu ấy nghĩ về các tỳ khưu kia như vầy: “Các vị đại đức này là các vị nghe nhiều, …(như trên)…, là các vị ưa thích sự học tập, không thể nào vì nguyên nhân là ta hay vì nguyên nhân là vị khác (mà các vị ấy) bị chi phối bởi sự ưa thích, bởi sự sân hận, bởi sự si mê, bởi sự sợ hãi. Nếu các vị tỳ khưu này ban án treo trong việc không nhìn nhận tội đến ta, các vị sẽ không thực hành lễ Uposatha với ta, các vị sẽ thực hành lễ Uposatha không có ta; từ nguyên nhân ấy, hội chúng sẽ có sự xung đột, sự cãi cọ, sự lý luận, sự tranh luận, sự chia rẽ hội chúng, sự bất đồng trong hội chúng, sự đấu khẩu trong hội chúng, sự khác biệt trong hội chúng.” Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu có quan tâm về sự chia rẽ nên sám hối tội ấy vì niềm tin của các vị khác.
Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm tội. Vị ấy có quan điểm về tội ấy là vô tội còn các tỳ khưu khác có quan điểm về tội ấy là có tội. Này các tỳ khưu, nếu vị tỳ khưu ấy nghĩ về các tỳ khưu kia như vầy: “Các vị đại đức này là các vị nghe nhiều, …(như trên)…, là các vị ưa thích sự học tập, không thể nào vì nguyên nhân là ta hay vì nguyên nhân là vị khác (mà các vị ấy) bị chi phối bởi sự ưa thích, bởi sự sân hận, bởi sự si mê, bởi sự sợ hãi. Nếu các vị tỳ khưu này ban án treo trong việc không nhìn nhận tội đến ta, các vị sẽ không thực hành lễ Pavāraṇā với ta, các vị sẽ thực hành lễ Pavāraṇā không có ta, các vị sẽ không làm hành sự của hội chúng với ta, các vị sẽ làm hành sự của hội chúng không có ta, các vị sẽ không ngồi chung chỗ ngồi với ta, các vị sẽ ngồi ở chỗ ngồi không có ta, các vị sẽ không ngồi ăn cháo với ta, các vị sẽ ngồi ăn cháo không có ta, các vị sẽ không ngồi trong nhà ăn với ta, các vị sẽ ngồi trong nhà ăn không có ta, các vị sẽ không trú trong một mái che với ta, các vị sẽ trú trong một mái che không có ta, các vị sẽ không thực hiện sự đảnh lễ, sự đứng dậy chào, sự chắp tay, hành động thích hợp theo sự thâm niên với ta, các vị sẽ thực hiện sự đảnh lễ, sự đứng dậy chào, sự chắp tay, hành động thích hợp theo sự thâm niên không với ta; từ nguyên nhân ấy, hội chúng sẽ có sự xung đột, sự cãi cọ, sự lý luận, sự tranh luận, sự chia rẽ hội chúng, sự bất đồng trong hội chúng, sự đấu khẩu trong hội chúng, sự khác biệt trong hội chúng.” Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu có quan tâm về sự chia rẽ nên sám hối tội ấy vì niềm tin của các vị khác.
Sau đó, khi đã giảng giải sự việc ấy cho các tỳ khưu ủng hộ vị bị án treo, đức Thế Tôn đã từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi.
[240] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ủng hộ vị bị án treo đã tiến hành lễ Uposatha và làm hành sự của hội chúng ngay tại nơi ấy bên trong ranh giới. Còn các tỳ khưu đã ban án treo đi ra khỏi ranh giới rồi mới tiến hành lễ Uposatha và làm hành sự của hội chúng. Sau đó, có vị tỳ khưu nọ (thuộc phe) đã ban án treo đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, vị tỳ khưu ấy đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, các tỳ khưu ủng hộ vị bị án treo ấy đã tiến hành lễ Uposatha và làm hành sự của hội chúng ngay tại nơi ấy bên trong ranh giới. Bạch ngài, còn chúng con là các tỳ khưu đã ban án treo phải đi ra khỏi ranh giới rồi mới tiến hành lễ Uposatha và làm hành sự của hội chúng.
– Này tỳ khưu, nếu các tỳ khưu ủng hộ vị bị án treo ấy tiến hành lễ Uposatha và làm hành sự của hội chúng ngay tại nơi ấy bên trong ranh giới, các hành sự ấy của các vị ấy sẽ là đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì theo như lời đề nghị và các lời khẳng định đã được ta quy định. Này tỳ khưu, nếu các tỳ khưu đã ban án treo các ngươi tiến hành lễ Uposatha và làm hành sự của hội chúng ngay tại nơi ấy bên trong ranh giới, các hành sự ấy của các ngươi sẽ là đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì theo như lời đề nghị và các lời khẳng định đã được ta quy định. Nguyên nhân của việc ấy là gì? Này tỳ khưu, các vị ấy là không đồng cộng trú với các ngươi và các ngươi là không đồng cộng trú với các vị ấy.
Này tỳ khưu, có hai nền tảng của việc không đồng cộng trú: Tự bản thân thực hiện việc không đồng cộng trú cho bản thân hoặc là hội chúng hợp nhất ban án treo vị ấy trong việc không nhìn nhận (tội), hoặc trong việc không sửa chữa (lỗi), hoặc trong việc không từ bỏ (tà kiến ác). Này tỳ khưu, đây là hai nền tảng của việc không đồng cộng trú.
Này tỳ khưu, có hai nền tảng của việc đồng cộng trú: Tự bản thân thực hiện việc đồng cộng trú cho bản thân hoặc là hội chúng hợp nhất phục hồi cho vị đã bị án treo trong việc không nhìn nhận (tội), hoặc trong việc không sửa chữa (lỗi), hoặc trong việc không từ bỏ (tà kiến ác). Này tỳ khưu, đây là hai nền tảng của việc đồng cộng trú.
[241] Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu gây ra xung đột, gây ra cãi cọ, đưa đến tranh luận lẫn nhau ở trong nhà ăn, nơi xóm nhà thể hiện thân nghiệp khẩu nghiệp không thích hợp rồi đánh nhau. [1] Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Tại sao các sa-môn Thích tử gây ra xung đột, gây ra cãi cọ, đưa đến tranh luận lẫn nhau ở trong nhà ăn, nơi xóm nhà lại thể hiện thân nghiệp khẩu nghiệp không thích hợp rồi lại đánh nhau nữa?
Các tỳ khưu đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Vì sao các tỳ khưu gây ra xung đột, …(như trên)… ở trong nhà ăn, nơi xóm nhà lại thể hiện thân nghiệp khẩu nghiệp không thích hợp rồi lại đánh nhau nữa?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu gây ra xung đột, …(như trên)… ở trong nhà ăn, nơi xóm nhà thể hiện thân nghiệp khẩu nghiệp không thích hợp rồi đánh nhau nữa, có đúng không vậy?
– Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
…(như trên)… Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, khi hội chúng bị chia rẽ, trong khi hành xử sai Pháp đưa đến việc không hài hòa thì nên ngồi xuống chỗ ngồi (nghĩ rằng): “Ít ra chúng ta sẽ không thể hiện thân nghiệp khẩu nghiệp không thích hợp với nhau, chúng ta sẽ không đánh nhau.” Này các tỳ khưu, khi hội chúng bị chia rẽ, trong khi hành xử đúng Pháp đưa đến việc hài hòa, thì nên ngồi xuống chỗ ngồi kế cận nhau.
[242] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu gây ra xung đột, gây ra cãi cọ, đưa đến tranh luận giữa hội chúng sống châm chích lẫn nhau bằng sức mạnh của mồm miệng. Các vị ấy không thể giải quyết được sự tranh tụng ấy. Khi ấy, có vị tỳ khưu nọ đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi đứng ở một bên. Khi đã đứng ở một bên, vị tỳ khưu ấy đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, ở đây các tỳ khưu gây ra xung đột, gây ra cãi cọ, đưa đến tranh luận giữa hội chúng sống châm chích lẫn nhau bằng sức mạnh của mồm miệng. Các vị ấy không thể giải quyết được sự tranh tụng ấy. Bạch ngài, tốt thay xin đức Thế Tôn vì lòng thương xót hãy đi đến gặp các tỳ khưu ấy.
Đức Thế Tôn đã nhận lời bằng thái độ im lặng. Sau đó, đức Thế Tôn đã đi đến gặp các tỳ khưu ấy, sau khi đến đã ngồi xuống trên chỗ ngồi được sắp đặt sẵn. Sau khi ngồi xuống, đức Thế Tôn đã nói với các tỳ khưu ấy điều này:
– Này các tỳ khưu, thôi đủ rồi. Chớ có (gây ra) sự xung đột, sự cãi cọ, sự lý luận, sự tranh luận nữa.
Khi được nói như thế, có vị tỳ khưu nọ là vị nói sai Pháp đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, xin đức Thế Tôn là bậc Pháp Chủ hãy chờ đợi. Bạch ngài, xin đức Thế Tôn bớt lo nghĩ, hãy sống gắn bó với việc trú vào an lạc trong đời hiện tại; chúng con sẽ làm cho rõ ràng bằng sự xung đột, bằng sự cãi cọ, bằng sự lý luận, và bằng sự tranh luận này.
Đến lần thứ nhì, đức Thế Tôn đã nói với các tỳ khưu ấy điều này:
– Này các tỳ khưu, thôi đủ rồi. Chớ có (gây ra) sự xung đột, sự cãi cọ, sự lý luận, sự tranh luận nữa.
Đến lần thứ nhì, vị tỳ khưu là vị nói sai Pháp ấy đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, xin đức Thế Tôn là bậc Pháp Chủ hãy chờ đợi. Bạch ngài, xin đức Thế Tôn bớt lo nghĩ, hãy sống gắn bó với việc trú vào an lạc trong đời hiện tại; chúng con sẽ làm cho rõ ràng bằng sự xung đột, bằng sự cãi cọ, bằng sự lý luận, và bằng sự tranh luận này.
