Kinh Đại Diễn Giải (Mahāniddesa) đọc online
Kinh Đại Diễn Giải đọc online – Phần I
Thuộc Kinh Tiểu Bộ (Khuddaka Nikàya) | Tạng Kinh (SUTTANTAPITAKA)
Dịch Việt: Tỳ khưu Indacanda và các cộng sự
Nguồn: https://www.tamtangpaliviet.net/ & https://theravada.vn/
Nội dung Kinh Đại Diễn Giải được chia thành 3 phần:
Mục lục
GIỚI THIỆU
1. KĀMASUTTANIDDESO – DIỄN GIẢI KINH VỀ DỤC:
▪ 1 – 1 (Sn câu kệ 770) (dịch xong ngày 18/08/2012)
▪ 1 – 2 (Sn câu kệ 771) (dịch xong ngày 21/08/2012)
▪ 1 – 3 (Sn câu kệ 772) (dịch xong ngày 27/08/2012)
▪ 1 – 4 (Sn câu kệ 773) (dịch xong ngày 29/08/2012)
▪ 1 – 5 (Sn câu kệ 774) (dịch xong ngày 03/09/2012)
▪ 1 – 6 (Sn câu kệ 775) (dịch xong ngày 06/09/2012)
2. GUHAṬṬHAKASUTTANIDDESO – DIỄN GIẢI KINH NHÓM TÁM VỀ HANG:
▪ 2 – 1 (Sn câu kệ 776) (dịch xong ngày 13/09/2012)
▪ 2 – 2 (Sn câu kệ 777) (dịch xong ngày 16/09/2012)
▪ 2 – 3 (Sn câu kệ 778) (dịch xong ngày 26/09/2012)
▪ 2 – 4 (Sn câu kệ 779) (dịch xong ngày 08/10/2012)
▪ 2 – 5 (Sn câu kệ 780) (dịch xong ngày 11/10/2012)
▪ 2 – 6 (Sn câu kệ 781) (dịch xong ngày 14/10/2012)
▪ 2 – 7 (Sn câu kệ 782) (dịch xong ngày 20/10/2012)
▪ 2 – 8 (Sn câu kệ 783) (dịch xong ngày 25/10/2012)
3. DUṬṬHAṬṬHAKASUTTANIDDESO – DIỄN GIẢI KINH NHÓM TÁM VỀ XẤU XA
▪ 3 – 1 (Sn câu kệ 784) (dịch xong ngày 29/10/2012)
▪ 3 – 2 (Sn câu kệ 785) (dịch xong ngày 31/10/2012)
▪ 3 – 3 (Sn câu kệ 786) (dịch xong ngày 08/11/2012)
▪ 3 – 4 (Sn câu kệ 787) (dịch xong ngày 09/11/2012)
▪ 3 – 5 (Sn câu kệ 788) (dịch xong ngày 25/11/2012)
▪ 3 – 6 (Sn câu kệ 789) (dịch xong ngày 04/12/2012)
▪ 3 – 7 (Sn câu kệ 790) (dịch xong ngày 22/12/2012)
▪ 3 – 8 (Sn câu kệ 791) (dịch xong ngày 26/12/2012)
4. SUDDHAṬṬHAKASUTTANIDDESO – DIỄN GIẢI KINH NHÓM TÁM VỀ TRONG SẠCH
▪ 4 – 1 (Sn câu kệ 792) (dịch xong ngày 26/12/2012)
▪ 4 – 2 (Sn câu kệ 793) (dịch xong ngày 01/01/2013)
▪ 4 – 3 (Sn câu kệ 794) (dịch xong ngày 07/01/2013)
▪ 4 – 4 (Sn câu kệ 795) (dịch xong ngày 09/01/2013)
▪ 4 – 5 (Sn câu kệ 796) (dịch xong ngày 12/01/2013)
▪ 4 – 6 (Sn câu kệ 797) (dịch xong ngày 18/01/2013)
▪ 4 – 7 (Sn câu kệ 798) (dịch xong ngày 20/01/2013)
▪ 4 – 8 (Sn câu kệ 799) (dịch xong ngày 23/01/2013)
5. PARAMAṬṬHAKASUTTANIDDESO – DIỄN GIẢI KINH NHÓM TÁM VỀ TỐI THẮNG
▪ 5 – 1 (Sn câu kệ 800) (dịch xong ngày 26/01/2013)
▪ 5 – 2 (Sn câu kệ 801) (dịch xong ngày 28/01/2013)
▪ 5 – 3 (Sn câu kệ 802) (dịch xong ngày 29/01/2013)
▪ 5 – 4 (Sn câu kệ 803) (dịch xong ngày 03/02/2013)
▪ 5 – 5 (Sn câu kệ 804) (dịch xong ngày 04/02/2013)
▪ 5 – 6 (Sn câu kệ 805) (dịch xong ngày 06/02/2013)
▪ 5 – 7 (Sn câu kệ 806) (dịch xong ngày 07/02/2013)
▪ 5 – 8 (Sn câu kệ 807) (dịch xong ngày 12/02/2013)
6. JARĀSUTTANIDDESO – DIỄN GIẢI KINH VỀ SỰ GIÀ
▪ 6 – 1 (Sn câu kệ 808) (dịch xong ngày 07/03/2013)
▪ 6 – 2 (Sn câu kệ 809) (dịch xong ngày 11/05/2013)
▪ 6 – 3 (Sn câu kệ 810) (dịch xong ngày 12/05/2013)
▪ 6 – 4 (Sn câu kệ 811) (dịch xong ngày 13/05/2013)
▪ 6 – 5 (Sn câu kệ 812) (dịch xong ngày 14/05/2013)
▪ 6 – 6 (Sn câu kệ 813) (dịch xong ngày 15/05/2013)
▪ 6 – 7 (Sn câu kệ 814) (dịch xong ngày 19/08/2013)
▪ 6 – 8 (Sn câu kệ 815) (dịch xong ngày 21/08/2013)
▪ 6 – 9 (Sn câu kệ 816) (dịch xong ngày 22/08/2013)
▪ 6 – 10 (Sn câu kệ 817) (dịch xong ngày 24/08/2013)
7. TISSAMETTEYYASUTTANIDDESO – DIỄN GIẢI KINH TISSA METTEYYA
▪ 7 – 1 (Sn câu kệ 818) (dịch xong ngày 26/08/2013)
▪ 7 – 2 (Sn câu kệ 819) (dịch xong ngày 28/08/2013)
▪ 7 – 3 (Sn câu kệ 820) (dịch xong ngày 30/08/2013)
▪ 7 – 4 (Sn câu kệ 821) (dịch xong ngày 31/08/2013)
▪ 7 – 5 (Sn câu kệ 822) (dịch xong ngày 02/09/2013)
▪ 7 – 6 (Sn câu kệ 823) (dịch xong ngày 03/09/2013)
▪ 7 – 7 (Sn câu kệ 824) (dịch xong ngày 04/09/2013)
▪ 7 – 8 (Sn câu kệ 825) (dịch xong ngày 05/09/2013)
▪ 7 – 9 (Sn câu kệ 826) (dịch xong ngày 06/09/2013)
▪ 7 – 10 (Sn câu kệ 827) (dịch xong ngày 07/09/2013)
8. PASŪRASUTTANIDDESO – DIỄN GIẢI KINH PASŪRA
▪ 8 – 1 (Sn câu kệ 828) (dịch xong ngày 26/09/2013)
▪ 8 – 2 (Sn câu kệ 829) (dịch xong ngày 05/10/2013)
▪ 8 – 3 (Sn câu kệ 830) (dịch xong ngày 07/10/2013)
▪ 8 – 4 (Sn câu kệ 831) (dịch xong ngày 12/10/2013)
▪ 8 – 5 (Sn câu kệ 832) (dịch xong ngày 13/10/2013)
▪ 8 – 6 (Sn câu kệ 833) (dịch xong ngày 14/10/2013)
▪ 8 – 7 (Sn câu kệ 834) (dịch xong ngày 20/10/2013)
▪ 8 – 8 (Sn câu kệ 835) (dịch xong ngày 21/10/2013)
▪ 8 – 9 (Sn câu kệ 836) (dịch xong ngày 27/10/2013)
▪ 8 – 10 (Sn câu kệ 837) (dịch xong ngày 28/10/2013)
▪ 8 – 11 (Sn câu kệ 838) (dịch xong ngày 04/11/2013)
9. MĀGANDIYASUTTANIDDESO – DIỄN GIẢI KINH MĀGANDIYA
▪ 9 – 1 (Sn câu kệ 839) (dịch xong ngày 05/11/2013)
▪ 9 – 2 (Sn câu kệ 840) (dịch xong ngày 26/11/2013)
▪ 9 – 3 (Sn câu kệ 841) (dịch xong ngày 24/04/2013)
▪ 9 – 4 (Sn câu kệ 842) (dịch xong ngày 26/04/2013)
▪ 9 – 5 (Sn câu kệ 843) (dịch xong ngày 01/05/2013)
▪ 9 – 6 (Sn câu kệ 844) (dịch xong ngày 02/05/2013)
▪ 9 – 7 (Sn câu kệ 845) (dịch xong ngày 06/05/2013)
▪ 9 – 8 (Sn câu kệ 846) (dịch xong ngày 29/05/2013)
▪ 9 – 9 (Sn câu kệ 847) (dịch xong ngày 30/05/2013)
▪ 9 – 10 (Sn câu kệ 848) (dịch xong ngày 18/06/2013)
▪ 9 – 11 (Sn câu kệ 849) (dịch xong ngày 19/06/2013)
▪ 9 – 12 (Sn câu kệ 850) (dịch xong ngày 20/06/2013)
▪ 9 – 13 (Sn câu kệ 851) (dịch xong ngày 23/06/2013)
10. PURĀBHEDASUTTANIDDESO – DIỄN GIẢI KINH TRƯỚC KHI HOẠI RÃ
▪ 10 – 1 (Sn câu kệ 852) (dịch xong ngày 21/07/2014)
▪ 10 – 2 (Sn câu kệ 853) (dịch xong ngày 23/07/2014)
▪ 10 – 3 (Sn câu kệ 854) (dịch xong ngày 28/07/2014)
▪ 10 – 4 (Sn câu kệ 855) (dịch xong ngày 30/07/2014)
▪ 10 – 5 (Sn câu kệ 856) (dịch xong ngày 18/09/2014)
▪ 10 – 6 (Sn câu kệ 857) (dịch xong ngày 20/09/2014)
▪ 10 – 7 (Sn câu kệ 858) (dịch xong ngày 25/09/2014)
▪ 10 – 8 (Sn câu kệ 859) (dịch xong ngày 05/10/2014)
▪ 10 – 9 (Sn câu kệ 860) (dịch xong ngày 07/10/2014)
▪ 10 – 10 (Sn câu kệ 861) (dịch xong ngày 13/10/2014)
▪ 10 – 11 (Sn câu kệ 862) (dịch xong ngày 21/10/2014)
▪ 10 – 12 (Sn câu kệ 863) (dịch xong ngày 23/10/2014)
▪ 10 – 13 (Sn câu kệ 864) (dịch xong ngày 08/03/2015)
▪ 10 – 14 (Sn câu kệ 865) (dịch xong ngày 09/03/2015)
11. KALAHAVIVĀDASUTTANIDDESO – DIỄN GIẢI KINH CÃI CỌ VÀ TRANH CÃI
▪ 11 – 1 (Sn câu kệ 866) (dịch xong ngày 03/04/2015)
▪ 11 – 2 (Sn câu kệ 867) (dịch xong ngày 05/04/2015)
▪ 11 – 3 (Sn câu kệ 868) (dịch xong ngày 06/04/2015)
▪ 11 – 4 (Sn câu kệ 869) (dịch xong ngày 07/04/2015)
▪ 11 – 5 (Sn câu kệ 870) (dịch xong ngày 08/04/2015)
▪ 11 – 6 (Sn câu kệ 871) (dịch xong ngày 10/04/2015)
▪ 11 – 7 (Sn câu kệ 872) (dịch xong ngày 11/04/2015)
▪ 11 – 8 (Sn câu kệ 873) (dịch xong ngày 12/04/2015)
▪ 11 – 9 (Sn câu kệ 874) (dịch xong ngày 13/04/2015)
▪ 11 – 10 (Sn câu kệ 875) (dịch xong ngày 14/04/2015)
▪ 11 – 11 (Sn câu kệ 876) (dịch xong ngày 15/04/2015)
▪ 11 – 12 (Sn câu kệ 877) (dịch xong ngày 16/04/2015)
▪ 11 – 13 (Sn câu kệ 878) (dịch xong ngày 17/04/2015)
▪ 11 – 14 (Sn câu kệ 879) (dịch xong ngày 18/04/2015)
▪ 11 – 15 (Sn câu kệ 880) (dịch xong ngày 19/04/2015)
▪ 11 – 16 (Sn câu kệ 881) (dịch xong ngày 20/04/2015)
12. CŪLAVIYŪHASUTTANIDDESO – DIỄN GIẢI KINH SỰ DÀN TRẬN NHỎ
▪ 12 – 1 (Sn câu kệ 882) (dịch xong ngày 21/04/2015)
▪ 12 – 2 (Sn câu kệ 883) (dịch xong ngày 21/04/2015)
▪ 12 – 3 (Sn câu kệ 884) (dịch xong ngày 21/04/2015)
▪ 12 – 4 (Sn câu kệ 885) (dịch xong ngày 22/04/2015)
▪ 12 – 5 (Sn câu kệ 886) (dịch xong ngày 23/04/2015)
▪ 12 – 6 (Sn câu kệ 887) (dịch xong ngày 23/04/2015)
▪ 12 – 7 (Sn câu kệ 888) (dịch xong ngày 23/04/2015)
▪ 12 – 8 (Sn câu kệ 889) (dịch xong ngày 23/04/2015)
▪ 12 – 9 (Sn câu kệ 890) (dịch xong ngày 24/04/2015)
▪ 12 – 10 (Sn câu kệ 891) (dịch xong ngày 24/04/2015)
▪ 12 – 11 (Sn câu kệ 892) (dịch xong ngày 25/04/2015)
▪ 12 – 12 (Sn câu kệ 893) (dịch xong ngày 26/04/2015)
▪ 12 – 13 (Sn câu kệ 894) (dịch xong ngày 27/04/2015)
▪ 12 – 14 (Sn câu kệ 895) (dịch xong ngày 28/04/2015)
▪ 12 – 15 (Sn câu kệ 896) (dịch xong ngày 29/04/2015)
▪ 12 – 16 (Sn câu kệ 897) (dịch xong ngày 30/04/2015)
▪ 12 – 17 (Sn câu kệ 898) (dịch xong ngày 01/05/2015)
13. MAHĀVIYŪHASUTTANIDDESO – DIỄN GIẢI KINH SỰ DÀN TRẬN LỚN
▪ 13 – 1 (Sn câu kệ 899) (dịch xong ngày 02/05/2015)
▪ 13 – 2 (Sn câu kệ 900) (dịch xong ngày 04/05/2015)
▪ 13 – 3 (Sn câu kệ 901) (dịch xong ngày 06/05/2015)
▪ 13 – 4 (Sn câu kệ 902) (dịch xong ngày 08/05/2015)
▪ 13 – 5 (Sn câu kệ 903) (dịch xong ngày 09/05/2015)
▪ 13 – 6 (Sn câu kệ 904) (dịch xong ngày 11/05/2015)
▪ 13 – 7 (Sn câu kệ 905) (dịch xong ngày 12/05/2015)
▪ 13 – 8 (Sn câu kệ 906) (dịch xong ngày 13/05/2015)
▪ 13 – 9 (Sn câu kệ 907) (dịch xong ngày 14/05/2015)
▪ 13 – 10 (Sn câu kệ 908) (dịch xong ngày 14/05/2015)
▪ 13 – 11 (Sn câu kệ 909) (dịch xong ngày 15/05/2015)
▪ 13 – 12 (Sn câu kệ 910) (dịch xong ngày 15/05/2015)
▪ 13 – 13 (Sn câu kệ 911) (dịch xong ngày 16/05/2015)
▪ 13 – 14 (Sn câu kệ 912) (dịch xong ngày 17/05/2015)
▪ 13 – 15 (Sn câu kệ 913) (dịch xong ngày 17/05/2015)
▪ 13 – 16 (Sn câu kệ 914) (dịch xong ngày 18/05/2015)
▪ 13 – 17 (Sn câu kệ 915) (dịch xong ngày 19/05/2015)
▪ 13 – 18 (Sn câu kệ 916) (dịch xong ngày 20/05/2015)
▪ 13 – 19 (Sn câu kệ 917) (dịch xong ngày 21/05/2015)
▪ 13 – 20 (Sn câu kệ 918) (dịch xong ngày 22/05/2015)
14. TUVAṬAKASUTTANIDDESO – DIỄN GIẢI KINH MỘT CÁCH NHANH CHÓNG
▪ 14 – 1 (Sn câu kệ 919) (dịch xong ngày 09/12/2014)
▪ 14 – 2 (Sn câu kệ 920) (dịch xong ngày 13/12/2014)
▪ 14 – 3 (Sn câu kệ 921) (dịch xong ngày 15/12/2014)
▪ 14 – 4 (Sn câu kệ 922) (dịch xong ngày 17/12/2014)
▪ 14 – 5 (Sn câu kệ 923) (dịch xong ngày 18/12/2014)
▪ 14 – 6 (Sn câu kệ 924) (dịch xong ngày 19/12/2014)
▪ 14 – 7 (Sn câu kệ 925) (dịch xong ngày 25/12/2014)
▪ 14 – 8 (Sn câu kệ 926) (dịch xong ngày 27/12/2014)
▪ 14 – 9 (Sn câu kệ 927) (dịch xong ngày 30/12/2014)
▪ 14 – 10 (Sn câu kệ 928) (dịch xong ngày 31/12/2014)
▪ 14 – 11 (Sn câu kệ 929) (dịch xong ngày 03/01/2015)
▪ 14 – 12 (Sn câu kệ 930) (dịch xong ngày 05/01/2015)
▪ 14 – 13 (Sn câu kệ 931) (dịch xong ngày 07/01/2015)
▪ 14 – 14 (Sn câu kệ 932) (dịch xong ngày 09/01/2015)
▪ 14 – 15 (Sn câu kệ 933) (dịch xong ngày 12/01/2015)
▪ 14 – 16 (Sn câu kệ 934) (dịch xong ngày 15/01/2015)
▪ 14 – 17 (Sn câu kệ 935) (dịch xong ngày 17/01/2015)
▪ 14 – 18 (Sn câu kệ 936) (dịch xong ngày 18/01/2015)
▪ 14 – 19 (Sn câu kệ 937) (dịch xong ngày 19/01/2015)
▪ 14 – 20 (Sn câu kệ 938) (dịch xong ngày 20/01/2015)
15. ATTADAṆḌASUTTANIDDESO – DIỄN GIẢI KINH UẾ HẠNH CỦA BẢN THÂN
▪ 15 – 1 (Sn câu kệ 939) (dịch xong ngày 24/01/2015)
▪ 15 – 2 (Sn câu kệ 940) (dịch xong ngày 25/01/2015)
▪ 15 – 3 (Sn câu kệ 941) (dịch xong ngày 27/01/2015)
▪ 15 – 4 (Sn câu kệ 942) (dịch xong ngày 28/01/2015)
▪ 15 – 5 (Sn câu kệ 943) (dịch xong ngày 01/02/2015)
▪ 15 – 6 (Sn câu kệ 944) (dịch xong ngày 02/02/2015)
▪ 15 – 7 (Sn câu kệ 945) (dịch xong ngày 03/02/2015)
▪ 15 – 8 (Sn câu kệ 946) (dịch xong ngày 05/02/2015)
▪ 15 – 9 (Sn câu kệ 947) (dịch xong ngày 06/02/2015)
▪ 15 – 10 (Sn câu kệ 948) (dịch xong ngày 07/02/2015)
▪ 15 – 11 (Sn câu kệ 949) (dịch xong ngày 08/02/2015)
▪ 15 – 12 (Sn câu kệ 950) (dịch xong ngày 09/02/2015)
▪ 15 – 13 (Sn câu kệ 951) (dịch xong ngày 10/02/2015)
▪ 15 – 14 (Sn câu kệ 952) (dịch xong ngày 11/02/2015)
▪ 15 – 15 (Sn câu kệ 953) (dịch xong ngày 13/02/2015)
▪ 15 – 16 (Sn câu kệ 954) (dịch xong ngày 15/02/2015)
▪ 15 – 17 (Sn câu kệ 955) (dịch xong ngày 20/02/2015)
▪ 15 – 18 (Sn câu kệ 956) (dịch xong ngày 21/02/2015)
▪ 15 – 19 (Sn câu kệ 957) (dịch xong ngày 22/02/2015)
▪ 15 – 20 (Sn câu kệ 958) (dịch xong ngày 23/02/2015)
16. SĀRIPUTTASUTTANIDDESO – DIỄN GIẢI KINH SĀRIPUTTA
▪ 16 – 1 (Sn câu kệ 959) (dịch xong ngày 01/08/2014)
▪ 16 – 2 (Sn câu kệ 960) (dịch xong ngày 12/08/2014)
▪ 16 – 3 (Sn câu kệ 961) (dịch xong ngày 26/09/2014)
▪ 16 – 4 (Sn câu kệ 962) (dịch xong ngày 27/09/2014)
▪ 16 – 5 (Sn câu kệ 963) (dịch xong ngày 28/09/2014)
▪ 16 – 6 (Sn câu kệ 964) (dịch xong ngày 30/09/2014)
▪ 16 – 7 (Sn câu kệ 965) (dịch xong ngày 10/10/2014)
▪ 16 – 8 (Sn câu kệ 966) (dịch xong ngày 11/10/2014)
▪ 16 – 9 (Sn câu kệ 967) (dịch xong ngày 12/10/2014)
▪ 16 – 10 (Sn câu kệ 968) (dịch xong ngày 14/10/2014)
▪ 16 – 11 (Sn câu kệ 969) (dịch xong ngày 15/10/2014)
▪ 16 – 12 (Sn câu kệ 970) (dịch xong ngày 18/10/2014)
▪ 16 – 13 (Sn câu kệ 971) (dịch xong ngày 20/10/2014)
▪ 16 – 14 (Sn câu kệ 972) (dịch xong ngày 25/10/2014)
▪ 16 – 15 (Sn câu kệ 973) (dịch xong ngày 26/10/2014)
▪ 16 – 16 (Sn câu kệ 974) (dịch xong ngày 28/10/2014)
▪ 16 – 17 (Sn câu kệ 975) (dịch xong ngày 31/10/2014)
▪ 16 – 18 (Sn câu kệ 976) (dịch xong ngày 15/11/2014)
▪ 16 – 19 (Sn câu kệ 977) (dịch xong ngày 20/11/2014)
▪ 16 – 20 (Sn câu kệ 978) (dịch xong ngày 02/12/2014)
▪ 16 – 21 (Sn câu kệ 979) (dịch xong ngày 04/12/2014)
Giới thiệu
Nội dung của tập Kinh thứ nhất, Mahāniddesapāḷi – Đại Diễn Giải (TTPV 35), được chia thành 16 phần dựa theo 16 bài Kinh (sutta) ở văn bản gốc (Suttanipātapāḷi – Kinh Tập) cụ thể như sau:
1. Kāmasuttaniddeso – Diễn Giải Kinh về Dục
2. Guhaṭṭhakasuttaniddeso – Diễn Giải Kinh Nhóm Tám về Hang
3. Duṭṭhaṭṭhakasuttaniddeso – Diễn Giải Kinh Nhóm Tám về Xấu Xa
4. Suddhaṭṭhakasuttaniddeso – Diễn Giải Kinh Nhóm Tám về Trong Sạch
5. Paramaṭṭhakasuttaniddeso – Diễn Giải Bài Kinh Nhóm Tám về Tối Thắng
6. Jarāsuttaniddeso – Diễn Giải Kinh về Sự Già
7. Tissametteyyasuttaniddeso – Diễn Giải Kinh về Tissametteyya
8. Pasūrasuttaniddeso – Diễn Giải Kinh về Pasūra
9. Māgandiyasuttaniddeso – Diễn Giải Kinh về Māgandiya
10. Purābhedasuttaniddeso – Diễn Giải Kinh Trước Khi Hoại Rã
11. Kalahavivādasuttaniddeso – Diễn Giải Kinh Cãi Cọ và Tranh Cãi
12. Cūlaviyūhasuttaniddeso – Diễn Giải Kinh Sự Dàn Trận Nhỏ
13. Mahāviyūhasuttaniddeso – Diễn Giải Kinh Sự Dàn Trận Lớn
14. Tuvaṭakasuttaniddeso – Diễn Giải Kinh Một Cách Nhanh Chóng
15. Attadaṇḍasuttaniddeso – Diễn Giải Kinh Uế Hạnh của Bản Thân
16. Sāriputtasuttaniddeso – Diễn Giải Kinh về Sāriputta
Các kệ ngôn trong tổng số 210 kệ ngôn của 16 phần trên được giải thích tuần tự đúng theo thứ tự ở tập Kinh Suttanipātapāḷi – Kinh Tập và được trình bày theo chữ nghiêng hay tô đậm để tiện việc phân biệt.
Một cách tóm tắt, tập Kinh Mahāniddesapāḷi – Đại Diễn Giải giúp cho người học Phật củng cố về mặt tri kiến cũng như về lãnh vực tu tập với lời giải thích chi tiết phần giáo lý về các dục và sự đắm nhiễm tham ái của bản thân, từ đó dẫn đến các trạng thái ô nhiễm và chấp thủ tà kiến khiến con người không nắm được bản thể thật của thế gian, sanh-già-bệnh-chết, rồi lao vào các cuộc tranh cãi, sanh khởi ngã mạn, và chìm đắm vào trạng thái mê muội, xa lìa sự giác ngộ.
Kính bút,
ngày 16 tháng 04 năm 2018
Tỳ Khưu Indacanda (Trương đình Dũng)
1. KĀMASUTTANIDDESO – DIỄN GIẢI KINH VỀ DỤC
1.1
“Kāmaṃ kāmayamānassa tassa ce taṃ samijjhati, addhā pītimano hoti laddhā macco yadicchati.”
“Đối với người ham muốn về dục, nếu điều ấy thành tựu đến người ấy, đương nhiên là có ý vui mừng sau khi đã đạt được điều người ước muốn.”
(I) Kinh về Dục (Sn 151)
Ai ao ước được dục,
Nếu dục được thành tựu,
Chắc tâm ý hoan hỷ,
Ðược điều con người muốn.
(Kinh Tập, câu kệ 766)
Kāmaṃ kāmayamānassā ti- Kāmā ti uddānato dve kāmā: vatthukāmā ca kilesakāmā ca. Katame vatthukāmā? Manāpikā rūpā manāpikā saddā manāpikā gandhā manāpikā rasā manāpikā phoṭṭhabbā, attharaṇā pāpuraṇā, dāsidāsā ajeḷakā kukkuṭasūkarā hatthigavāssavaḷavā, khettaṃ vatthu hiraññaṃ suvaṇṇaṃ gāmanigamarājadhāniyo raṭṭhaṃ ca janapado ca koso ca koṭṭhāgāraṃ ca, yaṃ kiñci rajanīyaṃ vatthu vatthukāmā.
Đối với người ham muốn về dục: Dục theo sự phân hạng thì có hai loại dục: vật dục và ô nhiễm dục. Các loại nào là vật dục? Các sắc hợp ý, các thinh hợp ý, các hương hợp ý, các vị hợp ý, các xúc hợp ý, các vật trải lót, các vật đắp, các tôi trai và tớ gái, dê cừu, gà heo, voi bò ngựa lừa, ruộng, vườn, tiền vàng, vàng khối, làng, phố, kinh thành, lãnh thổ, xứ sở, khu trại, nhà kho, bất cứ vật gì đưa đến sự luyến ái là vật dục.
Api ca atītā kāmā, anāgatā kāmā, paccuppannā kāmā, ajjhattā kāmā, bahiddhā kāmā, ajjhattabahiddhā kāmā, hīnā kāmā, majjhimā kāmā, paṇītā kāmā, āpāyikā kāmā, mānusikā kāmā, dibbā kāmā, paccupaṭṭhitā kāmā, nimmitā kāmā, paranimmitā kāmā, animmitā kāmā, pariggahitā kāmā, apariggahitā kāmā, mamāyitā kāmā, amamāyitā kāmā, sabbe’pi kāmāvacarā dhammā, sabbe’pi rūpāvacarā dhammā, sabbe’pi arūpāvacarā dhammā, taṇhāvatthukā taṇhārammaṇā kamanīyaṭṭhena rajanīyaṭṭhena madanīyaṭṭhena kāmā. Ime vuccanti vatthukāmā.
Thêm nữa là các dục quá khứ, các dục vị lại, các dục hiện tại, các dục nội phần, các dục ngoại phần, các dục nội và ngoại phần, các dục hạ liệt, các dục trung bình, các dục cao quý, các dục thuộc địa ngục, các dục thuộc loài người, các dục thuộc cõi Trời, các dục được hiện hữu, các dục được tạo ra, các dục được người khác tạo ra, các dục không được tạo ra, các dục thuộc sở hữu, các dục không thuộc sở hữu, các dục thuộc cá nhân, các dục không thuộc cá nhân, tính luôn tất cả các pháp Dục Giới, tất cả các pháp Sắc Giới, tất cả các pháp Vô Sắc Giới, các dục có nền tảng là ái, có cảnh giới là ái, với ý nghĩa là đưa đến sự ham muốn, với ý nghĩa là đưa đến sự luyến ái, với ý nghĩa là đưa đến sự say đắm. Các điều này được gọi là các vật dục.
Katame kilesakāmā? Chando kāmo, rāgo kāmo, chandarāgo kāmo, saṅkappo kāmo, rāgo kāmo, saṅkapparāgo kāmo, yo kāmesu kāmacchando, kāmarāgo, kāmanandi, kāmataṇhā, kāmasineho, kāmapariḷāho, kāmamucchā, kāmajjhosānaṃ, kāmogho, kāmayogo, kāmūpādānaṃ, kāmacchandanīvaraṇaṃ.
Ô nhiễm dục là các loại nào? Mong muốn là dục, luyến ái là dục, mong muốn và luyến ái là dục, suy tầm là dục, luyến ái là dục, suy tầm và luyến ái là dục, sự mong muốn về dục, sự luyến ái về dục, niềm vui về dục, sự ham muốn về dục, sự thương yêu về dục, sự nồng nhiệt về dục, sự mê mẩn về dục, sự ràng buộc của dục, sự lôi cuốn của dục, sự gắn bó của dục, sự chấp thủ ở dục, sự che lấp do mong muốn ở các dục.“
Addasaṃ kāma te mūlaṃ saṅkappā kāma jāyasi, na taṃ saṅkappayissāmi evaṃ kāma na hehisī ”ti.
“Này dục, ta đã nhìn thấy gốc rễ của ngươi. Này dục, ngươi sanh lên từ sự suy tầm. Ta sẽ không suy tầm về ngươi nữa. Này dục, như vậy ngươi sẽ không hiện hữu.”
Ime vuccanti kilesakāmā.
Các điều này được gọi là ô nhiễm dục.
Kāmayamānassā ti kāmayamānassa icchamānassa sādiyamānassa patthayamānassa pihayamānassa abhijappamānassā ’ti kāmaṃ kāmayamānassa.
Đối với người ham muốn: đối với người đang ham muốn, đối với người đang ước muốn, đối với người đang ưng thuận, đối với người đang ước nguyện, đối với người đang mong cầu, đối với người đang khẩn cầu. Đối với người ham muốn về dục là như thế.
Tassa ce taṃ samijjhatī ti – Tassa ce ti tassa khattiyassa vā brāhmaṇassa vā vessassa vā suddassa vā gahaṭṭhassa vā pabbajitassa vā devassa vā manussassa vā. Tan ti vatthukāmā vuccanti: manāpikā rūpā manāpikā saddā manāpikā gandhā manāpikā rasā manāpikā phoṭṭhabbā. Samijjhatī ti ijjhati samijjhati labhati paṭilabhati adhigacchati vindatīti tassa ce taṃ samijjhati.
Nếu điều ấy thành tựu đến người ấy: Nếu … đến người ấy tức là đến vị Sát-đế-lỵ, hoặc đến vị Bà-la-môn, hoặc đến người thương buôn, hoặc đến kẻ nô lệ, hoặc đến người gia chủ, hoặc đến vị xuất gia, hoặc đến vị Trời, hoặc đến người nhân loại ấy. Điều ấy tức là các vật dục được nói đến: các sắc hợp ý, các thinh hợp ý, các hương hợp ý, các vị hợp ý, các xúc hợp ý. Thành tựu tức là có kết quả, thành tựu, đạt được, nhận được, đạt đến, kiếm được. Nếu điều ấy thành tựu đến người ấy là như thế.
Addhā pītimano hotī ti – Addhā ti ekaṃsavacanaṃ nissaṃsayavacanaṃ nikkaṅkhāvacanaṃ advejjhavacanaṃ adveḷhakavacanaṃ niyogavacanaṃ apaṇṇakavacanaṃ avatthāpanavacanametaṃ addhā ti. Pītī ti yā pañcakāmaguṇapaṭisaṃyuttā pīti pāmojjaṃ āmodanā pamodanā hāso pahāso vitti tuṭṭhi odagyaṃ attamanatā abhippharaṇatā cittassa. Manoti yaṃ cittaṃ mano mānasaṃ hadayaṃ paṇḍaraṃ mano manāyatanaṃ manindriyaṃ viññāṇaṃ viññāṇakkhandho tajjā manoviññāṇadhātu. Ayaṃ vuccati mano. Ayaṃ mano imāya pītiyā sahagato hoti sahajāto saṃsaṭṭho sampayutto ekuppādo ekanirodho ekavatthuko ekārammaṇo. Pītimano hotī ti pītamano hoti tuṭṭhamano haṭṭhamano pahaṭṭhamano attamano udaggamano muditamano pamuditamano hotī ’ti addhā pītimano hoti.
Đương nhiên là có ý vui mừng: Đương nhiên là lời nói nhất định, lời nói chắc chắn, lời nói không nghi ngờ, lời nói không hai nghĩa, lời nói không mâu thuẫn, lời nói bảo đảm, lời nói không sai trái, lời nói khẳng định; điều này là đương nhiên. Vui mừng là sự vui mừng, sự hoan hỷ, sự tùy hỷ, sự vui thích, sự cười đùa, sự hài hước, sự vui lòng, sự vui sướng, sự phấn khởi, sự vừa ý, sự sung sướng của tâm có liên quan đến năm loại dục. Ý tức là tâm; ý là tinh thần, là trái tim, là vật tinh khiết; ý là ý xứ, ý quyền, thức, thức uẩn, từ đó có ý thức giới; điều này được gọi là ý. Ý này với sự vui mừng này là đồng hành, đồng sanh, được liên kết, được gắn bó, cùng sanh, cùng diệt, chung một nền tảng, chung một đối tượng. Có ý vui mừng: Ý vui mừng là ý vui sướng, ý vui vẻ, ý thích thú, ý hài lòng, ý phấn khởi, ý tùy hỷ, ý vui thích. Đương nhiên là có ý vui mừng là như thế.
Laddhā macco yadicchatī ti – Laddhā ti labhitvā adhigantvā vinditvā paṭilabhitvā. Macco ti – satto naro mānavo poso puggalo jīvo jāgū jantu indagū manujo. Yadicchatī ti – yaṃ icchati yaṃ sādiyati, yaṃ pattheti, yaṃ piheti, yaṃ abhijappati rūpaṃ vā saddaṃ vā gandhaṃ vā rasaṃ vā phoṭṭhabbaṃ vā ’ti laddhā macco yadicchati.
Sau khi đã đạt được điều người ước muốn: Sau khi đã đạt được là sau khi đạt được, sau khi đạt đến, sau khi kiếm được, sau khi nhận được. Người là chúng sanh, đàn ông, thanh niên, người nam, cá nhân, mạng sống, người còn sanh tử, con người, người đi theo nghiệp, nhân loại. Điều người ước muốn: Điều người ước muốn là điều người ưng thuận, điều người ước nguyện, điều người mong cầu, điều người khẩn cầu: hoặc là sắc, hoặc là thinh, hoặc là hương, hoặc là vị, hoặc là xúc. Điều người ước muốn là như thế.
Tenāha bhagavā:
“Kāmaṃ kāmayamānassa tassa ce taṃ samijjhati,
addhā pītimano hoti laddhā macco yadicchatī”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Đối với người ham muốn về dục, nếu điều ấy thành tựu đến người ấy, đương nhiên là có ý vui mừng sau khi đã đạt được điều người ước muốn.”
1.2
“Tassa ce kāmayānassa chandajātassa jantuno, te kāmā parihāyanti sallaviddho ’va ruppati.”
“Nếu đối với người ấy, –(tức là) đối với người đang ham muốn, đối với con người có sự mong muốn đã sanh khởi,– các dục ấy bị suy giảm, thì (người ấy) bị khổ sở như là bị đâm xuyên bởi mũi tên.”
Nếu người có dục ấy,
Ước muốn được sanh khởi,
Các dục ấy bị diệt,
Bị khổ như tên đâm.
(Kinh Tập, câu kệ 767)
Tassa ce kāmayānassā ti – Tassa ce ti tassa khattiyassa vā brāhmaṇassa vā vessassa vā suddassa vā gahaṭṭhassa vā pabbajitassa vā devassa vā manussassa vā. Kāmayānassā ti – kāme icchamānassa sādiyamānassa patthayamānassa pihayamānassa abhijappamānassa, athavā kāmataṇhāya yāyati nīyati vuyhati saṃharīyati, yathā hatthiyānena vā assayānena vā goyānena vā ajayānena vā meṇḍakayānena vā oṭṭhayānena vā kharayānena vā yāyati nīyati vuyhati saṃharīyati, evamevaṃ kāmataṇhāya yāyati nīyati vuyhati saṃharīyatīti tassa ce kāmayānassa.
Nếu đối với người ấy, (tức là) đối với người đang ham muốn: Nếu đối với người ấy tức là đối với vị Sát-đế-lỵ, hoặc đối với vị Bà-la-môn, hoặc đối với người thương buôn, hoặc đối với kẻ nô lệ, hoặc đối với người gia chủ, hoặc đối với vị xuất gia, hoặc đối với vị Trời, hoặc đối với người nhân loại ấy. Đối với người đang ham muốn là đối với người đang ước muốn, đối với người đang ưng thuận, đối với người đang ước nguyện, đối với người đang mong cầu, đối với người đang khẩn cầu về các dục, hoặc giả mà người bị đưa đi, bị dẫn đi, bị lôi đi, bị mang đi bởi sự thương yêu về dục. Giống như người bị đưa đi, bị dẫn đi, bị lôi đi, bị mang đi bằng phương tiện voi, bằng phương tiện ngựa, bằng phương tiện bò, bằng phương tiện lừa, bằng phương tiện cừu, bằng phương tiện lạc đà, tương tợ y như thế là người bị đưa đi, bị dẫn đi, bị lôi đi, bị mang đi bởi sự thương yêu về dục. Nếu đối với người ấy (tức là) đối với người đang ham muốn là như thế.
Chandajātassa jantuno ti – Chando ti yo kāmesu kāmacchando kāmarāgo kāmanandi kāmataṇhā kāmasineho kāmapariḷāho kāmamucchā kāmajjhosānaṃ kāmogho kāmayogo kāmūpādānaṃ kāmacchandanīvaraṇaṃ, tassa so kāmacchando jāto hoti sañjāto nibbatto abhinibbatto pātubhūto. Jantuno ti – sattassa narassa mānavassa posassa puggalassa jīvassa jāgussa jantussa indagussa manujassāti ‘chandajātassa jantuno.’
Đối với con người có sự mong muốn đã sanh khởi: Mong muốn là sự mong muốn về dục, sự luyến ái về dục, niềm vui về dục, sự khao khát về dục, sự thương yêu về dục, sự nồng nhiệt về dục, sự mê mẩn về dục, sự ràng buộc của dục, sự lôi cuốn của dục, sự gắn bó của dục, sự chấp thủ ở dục, sự che lấp do mong muốn ở các dục. Đối với người ấy sự mong muốn về dục đã sanh khởi, đã nảy sanh, đã hạ sanh, đã phát sanh, đã xuất hiện. Đối với con người là đối với chúng sanh, đối với đàn ông, đối với thanh niên, đối với người nam, đối với cá nhân, đối với mạng sống, đối với người còn sanh tử, đối với con người, đối với người đi theo nghiệp, đối với nhân loại. Đối với con người có sự mong muốn đã sanh khởi là như thế.
Te kāmā parihāyantī ti – te vā kāmā parihāyanti, so vā kāmehi parihāyati, kathaṃ te kāmā parihāyanti? Tassa tiṭṭhantasseva te bhoge rājāno vā haranti, corā vā haranti, aggi vā dahati, udakaṃ vā vahati, appiyā vā dāyādā haranti, nihitaṃ vā nādhigacchati, duppayuttā vā kammantā bhijjanti, kule vā kulaṅgāro uppajjati, yo te bhoge vikirati vidhamati viddhaṃseti, aniccatā eva aṭṭhamī. Evaṃ te kāmā hāyanti parihāyanti paridhaṃsanti paripatanti antaradhāyanti vippalujjanti.
Các dục ấy bị suy giảm: hoặc là các dục ấy bị suy giảm, hoặc là người ấy bị suy giảm về các dục. Các dục ấy bị suy giảm bằng cách nào? Ngay trong khi người ấy đang gìn giữ, các vị vua lấy đi các tài sản của người ấy, hoặc các kẻ trộm lấy đi, hoặc lửa thiêu đốt, hoặc nước cuốn trôi, hoặc những người thừa tự không được yêu thương lấy đi, hoặc không đạt được của chôn giấu, hoặc các công việc bị đổ vỡ do xử lý kém, hoặc kẻ phá gia xuất hiện ở gia đình làm phân tán, tàn phá, hủy hoại các tài sản ấy, tính luôn tính chất vô thường là thứ tám. Các dục ấy bị giảm bớt, bị suy giảm, bị mất mát, bị đổ vỡ, bị biến mất, bị tiêu hoại là như vậy.
Kathaṃ so kāmehi parihāyati? Tiṭṭhanteva te bhoge so cavati marati antaradhāyati vippalujjati. Evaṃ so kāmehi hāyati parihāyati paridhaṃsati paripatati antaradhāyati vippalujjati.
Người ấy bị suy giảm về các dục bằng cách nào? Ngay trong khi các tài sản ấy còn đang tồn tại thì người ấy từ trần, chết đi, biến mất, tiêu hoại. Người ấy bị giảm bớt, bị suy giảm, bị mất mát, bị đổ vỡ, bị biến mất, bị tiêu hoại về các dục là như vậy.
1. “Corā haranti rājāno aggi dahati nassati, atha antena jahati sarīraṃ sapariggahaṃ.
1. “Các kẻ trộm, các vị vua lấy đi, lửa đốt, bị mất mát, rồi cuối cùng thì người cũng phải buông bỏ thân mạng cùng với vật sở hữu.
2. Etadaññāya medhāvī bhuñjetha ca dadetha ca, datvā ca bhutvā ca yathānubhāvaṃ, anindito saggamupeti ṭhānaṃ ”ti.
2. Biết được điều này, các bậc thông minh nên thọ dụng và nên bố thí. Sau khi bố thí và thọ dụng tùy theo khả năng thì không bị chê trách và đi đến chốn cõi trời.”
Te kāmā parihāyanti sallaviddhova ruppatī ti – Yathā ayomayena vā sallena viddho aṭṭhimayena vā sallena dantamayena vā sallena visāṇamayena vā sallena kaṭṭhamayena vā sallena viddho ruppati kuppati ghaṭṭīyati piḷīyati vyathito domanassito hoti, evameva vatthukāmānaṃ vipariṇāmaññathābhāvā uppajjanti sokaparidevadukkhadomanassupāyāsā. So kāmasallena ca sokasallena ca viddho ruppati kuppati ghaṭṭīyati piḷīyati vyathito domanassito hotīti – sallaviddhova ruppati.
Các dục ấy bị suy giảm, thì (người ấy) bị khổ sở như là bị đâm xuyên bởi mũi tên: Giống như bị đâm xuyên bởi mũi tên làm bằng sắt, hoặc bị đâm xuyên bởi mũi tên làm bằng xương, hay bởi mũi tên làm bằng ngà, hay bởi mũi tên làm bằng sừng, hay bởi mũi tên làm bằng gỗ thì bị khổ sở, bị bực bội, bị khó chịu, bị hành hạ, bị bệnh hoạn, bị ưu sầu, tương tợ y như thế các trạng thái bất thường do sự biến đổi của các vật dục là sầu bi khổ ưu não sanh lên. Bị đâm xuyên bởi mũi tên sầu muộn và bởi mũi tên dục vọng, người ấy bị khổ sở, bị bực bội, bị khó chịu, bị hành hạ, bị bệnh hoạn, bị ưu sầu. Bị khổ sở như là bị đâm xuyên bởi mũi tên là như thế.
Tenāha bhagavā:
“Tassa ce kāmayānassa chandajātassa jantuno, te kāmā parihāyanti sallaviddhova ruppatī ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Nếu đối với người ấy, –(tức là) đối với người đang ham muốn, đối với con người có sự mong muốn đã sanh khởi,– các dục ấy bị suy giảm, thì (người ấy) bị khổ sở như là bị đâm xuyên bởi mũi tên.”
1.3
“Yo kāme parivajjeti sappasseva padā siro, so ’maṃ visattikaṃ loke sato samativattati.”
“Người nào xa lánh các dục tựa như các bàn chân (xa lánh) đầu của con rắn, người ấy, có niệm, vượt qua sự vướng mắc này ở thế gian.”
Ai tránh né các dục
Như chân tránh đầu rắn,
Chánh niệm vượt thoát được,
Ái triền này ở đời.
(Kinh Tập, câu kệ 768)
Yo kāme parivajjetī ti – Yo ti yo yādiso yathāyutto yathāvihito yathāpakāro yaṃ ṭhānaṃ patto yaṃdhammasamannāgato khattiyo vā brāhmaṇo vā vesso vā suddo vā gahaṭṭho vā pabbajito vā devo vā manusso vā. Kāme parivajjetī ti’ Kāmā ti uddānato dve kāmā: vatthukāmā ca kilesakāmā ca —pe— Ime vuccanti vatthukāmā. —pe— Ime vuccanti kilesakāmā.
Người nào xa lánh các dục: Người nào là người như thế, được gắn bó như thế, được định đặt như thế, có biểu hiện như thế, đã đạt đến địa vị như thế, đã thành tựu phẩm chất như thế, hoặc là vị Sát-đế-lỵ, hoặc là vị Bà-la-môn, hoặc là người thương buôn, hoặc là kẻ nô lệ, hoặc là người gia chủ, hoặc là vị xuất gia, hoặc là vị Thiên nhân, hoặc là người nhân loại. Xa lánh các dục: Các dục theo sự phân hạng thì có hai loại dục: các vật dục và các ô nhiễm dục. —như trên— Các điều này được gọi là các vật dục. —như trên— Các điều này được gọi là các ô nhiễm dục.
Kāme parivajjetī ti dvīhi kāraṇehi kāme parivajjeti: vikkhambhaṇato vā samucchedato vā. Kathaṃ vikkhambhaṇato kāme parivajjeti? “Aṭṭhikaṅkalūpamā kāmā appassādaṭṭhenā ”ti passanto vikkhambhaṇato kāme parivajjeti. “Maṃsapesūpamā kāmā bahusādhāraṇaṭṭhenā ”ti passanto vikkhambhaṇato kāme parivajjeti. “Tiṇukkūpamā kāmā anudahanaṭṭhenā ”ti passanto vikkhambhaṇato kāme parivajjeti. “Aṅgārakāsūpamā kāmā mahāpariḷāhaṭṭhenā ”ti passanto vikkhambhaṇato kāme parivajjeti.—
Xa lánh các dục: Xa lánh các dục do hai nguyên nhân: do sự ngăn trở hoặc do sự đoạn trừ. Thế nào là do sự ngăn trở mà xa lánh các dục? Trong khi nhìn thấy “các dục như là bộ xương với ý nghĩa chút ít khoái lạc” thì do sự ngăn trở mà xa lánh các dục. Trong khi nhìn thấy “các dục như là miếng thịt với ý nghĩa vật chung của số đông” thì do sự ngăn trở mà xa lánh các dục. Trong khi nhìn thấy “các dục như là cây đuốc cỏ với ý nghĩa thiêu đốt” thì do sự ngăn trở mà xa lánh các dục. Trong khi nhìn thấy “các dục như là hố than cháy rực với ý nghĩa nóng bức dữ dội” thì do sự ngăn trở mà xa lánh các dục.—
“Supinakūpamā kāmā ittarapaccupaṭṭhānaṭṭhenā ”ti passanto vikkhambhaṇato kāme parivajjeti. “Yācitakūpamā kāmā tāvakālikaṭṭhenā” ti passanto vikkhambhaṇato kāme parivajjeti. “Rukkhaphalūpamā kāmā sambhañjanaparibhañjanaṭṭhenā ”ti passanto vikkhambhaṇato kāme parivajjeti. “Asisūnūpamā kāmā adhikuṭṭanaṭṭhenā ”ti passanto vikkhambhaṇato kāme parivajjeti. “Sattisūlūpamā kāmā vinivijjhanaṭṭhenā ”ti passanto vikkhambhaṇato kāmo parivajjeti. “Sappasirūpamā kāmā sappaṭibhayaṭṭhenā ”ti passanto vikkhambhaṇato kāme parivajjeti. “Aggikkhandhūpamā kāmā mahābhi tāpakaraṭṭhenā ”ti passanto vikkhambhaṇato kāme parivajjeti.
Trong khi nhìn thấy “các dục như là giấc mơ với ý nghĩa hiện diện ngắn ngủi” thì do sự ngăn trở mà xa lánh các dục. Trong khi nhìn thấy “các dục như là vật vay mượn với ý nghĩa tạm thời” thì do sự ngăn trở mà xa lánh các dục. Trong khi nhìn thấy “các dục như là trái trên cây với ý nghĩa gãy đổ” thì do sự ngăn trở mà xa lánh các dục. Trong khi nhìn thấy “các dục như là lò sát sanh với ý nghĩa chặt chém” thì do sự ngăn trở mà xa lánh các dục. Trong khi nhìn thấy “các dục như là mũi lao nhọn với ý nghĩa đâm thủng” thì do sự ngăn trở mà xa lánh các dục. Trong khi nhìn thấy “các dục như là đầu rắn độc với ý nghĩa có sự sợ hãi” thì do sự ngăn trở mà xa lánh các dục. Trong khi nhìn thấy “các dục như là đống lửa với ý nghĩa nóng bức dữ dội” thì do sự ngăn trở mà xa lánh các dục.
Buddhānussatiṃ bhāventopi vikkhambhaṇato kāme parivajjeti. Dhammānussatiṃ bhāventopi —pe— saṅghānussatiṃ bhāventopi, sīlānussatiṃ bhāventopi, cāgānussatiṃ bhāventopi, devatānussatiṃ bhāventopi, ānāpānasatiṃ bhāventopi, maraṇasatiṃ bhāventopi, kāyagatāsatiṃ bhāventopi, upasamānussatiṃ bhāventopi vikkhambhaṇato kāme parivajjeti. Paṭhamajjhānaṃ bhāventopi vikkhambhanato kāme parivajjeti, dutiyajjhānaṃ bhāventopi, tatiyajjhānaṃ bhāventopi, catutthajjhānaṃ bhāventopi, ākāsānañcāyanasamāpattiṃ bhāventopi, viññāṇañcāyatanasamāpattiṃ bhāventopi, ākiñcaññāyatanasamāpattiṃ bhāventopi, nevasaññānāsaññāyatanasamāpattiṃ bhāventopi vikkhambhaṇato kāme parivajjeti. Evaṃ vikkhambhaṇato kāme parivajjeti.
Ngay trong khi tu tập tùy niệm Phật thì do sự ngăn trở mà xa lánh các dục. Ngay trong khi tu tập tùy niệm Pháp —như trên— Ngay trong khi tu tập tùy niệm Tăng, ngay trong khi tu tập tùy niệm giới, ngay trong khi tu tập tùy niệm xả thí, ngay trong khi tu tập tùy niệm Thiên, ngay trong khi tu tập niệm hơi thở vào – hơi thở ra, ngay trong khi tu tập niệm sự chết, ngay trong khi tu tập niệm đặt ở thân, ngay trong khi tu tập tùy niệm Niết Bàn thì do sự ngăn trở mà xa lánh các dục. Ngay trong khi tu tập sơ thiền thì do sự ngăn trở mà xa lánh các dục, ngay trong khi tu tập nhị thiền, ngay trong khi tu tập tam thiền, ngay trong khi tu tập tứ thiền, ngay trong khi tu tập sự chứng đạt không vô biên xứ, ngay trong khi tu tập sự chứng đạt thức vô biên xứ, ngay trong khi tu tập sự chứng đạt vô sở hữu xứ, ngay trong khi tu tập sự chứng đạt phi tưởng phi phi tưởng xứ thì do sự ngăn trở mà xa lánh các dục. Do sự ngăn trở mà xa lánh các dục là như thế.
Kathaṃ samucchedato kāme parivajjeti? Sotāpattimaggaṃ bhāventopi apāyagamanīye kāme samucchedato parivajjeti. Sakadāgāmimaggaṃ bhāventopi oḷārike kāme samucchedato parivajjeti. Anāgāmimaggaṃ bhāventopi aṇusahagate kāme samucchedato parivajjeti. Arahattamaggaṃ bhāventopi sabbena sabbaṃ sabbathā sabbaṃ asesaṃ nissesaṃ samucchedato kāme parivajjetī ti yo kāme parivajjeti.
Thế nào là do sự đoạn trừ mà xa lánh các dục? Ngay trong khi tu tập Đạo Nhập Lưu thì do sự đoạn trừ mà xa lánh các dục đưa đến khổ cảnh. Ngay trong khi tu tập Đạo Nhất Lai thì do sự đoạn trừ mà xa lánh các dục thô thiển. Ngay trong khi tu tập Đạo Bất Lai thì do sự đoạn trừ mà xa lánh các dục có tính chất vi tế. Ngay trong khi tu tập Đạo A-la-hán thì do sự đoạn trừ mà xa lánh các dục bằng mọi cách, ở mọi nơi, một cách trọn vẹn, không còn dư sót. Người nào xa lánh các dục là như thế.
Sappasseva padā siro ti – Sappo vuccati ahi. Kenaṭṭhena sappo? Saṃsappanto gacchatīti sappo; bhujanto gacchatīti bhujago; urena gacchatīti urago; pannasiro gacchatīti pannago; sirena supatīti siriṃsapo; bile sayatīti bilāsayo; guhāyaṃ sayatīti guhāsayo; dāṭhā tassa āvudhoti dāṭhāvudho; visaṃ tassa ghoranti ghoraviso; jivhā tassa duvidhāti dvijivho; dvīhi jivhāhi rasaṃ sāyatīti dvirasaññū. Yathā puriso jīvitukāmo amaritukāmo sukhakāmo dukkhapaṭikkūlo pādena sappasiraṃ vivajjeyya parivajjeyya abhinivajjeyya, evameva sukhakāmo dukkhapaṭikkūlo kāme vajjeyya vivajjeyya parivajjeyya abhinivajjeyyāti – sappasseva padā siro.
Tựa như các bàn chân (xa lánh) đầu của con rắn: Con rắn (sappa) được gọi là ahi. Con rắn với ý nghĩa gì? Sappo là vì “nó di chuyển theo lối bò trườn,” bhujago là vì “nó di chuyển ngoằn ngoèo,” urago là vì “nó di chuyển bằng ngực,” pannago là vì “nó di chuyển với cái đầu ở tư thế nằm,” siriṃsapo là vì “nó ngủ bằng cái đầu,” bilāsayo là vì “nó nằm trong động,” guhāsayo là vì “nó nằm trong hang,” dāṭhāvudho là vì “răng nanh của nó là vũ khí,” ghoraviso là vì “chất độc của nó là dữ dội,” dvijivho là vì “lưỡi của nó có hai phần,” dvirasaññū là vì “nó nếm vị bằng hai cái lưỡi.” [1] Người đàn ông ham muốn sống, ham muốn không bị chết, ham muốn lạc, chán ghét khổ nên tránh né, xa lánh, tránh thật xa cái đầu con rắn bằng bàn chân như thế nào thì người ham muốn lạc chán ghét khổ nên tránh né, tránh xa, xa lánh, tránh thật xa tương tợ y như thế. Tựa như các bàn chân (xa lánh) đầu của con rắn là như vậy.
[1] Ở Pāḷi các từ sappo, ahi, bhujago, urago, pannago, siriṃsapo, bilāsayo, guhāsayo, dāṭhāvudho, ghoraviso, dvijivho, dvirasaññū đều là tên gọi của loài rắn.
So ’maṃ visattikaṃ loke sato samativattatī ti – So ti yo kāme parivajjeti. Visattikā vuccati taṇhā – yo rāgo sārāgo anunayo anurodho nandi nandirāgo, cittassa sārāgo icchā mucchā ajjhosānaṃ gedho paḷigedho saṅgo paṅko ejā māyā janikā sañjananī sibbanī jālinī saritā visattikā suttaṃ visatā āyūhanī dutiyā paṇidhi bhavanetti vanaṃ vanatho santhavo sneho apekkhā paṭibandhu āsā āsiṃsanā āsiṃsitattaṃ, rūpāsā saddāsā gandhāsā rasāsā phoṭṭhabbāsā lābhāsā dhanāsā puttāsā jīvitāsā, jappā pajappā abhijappā jappanā jappitattaṃ, loluppaṃ loluppāyanā loluppāyitattaṃ, pucchañcikatā sādukamyatā, adhammarāgo visamalobho nikanti nikāmanā patthanā pihanā sampatthanā, kāmataṇhā bhavataṇhā vibhavataṇhā, rūpataṇhā arūpataṇhā nirodhataṇhā, rūpataṇhā saddataṇhā gandhataṇhā rasataṇhā phoṭṭhabbataṇhā dhammataṇhā, ogho yogo gantho upādānaṃ āvaraṇaṃ nīvaraṇaṃ chadanaṃ bandhanaṃ upakkileso anusayo pariyuṭṭhānaṃ latā vevicchaṃ dukkhamūlaṃ dukkhanidānaṃ dukkhappabhavo mārapāso mārabaḷisaṃ māraviso, taṇhānadi taṇhājālaṃ taṇhāgaddulaṃ taṇhāsamuddo, abhijjhā lobho akusalamūlaṃ.
Người ấy, có niệm, vượt qua sự vướng mắc này ở thế gian: Người ấy là người xa lánh các dục. Sự vướng mắc gọi là ái, nghĩa là luyến ái, luyến ái mãnh liệt, say đắm, thuận thảo, niềm vui, niềm vui và luyến ái, sự luyến ái mãnh liệt của tâm, ước muốn, mê mẩn, bám víu, đeo bám, đeo cứng, quyến luyến, đắm chìm, níu kéo, xảo quyệt, liên quan tái sanh, tạo ra khổ, kết vào, có lưới bẫy, cuốn trôi, vướng mắc, sợi chỉ trói, sự lan rộng, có sự ra sức, bạn đời, mầm tái sanh, lối dẫn di tái sanh, cầu xin, bám lấy đối tượng, gắn bó, thương yêu, mong ước, thân mật, mong mỏi, khát vọng, trạng thái mong mỏi, mong mỏi về sắc, mong mỏi về thinh, mong mỏi về hương, mong mỏi về vị, mong mỏi về xúc, mong mỏi về lợi lộc, mong mỏi về tài sản, mong mỏi về con trai, mong mỏi về mạng sống, tham muốn, khởi tham, tham muốn tột độ, biểu hiện tham muốn, trạng thái tham muốn, tham lam, biểu hiện tham lam, trạng thái tham lam, xao xuyến, ham muốn vật vừa ý, luyến ái sai pháp, tham thất thường, đeo đuổi, biểu hiện đeo đuổi, ước nguyện, mong cầu, ước nguyện tốt đẹp, dục ái, hữu ái, phi hữu ái, ái cõi Sắc giới, ái cõi Vô sắc giới, ái Niết Bàn, ái cảnh sắc, ái cảnh thinh, ái cảnh khí, ái cảnh vị, ái cảnh xúc, ái cảnh pháp, dòng nước lũ, sự ràng buộc, cột trói, chấp thủ, che ngăn, che lấp, phủ lấp, trói buộc, làm ô nhiễm, tiềm ẩn, thâm nhập, quấn lấy, ham hố, cội nguồn của khổ, khởi đầu của khổ, nguồn sanh khổ, cạm bẫy của Ma Vương, lưỡi câu của Ma Vương, độc tố của Ma Vương, ái ví như dòng sông, ái ví như tấm lưới, ái ví như dây xích, ái ví như biển, tham đắm, tham, cội nguồn của bất thiện.
Visattikā ti – kenaṭṭhena visattikā? Visatā ’ti visattikā; visālā ’ti visattikā; visaṭā ’ti visattikā; visakkatī ’ti visattikā; vīsaṃ haratī ’ti visattikā; visaṃvādikā ’ti visattikā; visamūlā ’ti visattikā; visaphalā ’ti visattikā; visaparibhogā ’ti visattikā. Visālā vā pana sā taṇhā rūpe sadde gandhe rase phoṭṭhabbe, kule gaṇe āvāse lābhe yase pasaṃsāyaṃ sukhe, cīvare piṇḍapāte senāsane gilānapaccayabhesajjaparikkhāre, kāmadhātuyā rūpadhātuyā arūpadhātuyā, kāmabhave rūpabhave arūpabhave saññābhave asaññābhave nevasaññānāsaññābhave ekavokārabhave catuvokārabhave pañcavokārabhave, atīte anāgate paccuppanne, diṭṭhasutamutaviññātabbesu dhammesu visatā vitthatā ’ti visattikā.
Sự vướng mắc: Sự vướng mắc với ý nghĩa gì? Vướng mắc là vì ‘được trải rộng;’ vướng mắc là vì ‘bao quát;’ vướng mắc là vì ‘được lan rộng;’ vướng mắc là vì ‘lôi kéo theo;’ vướng mắc là vì ‘mang lại chất độc;’ vướng mắc là vì ‘truyền bá chất độc;’ vướng mắc là vì ‘nhân độc hại;’ vướng mắc là vì ‘kết quả độc hại;’ vướng mắc là vì ‘sự thọ dụng độc hại.’ Hoặc hơn nữa, vướng mắc là vì ‘ái ấy là bao quát, được trải rộng, được lan rộng ở sắc, ở thinh, ở hương, ở vị, ở xúc, ở gia tộc, ở nhóm, ở chỗ ngụ, ở lợi lộc, ở danh tiếng, ở lời khen, ở hạnh phúc, ở y phục, ở đồ ăn khất thực, ở chỗ nằm ngồi, ở vật dụng là thuốc men chữa bệnh, ở dục giới, ở sắc giới, ở vô sắc giới, ở cõi dục, ở cõi sắc, ở cõi vô sắc, ở cõi hữu tưởng, ở cõi vô tưởng, ở cõi phi tưởng phi phi tưởng, ở cõi một uẩn, ở cõi bốn uẩn, ở cõi năm uẩn, ở quá khứ, ở vị lai, ở hiện tại, ở các pháp có thể thấy, nghe, cảm giác, và nhận thức.’
Loke ti – apāyaloke manussaloke devaloke khandhaloke dhātuloke āyatanaloke.
Ở thế gian: ở thế gian của khổ cảnh, ở thế gian của loài người, ở thế gian của chư Thiên, ở thế gian của các uẩn, ở thế gian của các giới, ở thế gian của các xứ.
Sato ti – catuhi kāraṇehi sato: kāye kāyānupassanāsatipaṭṭhānaṃ bhāvento sato; vedanāsu – citte – dhammesu dhammānupassanāsatipaṭṭhānaṃ bhāvento sato. Aparehipi catuhi kāraṇehi sato: asatiparivajjanāya sato, satikaraṇīyānañca dhammānaṃ katattā sato, satipaṭipakkhānaṃ dhammānaṃ hatattā sato, satinimittānaṃ dhammānaṃ asammuṭṭhattā sato. Aparehipi catuhi kāraṇehi sato: satiyā samannāgatattā sato, satiyā vasitattā sato, satiyā pāguññatāya sato, satiyā apaccoropanatāya sato. Aparehipi catuhi kāraṇehi sato: sattattā sato, santattā sato, samitattā sato, santadhammasamannāgatattā sato. Buddhānussatiyā sato, dhammānussatiyā sato, saṅghānussatiyā sato, sīlānussatiyā sato, cāgānussatiyā sato, devatānussatiyā sato, ānāpānasatiyā sato, maraṇānussatiyā sato, kāyagatāsatiyā sato, upasamānussatiyā sato ’ti. Yā sati anussati paṭissati sati saraṇatā dhāraṇatā apilāpanatā asammussanatā sati satindriyaṃ satibalaṃ sammāsati satisambojjhaṅgo ekāyanamaggo, ayaṃ vuccati sati. Imāya satiyā upeto hoti samupeto upagato samupagato upapanno samupapanno samannāgato, so vuccati sato.
Có niệm: Có niệm do bốn nguyên nhân: Có niệm trong khi tu tập sự thiết lập niệm ở việc quan sát thân ở thân, —như trên— ở các thọ, —như trên— ở tâm, có niệm trong khi tu tập sự thiết lập niệm ở việc quan sát pháp ở các pháp. Hơn nữa, có niệm còn do bốn nguyên nhân khác: Có niệm do xa lánh thất niệm, có niệm do trạng thái đã thực hành các pháp cần phải thực hành đối với niệm, có niệm do trạng thái đã tiêu diệt các pháp đối nghịch với niệm, có niệm do trạng thái không lơ là đối với các pháp ấn chứng của niệm. Hơn nữa, có niệm còn do bốn nguyên nhân khác: có niệm do trạng thái đã thành tựu về niệm, có niệm do trạng thái đã trú ở niệm, có niệm do trạng thái quen thuộc với niệm, có niệm do trạng thái không thối thất đối với niệm. Hơn nữa, có niệm còn do bốn nguyên nhân khác: có niệm do trạng thái tự tại, có niệm do trạng thái an tịnh, có niệm do trạng thái tĩnh lặng, có niệm do trạng thái đã thành tựu pháp của bậc chân nhân. Có niệm do tùy niệm Phật, có niệm do tùy niệm Pháp, có niệm do tùy niệm Tăng, có niệm do tùy niệm giới, có niệm do tùy niệm xả thí, có niệm do tùy niệm Thiên, có niệm do niệm hơi thở vào – hơi thở ra, có niệm do tùy niệm sự chết, có niệm do niệm đặt ở thân, có niệm do tùy niệm Niết Bàn. Niệm là tùy niệm, niệm hiện tiền; niệm là sự nương tựa, sự ghi nhận, sự thâm nhập, sự không lơ là; niệm là niệm quyền, niệm lực, chánh niệm; niệm là niệm giác chi, con đường độc đạo; điều này gọi là niệm. Người đã tiến đến, đã tiến gần, đã tiến vào, đã tiến sát, đã tiếp cận, đã tròn đủ, đã thành tựu nhờ vào niệm này, người ấy được gọi là có niệm.
So ’maṃ visattikaṃ loke sato samativattatī ti – loke vesā visattikā, lokevetaṃ visattikaṃ sato tarati uttarati patarati samatikkamati vītivattatī ’ti so ’maṃ visattikaṃ loke sato samativattati.
Người ấy, có niệm, vượt qua sự vướng mắc này ở thế gian: Việc dự vào thế gian là vướng mắc. Người có niệm, xa lánh, dứt bỏ, cắt đứt mầm mống, vượt qua, làm cho thui chột sự vướng mắc này ở ngay tại thế gian. ‘Người ấy, có niệm, vượt qua sự vướng mắc này ở thế gian’ là thế ấy.
Tenāha bhagavā: “Yo kāme parivajjeti sappasseva padā siro, so ’maṃ visattikaṃ loke sato samativattatī ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Người nào xa lánh các dục tựa như các bàn chân (xa lánh) đầu của con rắn, người ấy, có niệm, vượt qua sự vướng mắc này ở thế gian.”
1.4
“Khettaṃ vatthuṃ hiraññaṃ vā gavāssaṃ dāsaporisaṃ, thiyo bandhū puthū kāme yo naro anugijjhati.”
“Người nam nào thèm muốn ruộng, đất, hoặc vàng, gia súc, ngựa, tôi tớ, người hầu, người nữ, thân quyến, vô số các dục, —Người nào tham đắm dục,
Ruộng đất, vàng, bò, ngựa,
Người nô tỳ, phục vụ,
Nữ nhân và bà con.
(Kinh Tập, câu kệ 769)
Khettaṃ vatthuṃ hiraññaṃ vā ti – Khettan ti sālikkhettaṃ vīhikkhettaṃ muggakkhettaṃ māsakkhettaṃ yavakkhettaṃ godhūmakkhettaṃ tilakkhettaṃ. Vatthun ti – gharavatthuṃ koṭṭhakavatthuṃ purevatthuṃ pacchāvatthuṃ ārāmavatthuṃ vihāravatthuṃ. Hiraññan ti – hiraññaṃ vuccati kahāpaṇo ’ti, khettaṃ vatthuṃ hiraññaṃ vā.
Ruộng, đất, hoặc vàng: Ruộng là ruộng lúa sāli, ruộng lúa mùa, ruộng đậu xanh, ruộng đậu māsa, ruộng lúa mạch, ruộng lúa mì, ruộng mè. Đất là đất nhà, đất cổng ra vào, đất phía trước nhà, đất phía sau nhà, đất vườn, đất thổ cư. Vàng: vàng gọi là tiền vàng. ‘Ruộng, đất, hoặc vàng’ là thế ấy.
Gavāssaṃ dāsaporisan ti – Gavā ti gāvo vuccanti. Assā ti pasukādayo vuccanti. Dāsā ti – cattāro dāsā: antojātako dāso, dhanakkītako dāso, sāmaṃ vā dāsavyaṃ upeti, akāmato vā dāsavyaṃ upeti.
Gia súc, ngựa, tôi tớ, người hầu: Gia súc gọi là trâu bò. Ngựa gọi là các con dê, v.v… Tôi tớ: Có bốn loại tôi tớ: tôi tớ bẩm sinh, tôi tớ được mua bằng tài sản, hoặc tự nguyện trở thành tôi tớ, hoặc trở thành tôi tớ do sự ép buộc.
1. “Āmāya dāsā ’pi bhavanti h’ eke dhanena kītā ’pi bhavanti dāsā, sāmaṃ ca eke upayanti dāsyaṃ bhayā panuṇṇāpi bhavanti dāsā ”ti.
“Nhiều người trở thành tôi tớ do mẹ là tôi tớ, thậm chí do được mua bởi tài sản mà trở thành tôi tớ, và nhiều người tự nguyện trở thành tôi tớ, cũng có những người do sự sợ hãi mà bị bắt đi trở thành tôi tớ.”
Purisā ti – tayo purisā: bhatakā kammakarā upajīvino ’ti gavāssaṃ dāsaporisaṃ.
Người hầu: Có ba hạng người hầu: người làm thuê, người làm công, người sống nhờ. ‘Gia súc, ngựa, tôi tớ, người hầu’ là thế ấy.
Thiyo bandhū puthū kāme ti – Thiyo ti itthipariggaho vuccati. Bandhū ti – cattāro bandhū: ñātibandhavāpi bandhū, gottabandhavāpi bandhū, mantabandhavāpi bandhū, sippabandhavāpi bandhū. Puthū kāme ti bahū kāme, ete puthū kāmā: manāpikā rūpā —pe— manāpikā phoṭṭhabbā ’ti, thiyo bandhū puthū kāme.
Người nữ, thân quyến, vô số các dục: Người nữ được gọi là có sự nhận lấy thân người nữ. Thân quyến: Có bốn loại thân quyến: thân quyến của cha mẹ là thân quyến, thân quyến của dòng tộc là thân quyến, thân quyến do (cùng học) chú thuật, thân quyến d0 (cùng học) nghề nghiệp. Vô số các dục là nhiều loại dục, vô số các dục này là: các sắc hợp ý, —như trên— các xúc hợp ý. ‘Người nữ, thân quyến, vô số các dục’ là thế ấy.
Yo naro anugijjhatī ti – Yo ti yo yādiso yathāyutto yathāvihito yathāpakāro yaṃ ṭhānaṃ patto yaṃdhammasamannāgato khattiyo vā brāhmaṇo vā vesso vā suddo vā gahaṭṭho vā pabbajito vā devo vā manusso vā. Naro ti satto naro mānavo poso puggalo jīvo jāgu jantu indagu manujo.Anugijjhatī ti – kilesakāme vatthukāmesu gijjhati anugijjhati paḷigijjhatī ’ti, yo naro anugijjhati.
Người nam nào thèm muốn: Người nào là người như thế, được gắn bó như thế, được định đặt như thế, có biểu hiện như thế, đã đạt đến địa vị ấy, đã thành tựu phẩm chất ấy, hoặc là vị Sát-đế-lỵ, hoặc là vị Bà-la-môn, hoặc là người thương buôn, hoặc là kẻ nô lệ, hoặc là người gia chủ, hoặc là vị xuất gia, hoặc là vị Thiên nhân, hoặc là người nhân loại. Người nam là chúng sanh, đàn ông, thanh niên, nam nhân, cá nhân, mạng sống, người còn sanh tử, con người, người đi theo nghiệp, nhân loại. Thèm muốn là thèm, thèm muốn, thèm thuồng ở các ô nhiễm dục, ở các vật dục. ‘Người nam nào thèm muốn’ là thế ấy.
Tenāha bhagavā: “Khettaṃ vatthuṃ hiraññaṃ vā gavāssaṃ dāsaporisaṃ, thiyo bandhū puthū kāme yo naro anugijjhatī ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
Người nam nào thèm muốn ruộng, đất, hoặc vàng, gia súc, ngựa, tôi tớ, người hầu, người nữ, thân quyến, vô số các dục, —
1.5
“Abalā naṃ balīyanti maddante naṃ parissayā, tato naṃ dukkhamanveti nāvaṃ bhinnamivodakaṃ.”
“— Các (ô nhiễm) yếu ớt thống trị người ấy, các hiểm họa chà đạp người ấy; do việc ấy khổ đau đi theo người ấy tựa như nước (tràn vào) chiếc thuyền đã bị vỡ.”
Như người không sức lực,
Bị các dục chinh phục,
Tai họa dẫm đạp nó,
Khổ đau bước theo nó,
Như nước ùa tràn vào,
Chiếc thuyền bị vỡ nát.
(Kinh Tập, câu kệ 770)
Abalā naṃ balīyantī ti – Abalā ti abalā kilesā dubbalā appabalā appathāmā hīnā nihīnā parihīnā omakā lāmakā chattakā parittā. Te kilesā naṃ puggalaṃ sahanti parisahanti abhibhavanti ajjhottharanti pariyādiyanti maddantīti evampi abalā naṃ balīyanti. Athavā abalaṃ puggalaṃ dubbalaṃ appabalaṃ appathāmakaṃ hīnaṃ nihīnaṃ parihīnaṃ omakaṃ lāmakaṃ chattakaṃ parittaṃ, yassa natthi saddhābalaṃ viriyabalaṃ satibalaṃ samādhibalaṃ paññābalaṃ hiribalaṃ ottappabalaṃ. Te kilesā taṃ puggalaṃ sahanti parisahanti abhibhavanti ajjhottharanti pariyādiyanti maddantīti evampi abalā naṃ balīyanti.
Các (ô nhiễm) yếu ớt khuất phục người ấy: Yếu ớt là các ô nhiễm yếu ớt, yếu sức, thiếu lực, thiếu dõng mãnh, thấp hèn, hèn kém, hèn mọn, thấp kém, thấp thỏi, tồi tệ, nhỏ nhoi. Các ô nhiễm ấy ngự trị, thống trị, chế ngự, đè bẹp, trấn áp, giẫm đạp cá nhân ấy; ‘các (ô nhiễm) yếu ớt khuất phục người ấy’ là như vậy. Hoặc là, (đề cập đến) nhân vật yếu ớt, yếu sức, thiếu lực, thiếu dõng mãnh, thấp hèn, hèn kém, hèn mọn, thấp kém, thấp thỏi, tồi tệ, nhỏ nhoi, là người không có tín lực, tấn lực, niệm lực, định lực, tuệ lực, tàm lực, úy lực, các ô nhiễm ấy ngự trị, thống trị, chế ngự, đè bẹp, trấn áp, chà đạp cá nhân ấy; ‘các (ô nhiễm) yếu ớt khuất phục người ấy’ còn là như vậy.
Maddante naṃ parissayā ti – Parissayā ti dve parissayā: pākaṭaparissayā ca paṭicchannaparissayā ca.
Các hiểm họa chà đạp người ấy: Các hiểm họa thì có hai loại hiểm họa: hiểm họa được hiển hiện và hiểm họa được che đậy.
Katame pākaṭaparissayā? Sīhā vyagghā dīpī acchā taracchā kokā mahisā hatthī ahī vicchikā satapadī, corā vā assu māṇavā vā katakammā vā akatakammā vā, cakkhurogo sotarogo ghānarogo jivhārogo kāyarogo sīsarogo kaṇṇarogo mukharogo dantarogo kāso sāso pināso ḍaho jaro kucchirogo mucchā pakkhandikā sūlā visūcikā kuṭṭhaṃ gaṇḍo kilāso soso apamāro daddu kaṇḍu kacchu rakhasā vitacchikā lohītapittaṃ madhumeho aṃsā piḷakā bhagandalā pittasamuṭṭhānā ābādhā semhasamuṭṭhānā ābādhā vātasamuṭṭhānā ābādhā utupariṇāmajā ābādhā visamaparihārajā ābādhā opakkamikā ābādhā kammavipākajā ābādhā sītaṃ uṇhaṃ jighacchā pipāsā uccāro passāvo ḍaṃsamakasavātātapasiriṃsapasamphassā iti vā, ime vuccanti pākaṭaparissayā.
Các hiểm họa được hiển hiện là các hiểm họa nào? Các con sư tử, hổ, báo, gấu, chó rừng, chó sói, trâu rừng, voi, rắn, bò cạp, rết, hoặc có thể là các kẻ cướp hay những kẻ tàn bạo có hành động gây sự hoặc hành động ra đi gây sự, hoặc là bệnh ở mắt, bệnh ở tai trong, bệnh ở mũi, bệnh ở lưỡi, bệnh ở thân, bệnh ở đầu, bệnh ở lỗ tai, bệnh ở miệng, bệnh ở răng, ho, suyễn, sổ mũi, nhiệt, cảm sốt, đau bụng, xây xẩm, kiết lỵ, đau bụng bão, dịch tả, phong cùi, mụt nhọt, chàm, lao phổi, động kinh, mụt, nhọt, ghẻ ngứa, sảy, loét tay chân, ói ra máu, bệnh tiểu đường, bệnh trĩ, ghẻ lở, loét hậu môn, bệnh do mật, bệnh do đàm, bệnh do gió, (bệnh tổng hợp do mật, đàm, gió), bệnh sanh lên do thay đổi thời tiết, bệnh sanh lên do bốn oai nghi không đồng đều, bệnh cấp tính, bệnh sanh lên do quả của nghiệp, lạnh, nóng, đói, khát, tiêu, tiểu, các xúc chạm với ruồi muỗi gió nắng và các loài bò sát; các điều này được gọi là các hiểm họa được hiển hiện.