[243] Khi ấy, đức Thế Tôn đã bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, trong thời quá khứ ở thành Bārāṇasī (Ba La Nại) đức vua của xứ Kāsī tên Brahmadatta là giàu sang, có nhiều tài sản, nhiều của cải, có binh lực vĩ đại, nhiều xe cộ, lãnh thổ rộng lớn, có các kho hàng và vựa lúa đầy ắp. Còn đức vua xứ Kosala tên Dīghīti thì nghèo, có ít tài sản, ít của cải, có binh lực kém, ít xe cộ, lãnh thổ bé, có các kho hàng và vựa lúa không đầy. Này các tỳ khưu, khi ấy đức vua Brahmadatta xứ Kāsī đã dàn trận đội quân gồm bốn loại binh chủng và đối đầu với đức vua Dīghīti xứ Kosala. Này các tỳ khưu, đức vua Dīghīti xứ Kosala đã nghe rằng: “Nghe nói đức vua Brahmadatta xứ Kāsī đã dàn trận đội quân gồm bốn loại binh chủng và đối đầu với ta.” Khi ấy, đức vua Dīghīti xứ Kosala đã khởi ý điều này: “Đức vua Brahmadatta xứ Kāsī là giàu sang, có nhiều tài sản, nhiều của cải, có binh lực vĩ đại, nhiều xe cộ, lãnh thổ rộng lớn, có các kho hàng và vựa lúa đầy ắp, còn ta thì nghèo, có ít tài sản, ít của cải, có binh lực kém, ít xe cộ, lãnh thổ bé, có các kho hàng và vựa lúa không đầy. Ta không có khả năng để chịu đựng chỉ một cuộc tấn công của đức vua Brahmadatta xứ Kāsī, hay là ta nên bỏ chạy khỏi thành phố trước?” Này các tỳ khưu, khi ấy đức vua Dīghīti xứ Kosala đã đem theo hoàng hậu và bỏ chạy khỏi thành phố trước. Này các tỳ khưu, sau đó đức vua Brahmadatta xứ Kāsī đã chiến thắng và làm chủ binh lực, xe cộ, xứ sở, kho hàng, và vựa lúa của đức vua Dīghīti xứ Kosala.
Này các tỳ khưu, khi ấy đức vua Dīghīti xứ Kosala cùng người vợ đã ra đi về phía thành Bārāṇasī, tuần tự đã đến sống ở thành Bārāṇasī. Này các tỳ khưu, tại đó ở khu vực ngoại ô nọ nơi thành Bārāṇasī, đức vua Dīghīti xứ Kosala cùng với người vợ ngụ trong nhà của người làm đồ gốm dưới hình thức khác là cải trang thành du sĩ. Này các tỳ khưu, sau đó chẳng bao lâu hoàng hậu của đức vua Dīghīti xứ Kosala đã mang thai. Nàng khởi lên niềm khao khát có hình thức như vầy: Nàng mong muốn vào lúc mặt trời mọc nhìn thấy đội quân gồm bốn loại binh chủng vũ trang, dàn trận, đứng ở trên mặt đất bằng phẳng và được uống nước rửa đao kiếm. Này các tỳ khưu, khi ấy hoàng hậu của đức vua Dīghīti xứ Kosala đã nói với đức vua Dīghīti xứ Kosala điều này: “Tâu bệ hạ, thiếp đang mang thai. Thiếp đây khởi lên niềm khao khát có hình thức như vầy: Thiếp mong muốn vào lúc mặt trời mọc nhìn thấy đội quân gồm bốn loại binh chủng vũ trang, dàn trận, đứng ở trên mặt đất bằng phẳng và được uống nước rửa đao kiếm.” “Này ái hậu, trong lúc chúng ta đang lâm cảnh khốn cùng thì lấy đâu ra đội quân gồm bốn loại binh chủng vũ trang, dàn trận, đứng ở trên mặt đất bằng phẳng và nước rửa đao kiếm.” “Tâu bệ hạ, nếu không đạt được thì thiếp sẽ chết mất.”
Này các tỳ khưu, vào lúc bấy giờ vị bà-la-môn giữ chức tế tự của đức vua Brahmadatta xứ Kāsī là bạn của đức vua Dīghīti xứ Kosala. Này các tỳ khưu, khi ấy đức vua Dīghīti xứ Kosala đã đi đến gặp vị bà-la-môn giữ chức tế tự của đức vua Brahmadatta xứ Kāsī, sau khi đến đã nói với vị bà-la-môn giữ chức tế tự của đức vua Brahmadatta xứ Kāsī điều này: “Này bạn, (hoàng hậu) người bạn gái của bạn đang mang thai. Nàng khởi lên niềm khao khát có hình thức như vầy: Nàng mong muốn vào lúc mặt trời mọc nhìn thấy đội quân gồm bốn loại binh chủng vũ trang, dàn trận, đứng ở trên mặt đất bằng phẳng và được uống nước rửa đao kiếm.” “Tâu bệ hạ, như thế thì chúng ta hãy gặp hoàng hậu.” Này các tỳ khưu, khi ấy hoàng hậu của đức vua Dīghīti xứ Kosala đã đi đến gặp vị bà-la-môn giữ chức tế tự của đức vua Brahmadatta xứ Kāsī. Này các tỳ khưu, rồi vị bà-la-môn giữ chức tế tự của đức vua Brahmadatta xứ Kāsī đã nhìn thấy hoàng hậu của đức vua Dīghīti xứ Kosala từ đàng xa đang đi lại, sau khi nhìn thấy đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp thượng y một bên vai, chắp tay cúi chào hoàng hậu của đức vua Dīghīti xứ Kosala và đã ba lần thốt lên lời cảm hứng rằng: “Quả đúng là vua xứ Kosala đã nhập thai! Quả đúng là vua xứ Kosala đã nhập thai!” (rồi nói rằng): “Tâu hoàng hậu, xin chớ lo âu, vào lúc mặt trời mọc hoàng hậu sẽ được nhìn thấy đội quân gồm bốn loại binh chủng vũ trang, dàn trận, đứng ở trên mặt đất bằng phẳng và được uống nước rửa đao kiếm.”
Này các tỳ khưu, sau đó vị bà-la-môn giữ chức tế tự của đức vua Brahmadatta xứ Kāsī đã đi đến gặp đức vua Brahmadatta xứ Kāsī, sau khi đến đã nói với đức vua Brahmadatta xứ Kāsī điều này: “Tâu bệ hạ, theo như các điềm báo hiệu cho thấy: Ngày mai vào lúc mặt trời mọc, đội quân gồm bốn loại binh chủng vũ trang, dàn trận hãy đứng ở trên mặt đất bằng phẳng và các đao kiếm hãy được rửa.” Này các tỳ khưu, sau đó đức vua Brahmadatta xứ Kāsī đã ra lệnh cho mọi người rằng: “Này các khanh, vị bà-la-môn giữ chức tế tự nói như thế nào thì các khanh hãy làm theo như thế ấy.”
Này các tỳ khưu, rồi vào lúc mặt trời mọc hoàng hậu của đức vua Dīghīti xứ Kosala đã được nhìn thấy đội quân gồm bốn loại binh chủng vũ trang, dàn trận, đứng ở trên mặt đất bằng phẳng và được uống nước rửa đao kiếm. Này các tỳ khưu, sau đó khi bào thai ấy đã được phát triển đầy đủ, hoàng hậu của đức vua Dīghīti xứ Kosala đã sanh ra người con trai. Đứa bé đã được đặt tên là Dīghāvu. Này các tỳ khưu, sau đó chẳng bao lâu hoàng tử Dīghāvu đã đạt được sự hiểu biết. Này các tỳ khưu, khi ấy đức vua Dīghīti xứ Kosala đã khởi ý điều này: “Đức vua Brahmadatta xứ Kāsī này là người đã làm nhiều việc thất lợi cho chúng ta. Binh lực, xe cộ, xứ sở, kho hàng, và vựa lúa của chúng ta đã bị người này chiếm đoạt. Nếu người này biết được chúng ta thì sẽ ra lệnh giết chết luôn cả ba. Hay là ta nên cho hoàng tử Dīghāvu sống ở bên ngoài thành phố?” Này các tỳ khưu, khi ấy đức vua Dīghīti xứ Kosala đã cho hoàng tử Dīghāvu sống ở bên ngoài thành phố. Này các tỳ khưu, sau đó chẳng bao lâu hoàng tử Dīghāvu trong khi sống ở bên ngoài thành phố đã học được tất cả các tài nghệ.
[244] Này các tỳ khưu, vào lúc bấy giờ người thợ hớt tóc của đức vua Dīghīti xứ Kosala sống (dưới quyền hạn) của đức vua Brahmadatta xứ Kāsī. Này các tỳ khưu, người thợ hớt tóc của đức vua Dīghīti xứ Kosala đã nhìn thấy đức vua Dīghīti xứ Kosala cùng với người vợ đang sống ở khu vực ngoại ô nọ nơi thành Bārāṇasī, trong nhà của người làm đồ gốm dưới hình thức khác là cải trang thành du sĩ, sau khi nhìn thấy đã đi đến gặp đức vua Brahmadatta xứ Kāsī, sau khi đến đã nói với đức vua Brahmadatta xứ Kāsī điều này: “Tâu bệ hạ, đức vua Dīghīti xứ Kosala cùng với người vợ đang sống ở khu vực ngoại ô nọ nơi thành Bārāṇasī, trong nhà của người làm đồ gốm dưới hình thức khác là cải trang thành du sĩ.” Này các tỳ khưu, khi ấy đức vua Brahmadatta xứ Kāsī đã ra lệnh cho mọi người rằng: “Này các khanh, như thế thì hãy dẫn đức vua Dīghīti xứ Kosala cùng với người vợ đến.” “Tâu bệ hạ, xin vâng.” Này các tỳ khưu, rồi những người ấy nghe theo đức vua Brahmadatta xứ Kāsī đã dẫn đức vua Dīghīti xứ Kosala cùng với người vợ đến.