Katame paṭicchannaparissayā? Kāyaduccaritaṃ vacīduccaritaṃ manoduccaritaṃ, kāmacchandanīvaraṇaṃ vyāpādanīvaraṇaṃ thīnamiddhanīvaraṇaṃ uddhaccakukkuccanīvaraṇaṃ vicikicchānīvaraṇaṃ, rāgo doso moho kodho upanāho makkho palāso issā macchariyaṃ māyā sāṭheyyaṃ thambho sārambho māno atimāno mado pamādo, sabbe kilesā sabbe duccaritā sabbe darathā sabbe pariḷāhā sabbe akusalābhisaṅkhārā, ime vuccanti paṭicchannaparissayā.
Các hiểm họa được che đậy là các hiểm họa nào? Việc làm ác do thân, việc làm ác do khẩu, việc làm ác do ý, pháp ngăn che ‘mong muốn dục,’ pháp ngăn che ‘bất bình,’ pháp ngăn che ‘dã dượi buồn ngủ,’ pháp ngăn che ‘phóng dật và hối hận,’ pháp ngăn che ‘hoài nghi,’ sự luyến ái, sân hận, si mê, giận dữ, thù hằn, gièm pha, ác ý, ganh tỵ, bỏn xẻn, xảo trá, bội bạc, bướng bỉnh, hung hăng, ngã mạn, kiêu căng, đam mê, xao lãng, tất cả ô nhiễm, tất cả việc làm ác, mọi sự lo lắng, mọi sự bực bội, (mọi sự nóng nảy), mọi sự tạo tác bất thiện; các điều này được gọi là các hiểm họa được che đậy.
Parissayā ti – kenaṭṭhena parissayā? Parisahantīti parissayā, parihānāya saṃvattantīti parissayā, tatrāsayāti parissayā.
Các hiểm họa: Các hiểm họa với ý nghĩa gì? Các hiểm họa là vì ‘chúng thống trị,’ các hiểm họa là vì ‘chúng dẫn đến sự buông bỏ,’ các hiểm họa là vì ‘nơi ấy là chỗ trú.’
Kathaṃ parisahantīti parissayā? Te parissayā taṃ puggalaṃ sahanti parisahanti abhibhavanti ajjhottharanti pariyādiyanti maddanti. Evaṃ parisahantīti parissayā.
Các hiểm họa là vì ‘chúng thống trị’ nghĩa là thế nào? Các hiểm họa ấy ngự trị, thống trị, chế ngự, đè bẹp, trấn áp, giẫm đạp cá nhân ấy. Các hiểm họa là vì ‘chúng thống trị’ nghĩa là như vậy.
Kathaṃ parihānāya saṃvattantīti parissayā? Te parissayā kusalānaṃ dhammānaṃ antarāyāya parihānāya saṃvattantīti. Katamesaṃ kusalānaṃ dhammānaṃ? Sammāpaṭipadāya anulomapaṭipadāya apaccanīkapaṭipadāya aviruddhapaṭipadāya anvatthapaṭipadāya dhammānudhammapaṭipadāya sīlesu paripūrakāritāya indriyesu guttadvāratāya bhojane mattaññūtāya jāgariyānuyogassa satisampajaññassa catunnaṃ satipaṭṭhānānaṃ bhāvanānuyogassa catunnaṃ sammappadhānānaṃ bhāvanānuyogassa catunnaṃ iddhipādānaṃ bhāvanānuyogassa pañcannaṃ indriyānaṃ bhāvanānuyogassa pañcannaṃ balānaṃ bhāvanānuyogassa sattannaṃ bojjhaṅgānaṃ bhāvanānuyogassa ariyassa aṭṭhaṅgikassa maggassa bhāvanānuyogassa, imesaṃ kusalānaṃ dhammānaṃ antarāyāya parihānāya saṃvattanti. Evaṃ parihānāya saṃvattantīti parissayā.
Các hiểm họa là vì ‘chúng dẫn đến sự buông bỏ’ nghĩa là thế nào? Các hiểm họa ấy dẫn đến sự buông bỏ, đến sự nguy hiểm đối với các thiện pháp.’ Đối với các thiện pháp nào? Đối với sự thực hành đúng đắn, đối với sự thực hành phù hợp, đối với sự thực hành không trái ngược, đối với sự thực hành không đối chọi, đối với sự thực hành đưa đến lợi ích, đối với sự thực hành đúng pháp và thuận pháp, đối với việc làm đầy đủ các giới, đối với việc canh phòng các giác quan, đối với việc biết chừng mực về vật thực, đối với sự rèn luyện về tỉnh thức, đối với niệm và sự nhận biết rõ, đối với sự chuyên cần tu tập bốn sự thiết lập niệm, đối với sự chuyên cần tu tập bốn chánh cần, đối với sự chuyên cần tu tập bốn nền tảng thần thông, đối với sự chuyên cần tu tập năm quyền, đối với sự chuyên cần tu tập năm lực, đối với sự chuyên cần tu tập bảy chi phần đưa đến giác ngộ, đối với sự chuyên cần tu tập Thánh Đạo tám chi phần, chúng dẫn đến sự buông bỏ, đến sự nguy hiểm đối với các thiện pháp này. Các hiểm họa là vì ‘chúng dẫn đến sự buông bỏ’ nghĩa là như vậy.
Kathaṃ tatrāsayāti parissayā? Tatthete pāpakā akusalā dhammā uppajjanti attabhāvasannissayā yathā bile bilāsayā pāṇā sayanti, dake dakāsayā pāṇā sayanti, vane vanāsayā pāṇā sayanti, rukkhe rukkhāsayā pāṇā sayanti; evameva tatthete pāpakā akusalā dhammā uppajjanti attabhāvasannissayāti. Evampi tatrāsayāti parissāyā.
Các hiểm họa là vì ‘nơi ấy là chỗ trú’ nghĩa là thế nào? Các ác bất thiện pháp này sanh lên, có sự nương tựa bản ngã ở nơi ấy. Giống như các sinh vật nương vào hang thì ngụ ở hang, các sinh vật nương vào nước thì ngụ ở nước, các sinh vật nương vào rừng thì ngụ ở rừng, các sinh vật nương vào cây cối thì ngụ ở cây cối, tương tự y như thế các ác bất thiện pháp này sanh lên, có sự nương tựa bản ngã ở nơi ấy. Các hiểm họa là vì ‘nơi ấy là chỗ trú’ nghĩa là như vậy.
Vuttaṃ hetaṃ bhagavatā: “Sāntevāsiko bhikkhave, bhikkhu sācariyako dukkhaṃ na phāsu viharati. Kathañca bhikkhave, bhikkhu sāntevāsiko sācariyako dukkhaṃ na phāsu viharati? Idha bhikkhave, bhikkhuno cakkhunā rūpaṃ disvā uppajjanti ye pāpakā akusalā dhammā sarasaṃkappā saññojanīyā, tyassa anto vasanti anvāssa vasanti pāpakā akusalā dhammāti, tasmā sāntevāsiko ’ti vuccati. Te naṃ samudācaranti – samudācaranti naṃ pāpakā akusalā dhammāti, tasmā sācariyakoti vuccati. Puna ca paraṃ bhikkhave, bhikkhuno sotena saddaṃ sutvā —pe— ghānena gandhaṃ ghāyitvā —pe— jivhāya rasaṃ sāyitvā —pe— kāyena phoṭṭhabbaṃ phusitvā —pe— manasā dhammaṃ viññāya uppajjanti ye pāpakā akusalā dhammā sarasaṃkappā saññojanīyā, tyassa anto vasanti anvāssa vasanti pāpakā akusalā dhammāti, tasmā sāntevāsiko ’ti vuccati. Te naṃ samudācaranti – samudācaranti naṃ pāpakā akusalā dhammāti, tasmā sācariyakoti vuccati. Evaṃ kho bhikkhave, bhikkhu sāntevāsiko sācariyako dukkhaṃ na phāsu viharatī” ti. Evampi tatrāsayāti parissayā.
Bởi vì, điều này đã được đức Thế Tôn nói đến:
“Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu có đệ tử, có bạn đồng thầy dạy học, sống khổ sở không thoải mái. Và này các tỳ khưu, thế nào là vị tỳ khưu có đệ tử, có bạn đồng thầy dạy học, sống khổ sở không thoải mái? Này các tỳ khưu, ở đây đối với vị tỳ khưu, sau khi nhìn thấy cảnh sắc bằng mắt, các ác bất thiện pháp nào nương vào đối tượng, có thể trói buộc, sanh khởi đến vị ấy, các ác bất thiện pháp ấy sống ở bên trong vị ấy, sống cùng với vị ấy; vì thế được gọi là có đệ tử. Chúng cư xử với vị ấy. Các ác bất thiện pháp cư xử với vị ấy; vì thế được gọi là có bạn đồng thầy dạy học. Và này các tỳ khưu, thêm nữa, đối với vị tỳ khưu, sau khi nghe âm thanh bằng tai, —như trên— sau khi ngửi mùi bằng mũi, —như trên— sau khi nếm vị bằng lưỡi, —như trên— sau khi chạm cảnh xúc bằng thân, —như trên— sau khi nhận thức pháp bằng ý, các ác bất thiện pháp nào nương vào đối tượng, có thể trói buộc, sanh khởi đến vị ấy, các ác bất thiện pháp ấy sống ở bên trong vị ấy, sống cùng với vị ấy; vì thế được gọi là có đệ tử. Chúng cư xử với vị ấy, các ác bất thiện pháp cư xử với vị ấy; vì thế được gọi là có bạn đồng thầy dạy học. Này các tỳ khưu, quả là như vậy, vị tỳ khưu có đệ tử, có bạn đồng thầy dạy học, sống khổ sở không thoải mái. Các hiểm họa là vì ‘nơi ấy là chỗ trú’ còn là như vậy.
Vuttaṃ hetaṃ bhagavatā:
“Tayo ‘me bhikkhave, antarāmalā antarā-amittā antarāsapattā antarāvadhakā antarāpaccatthikā. Katame tayo? Lobho bhikkhave, antarāmalaṃ antarā-amitto antarāsapatto antarāvadhako antarāpaccatthiko. Doso bhikkhave, —pe— Moho bhikkhave, antarāmalaṃ antarā-amitto antarāsapatto antarāvadhako antarāpaccatthiko. Ime kho bhikkhave, tayo antarāmalā antarā-amittā antarāsapattā antarāvadhakā antarāpaccatthikā ”ti.
Bởi vì, điều này đã được đức Thế Tôn nói đến:
“Này các tỳ khưu, có ba pháp này là các bợn nhơ bên trong, các kẻ thù bên trong, các đối thủ bên trong, các kẻ giết chóc bên trong, các kẻ nghịch bên trong. Ba pháp nào? Này các tỳ khưu, tham là bợn nhơ bên trong, kẻ thù bên trong, đối thủ bên trong, kẻ giết chóc bên trong, kẻ nghịch bên trong. Này các tỳ khưu, sân —như trên— Này các tỳ khưu, si là bợn nhơ bên trong, kẻ thù bên trong, đối thủ bên trong, kẻ giết chóc bên trong, kẻ nghịch bên trong.”
1. “Anatthajanano lobho lobho cittappakopano, bhayamantarato jātaṃ taṃ jano nāvabujjhati.
1. Tham là sự sanh ra điều bất lợi, tham là sự dao động của tâm. Người đời không nhận biết sự sợ hãi ấy đã được sanh ra từ bên trong.
2. Luddho atthaṃ na jānāti luddho dhammaṃ na passati, andhantamaṃ tadā hoti yaṃ lobho sahate naraṃ.
2. Người bị khởi tham không biết được sự lợi ích, người bị khởi tham không nhìn thấy lý lẽ. Tham ngự trị người nào, lúc ấy người bị mù quáng tối tăm.
3. Anatthajanano doso doso cittappakopano, bhayamantarato jātaṃ taṃ jano nāvabujjhati.
3. Sân là sự sanh ra điều bất lợi, sân là sự dao động của tâm. Người đời không nhận biết sự sợ hãi ấy đã được sanh ra từ bên trong.
4. Kuddho atthaṃ na jānāti kuddho dhammaṃ na passati, andhantamaṃ tadā hoti yaṃ kodho sahate naraṃ.
4. Người bị nóng giận không biết được sự lợi ích, người bị nóng giận không nhìn thấy lý lẽ. Sự nóng giận ngự trị người nào, lúc ấy người bị mù quáng tối tăm.
5. Anatthajanano moho moho cittappakopano, bhayamantarato jātaṃ taṃ jano nāvabujjhati.
5. Si là sự sanh ra điều bất lợi, si là sự dao động của tâm. Người đời không nhận biết sự sợ hãi ấy đã được sanh ra từ bên trong.
6. Mūḷho atthaṃ na jānāti mūḷho dhammaṃ na passati, andhantamaṃ tadā hoti yaṃ moho sahate naran ”ti. Evampi tatrāsayāti parissayā.
6. Người bị si mê không biết được sự lợi ích, người bị si mê không nhìn thấy lý lẽ. Si ngự trị người nào, lúc ấy người bị mù quáng tối tăm.
Các hiểm họa là vì ‘nơi ấy là chỗ trú’ còn là như vậy.
Vuttaṃ hetaṃ bhagavatā: “Tayo kho mahārāja, purisassa dhammā ajjhattaṃ uppajjamānā uppajjanti ahitāya dukkhāya aphāsuvihārāya. Katame tayo? Lobho kho mahārāja, purisassa dhammo ajjhattaṃ uppajjamāno uppajjati ahitāya dukkhāya aphāsuvihārāya. Doso kho mahārāja, purisassa dhammo ajjhattaṃ uppajjamāno uppajjati ahitāya dukkhāya aphāsuvihārāya. Moho kho mahārāja, purisassa dhammo ajjhattaṃ uppajjamāno uppajjati ahitāya dukkhāya aphāsuvihārāya.
Bởi vì, điều này đã được đức Thế Tôn nói đến:
“Tâu đại vương, quả thật có ba pháp, trong lúc sanh lên từ bên trong của con người, sanh lên sự bất lợi, khổ đau, sự sống không thoải mái. Ba pháp nào? Tâu đại vương, tham quả thật là pháp, trong lúc sanh lên từ bên trong của con người, sanh lên sự bất lợi, khổ đau, sự sống không thoải mái. Tâu đại vương, sân quả thật là pháp, trong lúc sanh lên từ bên trong của con người, sanh lên sự bất lợi, khổ đau, sự sống không thoải mái. Tâu đại vương, si quả thật là pháp, trong lúc sanh lên từ bên trong của con người, sanh lên sự bất lợi, khổ đau, sự sống không thoải mái.
Ime kho mahārāja, tayo, purisassa dhammā ajjhattaṃ uppajjamānā uppajjanti ahitāya dukkhāya aphāsuvihārāyā “ti.
Tâu đại vương, ba pháp này, trong lúc sanh lên từ bên trong của con người, sanh lên sự bất lợi, khổ đau, sự sống không thoải mái.”
7. “Lobho doso ca moho ca purisaṃ pāpacetasaṃ, hiṃsanti attasambhūtā tacasāraṃva samphalan”ti. Evampi tatrāsayāti parissayā.
7. “Tham sân và si, hiện hữu ở bản thân, hãm hại người có tâm ý xấu xa, tựa như việc kết trái hãm hại cây tre.” Các hiểm họa là vì ‘nơi ấy là chỗ trú’ còn là như vậy.
Vuttaṃ hetaṃ bhagavatā:
8. “Rāgo ca doso ca ito nidānā
arati rati lomahaṃso itojā,
ito samuṭṭhāya manovitakkā
kumārakā dhaṃkamivossajan “ti.
Evampi tatrāsayāti parissayā.
Bởi vì, điều này đã được đức Thế Tôn nói đến:
8. “Luyến ái, sân hận, và si mê có căn nguyên từ nơi (bản ngã) này.
Ghét, thương, lông nổi ốc sanh lên từ nơi (bản ngã) này.
Sự suy tầm của tâm có nguồn sanh khởi từ nơi (bản ngã) này,
tựa như những bé trai buông lơi con quạ (bị cột chân bởi sợi chỉ dài).”
Các hiểm họa là vì ‘nơi ấy là chỗ trú’ còn là như vậy.
Maddante naṃ parissayā ti – te parissayā taṃ puggalaṃ sahanti parisahanti abhibhavanti ajjhottharanti pariyādiyanti maddantīti maddante naṃ parissayā.
Các hiểm họa chà đạp người ấy: các hiểm họa ấy ngự trị, thống trị, chế ngự, đè bẹp, trấn áp, giẫm đạp cá nhân ấy; ‘các hiểm họa chà đạp người ấy’ là thế ấy.
Tato naṃ dukkhamanvetī ti – Tato ti tato parissayato taṃ puggalaṃ dukkhaṃ anveti anugacchati anvāyikaṃ hoti. Jātidukkhaṃ anveti anugacchati anvāyikaṃ hoti. Jarādukkhaṃ anveti anugacchati anvāyikaṃ hoti. Vyādhidukkhaṃ anveti anugacchati anvāyikaṃ hoti. Maraṇadukkhaṃ anveti anugacchati anvāyikaṃ hoti. Sokaparidevadukkhadomanassupāyāsadukkhaṃ anveti anugacchati anvāyikaṃ hoti. Nerayikaṃ dukkhaṃ —pe— Tiracchānayonikaṃ dukkhaṃ —pe— Pettivisayikaṃ dukkhaṃ —pe— Mānusikaṃ dukkhaṃ —pe— Gabbhokkantimūlakaṃ dukkhaṃ —pe— Gabbhaṭṭhitimūlakaṃ dukkhaṃ —pe— Gabbhavuṭṭhānamūlakaṃ dukkhaṃ —pe— Jātassupanibandhanaṃ dukkhaṃ —pe— Jātassa parādheyyataṃ dukkhaṃ —pe— Attūpakkamaṃ dukkhaṃ —pe— Parūpakkamaṃ dukkhaṃ anveti anugacchati anvāyikaṃ hoti. Dukkhadukkhaṃ anveti anugacchati anvāyikaṃ hoti. Saṅkhāradukkhaṃ —pe— Vipariṇāmadukkhaṃ —pe— Cakkhurogo sotarogo ghānarogo jivhārogo kāyarogo kaṇṇarogo mukharogo dantarogo kāso sāso pināso ḍaho jaro kucchirogo mucchā pakkhandikā sūlā visūcikā kuṭṭhaṃ gaṇḍo kilāso soso apamāro daddu kaṇḍu kacchu rakhasā vitacchikā lohitapittaṃ madhumeho aṃsā piḷakā bhagandalā pittasamuṭṭhānā ābādhā semhasamuṭṭhānā ābādhā vātasamuṭṭhānā ābādhā sannipātikā ābādhā utupariṇāmajā ābādhā visamaparihārajā ābādhā opakkamikā ābādhā kammavipākajā ābādhā, sītaṃ uṇhaṃ jighacchā pipāsā uccāro passāvo ḍaṃsamakasavātātapasiriṃsapasamphassadukkhaṃ —pe— Mātumaraṇaṃ dukkhaṃ —pe— Pitumaraṇaṃ dukkhaṃ —pe— Bhātumaraṇaṃ dukkhaṃ —pe— Bhaginīmaraṇaṃ dukkhaṃ —pe— Puttamaraṇaṃ dukkhaṃ —pe— Dhītumaraṇaṃ dukkhaṃ —pe— Ñātivyasanaṃ dukkhaṃ —pe— Bhogavyasanaṃ dukkhaṃ —pe— Rogavyasanaṃ dukkhaṃ —pe— Sīlavyasanaṃ dukkhaṃ —pe— Diṭṭhivyasanaṃ dukkhaṃ anveti anugacchati anvāyikaṃ hotīti, tato naṃ dukkhamanveti.
Do việc ấy khổ đau đi theo người ấy: Do việc ấy là do hiểm họa từ việc ấy khổ đau đi theo, đi đến gần, đạt đến được; khổ sanh đi theo, đi đến gần, đạt đến được; khổ già đi theo, đi đến gần, đạt đến được; khổ bệnh đi theo, đi đến gần, đạt đến được; khổ chết đi theo, đi đến gần, đạt đến được; khổ do sầu bi khổ ưu não đi theo, đi đến gần, đạt đến được; khổ ở địa ngục —như trên— khổ ở thai bào của loài thú —như trên— khổ ở cảnh giới ngạ quỷ —như trên— khổ ở nhân gian —như trên— khổ do việc nhập thai —như trên— khổ do việc trụ thai —như trên— khổ do việc ra khỏi thai —như trên— khổ gắn liền sau khi sanh ra —như trên— khổ do kẻ khác áp đặt sau khi sanh ra —như trên— khổ do sự hành xử của bản thân —như trên— khổ do sự hành xử của kẻ khác —như trên— khổ do (thọ) khổ đi theo, đi đến gần, đạt đến được, khổ do sự tạo tác —như trên— khổ do sự biến đổi —như trên— bệnh ở mắt, bệnh ở tai trong, bệnh ở mũi, bệnh ở lưỡi, bệnh ở thân, bệnh ở lỗ tai, bệnh ở miệng, bệnh ở răng, ho, suyễn, sổ mũi, nhiệt, cảm sốt, đau bụng, xây xẩm, kiết lỵ, đau bụng bão, dịch tả, phong cùi, mụt nhọt, chàm, lao phổi, động kinh, mụt, nhọt, ghẻ ngứa, sảy, loét tay chân, ói ra máu, bệnh tiểu đường, bệnh trĩ, ghẻ lở, loét hậu môn, bệnh do mật, bệnh do đàm, bệnh do gió, bệnh tổng hợp do mật-đàm-gió, bệnh sanh lên do thay đổi thời tiết, bệnh sanh lên do bốn oai nghi không đồng đều, bệnh cấp tính, bệnh sanh lên do quả của nghiệp, lạnh, nóng, đói, khát, tiêu, tiểu, các xúc chạm với ruồi muỗi gió nắng và các loài bò sát là khổ —như trên— cái chết của mẹ là khổ —như trên— cái chết của cha là khổ —như trên— cái chết của anh em trai là khổ —như trên— cái chết của chị em gái là khổ —như trên— cái chết của con trai là khổ —như trên— cái chết của con gái là khổ —như trên— sự mất mát về thân quyến là khổ —như trên— sự mất mát về của cải là khổ —như trên— sự mất mát vì bệnh tật là khổ —như trên— sự mất mát về giới là khổ —như trên— sự mất mát về kiến thức là khổ đi theo, đi đến gần, đạt đến được cá nhân ấy; ‘do việc ấy khổ đau đi theo người ấy’ là thế ấy.
Nāvaṃ bhinnamivodakan ti – yathā bhinnaṃ nāvaṃ udaka-dāyito tato tato udakaṃ anveti anugacchati anvāyikaṃ hoti. Puratopi udakaṃ anveti anugacchati anvāyikaṃ hoti. Pacchatopi, heṭṭhatopi, passatopi udakaṃ anveti anugacchati anvāyikaṃ hoti. Evameva tato tato parissayato taṃ puggalaṃ dukkhaṃ anveti anugacchati anvāyikaṃ hoti. —pe— Diṭṭhivyasanaṃ dukkhaṃ anveti anugacchati anvāyikaṃ hotīti nāvaṃ bhinnamivodakaṃ.
Tựa như nước (tràn vào) chiếc thuyền đã bị vỡ: Giống như do sự xâm nhập của nước, nước từ chỗ này chỗ khác đi theo, đi đến gần, đạt đến được; nước từ bên trên đi theo, đi đến gần, đạt đến được; nước từ bên dưới đi theo, đi đến gần, đạt đến được; nước từ bên hông đi theo, đi đến gần, đạt đến được chiếc thuyền đã bị vỡ. Tương tợ y như thế, do hiểm họa từ việc này từ việc khác, khổ đau đi theo, đi đến gần, đạt đến được —như trên— sự mất mát về kiến thức là khổ đi theo, đi đến gần, đạt đến được cá nhân ấy; ‘tựa như nước (tràn vào) chiếc thuyền đã bị vỡ’ là thế ấy.
Tenāha bhagavā:
“Abalā naṃ balīyanti maddante naṃ parissayā, tato naṃ dukkhamanveti nāvaṃ bhinnamivodakan ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Các (ô nhiễm) yếu ớt thống trị người ấy, các hiểm họa chà đạp người ấy; do việc ấy khổ đau đi theo người ấy tựa như nước (tràn vào) chiếc thuyền đã bị vỡ.”
1.6
“Tasmā jantu sadā sato kāmāni parivajjaye, te pahāya tare oghaṃ nāvaṃ sitvāva pāragū.”
“Do đó, người luôn luôn có niệm có thể xa lánh các dục, sau khi dứt bỏ chúng thì có thể vượt qua dòng lũ, tựa như sau khi tát cạn chiếc thuyền, là người đi đến bờ kia.”
Do vậy người thường niệm,
Từ bỏ các loài dục,
Bỏ dục, vượt bộc lưu,
Tát thuyền đến bờ kia.
(Kinh Tập, câu kệ 771)
Tasmā jantu sadā sato ti – Tasmā ti tasmā taṃkāraṇā taṃhetu tappaccayā taṃnidānā etaṃ ādīnavaṃ sampassamāno kāmesūti tasmā. Jantū ti satto naro mānavo poso puggalo jīvo jāgu jantu indagū manujo. Sadā ti sadā sabbadā sabbakālaṃ niccakālaṃ dhuvakālaṃ satataṃ samitaṃ abbokiṇṇaṃ poṅkhānupoṅkhaṃ udakomikājātaṃ avīci santati sahitaṃ phussitaṃ purebhattaṃ pacchābhattaṃ purimaṃ yāmaṃ majjhimaṃ yāmaṃ pacchimaṃ yāmaṃ kāḷe juṇhe vasse hemante gimhe purime vayokhandhe majjhime vayokhandhe pacchime vayokhandhe. Sato ti catuhi kāraṇehi sato: kāye kāyānupassanāsatipaṭṭhānaṃ bhāvento sato, vedanāsu —pe— citte —pe— dhammesu dhammānupassanāsatipaṭṭhānaṃ bhāventopi sato. Aparehipi catuhi kāraṇehi sato so vuccati satoti ‘tasmā jantu sadā sato.’
Do đó, người luôn luôn có niệm: Do đó là do điều ấy, bởi lý do ấy, do nhân ấy, do duyên ấy, do căn nguyên ấy, trong khi nhìn thấy rõ sự nguy hại này ở các dục; ‘do đó’ là thế ấy. Người là chúng sanh, đàn ông, thanh niên, người nam, cá nhân, mạng sống, người còn sanh tử, con người, người đi theo nghiệp, nhân loại. Luôn luôn: Luôn luôn là mọi lúc, mọi thời, thường khi, luôn khi, thường xuyên, liên tục, không gián đoạn, tiếp nối liên tục, sanh lên tuần tự, không lưa thưa, không đứt khoảng, không ngừng lại, được liền lặn, trước bữa ăn, sau bữa ăn, canh đầu, canh giữa, canh cuối, vào hậu bán nguyệt, vào tiền bán nguyệt, trong mùa mưa, trong mùa lạnh, trong mùa nóng, ở tuổi thiếu niên, ở tuổi trung niên, ở tuổi lão niên. Có niệm: Có niệm do bốn nguyên nhân: Có niệm trong khi tu tập sự thiết lập niệm ở việc quan sát thân ở thân, —như trên— ở các thọ, —như trên— ở tâm, có niệm trong khi tu tập sự thiết lập niệm ở việc quan sát pháp ở các pháp. Hơn nữa, có niệm còn do bốn nguyên nhân khác: —như trên— người ấy được gọi là có niệm; ‘do đó, người luôn luôn có niệm’ là thế ấy.
Kāmāni parivajjaye ti – Kāmā ti uddānato dve kāmā: vatthukāmā ca kilesakāmā ca. —pe— Ime vuccanti vatthukāmā. —pe— Ime vuccanti kilesakāmā. Kāmāni parivajjaye ti dvīhi kāraṇehi kāme parivajjeyya: vikkhambhaṇato vā samucchedato vā. Kathaṃ vikkhambhaṇato kāme parivajjeyya? Aṭṭhikaṅkalūpamā kāmā appassādaṭṭhenāti passanto vikkhambhaṇato kāme parivajjeyya. Maṃsapesūpamā kāmā bahusadhāraṇaṭṭhenāti passanto vikkhambhaṇato kāme parivajjeyya. Tiṇukkupamā kāmā anudahanaṭṭhenāti passanto vikkhambhaṇato kāme parivajjeyya. —pe— Nevasaññānāsaññāyatanasamāpattiṃ bhāventopi vikkhambhaṇato kāme parivajjeyya. Evaṃ vikkhambhaṇato kāme parivajjeyya. —pe— Evaṃ samucchedato kāme parivajjeyyāti kāmāni parivajjeye.
Có thể xa lánh các dục: Các dục theo sự phân hạng thì có hai loại dục: các vật dục và các ô nhiễm dục. —như trên— Các điều này được gọi là các vật dục. —như trên— Các điều này được gọi là các ô nhiễm dục. Có thể xa lánh các dục: Có thể xa lánh các dục do hai nguyên nhân: do sự ngăn trở hoặc do sự đoạn trừ. Thế nào là do sự ngăn trở mà có thể xa lánh các dục? Trong khi nhìn thấy “các dục như là bộ xương với ý nghĩa chút ít khoái lạc” thì do sự ngăn trở mà có thể xa lánh các dục. Trong khi nhìn thấy “các dục như là miếng thịt với ý nghĩa vật chung của số đông” thì do sự ngăn trở mà có thể xa lánh các dục. Trong khi nhìn thấy “các dục như là cây đuốc cỏ với ý nghĩa thiêu đốt” thì do sự ngăn trở mà có thể xa lánh các dục. —như trên— Ngay cả trong khi tu tập sự chứng đạt phi tưởng phi phi tưởng xứ thì do sự ngăn trở mà có thể xa lánh các dục. Do sự ngăn trở mà có thể xa lánh các dục là như vậy. —như trên— Do sự đoạn trừ mà có thể xa lánh các dục là như vậy.
Te pahāya tare oghan ti – Te ti vatthukāme parijānitvā kilesakāme pahāya pajahitvā vinodetvā vyantīkaritvā anabhāvaṃ gametvā kāmacchandanīvaraṇaṃ pahāya pajahitvā vinodetvā vyantīkaritvā anabhāvaṃ gametvā, vyāpādanīvaraṇaṃ —pe— thīnamiddhanīvaraṇaṃ —pe— uddhaccakukkuccanīvaraṇaṃ —pe— vicikicchānīvaraṇaṃ pahāya pajahitvā vinodetvā vyantīkaritvā anabhāvaṃ gametvā kāmoghaṃ bhavoghaṃ diṭṭhoghaṃ avijjoghaṃ tareyya uttareyya patareyya samatikkameyya vītivatteyyāti ‘te pahāya tare oghaṃ.’
Sau khi dứt bỏ chúng có thể vượt qua dòng lũ: Chúng – Sau khi biết toàn diện về các vật dục, sau khi từ bỏ, sau khi dứt bỏ, sau khi xua đi, sau khi làm chấm dứt, sau khi khiến cho không còn hiện hữu các ô nhiễm dục; sau khi từ bỏ, sau khi dứt bỏ, sau khi xua đi, sau khi làm chấm dứt, sau khi khiến cho không còn hiện hữu pháp ngăn che ‘mong muốn dục;’ —như trên— pháp ngăn che ‘bất bình;’ —như trên— pháp ngăn che ‘dã dượi buồn ngủ;’ —như trên— pháp ngăn che ‘phóng dật và hối hận;’ sau khi từ bỏ, sau khi dứt bỏ, sau khi xua đi, sau khi làm chấm dứt, sau khi khiến cho không còn hiện hữu pháp ngăn che ‘hoài nghi,’ thì có thể vượt, có thể vượt lên, có thể vượt hẳn, có thể vượt qua, có thể vượt bứt dòng lũ (ngũ) dục, (dòng lũ của hữu), dòng lũ tà kiến, dòng lũ vô minh; ‘sau khi dứt bỏ chúng có thể vượt qua dòng lũ’ là thế ấy.
Nāvaṃ sitvāva pāragū ti – yathā garukaṃ nāvaṃ bhārikaṃ udakaṃ siñcitvā osiñcitvā chaḍḍetvā lahukāya nāvāya khippaṃ lahuṃ appakasireneva pāraṃ gaccheyya, evamevaṃ vatthukāme parijānitvā kilesakāme pahāya pajahitvā vinodetvā vyantīkaritvā anabhāvaṃ gametvā, kāmacchandanīvaraṇaṃ … vyāpādanīvaraṇaṃ … thīnamiddhanīvaraṇaṃ … uddhaccakukkuccanīvaraṇaṃ … vicikicchānīvaraṇaṃ pahāya pajahitvā vinodetvā vyantīkaritvā anabhāvaṃ gametvā khippaṃ lahuṃ pāraṃ appakasireneva gaccheyya. Pāraṃ vuccati amataṃ nibbāṇaṃ. Yo so sabbasaṅkhārasamatho sabbūpadhipaṭinissaggo taṇhakkhayo virāgo nirodho nibbāṇaṃ. Pāraṃ gaccheyyā ti pāraṃ adhigaccheyya pāraṃ phuseyya pāraṃ sacchikareyya. Pāragū ti yopi pāraṃ gantukāmo sopi pāragū, yopi pāraṃ gacchati sopi pāragū, yopi pāraṃ gato sopi pāragū.
Tựa như sau khi tát cạn chiếc thuyền, là người đi đến bờ kia: Giống như sau khi tát cạn, sau khi tát sạch, sau khi đổ bỏ nước ra khỏi chiếc thuyền nặng nề đầy hàng hóa thì có thể nhanh chóng tức thời đi đến bờ kia bằng chiếc thuyền nhẹ nhàng chỉ với chút ít khó khăn, tương tợ y như thế sau khi biết toàn diện về các vật dục, sau khi từ bỏ, sau khi dứt bỏ, sau khi xua đi, sau khi làm chấm dứt, sau khi khiến cho không còn hiện hữu các ô nhiễm dục; —như trên— pháp ngăn che ‘mong muốn dục;’ —như trên— pháp ngăn che ‘bất bình;’ —như trên— pháp ngăn che ‘dã dượi buồn ngủ;’ —như trên— pháp ngăn che ‘phóng dật và hối hận;’ sau khi từ bỏ, sau khi dứt bỏ, sau khi xua đi, sau khi làm chấm dứt, sau khi khiến cho không còn hiện hữu pháp ngăn che ‘hoài nghi,’ thì có thể nhanh chóng tức thời đi đến bờ kia chỉ với chút ít khó khăn. Bờ kia gọi là Bất Tử, Niết Bàn. Pháp ấy là sự yên lặng của tất cả các hành, sự từ bỏ tất cả các mầm tái sanh, sự diệt tận ái dục, sự lìa khỏi luyến ái, sự tịch diệt, Niết Bàn. Có thể đi đến bờ kia: có thể chứng đắc bờ kia, có thể chạm đến bờ kia, có thể chứng ngộ bờ kia. Pāragū (người đi đến bờ kia): Luôn cả người nào có ý muốn đi đến bờ kia, người ấy cũng là pāragū; luôn cả người nào đang đi đến bờ kia, người ấy cũng là pāragū; luôn cả người nào đã đi đến bờ kia, người ấy cũng là pāragū.
Vuttaṃ hetaṃ bhagavatā:
“Tiṇṇo pāragato thale tiṭṭhati brāhmaṇo ”ti kho bhikkhave, arahato etaṃ adhivacanaṃ. So abhiññāpāragū pariññāpāragū pahāṇapāragū bhāvanāpāragū sacchikiriyāpāragū samāpattipāragū; abhiññāpāragū sabbadhammānaṃ, pariññāpāragū sabbadukkhānaṃ, pahāṇapāragū sabbakilesānaṃ, bhāvanāpāragū catunnaṃ ariyamaggānaṃ, sacchikiriyāpāragū nirodhassa, samāpattipāragū sabbasamāpattīnaṃ. So vasippatto pāramippatto ariyasmiṃ sīlasmiṃ, vasippatto pāramippatto ariyasmiṃ samādhismiṃ, vasippatto pāramippatto ariyāya paññāya, vasippatto pāramippatto ariyāya vimuttiyā. So pāragato pārappatto antagato antappatto koṭigato koṭippatto pariyantagato pariyantappatto vosānagato vosānappatto tāṇagato tāṇappatto leṇagato leṇappatto saraṇagato saraṇappatto abhayagato abhayappatto accutagato accutappatto amatagato amatappatto nibbāṇagato nibbāṇappatto. So vutthavāso ciṇṇacaraṇo gataddho gatadiso gatakoṭiko pālitabrahmacariyo uttamadiṭṭhippatto bhāvitamaggo pahīṇakileso paṭividdhākuppo sacchikatanirodho–
Bởi vì, điều này đã được đức Thế Tôn nói đến:
“Này các tỳ khưu, quả vậy ‘người đã vượt được, đã đi đến bờ kia, đứng ở đất liền’ là Bà-la-môn;’ điều này là tên gọi cho vị A-la -hán. Vị ấy là pāragū (người đi đến bờ kia) do việc biết rõ, pāragū do việc biết toàn diện, pāragū do việc dứt bỏ, pāragū do việc tu tập, pāragū do việc chứng ngộ,pāragū do việc chứng đạt (các thiền); là pāragū do việc biết rõ tất cả các pháp, pāragū do việc biết toàn diện tất cả các khổ đau, pāragū do việc dứt bỏ tất cả các ô nhiễm, pāragū do việc phát triển bốn Thánh Đạo, pāragū do việc chứng ngộ sự tịch diệt, pāragū do việc chứng đạt mọi chứng đạt (về thiền định). Vị ấy đã đạt được năng lực đã đạt được sự toàn hảo ở Thánh giới, đã đạt được năng lực đã đạt được sự toàn hảo ở Thánh định, đã đạt được năng lực đã đạt được sự toàn hảo ở Thánh tuệ, đã đạt được năng lực đã đạt được sự toàn hảo ở Thánh giải thoát. Vị ấy đã đi đến bờ kia, đã đạt đến bờ kia, đã đi đến điểm cuối, đã đạt đến điểm cuối, đã đi đến đỉnh, đã đạt đến đỉnh, đã đi đến tận cùng, đã đạt đến tận cùng, đã đi đến sự hoàn tất, đã đạt đến sự hoàn tất, đã đi đến chốn bảo hộ, đã đạt đến chốn bảo hộ, đã đi đến chỗ trú ẩn, đã đạt đến chỗ trú ẩn, đã đi đến nơi nương nhờ, đã đạt đến nơi nương nhờ, đã đi đến sự không còn sợ hãi, đã đạt đến sự không còn sợ hãi, đã đi đến sự không chết, đã đạt đến sự không chết, đã đi đến Bất Tử, đã đạt đến Bất Tử, đã đi đến Niết Bàn, đã đạt đến Niết Bàn. Vị ấy đã sống cuộc sống (của bậc Thánh), đã thực hành tánh hạnh, đã đi đến cuộc hành trình, đã đi đến đỉnh chóp, đã hộ trì Phạm hạnh, đã đạt đến kiến tối thượng, đã phát triển Đạo, đã dứt bỏ ô nhiễm, đã thấu triệt sự không xao động, đã chứng ngộ Diệt đế, —
–dukkhaṃ tassa pariññātaṃ, samudayo pahīṇo, maggo bhāvito, nirodho sacchikato. Abhiññeyyaṃ abhiññātaṃ, pariññeyyaṃ pariññātaṃ, pahātabbaṃ pahīṇaṃ, bhāvetabbaṃ bhāvitaṃ, sacchikātabbaṃ sacchikataṃ. So ukkhittapaligho saṅkiṇṇaparikho abbūḷhesiko niraggalo ariyo paṇṇaddhajo paṇṇabhāro visaññutto pañcaṅgavippahīṇo chaḷaṅgasamannāgato ekārakkho caturapasseno panuṇṇapaccekasacco samavayasaṭṭhesano anāvilasaṅkappo passaddhakāyasaṃkhāro suvimuttacitto suvimuttapañño kevalī vusitavā uttamapuriso paramapuriso paramappattipatto.
— Khổ của vị ấy đã được biết toàn diện, có Tập đã được dứt bỏ, có Đạo đã được tu tập, có Diệt đã được chứng ngộ. Điều cần được biết rõ đã được biết rõ, điều cần được biết toàn diện đã được biết toàn diện, điều cần được dứt bỏ đã được biết dứt bỏ, điều cần được chứng ngộ đã được chứng ngộ. Vị ấy đã hất tung rào chắn (vô minh), đã san lấp mương rãnh (luân hồi tái sanh), đã nhổ lên cột trụ (tham ái), không còn chốt cửa, là thánh thiện, đã hạ xuống ngọn cờ (ngã mạn), đã đạt xuống gánh nặng, đã tháo khỏi ách, đã dứt bỏ hẳn năm dục, đã thành tựu sáu căn, có một sự bảo hộ (niệm), có bốn sự nâng đỡ, đã xua đi sự độc đoán, có sự tầm cầu đã được hoàn toàn cởi bỏ, có tâm tư không bị xáo trộn, có thân hành đã được an tịnh, có tâm khéo được giải thoát, có tuệ khéo được giải thoát, được đầy đủ, đã sống, là con người tối thượng, con người tột đỉnh, đã đạt được sự thành đạt tột đỉnh.
So neva ācināti na apacināti apacinitvā ṭhito; neva pajahati na upādiyati pajahitvā ṭhito; neva sineti na ussineti visinitvā ṭhito; neva vidhūpeti na sandhūpeti vidhūpetvā ṭhito; asekhena sīlakkhandhena samannāgatattā ṭhito, asekhena samādhikkhandhena asekhena paññākkhandhena asekhena vimuttikkhandhena asekhena vimuttiñāṇadassanakkhandhena samannāgatattā ṭhito; saccaṃ sampaṭipādiyitvā ṭhito, ejaṃ samatikkamitvā ṭhito, kilesaggiṃ pariyādiyitvā ṭhito, aparigamanatāya ṭhito, kathaṃ samādāya ṭhito, muttipaṭisevanatāya ṭhito, mettāya pārisuddhiyā ṭhito, karuṇāya muditāya upekkhāya pārisuddhiyā ṭhito, accantapārisuddhiyā ṭhito, atammayatāya pārisuddhiyā ṭhito, vimuttattā ṭhito, saṃtussitattā ṭhito, khandhapariyante ṭhito, dhātupariyante ṭhito, āyatanapariyante ṭhito, gatipariyante ṭhito, upapattipariyante ṭhito, paṭisandhipariyante ṭhito, (bhavapariyante ṭhito,) saṃsārapariyante ṭhito, vaṭṭapariyante ṭhito, antime bhave ṭhito, antime samussaye ṭhito, antimadehadharo arahā.
Vị ấy, không tích lũy (nghiệp) cũng không thủ tiêu, tồn tại sau khi đã thủ tiêu (ô nhiễm); không dứt bỏ (ô nhiễm) cũng không nắm giữ, tồn tại sau khi đã dứt bỏ; không vướng mắc (tham ái) cũng không khoe khoang, tồn tại sau khi đã gỡ rối; không dập tắt (lửa phiền não) cũng không đốt cháy, tồn tại sau khi đã dập tắt; tồn tại với trạng thái thành tựu về giới uẩn của bậc Vô Học, tồn tại với trạng thái thành tựu về định uẩn của bậc Vô Học, về tuệ uẩn của bậc Vô Học, về giải thoát uẩn của bậc Vô Học, về tri kiến giải thoát uẩn của bậc Vô Học; tồn tại sau khi đã thấu suốt Sự Thật, tồn tại sau khi đã vượt qua sự níu kéo (của tham ái), tồn tại sau khi đã loại trừ (lửa phiền não), tồn tại do không xoay vòng (ở luân hồi), tồn tại sau khi đã thọ trì lời giảng, tồn tại do thân cận với giải thoát, tồn tại với sự thanh tịnh của từ, tồn tại với sự thanh tịnh của bi của hỷ của xả, tồn tại với sự thanh tịnh vô biên, tồn tại với sự thanh tịnh của trạng thái không còn tham ái-tà kiến-ngã mạn, tồn tại với trạng thái đã được giải thoát, tồn tại với trạng thái đã được hài lòng, tồn tại trong giai đoạn cuối của các uẩn, tồn tại trong giai đoạn cuối của các giới, tồn tại trong giai đoạn cuối của các xứ, tồn tại trong giai đoạn cuối của cảnh giới tái sanh, tồn tại trong giai đoạn cuối của sự tái sanh, tồn tại trong giai đoạn cuối của sự nối liền tái sanh, (tồn tại trong giai đoạn cuối của hiện hữu), tồn tại trong giai đoạn cuối của luân hồi, tồn tại trong giai đoạn cuối của vòng quay, tồn tại trong kiếp sống cuối cùng, tồn tại trong xác thân cuối cùng, là vị A-la-hán với sự duy trì thân thể cuối cùng.
Tassāyaṃ pacchimakoṭi carimoyaṃ samussayo, jātimaraṇasaṃsāro natthi tassa punabbhavoti. Nāvaṃ sitvāva pāragū.
“Đối với vị ấy, sự hiện hữu này là cuối cùng, xác thân này là sau chót, luân hồi sanh tử, việc hiện hữu lần nữa không có đối với vị ấy.”
‘Tựa như sau khi tát cạn chiếc thuyền, là người đi đến bờ kia’ là thế ấy.
Tenāha bhagavā:
“Tasmā jantu sadā sato kāmāni parivajjaye,
te pahāya tare oghaṃ nāvaṃ sitvā pāragū ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Do đó, người luôn luôn có niệm có thể xa lánh các dục, sau khi dứt bỏ chúng thì có thể vượt qua dòng lũ, tựa như sau khi tát cạn chiếc thuyền, là người đi đến bờ kia.”
Kāmasuttaniddeso paṭhamo samatto.
Diễn Giải Kinh về Dục – Phần thứ nhất đã được đầy đủ.
2. GUHAṬṬHAKASUTTANIDDESO – DIỄN GIẢI KINH NHÓM TÁM VỀ HANG
Atha guhaṭṭhakasuttaniddeso vuccati.
Giờ Diễn Giải Kinh Nhóm Tám về Hang được nói đến.
2.1
“Satto guhāyaṃ bahunābhichanno tiṭṭhaṃ naro mohanasmiṃ pagāḷho, dūre vivekā hi tathāvidho so kāmā hi loke na hi suppahāyā.
“Bị dính mắc ở hang (thân xác), bị che đậy bởi nhiều (ô nhiễm), trong khi tồn tại, con người bị đắm chìm trong sự say mê (ngũ dục). Người thuộc hạng như thế ấy quả thật cách xa sự viễn ly, bởi vì các dục ở thế gian thật không dễ gì dứt bỏ.”
(II) Kinh Hang Ðộng tám kệ (Sn 151)
Chúng sanh vào trong hang,
Chấp chặt bị bao trùm,
Người có thái độ vậy,
Chìm sâu trong si mê.
Hạnh viễn ly với nó,
Như vậy thật xa vời,
Các dục ở trong đời,
Không dễ gì đoạn tận.
(Kinh Tập, câu kệ 772)
Satto guhāyaṃ bahunābhichanno ti – Satto ti hi kho vuttaṃ. Api ca guhā tāva vattabbā: Guhāvuccati kāyo. Kāyoti vā guhāti vā (dehoti vā) sandehoti vā nāvāti vā rathoti vā dhajoti vā vammikoti vā nagaranti vā nīḍanti vā kuṭīti vā gaṇḍoti vā kumbhoti vā (nāgo ti vā) kāyassetaṃ adhivacanaṃ.
Bị dính mắc ở hang (thân xác), bị che đậy bởi nhiều (ô nhiễm): Satto (với ý nghĩa ‘chúng sanh’) quả đã được nói đến. Hơn nữa, là lúc nên nói về từ guhā: Guhā được nói đến thân. ‘Thân’ hay là ‘hang,’ (hay là ‘thân thể’), hay là ‘thân hình,’ hay là ‘con thuyền,’ hay là ‘cỗ xe,’ hay là ‘lá cờ,’ hay là ‘ổ mối,’ hay là ‘thành phố,’ hay là ‘cái tổ,’ hay là ‘cái cốc,’ hay là ‘mụt nhọt,’ hay là ‘cái chum,’ (hay là ‘con voi), cái này là tên định đặt cho thân.[1]
[1] Các từ guhā, deho, sandeho, nāvā, ratho, dhajo, vammiko, nagaraṃ, nīḍaṃ, kuṭi, gaṇḍo, kumbho, nāgo đã được đức Phật sử dụng để ví von với cái thân (kāyo) này.
Satto guhāyan ti guhāyaṃ satto visatto āsatto laggo laggito paḷibuddho. Yathā bhittikhīle vā nāgadante vā bhaṇḍaṃ sattaṃ visattaṃ āsattaṃ laggaṃ laggitaṃ paḷibuddhaṃ, evamevaṃ guhāyaṃ satto visatto āsatto laggo laggito paḷibuddho.
Bị dính mắc ở hang (thân xác): là bị dính mắc, bị dính liền, bị dính vào, máng vào, bị vướng vào, bị giữ lại ở hang (thân xác). Giống như gói hàng bị dính mắc, bị dính liền, bị dính vào, máng vào, bị vướng vào, bị giữ lại ở chốt gắn trên tường hoặc ở móc ngà voi, tương tợ y như thế là bị dính mắc, bị dính liền, bị dính vào, máng vào, bị vướng vào, bị giữ lại ở hang (thân xác).
Vuttaṃ hetaṃ bhagavatā:
“Rūpe kho rādha, yo chando yo rāgo yā nandi yā taṇhā ye upayūpādānā cetaso adhiṭṭhānābhinivesānusayā, tatra satto tatra visatto, tasmā sattoti vuccati. Vedanāya kho rādha —pe— Saññāya kho rādha —pe— Saṅkhāresu kho rādha —pe— Viññāṇe kho rādha, yo chando yo rāgo yā nandiyā taṇhā ye upayūpādānā cetaso adhiṭṭhānābhinivesānusayā, tatra satto tatra visatto, tasmā sattoti vuccati.Sattoti lagganādhivacanan ’ti ‘satto guhāyaṃ.’
Bởi vì, điều này đã được đức Thế Tôn nói đến:
“Này Rādha, quả vậy mong muốn nào, luyến ái nào, niềm vui nào, tham ái nào, các sự dính líu và chấp thủ nào ở sắc là sự quyết định-sự thiên về-sự nương tựa của tâm; bị dính mắc (satto) vào đó, bị dính liền (visatto) vào đó, vì thế được gọi là ‘satto’ (chúng sanh). Này Rādha, quả vậy mong muốn nào, luyến ái nào, niềm vui nào, tham ái nào, các sự dính líu và chấp thủ nào ở thọ —như trên— ở tưởng —như trên— ở các hành —như trên— ở thức là sự quyết định-sự thiên về-sự nương tựa của tâm; bị dính mắc (satto) vào đó, bị dính liền (visatto) vào đó, vì thế được gọi là ‘satto’ (chúng sanh).[2]
‘Satto’ là tên định đặt cho sự vướng vào. ‘Bị dính mắc ở hang (thân xác)’ là thế ấy.
[2] Từ Pāḷi ‘satto’ là quá khứ phân từ của sajjati với ý nghĩa ‘bị dính mắc,’ ‘satto’ còn có ý nghĩa là ‘chúng sanh.’ Đoạn văn trên giải thích rằng chúng sanh vì bị dính mắc (satto) ở xác thân ngũ uẩn nên từ ‘satto’ trở thành tên định đặt cho ‘chúng sanh.’
Bahunābhichanno ti – bahukehi kilesehi channo: rāgena channo dosena channo mohena channo kodhena channo upanāhena channo makkhena channo paḷāsena channo issāya channo macchariyena channo māyāya channo sāṭheyyena channo thambhena channo sārambhena channo mānena channo atimānena channo madena channo pamādena channo, sabbakilesehi sabbaduccaritehi sabbadarathehi sabbapariḷāhehi sabbasantāpehi sabbākusalābhisaṃkhārehi channo ucchanno āvuto nivuto ovuto pihito paṭicchanno paṭikujjitoti ‘satto guhāyaṃ bahunābhichanno.’
Bị che đậy bởi nhiều (ô nhiễm) là bị che đậy bởi nhiều ô nhiễm: bị che đậy bởi luyến ái, bị che đậy bởi sân hận, bị che đậy bởi si mê, bị che đậy bởi giận dữ, bị che đậy bởi thù hằn, bị che đậy bởi gièm pha, bị che đậy bởi ác ý, bị che đậy bởi ganh tỵ, bị che đậy bởi bỏn xẻn, bị che đậy bởi xảo trá, bị che đậy bởi bội bạc, bị che đậy bởi bướng bỉnh, bị che đậy bởi hung hăng, bị che đậy bởi ngã mạn, bị che đậy bởi kiêu căng, bị che đậy bởi đam mê, bị che đậy bởi xao lãng, bị che đậy, bị che đậy lên, bị bao bọc, bị bao kín, bị bao trùm, bị che lại, bị che kín, bị đậy kín bởi tất cả ô nhiễm, bởi tất cả việc làm ác, bởi mọi sự lo lắng, bởi mọi sự bực bội, bởi mọi sự nóng nảy, bởi mọi sự tạo tác bất thiện. ‘Bị dính mắc ở hang (thân xác), bị che đậy bởi nhiều (ô nhiễm)’ là thế ấy.
Tiṭṭhaṃ naro mohanasmiṃ pagāḷho ti – ‘Tiṭṭhaṃ naro ’ti tiṭṭhanto naro ratto rāgavasena tiṭṭhati, duṭṭho dosavasena tiṭṭhati, mūḷho mohavasena tiṭṭhati, vinibaddho mānavasena tiṭṭhati, parāmaṭṭho diṭṭhivasena tiṭṭhati, vikkhepagato uddhaccavasena tiṭṭhati, aniṭṭhaṃ gato vicikicchāvasena tiṭṭhati, thāmagato anusayavasena tiṭṭhati, evampi tiṭṭhaṃ naro.
Trong khi tồn tại, con người bị đắm chìm trong sự say mê (ngũ dục) – Trong khi tồn tại, con người: Lúc đang tồn tại, con người luyến ái tồn tại với tánh luyến ái, sân hận tồn tại với tánh sân hận, si mê tồn tại với tánh si mê, bảo thủ tồn tại với tánh ngã mạn, cố chấp tồn tại với tánh tà kiến, lãng mạn tồn tại với tánh phóng dật, không dứt khoát tồn tại với tánh hoài nghi, vững chải tồn tại với tánh tiềm ẩn; ‘trong khi tồn tại, con người’ còn là như vậy.
Vuttaṃ hetaṃ bhagavatā:
“Santi bhikkhave, cakkhuviññeyyā rūpā iṭṭhā kantā manāpā piyarūpā kāmūpasaṃhitā rajanīyā, tañce bhikkhu abhinandati abhivadati ajjhosāya tiṭṭhati. Santi bhikkhave, sotaviññeyyā saddā —pe— ghānaviññeyyā gandhā —pe— jivhāviññeyyā rasā —pe— kāyaviññeyyā phoṭṭhabbā—pe— manoviññeyyā dhammā iṭṭhā kantā manāpā piyarūpā kāmūpasaṃhitā rajanīyā, tañce bhikkhu abhinandati abhivadati ajjhosāya tiṭṭhatī ”ti, evampi tiṭṭhaṃ naro.
Bởi vì, điều này đã được đức Thế Tôn nói đến:
“Này các tỳ khưu, có các sắc được nhận thức bởi mắt là đáng mong, đáng yêu, đáng mến, đáng quý, liên hệ đến dục, gợi tình, nếu vị tỳ khưu thích thú điều ấy, tán thưởng, bám lấy rồi tồn tại. Này các tỳ khưu, có các tiếng được nhận thức bởi tai —như trên— các hương được nhận thức bởi mũi —như trên— các vị được nhận thức bởi lưỡi —như trên— các xúc được nhận thức bởi thân —như trên— các pháp được nhận thức bởi ý là đáng mong, đáng yêu, đáng mến, đáng quý, liên hệ đến dục, gợi tình, nếu vị tỳ khưu thích thú điều ấy, tán thưởng, bám lấy rồi tồn tại;” ‘trong khi tồn tại, con người’ còn là như vậy.
Vuttaṃ hetaṃ bhagavatā:
“Rūpūpayaṃ vā bhikkhave, viññāṇaṃ tiṭṭhamānaṃ tiṭṭhati rūpārammaṇaṃ rūpapatiṭṭhaṃ nandūpasecanaṃ vuddhiṃ virūḷhiṃ vepullaṃ āpajjati. Vedanūpayaṃ vā bhikkhave —pe— Saññūpayaṃ vā bhikkhave —pe— Saṅkhārūpayaṃ vā bhikkhave, viññāṇaṃ tiṭṭhamānaṃ tiṭṭhati saṅkhārārammaṇaṃ saṅkhārūpatiṭṭhaṃ nandūpasecanaṃ vuddhiṃ virūḷhiṃ vepullaṃ āpajjatī ”ti, evampi tiṭṭhaṃ naro.
Bởi vì, điều này đã được đức Thế Tôn nói đến:
“Này các tỳ khưu, hoặc là có sự tiếp cận với sắc, trong khi tồn tại, thức tồn tại có đối tượng là sắc, có chỗ nâng đỡ là sắc, có sự rải rắc niềm vui, thì đạt đến sự phát triển, sự tăng trưởng, sự lớn mạnh. Này các tỳ khưu, hoặc là có sự tiếp cận với thọ, —như trên— Này các tỳ khưu, hoặc là có sự tiếp cận với tưởng, —như trên— Này các tỳ khưu, hoặc là có sự tiếp cận với các hành, trong khi tồn tại, thức tồn tại có đối tượng là các hành, có chỗ nâng đỡ là các hành, có sự rải rắc niềm vui, thì đạt được sự phát triển, sự tăng trưởng, sự lớn mạnh;” ‘trong khi tồn tại, con người’ còn là như vậy.
Vuttaṃ hetaṃ bhagavatā:
“Kabalīkāre ce bhikkhave, āhāre atthi rāgo, atthi nandi, atthi taṇhā, patiṭṭhitaṃ tattha viññāṇaṃ virūḷhaṃ. Yattha patiṭṭhitaṃ viññāṇaṃ virūḷhaṃ, atthi tattha nāmarūpassāvakkanti. Yattha atthi nāmarūpassāvakkanti, atthi tattha saṅkhārānaṃ vuddhi. Yattha atthi saṅkhārānaṃ vuddhi, atthi tattha āyatiṃ punabbhavābhinibbatti. Yattha atthi āyatiṃ punabbhavābhinibbatti, atthi tattha āyatiṃ jātijarāmaraṇaṃ. Yattha atthi āyatiṃ jāti jarā maraṇaṃ, sasokaṃ taṃ bhikkhave, sadaraṃ sa-upāyāsanti vadāmī ”ti. Evampi tiṭṭhaṃ naro.
Bởi vì, điều này đã được đức Thế Tôn nói đến:
“Này các tỳ khưu, nếu ở đoàn thực mà có sự ái luyến, có sự vui mừng, có sự tham ái, thì ở nơi ấy thức được thiết lập, được tăng trưởng. Ở nơi nào thức được thiết lập, được tăng trưởng, ở nơi ấy có sự hạ sanh của danh sắc. Ở nơi nào có sự hạ sanh của danh sắc, ở nơi ấy có sự phát triển của các hành. Ở nơi nào có sự phát triển của các hành, ở nơi ấy có sự sanh ra và hiện hữu lần nữa trong tương lai. Ở nơi nào có sự sanh ra và hiện hữu lần nữa trong tương lai, ở nơi ấy có sanh-già-chết trong tương lai. Ở nơi nào có sanh-già-chết trong tương lai, này các tỳ khưu, ta nói rằng việc ấy có sầu muộn, có buồn phiền, có lo âu;” ‘trong khi tồn tại, con người’ còn là như vậy.
“Phasse ce bhikkhave, āhāre —pe— “Manosañcetanāya ce bhikkhave, āhāre —pe— “Viññāṇe ce bhikkhave, āhāre atthi rāgo, atthi nandi, atthi taṇhā, patiṭṭhitaṃ tattha viññāṇaṃ virūḷhaṃ. Yattha patiṭṭhitaṃ viññāṇaṃ virūḷhaṃ, atthi tattha nāmarūpassāvakkanti. Yattha atthi nāmarūpassāvakkanti, atthi tattha saṅkhārānaṃ vuddhi. Yattha atthi saṅkhārānaṃ vuddhi, atthi tattha āyatiṃ punabbhavābhinibbatti. Yattha atthi āyatiṃ punabbhavābhinibbatti, atthi tattha āyatiṃ jātijarāmaraṇaṃ. Yattha atthi āyatiṃ jāti jarā maraṇaṃ, sasokaṃ taṃ bhikkhave, sadaraṃ4 sa-upāyāsanti vadāmī ”ti. Evampi tiṭṭhaṃ naro.
“Này các tỳ khưu, nếu ở xúc thực —như trên— “Này các tỳ khưu, nếu ở tư niệm thực —như trên— “Này các tỳ khưu, nếu ở thức thực mà có sự ái luyến, có sự vui mừng, có sự tham ái, thì ở nơi ấy thức được thiết lập, được tăng trưởng. Ở nơi nào thức được thiết lập, được tăng trưởng, ở nơi ấy có sự hạ sanh của danh sắc. Ở nơi nào có sự hạ sanh của danh sắc, ở nơi ấy có sự phát triển của các hành. Ở nơi nào có sự phát triển của các hành, ở nơi ấy có sự sanh ra và hiện hữu lần nữa trong tương lai. Ở nơi nào có sự sanh ra và hiện hữu lần nữa trong tương lai, ở nơi ấy có sanh-già-chết trong tương lai. Ở nơi nào có sanh-già-chết trong tương lai, này các tỳ khưu, ta nói rằng việc ấy có sầu muộn, có ưu phiền, có lo âu;” ‘trong khi tồn tại, con người’ còn là như vậy.
Mohanasmiṃ pagāḷho ti – mohanā vuccanti pañca kāmaguṇā: cakkhuviññeyyā rūpā iṭṭhā kantā manāpā piyarūpā kāmūpasaṃhitā rajanīyā, sotaviññeyyā saddā —pe— ghānaviññeyyā gandhā —pe— jivhāviññeyyā rasā —pe— kāyaviññeyyā phoṭṭhabbā iṭṭhā kantā manāpā piyarūpā kāmūpasaṃhitā rajanīyā. Kiṃ kāraṇā mohanā vuccanti pañca kāmaguṇā? Yebhuyyena devamanussā pañcasu kāmaguṇesu muyhanti pamuyhanti sampamuyhanti mūḷhā pamūḷhā sampamūḷhā avijjāya andhikatā āvutā nivutā ovutā pihitā paṭicchannā paṭikujjitā, taṅkāraṇā mohanā vuccanti pañca kāmaguṇā. Mohanasmiṃ pagāḷho ti mohanasmiṃ pagāḷho ajjhogāḷho nimuggo ’ti ‘tiṭṭhaṃ naro mohanasmiṃ pagāḷho.’
Bị đắm chìm trong sự say mê (ngũ dục) – Các sự say mê được gọi là năm loại dục: Các sắc được nhận thức bởi mắt là đáng mong, đáng yêu, đáng mến, đáng quý, liên hệ đến dục, gợi tình, các tiếng được nhận thức bởi tai —như trên— các hương được nhận thức bởi mũi —như trên— các vị được nhận thức bởi lưỡi —như trên— các xúc được nhận thức bởi thân —như trên— các pháp được nhận thức bởi ý là đáng mong, đáng yêu, đáng mến, đáng quý, liên hệ đến dục, gợi tình. Vì lý do gì mà các sự say mê được gọi là năm loại dục? Phần nhiều chư Thiên và loài người mê mờ, mê đắm, mê mệt, bị mê mờ, bị mê đắm, bị mê mệt, bị vô minh làm mù, bị bao bọc, bị bao kín, bị bao trùm, bị che lại, bị che kín, bị đậy kín trong năm loại dục; vì lý do ấy mà các sự say mê được gọi là năm loại dục. Bị đắm chìm trong sự say mê (ngũ dục) là bị đắm chìm, bị đắm xuống, bị chìm xuống trong sự say mê (ngũ dục). ‘Trong khi tồn tại, con người bị đắm chìm trong sự say mê (ngũ dục)’ là thế ấy.
Dūre vivekā hi tathāvidho so ti – Vivekā ti tayo vivekā: kāyaviveko, cittaviveko, upadhiviveko.
Người thuộc hạng như thế ấy quả thật cách xa sự viễn ly – Sự viễn ly: Có ba sự viễn ly: thân viễn ly, tâm viễn ly, sanh y viễn ly.
Katamo kāyaviveko? Idha bhikkhu vicittaṃ senāsanaṃ bhajati araññaṃ rukkhamūlaṃ pabbataṃ kandaraṃ giriguhaṃ susānaṃ vanapatthaṃ abbhokāsaṃ palālapuñjaṃ kāyena ca vivitto viharati. So eko gacchati, eko tiṭṭhati, eko nisīdati, eko seyyaṃ kappeti, eko gāmaṃ piṇḍāya pavisati, eko paṭikkamati, eko raho nisīdati, eko caṅkamaṃ adhiṭṭhāti, eko carati, eko viharati irīyati vattati pāleti yapeti yāpeti. Ayaṃ kāyaviveko.
Thế nào là thân viễn ly? Ở đây, vị tỳ khưu thân cận chỗ trú ngụ vắng vẻ, khu rừng rậm, gốc cây, sườn núi, thung lũng, khe núi, bãi tha ma, khu rừng thưa, đồng trống, đống rơm, và sống cô quạnh về thân. Vị ấy đi một mình, đứng một mình, ngồi một mình, nằm một mình, đi vào làng để khất thực một mình, đi trở về một mình, ngồi cô độc một mình, quyết định kinh hành một mình, thực hành một mình, sống, cư xử, vận hành, bảo hộ, duy trì, nuôi dưỡng một mình. Đây là thân viễn ly.
Katamo cittaviveko? Paṭhamajjhānaṃ samāpannassa nīvaraṇehi cittaṃ vivittaṃ hoti. Dutiyajjhānaṃ samāpannassa vitakkavicārehi cittaṃ vivittaṃ hoti. Tatiyajjhānaṃ samāpannassa pītiyā cittaṃ vivittaṃ hoti. Catutthajjhānaṃ samāpannassa sukhadukkhehi cittaṃ vivittaṃ hoti. Ākāsānañcāyatanaṃ samāpannassa rūpasaññāya paṭighasaññāya nānattasaññāya cittaṃ vivittaṃ hoti. Viññāṇañcāyatanaṃ samāpannassa ākāsānañcāyatanasaññāya cittaṃ vivittaṃ hoti. Ākiñcaññāyatanaṃ samāpannassa viññāṇañcāyatanasaññāya cittaṃ vivittaṃ hoti. Nevasaññānāsaññāyatanaṃ samāpannassa ākiñcaññāyatanasaññāya cittaṃ vivittaṃ hoti. Sotāpannassa sakkāyadiṭṭhiyā vicikicchāya sīlabbataparāmāsā diṭṭhānusayā vicikicchānusayā tadekaṭṭhehi ca kilesehi cittaṃ vivittaṃ hoti. Sakadāgāmissa oḷārikā kāmarāgasaññojanā paṭighasaññojanā oḷārikā kāmarāgānusayā paṭighānusayā tadekaṭṭhehi ca kilesehi cittaṃ vivittaṃ hoti. Anāgāmissa anusahagatā kāmarāgasaññojanā paṭighasaññojanā anusahagatā kāmarāgānusayā paṭighānusayā tadekaṭṭhehi ca kilesehi cittaṃ vivittaṃ hoti. Arahato rūparāgā arūparāgā mānā uddhaccā avijjāya mānānusayā (bhavarāgānusayā) avijjānusayā tadekaṭṭhehi ca kilesehi bahiddhā ca3 sabbanimittehi cittaṃ vivittaṃ hoti. Ayaṃ cittaviveko.
Thế nào là tâm viễn ly? Đối với vị thể nhập sơ thiền, tâm được viễn ly các pháp che lấp. Đối với vị thể nhập nhị thiền, tâm được viễn ly tầm và tứ. Đối với vị thể nhập tam thiền, tâm được viễn ly hỷ. Đối với vị thể nhập tứ thiền, tâm được viễn ly lạc và khổ. Đối với vị thể nhập không vô biên xứ, tâm được viễn ly sắc tưởng, bất bình tưởng, dị biệt tưởng. Đối với vị thể nhập thức vô biên xứ, tâm được viễn ly không vô biên xứ tưởng. Đối với vị thể nhập vô sở hữu xứ, tâm được viễn ly thức vô biên xứ tưởng. Đối với vị thể nhập phi tưởng phi phi tưởng xứ, tâm được viễn ly vô sở hữu xứ tưởng. Đối với vị Nhập Lưu, tâm được viễn ly sự nhận thức sai trái về thân, sự hoài nghi, sự bám víu vào giới và nghi thức, tà kiến ngủ ngầm, hoài nghi ngủ ngầm, và các phiền não cộng trú với mỗi pháp ấy. Đối với vị Nhất Lai, tâm được viễn ly sự ràng buộc của ái dục và sự ràng buộc của bất bình có tính chất thô thiển, ái dục ngủ ngầm và bất bình ngủ ngầm có tính chất thô thiển, và các phiền não cộng trú với mỗi pháp ấy. Đối với vị Bất Lai, tâm được viễn ly sự ràng buộc của ái dục và sự ràng buộc của bất bình có tính chất vi tế, ái dục ngủ ngầm và bất bình ngủ ngầm có tính chất vi tế, và các phiền não cộng trú với mỗi pháp ấy. Đối với vị A-la-hán, tâm được viễn ly ái sắc, ái vô sắc, ngã mạn, phóng dật, vô minh, ngã mạn ngủ ngầm, (hữu ngủ ngầm,) vô minh ngủ ngầm, các phiền não cộng trú với mỗi pháp ấy, và mọi hiện tướng ở bên ngoài. Đây là tâm viễn ly.
Katamo upadhiviveko? Upadhi vuccanti kilesā ca khandhā ca abhisaṅkhārā ca. Upadhivivekoti vuccati amataṃ nibbāṇaṃ; yo sabbasaṅkhārasamatho sabbūpadhipaṭinissaggo taṇhakkhayo virāgo nirodho nibbāṇaṃ. Ayaṃ upadhiviveko.
Thế nào là sanh y viễn ly? Sanh y được nói đến các ô nhiễm, các uẩn, và cách hành. Sanh y viễn ly được nói đến Bất Tử, Niết Bàn, là sự yên lặng của tất cả các hành, sự từ bỏ tất cả các mầm tái sanh, sự diệt tận tham ái, sự lìa khỏi luyến ái, sự tịch diệt, Niết Bàn. Đây là sanh y viễn ly.
Kāyaviveko ca vavakaṭṭhakāyānaṃ nekkhammābhiratānaṃ, cittaviveko ca parisuddhacittānaṃ paramavodānappattānaṃ, upadhiviveko ca nirupadhīnaṃ puggalānaṃ visaṅkhāragatānaṃ.
Thân viễn ly là đối với các vị có thân đã lui về nơi ẩn dật, đã thích thú trong việc xuất ly; tâm viễn ly là đối với các vị có tâm hoàn toàn thanh tịnh, đã đạt đến sự trong sạch tối cao; và sanh y viễn ly là đối với các cá nhân không còn mầm mống tái sanh, đã xa lìa các pháp tạo tác.
Dūre vivekā hī ti – yo so evaṃ guhāyaṃ satto evaṃ bahukehi ca kilesehi channo evaṃ mohanasmiṃ pagāḷho, so kāyavivekāpi dūre cittavivekāpi dūre upadhivivekāpi dūre vidūre suvidūre na santike na sāmantā anāsanne vavakaṭṭhe. Tathāvidho ti tādiso tassaṇṭhito tappakāro tappaṭibhāgo; yo so mohanasmiṃ pagāḷho ’ti ‘dūre vivekā hi tathāvidho so.’
Quả thật cách xa sự viễn ly: Người nào bị dính mắc ở hang (thân xác), như vậy, và bị che đậy bởi nhiều ô nhiễm như vậy, bị đắm chìm trong sự say mê (ngũ dục) như vậy, người ấy là cách xa thân viễn ly, cách xa tâm viễn ly, cách xa sanh y viễn ly, cách xa hẳn, cách xa lắm, không ở gần, không ở bên cạnh, không ở kề cận, ở nơi ẩn dật. Thuộc hạng như thế: là giống như thế, được tồn tại theo lối ấy, có kiểu cách ấy, tương tự cái ấy; người ấy bị đắm chìm trong sự say mê (ngũ dục); ‘người thuộc hạng như thế ấy quả thật cách xa sự viễn ly’ là thế ấy.
Kāmā hi loke na hi suppahāyā ti – Kāmā ti uddānato dve kāmā: vatthukāmā ca kilesakāmā ca.
Bởi vì các dục ở thế gian thật không dễ gì dứt bỏ – Các dục: theo sự phân hạng thì có hai loại dục: vật dục và ô nhiễm dục.
Katame vatthukāmā? Manāpikā rūpā manāpikā saddā manāpikā gandhā manāpikā rasā manāpikā phoṭṭhabbā attharaṇā pāpuraṇā dāsidāsā ajeḷakā kukkuṭasūkarā hatthigavāssavaḷavā khettaṃ vatthu hiraññaṃ suvaṇṇaṃ gāmanigamarājadhāniyo raṭṭhaṃ ca janapado ca koso ca koṭṭhāgāraṃ ca, yaṃ kiñci rajanīyaṃ vatthu vatthukāmā.
Các loại nào là vật dục? Các sắc hợp ý, các thinh hợp ý, các hương hợp ý, các vị hợp ý, các xúc hợp ý, các vật trải lót, các vật đắp, các tôi trai và tớ gái, dê cừu, gà heo, voi bò ngựa lừa, ruộng, vườn, tiền vàng, vàng khối, làng, phố, kinh thành, lãnh thổ, xứ sở, khu trại, nhà kho, bất cứ vật gì đưa đến sự luyến ái là vật dục.
Api ca atītā kāmā anāgatā kāmā paccuppannā kāmā ajjhattā kāmā bahiddhā kāmā ajjhattabahiddhā kāmā hīnā kāmā majjhimā kāmā paṇītā kāmā āpāyikā kāmā mānusikā kāmā dibbā kāmā paccupaṭṭhitā kāmā nimmitā kāmā paranimmitā kāmā animmitā kāmā pariggahitā kāmā apariggahitā kāmā mamāyitā kāmā amamāyitā kāmā, sabbepi kāmāvacarā dhammā sabbepi rūpāvacarā dhammā sabbepi arūpāvacarā dhammā taṇhāvatthukā taṇhārammaṇā kamanīyaṭṭhena rajanīyaṭṭhena madanīyaṭṭhena kāmā, ime vuccanti vatthukāmā.
Thêm nữa là các dục quá khứ, các dục vị lại, các dục hiện tại, các dục nội phần, các dục ngoại phần, các dục nội và ngoại phần, các dục hạ liệt, các dục trung bình, các dục cao quý, các dục thuộc địa ngục, các dục thuộc loài người, các dục thuộc cõi Trời, các dục được hiện hữu, các dục được tạo ra, các dục được người khác tạo ra, các dục không được tạo ra, các dục thuộc sở hữu, các dục không thuộc sở hữu, các dục thuộc cá nhân, các dục không thuộc cá nhân, tính luôn tất cả các pháp Dục Giới, tất cả các pháp Sắc Giới, tất cả các pháp Vô Sắc Giới, các dục có nền tảng là tham ái, có cảnh giới là tham ái, với ý nghĩa là đưa đến sự ham muốn, với ý nghĩa là đưa đến sự luyến ái, với ý nghĩa là đưa đến sự say đắm. Các điều này được gọi là các vật dục.
Katame kilesakāmā? Chando kāmo rāgo kāmo chandarāgo kāmo, saṅkappo kāmo rāgā kāmo saṅkapparāgo kāmo, yo kāmesu kāmachando kāmarāgo kāmanandi kāmataṇhā kāmasineho kāmapariḷāho kāmamucchā kāmajjhosānaṃ kāmogho kāmayogo kāmūpādānaṃ kāmacchandanīvaraṇaṃ.
Ô nhiễm dục là các loại nào? Mong muốn là dục, luyến ái là dục, mong muốn và luyến ái là dục, suy tầm là dục, luyến ái là dục, suy tầm và luyến ái là dục, là sự mong muốn về dục, sự luyến ái về dục, niềm vui về dục, sự tham ái về dục, sự thương yêu về dục, sự nồng nhiệt về dục, sự mê mẩn về dục, sự ràng buộc về dục, sự lôi cuốn về dục, sự gắn bó với dục, sự chấp thủ về dục, sự che lấp do mong muốn về dục ở các dục.
“Addasaṃ kāma te mūlaṃ saṅkappā kāma jāyasi, na taṃ saṅkappayissāmi evaṃ kāma na hehisī ”ti. Ime vuccanti kilesakāmā.
“Này dục, ta đã nhìn thấy gốc rễ của ngươi. Này dục, ngươi sanh lên từ sự suy tầm.
Ta sẽ không suy tầm về ngươi nữa. Này dục, như vậy ngươi sẽ không hiện hữu.”
Các điều này được gọi là ô nhiễm dục.
Loke ti – apāyaloke manussaloke devaloke khandhaloke dhātuloke āyatanaloke. Kāmā hi loke na hi suppahāyā ti – kāmā hi loke duppahāyā duccajā duppariccajā dunnimmadayā dunniveṭhayā dubbiniveṭhayā duttarā duppatarā dussamatikkamā dubbinivattāti kāmā hi loke na hi suppahāyā.
Ở thế gian: ở thế gian của khổ cảnh, ở thế gian của loài người, ở thế gian của chư Thiên, ở thế gian của các uẩn, ở thế gian của các giới, ở thế gian của các xứ. Bởi vì các dục ở thế gian thật không dễ gì dứt bỏ: Bởi vì các dục ở thế gian khó dứt bỏ, khó từ bỏ, khó từ bỏ hẳn, khó đè nén, khó tháo gỡ, khó tháo bỏ, khó vượt lên, khó vượt hẳn, khó vượt qua, khó kháng cự; ‘bởi vì các dục ở thế gian thật không dễ gì dứt bỏ’ là thế ấy.
Tenāha bhagavā:
“Satto guhāyaṃ bahunābhichanno tiṭṭhaṃ naro mohanasmiṃ pagāḷho, dūre vivekā hi tathāvidho so
kāmā hi loke na hi suppahāyā ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Bị dính mắc ở hang (thân xác), bị che đậy bởi nhiều (ô nhiễm), trong khi tồn tại, con người bị đắm chìm trong sự say mê (ngũ dục). Người thuộc hạng như thế ấy quả thật cách xa sự viễn ly, bởi vì các dục ở thế gian thật không dễ gì dứt bỏ.