Này các tỳ khưu, khi ấy đức vua Brahmadatta xứ Kāsī đã ra lệnh cho mọi người rằng: “Này các khanh, như thế thì hãy trói chặt đức vua Dīghīti xứ Kosala cùng với người vợ ở hai tay vào phía sau bằng dây thừng chắc chắn, cạo trọc đầu, rồi dẫn đi quanh từ đường phố này sang đường phố khác, từ giao lộ này sang giao lộ khác với tiếng trống có âm thanh inh ỏi, sau khi đưa đi ra bằng cổng thành phía nam, hãy chặt thành bốn khúc ngay tại cổng thành phía nam, rồi quăng bỏ các phần ấy ở bốn hướng.” “Tâu bệ hạ, xin vâng.” Này các tỳ khưu, rồi những người ấy nghe theo đức vua Brahmadatta xứ Kāsī đã trói chặt đức vua Dīghīti xứ Kosala cùng với người vợ bằng dây thừng chắc chắn, cạo trọc đầu, rồi dẫn đi quanh từ đường phố này sang đường phố khác, từ giao lộ này sang giao lộ khác với tiếng trống có âm thanh inh ỏi.
Này các tỳ khưu, khi ấy hoàng tử Dīghāvu đã khởi ý điều này: “Đã lâu, ta không được nhìn thấy mẹ và cha, hay là ta nên gặp mẹ và cha?” Này các tỳ khưu, khi ấy hoàng tử Dīghāvu đã đi vào thành Bārāṇasī và nhìn thấy mẹ và cha bị trói chặt ở hai tay vào phía sau bằng dây thừng chắc chắn, bị cạo trọc đầu, và đang bị dẫn đi quanh từ đường phố này sang đường phố khác, từ giao lộ này sang giao lộ khác với tiếng trống có âm thanh inh ỏi, sau khi nhìn thấy đã đi đến gặp mẹ và cha.
Này các tỳ khưu, đức vua Dīghīti xứ Kosala đã nhìn thấy hoàng tử Dīghāvu từ đàng xa đang đi lại, sau khi thấy đã nói với hoàng tử Dīghāvu điều này: “Này Dīghāvu thương, con hãy nhìn chớ có xa, chớ có gần. Này Dīghāvu thương, bởi vì các sự thù hận không được làm lắng dịu bởi thù hận. Này Dīghāvu thương, chính vì không thù hận mà các sự thù hận được lắng dịu.” Này các tỳ khưu, khi được nói như thế những người ấy đã nói với đức vua Dīghīti xứ Kosala điều này: “Đức vua Dīghīti xứ Kosala này là người điên nên nói nhảm. Ai là Dīghāvu của ông ta? Ông ta đã nói với ai như vầy: ‘Này Dīghāvu thương, con hãy nhìn chớ có xa, chớ có gần. Này Dīghāvu thương, bởi vì các sự thù hận không được làm lắng dịu bởi thù hận. Này Dīghāvu thương, chính vì không thù hận mà các sự thù hận được lắng dịu’?” “Này các khanh, ta không là người điên mà nói nhảm. Tuy nhiên, người nào thông minh thì người ấy sẽ hiểu được rõ ràng.” Này các tỳ khưu, đến lần thứ nhì …(như trên)… Này các tỳ khưu, đến lần thứ ba đức vua Dīghīti xứ Kosala đã nói với hoàng tử Dīghāvu điều này: “Này Dīghāvu thương, con hãy nhìn chớ có xa, chớ có gần. Này Dīghāvu thương, bởi vì các sự thù hận không được làm lắng dịu bởi thù hận. Này Dīghāvu thương, chính vì không thù hận mà các sự thù hận được lắng dịu.” Này các tỳ khưu, đến lần thứ ba những người ấy đã nói với đức vua Dīghīti xứ Kosala điều này: “Đức vua Dīghīti xứ Kosala này là người điên nên nói nhảm. Ai là Dīghāvu của ông ta? Ông ta đã nói với ai như vầy: ‘Này Dīghāvu thương, con hãy nhìn chớ có xa, chớ có gần. Này Dīghāvu thương, bởi vì các sự thù hận không được làm lắng dịu bởi thù hận. Này Dīghāvu thương, chính vì không thù hận mà các sự thù hận được lắng dịu’?” “Này các khanh, ta không là người điên mà nói nhảm. Tuy nhiên, người nào thông minh thì người ấy sẽ hiểu được rõ ràng.” Này các tỳ khưu, sau đó những người ấy khi đã dẫn đức vua Dīghīti xứ Kosala cùng với người vợ đi quanh từ đường phố này sang đường phố khác, từ giao lộ này sang giao lộ khác với tiếng trống có âm thanh inh ỏi rồi đã đưa đi ra bằng cổng thành phía nam, chặt thành bốn khúc ngay tại cổng thành phía nam, quăng bỏ các phần ấy ở bốn hướng, ổn định lại hàng ngũ, rồi đã bỏ đi.
Này các tỳ khưu, khi ấy hoàng tử Dīghāvu đã đi vào thành Bārāṇasī đem lại rượu và cho các người lính gác uống. Đến khi những người lính đã bị say và té xuống, hoàng tử Dīghāvu đã tự mình gom góp các thanh củi, đặt thi thể của mẹ và cha lên giàn hỏa thiêu, châm lửa, chắp tay lên, và hướng vai phải nhiễu quanh giàn hỏa thiêu ba vòng. Này các tỳ khưu, vào lúc bấy giờ đức vua Brahmadatta xứ Kāsī đang đi ở nơi sân thượng của tòa lâu đài sang trọng. Này các tỳ khưu, đức vua Brahmadatta xứ Kāsī đã nhìn thấy hoàng tử Dīghāvu chắp tay lên và đang hướng vai phải nhiễu quanh giàn hỏa thiêu ba vòng, sau khi nhìn thấy đã khởi ý điều này: “Chắc chắn rằng người đàn ông này là thân quyến hoặc là có cùng huyết thống với đức vua Dīghīti xứ Kosala. Hừ, chẳng có ích lợi gì cho ta vì không ai sẽ nói cho ta hay!”
Này các tỳ khưu, khi ấy hoàng tử Dīghāvu đã đi vào rừng và than van khóc lóc cho đến nguôi ngoai, rồi đã lau khô nước mắt, trở vào thành Bārāṇasī, đi đến chuồng voi ở cạnh hoàng cung, và đã nói với người thầy huấn luyện voi điều này: “Thưa thầy, tôi muốn học nghề.” “Này chàng trai trẻ mến, như thế thì cứ việc học.” Này các tỳ khưu, sau đó hoàng tử Dīghāvu, khi đã thức dậy vào canh cuối của đêm ở nơi chuồng voi, đã đánh đàn và ca hát với giọng du dương. Này các tỳ khưu, rồi đức vua Brahmadatta xứ Kāsī sau khi thức dậy vào canh cuối của đêm đã nghe tiếng đánh đàn và tiếng ca hát với giọng du dương ở nơi chuồng voi nên đã hỏi mọi người rằng: “Này các khanh, người nào sau khi thức dậy vào canh cuối của đêm ở nơi chuồng voi đã đánh đàn và ca hát với giọng du dương?” “Tâu bệ hạ, chàng trai trẻ học trò của người thầy huấn luyện voi kia, sau khi thức dậy vào canh cuối của đêm ở nơi chuồng voi, đã đánh đàn và ca hát với giọng du dương.” “Này các khanh, như thế thì hãy dẫn chàng trai trẻ ấy đến.” “Tâu bệ hạ, xin vâng.” Này các tỳ khưu, rồi các người ấy nghe theo đức vua Brahmadatta xứ Kāsī đã đưa hoàng tử Dīghāvu lại. Này các tỳ khưu, khi ấy đức vua Brahmadatta xứ Kāsī đã nói với hoàng tử Dīghāvu điều này: “Này khanh chàng trai trẻ, có phải khanh sau khi thức dậy vào canh cuối của đêm ở nơi chuồng voi đã đánh đàn và ca hát với giọng du dương?” “Tâu bệ hạ, thưa phải.” “Này khanh chàng trai trẻ, như thế thì khanh hãy ca hát và đánh đàn đi.” “Tâu bệ hạ, xin vâng.” Này các tỳ khưu, rồi hoàng tử Dīghāvu nghe theo đức vua Brahmadatta xứ Kāsī và có ý định làm (đức vua) hài lòng nên đã đánh đàn và ca hát với giọng du dương. Này các tỳ khưu, khi ấy đức vua Brahmadatta xứ Kāsī đã nói với hoàng tử Dīghāvu điều này: “Này khanh chàng trai trẻ, khanh hãy hầu hạ ta.”“Tâu bệ hạ, xin vâng.” Này các tỳ khưu, hoàng tử Dīghāvu đã đáp lời đức vua Brahmadatta xứ Kāsī.
Này các tỳ khưu, sau đó hoàng tử Dīghāvu đã trở thành người thức dậy trước và đi ngủ sau, là người sẵn sàng làm mọi việc, có hành động chiều chuộng, có nói lời êm dịu đối với đức vua Brahmadatta xứ Kāsī. Này các tỳ khưu, sau đó chẳng bao lâu đức vua Brahmadatta xứ Kāsī đã bổ nhiệm hoàng tử Dīghāvu vào vai trò cận thần được tín nhiệm.
Này các tỳ khưu, sau đó đức vua Brahmadatta xứ Kāsī đã nói với hoàng tử Dīghāvu điều này: “Này khanh chàng trai trẻ, như vậy thì khanh hãy thắng (ngựa) vào xe, chúng ta sẽ đi săn thú.” “Tâu bệ hạ, xin vâng.” Này các tỳ khưu, rồi hoàng tử Dīghāvu nghe theo đức vua Brahmadatta xứ Kāsī đã thắng (ngựa) vào xe rồi đã nói với đức vua Brahmadatta xứ Kāsī điều này: “Tâu bệ hạ, xe đã được thắng (ngựa) vào, xin bệ hạ hãy suy nghĩ bây giờ là thời điểm của việc gì.” Này các tỳ khưu, sau đó đức vua Brahmadatta xứ Kāsī đã bước lên xe và hoàng tử Dīghāvu đã điều khiển xe và đã điều khiển xe như thế nào đó để đội quân lính đã đi theo hướng khác còn chiếc xe theo hướng khác.