Icchānidānā bhavasātabaddhā te duppamuñcā na hi aññamokkhā, pacchā pure vāpi apekkhamānā imeva kāme purimeva jappaṃ.
Có ước muốn là căn nguyên, bị trói buộc vào lạc thú ở hiện hữu, đang mong ước về sau này hoặc luôn cả trước đây, đang tham muốn chính các dục này đây hoặc ngay trước đây, những kẻ ấy là khó giải thoát, đương nhiên không thể giúp cho những người khác giải thoát.
Dục cầu làm nhân duyên,
Bị lạc hữu trói buộc,
Họ rất khó giải thoát,
Không thể có người khác,
Ðến giải thoát cho mình,
Họ cầu việc đã qua,
Họ mong việc chưa lại;
Họ tham đắm các dục,
Những dục này hiện tại,
Và những dục quá khứ.
(Kinh Tập, câu kệ 773)
2.2
Icchānidānā bhavasātabaddhā ti – Icchā vuccati taṇhā – yo rāgo sārāgo anunayo anurodho nandi nandirāgo cittassa sārāgo icchā mucchā ajjhosānaṃ gedho paḷigedho saṅgo paṅko ejā māyā janikā sañjanikā sañjananī sibbanī jālinī saritā visattikā suttaṃ visaṭā āyūhanī dutiyā paṇidhi bhavanetti vanaṃ vanatho santhavo sneho apekkhā paṭibandhu āsā āsiṃsanā āsiṃsitattaṃ, rūpāsā saddāsā gandhāsā rasāsā phoṭṭhabbāsā lābhāsā dhanāsā puttāsā jīvitāsā, jappā pajappā abhijappā jappanā jappitattaṃ loluppaṃ loluppāyanā loluppāyitattaṃ pucchañcikatā sādukamyatā, adhammarāgo visamalobho nikanti nikāmanā patthanā pihanā sampatthanā, kāmataṇhā bhavataṇhā vibhavataṇhā rūpataṇhā arūpataṇhā nirodhataṇhā, rūpataṇhā saddataṇhā gandhataṇhā rasataṇhā phoṭṭhabbataṇhā dhammataṇhā, ogho yogo gantho upādānaṃ āvaraṇaṃ nīvaraṇaṃ chadanaṃ bandhanaṃ upakkileso anusayo pariyuṭṭhānaṃ latā vevicchaṃ, dukkhamūlaṃ dukkhanidānaṃ dukkhappabhavo mārapāso mārabalisaṃ māravisayo taṇhānadī taṇhājālaṃ taṇhāgaddulaṃ taṇhāsamuddo abhijjhā lobho akusalamūlaṃ.
Có ước muốn là căn nguyên, bị trói buộc vào lạc thú ở hiện hữu: Ước muốn được gọi là ái, nghĩa là luyến ái, luyến ái mãnh liệt, say đắm, thuận thảo, niềm vui, niềm vui và luyến ái, sự luyến ái mãnh liệt của tâm, ước muốn, mê mẩn, bám víu, đeo bám, đeo cứng, quyến luyến, đắm chìm, níu kéo, xảo quyệt, liên quan tái sanh, hoàn toàn liên quan tái sanh, sự tạo ra khổ, kết vào, có lưới bẫy, cuốn trôi, vướng mắc, sợi chỉ trói, sự lan rộng, có sự ra sức, bạn đời, mầm tái sanh, lối dẫn di tái sanh, cầu xin, bám lấy đối tượng, gắn bó, thương yêu, mong ước, thân mật, mong mỏi, khát vọng, trạng thái mong mỏi, mong mỏi về sắc, mong mỏi về thinh, mong mỏi về hương, mong mỏi về vị, mong mỏi về xúc, mong mỏi về lợi lộc, mong mỏi về tài sản, mong mỏi về con trai, mong mỏi về mạng sống, tham muốn, khởi tham muốn, tham muốn tột độ, biểu hiện tham muốn, trạng thái tham muốn, tham lam, biểu hiện tham lam, trạng thái tham lam, xao xuyến, ham muốn vật vừa ý, luyến ái sai pháp, tham thất thường, đeo đuổi, khao khát, ước nguyện, mong cầu, ước nguyện tốt đẹp, dục ái, hữu ái, phi hữu ái, ái cõi Sắc giới, ái cõi Vô sắc giới, ái Niết Bàn, ái cảnh sắc, ái cảnh thinh, ái cảnh khí, ái cảnh vị, ái cảnh xúc, ái cảnh pháp, dòng nước lũ, sự ràng buộc, cột trói, chấp thủ, che ngăn, che lấp, phủ lấp, trói buộc, làm ô nhiễm, tiềm ẩn, thâm nhập, quấn lấy, ham hố, cội nguồn của khổ, căn nguyên của khổ, nguồn sanh khổ, cạm bẫy của Ma Vương, lưỡi câu của Ma Vương, độc tố của Ma Vương, ái ví như dòng sông, ái ví như tấm lưới, ái ví như dây xích, ái ví như biển, tham đắm, tham, cội nguồn của bất thiện.
Icchānidānā ti – icchānidānā icchāhetukā icchāpaccayā icchākāraṇā icchāpabhavā ’ti icchānidānā.
Có ước muốn là căn nguyên – Có ước muốn là căn nguyên: có ước muốn là nhân, có ước muốn là duyên, có ước muốn là lý do, có ước muốn là nguồn phát khởi; ‘có ước muốn là căn nguyên là thế ấy.’
Bhavasātabaddhā ti – Ekaṃ bhavasātaṃ: sukhā vedanā. Dve bhavasātāni: sukhā ca vedanā iṭṭhaṃ ca vatthu. Tīṇi bhavasātāni: yobbaññaṃ ārogyaṃ jīvitaṃ. Cattāri bhavasātāni: lābho yaso pasaṃsā sukhaṃ. Pañca bhavasātāni: manāpikā rūpā manāpikā saddā manāpikā gandhā manāpikā rasā manāpikā phoṭṭhabbā. Cha bhavasātāni: cakkhusampadā sotasampadā ghānasampadā jivhāsampadā kāyasampadā manosampadā. Bhavasātabaddhā ti sukhāya vedanāya sattā baddhā iṭṭhasmiṃ vatthusmiṃ, yobbaññe baddhā, ārogye baddhā, jīvite baddhā, lābhe baddhā, yase baddhā, pasaṃsāyaṃ baddhā, sukhe baddhā, manāpikesu rūpesu baddhā, manāpikesu saddesu – gandhesu – rasesu manāpikesu phoṭṭhabbesu baddhā, cakkhusampadāya baddhā, sotasampadāya baddhā, ghāna-jivhā-kāya-manosampadāya baddhā, vibaddhā ābaddhā laggā laggitā paḷibaddhā ’ti ‘icchānidānā bhavasātabaddhā.’
Bị trói buộc vào lạc thú ở hiện hữu: Một lạc thú ở hiện hữu: cảm thọ lạc. Hai lạc thú ở hiện hữu: cảm thọ lạc và sự việc được ước muốn. Ba lạc thú ở hiện hữu: tuổi trẻ, sức khỏe, mạng sống. Bốn lạc thú ở hiện hữu: lợi lộc, danh tiếng, lời khen, hạnh phúc. Năm lạc thú ở hiện hữu: các sắc hợp ý, các thinh hợp ý, các hương hợp ý, các vị hợp ý, các xúc hợp ý. Sáu lạc thú ở hiện hữu: sự thỏa mãn của mắt, sự thỏa mãn của tai, sự thỏa mãn của mũi, sự thỏa mãn của lưỡi, sự thỏa mãn của thân, sự thỏa mãn của ý. Bị trói buộc vào lạc thú ở hiện hữu: bị dính mắc, bị trói buộc vào cảm thọ lạc, vào sự việc được ước muốn, bị trói buộc vào tuổi trẻ, bị trói buộc vào sức khỏe, bị trói buộc vào mạng sống, bị trói buộc vào lợi lộc, bị trói buộc vào danh tiếng, bị trói buộc vào lời khen, bị trói buộc vào hạnh phúc, bị trói buộc vào các sắc hợp ý, các thinh – các hương – các vị hợp ý, bị trói buộc vào các xúc hợp ý, bị trói buộc vào sự thỏa mãn của mắt, bị trói buộc vào sự thỏa mãn của tai, bị trói buộc vào sự thỏa mãn của mũi – lưỡi – thân – ý, bị trói chặt, bị trói vào, máng vào, bị vướng vào, bị giữ lại; ‘có ước muốn là căn nguyên, bị trói buộc vào lạc thú ở hiện hữu’ là thế ấy.
Te duppamuñcā na hi aññamokkhā ti – te vā bhavasātavatthū duppamuñcā, sattā vā etto dummocayā.
Những kẻ ấy là khó giải thoát, đương nhiên không được giải thoát bởi những người khác: Các sự việc lạc thú ở hiện hữu ấy là khó giải thoát, hay là chúng sanh khó được giải thoát khỏi sự việc ấy.
Kathaṃ te bhavasātavatthū duppamuñcā? Sukhā vedanā duppamuñcā, iṭṭhaṃ vatthu duppamuñcaṃ, yobbaññaṃ duppamuñcaṃ, ārogyaṃ duppamuñcaṃ, jīvitaṃ duppamuñcaṃ, lābho duppamuñco, yaso duppamuñco, pasaṃsā duppamuñcā, sukhaṃ duppamuñcaṃ, manāpikā rūpā duppamuñcā, manāpikā saddā – gandhā – rasā – phoṭṭhabbā duppamuñcā, cakkhusampadā duppamuñcā, sota-ghāna-jivhā-kāya-manosampadā duppamuñcā dummocayā duppamocayā dunniveṭhayā dubbiniveṭhayā duttarā duppatarā dussamatikkamā dubbinivattā. Evante bhavasātavatthū duppamuñcā.
Các sự việc lạc thú ở hiện hữu ấy là khó giải thoát nghĩa là thế nào? Cảm thọ lạc là khó giải thoát, sự việc được ước muốn là khó giải thoát, tuổi trẻ là khó giải thoát, sức khỏe là khó giải thoát, mạng sống là khó giải thoát, lợi lộc là khó giải thoát, danh tiếng là khó giải thoát, lời khen là khó giải thoát, hạnh phúc là khó giải thoát, các sắc hợp ý là khó giải thoát, các thinh – các hương – các vị – các xúc hợp ý là khó giải thoát, sự thỏa mãn của mắt là khó giải thoát, sự thỏa mãn của tai – mũi – lưỡi – thân – ý là khó giải thoát, khó được giải thoát, khó được phóng thích, khó tháo gỡ, khó tháo bỏ, khó vượt lên, khó vượt hẳn, khó vượt qua, khó vượt bứt. Các sự việc lạc thú ở hiện hữu ấy là khó giải thoát nghĩa là như vậy.
Kathaṃ sattā etto dummocayā? Sukhāya vedanāya sattā dummocayā, iṭṭhasmā vatthusmā dummocayā, yobbaññā dummocayā, ārogyā dummocayā, jīvitā dummocayā, lābhā dummocayā, yasā dummocayā, pasaṃsāya dummocayā, sukhā dummocayā, manāpikehi rūpehi dummocayā, manāpikehi saddehi – gandhehi – rasehi – phoṭṭhabbehi dummocayā, cakkhusampadāya dummocayā, sota-ghāna-jivhā-kāya-manosampadāya dummocayā duppamocayā duruddharā dussamuddharā dubbuṭṭhāpayā dussamuṭṭhāpayā dunniveṭhayā dubbiveṭhayā duttarā duppatarā dussamatikkamā dubbinivattā . Evaṃ sattā etto dummocayā ’ti ‘te duppamuñcā.’
Chúng sanh khó được giải thoát khỏi sự việc ấy nghĩa là thế nào? Chúng sanh là khó được giải thoát khỏi cảm thọ lạc, khó được giải thoát khỏi sự việc được ước muốn, khó được giải thoát khỏi tuổi trẻ, khó được giải thoát khỏi sức khỏe, khó được giải thoát khỏi mạng sống, khó được giải thoát khỏi lợi lộc, khó được giải thoát khỏi danh tiếng, khó được giải thoát khỏi lời khen, khó được giải thoát khỏi hạnh phúc, khó được giải thoát khỏi các sắc hợp ý, khó được giải thoát khỏi các thinh – các hương – các vị – các xúc hợp ý, khó được giải thoát khỏi sự thỏa mãn của mắt, khó được giải thoát khỏi sự thỏa mãn của tai – mũi – lưỡi – thân – ý, khó được phóng thích, khó nâng lên, khó nâng bổng, khó nhấc lên, khó nhấc bổng, khó tháo gỡ, khó tháo bỏ, khó vượt lên, khó vượt hẳn, khó vượt qua, khó vượt bứt. Chúng sanh khó được giải thoát khỏi sự việc ấy nghĩa là như vậy.
Na hi aññamokkhā ti – te attanā palipapalipannā na sakkonti paraṃ palipapalipannaṃ uddharituṃ.
Đương nhiên không thể giúp cho những người khác giải thoát: Những kẻ ấy, tự thân đã bị lún ở bãi lầy, không thể nâng lên kẻ khác đã bị lún ở bãi lầy.
Vuttaṃ hetaṃ bhagavatā:
“So vata cunda, attanā palipapalipanno paraṃ palipapalipannaṃ uddharissatī ’ti netaṃ ṭhānaṃ vijjati. So vata cunda, attanā adanto avinīto aparinibbuto paraṃ damessati vinessati parinibbāpessatī ’ti netaṃ ṭhānaṃ vijjatī ”ti. Evampi na hi aññamokkhā. Athavā natthañño koci mocetā. Te yadi muñceyyuṃ, sakena thāmena sakena balena sakena viriyena sakena parakkamena sakena purisatthāmena sakena purisabalena sakena purisaviriyena sakena purisaparakkamena attanā sammāpaṭipadaṃ anulomapaṭipadaṃ apaccanīkaṃ paṭipadaṃ anvatthapaṭipadaṃ dhammānudhammapaṭipadaṃ paṭipajjamānā muñceyyun ’ti. Evampi na hi aññamokkhā.
Bởi vì, điều này đã được đức Thế Tôn nói đến:
“Này Cunda, thật vậy kẻ ấy, tự thân đã bị lún ở bãi lầy, sẽ nâng lên kẻ khác đã bị lún ở bãi lầy, sự kiện này không thể có được. Này Cunda, thật vậy kẻ ấy, tự thân không được thuần phục, không được huấn luyện, không được hoàn toàn tịch diệt, sẽ thuần phục, sẽ huấn luyện, sẽ giúp cho kẻ khác hoàn toàn tịch diệt, sự kiện này không thể có được.” ‘Đương nhiên không thể giúp cho những người khác giải thoát’ còn là như vậy. Hoặc là, không có kẻ nào khác là người giúp cho giải thoát. Nếu họ có thể giải thoát, thì có thể giải thoát bằng sức mạnh của mình, bằng năng lực của mình, bằng tinh tấn của mình, bằng nỗ lực của mình, bằng sức mạnh con người của mình, bằng năng lực con người của mình, bằng tinh tấn con người của mình, bằng nỗ lực con người của mình, trong khi tự thân thực hành sự thực hành đúng đắn, sự thực hành phù hợp, sự thực hành không trái ngược, sự thực hành đưa đến lợi ích, sự thực hành đúng pháp và thuận pháp.’ ‘Đương nhiên không thể giúp cho những người khác giải thoát’ còn là như vậy.
Vuttampi hetaṃ bhagavatā:
1. “Nāhaṃ sahissāmi pamocanāya kathaṃkathiṃ dhotaka kiñci loke, dhammaṃ ca seṭṭhaṃ abhijānamāno evaṃ tuvaṃ oghamimaṃ taresī ”ti. Evampi na hi aññamokkhā.
Bởi vì, điều này đã được đức Thế Tôn nói đến:
1. “Này Dhotaka, Ta sẽ không có khả năng trong việc giải thoát cho kẻ nào ở thế gian có nỗi hoài nghi. Nhưng trong khi biết rõ Giáo Pháp tối thượng, như vậy ngươi có thể vượt qua dòng lũ này.” ‘Đương nhiên không thể giúp cho những người khác giải thoát’ còn là như vậy.
Vuttampi hetaṃ bhagavatā:
2. “Attanāva kataṃ pāpaṃ attanā saṅkilissati, attanā akataṃ pāpaṃ attanāva visujjhati; suddhi asuddhi paccattaṃ nāññamañño visodhaye ”ti. Evampi na hi aññamokkhā.
Bởi vì, điều này đã được đức Thế Tôn nói đến:
2. “Việc ác đã được làm bởi chính bản thân, trở thành ô nhiễm bởi bản thân.
Việc ác đã không được làm bởi bản thân, trở thành trong sạch bởi chính bản thân.
Trong sạch (hay) không trong sạch liên quan đến cá nhân, không ai có thể làm cho người khác trở thành trong sạch.” ‘Đương nhiên không thể giúp cho những người khác giải thoát’ còn là như vậy.
Vuttampi hetaṃ bhagavatā:
“Evameva kho brāhmaṇa tiṭṭhateva nibbānaṃ tiṭṭhati nibbānagāmimaggo, tiṭṭhāmahaṃ samādapetā. Atha ca pana mama sāvakā mayā evaṃ ovadiyamānā evaṃ anusāsiyamānā appekacce accantaniṭṭhaṃ nibbānaṃ ārādhenti, ekacce nārādhenti. Ettha kyāhaṃ brāhmaṇa karomi. Maggakkhāyī brāhmaṇa tathāgato. Maggaṃ buddho ācikkhati. Attanā paṭipajjamānā muñceyyun ”ti. Evampi na hi aññamokkhā ’ti ‘te duppamuñcā na hi aññamokkhā.’
Bởi vì, điều này đã được đức Thế Tôn nói đến:
“Này Bà-la-môn, tương tợ y như thế, Niết Bàn quả là có thật, con đường đưa đến Niết Bàn là có thật, ta là người chỉ dẫn là có thật, và hơn nữa các đệ tử của ta, trong khi được ta giáo huấn như vậy, trong khi được chỉ dạy như vậy, một số đệ tử đạt đến mục đích tối hậu là Niết Bàn, một số không đạt đến. Này Bà-la-môn, ở đây ta làm được điều gì? Này Bà-la-môn, Như Lai là người chỉ đường. Đức Phật chỉ ra con đường. Chúng sanh, trong khi tự thân thực hành, thì có thể giải thoát.” ‘Đương nhiên không thể giúp cho những người khác giải thoát’ còn là như vậy. ‘Những kẻ ấy là khó giải thoát, đương nhiên không thể giúp cho những người khác giải thoát’ là thế ấy.
Pacchā pure vāpi apekkhāmānā ti – Pacchā vuccati anāgataṃ. Pure vuccati atītaṃ. Api ca atītaṃ upādāya anāgatañca paccuppannañca pacchā, anāgataṃ upādāya atītañca paccuppannañca pure.
Đang mong ước về sau này hoặc luôn cả trước đây: Sau này được gọi là tương lai. Trước đây được gọi là quá khứ. Thêm nữa, so sánh với quá khứ, tương lai và hiện tại là sau này; so sánh với tương lai, quá khứ và hiện tại là trước đây.
Kathaṃ pure apekkhaṃ karoti? Evaṃrūpo ahosiṃ atītamaddhānanti tattha nandiṃ samannāneti. Evaṃvedano ahosiṃ —pe— Evaṃsañño ahosiṃ —pe— Evaṃsaṅkhāro ahosiṃ —pe— Evaṃviññāṇo ahosiṃ atītamaddhānanti tattha nandiṃ samannāneti. Evampi pure apekkhaṃ karoti. Athavā – iti me cakkhu ahosi atītamaddhānaṃ iti rūpāti, tattha chandarāgapaṭibaddhaṃ hoti viññāṇaṃ. Chandarāgapaṭibaddhattā viññāṇassa tadabhinandati. Tadabhinandanto evampi pure apekkhaṃ karoti. Athavā – iti me sotaṃ ahosi atītamaddhānaṃ iti saddāti —pe— Iti me ghānaṃ ahosi atītamaddhānaṃ iti gandhāti —pe— Iti me jivhā ahosi atītamaddhānaṃ iti rasāti —pe— Iti me kāyo ahosi atītamaddhānaṃ iti phoṭṭhabbāti —pe— Iti me mano ahosi atītamaddhānaṃ iti dhammāti, tattha chandarāgapaṭibaddhaṃ hoti viññāṇaṃ. Chandarāgapaṭibaddhattā viññāṇassa tadabhinandati. Tadabhinandanto evampi pure apekkhaṃ karoti. Athavā yānissa tāni pubbe mātugāmena saddhiṃ hasitalapitakīḷitāni, tadassādeti, taṃ nikāmeti, tena ca vittiṃ āpajjati. Evampi pure apekkhaṃ karoti.
Thế nào là tiến hành sự mong ước về trước đây? ‘Ta đã có sắc như vầy vào thời quá khứ, ’ rồi dẫn đến việc vui mừng về điều ấy. ‘Ta đã có thọ như vầy —như trên— ‘Ta đã có tưởng như vầy —như trên— ‘Ta đã có hành như vầy —như trên— ‘Ta đã có thức như vầy vào thời quá khứ,’ rồi dẫn đến việc vui mừng về điều ấy; như vậy cũng là tiến hành sự mong ước về trước đây. Hoặc là – ‘Mắt của ta đã là như vầy vào thời quá khứ, các sắc đã là như vầy,’ thức bị trói buộc vào sự mong muốn và luyến ái về điều ấy. Do trạng thái bị trói buộc vào sự mong muốn và luyến ái của thức, rồi thích thú điều ấy. Trong khi thích thú về điều ấy, như vậy cũng là tiến hành sự mong ước về trước đây. Hoặc là – ‘Tai của ta đã là như vầy vào thời quá khứ, các thinh đã là như vầy,’ —như trên— ‘Mũi của ta đã là như vầy vào thời quá khứ, các mùi đã là như vầy,’ —như trên— ‘Lưỡi của ta đã là như vầy vào thời quá khứ, các vị đã là như vầy,’ —như trên— ‘Thân của ta đã là như vầy vào thời quá khứ, các xúc đã là như vầy,’ —như trên— ‘Ý của ta đã là như vầy vào thời quá khứ, các pháp đã là như vầy,’ thức bị trói buộc vào sự mong muốn và luyến ái về điều ấy. Do trạng thái bị trói buộc vào sự mong muốn và luyến ái của thức, rồi thích thú điều ấy. Trong khi thích thú về điều ấy, như vậy cũng là tiến hành sự mong ước về trước đây. Hoặc là người ấy có các việc cười hớt, chuyện trò, đùa giỡn với người nữ lúc trước đây, rồi khoái cảm điều ấy, khao khát điều ấy, và do điều ấy đạt được sự vui lòng. Như vậy cũng là tiến hành sự mong ước về trước đây.
Kathaṃ pacchā apekkhaṃ karoti? Evaṃrūpo siyaṃ anāgatamaddhānanti tattha nandiṃ samannāneti. Evaṃvedano siyaṃ —pe— Evaṃsañño siyaṃ —pe— Evaṃsaṅkhāro siyaṃ —pe— Evaṃviññāṇo siyaṃ anāgatamaddhānanti tattha nandiṃ samannāneti. Evampi pacchā apekkhaṃ karoti.
Athavā – iti me cakkhu siyā anāgatamaddhānaṃ iti rūpāti appaṭiladdhassa paṭilābhāya cittaṃ paṇidahati. Cetaso paṇidhānappaccayā tadabhinandati. Tadabhinandanto evampi pacchā apekkhaṃ karoti. Athavā3 – iti me sotaṃ siyā anāgatamaddhānaṃ iti saddāti —pe— Iti me ghānaṃ siyā anāgatamaddhānaṃ iti gandhāti —pe— Iti me jivhā siyā anāgatamaddhānaṃ iti rasāti —pe— Iti me kāyo siyā anāgatamaddhānaṃ iti phoṭṭhabbāti —pe— Iti me mano siyā anāgatamaddhānaṃ iti dhammāti appaṭiladdhassa paṭilābhāya cittaṃ paṇidahati. Cetaso paṇidhānappaccayā tadabhinandati. Tadabhinandanto evampi pacchā apekkhaṃ karoti. Athavā – imināhaṃ sīlena vā vatena vā tapena vā brahmacariyena vā devo vā bhavissāmi devaññataro vāti appaṭiladdhassa paṭilābhāya cittaṃ paṇidahati. Cetaso paṇidhānappaccayā tadabhinandati. Tadabhinandanto evampi pacchā apekkhaṃ karotī ’ti ‘pacchā pure cāpi apekkhamānā.’
Thế nào là tiến hành sự mong ước về sau này? ‘Ta sẽ có sắc như vầy vào thời vị lai,’ rồi dẫn đến việc vui mừng về điều ấy. ‘Ta sẽ có thọ như vầy —như trên— ‘Ta sẽ có tưởng như vầy —như trên— ‘Ta sẽ có hành như vầy —như trên— ‘Ta sẽ có thức như vầy vào thời vị lai,’ rồi dẫn đến việc vui mừng về điều ấy; như vậy cũng là tiến hành sự mong ước về sau này. Hoặc là – ‘Mắt của ta sẽ là như vầy vào thời vị lai, các sắc sẽ là như vầy,’ rồi chuyên chú tâm vào việc đạt được điều chưa đạt được. Do duyên chuyên chú của tâm, rồi thích thú điều ấy. Trong khi thích thú về điều ấy, như vậy cũng là tiến hành sự mong ước về sau này. Hoặc là – ‘Tai của ta sẽ là như vầy vào thời vị lai, các thinh sẽ là như vầy,’ —như trên— ‘Mũi của ta sẽ là như vầy vào thời vị lai, các mùi sẽ là như vầy,’ —như trên— ‘Lưỡi của ta sẽ là như vầy vào thời vị lai, các vị sẽ là như vầy,’ —như trên— ‘Thân của ta sẽ là như vầy vào thời vị lai, các xúc sẽ là như vầy,’ —như trên— ‘Ý của ta sẽ là như vầy vào thời vị lai, các pháp sẽ là như vầy,’ rồi chuyên chú tâm vào việc đạt được điều chưa đạt được. Do duyên chuyên chú của tâm, rồi thích thú điều ấy. Trong khi thích thú về điều ấy, như vậy cũng là tiến hành sự mong ước về sau này. Hoặc là – ‘Với giới này, hay với phận sự này, hay với sự khắc khổ này, hay với Phạm hạnh này, ta sẽ trở thành Thiên Vương hoặc một Thiên nhân nào đó,’ rồi chuyên chú tâm vào việc đạt được điều chưa đạt được. Do duyên chuyên chú của tâm, rồi thích thú điều ấy. Trong khi thích thú về điều ấy, như vậy cũng là tiến hành sự mong ước về sau này; ‘đang mong ước về sau này hoặc luôn cả trước đây’ là thế ấy.
Imeva kāme purimeva jappan ti – Imeva kāme ti paccuppanne pañcakāmaguṇe icchantā sādiyantā patthayantā abhijappantā. Purimeva jappan ti – atīte pañcakāmaguṇe jappantā pajappantā abhijappantā ’ti ‘imeva kāme purimeva jappaṃ.’
Đang tham muốn chính các dục này đây hoặc ngay trước đây – Chính các dục này đây: Trong khi ước muốn, trong khi ưng thuận, trong khi ước nguyện, trong khi tham muốn tột độ năm loại dục trong hiện tại. Đang tham muốn (các dục) ngay trước đây: Trong khi tham muốn, trong khi khởi tham muốn, trong khi tham muốn tột độ năm loại dục ở quá khứ; ‘đang tham muốn chính các dục này đây hoặc ngay trước đây’ là thế ấy.
Tenāha bhagavā:
“Icchānidānā bhavasātabaddhā te duppamuñcā na hi aññamokkhā, pacchā pure vāpi apekkhamānā imeva kāme purimeva jappan ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Có ước muốn là căn nguyên, bị trói buộc vào lạc thú ở hiện hữu, đang mong ước về sau này hoặc luôn cả trước đây, đang tham muốn chính các dục này đây hoặc ngay trước đây, những kẻ ấy là khó giải thoát, đương nhiên không thể giúp cho những người khác giải thoát.”
2.3
Kāmesu giddhā pasutā pamūḷhā avadāniyā te visame niviṭṭhā, dukkhūpanītā paridevayanti kiṃ su bhavissāma ito cutā se.
Bị thèm khát ở các dục, bị đeo níu, bị mê đắm, là những người thấp kém, họ đã đi theo lối sai trái. Bị dẫn đến khổ đau, họ than vãn: ‘Vậy chúng ta sẽ trở thành cái gì sau khi đã chết từ nơi đây?
Ai tham đắm các dục,
Bị trí buộc si mê,
Họ xan tham keo kiết.
An trú trên bất chánh,
Khi rơi vào đau khổ,
Họ sầu muộn than khóc,
Ở đây sau khi chết,
Tương lai sẽ thế nào?
(Kinh Tập, câu kệ 774)
Kāmesu giddhā pasutā pamūḷhā ti – Kāmā ti uddānato dve kāmā: vatthukāmā ca kilesakāmā ca. —pe— Ime vuccanti vatthukāmā. —pe— Ime vuccanti kilesakāmā. Gedho vuccati taṇhā, yo rāgo sārāgo —pe— abhijjhā lobho akusalamūlaṃ. Kilesakāme vatthukāmesu rattā giddhā gathitā mucchitā ajjhopannā laggā laggitā paḷibuddhā ’ti kāmesu giddhā.
Bị thèm khát ở các dục, bị đeo níu, bị mê đắm – Các dục: theo sự phân hạng thì có hai loại dục: các vật dục và các ô nhiễm dục. —như trên— Các điều này được gọi là các vật dục. —như trên— Các điều này được gọi là các ô nhiễm dục. Thèm khát được gọi là tham ái, nghĩa là luyến ái, luyến ái mãnh liệt, —như trên— tham đắm, tham, cội nguồn của bất thiện. Bị luyến ái, bị thèm khát, bị cột trói, bị mê mẫn, bị gần gũi, máng vào, bị vướng vào, bị giữ lại ở ô nhiễm dục, ở các vật dục, ‘bị thèm khát ở các dục’ là thế ấy.
Pasutā ti yepi kāme esanti gavesanti pariyesanti, taccaritā tabbahulā taggarukā tanninnā tappoṇā tappabbhārā tadadhimuttā tadadhipateyyā, tepi kāmapasutā. Yepi taṇhāvasena rūpe esanti gavesanti pariyesanti, —pe— sadde —pe— gandhe —pe— rase —pe— phoṭṭhabbe esanti gavesanti pariyesanti, taccaritā tabbahulā taggarukā tanninnā tappoṇā tappabbhārā tadadhimuttā tadadhipateyyā, tepi kāmapasutā. Yepi taṇhāvasena rūpe paṭilabhanti, —pe— sadde —pe— gandhe —pe— rase —pe— phoṭṭhabbe paṭilabhanti, taccaritā tabbahulā taggarukā tanninnā tappoṇā tappabbhārā tadadhimuttā tadadhipateyyā, tepi kāmapasutā. Yepi taṇhāvasena rūpe paribhuñjanti, —pe— sadde —pe— gandhe —pe— rase —pe— phoṭṭhabbe paribhuñjanti, taccaritā tabbahulā taggarukā tanninnā tappoṇā tappabbhārā tadadhimuttā tadadhipateyyā, tepi kāmapasutā. Yathā kalahakārako kalahapasuto, kammakārako kammapasuto, gocare caranto gocarapasuto, jhāyī jhānapasuto, evamevaṃ yepi kāme esanti gavesanti pariyesanti, taccaritā tabbahulā taggarukā tanninnā tappoṇā tappabbhārā tadadhimuttā tadadhipateyyā, tepi kāmapasutā.
Bị đeo níu: Những kẻ nào tầm cầu, tim tòi, tìm kiếm các dục, rồi đi theo nó, phát triển theo nó, xem trọng nó, thiên về nó, chiều theo nó, xuôi theo nó, chú trọng nó, xem nó là chủ đạo, những kẻ ấy là bị đeo níu ở các dục. Những kẻ nào, do tác động của tham ái, tầm cầu, tim tòi, tìm kiếm các sắc —như trên— các thinh —như trên— các hương —như trên— các vị —như trên— tầm cầu, tim tòi, tìm kiếm các xúc, rồi đi theo nó, phát triển theo nó, xem trọng nó, thiên về nó, chiều theo nó, xuôi theo nó, chú trọng nó, xem nó là chủ đạo, những kẻ ấy là bị đeo níu ở các dục. Những kẻ nào, do tác động của tham ái, thọ nhận các sắc —như trên— các thinh —như trên— các hương —như trên— các vị —như trên— thọ nhận các xúc, rồi đi theo nó, phát triển theo nó, xem trọng nó, thiên về nó, chiều theo nó, xuôi theo nó, chú trọng nó, xem nó là chủ đạo, những kẻ ấy là bị đeo níu ở các dục. Những kẻ nào, do tác động của tham ái, thọ hưởng các sắc —như trên— các thinh —như trên— các hương —như trên— các vị —như trên— thọ hưởng các xúc, rồi đi theo nó, phát triển theo nó, xem trọng nó, thiên về nó, chiều theo nó, xuôi theo nó, chú trọng nó, xem nó là chủ đạo, những kẻ ấy là bị đeo níu ở các dục. Giống như người tạo ra sự cãi cọ thì bị đeo níu ở sự cãi cọ, người làm công việc thì bị đeo níu ở công việc, người đang sống ở nơi sinh sống thì bị đeo níu ở nơi sinh sống, người có thiền thì bị đeo níu bởi thiền, tương tợ như thế ấy những kẻ nào tầm cầu, tim tòi, tìm kiếm các dục, rồi đi theo nó, phát triển theo nó, xem trọng nó, thiên về nó, chiều theo nó, xuôi theo nó, chú trọng nó, xem nó là chủ đạo, những kẻ ấy là bị đeo níu ở các dục.
Yepi taṇhāvasena rūpe esanti gavesanti pariyesanti, —pe— sadde —pe— gandhe —pe— rase —pe— phoṭṭhabbe esanti gavesanti pariyesanti, taccaritā tabbahulā taggarukā tanninnā tappoṇā tappabbhārā tadadhimuttā tadadhipateyyā, tepi kāmapasutā. Yepi taṇhāvasena rūpe paṭilabhanti, —pe— sadde —pe— gandhe —pe— rase —pe— phoṭṭhabbe paṭilabhanti, taccaritā tabbahulā taggarukā tanninnā tappoṇā tappabbhārā tadadhimuttā tadadhipateyyā, tepi kāmapasutā. Yepi taṇhāvasena rūpe paribhuñjanti, —pe— sadde —pe— gandhe —pe— rase —pe— phoṭṭhabbe paribhuñjanti, taccaritā tabbahulā taggarukā tanninnā tappoṇā tappabbhārā tadadhimuttā tadadhipateyyā, tepi kāmapasutā.
–Những kẻ nào, do tác động của tham ái, tầm cầu, tim tòi, tìm kiếm các sắc —như trên— các thinh —như trên— các hương —như trên— các vị —như trên— tầm cầu, tim tòi, tìm kiếm các xúc, rồi đi theo nó, phát triển theo nó, xem trọng nó, thiên về nó, chiều theo nó, xuôi theo nó, chú trọng nó, xem nó là chủ đạo, những kẻ ấy là bị đeo níu ở các dục. Những kẻ nào, do tác động của tham ái, thọ nhận các sắc —như trên— các thinh —như trên— các hương —như trên— các vị —như trên— thọ nhận các xúc, rồi đi theo nó, phát triển theo nó, xem trọng nó, thiên về nó, chiều theo nó, xuôi theo nó, chú trọng nó, xem nó là chủ đạo, những kẻ ấy là bị đeo níu ở các dục. Những kẻ nào, do tác động của tham ái, thọ hưởng các sắc —như trên— các thinh —như trên— các hương —như trên— các vị —như trên— thọ hưởng các xúc, rồi đi theo nó, phát triển theo nó, xem trọng nó, thiên về nó, chiều theo nó, xuôi theo nó, chú trọng nó, xem nó là chủ đạo, những kẻ ấy là bị đeo níu ở các dục.
Pamūḷhā ti – yebhuyyena devamanussā pañcasu kāmaguṇesu muyhanti pamuyhanti sammuyhanti sampamuyhanti, mūḷhā pamūḷhā sammūḷhā sampamūḷhā, avijjāya andhikatā, āvutā nivutā ovutā pihitā paṭicchannā paṭikujjitā ’ti kāmesu giddhā pasutā pamūḷhā.
Bị mê đắm: Phần nhiều chư Thiên và loài người mê mờ, mê đắm, mê muội, mê mệt, bị mê mờ, bị mê đắm, bị mê muội, bị mê mệt, bị vô minh làm mù, bị bao bọc, bị bao kín, bị bao trùm, bị che lại, bị che kín, bị đậy kín trong năm loại dục, ‘bị thèm khát ở các dục, bị đeo níu, bị mê đắm’ là thế ấy.
Avadāniyā te visame niviṭṭhā ti – Avadāniyā ti avaṃgacchantī ’ti pi avadāniyā, maccharinopi vuccanti avadāniyā, buddhānaṃ buddhasāvakānaṃ vacanaṃ vyappathaṃ desanaṃ anusiṭṭhiṃ nādiyantī ’ti avadāniyā.
Là những người thấp kém, họ đã đi theo lối sai trái – Những người thấp kém: ‘Những người đi xuống’ là những người thấp kém, những người bỏn xẻn được gọi là những người thấp kém, ‘những người không tiếp thu lời nói, lời giải thích, lời thuyết giảng, lời giáo huấn của chư Phật, của chư Thinh Văn của đức Phật’ là những người thấp kém.
Kathaṃ avaṃgacchantīti avadāniyā? Avaṃgacchantīti nirayaṃ gacchanti, [tiracchānayoniṃ gacchanti,] pettivisayaṃ gacchanti, evaṃ avaṃgacchantīti avadāniyā.
‘Những người đi xuống’ là những người thấp kém nghĩa là thế nào? ‘Những người đi xuống’ là những người đi đến địa ngục, [đi đến thai bào của loài thú,] đi đến cảnh giới ngạ quỷ, ‘những người đi xuống’ là những người thấp kém nghĩa là như vậy.
Kathaṃ maccharino vuccanti avadāniyā? Pañca macchariyāni: āvāsamacchariyaṃ kulamacchariyaṃ lābhamacchariyaṃ vaṇṇamacchariyaṃ dhammamacchariyaṃ; yaṃ evarūpaṃ macchariyaṃ maccharāyanā maccharāyitattaṃ vevicchaṃ kadariyaṃ kaṭukañcukatā aggahitattaṃ cittassa, idaṃ vuccati macchariyaṃ. Api ca khandhamacchariyampi macchariyaṃ, dhātumacchariyampi macchariyaṃ, āyatanamacchariyampi macchariyaṃ gāho, idaṃ vuccati macchariyaṃ. Iminā macchariyena avadaññutāya samannāgatā janā pamattā, evaṃ maccharino vuccanti avadāniyā.
Những người bỏn xẻn được gọi là những người thấp kém nghĩa là thế nào? Có năm loại bỏn xẻn: bỏn xẻn về chỗ ở, bỏn xẻn về gia tộc, bỏn xẻn về lợi lộc, bỏn xẻn về danh tiếng, bỏn xẻn về Pháp; bỏn xẻ với hình thức như vầy là biểu hiện của bỏn xẻn, trạng thái của bỏn xẻn, sự hám lợi, keo kiệt, tính chất bủn xỉn, trạng thái nắm giữ của tâm, điều này được gọi là bỏn xẻn. Còn nữa, bỏn xẻn về uẩn cũng là bỏn xẻn, bỏn xẻn về giới cũng là bỏn xẻn, bỏn xẻn về xứ cũng là bỏn xẻn, sự nắm lấy, điều này được gọi là bỏn xẻn. Do sự bỏn xẻn này, loài người bị xao lãng, không biết đến lời giảng huấn, ‘những người bỏn xẻn được gọi là những người thấp kém’ nghĩa là như vậy.