Này các tỳ khưu, sau đó khi đã đi xa, đức vua Brahmadatta xứ Kāsī đã nói với hoàng tử Dīghāvu điều này: “Này khanh chàng trai trẻ, hãy dừng xe lại. Trẫm đã mệt và sẽ nằm xuống.” “Tâu bệ hạ, xin vâng.” Này các tỳ khưu, rồi hoàng tử Dīghāvu nghe theo đức vua Brahmadatta xứ Kāsī đã dừng xe lại và ngồi xuống với thế kiết già ở trên mặt đất. Này các tỳ khưu, sau đó đức vua Brahmadatta xứ Kāsī đã kê đầu lên bắp vế của hoàng tử Dīghāvu và nằm xuống. Trong khi mệt mỏi, chỉ trong chốc lát đức vua đã rơi vào giấc ngủ. Này các tỳ khưu, khi ấy hoàng tử Dīghāvu đã khởi ý điều này: “Đức vua Brahmadatta xứ Kāsī này là người đã làm nhiều việc thất lợi cho chúng ta. Binh lực, xe cộ, xứ sở, kho hàng, và vựa lúa của chúng ta đã bị người này chiếm đoạt. Mẹ và cha ta đã bị người này giết. Đây có thể là thời điểm để ta có thể thanh toán mối thù hận” rồi đã rút gươm ra khỏi vỏ. Này các tỳ khưu, khi ấy hoàng tử Dīghāvu đã khởi ý điều này: “Vào lúc chết, cha đã nói với ta rằng: ‘Này Dīghāvu thương, con hãy nhìn chớ có xa, chớ có gần. Này Dīghāvu thương, bởi vì các sự thù hận không được làm lắng dịu bởi thù hận. Này Dīghāvu thương, chính vì không thù hận mà các sự thù hận được lắng dịu.’ Đối với ta việc này không thích hợp là việc ta có thể làm trái lời dạy của cha” nên đã tra gươm vào vỏ. Này các tỳ khưu, đến lần thứ nhì …(như trên)… Này các tỳ khưu, đến lần thứ ba hoàng tử Dīghāvu đã khởi ý điều này: “Đức vua Brahmadatta xứ Kāsī này là người đã làm nhiều việc thất lợi cho chúng ta. Binh lực, xe cộ, xứ sở, kho hàng, và vựa lúa của chúng ta đã bị người này chiếm đoạt. Mẹ và cha ta đã bị người này giết. Đây có thể là thời điểm để ta có thể thanh toán mối thù hận” rồi đã rút gươm ra khỏi vỏ. Này các tỳ khưu, đến lần thứ ba hoàng tử Dīghāvu đã khởi ý điều này: “Vào lúc chết, cha đã nói với ta rằng: ‘Này Dīghāvu thương, con hãy nhìn chớ có xa, chớ có gần. Này Dīghāvu thương, bởi vì các sự thù hận không được làm lắng dịu bởi thù hận. Này Dīghāvu thương, chính vì không thù hận mà các sự thù hận được lắng dịu.’ Đối với ta việc này không thích hợp là việc ta có thể làm trái lời dạy của cha” nên lại tra gươm vào vỏ.
Này các tỳ khưu, khi ấy đức vua Brahmadatta xứ Kāsī trở nên hoảng sợ, kinh hoàng, hốt hoảng, dáo dác, đã tức thời chồm dậy. Này các tỳ khưu, khi ấy hoàng tử Dīghāvu đã nói với đức vua Brahmadatta xứ Kāsī điều này: “Tâu bệ hạ, vì sao bệ hạ lại trở nên hoảng sợ, kinh hoàng, hốt hoảng, dáo dác, và tức thời chồm dậy?” “Này khanh chàng trai trẻ, ở đây con trai của đức vua Dīghīti xứ Kosala là hoàng tử Dīghāvu đã dùng gươm tấn công ta trong giấc ngủ mơ, vì thế trẫm trở nên hoảng sợ, kinh hoàng, hốt hoảng, dáo dác, và đã tức thời chồm dậy.” Này các tỳ khưu, khi ấy hoàng tử Dīghāvu đã dùng bàn tay trái mân mê đầu của đức vua Brahmadatta xứ Kāsī và dùng bàn tay phải rút gươm ra rồi nói với đức vua Brahmadatta xứ Kāsī điều này: “Tâu bệ hạ, thần chính là hoàng tử Dīghāvu con trai của đức vua Dīghīti xứ Kosala. Bệ hạ là người đã làm nhiều việc thất lợi cho chúng tôi. Binh lực, xe cộ, xứ sở, kho hàng, và vựa lúa của chúng tôi đã bị bệ hạ chiếm đoạt. Mẹ và cha tôi đã bị bệ hạ giết. Đây có thể là thời điểm để thần có thể thanh toán mối thù hận.” Này các tỳ khưu, khi ấy đức vua Brahmadatta xứ Kāsī đã quỳ mọp xuống đê đầu ở hai bàn chân của hoàng tử Dīghāvu và đã nói với hoàng tử Dīghāvu điều nầy: “Này Dīghāvu yêu quý, hãy ban cho trẫm mạng sống. Này Dīghāvu yêu quý, hãy ban cho trẫm mạng sống.” “Sao thần lại có thể ban cho bệ hạ mạng sống được, chính bệ hạ mới có thể ban cho thần mạng sống?” “Này Dīghāvu yêu quý, như thế thì khanh hãy ban cho trẫm mạng sống, và trẫm sẽ ban mạng sống cho khanh.” Này các tỳ khưu, khi ấy đức vua Brahmadatta xứ Kāsī và hoàng tử Dīghāvu đã ban cho mạng sống lẫn nhau, đã nắm lấy bàn tay, và đã thề không phản bội nhau.
Này các tỳ khưu, sau đó đức vua Brahmadatta xứ Kāsī đã nói với hoàng tử Dīghāvu điều này: “Này Dīghāvu yêu quý, như thế thì khanh hãy thắng (ngựa) vào xe, chúng ta sẽ đi về.” “Tâu bệ hạ, xin vâng.” Này các tỳ khưu, rồi hoàng tử Dīghāvu nghe theo đức vua Brahmadatta xứ Kāsī đã thắng (ngựa) vào xe rồi đã nói với đức vua Brahmadatta xứ Kāsī điều này: “Tâu bệ hạ, xe đã được thắng (ngựa) vào, xin bệ hạ hãy suy nghĩ bây giờ là thời điểm của việc gì.” Này các tỳ khưu, sau đó đức vua Brahmadatta xứ Kāsī đã bước lên xe và hoàng tử Dīghāvu đã điều khiển xe và đã điều khiển xe theo như thế nào đó để chẳng bao lâu sau gặp lại đội quân lính.
Này các tỳ khưu, sau đó đức vua Brahmadatta xứ Kāsī đã đi vào thành Bārāṇasī, cho triệu tập các viên quan đại thần cố vấn lại, và đã nói điều này: “Này các khanh, nếu các khanh có thể nhìn thấy hoàng tử Dīghāvu con trai của đức vua Dīghīti xứ Kosala thì các khanh nên làm gì người ấy?” Một số quan đại thần đã nói như vầy: “Tâu bệ hạ, chúng ta nên chặt hai tay. Tâu bệ hạ, chúng ta nên chặt hai chân. Tâu bệ hạ, chúng ta nên chặt hai tay và hai chân. Tâu bệ hạ, chúng ta nên xẻo hai tai. Tâu bệ hạ, chúng ta nên xẻo lỗ mũi. Tâu bệ hạ, chúng ta nên xẻo hai tai và lỗ mũi. Tâu bệ hạ, chúng ta nên chặt đầu.” “Này các khanh, đây chính là hoàng tử Dīghāvu con trai của đức vua Dīghīti xứ Kosala. Không được phép làm bất cứ điều gì đối với người này. Người này đã ban cho trẫm mạng sống và trẫm đã ban mạng sống cho người này.”
Này các tỳ khưu, sau đó đức vua Brahmadatta xứ Kāsī đã nói với hoàng tử Dīghāvu điều này: “Này Dīghāvu yêu quý, điều mà người cha vào lúc chết đã nói rằng: ‘Này Dīghāvu thương, con hãy nhìn chớ có xa, chớ có gần. Này Dīghāvu thương, bởi vì các sự thù hận không được làm lắng dịu bởi thù hận. Này Dīghāvu thương, chính vì không thù hận mà các sự thù hận được lắng dịu,’ người cha của khanh đã ám chỉ điều gì vậy?” “Tâu bệ hạ, điều mà cha của thần vào lúc chết đã nói rằng: ‘Chớ có xa,’ (ý nói rằng) ‘Chớ có gây nên thù hận lâu dài.’ Tâu bệ hạ, (ám chỉ) điều này mà cha của thần vào lúc chết đã nói rằng: ‘Chớ có xa.’ Tâu bệ hạ, điều mà cha của thần vào lúc chết đã nói rằng: ‘Chớ có gần,’ (ý nói rằng) ‘Chớ có mau chóng gây đổ vỡ với các bạn bè.’ Tâu bệ hạ, (ám chỉ) điều này mà cha của thần vào lúc chết đã nói rằng: ‘Chớ có gần.’ Tâu bệ hạ, điều mà cha của thần vào lúc chết đã nói rằng: ‘Này Dīghāvu thương, bởi vì các sự thù hận không được làm lắng dịu bởi thù hận. Này Dīghāvu thương, chính vì không thù hận mà các sự thù hận được lắng dịu,’ (ý nói rằng) ‘Mẹ và cha của thần đã bị bệ hạ giết hại,’ như thế nếu thần có thể tước đoạt mạng sống của bệ hạ thì những người mong mỏi sự lợi ích cho bệ hạ có thể tước đoạt mạng sống của thần, rồi những người mong mỏi sự lợi ích cho thần có thể tước đoạt mạng sống của những người ấy; như vậy thù hận ấy không thể giải quyết bằng thù hận. Giờ đây, bệ hạ đã ban mạng sống cho thần và thần cũng đã ban mạng sống cho bệ hạ; như vậy thù hận ấy đã được giải quyết bằng sự không thù hận. Tâu bệ hạ, (ám chỉ) điều này mà cha của thần vào lúc chết đã nói rằng: ‘Này Dīghāvu thương, bởi vì các sự thù hận không được làm lắng dịu bởi thù hận. Này Dīghāvu thương, chính vì không thù hận mà các sự thù hận được lắng dịu.’”