Kathaṃ buddhānaṃ buddhasāvakānaṃ vacanaṃ vyappathaṃ desanaṃ anusiṭṭhiṃ nādiyantīti avadāniyā? Buddhānaṃ buddhasāvakānaṃ vacanaṃ vyappathaṃ desanaṃ anusiṭṭhiṃ nādiyanti na sussūsanti na sotaṃ odahanti nāññā cittaṃ upaṭṭhapenti, anassavā avacanakarā paṭilomavuttino aññeneva mukhaṃ karonti. Evaṃ buddhānaṃ buddhasāvakānaṃ vacanaṃ vyappathaṃ desanaṃ anusiṭṭhiṃ nādiyantīti avadāniyāti avadāniyā.
‘Những người không tiếp thu lời nói, lời giải thích, lời thuyết giảng, lời giáo huấn của chư Phật, của chư Thinh Văn của đức Phật’ là những người thấp kém nghĩa là thế nào? ‘Những người không tiếp thu, không lắng nghe, không để tai, không lập tâm để hiểu lời nói, lời giải thích, lời thuyết giảng, lời giáo huấn của chư Phật, của chư Thinh Văn của đức Phật, là những người không nghe theo, không làm theo lời dạy, có hành vi nghịch lại, quay mặt về hướng khác. ‘Những người không tiếp thu lời nói, lời giải thích, lời thuyết giảng, lời giáo huấn của chư Phật, của chư Thinh Văn của đức Phật’ là những người thấp kém nghĩa là như vậy, ‘những người thấp kém’ là thế ấy.
Te visame niviṭṭhā ti – Visame ti visame kāyakamme niviṭṭhā, visame vacīkamme niviṭṭhā, visame manokamme niviṭṭhā, visame pāṇātipāte niviṭṭhā, visame adinnādāne niviṭṭhā, visame kāmesu micchācāre niviṭṭhā, visame musāvāde niviṭṭhā, visamāya pisunāya vācāya niviṭṭhā, visamāya pharusāya vācāya niviṭṭhā, visame samphappalāpe niviṭṭhā, visamāya abhijjhāya niviṭṭhā, visame vyāpāde niviṭṭhā, visamāya micchādiṭṭhiyā niviṭṭhā, visamesu saṅkhāresu niviṭṭhā, visamesu pañcasu kāmaguṇesu niviṭṭhā, visamesu pañcasu nīvaraṇesu niviṭṭhā viniviṭṭhā patiṭṭhitā allīnā upagatā ajjhositā adhimuttā laggā laggitā palibuddhā ’ti avadāniyā te visame niviṭṭhā.
Họ đã đi theo lối sai trái – Theo lối sai trái: Họ đã đi theo lối sai trái về thân nghiệp, đã đi theo lối sai trái về khẩu nghiệp, đã đi theo lối sai trái về ý nghiệp, đã đi theo lối sai trái về việc trộm cắp, đã đi theo lối sai trái về tà hạnh trong các dục, đã đi theo lối sai trái về việc nói dối, đã đi theo lối sai trái về việc nói đâm thọc, đã đi theo lối sai trái về việc nói độc ác, đã đi theo lối sai trái về việc nói nhảm nhí, đã đi theo lối sai trái về tham lam, đã đi theo lối sai trái về sân hận, đã đi theo lối sai trái về tà kiến, đã đi theo lối sai trái về các hành, đã đi theo lối sai trái về năm loại dục, đã đi theo lối sai trái về năm pháp che lấp, đã đi theo vào, đã thiết lập, đã bám vào, đã tiến vào, đã bám víu, đã chú trọng, máng vào, bị vướng vào, bị giữ lại, ‘là những người thấp kém, họ đã đi theo lối sai trái’ là thế ấy.
Dukkhūpanītā paridevayantī ti – Dukkhūpanītā ti dukkhappattā dukkhasampattā dukkhūpagatā, mārappattā mārasampattā mārūpagatā, maraṇappattā maraṇasampattā maraṇūpagatā. Paridevayantī ti lapanti sallapanti socanti kilamanti paridevanti urattāḷiṃ kandanti sammohaṃ āpajjantī ’ti ‘dukkhūpanītā paridevayanti.’
Bị dẫn đến khổ đau, họ than vãn – Bị dẫn đến khổ đau: đã đi đến khổ đau, đã đạt đến khổ đau, đã tiến vào khổ đau, đã đi đến Ma Vương, đã đạt đến Ma Vương, đã tiến vào Ma Vương, đã đi đến sự chết, đã đạt đến sự chết, đã tiến vào sự chết. Họ than vãn: họ kể lể, lảm nhảm, sầu muộn, mệt mỏi, than vãn, khóc nức nở, đi đến sự mê muội, ‘bị dẫn đến khổ đau, họ than vãn’ là thế ấy.
Kiṃ su bhavissāma ito cutā se ti ito cutā kiṃ bhavissāma? Nerayikā bhavissāma? Tiracchānayonikā bhavissāma? Pettivisayikā bhavissāma? Manussā bhavissāma? Devā bhavissāma? Rūpī bhavissāma? Arūpī bhavissāma? Saññī bhavissāma? Asaññī bhavissāma? Nevasaññīnāsaññī bhavissāma? Bhavissāma nu kho mayaṃ anāgatamaddhānaṃ? Na nu kho bhavissāma anāgatamaddhānaṃ? Kinnu kho bhavissāma anāgatamaddhānaṃ? Kathannu kho bhavissāma anāgatamaddhānaṃ? Kiṃ hutvā kiṃ bhavissāma nu kho mayaṃ anāgatamaddhānan ’ti saṃsayapakkhannā vimatipakkhannā dveḷhakajātā lapanti sallapanti socanti kilamanti paridevanti urattāḷiṃ kandanti sammohaṃ āpajjantīti’ kiṃ su bhavissāma ito cutā se.’
Vậy chúng ta sẽ trở thành cái gì sau khi đã chết từ nơi đây? nghĩa là sau khi chết từ nơi đây, chúng ta sẽ trở thành cái gì? Chúng ta sẽ trở thành người địa ngục? Sẽ trở thành hạng sanh vào thai bào của loài thú? Sẽ trở thành người ở cảnh giới ngạ quỷ? Sẽ trở thành loài người? Sẽ trở thành chư Thiên? Sẽ trở thành hữu hình? Sẽ trở thành vô hình? Sẽ trở thành hữu tưởng? Sẽ trở thành vô tưởng? Sẽ trở thành phi tưởng phi phi tưởng? Chúng ta sẽ hiện hữu trong thời vị lai? Sẽ không hiện hữu trong thời vị lai? Sẽ trở thành cái gì trong thời vị lai? Sẽ hiện hữu trong thời vị lai như thế nào? Sau khi trở thành cái gì rồi chúng ta sẽ trở thành cái gì trong thời vị lai? Họ bị rơi vào hoài nghi, bị rơi vào phân vân, bị sanh lên mâu thuẫn, họ kể lể, lảm nhảm, sầu muộn, mệt mỏi, than vãn, khóc nức nở, đi đến sự mê muội, ‘vậy chúng ta sẽ trở thành cái gì sau khi đã chết từ nơi đây?’ là thế ấy.
Tenāha bhagavā:
“Kāmesu giddhā pasutā pamūḷhā avadāniyā te visame niviṭṭhā, dukkhūpanītā paridevayanti kiṃ su bhavissāma ito cutā se ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
Bị thèm khát ở các dục, bị đeo níu, bị mê đắm, là những người thấp kém, họ đã đi theo lối sai trái. Bị dẫn đến khổ đau, họ than vãn: ‘Vậy chúng ta sẽ trở thành cái gì sau khi đã chết từ nơi đây?
2.4
Tasmā hi sikkhetha idheva jantu yaṃ kiñci jaññā visamanti loke, na tassa hetu visamaṃ careyya appañhidaṃ jīvitaṃ āhu dhīrā.
Chính vì điều ấy, con người ở ngay tại đây nên học tập nên biết bất cứ điều gì là ‘sai trái’ ở thế gian, không nên làm điều sai trái do nhân của điều ấy, bởi vì các bậc sáng trí đã nói mạng sống này là ít ỏi.
Do vậy ở tại đây,
Con người cần học tập,
Những gì mình biết được,
Là bất chánh ở đời.
Do nhân duyên như vậy,
Mà sống không bất chánh,
Vì rằng bậc Thánh nói:
Ngắn thay, sanh mạng này.
(Kinh Tập, câu kệ 775)
Tasmā hi sikkhetha idheva jantū ti – Tasmā ti tasmā taṃkāraṇā taṃhetu tappaccayā tannidānā etaṃ ādīnavaṃ passamāno kāmesū ’ti tasmā. Sikkhethā ti – tisso sikkhā: adhisīlasikkhā adhicittasikkhā adhipaññāsikkhā.
Chính vì điều ấy, con người ở ngay tại đây nên học tập – Vì điều ấy: Vì điều ấy là bởi lý do ấy, bởi nhân ấy, bởi duyên ấy, bởi căn nguyên ấy, trong khi nhìn thấy điều bất lợi này ở các dục, ‘vì điều ấy’ là thế ấy. Nên học tập: Có ba sự học tập: học tập về tăng thượng giới, học tập về tăng thượng tâm, học tập về tăng thượng tuệ.
Katamā adhisīlasikkhā? Idha bhikkhu sīlavā hoti pātimokkhasaṃvarasaṃvuto viharati ācāragocarasampanno aṇumattesu vajjesu bhayadassāvī, samādāya sikkhati sikkhāpadesu. Khuddako sīlakkhandho, mahanto sīlakkhandho, sīlaṃ patiṭṭhā ādi caraṇaṃ saṃyamo saṃvaro mukhaṃ pamukhaṃ kusalānaṃ dhammānaṃ samāpattiyā. Ayaṃ adhisīlasikkhā.
Cái gì là sự học tập về tăng thượng giới? Ở đây, vị tỳ khưu là vị có giới sống thu thúc trong sự thu thúc của giới bổn Pātimokkha, thành tựu về hạnh kiểm và hành xứ, thấy sự sợ hãi trong các tội nhỏ nhặt, thọ trì và thực hành trong các điều học. Nhóm giới nhỏ, nhóm giới lớn, giới là nền tảng, phần khởi đầu, sự thực hành, sự chế ngự, sự thu thúc, sự mở đầu, sự dẫn đầu nhằm chứng đạt các thiện pháp. Điều này là tăng thượng giới.
Katamā adhicittasikkhā? Idha bhikkhu vivicceva kāmehi vivicca akusalehi dhammehi savitakkaṃ savicāraṃ vivekajaṃ pītisukhaṃ paṭhamajjhānaṃ upasampajja viharati. Vitakkavicārānaṃ vūpasamā ajjhattaṃ sampasādanaṃ cetaso ekodibhāvaṃ avitakkaṃ avicāraṃ samādhijaṃ pītisukhaṃ dutiyajjhānaṃ upasampajja viharati. Pītiyā ca virāgā upekkhako ca viharati sato ca sampajāno sukhaṃ ca kāyena paṭisaṃvedeti, yaṃ taṃ ariyā ācikkhanti ‘upekkhako satimā sukhavihārī ’ti taṃ tatiyajjhānaṃ upasampajja viharati. Sukhassa ca pahāṇā dukkhassa ca pahāṇā pubbeva somanassadomanassānaṃ atthaṅgamā adukkhaṃ asukhaṃ upekkhāsatipārisuddhiṃ catutthajjhānaṃ upasampajja viharati. Ayaṃ adhicittasikkhā.
Cái gì là sự học tập về tăng thượng tâm? Ở đây, vị tỳ khưu sau khi từ bỏ năm pháp che lấp này là các tùy phiền não của tâm làm tuệ trở nên yếu đuối, ngay sau khi tách ly các dục, tách ly các bất thiện pháp, đạt đến và trú thiền thứ nhất có tầm có tứ có hỷ lạc sanh lên do sự tách ly; do sự vắng lặng của tầm và tứ, đạt đến và trú thiền thứ nhì có sự tĩnh lặng ở nội phần, có trạng thái chuyên nhất của tâm, không tầm không tứ, có hỷ lạc sanh lên do định; do sự không còn luyến ái ở hỷ, an trú xả, có niệm và có sự nhận biết rõ, và cảm nhận lạc bằng thân, đó là điều mà các bậc Thánh gọi là: ‘Có xả, có niệm, có sự trú vào lạc,’ đạt đến và trú thiền thứ ba; và do sự từ bỏ lạc, do sự từ bỏ khổ (ở thân), do sự biến mất của hỷ và ưu ở tâm (đã có) trước đây, đạt đến và trú thiền thứ tư có sự thanh tịnh của xả và niệm, không khổ không lạc. Điều này là tăng thượng tâm.
Katamā adhipaññāsikkhā? Idha bhikkhu paññavā hoti udayatthagāminiyā paññāya samannāgato ariyāya nibbedhikāya sammādukkhakkhayagāminiyā. So ‘idaṃ dukkhan ’ti yathābhūtaṃ pajānāti, ‘ayaṃ dukkhasamudayo ’ti yathābhūtaṃ pajānāti, ‘ayaṃ dukkhanirodho ’ti yathābhūtaṃ pajānāti, ‘ayaṃ dukkhanirodhagāminīpaṭipadā ’ti yathābhūtaṃ pajānāti. ‘Ime āsavā ’ti yathābhūtaṃ pajānāti, ‘ayaṃ āsavasamudayo ’ti yathābhūtaṃ pajānāti, ‘ayaṃ āsavanirodho ’ti yathābhūtaṃ pajānāti, ‘ayaṃ āsavanirodhagāminīpaṭipadā ’ti yathābhūtaṃ pajānāti. Ayaṃ adhipaññāsikkhā.
Cái gì là sự học tập về tăng thượng tuệ? Ở đây, vị tỳ khưu là vị có tuệ, thành tựu về tuệ dẫn đến sự sanh diệt, góp phần vào sự thấu triệt cao thượng, dẫn đến việc cạn kiệt hoàn toàn của khổ đau. Vị ấy nhận biết đúng theo thực thể rằng: ‘Đây là Khổ,’ nhận biết đúng theo thực thể rằng: ‘Đây là nhân sanh Khổ,’ nhận biết đúng theo thực thể rằng: ‘Đây là sự diệt tận Khổ,’ nhận biết đúng theo thực thể rằng: ‘Đây là sự thực hành đưa đến sự diệt tận Khổ,’ nhận biết đúng theo thực thể rằng: ‘Đây là các lậu hoặc,’ nhận biết đúng theo thực thể rằng: ‘Đây là nguyên nhân của các lậu hoặc,’ nhận biết đúng theo thực thể rằng: ‘Đây là sự diệt tận các lậu hoặc,’ nhận biết đúng theo thực thể rằng: ‘Đây là sự thực hành đưa đến sự diệt tận các lậu hoặc.’ Điều này là tăng thượng tuệ.
Imāyo tisso sikkhāyo āvajjanto sikkheyya, jānanto sikkheyya, passanto sikkheyya, paccavekkhanto sikkheyya, cittaṃ adhiṭṭhahanto sikkheyya, saddhāya adhimuccanto sikkheyya, viriyaṃ paggaṇhanto sikkheyya, satiṃ upaṭṭhapento sikkheyya, cittaṃ samādahanto sikkheyya, paññāya pajānanto sikkheyya, abhiññeyyaṃ abhijānanto sikkheyya, pariññeyyaṃ parijānanto sikkheyya, pahātabbaṃ pajahanto sikkheyya, bhāvetabbaṃ bhāvento sikkheyya, sacchikātabbaṃ sacchikaronto sikkheyya, ācareyya, samācareyya, samādāya vatteyya.
Đối với ba sự học tập này, vị đang nghĩ đến nên học tập, vị đang biết nên học tập, vị đang thấy nên học tập, vị đang quán xét lại nên học tập, vị đang phát nguyện nên học tập, vị đang thiên về đức tin nên học tập, vị đang ra sức tinh tấn nên học tập, vị đang thiết lập niệm nên học tập, vị đang tập trung tâm nên học tập, vị đang nhận biết bằng tuệ nên học tập, vị đang biết rõ các pháp cần được biết rõ nên học tập, vị đang biết toàn diện các pháp cần được biết toàn diện nên học tập, vị đang dứt bỏ các pháp cần được dứt bỏ nên học tập, vị đang tu tập các pháp cần được tu tập nên học tập, vị đang chứng ngộ các pháp cần được chứng ngộ nên học tập, nên thực hành, nên thực hành đúng đắn, nên tiếp nhận và duy trì.
Idhā ti – imissā diṭṭhiyā, imissā khantiyā, imissā ruciyā, imasmiṃ ādāye, imasmiṃ dhamme, imasmiṃ vinaye, imasmiṃ dhammavinaye, imasmiṃ pāvacane, imasmiṃ brahmacariye, imasmiṃ satthusāsane, imasmiṃ attabhāve, imasmiṃ manussaloke, tena vuccati idhā ’ti. Jantū ti – satto naro —pe— manujo ’ti ‘tasmā hi sikkhetha idheva jantu.
’Ở tại đây: ở quan điểm này, ở sự chấp nhận này, ở sự ưa thích này, ở sự nắm giữ này, ở Pháp này, ở Luật này, ở Pháp và Luật này, ở giáo lý này, ở Phạm hạnh này, ở này, ở lời dạy của bậc Đạo Sư này, ở bản ngã này, ở thế giới loài người này, vì thế được gọi là ‘ở tại đây.’ Con ngườilà chúng sanh, đàn ông, —như trên— nhân loại. ‘Chính vì điều ấy, con người ở ngay tại đây nên học tập’ là thế ấy.
Yaṃ kiñci jaññā visamanti loke ti – Yaṃ kiñcī ti sabbena sabbaṃ sabbathā sabbaṃ asesaṃ nissesaṃ pariyādiyanavacanametaṃ ‘yaṃ kiñcī ’ti. Visamanti jaññā ti – visamaṃ kāyakammaṃ visamanti jāneyya, visamaṃ vacīkammaṃ visamanti jāneyya, visamaṃ manokammaṃ visamanti jāneyya, visamo pāṇātipāto visamoti jāneyya, visamaṃ adinnādānaṃ visamanti jāneyya, visamo kāmesu micchācāro visamoti jāneyya, visamo musāvādo visamoti jāneyya, visamā pisunā vācā visamāti jāneyya, visamā pharusā vācā visamāti jāneyya, visamo samphappalāpo visamoti jāneyya, visamaṃ abhijjhaṃ visamanti jāneyya, visamo vyāpādo visamoti jāneyya, visamā micchādiṭṭhi visamāti jāneyya, visamā saṅkhārā visamāti jāneyya, visamā pañca kāmaguṇā visamāti jāneyya, visamāni pañca nīvaraṇāni visamāti jāneyya ājāneyya vijāneyya paṭijāneyya paṭivijjheyya; Loke ti – apāyaloke —pe— Āyatanaloke ti yaṃ kiñci jaññā visamanti loke.
Nên biết bất cứ điều gì là ‘sai trái’ ở thế gian – Bất cứ điều gì: tất cả theo mọi hình thức, tất cả theo mọi nơi, không thiếu sót, toàn thể, điều này là lối nói phóng đại. ‘Bất cứ điều gì’ là thế ấy. Nên biết là ‘sai trái’: Nên biết thân nghiệp sai trái là ‘sai trái,’ nên biết khẩu nghiệp sai trái là ‘sai trái,’ nên biết ý nghiệp sai trái là ‘sai trái,’ nên biết việc giết hại mạng sống sai trái là ‘sai trái,’ nên biết việc trộm cắp sai trái là ‘sai trái,’ nên biết tà hạnh trong các dục sai trái là ‘sai trái,’ nên biết việc nói dối sai trái là ‘sai trái,’ nên biết việc nói đâm thọc sai trái là ‘sai trái,’ nên biết việc nói độc ác sai trái là ‘sai trái,’ nên biết việc nói nhảm nhí sai trái là ‘sai trái,’ nên biết tham lam sai trái là ‘sai trái,’ nên biết sân hận sai trái là ‘sai trái,’ nên biết tà kiến sai trái là ‘sai trái,’ nên biết các hành sai trái là ‘sai trái,’ nên biết năm loại dục sai trái là ‘sai trái,’ nên biết năm pháp che lấp sai trái là ‘sai trái,’ nên biết, nên hiểu biết, nên nhận thức, nên thừa nhận, nên thấu triệt. Ở thế gian: ở thế gian của khổ cảnh, —như trên— ở thế gian của các xứ. Nên biết bất cứ điều gì là ‘sai trái’ ở thế gian là thế ấy.
Na tassa hetu visamaṃ careyyā ti – visamassa kāyakammassa hetu visamaṃ na careyya, visamassa vacīkammassa hetu visamaṃ na careyya, visamassa manokammassa hetu visamaṃ na careyya, visamassa pāṇātipātassa hetu visamaṃ na careyya, visamassa adinnādānassa hetu visamaṃ na careyya, visamassa kāmesu micchācārassa hetu visamaṃ na careyya, visamassa musāvādassa hetu visamaṃ na careyya, visamāya pisunāya vācāya hetu visamaṃ na careyya, visamāya pharusāya vācāya hetu visamaṃ na careyya, visamassa samphappalāpassa hetu visamaṃ na careyya, visamāya abhijjhāya hetu visamaṃ na careyya, visamassa vyāpādassa hetu visamaṃ na careyya, visamāya micchādiṭṭhiyā hetu visamaṃ na careyya, visamānaṃ saṅkhārānaṃ hetu visamaṃ na careyya, visamānaṃ pañcannaṃ kāmaguṇānaṃ hetu visamaṃ na careyya, visamānaṃ pañcannaṃ nīvaraṇānaṃ hetu visamaṃ na careyya, visamāya cetanāya hetu visamaṃ na careyya, visamāya patthanāya hetu visamaṃ na careyya, visamāya paṇidhiyā hetu visamaṃ na careyya na ācareyya na samācareyya na samādāya vatteyyā ’ti – ‘na tassa hetu visamaṃ careyya.’
Không nên làm điều sai trái do nhân của điều ấy: Không nên làm điều sai trái do nhân của thân nghiệp sai trái, không nên làm điều sai trái do nhân của khẩu nghiệp sai trái, không nên làm điều sai trái do nhân của ý nghiệp sai trái, không nên làm điều sai trái do nhân của việc giết hại mạng sống sai trái, không nên làm điều sai trái do nhân của việc trộm cắp sai trái, không nên làm điều sai trái do nhân của tà hạnh trong các dục sai trái, không nên làm điều sai trái do nhân của việc nói dối sai trái, không nên làm điều sai trái do nhân của việc nói đâm thọc sai trái, không nên làm điều sai trái do nhân của việc nói độc ác sai trái, không nên làm điều sai trái do nhân của việc nói nhảm nhí sai trái, không nên làm điều sai trái do nhân của tham lam sai trái, không nên làm điều sai trái do nhân của sân hận sai trái, không nên làm điều sai trái do nhân của tà kiến sai trái, không nên làm điều sai trái do nhân của các hành sai trái, không nên làm điều sai trái do nhân của năm loại dục sai trái, không nên làm điều sai trái do nhân của năm pháp che lấp sai trái, không nên làm điều sai trái do nhân của ý định sai trái, không nên làm điều sai trái do nhân của ước nguyện sai trái, không nên làm điều sai trái do nhân của quyết tâm sai trái, không nên thực hành, không nên thực hành đúng đắn, không nên tiếp nhận và duy trì. ‘Không nên làm điều sai trái do nhân của điều ấy’ là thế ấy.
Appañhidaṃ jīvitaṃ āhu dhīrā ti – Jīvitan ti āyu ṭhiti yapanā yāpanā irīyanā vattanā pālanā jīvitaṃ jīvitindriyaṃ. Api ca dvīhi kāraṇehi appakaṃ jīvitaṃ: ṭhitiparittatāya vā appakaṃ jīvitaṃ, sarasaparittatāya vā appakaṃ jīvitaṃ. Kathaṃ ṭhitiparittatāya vā appakaṃ jīvitaṃ? Atīte cittakkhaṇe jīvittha na jīvati na jīvissati, anāgate cittakkhaṇe jīvissati na jīvati na jīvittha, paccuppanne cittakkhaṇe jīvati na jīvittha na jīvissati.
Bởi vì các bậc sáng trí đã nói mạng sống này là ít ỏi – Mạng sống: là tuổi thọ, sự tồn tại, sự nuôi sống, sự duy trì, sự di chuyển, sự duy trì, sự bảo hộ, mạng sống, mạng quyền. Thêm nữa, mạng sống là ít ỏi vì hai lý do: mạng sống là ít ỏi vì tính chất ít ỏi của sự tồn tại, hoặc là mạng sống là ít ỏi vì tính chất ít ỏi của phẩm chất. Mạng sống là ít ỏi vì tính chất ít ỏi của sự tồn tại nghĩa là thế nào? Người đã sống vào chập tâm ở quá khứ thì không thể ‘đang sống’ ở hiện tại, không thể ‘sẽ sống’ ở tương lai; người sẽ sống vào chập tâm ở tương lai thì không thể ‘đang sống’ ở hiện tại, không thể ‘đã sống’ ở quá khứ; người đang sống vào chập tâm ở hiện tại thì không thể ‘đã sống’ ở quá khứ, không thể ‘sẽ sống’ ở tương lai.
1. “Jīvitaṃ attabhāvo ca sukhadukkhā ca kevalā, ekacittasamāyuttā lahuso vattate khaṇo.
1. Mạng sống, bản ngã, và toàn bộ hạnh phúc và đau khổ được gắn liền với một (sát-na) tâm; và sát-na (tâm) trôi qua một cách nhanh chóng.[1]
[1] Đa phần các câu kệ ở đây được dịch dựa theo Chú Giải (ND).
2. Cullāsīti sahassāni kappā tiṭṭhanti ye marū, na tveva tepi jīvanti dvīhi cittehi saṃyutā.
2. Các vị Thiên nhân nào tồn tại 84.000 kiếp, tuy nhiên cũng không có trường hợp các vị ấy sinh tồn với hai tâm đã được kết hợp lại (trong cùng một sát-na, mà sinh tồn theo từng sát-na tâm một).
3. Ye niruddhā marantassa tiṭṭhamānassa vā idha, sabbeva sadisā khandhā gatā appaṭisandhikā.
3. Các uẩn nào của người đã chết hoặc đang tồn tại ở thế gian này mà đã bị hoại diệt, hết thảy tất cả các uẩn ấy là tương tợ nhau, đã đi đến sự không thể kết hợp lại.
4. Anantarā ca ye bhaggā ye ca bhaggā anāgatā, tadantare niruddhānaṃ vesamaṃ natthi lakkhaṇe.
4. Và các uẩn đã bị tan rã liền trước đó, các uẩn sẽ bị tan rã ở tương lai, ở khoảng giữa của chúng và của các uẩn bị hoại diệt ở hiện tại, không có trạng thái không bằng nhau về tướng trạng.
5. Anibbattena na jāto paccuppannena jīvati, cittabhaṅgā mato loko paññatti paramatthiyā.
5. Với uẩn chưa sanh khởi thì chưa được sanh ra. Con người sống với uẩn hiện tại. Do sự tan rã của tâm mà con người bị chết, là biểu hiện của ý nghĩa tuyệt đối.
6. Yathā ninnā pavattanti chandena pariṇāmitā, acchinnadhārā vattanti saḷāyatanapaccayā.
6. Nước di chuyển đến các chỗ thấp như thế nào, thì con người bị thay đổi vì sự mong muốn như thế ấy. Các dòng chảy (của tâm) không bị đứt đoạn vận hành do duyên của sáu xứ.
7. Anidhānagatā bhaggā puñjo natthi anāgate, nibbattā yeva tiṭṭhanti āragge sāsapūpamā.
7. Các uẩn không đi đến việc lưu trữ, chúng bị tan rã. Không có sự tích lũy của các uẩn ở tương lai. Chúng tồn tại ngay khi vừa được sanh lên, tương tự như hạt cải ở đầu mũi kim.
8. Nibbattānañca dhammānaṃ bhaṅgo nesaṃ purakkhato, palokadhammā tiṭṭhanti purāṇehi amissitā.
8. Và đối với các pháp đã được sanh lên, sự tan rã của chúng là ở phía trước. Các uẩn có trạng thái tiêu hoại, chúng tồn tại không bị trộn lẫn với các uẩn trước đó.
9. Adassanāto āyanti bhaṅgā gacchantyadassanaṃ, vijjuppādova ākāse uppajjanti vayanti cā ”ti.
9. Chúng đi đến không được nhìn thấy, bị tan rã chúng ra đi không được nhìn thấy. Chúng sanh lên và diệt đi tựa như sự xuất hiện của tia chớp ở không trung.
Evaṃ ṭhitiparittatāya appakaṃ jīvitaṃ.
Mạng sống là ít ỏi vì tính chất ít ỏi của sự tồn tại nghĩa là như vậy.
Kathaṃ sarasaparittatāya appakaṃ jīvitaṃ? Assāsūpanibaddhaṃ jīvitaṃ, passāsūpanibaddhaṃ jīvitaṃ, assāsapassāsūpanibaddhaṃ jīvitaṃ, mahābhūtupanibaddhaṃ jīvitaṃ kabalīkārāhārūpanibaddhaṃ jīvitaṃ, usmūpanibaddhaṃ jīvitaṃ, viññāṇūpanibaddhaṃ jīvitaṃ, mūlampi imesaṃ dubbalaṃ, pubbahetūpi imesaṃ dubbalā, yepi paccayā tepi dubbalā, yāpi pabhavikā sāpi dubbalā, sahabhūpi imesaṃ dubbalā, sampayogāpi imesaṃ dubbalā, sahajāpi imesaṃ dubbalā, yāpi payojikā sāpi dubbalā, aññamaññaṃ niccadubbalā ime, aññamaññaṃ anavaṭṭhitā ime, aññamaññaṃ paripātayanti ime, aññamaññassa hi natthi tāyitā, na cāpi ṭhapenti aññamaññaṃ ime, yopi nibbattako so na vijjati.
Mạng sống là ít ỏi vì tính chất ít ỏi của phẩm chất nghĩa là thế nào? Mạng sống được gắn liền với hơi thở vào, mạng sống được gắn liền với hơi thở ra, mạng sống được gắn liền với hơi thở vào và hơi thở ra, mạng sống được gắn liền với tứ đại, mạng sống được gắn liền với vật thực ăn uống, mạng sống được gắn liền với hơi nóng, mạng sống được gắn liền với thức, hơn nữa nguồn gốc của các pháp này là yếu ớt, nhân đầu tiên của các pháp này cũng là yếu ớt, các duyên (hỗ trợ) cũng là yếu ớt, các nguồn phát sanh cũng là yếu ớt, các pháp có cùng nguồn phát sanh với các pháp này cũng là yếu ớt, các pháp liên kết với các pháp này cũng là yếu ớt, các pháp đồng sanh của các pháp này cũng là yếu ớt, các pháp tiếp nối cũng là yếu ớt, các pháp này luôn yếu ớt giống như nhau, các pháp này không trụ lại cùng nhau, các pháp này tiêu hoại giống như nhau, không có sự bảo vệ giữa chúng với nhau, và các pháp này cũng không duy trì lẫn nhau, cái nào sản sinh ra (cái khác) thì nó không tồn tại nữa.
10. “Na ca kenaci koci hāyati bhaṅgabyā ca imehi sabbaso purimehi pabhāvitā ime yepi pabhavakā te pure matā, purimāpi ca pacchimāpi ca aññamaññaṃ na kadāci maddasun”ti. Evaṃ sarasaparittatāya appakaṃ jīvitaṃ.
10. “Và không có cái nào bị loại trừ bởi cái nào, bởi vì toàn bộ những cái này đều đạt đến sự tan rã. Do những cái trước mà những cái này được tạo ra, những cái là nguồn phát sanh trước đó rồi cũng bị chết đi, thậm chí những cái trước và luôn cả những cái sau không bao giờ nhìn thấy lẫn nhau.”
Mạng sống là ít ỏi vì tính chất ít ỏi của phẩm chất nghĩa là như vậy.
Api ca cātummahārājikānaṃ devānaṃ jīvitaṃ upādāya manussānaṃ appakaṃ jīvitaṃ parittaṃ jīvitaṃ thokaṃ jīvitaṃ khaṇikaṃ jīvitaṃ lahukaṃ jīvitaṃ ittaraṃ jīvitaṃ anaddhaniyaṃ jīvitaṃ na ciraṭṭhitikaṃ jīvitaṃ. Tāvatiṃsānaṃ devānaṃ —pe— yāmānaṃ devānaṃ —pe— tusitānaṃ devānaṃ —pe— nimmāṇaratīnaṃ devānaṃ —pe— paranimmitavasavattīnaṃ devānaṃ —pe— brahmakāyikānaṃ devānaṃ jīvitaṃ upādāya manussānaṃ appakaṃ jīvitaṃ parittaṃ jīvitaṃ thokaṃ jīvitaṃ khaṇikaṃ jīvitaṃ lahukaṃ jīvitaṃ ittaraṃ jīvitaṃ anaddhaniyaṃ jīvitaṃ na ciraṭṭhitikaṃ jīvitaṃ.
Thêm nữa, so sánh với mạng sống của chư Thiên ở Tứ Đại Thiên Vương thì loài người có mạng sống ngắn ngủi, có mạng sống ít ỏi, có mạng sống nhỏ nhoi, có mạng sống chút ít, có mạng sống đơn sơ, có mạng sống chóng qua, có mạng sống không lâu dài, có mạng sống không tồn tại lâu. So sánh với mạng sống của chư Thiên ở cõi Đạo Lợi —như trên— của chư Thiên ở cõi Dạ Ma —như trên— của chư Thiên ở cõi Đẩu Suất —như trên— của chư Thiên ở cõi Hóa Lạc Thiên —như trên— của chư Thiên ở cõi Tha Hóa Tự Tại —như trên— của chư Thiên ở tập thể Phạm Thiên thì loài người có mạng sống ngắn ngủi, có mạng sống ít ỏi, có mạng sống nhỏ nhoi, có mạng sống chút ít, có mạng sống đơn sơ, có mạng sống chóng qua, có mạng sống không lâu dài, có mạng sống không tồn tại lâu.
Vuttampi cetaṃ bhagavatā:
“Appamidaṃ bhikkhave manussānaṃ āyu, gamanīyo samparāyo, mantāya boddhabbaṃ, kattabbaṃ kusalaṃ, caritabbaṃ brahmacariyaṃ. Natthi jātassa amaraṇaṃ, yo bhikkhave ciraṃ jīvati, so vassasataṃ appaṃ vā bhiyyo vā.
Và điều này cũng đã được đức Thế Tôn nói đến:
“Này các tỳ khưu, tuổi thọ này của loài người là ngắn ngủi, sẽ phải đi đến thế giới khác. Nên làm cho giác ngộ nhờ vào trí tuệ, nên làm việc thiện, nên thực hành Phạm hạnh. Đối với người đã được sanh ra không có sự không chết. Này các tỳ khưu, người sống lâu hoặc ít hơn hoặc nhiều hơn một trăm năm.
11. Appamāyu manussānaṃ hīḷeyya naṃ suporiso, careyyādittasīsova natthi maccussa nāgamo.
11. Tuổi thọ của loài người là ngắn ngủi, người khôn ngoan nên xem thường điều ấy, nên thực hành như là người có cái đầu bị cháy rực. Việc không xảy đến cái chết là không có.
12. Accayanti ahorattā jīvitaṃ uparujjhati, āyu khīyati maccānaṃ kunnadīnaṃva odakaṃ.
12. Ngày và đêm trôi qua, mạng sống tàn lụi dần. Tuổi thọ của những con người bị cạn kiệt, tựa như nước của những con rạch nhỏ.
Appañhidaṃ jīvitaṃ āhu dhīrā ti – Dhīrā ti dhitimāti dhīrā, dhitisampannā ti dhīrā, dhikkitapāpāti dhīrā. Dhī vuccati paññā yā paññā pajānanā vicayo pavicayo dhammavicayo sallakkhaṇā upalakkhaṇā paccupalakkhaṇā paṇḍiccaṃ kosallaṃ nepuññaṃ vebhavyā cintā mantā upaparikkhā bhūri medhā pariṇāyikā vipassanā sampajaññaṃ patodo paññā paññindriyaṃ paññābalaṃ paññāsatthaṃ paññāpāsādo paññā-āloko paññā-obhāso paññāpajjoto paññāratanaṃ amoho dhammavicayo sammādiṭṭhi tāya paññāya samannāgatattā dhīrā. Api ca khandhadhīrā dhātudhīrā āyatanadhīrā paṭiccasamuppādadhīrā satipaṭṭhānadhīrā sammappadhānadhīrā [iddhipādadhīrā] indriyadhīrā [baladhīrā] bojjhaṅgadhīrā maggadhīrā phaladhīrā nibbāṇadhīrā.
Bởi vì các bậc sáng trí đã nói mạng sống này là ít ỏi – Các bậc sáng trí: ‘Có trí hiểu biết’ là các bậc sáng trí, ‘thành tựu trí hiểu biết’ là các bậc sáng trí, ‘nhờm gớm việc ác’ là các bậc sáng trí. Sáng trí được gọi là tuệ, là sự nhận biết, kiến thức, sự chọn lựa, sự khám phá, sự chọn lựa pháp, sự quan sát, sự suy xét, sự phân biệt, sự thông thái, sự thông thạo, sự khôn khéo, sự thông suốt, sự cân nhắc, sự có trí, sự rõ ràng, sự hiểu biết rộng rãi, pháp dẫn đầu, sự thấy rõ, sự tỉnh giác, vật xuyên thủng, tuệ là tuệ quyền, tuệ lực, tuệ là vũ khí, tuệ là lâu đài, tuệ là ánh sáng, tuệ là hào quang, tuệ là cây đèn, tuệ là báu vật, không si mê, sự chọn lựa pháp, chánh kiến, trạng thái thành tựu với tuệ ấy là sáng trí. Thêm nữa, sáng trí về uẩn, sáng trí về giới, sáng trí về xứ, sáng trí về tùy thuận duyên khởi, sáng trí về việc thiết lập niệm, sáng trí về chánh cần, [sáng trí về nền tảng của thần thông,] sáng trí về quyền, [sáng trí về lực,] sáng trí về chi phần đưa đến giác ngộ, sáng trí về Đạo, sáng trí về Quả, sáng trí về Niết Bàn.
Te dhīrā evamāhu: ‘Manussānaṃ appaṃ jīvitaṃ parittaṃ jīvitaṃ thokaṃ jīvitaṃ lahukaṃ jīvitaṃ ittaraṃ jīvitaṃ anaddhaniyaṃ jīvitaṃ na ciraṭṭhitikaṃ jīvitan ’ti. Evamāhaṃsu evaṃ kathenti evaṃ bhaṇanti evaṃ dīpayanti evaṃ voharantī ’ti ‘appañhidaṃ jīvitaṃ āhu dhīrā.’
Các bậc sáng trí ấy đã nói như vầy: ‘Loài người có mạng sống ngắn ngủi, có mạng sống ít ỏi, có mạng sống nhỏ nhoi, có mạng sống chút ít, có mạng sống đơn sơ, có mạng sống chóng qua, có mạng sống không lâu dài, có mạng sống không tồn tại lâu.’ Các vị đã nói như vậy, thuyết giảng như vậy, thốt ra như vậy, giảng giải như vậy, phát ngôn như vậy. Bởi vì các bậc sáng trí đã nói mạng sống này là ít ỏi’ là thế ấy.
Tenāha bhagavā:
“Tasmā hi sikkhetha idheva jantu yaṃ kiñci jaññā visamanti loke, na tassa hetu visamaṃ careyya appañhidaṃ jīvitaṃ āhu dhīrā ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Chính vì điều ấy, con người ở ngay tại đây nên học tập nên biết bất cứ điều gì là ‘sai trái’ ở thế gian không nên làm điều sai trái do nhân của điều ấy, bởi vì các bậc sáng trí đã nói mạng sống này là ít ỏi.”
2.5
Passāmi loke pariphandamānaṃ pajaṃ imaṃ taṇhāgataṃ bhavesu, hīnā narā maccumukhe lapanti avītataṇhā se bhavābhavesu.
Ta nhìn thấy con người này, bị nhiễm tham ái trong các cõi, đang chao đảo ở thế gian.
Những người thấp hèn, chưa xa lìa tham ái ở hữu và phi hữu, rên rỉ ở cửa miệng Tử Thần.
Ta thấy ở trên đời,
Loài Người run, sợ hãi,
Ði đến khát ái này,
Trong những loại sanh hữu.
Phàm những người thấp kém,
Than van trước miệng chết,
Chưa viễn ly khát ái,
Ðối với hữu, phi hữu.
(Kinh Tập, câu kệ 776)
Passāmi loke pariphandamānan ti – Passāmī ti maṃsacakkhunāpi passāmi, dibbacakkhunāpi passāmi, paññācakkhunāpi passāmi, buddhacakkhunāpi passāmi, samantacakkhunāpi passāmi, dakkhāmi olokemi nijjhāyāmi upaparikkhāmi. Loke ti – apāyaloke manussaloke devaloke khandhaloke dhātuloke āyatanaloke.
Pariphandamānan ti – taṇhāphandanāya phandamānaṃ diṭṭhiphandanāya phandamānaṃ kilesaphandanāya phandamānaṃ payogaphandanāya phandamānaṃ vipākaphandanāya phandamānaṃ duccaritaphandanāya phandamānaṃ, rattaṃ rāgena phandamānaṃ duṭṭhaṃ dosena phandamānaṃ mūḷhaṃ mohena phandamānaṃ vinibaddhaṃ mānena phandamānaṃ parāmaṭṭhaṃ diṭṭhiyā phandamānaṃ vikkhepagataṃ uddhaccena phandamānaṃ aniṭṭhāgataṃ vicikicchāya phandamānaṃ thāmagataṃ anusayehi phandamānaṃ, lābhena phandamānaṃ alābhena phandamānaṃ yasena phandamānaṃ ayasena phandamānaṃ pasaṃsāya phandamānaṃ nindāya phandamānaṃ sukhena phandamānaṃ dukkhena phandamānaṃ jātiyā phandamānaṃ jarāya phandamānaṃ vyādhinā phandamānaṃ maraṇena phandamānaṃ sokaparidevadukkhadomanassupāyāsehi phandamānaṃ, nerayikena dukkhena phandamānaṃ tiracchānayonikena dukkhena phandamānaṃ pettivisayikena dukkhena phandamānaṃ mānusikena dukkhena phandamānaṃ gabbhokkanti mūlakena dukkhena phandamānaṃ gabbhaṭṭhitimūlakena dukkhena phandamānaṃ gabbhavuṭṭhānamūlakena dukkhena phandamānaṃ jātassupanibandhakena dukkhena phandamānaṃ jātassa parādheyyakena dukkhena phandamānaṃ attūpakkamamūlakena dukkhena phandamānaṃ parūpakkamamūlakena dukkhena phandamānaṃ dukkhadukkhena phandamānaṃ saṅkhāradukkhena phandamānaṃ vipariṇāmadukkhena phandamānaṃ, cakkhurogena dukkhena phandamānaṃ sotarogena dukkhena phandamānaṃ ghānarogena dukkhena jivhārogena dukkhena kāyarogena dukkhena [sīsarogena dukkhena ] kaṇṇarogena dukkhena mukharogena dukkhena dantarogena dukkhena kāsena sāsena pināsena ḍahena jarena kucchirogena mucchāya pakkhandikāya sūlāya visūcikāya kuṭṭhena gaṇḍena kilāsena sosena apamārena dadduyā kaṇḍuyā kacchuyā rakhasāya vitacchikāya lohitena pittena madhumehena aṃsāya piḷakāya bhagandalena pittasamuṭṭhānena ābādhena semhasamuṭṭhānena ābādhena vātasamuṭṭhānena ābādhena sannipātikena ābādhena utupariṇāmajena ābādhena visamaparihārajena ābādhena opakkamikena ābādhena kammavipākajena ābādhena sītena uṇhena jighacchāya pipāsāya uccārena passāvena ḍaṃsamakasavātātapasiriṃsapasamphassena dukkhena mātumaraṇena dukkhena pitumaraṇena dukkhena bhātumaraṇena dukkhena bhaginimaraṇena dukkhena puttamaraṇena dukkhena dhītumaraṇena dukkhena ñātivyasanena dukkhena bhogavyasanena dukkhena rogavyasanena dukkhena sīlavyasanena dukkhena diṭṭhivyasanena dukkhena phandamānaṃ samphandamānaṃ vipphandamānaṃ vedhamānaṃ pavedhamānaṃ sampavedhamānaṃ passāmi dakkhāmi olokemi nijjhāyāmi upaparikkhāmī ’ti – passāmi loke pariphandamānaṃ.
Pajaṃ imaṃ taṇhāgataṃ bhavesū ti – Pajā ti sattādhivacanaṃ. Taṇhā ti rūpataṇhā saddataṇhā gandhataṇhā rasataṇhā phoṭṭhabbataṇhā dhammataṇhā bhavataṇhā vibhavataṇhā taṇhānugataṃ taṇhānusaṭaṃ taṇhāpattaṃ taṇhāparipatitaṃ abhibhūtaṃ pariyādinnacittaṃ. Bhavesū ti kāmabhave rūpabhave arūpabhave ’ti ‘pajaṃ imaṃ taṇhāgataṃ bhavesu.’
Hīnā narā maccumukhe lapantī ti – Hīnā narā ti hīnena kāyakammena samannāgatāti hīnā narā, hīnena vacīkammena samannāgatāti hīnā narā, hīnena manokammena samannāgatāti hīnā narā, hīnena pāṇātipātena samannāgatāti hīnā narā, hīnena adinnādānena – hīnena kāmesu micchācārena – hīnena musāvādena – hīnāya pisunāya vācāya – hīnāya pharusāya vācāya – hīnena samphappalāpena – hīnāya abhijjhāya – hīnena vyāpādena – hīnāya micchādiṭṭhiyā – hīnehi saṅkhārehi – hīnehi pañcahi kāmaguṇehi – hīnehi pañcahi nīvaraṇehi – hīnāya cetanāya – hīnāya patthanāya – hīnāya paṇidhiyā samannāgatāti hīnā nihīnā omakā lāmakā chattakā parittā ’ti hīnā narā. Maccumukhe lapantī ti – Maccumukhe ti māramukhe maraṇamukhe maccuppattā maccusampattā maccūpagatā mārappattā mārasampattā mārūpagatā maraṇappattā maraṇasampattā maraṇūpagatā lapanti sallapanti socanti kilamanti paridevanti urattāḷiṃ kandanti sammohaṃ āpajjantī ’ti ‘hīnā narā maccumukhe lapanti.’
Avītataṇhā se bhavābhavesū ti – Taṇhā ti rūpataṇhā —pe— dhammataṇhā. Bhavābhavesū ti – bhavābhave kammabhave punabbhave, kāmabhave kammabhave kāmabhave punabbhave, rūpabhave kammabhave rūpabhave punabbhave, arūpabhave kammabhave arūpabhave punabbhave, punappunabhave punappunagatiyā punappuna-uppattiyā punappunapaṭisandhiyā punappuna-attabhāvābhinibbattiyā avītataṇhā avigatataṇhā acattataṇhā avantataṇhā amuttataṇhā appahīnataṇhā appaṭinissaṭṭhataṇhā ’ti ‘avītataṇhā se bhavābhavesu.’
Tenāha bhagavā:
“Passāmi loke pariphandamānaṃ
pajaṃ imaṃ taṇhāgataṃ bhavesu,
hīnā narā maccumukhe lapanti
avītataṇhā se bhavābhavesū ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
Ta nhìn thấy con người này, bị nhiễm tham ái trong các cõi, đang chao đảo ở thế gian. Những người thấp hèn, chưa xa lìa tham ái ở hữu và phi hữu, rên rỉ ở cửa miệng Tử Thần.
2.6
Mamāyite passatha phandamāne maccheva appodake khīṇasote, etampi disvā amamo careyya bhavesu āsattimakubbamāno.
Hãy nhìn xem những kẻ đang chao động ở trạng thái chấp là của tôi tựa như những con cá ở chỗ ít nước, ở dòng chảy bị cạn kiệt. Và sau khi nhìn thấy điều ấy, nên sống không chấp là của tôi, không tạo nên sự vướng bận ở các hữu.Hãy nhìn những người ấy,
Run sợ trong tự ngã,
Như cá chỗ ít nước,
Trong dòng sông khô cạn,
Thấy được sự kiện này,
Hãy sống không của ta,
Không làm sự việc gì,
Khiến tham đắm các hữu.
(Kinh Tập, câu kệ 777)
Mamāyite passatha phandamāne ti – ‘Mamattā ’ti dve mamattā: taṇhāmamattañca diṭṭhimamattañca.
Katamaṃ taṇhāmamattaṃ? Yāvatā taṇhāsaṅkhātena sīmakataṃ mariyādikataṃ odhikataṃ pariyantakataṃ pariggahitaṃ mamāyitaṃ idaṃ mamaṃ etaṃ mamaṃ ettakaṃ mamaṃ ettāvatā mamaṃ mama rūpā saddā gandhā rasā phoṭṭhabbā attharaṇā pāpuraṇā dāsidāsā ajeḷakā kukkuṭasūkarā hatthigavāssavaḷavā khettaṃ vatthu hiraññaṃ suvaṇṇaṃ gāmanigamarājadhāniyo raṭṭhaṃ janapado koso ca koṭṭhāgāraṃ ca kevalampi mahāpaṭhaviṃ taṇhāvasena mamāyati. Yāvatā aṭṭhasatataṇhāvicaritaṃ, idaṃ taṇhāmamattaṃ.
Katamaṃ diṭṭhimamattaṃ? Vīsativatthukā sakkāyadiṭṭhi, dasavatthukā micchādiṭṭhi, dasavatthukā antaggāhikā diṭṭhi, yā evarūpā diṭṭhi diṭṭhigataṃ diṭṭhigahanaṃ diṭṭhikantāro diṭṭhivisūkāyikaṃ diṭṭhivipphanditaṃ diṭṭhisaññojanaṃ gāho paṭiggāho abhiniveso parāmāso kummaggo micchāpatho micchattaṃ titthāyatanaṃ vipariyesagāho viparītagāho vipallāsagāho micchāgāho ayāthāvatasmiṃ yāthāvatan ’ti gāho yāvatā dvāsaṭṭhi diṭṭhigatāni, idaṃ diṭṭhimamattaṃ.
Mamāyite passatha phandamāne ti mamāyitaṃ vatthuṃ acchedasaṅkinopi phandanti, acchindantepi phandanti, acchinnepi phandanti, mamāyitaṃ ca vatthuṃ vipariṇāmasaṅkinopi phandanti, vipariṇamantepi phandanti, vipariṇatepi phandanti samphandanti vipphandanti vedhanti pavedhanti sampavedhanti. Evaṃ phandamāne samphandamāne vipphandamāne vedhamāne pavedhamāne sampavedhamāne passatha dakkhatha oloketha jhāyatha upaparikkhathā ’ti ‘mamāyite passatha phandamāne.’
Maccheva appodake khīṇasote ti – yathā macchā appodake parittodake udakapariyādāne kākehi vā kulalehi vā balākāhi vā yehi vā tehi paripātiyamānā ukkhipiyamānā khajjamānā phandanti samphandanti vipphandanti vedhanti pavedhanti sampavedhanti, evamevaṃ pajā mamāyitaṃ vatthuṃ acchedasaṅkinopi phandanti, acchindantepi phandanti, acchinnepi phandanti, mamāyitaṃ vatthuṃ vipariṇāmasaṅkinopi phandanti, vipariṇamantepi phandanti, vipariṇatepi phandanti samphandanti vipphandanti vedhanti pavedhanti sampavedhantī ’ti ‘maccheva appodake khīṇasote.’
Etampi disvā amamo careyyā ti – Etaṃ ādīnavaṃ disvā passitvā tulayitvā tīrayitvā vibhāvayitvā vibhūtaṃ katvā mamattesū ’ti – etampi disvā. Amamo careyyā ti – ‘mamattā ’ti dve mamattā: taṇhāmamattañca diṭṭhimamattañca. —pe— idaṃ taṇhāmamattaṃ. —pe— idaṃ diṭṭhimamattaṃ. Taṇhāmamattaṃ pahāya diṭṭhimamattaṃ paṭinissajitvā cakkhuṃ amamāyanto sotaṃ amamāyanto ghānaṃ amamāyanto jivhaṃ amamāyanto kāyaṃ amamāyanto manaṃ amamāyanto rūpe sadde gandhe rase phoṭṭhabbe dhamme kulaṃ gaṇaṃ āvāsaṃ lābhaṃ yasaṃ pasaṃsaṃ sukhaṃ cīvaraṃ piṇḍapātaṃ senāsanaṃ gilānapaccayabhesajjaparikkhāraṃ kāmadhātuṃ rūpadhātuṃ arūpadhātuṃ kāmabhavaṃ rūpabhavaṃ arūpabhavaṃ saññābhavaṃ asaññābhavaṃ nevasaññānāsaññābhavaṃ ekavokārabhavaṃ catuvokārabhavaṃ pañcavokārabhavaṃ atītaṃ anāgataṃ paccuppannaṃ diṭṭhasutamutaviññātabbe dhamme amamāyanto agaṇhanto aparāmasanto anabhinivisanto careyya vihareyya irīyeyya vatteyya pāleyya yapeyya yāpeyyā ’ti ‘etampi disvā amamo careyya.’
Bhavesu āsattimakubbamāno ti – Bhavesū ti kāmabhave rūpabhave arūpabhave. Āsatti vuccati taṇhā yo rāgo sārāgo —pe— abhijjhā lobho akusalamūlaṃ. Bhavesu āsattimakubbamāno ti – chandaṃ pemaṃ rāgaṃ khantiṃ akubbamāno ajanayamāno asañjanayamāno anibbattayamāno ’ti ‘bhavesu āsattimakubbamāno.’
Tenāha bhagavā:
“Mamāyite passatha phandamāne
maccheva appodake khīṇasote,
etampi disvā ammo careyya
bhavesu āsattimakubbamāno ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Hãy nhìn xem những kẻ đang chao động ở trạng thái chấp là của tôi tựa như những con cá ở chỗ ít nước, ở dòng chảy bị cạn kiệt. Và sau khi nhìn thấy điều ấy, nên sống không chấp là của tôi, không tạo nên sự vướng bận ở các hữu.”
2.7
Ubhosu antesu vineyya chandaṃ phassaṃ pariññāya anānugiddho, yadattagarahī tadakubbamāno na lippati diṭṭhasutesu dhīro.
Nên dẹp bỏ sự mong muốn ở cả hai thái cực, sau khi biết toàn diện về xúc thì không còn thèm muốn, bản thân chê trách điều nào thì không làm điều ấy, người sáng trí không nhơ bẩn ở những điều đã được thấy đã được nghe.Hãy nhiếp phục ước muốn,
Ðối với hai cực đoan,
Nhờ liễu tri các xúc,
Không còn có tham đắm,
Cái gì tự ngã trách,
Cái ấy không có làm,
Bậc trí không bị nhớp,
Bởi những gì thấy nghe.
(Kinh Tập, câu kệ 778)
Ubhosu antesu vineyya chandan ti – Antā ti dve antā: phasso eko anto, phassasamudayo dutiyo anto. Atīto eko anto, anāgato dutiyo anto. Sukhā vedanā eko anto, dukkhā vedanā dutiyo anto. Nāmaṃ eko anto, rūpaṃ dutiyo anto. Cha ajjhattikāni āyatanāni eko anto, cha bāhirāni āyatanāni dutiyo anto. Sakkāyo eko anto, sakkāyasamudayo dutiyo anto. Chando ti yo kāmesu kāmacchando kāmarāgo kāmanandi kāmataṇhā kāmasineho kāmapariḷāho kāmamucchā kāmajjhosānaṃ kāmogho kāmayogo kāmūpādānaṃ kāmacchandanīvaraṇaṃ. Ubhosu antesu vineyya chandan ti – ubhosu antesu chandaṃ vineyya paṭivineyya pajaheyya vinodeyya vyantīkareyya anabhāvaṃ gameyyā ’ti ‘ubhosu antesu vineyya chandaṃ.’
Phassaṃ pariññāya anānugiddho ti – Phasso ti cakkhusamphasso sotasamphasso ghānasamphasso jivhāsamphasso kāyasamphasso manosamphasso adhivacanasamphasso paṭighasamphasso sukhavedanīyo samphasso dukkhavedanīyo samphasso adukkhamasukhavedanīyo samphasso kusalo phasso akusalo phasso avyākato phasso kāmāvacaro phasso rūpāvacaro phasso arūpāvacaro phasso suññato phasso animitto phasso appaṇihito phasso lokiyo phasso lokuttaro phasso atīto phasso anāgato phasso paccuppanno phasso, yo evarūpo phasso phusanā samphusanā samphusitattaṃ, ayaṃ vuccati phasso.
Phassaṃ pariññāyā ti – phassaṃ tīhi pariññāhi parijānitvā ñātapariññāya tīraṇapariññāya pahānapariññāya.
Katamā ñātapariññā? Phassaṃ jānāti: ‘Ayaṃ cakkhusamphasso, ayaṃ sotasamphasso, ayaṃ ghānasamphasso, ayaṃ jivhāsamphasso, ayaṃ kāyasamphasso, ayaṃ manosamphasso, ayaṃ adhivacanasamphasso, ayaṃ paṭighasamphasso, ayaṃ sukhavedanīyo phasso, ayaṃ dukkhavedanīyo phasso, ayaṃ adukkhamasukhavedanīyo phasso, ayaṃ kusalo phasso, ayaṃ akusalo phasso, ayaṃ avyākato phasso, ayaṃ kāmāvacaro phasso, ayaṃ rūpāvacaro phasso, ayaṃ arūpāvacaro phasso, ayaṃ suññato phasso, ayaṃ animitto phasso, ayaṃ appaṇihito phasso, ayaṃ lokiyo phasso, ayaṃ lokuttaro phasso, ayaṃ atīto phasso, ayaṃ anāgato phasso, ayaṃ paccuppanno phasso ’ti jānāti passati. Ayaṃ ñātapariññā.
Katamā tīraṇapariññā? Evaṃ ñātaṃ katvā phassaṃ tīreti aniccato dukkhato rogato gaṇḍato sallato aghato ābādhato parato palokato ītito upaddavato bhayato upassaggato calato pabhaṅguto addhuvato attāṇato aleṇato asaraṇato asaraṇībhūtato rittato tucchato suññato anattato ādīnavato vipariṇāmadhammato asārato aghamūlato vadhakato vibhavato sāsavato saṅkhatato mārāmisato jātidhammato jarādhammato vyādhidhammato maraṇadhammato sokaparidevadukkhadomanassupāyāsadhammato saṅkilesikadhammato samudayato atthaṅgamato assādato ādīnavato nissaraṇato tīreti. Ayaṃ tīraṇapariññā.
Katamā pahānapariññā? Evaṃ tīretvā phasse chandarāgaṃ pajahati vinodeti vyantiṃ karoti anabhāvaṃ gameti.
Vuttaṃ hetaṃ bhagavatā:
“Yo bhikkhave phassesu chandarāgo, taṃ pajahatha. Evaṃ so phasso pahīno bhavissati ucchinnamūlo tālāvatthukato anabhāvaṃ gato āyatiṃ anuppādadhammo ”ti. Ayaṃ pahānapariññā.
Phassaṃ pariññāyā ti – phassaṃ imāhi tīhi pariññāhi parijānitvā.
Anānugiddho ti – Gedho vuccati taṇhā “yo rāgo sārāgo —pe— abhijjhā lobho akusalamūlaṃ.” Yasseso gedho pahīno samucchinno vūpasanto paṭippassaddho abhabbuppattiko ñāṇagginā daḍḍho, so vuccati agiddho. So rūpe agiddho sadde agiddho gandhe agiddho rase agiddho phoṭṭhabbe agiddho kule gaṇe āvāse lābhe yase pasaṃsāyaṃ sukhe cīvare piṇḍapāte senāsane gilānapaccayabhesajjaparikkhāre kāmadhātuyā rūpadhātuyā arūpadhātuyā kāmabhave rūpabhave arūpabhave saññābhave asaññābhave nevasaññānāsaññābhave ekavokārabhave catuvokārabhave pañcavokārabhave atīte anāgate paccuppanne diṭṭhasutamutaviññātabbesu dhammesu agiddho agathito amucchito anajjhāpanno vītagedho vigatagedho cattagedho vantagedho muttagedho* pahīnagedho paṭinissaṭṭhagedho vītarāgo vigatarāgo cattarāgo vantarāgo muttarāgo pahīnarāgo paṭinissaṭṭharāgo nicchāto nibbuto sītibhūto sukhapaṭisaṃvedī brahmabhūtena attanā viharatī’ ti ‘phassaṃ pariññāya anānugiddho.’
Yadattagarahī tadakubbamāno ti – Yad ti yaṃ; Attagarahī ti – dvīhi kāraṇehi attānaṃ garahati: katattā ca akatattā ca.
Kathaṃ katattā ca akatattā ca attānaṃ garahati? ‘Kataṃ me kāyaduccaritaṃ, akataṃ me kāyasucaritan ’ti attānaṃ garahati. ‘Kataṃ me vacīduccaritaṃ, akataṃ me vacīsucaritan ’ti attānaṃ garahati. ‘Kataṃ me manoduccaritaṃ, akataṃ me manosucaritan ’ti attānaṃ garahati. ‘Kato me pāṇātipāto, akatā me pāṇātipātā veramaṇī ’ti attānaṃ garahati. ‘Kataṃ me adinnādānaṃ, akatā me adinnādānā veramaṇī ’ti attānaṃ garahati. ‘Kato me kāmesu micchācāro, akatā kāmesu micchācārā veramaṇī ’ti attānaṃ garahati. ‘Kato me musāvādo, akatā me musāvādā veramaṇī ’ti attānaṃ garahati. ‘Katā me pisunā vācā, akatā me pisunāya vācāya veramaṇī ’ti attānaṃ garahati. ‘Katā me pharusā vācā, akatā me pharusāya vācāya veramaṇī ’ti attānaṃ garahati. ‘Kato me samphappalāpo, akatā me samphappalāpā veramaṇī ’ti attānaṃ garahati. ‘Katā me abhijjhā, akatā me anabhijjhā ’ti attānaṃ garahati. ‘Kato me vyāpādo, akato me avyāpādo ’ti attānaṃ garahati. ‘Katā me micchādiṭṭhi, akatā me sammādiṭṭhī ’ti attānaṃ garahati. Evaṃ katattā ca akatattā ca attānaṃ garahati. Athavā sīlesu ’mhi na paripūrakārī ’ti attānaṃ garahati. Indriyesu ’mhi aguttadvāro ’ti attānaṃ garahati. Bhojane ’mhi amattaññū ’ti attānaṃ garahati. Jāgariyaṃ ananuyuttomhī ’ti attānaṃ garahati. Satisampajaññena asamannāgato ’ti attānaṃ garahati. Abhāvitā me cattāro satipaṭṭhānā ’ti attānaṃ garahati. Abhāvitā me cattāro sammappadhānā ’ti attānaṃ garahati. Abhāvitā me cattāro iddhipādā ’ti attānaṃ garahati. Abhāvitāni me pañcindriyānī ’ti attānaṃ garahati. Abhāvitāni me pañca balānī ’ti attānaṃ garahati. Abhāvitā me satta bojjhaṅgā ’ti attānaṃ garahati. Abhāvito me ariyo aṭṭhaṅgiko maggo ’ti attānaṃ garahati. Dukkhaṃ me apariññātan ’ti attānaṃ garahati. Samudayo me appahīno ’ti attānaṃ garahati. Maggo me abhāvito ’ti attānaṃ garahati. Nirodho me asacchikato ’ti attānaṃ garahati. Evaṃ katattā ca akatattā ca attānaṃ garahati. Evaṃ attagarahikaṃ kammaṃ akubbamāno ajanayamāno asañjanayamāno anibbattayamāno anabhinibbattayamāno ’ti ‘yadattagarahī tadakubbamāno.’
Na lippati diṭṭhasutesu dhīro ti – Lepo ti dve lepā: taṇhālepo ca diṭṭhilepo ca ―pe― ayaṃ taṇhālepo ―pe― ayaṃ diṭṭhilepo.
Dhīro ti dhīro paṇḍito paññavā buddhimā ñāṇī vibhāvī medhāvī. Dhīro taṇhālepaṃ pahāya diṭṭhilepaṃ paṭinissajitvā diṭṭhe na lippati sute na lippati mute na lippati viññāte na lippati na saṃlippati na upalippati. Alitto asaṃlitto anupalitto nikkhanto nissaṭo vippamutto visaññutto vimariyādīkatena cetasā viharatī ’ti ‘na lippati diṭṭhasutesu dhīro ’ti.
Tenāha bhagavā: “Ubhosu antesu vineyya chandaṃ phassaṃ pariññāya anānugiddho yadattagarahī tadakubbamāno na lippati diṭṭhasutesu dhīro ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Nên dẹp bỏ sự mong muốn ở cả hai thái cực, sau khi biết toàn diện về xúc thì không còn thèm muốn, bản thân chê trách điều nào thì không làm điều ấy, người sáng trí không nhơ bẩn ở những điều đã được thấy đã được nghe.”
2.8
Saññaṃ pariññā vitareyya oghaṃ pariggahesu muni nopalitto, abbūḷhasallo caramappamatto
nāsiṃsatī lokamimaṃ paraṃ ca.
Sau khi biết toàn diện về tưởng, có thể băng qua dòng lũ, bậc hiền trí không bị vấy bẩn ở các sự chấp giữ, có mũi tên đã được lấy ra, không bị xao lãng trong khi hành xử, không mong ước đời này và đời khác.
Do liễu tri các tưởng,
Vượt qua khỏi bộc lưu,
Bậc Mâu-ni không nhiễm,
Ðối với mọi chấp thủ,
Với mũi tên rút ra,
Sở hành không phóng dật,
Không cầu mong đời này,
Không mong ước đời sau.
(Kinh Tập, câu kệ 779)
Saññaṃ pariññā vitareyya oghan ti – Saññā ti kāmasaññā vyāpādasaññā vihiṃsāsaññā nekkhammasaññā avyāpādasaññā avihiṃsāsaññā rūpasaññā saddasaññā gandhasaññā rasasaññā phoṭṭhabbasaññā dhammasaññā, yā evarūpā saññā sañjānanā sañjānitattaṃ, ayaṃ vuccati saññā. Saññaṃ pariññā ti – saññaṃ tīhi pariññāhi parijānitvā ñātapariññāya tīraṇapariññāya pahānapariññāya.
Sau khi biết toàn diện về tưởng, có thể băng qua dòng lũ – Tưởng: dục tưởng, hận tưởng, hại tưởng, xuất ly tưởng, vô hận tưởng, vô hại tưởng, sắc tưởng, thinh tưởng, khí tưởng, vị tưởng, xúc tưởng, pháp tưởng; sự nhận biết, sự tự nhận biết, trạng thái tự nhận biết có hình thức như thế được gọi là tưởng. Sau khi biết toàn diện về tưởng: Sau khi biết toàn diện về tưởng với ba trường hợp biết toàn diện: biết toàn diện về điều đã được biết, biết toàn diện về sự quyết đoán, biết toàn diện về sự dứt bỏ.
Katamā ñātapariññā? Saññaṃ jānāti ‘ayaṃ kāmasaññā ayaṃ vyāpādasaññā ayaṃ vihiṃsāsaññā ayaṃ nekkhammasaññā ayaṃ avyāpādasaññā ayaṃ avihiṃsāsaññā ayaṃ rūpasaññā ayaṃ saddasaññā ayaṃ gandhasaññā ayaṃ rasasaññā ayaṃ phoṭṭhabbasaññā ayaṃ dhammasaññā ’ti jānāti passati. Ayaṃ ñātapariññā.
Biết toàn diện về điều đã được biết là những gì? Biết về tưởng. Biết rằng, thấy rằng: “Cái này là dục tưởng, cái này là hận tưởng, cái này là hại tưởng, cái này là xuất ly tưởng, cái này là vô hận tưởng, cái này là vô hại tưởng, cái này là sắc tưởng, cái này là thinh tưởng, cái này là khí tưởng, cái này là vị tưởng, cái này là xúc tưởng, cái này là pháp tưởng;” điều này là sự biết toàn diện về điều đã được biết.
Katamā tīraṇapariññā? Evaṃ ñātaṃ katvā saññaṃ tīreti aniccato dukkhato rogato gaṇḍato sallato aghato ābādhato parato palokato ītito upaddavato bhayato upassaggato calato pabhaṅguto —pe— samudayato atthaṅgamato assādato ādīnavato nissaraṇato tīreti. Ayaṃ tīraṇapariññā.
Biết toàn diện về sự quyết đoán là những gì? Sau khi thực hiện điều đã được biết như thế, thì quyết đoán về tưởng, quyết đoán là vô thường, là khổ, là cơn bệnh, là mụt ghẻ, là mũi tên, là tai ương, là tật nguyền, là không sai khiến được, là tiêu hoại, là tai họa, là bất hạnh, là sợ hãi, là nguy hiểm, là thay đổi, là mảnh mai, —như trên— là nhân sanh khởi, là sự tiêu hoại, là sự khoái lạc, là sự bất lợi, là sự thoát ra; điều này là sự biết toàn diện về sự quyết đoán.
Katamā pahānapariññā? Evaṃ ñātaṃ katvā evaṃ tīrayitvā saññāya chandarāgaṃ pajahati vinodeti vyantīkaroti anabhāvaṃ gameti.
Biết toàn diện về sự dứt bỏ là những gì? Sau khi quyết đoán như vậy thì dứt bỏ, xua đi, làm chấm dứt, khiến cho không còn hiện hữu sự mong muốn và luyến ái ở tưởng.
Vuttampi hetaṃ bhagavatā:
‘Yo bhikkhave saññāya chandarāgo, taṃ pajahatha. Evaṃ sā saññā pahīnā bhavissati ucchinnamūlā tālāvatthukatā anabhāvaṃ gatā āyatiṃ anuppādadhammā ”ti. Ayaṃ pahānapariññā.
Bởi vì, điều này cũng đã được đức Thế Tôn nói đến:
“Này các tỳ khưu, cái gì là sự mong muốn và luyến ái ở tưởng, các ngươi hãy dứt bỏ cái ấy. Như vậy tưởng ấy sẽ được dứt bỏ, có rễ được cắt lìa, như cây thốt nốt bị bứng gốc, khiến cho không còn hiện hữu, không còn điều kiện sanh khởi trong tương lai;” điều này là sự biết toàn diện về sự dứt bỏ.
Saññaṃ pariññā ti saññaṃ imāhi tīhi pariññāhi parijānitvā. Vitareyya oghan ti kāmoghaṃ bhavoghaṃ diṭṭhoghaṃ avijjoghaṃ tareyya uttareyya patareyya samatikkameyya vītivatteyyā ’ti ‘saññaṃ pariññā vitareyya oghaṃ.’
Sau khi biết toàn diện về tưởng: Sau khi biết toàn diện về tưởng với ba trường hợp biết toàn diện. Có thể băng qua dòng lũ: có thể vượt, có thể vượt lên, có thể vượt hẳn, có thể vượt qua, có thể vượt bứt dòng lũ (ngũ) dục, dòng lũ của hữu, dòng lũ tà kiến, dòng lũ vô minh. ‘Sau khi biết toàn diện về tưởng, có thể băng qua dòng lũ’ là thế ấy.
Pariggahesu muni nopalitto ti – Pariggahā ti dve pariggahā: taṇhāpariggaho ca diṭṭhipariggaho ca ―pe― Ayaṃ taṇhāpariggaho ―pe― Ayaṃ diṭṭhipariggaho. Munī ti – monaṃ vuccati ñāṇaṃ, yā paññā pajānanā ―pe― amoho dhammavicayo sammādiṭṭhi, tena ñāṇena samannāgato muni monappattoti.
Bậc hiền trí không bị vấy bẩn ở các sự chấp giữ – Các sự chấp giữ: có hai sự chấp giữ: sự chấp giữ do tham ái và sự chấp giữ do tà kiến. —như trên— Điều này là chấp giữ do tham ái. —như trên— Điều này là chấp giữ do tà kiến. Bậc hiền trí: bản thể hiền trí được gọi là trí, tức là tuệ, là sự nhận biết, —như trên— không si mê, sự chọn lựa pháp, chánh kiến, được thành tựu với trí ấy bậc hiền trí đạt đến bản thể hiền trí.
Tīṇi moneyyā ti: kāyamoneyyaṃ vacīmoneyyaṃ manomoneyyaṃ.
Ba hạnh của hiền trí: hiền trí hạnh về thân, hiền trí hạnh về khẩu, hiền trí hạnh về ý.
Katamaṃ kāyamoneyyaṃ? Tividhānaṃ kāyaduccaritānaṃ pahānaṃ kāyamoneyyaṃ. Tividhaṃ kāyasucaritaṃ kāyamoneyyaṃ, kāyārammaṇe ñāṇaṃ kāyamoneyyaṃ, kāyapariññā kāyamoneyyaṃ, pariññāsahagato maggo kāyamoneyyaṃ, kāye chandarāgassa pahānaṃ kāyamoneyyaṃ, kāyasaṅkhāranirodho catutthajjhānasamāpatti kāyamoneyyaṃ. Idaṃ kāyamoneyyaṃ.
Hiền trí hạnh về thân là điều nào? Sự dứt bỏ ba loại ác hạnh về thân là hiền trí hạnh về thân, ba loại thiện hạnh về thân là hiền trí hạnh về thân, trí ở đối tượng thân là hiền trí hạnh về thân, sự biết toàn diện về thân là hiền trí hạnh về thân, Đạo đồng hành với sự biết toàn diện là hiền trí hạnh về thân, sự dứt bỏ mong muốn và luyến ái ở thân là hiền trí hạnh về thân, sự chứng đạt tứ thiền có sự diệt của thân hành là hiền trí hạnh về thân. Điều này là hiền trí hạnh về thân.
Katamaṃ vacīmoneyyaṃ? Catubbidhānaṃ vacīduccaritānaṃ pahānaṃ vacīmoneyyaṃ. Catubbidhaṃ vacīsucaritaṃ vacīmoneyyaṃ vācārammaṇe ñāṇaṃ vacīmoneyyaṃ, vācāpariññā vacīmoneyyaṃ, pariññāsahagato maggo vacīmoneyyaṃ, vācāya chandarāgassa pahānaṃ vacīmoneyyaṃ. Vacīsaṅkhāranirodho dutiyajjhānasamāpatti vacīmoneyyaṃ. Idaṃ vacīmoneyyaṃ.
Hiền trí hạnh về khẩu là điều nào? Sự dứt bỏ bốn loại ác hạnh về khẩu là hiền trí hạnh về khẩu, bốn loại thiện hạnh về khẩu là hiền trí hạnh về khẩu, trí ở đối tượng khẩu là hiền trí hạnh về khẩu, sự biết toàn diện về khẩu là hiền trí hạnh về khẩu, Đạo đồng hành với sự biết toàn diện là hiền trí hạnh về khẩu, sự dứt bỏ mong muốn và luyến ái ở khẩu là hiền trí hạnh về khẩu, sự chứng đạt nhị thiền có sự diệt của khẩu hành là hiền trí hạnh về khẩu. Điều này là hiền trí hạnh về khẩu.
Katamaṃ manomoneyyaṃ? Tividhānaṃ manoduccaritānaṃ pahānaṃ manomoneyyaṃ, tividhaṃ manosucaritaṃ manomoneyyaṃ, cittārammaṇe ñāṇaṃ manomoneyyaṃ, cittapariññā manomoneyyaṃ, pariññāsahagato maggo manomoneyyaṃ, citte chandarāgassa pahānaṃ manomoneyyaṃ, cittasaṅkhāranirodho saññāvedayitanirodhasamāpatti manomoneyyaṃ. Idaṃ manomoneyyaṃ.
Hiền trí hạnh về ý là điều nào? Sự dứt bỏ ba loại ác hạnh về ý là hiền trí hạnh về ý, ba loại thiện hạnh về ý là hiền trí hạnh về ý, trí ở đối tượng tâm là hiền trí hạnh về ý, sự biết toàn diện về tâm là hiền trí hạnh về ý, Đạo đồng hành với sự biết toàn diện là hiền trí hạnh về ý, sự dứt bỏ mong muốn và luyến ái ở tâm là hiền trí hạnh về ý, sự chứng đạt diệt thọ tưởng có sự diệt của tâm hành là hiền trí hạnh về ý. Điều này là hiền trí hạnh về ý.
1. “Kāyamuniṃ vācāmuniṃ manomunimanāsavaṃ, muniṃ moneyyasampannaṃ āhu sabbappahāyinaṃ.
1. (Chư Phật) đã nói bậc hiền trí về thân, bậc hiền trí về khẩu, bậc hiền trí về ý, bậc không còn lậu hoặc, bậc hiền trí thành tựu hiền trí hạnh là bậc có sự dứt bỏ tất cả.
2. Kāyamuniṃ vācāmuniṃ manomunimanāsavaṃ muniṃ moneyyasampannaṃ āhu ninhātapāpakan”ti.
2. (Chư Phật) đã nói bậc hiền trí về thân, bậc hiền trí về khẩu, bậc hiền trí về ý, bậc không còn lậu hoặc, bậc hiền trí thành tựu hiền trí hạnh là bậc có điều ác đã được rửa sạch.
Imehi tīhi moneyyehi dhammehi samannāgatā cha munino: agāramunino anagāramunino sekhamunino asekhamunino paccekamunino munimunino ti. Katame agāramunino? Ye te agārikā diṭṭhapadā viññātasāsanā, ime agāramunino. Katame anagāramunino? Ye te pabbajitā diṭṭhapadā viññātasāsanā, ime anagāramunino. Satta sekhā sekhamunino. Arahanto asekhamunino. Paccekabuddhā paccekamunino. Munimunino vuccanti tathāgatā arahanto sammāsambuddhā.
Được thành tựu ba pháp hiền trí hạnh này là sáu hạng hiền trí: các bậc hiền trí tại gia, các bậc hiền trí xuất gia, các bậc hiền trí Hữu Học, các bậc hiền trí Vô Học, các bậc hiền trí Độc Giác, các bậc hiền trí đích thực. Các bậc hiền trí tại gia là các hạng nào? Những người tại gia đã thấy Niết Bàn, đã nhận thức Giáo Pháp, là các bậc hiền trí tại gia. Các bậc hiền trí tại gia là các hạng nào? Những người xuất gia đã thấy Niết Bàn, đã nhận thức Giáo Pháp, là các bậc hiền trí xuất gia. Bảy hạng Hữu Học là các bậc hiền trí Hữu Học. Các vị A-la-hán là các bậc hiền trí Vô Học. Các vị Phật Độc Giác là các bậc hiền trí Độc Giác. Các đức Như Lai, A-la -hán, Chánh Đẳng Giác là các bậc hiền trí đích thực.