Này các tỳ khưu, khi ấy đức vua Brahmadatta xứ Kāsī đã khởi ý điều này: “Thật kỳ diệu thay! Thật phi thường thay! Hoàng tử Dīghāvu này thật thông thái bởi vì hiểu được ý nghĩa một cách chi tiết của điều đã được người cha nói ra một cách vắn tắt” rồi đã trả lại binh lực, xe cộ, xứ sở, kho hàng, và vựa lúa của người cha, và còn ban cho người con gái (của mình) nữa. Này các tỳ khưu, ngay chính những người ấy là các vị vua đã cầm lấy gậy, đã cầm lấy gươm mà còn có sự kham nhẫn và khoan dung như thế ấy. Này các tỳ khưu, ở đây các ngươi hãy làm rạng rỡ việc các ngươi đang được xuất gia trong Pháp và Luật được khéo thuyết giảng như vầy, các ngươi hãy nên bày tỏ sự kham nhẫn và lòng khoan dung.
[245] Đến lần thứ ba, đức Thế Tôn đã nói với các tỳ khưu ấy điều này:
– Này các tỳ khưu, thôi đủ rồi. Chớ có (gây ra) sự xung đột, sự cãi cọ, sự lý luận, sự tranh luận nữa.
Đến lần thứ ba, vị tỳ khưu là vị nói sai Pháp ấy đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, xin đức Thế Tôn là bậc Pháp Chủ hãy chờ đợi. Bạch ngài, xin đức Thế Tôn bớt lo nghĩ, hãy sống gắn bó với việc trú vào an lạc trong đời hiện tại; chúng con sẽ làm cho rõ ràng bằng sự xung đột, bằng sự cãi cọ, bằng sự lý luận, và bằng sự tranh luận này.
Khi ấy, đức Thế Tôn (nghĩ rằng): “Những kẻ rồ dại này đã tới mức lộng hành, những kẻ này không dễ gì mà nhắc nhở” rồi đã từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi.
Tụng phẩm “Dīghāvu” là phần thứ nhất.
[246] Khi ấy vào buổi sáng, đức Thế tôn đã mặc y, cầm y bát, rồi đi vào thành Kosambī để khất thực. Sau khi đã đi khất thực trong thành Kosambī, trên đường khất thực trở về sau bữa ăn, đức Thế Tôn đã thu xếp chỗ trú ngụ, cầm y bát, rồi đứng giữa hội chúng tỳ khưu nói lên những lời kệ này:
[247]
Chúng phàm phu náo nhiệt
chẳng ai nghĩ mình ngu,
dầu hội chúng tan vỡ
chúng nghĩ chẳng ai hơn.
Lời kẻ trí cởi mở
nói đủ chuyện trên đời
chúng muốn miệng há rộng
bị lôi đi chẳng biết.
Những ai cố chấp rằng:
“Ngươi chửi ta, đánh ta,
thắng ta, cướp bóc ta!”
người ấy hận không tan.
Những ai không cố chấp:
“Ngươi chửi ta, đánh ta,
thắng ta, cướp bóc ta!”
người ấy hận tiêu tan.
Hận thù chẳng bao giờ
tiêu tan do thù hận
nhưng bởi không thù hận
Pháp ấy có từ xưa.
Những người khác không biết
nơi đây ta kềm chế,
kia mọi người đều rõ
tranh cãi tự nhiên tan.
Xương tan, mạng chẳng còn,
cướp ngựa, bò, tài sản,
trong khi xâm chiếm đất
chúng còn biết hợp đoàn;
sao các người lại không?
Nếu người có bạn hữu
trí tuệ, cùng đi chung,
thông minh, sống khôn khéo,
vưọt qua mọi gian khổ
nhờ thế vị ấy sống
hoan hỷ, trú được niệm.
Nếu người không bạn hữu
trí tuệ, cùng đi chung,
thông minh, sống khôn khéo,
như vua bỏ vương quốc,
như voi và rừng rậm
voi đi chỉ một mình.
Tốt hơn đi một mình
không kẻ ngu làm bạn
vị ấy sống đơn độc
ác không làm, chẳng lo,
như voi và rừng rậm
voi đi chỉ một mình.
[248] Khi ấy, đức Thế Tôn đứng giữa hội chúng tỳ khưu đã nói lên những lời kệ này rồi đi đến ngôi làng Bālakaloṇakāraka. Vào lúc bấy giờ, đại đức Bhagu đang trú tại ngôi làng Bālakaloṇakāraka. Đại đức Bhagu đã nhìn thấy đức Thế Tôn từ đàng xa đang đi lại, sau khi nhìn thấy đã sắp đặt chỗ ngồi, đem lại nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân, rồi đã đi ra rước lấy y bát. Đức Thế Tôn đã ngồi xuống trên chỗ ngồi được sắp đặt sẵn, sau khi ngồi xuống đã rửa hai bàn chân. Đại đức Bhagu đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Đức Thế Tôn đã nói với đại đức Bhagu đang ngồi một bên điều này:
– Này tỳ khưu, sức khoẻ có khá không? Mọi việc có tốt đẹp không? Việc đi khất thực có khỏi bị khó nhọc không?
– Bạch Thế Tôn, sức khoẻ khá. Bạch Thế Tôn, mọi việc được tốt đẹp. Và bạch ngài, việc đi khất thực không có bị khó nhọc.
Sau đó, đức Thế Tôn đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho đại đức Bhagu bằng bài Pháp thoại rồi đã từ chỗ ngồi đứng dậy và đi đến khu vườn cây Pācīnavaṃsa.
Vào lúc bấy giờ, đại đức Anuruddha, đại đức Nandiya, và đại đức Kimbila trú tại khu vườn cây Pācīnavaṃsa. Người giữ khu vườn cây đã nhìn thấy đức Thế Tôn từ đàng xa đang đi lại, sau khi nhìn thấy đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Này ông sa-môn, chớ có đi vào khu vườn cây này. Ở đây, có ba người con trai gia đình danh giá và có tính tự trọng trú ngụ. Chớ có gây phiền nhiễu đến họ.
Đại đức Anuruddha đã nghe được người giữ khu vườn cây đang căn dặn đức Thế Tôn, sau khi nghe đã nói với người giữ khu vườn cây điều này:
– Này đạo hữu giữ vườn, chớ có ngăn cản đức Thế Tôn. Bậc Đạo Sư của chúng tôi là đức Thế Tôn đã đến.
Sau đó, đại đức Anuruddha đã đi đến gặp đại đức Nandiya và đại đức Kimbila, sau khi đến đã nói với đại đức Nandiya và đại đức Kimbila điều này:
– Các đại đức hãy đi ra. Các đại đức hãy đi ra. Bậc Đạo Sư của chúng ta là đức Thế Tôn đã đến.
Khi ấy, đại đức Anuruddha, đại đức Nandiya, và đại đức Kimbila đã đi ra đón đức Thế Tôn, một vị đã nhận lấy y bát của đức Thế Tôn, một vị đã sắp xếp chỗ ngồi, một vị đã mang lại nước rửa chân, ghế kê chân, và tấm chà chân. Đức Thế Tôn đã ngồi xuống trên chỗ ngồi được sắp đặt sẵn, sau khi ngồi xuống đã rửa hai bàn chân. Các vị đại đức ấy đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Đức Thế Tôn đã nói với đại đức Anuruddha đang ngồi một bên điều này:
– Này các vị Anuruddha, các ngươi sức khoẻ có khá không? Mọi việc có được tốt đẹp không? Việc đi khất thực có khỏi bị khó nhọc không?
– Bạch Thế Tôn, sức khoẻ khá. Bạch Thế Tôn, mọi việc được tốt đẹp. Và bạch ngài, việc đi khất thực không có bị khó nhọc.
– Này các vị Anuruddha, các ngươi sống có sự hợp nhất, thân thiện, không cãi cọ, có được trạng thái như sữa với nước, có nhìn nhau bằng những ánh mắt trìu mến không?
– Bạch Thế Tôn, chắc chắn là vậy! Chúng con đây sống có sự hợp nhất, thân thiện, không cãi cọ, được trạng thái như sữa với nước, và nhìn nhau bằng những ánh mắt trìu mến.
– Này các vị Anuruddha, các ngươi sống có sự hợp nhất, thân thiện, không cãi cọ, được trạng thái như sữa với nước, và nhìn nhau bằng những ánh mắt trìu mến là như thế nào?
– Bạch ngài, ở đây con khởi ý như vầy: “Thật lợi ích cho ta! Thật ta đã khéo đạt được khi ta sống với các vị đồng Phạm hạnh như thế này!” Bạch ngài, đối với các đại đức này sự thân thiện của con đây qua thân nghiệp đã được khởi lên công khai hoặc kín đáo, sự thân thiện qua khẩu nghiệp, sự thân thiện qua ý nghiệp đã được khởi lên công khai hoặc kín đáo, và bạch ngài con đây đã khởi ý như vầy: “Hay là ta nên buông rơi tâm của ta và hành động thuận theo tâm của các đại đức này?” Bạch ngài, rồi con đã buông rơi tâm con và hành động thuận theo tâm của các đại đức này. Bạch ngài, chúng con tuy có các thân khác nhau nhưng con nghĩ rằng chỉ có một tâm.
Rồi đại đức Nandiya và đại đức Kimbila cũng đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, ở đây con khởi ý như vầy: “Thật lợi ích cho ta! Thật ta đã khéo đạt được khi ta sống với các vị đồng Phạm hạnh như thế này!” Bạch ngài, đối với các đại đức này sự thân thiện của con đây qua thân nghiệp đã được khởi lên công khai hoặc kín đáo, sự thân thiện qua khẩu nghiệp, sự thân thiện qua ý nghiệp đã được khởi lên công khai hoặc kín đáo, và bạch ngài con đây đã khởi ý như vầy: “Hay là ta nên buông rơi tâm của ta và hành động thuận theo tâm của các đại đức này?” Bạch ngài, rồi con đã buông rơi tâm con và hành động thuận theo tâm của các đại đức này. Bạch ngài, chúng con tuy có các thân khác nhau nhưng con nghĩ rằng chỉ có một tâm. Bạch ngài, chúng con sống có sự hợp nhất, thân thiện, không cãi cọ, được trạng thái như sữa với nước, và nhìn nhau bằng những ánh mắt trìu mến là như thế ấy.
– Này các vị Anuruddha, các ngươi sống có ít bị xao lãng, có sự tinh tấn và nỗ lực của bản thân hay không?
– Bạch ngài, chắc chắn là vậy! Chúng con đây sống ít bị xao lãng, có sự tinh tấn và nỗ lực của bản thân.
– Này các vị Anuruddha, các ngươi sống ít bị xao lãng, có sự tinh tấn và nỗ lực của bản thân là như thế nào?
– Bạch ngài, ở đây vị nào trong chúng con đi khất thực từ làng trở về trước tiên vị ấy sắp xếp chỗ ngồi, chuẩn bị nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân, rửa chậu đựng đồ thừa rồi đem lại, đem lại nước uống và nước rửa. Vị nào đi khất thực từ làng trở về sau cùng, nếu vật thực được ăn còn thừa lại, nếu muốn thì vị ấy có thể ăn; nếu không muốn, thì đem quăng bỏ ở nơi không có cỏ xanh hoặc đổ xuống nước không có sinh vật. Vị ấy xếp chỗ ngồi lại, dọn dẹp nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân, rửa chậu đựng đồ thừa rồi cất đi, dọn dẹp nước uống, nước rửa, và quét nhà ăn. Vị nào thấy lu nước uống, hoặc lu nước rửa, hoặc lu nước nhà vệ sinh hết nước, trống trơn, vị ấy đổ nước vào. Nếu vị ấy không làm nổi, sau khi ra hiệu bằng tay mời vị thứ hai lại, chúng con nhờ (vị kia) phụ giúp với hành động bằng tay và bạch ngài, nhưng không vì lý do đó mà chúng con nói ra lời. Bạch ngài, cứ mỗi năm ngày, chúng con ngồi lại cho việc thảo luận Giáo Pháp trọn đêm. Bạch ngài, chúng con sống ít bị xao lãng, có sự tinh tấn và nỗ lực của bản thân là như thế ấy.
Sau đó, đức Thế Tôn đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho đại đức Anuruddha, đại đức Nandiya, và đại đức Kimbila bằng bài Pháp thoại rồi đã từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi du hành về phía Pārileyyaka. Trong khi tuần tự du hành, ngài đã ngự đến Pārileyyaka. Tại nơi đó, ở Pārileyyaka đức Thế Tôn sống trong khu rừng cây được bảo vệ, dưới gốc cây Sāla xinh đẹp.
[249] Khi ấy, đức Thế Tôn trong khi thiền tịnh ở nơi thanh vắng có ý nghĩ suy tầm như vầy đã sanh khởi: “Trước đây, ta đã sống không thoải mái bị quấy rầy bởi các tỳ khưu ở Kosambī ấy là những vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng. Bây giờ, ta đây sống an lạc, thoải mái, một mình, không người thứ hai, thoát khỏi các tỳ khưu ở Kosambī ấy là những vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng.”
Có con long tượng nọ sống bị quấy rầy bởi những con voi, bởi những con voi cái, bởi những con voi tơ, bởi những con voi bé, và còn phải nhai các thứ cỏ đã bị đứt ngọn. Chúng nhai các nhánh cây đã được nó bẻ gãy rời ra. Và nó uống các thứ nước đã bị khuấy đục. Khi nó vượt qua dòng sông cạn thì những con voi cái chạy lại cọ xát vào thân. Khi ấy, con long tượng ấy đã khởi ý điều này: “Ta sống bị quấy rầy bởi những con voi, bởi những con voi cái, bởi những con voi tơ, bởi những con voi bé, và còn phải nhai các thứ cỏ đã bị đứt ngọn. Chúng nhai các nhánh cây đã được ta bẻ gãy rời ra. Và ta uống các thứ nước đã bị khuấy đục. Khi ta vượt qua dòng sông cạn thì những con voi cái chạy lại cọ xát vào thân. Hay là ta nên sống một mình, tách ra khỏi đám đông?” Sau đó, con long tượng ấy tách khỏi bầy đi đến Pārileyyaka, chỗ khu rừng cây được bảo vệ, nơi gốc cây Sāla xinh đẹp, gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã dùng vòi phục vụ đức Thế Tôn nước uống, nước rửa, và dọn sạch cây cỏ. Khi ấy, con long tượng ấy đã khởi ý điều này: “Trước đây ta đã sống bị quấy rầy bởi những con voi, bởi những con voi cái, bởi những con voi tơ, bởi những con voi bé, và đã nhai các thứ cỏ đã bị đứt ngọn. Chúng đã nhai các nhánh cây đã được ta bẻ gãy rời ra. Và ta đã uống các thứ nước đã bị khuấy đục. Khi ta vượt qua dòng sông cạn thì những con voi cái đã chạy lại cọ xát vào thân. Bây giờ, ta đây sống an lạc, thoải mái, một mình, không hai, thoát khỏi các con voi, các con voi cái, các con voi tơ, và các con voi bé.”Khi ấy, đức Thế Tôn sau khi hiểu được sự tách ly của bản thân đã dùng tâm biết được ý nghĩ suy tầm của con long tượng ấy, rồi vào lúc ấy đã thốt lên lời cảm hứng rằng:
Voi chúa có ngà bự
cùng với chúa loài người,
tâm với tâm hợp nhất
vui rừng thẳm một mình.
[250] Sau đó, khi đã ngự tại Pārileyyaka theo như ý thích, đức Thế Tôn đã ra đi du hành đến thành Sāvatthi. Trong khi tuần tự du hành, ngài đã ngự đến thành Sāvatthi. Tại nơi đó ở thành Sāvatthi, đức Thế Tôn ngự tại Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika.
[251] Khi ấy, các cư sĩ ở Kosambī đã khởi ý điều này: “Các ngài tỳ khưu ở Kosambī này là những người đã làm nhiều điều không lợi ích cho chúng ta. Đức Thế Tôn bị quấy rầy bởi các vị này nên đã bỏ đi, vậy thì chúng ta không nên đảnh lễ các ngài tỳ khưu ở Kosambī, không nên đứng dậy chào, không nên thực hiện việc chắp tay và hành động thích hợp, không nên tôn trọng, không nên cung kỉnh, không nên sùng bái, không nên cúng dường, không nên bố thí đồ ăn khất thực cho các vị đi đến; như thế ấy các vị này trong khi không được tôn trọng, không được cung kỉnh, không được sùng bái, không được cúng dường bởi chúng ta, và khi đã không còn được tôn trọng các vị hoặc là sẽ bỏ đi, hoặc là sẽ hoàn tục, hoặc là sẽ có niềm tin nơi đức Thế Tôn.” Sau đó, các cư sĩ ở Kosambī đã không đảnh lễ, không đứng dậy chào, không thực hiện việc chắp tay và hành động thích hợp, không tôn trọng, không cung kỉnh, không sùng bái, không cúng dường, không bố thí đồ ăn khất thực cho các vị đi đến. Khi ấy, các tỳ khưu ở Kosambī trong khi không được tôn trọng, không được cung kỉnh, không được sùng bái, không được cúng dường bởi các cư sĩ ở Kosambī, và khi đã không còn được tôn trọng nữa đã nói như vầy:
– Này các đại đức, vậy thì chúng ta nên đi Sāvatthi và giải quyết sự tranh tụng này trong sự hiện diện của đức Thế Tôn.
Sau đó, các tỳ khưu ở Kosambī đã thu xếp chỗ trú ngụ rồi cầm y bát đi đến thành Sāvatthi.
[252] Đại đức Sāriputta đã nghe rằng: “Nghe nói các tỳ khưu ở Kosambī ấy là những vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng đang đi đến thành Sāvatthi.” Khi ấy, đại đức Sāriputta đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, đại đức Sāriputta đã nói với đức Thế tôn điều này:
– Bạch ngài, nghe nói các tỳ khưu ở Kosambī ấy là những vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng đang đi đến thành Sāvatthi. Bạch ngài, con nên thực hành đối với các tỳ khưu ấy như thế nào?
– Này Sāriputta, như thế thì ngươi hãy hỗ trợ (các vị nào) đúng Pháp.
– Bạch ngài, con nên hiểu đúng Pháp và sai Pháp như thế nào?
– Này Sāriputta, người nói sai Pháp sẽ được nhận biết do mười tám sự việc. Này Sāriputta, trường hợp vị tỳ khưu tuyên bố phi Pháp là “Pháp;” tuyên bố Pháp là: “Phi Pháp;” tuyên bố phi Luật là: “Luật;” tuyên bố Luật là: “Phi Luật;” tuyên bố điều đã không được giảng, không được nói bởi đức Như Lai là: “Điều đã được giảng, đã được nói bởi đức Như Lai;” tuyên bố điều đã được giảng, đã được nói bởi đức Như Lai là: “Điều đã không được giảng, không được nói bởi đức Như Lai;” tuyên bố điều không được thực hành bởi đức Như Lai là: “Điều đã được thực hành bởi đức Như Lai;” tuyên bố điều được thực hành bởi đức Như Lai là: “Điều đã không được thực hành bởi đức Như Lai;” tuyên bố điều không được quy định bởi đức Như Lai là: “Điều đã được quy định bởi đức Như Lai;” tuyên bố điều được quy định bởi đức Như Lai là: “Điều đã không được quy định bởi đức Như Lai;” tuyên bố vô tội là: “Phạm tội;” tuyên bố phạm tội là: “Vô tội;” tuyên bố tội nặng là: “Tội nhẹ;” tuyên bố tội nhẹ là: “Tội nặng;” tuyên bố tội còn dư sót là: “Tội không còn dư sót;” tuyên bố tội không còn dư sót là: “Tội còn dư sót;” tuyên bố tội xấu xa là: “Tội không xấu xa;” tuyên bố tội không xấu xa là: “Tội xấu xa.” Này Sāriputta, người nói sai Pháp sẽ được nhận biết do mười tám sự việc này.
Này Sāriputta, người nói đúng Pháp sẽ được nhận biết do mười tám sự việc. Này Sāriputta, trường hợp vị tỳ khưu tuyên bố phi Pháp là “Phi Pháp;” tuyên bố Pháp là: “Pháp;” tuyên bố phi Luật là: “Phi Luật;” tuyên bố Luật là: “Luật;” tuyên bố điều đã không được giảng, không được nói bởi đức Như Lai là: “Điều đã không được giảng, không được nói bởi đức Như Lai;” tuyên bố điều đã được giảng, đã được nói bởi đức Như Lai là: “Điều đã được giảng, đã được nói bởi đức Như Lai;” tuyên bố điều không được thực hành bởi đức Như Lai là: “Điều không được thực hành bởi đức Như Lai;” tuyên bố điều đã được thực hành bởi đức Như Lai là: “Điều đã được thực hành bởi đức Như Lai;” tuyên bố điều đã không được quy định bởi đức Như Lai là: “Điều đã không được quy định bởi đức Như Lai;” tuyên bố điều đã được quy định bởi đức Như Lai là: “Điều đã được quy định bởi đức Như Lai;” tuyên bố vô tội là: “Vô tội;” tuyên bố phạm tội là: “Phạm tội;” tuyên bố tội nhẹ là: “Tội nhẹ;” tuyên bố tội nặng là: “Tội nặng;” tuyên bố tội còn dư sót là: “Tội còn dư sót;” tuyên bố tội không còn dư sót là: “Tội không còn dư sót;” tuyên bố tội xấu xa là: “Tội xấu xa;” tuyên bố tội không xấu xa là: “Tội không xấu xa.” Này Sāriputta, người nói đúng Pháp sẽ được nhận biết do mười tám sự việc này.
[253] Rồi đại đức Mahāmoggallāna đã nghe rằng: …(như trên)… Rồi đại đức Mahākassapa đã nghe, rồi đại đức Mahākaccāna đã nghe, rồi đại đức Mahākoṭṭhita đã nghe, rồi đại đức Mahākappina đã nghe, rồi đại đức Mahācunda đã nghe, rồi đại đức Anuruddha đã nghe, rồi đại đức Revata đã nghe, rồi đại đức Upāli đã nghe, rồi đại đức Ānanda đã nghe, rồi đại đức Rāhula đã nghe rằng: “Nghe nói các tỳ khưu ở Kosambī ấy là những vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng đang đi đến thành Sāvatthi.” Khi ấy, đại đức Rāhula đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, đại đức Rāhula đã nói với đức Thế tôn điều này:
– Bạch ngài, nghe nói các tỳ khưu ở Kosambī ấy là những vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng đang đi đến thành Sāvatthi. Bạch ngài, con nên thực hành đối với các tỳ khưu ấy như thế nào?
– Này Rāhula, như thế thì ngươi hãy hỗ trợ (các vị nào) đúng Pháp.
– Bạch ngài, con nên hiểu đúng Pháp và sai Pháp như thế nào?
– Này Rāhula, người nói sai Pháp sẽ được nhận biết do mười tám sự việc. …(như trên)… Này Rāhula, người nói sai Pháp sẽ được nhận biết do mười tám sự việc này.
Này Rāhula, người nói đúng Pháp sẽ được nhận biết do mười tám sự việc. …(như trên)… Này Rāhula, người nói đúng Pháp sẽ được nhận biết do mười tám sự việc này.
[254] Rồi bà Mahāpajāpatī Gotamī đã nghe rằng: : “Nghe nói các tỳ khưu ở Kosambī ấy là những vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng đang đi đến thành Sāvatthi.” Khi ấy, bà Mahāpajāpatī Gotamī đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi đứng ở một bên. Khi đã đứng một bên, bà Mahāpajāpatī Gotamī đã nói với đức Thế tôn điều này:
– Bạch ngài, nghe nói các tỳ khưu ở Kosambī ấy là những vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng đang đi đến thành Sāvatthi. Bạch ngài, con nên thực hành đối với các tỳ khưu ấy như thế nào?
– Này Gotamī, như thế thì bà hãy nghe Pháp ở cả hai bên; sau khi nghe Pháp ở cả hai bên, các tỳ khưu bên nào là các vị nói đúng Pháp thì bà hãy thuận theo quan điểm, niềm tin, khuynh hướng, và lập luận của các vị ấy. Và bất cứ điều gì hội chúng tỳ khưu ni cần mong mỏi từ hội chúng tỳ khưu thì nên mong mỏi tất cả các điều ấy từ các vị nói đúng Pháp.
[255] Rồi gia chủ Anāthapiṇḍika đã nghe rằng: “Nghe nói các tỳ khưu ở Kosambī ấy là những vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng đang đi đến thành Sāvatthi.” Khi ấy, gia chủ Anāthapiṇḍika đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, gia chủ Anāthapiṇḍika đã nói với đức Thế tôn điều này:
– Bạch ngài, nghe nói các tỳ khưu ở Kosambī ấy là những vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng đang đi đến thành Sāvatthi. Bạch ngài, con nên thực hành đối với các tỳ khưu ấy như thế nào?
– Này gia chủ, như thế thì ngươi hãy nên dâng vật cúng dường cả hai bên; sau khi dâng vật cúng dường rồi hãy nghe Pháp cả hai bên; sau khi nghe Pháp cả hai bên, các tỳ khưu bên nào là các vị nói đúng Pháp thì hãy thuận theo quan điểm, niềm tin, khuynh hướng, và lập luận của các vị ấy.
[256] Rồi bà Visākhā mẹ của Migāra đã nghe rằng: “Nghe nói các tỳ khưu ở Kosambī ấy là những vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng đang đi đến thành Sāvatthi.” Khi ấy, bà Visākhā mẹ của Migāra đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, bà Visākhā mẹ của Migāra đã nói với đức Thế tôn điều này:
– Bạch ngài, nghe nói các tỳ khưu ở Kosambī ấy là những vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng đang đi đến thành Sāvatthi. Bạch ngài, con nên thực hành đối với các tỳ khưu ấy như thế nào?
– Này bà Visākhā, như thế thì ngươi hãy nên dâng vật cúng dường cả hai bên; sau khi dâng vật cúng dường rồi hãy nghe Pháp cả hai bên; sau khi nghe Pháp cả hai bên, các tỳ khưu bên nào là các vị nói đúng Pháp thì hãy thuận theo quan điểm, niềm tin, khuynh hướng, và lập luận của các vị ấy.
[257] Sau đó, theo tuần tự các tỳ khưu ở Kosambī đã đến được thành Sāvatthi. Khi ấy, đại đức Sāriputta đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, đại đức Sāriputta đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, nghe nói các tỳ khưu ở Kosambī ấy là những vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng đã đến thành Sāvatthi. Bạch ngài, con nên tiến hành chỗ trú ngụ cho các tỳ khưu ấy như thế nào?
– Này Sāriputta, như thế thì ngươi nên cho chỗ trú ngụ cách biệt.
– Bạch ngài, nếu không được cách biệt thì nên thực hành như thế nào?
– Này Sāriputta, như thế thì nên làm thành cách biệt rồi giao cho. Này Sāriputta, nhưng không vì bất cứ lý do gì mà ta nói rằng: “Được xâm phạm chỗ trú ngụ của vị tỳ khưu thâm niên hơn;” vị nào xâm phạm thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
– Bạch ngài, nên thực hành như thế nào về tài vật?
– Này Sāriputta, tài vật nên được chia phần đồng đều cho tất cả.
[258] Sau đó, vị tỳ khưu bị án treo ấy trong khi suy xét về Pháp và Luật đã khởi ý điều này: “Điều ấy là có tội, điều ấy không phải là vô tội. Ta bị phạm (tội), ta không phải là không phạm (tội). Ta bị án treo, ta không phải là không bị án treo. Ta đã bị án treo bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì.” Khi ấy, vị tỳ khưu bị án treo ấy đã đi đến gặp các tỳ khưu ủng hộ vị bị án treo, sau khi đến đã nói với các tỳ khưu ủng hộ vị bị án treo điều này:
– Này các đại đức, điều ấy là có tội, điều ấy không phải là vô tội. Tôi bị phạm (tội), tôi không phải là không phạm (tội). Tôi bị án treo, tôi không phải là không bị án treo. Tôi đã bị án treo bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì. Xin các đại đức hãy đến và phục hồi cho tôi.
Khi ấy, các tỳ khưu ủng hộ vị bị án treo ấy đã đưa vị tỳ khưu bị án treo ấy đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, các vị tỳ khưu ấy đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, vị tỳ khưu bị án treo này đã nói như vầy: “Này các đại đức, điều ấy là có tội, điều ấy không phải là vô tội. Tôi bị phạm (tội), tôi không phải là không phạm (tội). Tôi bị án treo, tôi không phải là không bị án treo. Tôi đã bị án treo bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì. Xin các đại đức hãy đến và phục hồi cho tôi.” Bạch ngài, giờ nên được thực hành như thế nào?
– Này các tỳ khưu, điều ấy là có tội, điều ấy không phải là vô tội. Vị tỳ khưu ấy bị phạm (tội), vị tỳ khưu ấy không phải là không phạm (tội). Vị tỳ khưu ấy bị án treo, vị tỳ khưu ấy không phải là không bị án treo. Vị tỳ khưu ấy đã bị án treo bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì. Này các tỳ khưu, bởi vì vị tỳ khưu ấy đã phạm (tội), đã bị án treo, và nhìn nhận. Này các tỳ khưu, chính vì điều ấy hãy phục hồi cho vị tỳ khưu ấy.
Sau đó, các tỳ khưu ủng hộ vị bị án treo ấy đã phục hồi cho vị tỳ khưu bị án treo ấy rồi đã đi đến gặp các tỳ khưu đã ban án treo, sau khi đến đã nói với các tỳ khưu đã ban án treo điều này:
– Này các đại đức, trong sự kiện mà hội chúng có sự xung đột, sự cãi cọ, sự lý luận, sự tranh luận, sự chia rẽ hội chúng, sự bất đồng trong hội chúng, sự đấu khẩu trong hội chúng, sự khác biệt trong hội chúng, vị tỳ khưu này đây đã phạm (tội), đã bị án treo, đã nhìn nhận, và đã được phục hồi. Này các đại đức, vậy chúng ta hãy tiến hành sự hợp nhất hội chúng để giải quyết sự kiện ấy.
Sau đó, các tỳ khưu đã ban án treo ấy đã đi đến gặp đức Thế tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, các tỳ khưu đã ban án treo ấy đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, các tỳ khưu ủng hộ vị bị án treo ấy đã nói như vầy: “Này các đại đức, trong sự kiện mà hội chúng có sự xung đột, sự cãi cọ, sự lý luận, sự tranh luận, sự chia rẽ hội chúng, sự bất đồng trong hội chúng, sự đấu khẩu trong hội chúng, sự khác biệt trong hội chúng, vị tỳ khưu này đây đã phạm (tội), đã bị án treo, đã nhìn nhận, và đã được phục hồi. Này các đại đức, vậy chúng ta hãy tiến hành sự hợp nhất hội chúng để giải quyết sự kiện ấy.” Bạch ngài, giờ nên được thực hành như thế nào?
– Này các tỳ khưu, bởi vì vị tỳ khưu ấy đã phạm (tội), đã bị án treo, đã nhìn nhận, và đã được phục hồi. Này các tỳ khưu, chính vì điều ấy hội chúng hãy tiến hành sự hợp nhất hội chúng để giải quyết sự kiện ấy. Và này các tỳ khưu, nên được tiến hành như vầy:
Toàn bộ tất cả gồm các vị bị bệnh và không bị bệnh nên tụ hội lại một chỗ, và không một ai được phép gởi lời tùy thuận. Sau khi đã tụ hội lại, hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Trong sự kiện mà hội chúng có sự xung đột, sự cãi cọ, sự lý luận, sự tranh luận, sự chia rẽ hội chúng, sự bất đồng trong hội chúng, sự đấu khẩu trong hội chúng, sự khác biệt trong hội chúng, vị tỳ khưu này đây đã phạm (tội), đã bị án treo, đã nhìn nhận, và đã được phục hồi. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên tiến hành sự hợp nhất hội chúng để giải quyết sự kiện ấy. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Trong sự kiện mà hội chúng có sự xung đột, sự cãi cọ, sự lý luận, sự tranh luận, sự chia rẽ hội chúng, sự bất đồng trong hội chúng, sự đấu khẩu trong hội chúng, sự khác biệt trong hội chúng, vị tỳ khưu này đây đã phạm (tội), đã bị án treo, đã nhìn nhận, và đã được phục hồi. Hội chúng tiến hành sự hợp nhất hội chúng để giải quyết sự kiện ấy. Đại đức nào đồng ý việc tiến hành sự hợp nhất hội chúng để giải quyết sự kiện ấy xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Sự hợp nhất hội chúng để giải quyết sự kiện ấy đã được hội chúng tiến hành. Sự chia rẽ hội chúng đã được dàn xếp. Sự bất đồng hội chúng đã được dàn xếp. Sự đấu khẩu trong hội chúng đã được dàn xếp. Sự khác biệt trong hội chúng đã được dàn xếp. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
Lập tức sau đó, lễ Uposatha nên được tiến hành. Giới bổn Pātimokkha nên được đọc tụng.
[259] Sau đó, đại đức Upāli đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, đại đức Upāli đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, trong sự kiện mà hội chúng có sự xung đột, sự cãi cọ, sự lý luận, sự tranh luận, sự chia rẽ hội chúng, sự bất đồng trong hội chúng, sự đấu khẩu trong hội chúng, sự khác biệt trong hội chúng, hội chúng không điều tra sự kiện ấy và xác định nguyên nhân không đúng rồi tiến hành sự hợp nhất hội chúng; bạch ngài, có phải sự hợp nhất hội chúng ấy là đúng Pháp?
– Này Upāli, trong sự kiện mà hội chúng có sự xung đột, sự cãi cọ, sự lý luận, sự tranh luận, sự chia rẽ hội chúng, sự bất đồng trong hội chúng, sự đấu khẩu trong hội chúng, sự khác biệt trong hội chúng, hội chúng không điều tra sự kiện ấy và xác định không đúng nguyên nhân rồi tiến hành sự hợp nhất; này Upāli, sự hợp nhất hội chúng ấy là sai Pháp.
– Bạch ngài, trong sự kiện mà hội chúng có sự xung đột, sự cãi cọ, sự lý luận, sự tranh luận, sự chia rẽ hội chúng, sự bất đồng trong hội chúng, sự đấu khẩu trong hội chúng, sự khác biệt trong hội chúng, hội chúng điều tra sự kiện ấy và xác định đúng nguyên nhân rồi tiến hành sự hợp nhất; bạch ngài, có phải sự hợp nhất hội chúng ấy là đúng Pháp?
– Này Upāli, trong sự kiện mà hội chúng có sự xung đột, sự cãi cọ, sự lý luận, sự tranh luận, sự chia rẽ hội chúng, sự bất đồng trong hội chúng, sự đấu khẩu trong hội chúng, sự khác biệt trong hội chúng, hội chúng điều tra sự kiện ấy và xác định đúng nguyên nhân rồi tiến hành sự hợp nhất; này Upāli, sự hợp nhất hội chúng ấy là đúng Pháp.
– Bạch ngài, sự hợp nhất hội chúng có bao nhiêu loại?
– Này Upāli, sự hợp nhất hội chúng có hai loại. Này Upāli, có sự hợp nhất hội chúng không đạt được mục đích (atthāpetā) chỉ đạt được từ ngữ (byañjanupetā) và có loại vừa đạt được mục đích vừa đạt được từ ngữ.[2] Này Upāli, thế nào sự hợp nhất hội chúng không đạt được mục đích chỉ đạt được từ ngữ? Này Upāli, trong sự kiện mà hội chúng có sự xung đột, sự cãi cọ, sự lý luận, sự tranh luận, sự chia rẽ hội chúng, sự bất đồng trong hội chúng, sự đấu khẩu trong hội chúng, sự khác biệt trong hội chúng, hội chúng không điều tra sự kiện ấy và xác định không đúng nguyên nhân rồi tiến hành sự hợp nhất; này Upāli, việc này gọi là sự hợp nhất hội chúng không đạt được mục đích chỉ đạt được từ ngữ. Này Upāli, thế nào sự hợp nhất hội chúng vừa đạt được mục đích vừa đạt được từ ngữ? Này Upāli, trong sự kiện mà hội chúng có sự xung đột, sự cãi cọ, sự lý luận, sự tranh luận, sự chia rẽ hội chúng, sự bất đồng trong hội chúng, sự đấu khẩu trong hội chúng, sự khác biệt trong hội chúng, hội chúng điều tra sự kiện ấy và xác định đúng nguyên nhân rồi tiến hành sự hợp nhất; này Upāli, việc này gọi là sự hợp nhất hội chúng vừa đạt được mục đích vừa đạt được từ ngữ. Này Upāli, đây là hai sự hợp nhất hội chúng.
Sau đó, đại đức Upāli đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp thượng y một bên vai, chắp tay lên cúi chào đức Thế Tôn, rồi trình lên đức Thế Tôn những lời kệ này:
[260]
Trong những việc phận sự,
cuộc thảo luận, điều tra,
những vấn đề sanh khởi
thuộc về của hội chúng,
ở đây hạng người nào
đem lại nhiều lợi ích?
ở đây tỳ khưu nào
xứng là vị tiên phong?
Giới luật được xét đầu
vị không bị chê bai
sở hành được xem xét,
(sáu) căn được canh phòng.
Ngay những kẻ đối đầu
đúng Pháp không thể trách
hay gièm pha vị ấy
bởi vì chẳng có chi.
Vị như thế tồn tại
nhờ giới đã thanh tịnh
vị có niềm tự tín
đối đáp được suốt thông,
vị đi vào đám đông
không run không sợ hãi
vị nói có mục đích
không bỏ lở chủ đề.
Cũng thế giữa hội chúng
được hỏi một vấn đề
vị ấy không ngần ngại
và không gì xấu hổ
vị ấy nói đúng thời
lời giải thích xứng đáng
vị thông minh rạng rỡ
hội chúng bậc thức tri.
Vị ấy luôn tôn kính
các tỳ khưu trưởng thượng
và đặt trọn niềm tin
ở bậc thầy vị ấy,
có khả năng nắm bắt
rành rẽ điều được học
vị biết cách chận đứng
(lời) những kẻ nghịch thù.
Những kẻ là đối thủ
đành chịu thế quy hàng
đám đông người hành theo
điều được người giảng rõ.
Bản thân không xao lãng
niềm tin của chính mình,
có những câu hỏi đáp
không thương tổn tha nhân.
Có khả năng hiểu rõ
trong công việc đưa tin
hành sự của hội chúng
theo như lời căn dặn.
Chuyển việc làm lời nhắn
của nhóm các tỳ khưu
không vì thế suy nghĩ
“Ta đang làm công việc.”
Khi một ai phạm tội
dẫu có lắm nguồn cơn
như thế nào các tội
và phương thức thoát ra,
các bộ phân tích ấy
lưỡng phái được truyền thừa
vị thiện xảo chi tiết
việc thoát ra các tội.
Vị bị phạt cách ly
từ những sở hành nào,
và vị bị tách ra
các phận sự thế nào,
việc phục hồi điều ấy
cho vị đã sống qua
rành rẽ việc phân tích
điều ấy cũng được biết.
Vị ấy luôn tôn kính
các tỳ khưu trưởng thượng
mới tu và trưởng lão,
hoặc các vị trung niên,
ở đây bậc trí tuệ
đem lợi ích nhiều người
tỳ khưu như thế ấy
xứng lãnh đạo nơi đây.
Chương Kosambī là chương thứ mười.
******
Tóm lược chương này:
[261]
Bậc Chiến Thắng cao cả
ở tại Kosambī
tranh cãi việc thấy tội
có thể ban án treo
trong tội ấy là tội
mà vị ấy thấy được,
nơi ấy trong ranh giới.
Ngôi làng Bālaka
vườn cây Pācīna,
rừng Pārileyyā,
và thành Sāvatthi,
ngài Sāriputta,
và ngài Kolita,
Mahākassapa,
Mahākaccāna,
ngài Mahācunda,
ngài Anuruddha,
rồi ngài Revata,
và ngài Upāli,
cả ngài Ānanda,
ngài Rāhula nữa,
vị ni Gotamī,
rồi ông Cấp Cô Độc,
và bà Visākhā
mẹ của Migāra,
chỗ trú ngụ cách biệt
tài vật được đồng đều,
không ai gởi tùy thuận.
Upāli vấn hỏi
sự không bị chê trách
do giới thành hợp nhất
lời dạy bậc Chiến Thắng.
Đại Phẩm được đầy đủ.
[1] … đã thực hiện sự va chạm bằng tay (dịch sát nghĩa).
[2] Chúng tôi nghĩ rằng có thể dùng hai từ “nội dung” và “hình thức” trong trường hợp này.