3. “Na monena muni hoti mūḷharūpo aviddasu, yo ca tulaṃva paggayha varamādāya paṇḍito.
3. Kẻ có dáng vẻ khờ khạo, ngu dốt, dầu với trạng thái im lặng cũng không trở thành bậc hiền trí.
Nhưng người nào, tựa như người nắm lấy cái cân rồi chọn lấy vật quý giá, là người sáng trí.
4. Pāpāni parivajjeti sa munī tena so munī, yo munāti ubho loke munī tena pavuccati.”
4. Người lánh xa hẳn các điều ác, người ấy là bậc hiền trí, do việc ấy người ấy trở thành bậc hiền trí.
Người nào hiểu rõ cả hai thế giới, do việc ấy được gọi là bậc hiền trí.
5. “Asatañca satañca ñatvā dhammaṃ ajjhattaṃ bahiddhā ca sabbaloke, devamanussehi pūjito yo saṅgajālamaticca so munī ”ti.
5. Sau khi biết được pháp của những kẻ xấu và của những người tốt, nội phần và ngoại phần, ở tất cả thế giới, vị nào, được cúng dường bởi chư Thiên và nhân loại, đã vượt qua sự ràng buộc và mạng lưới (tham ái và tà kiến), vị ấy là hiền trí.
Lepā ti – dve lepā: taṇhālepo ca diṭṭhilepo ca ―pe― Ayaṃ taṇhālepo ―pe― Ayaṃ diṭṭhilepo. Muni taṇhālepaṃ pahāya diṭṭhilepaṃ paṭinissajitvā pariggahesu na lippati na saṃlippati na upalippati alitto asaṃlitto anupalitto nikkhanto nissaṭo vippamutto visaññutto vimariyādīkatena cetasā viharatī ’ti ‘pariggahesu muni nopalitto.’
Nhơ bẩn – có hai sự nhơ bẩn: Nhơ bẩn do tham ái và nhơ bẩn do tà kiến. ―như trên― Điều này là nhơ bẩn do tham ái. ―như trên― Điều này là nhơ bẩn do tà kiến. Bậc hiền trí sau khi dứt bỏ nhơ bẩn do tham ái, sau khi xả bỏ nhơ bẩn do tà kiến, không nhơ bẩn ở các sự chấp giữ, không nhiễm bẩn, không vấy bẩn. Không bị nhơ bẩn, không bị nhiễm bẩn, không bị vấy bẩn, đã đi ra ngoài, đã được rời ra, đã được thoát khỏi, không bị ràng buộc, sống với tâm đã được làm trở thành không còn giới hạn. ‘Bậc hiền trí không bị vấy bẩn ở các sự chấp giữ’ là thế ấy.
Abbūḷhasallo caramappamatto ti – Sallan ti satta sallāni: rāgasallaṃ dosasallaṃ mohasallaṃ mānasallaṃ diṭṭhisallaṃ sokasallaṃ duccaritasallaṃ . Yassete sallā pahīnā samucchinnā vūpasantā paṭippassaddhā abhabbuppattikā ñāṇagginā daḍḍhā, so vuccati abbūḷhasallo abbūhitasallo uddhatasallo samuddhatasallo uppāṭitasallo samuppāṭitasallo cattasallo vantasallo muttasallo pahīnasallo paṭinissaṭṭhasallo nicchāto nibbuto sītibhūto sukhapaṭisaṃvedī brahmabhūtena attanā viharatī ’ti ‘abbūḷhasallo.’
Có mũi tên đã được lấy ra, không bị xao lãng trong khi hành xử – Mũi tên: Có bảy mũi tên: luyến ái là mũi tên, sân hận là mũi tên, si mê là mũi tên, ngã mạn là mũi tên, tà kiến là mũi tên, sầu muộn là mũi tên, ác hạnh là mũi tên. Đối với người nào những mũi tên này là được dứt bỏ, được trừ tuyệt, được an tịnh, được yên lặng, không thể sanh khởi nữa, đã bị thiêu đốt bởi ngọn lửa trí tuệ, người ấy được gọi là có mũi tên đã được lấy lên, có mũi tên đã được lấy ra, có mũi tên đã được nhổ lên, có mũi tên đã được nhổ ra, có mũi tên đã được rút lên, có mũi tên đã được rút ra, có mũi tên đã được từ bỏ, có mũi tên đã được ói ra, có mũi tên đã được giải thoát, có mũi tên đã được dứt bỏ, có mũi tên đã được xả bỏ, không còn thèm khát, được tịch tịnh, có trạng thái mát lạnh, có sự nhận biết lạc, sống với trạng thái cao thượng tự thân. ‘Có mũi tên đã được lấy ra’ là thế ấy.
Caran ti – caranto viharanto irīyanto vattanto pālento yapento yāpento.
Trong khi hành xử: là đang hành xử, đang sống, đang cư xử, đang vận hành, đang bảo hộ, đang duy trì, đang nuôi dưỡng.
Appamatto ti sakkaccakārī sātaccakārī aṭṭhitakārī anolīnavuttiko anikkhittachando anikkhittadhuro kusalesu dhammesu. ‘Kathāhaṃ aparipūraṃ vā sīlakkhandhaṃ paripūreyyaṃ, paripūraṃ vā sīlakkhandhaṃ tattha tattha paññāya anugaṇheyyan ’ti yo tattha chando ca vāyāmo ca ussāho ca ussoḷhī ca appaṭivāni ca sati ca sampajaññaṃ ca ātappaṃ padhānaṃ adhiṭṭhānaṃ anuyogo appamādo kusalesu dhammesu. ‘Kathāhaṃ aparipūraṃ vā samādhikkhandhaṃ paripūreyyaṃ, paripūraṃ vā samādhikkhandhaṃ tattha tattha paññāya anugaṇheyyaṃ ―pe― kusalesu dhammesu. ‘Kathāhaṃ aparipūraṃ vā paññākkhandhaṃ paripūreyyaṃ ―pe― vimuttikkhandhaṃ ―pe― vimuttiñāṇadassanakkhandhaṃ tattha tattha paññāya anugaṇheyyan ’ti yo tattha chando ca vāyāmo ca ussāho ca ussoḷhī ca appaṭivāni ca sati ca sampajaññaṃ ca ātappaṃ padhānaṃ adhiṭṭhānaṃ anuyogo appamādo kusalesu dhammesu. ‘Kathāhaṃ apariññātaṃ vā dukkhaṃ parijāneyyaṃ, appahīne vā kilese pajaheyyaṃ, abhāvitaṃ vā maggaṃ bhāveyyaṃ, asacchikataṃ vā nirodhaṃ sacchikareyyan ’ti yo tattha chando ca vāyāmo ca ussāho ca ussoḷhī ca appaṭivāni ca sati ca sampajaññaṃ ca ātappaṃ padhānaṃ adhiṭṭhānaṃ anuyogo appamādo kusalesu dhammesū ’ti ‘abbuḷhasallo caramappamatto.’
Không bị xao lãng: là có sự thực hành nghiêm trang, có sự thực hành liên tục, có sự thực hành không dừng lại, có thói quen không biếng nhác, không buông bỏ mong muốn, không buông bỏ bổn phận trong các thiện pháp. Trong trường hợp ấy, cái gì là sự mong muốn, tinh tấn, nỗ lực, gắng sức, không thối chí, niệm, sự nhận biết rõ, sự năng nỗ, cần mẫn, quyết tâm, chuyên cần, không xao lãng trong các thiện pháp rằng: ‘Bằng cách nào ta có thể làm đầy đủ giới uẩn chưa được đầy đủ, hoặc bằng trí tuệ có thể bảo vệ giới uẩn đã được đầy đủ tại chỗ này chỗ này?’ ―như trên ― trong các thiện pháp rằng: ‘Bằng cách nào ta có thể làm đầy đủ định uẩn chưa được đầy đủ, hoặc bằng trí tuệ có thể bảo vệ định uẩn đã được đầy đủ tại chỗ này chỗ này?’ Trong trường hợp ấy, cái gì là sự mong muốn, tinh tấn, nỗ lực, gắng sức, không thối chí, niệm, sự nhận biết rõ, sự năng nỗ, cần mẫn, quyết tâm, chuyên cần, không xao lãng trong các thiện pháp rằng: ‘Bằng cách nào ta có thể làm đầy đủ tuệ uẩn chưa được đầy đủ, ―như trên ― giải thoát uẩn ―như trên ― có thể làm đầy đủ tri kiến giải thoát uẩn chưa được đầy đủ, hoặc bằng trí tuệ có thể bảo vệ tri kiến giải thoát uẩn đã được đầy đủ tại chỗ này chỗ này?’ Trong trường hợp ấy, cái gì là sự mong muốn, tinh tấn, nỗ lực, gắng sức, không thối chí, niệm, sự nhận biết rõ, sự năng nỗ, cần mẫn, quyết tâm, chuyên cần, không xao lãng trong các thiện pháp rằng: ‘Bằng cách nào ta có thể biết toàn diện về Khổ chưa được biết toàn diện, hoặc có thể dứt bỏ Tập chưa được dứt bỏ, hoặc tu tập Đạo chưa được tu tập, hoặc chứng ngộ Diệt chưa được chứng ngộ?’ ‘Có mũi tên đã được lấy ra, không bị xao lãng trong khi hành xử’ là thế ấy.
Nāsiṃsatī lokamimaṃ paraṃ cā ti – Imaṃ lokaṃ nāsiṃsati sakattabhāvaṃ, paraṃ lokaṃ nāsiṃsati parattabhāvaṃ, imaṃ lokaṃ nāsiṃsati sakarūpavedanāsaññāsaṅkhāraviññāṇaṃ, paraṃ lokaṃ nāsiṃsati pararūpavedanāsaññāsaṅkhāraviññāṇaṃ, imaṃ lokaṃ nāsiṃsati cha ajjhattikāni āyatanāni, paraṃ lokaṃ nāsiṃsati cha bāhirāni āyatanāni, imaṃ lokaṃ nāsiṃsati manussalokaṃ, paraṃ lokaṃ nāsiṃsati devalokaṃ, imaṃ lokaṃ nāsiṃsati kāmadhātu, paraṃ lokaṃ nāsiṃsati rūpadhātuṃ arūpadhātuṃ, imaṃ lokaṃ nāsiṃsati kāmadhātuṃ rūpadhātuṃ, paraṃ lokaṃ nāsiṃsati arūpadhātuṃ, punagatiṃ vā uppattiṃ vā paṭisandhiṃ vā bhavaṃ vā saṃsāraṃ vā vaṭṭaṃ vā nāsiṃsati na icchati na sādiyati na pattheti na piheti nābhijappatī ’ti ‘nāsiṃsatī lokamimaṃ paraṃ cā ’ti.
Không mong ước đời này và đời khác – Không mong ước đời này tức là bản ngã của bản thân, không mong ước đời khác tức là bản ngã ở đời khác, không mong ước đời này tức là sắc thọ tưởng hành thức của bản thân, không mong ước đời khác tức là sắc thọ tưởng hành thức ở đời khác, không mong ước đời này tức là sáu nội xứ, không mong ước đời khác tức là sáu ngoại xứ, không mong ước đời này tức là thế giới loài người, không mong ước đời khác tức là thế giới chư Thiên, không mong ước đời này tức là dục giới, không mong ước đời khác tức là sắc giới, vô sắc giới, không mong ước đời này tức là dục giới, sắc giới, không mong ước đời khác tức là vô sắc giới, không mong ước, không ước muốn, không ưng thuận, không ước nguyện, không mong cầu, không quá tham muốn cảnh giới tái sinh, sự tái sinh, sự nối liền tái sanh, sự hiện hữu, sự luân hồi, hoặc sự xoay vòng. ‘Không mong ước đời này và đời khác’ là thế ấy.
Tenāha bhagavā:
“Saññaṃ pariññā vitareyya oghaṃ pariggahesu muni nopalitto, abbūḷhasallo caramappamatto nāsiṃsatī lokamimaṃ paraṃ cā ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Sau khi biết toàn diện về tưởng, có thể băng qua dòng lũ, bậc hiền trí không bị vấy bẩn ở các sự chấp giữ, có mũi tên đã được lấy ra, không bị xao lãng trong khi hành xử, không mong ước đời này và đời khác.”
Guhaṭṭhakasuttaniddeso dutiyo.
Diễn Giải Kinh Nhóm Tám về Hang là thứ nhì.
3. DUṬṬHAṬṬHAKASUTTANIDDESO – DIỄN GIẢI KINH NHÓM TÁM VỀ XẤU XA
Atha duṭṭhaṭṭhakasuttaniddesaṃ vakkhati:
Giờ sẽ nói đến Diễn Giải Kinh Nhóm Tám về Xấu Xa:
3.1
Vadanti ve duṭṭhamanāpi eke
athopi ve saccamanā vadanti,
vādaṃ ca jātaṃ muni no upeti
tasmā munī natthi khīlo kuhiñci.
Thật vậy, một số người nói xấu với tâm ý xấu xa.
Quả vậy, một số người có tâm ý chân thật cũng nói xấu.
Bậc hiền trí không tiếp cận lời nói xấu đã khởi lên,
bởi vậy bậc hiền trí không có bợn nhơ ở bất cứ đâu.
(III) Kinh Sân Hận tám kệ (Sn 153)
Thật có một số người
Nói lên với ác ý,
Và thật cũng có người,
Nói lên ý chân thật.
Dầu có lời nói gì,
ẩn sĩ không liên hệ,
Do vậy bậc Mâu-ni,
Không chỗ nào hoang vu.
(Kinh Tập, câu kệ 780)
Vadanti ve duṭṭhamanāpi eke ti – Eke titthiyā duṭṭhamanā paduṭṭhamanā viruddhamanā paṭiviruddhamanā āhatamanā paccāhatamanā āghātitamanā paccāghātitamanā vadanti upavadanti bhagavantaṃ ca bhikkhusaṅghaṃ ca abhūtenā ’ti ‘vadanti ve duṭṭhamanāpi eke.’
Athopi ve saccamanā vadantī ti – Ye tesaṃ titthiyānaṃ saddahantā okappentā adhimuccantā saccamanā saccasaññino bhūtamanā bhūtasaññino tathamanā tathasaññino yāthāvamanā yāthāvasaññino aviparītamanā aviparītasaññino vadanti upavadanti bhagavantañca bhikkhusaṅghaṃ ca abhūtenā ’ti ‘athopi ve saccamanā vadanti.’
Vādaṃ ca jātaṃ muni no upetī ti – So vādo jāto hoti sañjāto nibbatto abhinibbatto pātubhūto, paratoghoso akkoso upavādo bhagavato ca bhikkhusaṅghassa ca abhūtenā ’ti ‘vādaṃ ca jātaṃ.’
Muni no upetī ti – Munī ti monaṃ vuccati ñāṇaṃ, yā paññā pajānanā amoho dhammavicayo sammādiṭṭhi, tena ñāṇena samannāgato muni monappatto ―pe― saṅgajālamaticca so muni. Yo vādaṃ upeti, so dvīhi kāraṇehi vādaṃ upeti: kārako kārakatāya vādaṃ upeti; athavā vuccamāno upavadiyamāno kuppati vyāpajjati patitthīyati kopañca dosañca appaccayañca pātukaroti akārakomhīti. Yo vādaṃ upeti, so imehi dvīhi kāraṇehi vādaṃ upeti. Muni dvīhi kāraṇehi vādaṃ na upeti: akārako muni akārakatāya vādaṃ na upeti. Athavā vuccamāno upavadiyamāno na kuppati na vyāpajjati na patitthīyati, na kopañca dosañca appaccayañca pātukaroti akārakomhīti. Muni imehi dvīhi kāraṇehi vādaṃ na upeti na upagacchati na gaṇhāti na parāmasati na abhinivisatī ’ti ‘vādañca jātaṃ muni no upeti.’
Tasmā munī natthi khīlo kuhiñcī ti – Tasmā ti tasmā taṃkāraṇā taṃhetu tappaccayā tannidānā munino āhatacittatā khilajātatāpi natthi, pañcapi cete khīlā natthi. Tayopi khīlā natthi: rāgakhīlo dosakhīlo mohakhīlo natthi [na santi] na saṃvijjati nūpalabbhati pahīno samucchinno vūpasanto paṭippassaddho abhabbuppattiko ñāṇagginā daḍḍho. Kuhiñcī ti – kuhiñci kimhici katthaci, ajjhattaṃ vā bahiddhā vā ajjhattabahiddhā vā ’ti ‘tasmā munī natthi khīlo kuhiñcī ’ti.
Tenāha bhagavā:
“Vadanti ve duṭṭhamanāpi eke athopi ve saccamanā vadanti, vādaṃ ca jātaṃ muni no upeti tasmā munī natthi khīlo kuhiñcī ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Thật vậy, một số người nói xấu với tâm ý xấu xa.
Quả vậy, một số người có tâm ý chân thật cũng nói xấu.
Bậc hiền trí không tiếp cận lời nói xấu đã khởi lên,
bởi vậy bậc hiền trí không có bợn nhơ ở bất cứ đâu.”
3.2
Sakaṃ hi diṭṭhiṃ kathamaccayeyya chandānunīto ruciyā niviṭṭho, sayaṃ samattāni pakubbamāno
yathā hi jāneyya tathā vadeyya.
Bị dẫn dắt bởi lòng mong muốn, đã đi theo sự ưa thích, trong khi tự mình làm cho (các quan điểm trở nên) đầy đủ, làm thế nào có thể vượt quá quan điểm của chính mình? Bởi vì biết như thế nào thì nên nói như thế ấy.
Người ước muốn dắt dẫn,
Thiên trú điều sở thích,
Làm sao từ bỏ được,
Ðiều tà kiến của mình,
Khi tự mình tác thành,
Quan điểm riêng của mình,
Như điều nọ được biết,
Hãy để nó nói vậy.(Kinh Tập, câu kệ 781)
Sakaṃ hi diṭṭhiṃ kathamaccayeyyā ti – Ye te titthiyā sundariṃ paribbājikaṃ hantvā samaṇānaṃ sakyaputtiyānaṃ avaṇṇaṃ pakāsayitvā ‘evaṃ etaṃ lābhaṃ yasaṃ sakkāraṃ sammānaṃ paccāharissāmā ’ti te evaṃdiṭṭhikā evaṃkhantikā evaṃrucikā evaṃladdhikā evaṃajjhāsayā evamadhippāyā, te nāsakkhiṃsu sakaṃ diṭṭhiṃ sakaṃ khantiṃ sakaṃ ruciṃ sakaṃ laddhiṃ sakaṃ ajjhāsayaṃ sakaṃ adhippāyaṃ atikkamituṃ. Atha kho sveva ayaso te paccāgatoti. Evampi sakaṃ diṭṭhiṃ kathamaccayeyya. Athavā ‘sassato loko idameva saccaṃ moghamaññan ’ti yo so evaṃvādo so sakaṃ diṭṭhiṃ sakaṃ khantiṃ sakaṃ ruciṃ sakaṃ laddhiṃ sakaṃ ajjhāsayaṃ sakaṃ adhippāyaṃ kathaṃ accayeyya atikkameyya samatikkameyya vītivatteyya? Taṃ kissa hetu? Tassa sā diṭṭhi tathā samattā samādinnā gahitā parāmaṭṭhā abhiniviṭṭhā ajjhositā adhimuttāti. Evampi ‘sakañhi diṭṭhiṃ kathamaccayeyya. Athavā ‘asassato loko, antavā loko, anantavā loko, taṃ jīvaṃ taṃ sarīraṃ, aññaṃ jīvaṃ aññaṃ sarīraṃ, hoti tathāgato parammaraṇā, na hoti tathāgato parammaraṇā, hoti ca na hoti ca tathāgato parammaraṇā, neva hoti na na hoti tathāgato parammaraṇā, idameva saccaṃ moghamaññan ’ti yo so evaṃvādo, so sakaṃ diṭṭhi sakaṃ khantiṃ sakaṃ ruciṃ sakaṃ laddhiṃ sakaṃ ajjhāsayaṃ sakaṃ adhippāyaṃ kathaṃ accayeyya atikkameyya samatikkameyya vītivatteyya; taṃ kissa hetu? Tassa sā diṭṭhi tathā samattā samādinnā gahitā parāmaṭṭhā abhiniviṭṭhā ajjhositā adhimuttāti. Evampi ‘sakaṃ hi diṭṭhiṃ kathamaccayeyya.’
Chandānunīto ruciyā niviṭṭho ti – Chandānunīto ti sakāya diṭṭhiyā sakāya khantiyā sakāya ruciyā sakāya laddhiyā yāyati nīyati vuyhati saṃharīyati. Yathā hatthiyānena vā assayānena vā goyānena vā meṇḍakayānena vā oṭṭhayānena vā yāyati niyyati vuyhati saṃharīyati, evamevaṃ sakāya diṭṭhiyā sakāya khantiyā sakāya ruciyā sakāya laddhiyā yāyati niyyati vuyhati saṃharīyatī ’ti ‘chandānunīto.’
Ruciyā niviṭṭho ti sakāya diṭṭhiyā sakāya khantiyā sakāya ruciyā sakāya laddhiyā niviṭṭho patiṭṭhito allīno upāgato ajjhosito adhimutto ’ti ‘chandānunīto ruciyā niviṭṭho.’
Sayaṃ samattāni pakubbamāno ti – Sayaṃ samattaṃ karoti, paripuṇṇaṃ karoti, anomaṃ karoti, aggaṃ seṭṭhaṃ viseṭṭhaṃ pāmokkhaṃ uttamaṃ pavaraṃ karoti; ‘ayaṃ satthā sabbaññū ’ti sayaṃ samattaṃ karoti, paripuṇṇaṃ karoti, anomaṃ karoti, aggaṃ seṭṭhaṃ viseṭṭhaṃ pāmokkhaṃ uttamaṃ pavaraṃ karoti; ‘ayaṃ dhammo svākkhāto, ayaṃ gaṇo supaṭipanno, ayaṃ diṭṭhi bhaddikā, ayaṃ paṭipadā supaññattā, ayaṃ maggo niyyāṇiko ’ti sayaṃ samattaṃ karoti, paripuṇṇaṃ karoti, anomaṃ karoti, aggaṃ seṭṭhaṃ viseṭṭhaṃ pāmokkhaṃ uttamaṃ pavaraṃ karoti janeti sañjaneti nibbatteti abhinibbattetī ’ti ‘sayaṃ samattāni pakubbamāno.’
Yathā hi jāneyya tathā vadeyyā ti – Yathā jāneyya tathā vadeyya katheyya bhaṇeyya dīpeyya vohareyya. ‘Sassato loko, idameva saccaṃ, moghamaññan ’ti yathā jāneyya, tathā vadeyya katheyya bhaṇeyya dīpeyya vohareyya. ‘Asassato loko —pe— Neva hoti na na hoti tathāgato parammaraṇā, idameva saccaṃ moghamaññan ’ti yathā jāneyya, tathā vadeyya katheyya bhaṇeyya dīpeyya vohareyyā ’ti ‘yathā hi jāneyya tathā vadeyya.’
Tenāha bhagavā:
“Sakaṃ hi diṭṭhiṃ kathamaccayeyya chandānunīto ruciyā niviṭṭho, sayaṃ samattāni pakubbamāno yathā hi jāneyya tathā vadeyyā ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Bị dẫn dắt bởi lòng mong muốn, đã đi theo sự ưa thích, trong khi tự mình làm cho (các quan điểm trở nên) đầy đủ, làm thế nào có thể vượt quá quan điểm của chính mình? Bởi vì biết như thế nào thì nên nói như thế ấy.
3.3
Yo attano sīlavatāni jantu anānupuṭṭhova paresaṃ pāvā, anariyadhammaṃ kusalā tamāhu yo ātumānaṃ sayameva pāvā.
Người nào, dầu không được hỏi đến, mà nói với những người khác về giới và phận sự của bản thân, người nào tự chính mình nói về bản thân, các bậc thiện xảo đã nói vị ấy là không có Thánh pháp.Người không có ai hỏi,
Lại nói cho người khác,
Biết đến những giới cấm,
Của tự cá nhân mình.
Bậc thiện xảo nói rằng,
Như vậy không Thánh pháp,
Nếu ai tự nói lên
Lời tán thán tự ngã.(Kinh Tập, câu kệ 782)
Yo attano sīlavatāni jantū ti – Yo ti yo yādiso yathāyutto yathāvihito yathāppakāro yaṃ ṭhānaṃ patto yaṃdhammasamannāgato khattiyo vā brāhmaṇo vā vesso vā suddo vā gahaṭṭho vā pabbajito vā devo vā manusso vā. Sīlabbatānī ti atthi sīlaṃ ceva vataṃ ca, atthi vataṃ na sīlaṃ.
Katamaṃ sīlaṃ ceva vataṃ ca? Idha bhikkhu sīlavā hoti pātimokkha-saṃvarasaṃvuto viharati ācāragocarasampanno aṇumattesu vajjesu bhayadassāvī samādāya sikkhati sikkhāpadesu, yo tattha saññamo saṃvaro anatikkamo, idaṃ sīlaṃ. Yaṃ samādānaṃ, taṃ vataṃ. Saṃvaraṭṭhena sīlaṃ, samādānaṭṭhena vataṃ. Idaṃ vuccati sīlaṃ ceva vataṃ ca.
Katamaṃ vataṃ na sīlaṃ? Aṭṭha dhutaṅgāni: āraññikaṅgaṃ piṇḍapātikaṅgaṃ paṃsukūlikaṅgaṃ tecīvarikaṅgaṃ sapadānacārikaṅgaṃ khalupacchābhattikaṅgaṃ nesajjikaṅgaṃ yathāsanthatikaṅgaṃ, idaṃ vuccati vataṃ na sīlaṃ. Viriyasamādānampi vuccati vataṃ na sīlaṃ. “Kāmaṃ taco ca nahāru ca aṭṭhi ca avasissatu sarīre upasussatu maṃsalohitaṃ, yaṃ taṃ purisathāmena purisabalena purisaviriyena purisaparakkamena pattabbaṃ, na taṃ apāpuṇitvā viriyassa santhānaṃ bhavissatī”ti cittaṃ paggaṇhāti padahati. Evarūpaṃ viriyasamādānaṃ vuccati vataṃ na sīlaṃ.
1. “Nāsissaṃ na pivissāmi vihārato na nikkhame, napi passaṃ nipātessaṃ taṇhāsalle anūhate ”ti.
Cittaṃ paggaṇhāti padahati, evarūpampi viriyasamādānaṃ vuccati vataṃ na sīlaṃ. ‘Na tāvāhaṃ imaṃ pallaṅkaṃ bhindissāmi, yāva me na anupādāya āsavehi cittaṃ vimuccissatī ’ti cittaṃ paggaṇhāti padahati. Evarūpaṃ viriyasamādānaṃ vuccati vataṃ na sīlaṃ. ‘Na tāvāhaṃ imamhā āsanā vuṭṭhahissāmi, caṅkamā orohissāmi, vihārā nikkhamissāmi, aḍḍhayogā nikkhamissāmi, pāsādā nikkhamissāmi, hammiyā nikkhamissāmi, guhāya nikkhamissāmi, leṇā nikkhamissāmi, kuṭiyā nikkhamissāmi, kūṭāgārā nikkhamissāmi, aṭṭā nikkhamissāmi, māḷā nikkhamissāmi, uddaṇḍā nikkhamissāmi, upaṭṭhānasālāya nikkhamissāmi, maṇḍapā nikkhamissāmi, rukkhamūlā nikkhamissāmi yāva me na anupādāya āsavehi cittaṃ vimuccissatī ’ti cittaṃ paggaṇhāti padahati. Evarūpaṃ viriyasamādānaṃ vuccati vataṃ na sīlaṃ. ‘Imasmiṃyeva pubbaṇhasamayaṃ ariyadhammaṃ āharissāmi samāharissāmi adhigacchissāmi phassayissāmi sacchikarissāmī ’ti cittaṃ paggaṇhāti padahati. Evarūpaṃ4 viriyasamādānaṃ vuccati vataṃ na sīlaṃ, ‘Imasmiṃyeva majjhantikasamayaṃ —pe— sāyanhasamayaṃ — purebhattaṃ — pacchābhattaṃ — purimaṃ yāmaṃ — majjhimaṃ yāmaṃ — pacchimaṃ yāmaṃ — kāle — juṇhe — vasse — hemante — gimhe — purime vayokhandhe — majjhime vayokhandhe — pacchime vayokhandhe ariyadhammaṃ āharissāmi samāharissāmi adhigacchissāmi phassayissāmi sacchikarissāmī ’ti cittaṃ paggaṇhāti padahati. Evarūpampi viriyasamādānaṃ vuccati vataṃ na sīlaṃ. Jantū ti satto naro mānavo poso puggalo jīvo jāgu jantu indagū hindagū manujo ’ti ‘yo attano sīlavatāni jantu.’
Anānupuṭṭho va paresaṃ pāvā ti – Paresan ti paresaṃ khattiyānaṃ brāhmaṇānaṃ vessānaṃ suddānaṃ gahaṭṭhānaṃ pabbajitānaṃ devānaṃ manussānaṃ. Anānupuṭṭho ti apuṭṭho apucchito ayācito anajjhesito apasādito.Pāvā ti attano sīlaṃ vā vataṃ vā sīlabbataṃ vā pāvadati: Ahamasmi sīlasampannoti vā vatasampannoti vā sīlabbatasampannoti vā, jātiyā vā gottena vā kolaputtiyena vā vaṇṇapokkharatāya vā dhanena vā ajjhenena vā kammāyatanena vā sippāyatanena vā vijjāṭṭhānena vā sutena vā paṭibhāṇena vā aññataraññatarena vā vatthunā, uccākulā pabbajitoti vā mahākulā pabbajitoti vā mahābhogakulā pabbajitoti vā uḷārabhogakulā pabbajitoti vā, ñāto yasassī sagahaṭṭhapabbajitānanti vā, lābhimhi cīvara-piṇḍapāta-senāsana-gilānappaccayabhesajja-parikkhārānanti vā, vinayadharoti vā dhammakathikoti vā āraññikoti vā rukkhamūlikoti vā piṇḍapātikoti vā paṃsukūlikoti vā tecīvarikoti vā sapadānacārikoti vā khalupacchābhattikoti vā nesajjikoti vā yathāsanthatikoti vā, paṭhamassa jhānassa lābhīti vā dutiyassa jhānassa lābhīti vā tatiyassa jhānassa lābhīti vā catutthassa jhānassa lābhīti vā ākāsānañcāyatanasamāpattiyā lābhīti vā viññāṇañcāyatanasamāpattiyā lābhīti vā ākiñcaññāyatanasamāpattiyā lābhīti vā nevasaññānāsaññāyatanasamāpattiyā lābhīti vā pāvadati katheti bhaṇati dīpayati voharatī ’ti ‘anānupuṭṭhova paresaṃ pāvā.’
Anariyadhammaṃ kusalā tamāhū ti – Kusalā ti ye te khandhakusalā dhātukusalā āyatanakusalā paṭiccasamuppādakusalā satipaṭṭhānakusalā sammappadhānakusalā iddhipādakusalā indriyakusalā balakusalā bojjhaṅgakusalā maggakusalā phalakusalā nibbānakusalā; te kusalā evamāhaṃsu: Anariyānaṃ eso dhammo, neso dhammo ariyānaṃ, bālānaṃ eso dhammo, neso dhammo paṇḍitānaṃ, asappurisānaṃ eso dhammo, neso dhammo sappurisānanti evamāhaṃsu evaṃ kathenti evaṃ bhaṇanti evaṃ dīpayanti evaṃ voharantī ’ti ‘anariyadhammaṃ kusalā tamāhu.’
Yo ātumānaṃ sayameva pāvā ti – Ātumā vuccati attā. Sayameva pāvā ti sayameva attānaṃ pāvadati: Ahamasmi sīlasampannoti vā vatasampannoti vā sīlabbatasampannoti vā, jātiyā vā gottena vā kolaputtiyena vā vaṇṇapokkharatāya vā dhanena vā ajjhenena vā sippāyatanena vā vijjāṭṭhānena vā sutena vā paṭibhāṇena vā aññataraññatarena vā vatthunā, uccākulā pabbajitoti vā mahākulā pabbajitoti vā mahābhogakulā pabbajitoti vā uḷārabhogakulā pabbajitoti vā, ñāto yasassī sagahaṭṭhapabbajitānanti vā, lābhīmhi cīvara-piṇḍapāta-senāsana-gilānappaccayabhesajja-parikkhārānanti vā, suttantikoti vā vinayadharoti vā dhammakathikoti vā āraññikoti vā piṇḍapātikoti vā paṃsukūlikoti vā tecīvarikoti vā sapadānacārikoti vā khalupacchābhattikoti vā nesajjikoti vā yathāsanthikoti vā paṭhamassa jhānassa lābhīti vā dutiyassa jhānassa lābhīti vā tatiyassa jhānassa lābhīti vā catutthassa jhānassa lābhīti vā ākāsānañcāyatanasamāpattiyā lābhīti vā viññāṇañcāyatanasamāpattiyā lābhīti vā ākiñcaññāyatanasamāpattiyā lābhīti vā nevasaññānāsaññāyatanasamāpattiyā lābhīti vā pāvadati katheti bhaṇati dīpayati voharatī ’ti ‘yo ātumānaṃ sayameva pāvā ’ti.
Tenāha bhagavā:
“Yo attano sīlavatāni jantu anānupuṭṭhova paresaṃ pāvā, anariyadhammaṃ kusalā tamāhu yo ātumānaṃ sayameva pāvā ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
Người nào, dầu không được hỏi đến, mà nói với những người khác về giới và phận sự của bản thân, người nào tự chính mình nói về bản thân, các bậc thiện xảo đã nói vị ấy là không có Thánh pháp.
3.4
Santo ca bhikkhu abhinibbutatto itihanti sīlesu akatthamāno, tamariyadhammaṃ kusalā vadanti yassussadā natthi kuhiñci loke.
Và vị tỳ khưu an tịnh, có trạng thái đã được hoàn toàn diệt tắt, không khoe khoang về các giới rằng: ‘Tôi là thế này,’ đối với vị nào không có sự tích tụ ở bất cứ đâu ở thế gian, các bậc thiện xảo nói vị ấy là có Thánh pháp.
Vị Tỷ-kheo an tịnh,
Sống hết sức tịch tịnh,
Khi tán thán giới đức,
Không nói “Tôi là vậy”.
Bậc thiện xảo nói rằng
Như vậy là Thánh pháp
Với vị ấy đề cao,
Ở đời, không khởi lên.
(Kinh Tập, câu kệ 783)
Santo ca bhikkhu abhinibbutatto ti – Santo ti rāgassa samitattā santo, dosassa samitattā santo, mohassa samitattā santo, kodhassa, upanāhassa, makkhassa, palāsassa, issāya, macchariyassa, māyāya, sāṭheyyassa, thambhassa, sārambhassa, mānassa, atimānassa, madassa, pamādassa, sabbakilesānaṃ, sabbaduccaritānaṃ, sabbasantāpānaṃ, sabbākusalābhisaṅkhārānaṃ santattā samitattā vūpasamitattā vijjhātattā nibbutattā vigatattā paṭippassaddhattā santo upasanto vūpasanto nibbuto paṭippassaddho ’ti ‘santo.’ Bhikkhū ti sattannaṃ dhammānaṃ bhinnattā bhikkhu: sakkāyadiṭṭhi bhinnā hoti, vicikicchā bhinnā hoti, sīlabbataparāmāso bhinno hoti, rāgo bhinno hoti, doso bhinno hoti, moho bhinno hoti, māno bhinno hoti, bhinnāssa honti pāpakā akusalā dhammā saṅkilesikā ponobhavikā sadarā dukkhavipākā āyatiṃ jātijarāmaraṇiyā.
1. “Pajjena katena attanā (sabhiyāti bhagavā) parinibbānagato vitiṇṇakaṅkho vibhavaṃ bhavaṃ ca vippahāya
vusitavā khīṇapunabbhavo sa bhikkhū ”ti.
(Đức Thế Tôn dạy Sabhiya):
Với đường lối đã được thực hành bởi bản thân, đã đạt đến sự hoàn toàn tịch diệt, có sự hoài nghi đã được xa lìa, sau khi dứt bỏ hẳn hữu và phi hữu, vị tỳ khưu ấy đã sống (Phạm hạnh), có sự tái sanh đã được cạn kiệt.
Santo ca bhikkhu abhinibbutatto ti – rāgassa nibbāpitattā abhinibbutatto; dosassa nibbāpitattā abhinibbutatto; mohassa nibbāpitattā abhinibbutatto; kodhassa, upanāhassa, makkhassa, palāsassa, issāya, macchariyassa, māyāya, sāṭheyyassa, thambhassa, sārambhassa, mānassa, atimānassa, madassa, pamādassa, sabbakilesānaṃ, sabbaduccaritānaṃ, sabbadarathānaṃ, sabbapariḷāhānaṃ, sabbasantāpānaṃ, sabbākusalābhisaṅkhārānaṃ nibbāpitattā abhinibbutatto ’ti ‘santo ca bhikkhu abhinibbutatto.’
Itihanti sīlesu akatthamāno ti – Itihan ti padasandhi padasaṃsaggo padapāripūri. Akkharasamavāyo vyañjanasiliṭṭhatā padānupubbatāpetaṃ itihanti. Sīlesu akatthamāno ti idhekacco katthī hoti vikatthī ; so katthati ‘ahamasmi sīlasampanno’ti vā ‘vatasampanno’ti vā ‘sīlabbatasampanno’ti vā, jātiyā vā gottena vā kolaputtiyena vā vaṇṇapokkharatāya vā —pe— nevasaññānāsaññāyatanasamāpattiyā lābhīti vā katthati vikatthati, evaṃ na katthati na vikatthati, katthanā ārato virato paṭivirato nikkhanto nissaṭo vippamutto visaññutto vimariyādīkatena cetasā viharatī ’ti ‘itihanti sīlesu akatthamāno.’
Tamariyadhammaṃ kusalā vadantī ti – Kusalā ti ye te khandhakusalā dhātukusalā āyatanakusalā paṭiccasamuppādakusalā satipaṭṭhānakusalā sammappadhānakusalā iddhipādakusalā indriyakusalā balakusalā bojjhaṅgakusalā maggakusalā phalakusalā nibbānakusalā, te kusalā evaṃ vadanti: ‘Ariyānaṃ eso dhammo; neso dhammo anariyānaṃ. Paṇḍitānaṃ eso dhammo; neso dhammo bālānaṃ. Sappurisānaṃ eso dhammo; neso dhammo asappurisānan ’ti evaṃ vadanti, evaṃ kathenti, evaṃ bhaṇanti, evaṃ dīpayanti, evaṃ voharantī ’ti ‘tamariyadhammaṃ kusalā vadanti.’
Yassussadā natthi kuhiñci loke ti – Yassā ti arahato khīṇāsavassa. Ussadā ti sattussadā: rāgussado dosussado mohussado mānussado diṭṭhussado kilesussado kammussado. Tassime ussadā natthi na saṃvijjanti nūpalabbhanti pahīnā samucchinnā vūpasantā paṭippassaddhā abhabbuppattikā ñāṇagginā daḍḍhā. Kuhiñcī ti – kuhiñci kimhici katthaci ajjhattaṃ vā bahiddhā vā ajjhattabahiddhā vā. Loke ti – apāyaloke manussaloke devaloke khandhaloke āyatanaloke ’ti ‘yassussadā natthi kuhiñci loke ’ti.
Tenāha bhagavā: “Santo ca bhikkhu abhinibbutatto itihanti sīlesu akatthamāno, tamariyadhammaṃ kusalā vadanti yassussadā natthi kuhiñci loke ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Và vị tỳ khưu an tịnh, có trạng thái đã được hoàn toàn diệt tắt, không khoe khoang về các giới rằng: ‘Tôi là thế này,’ đối với vị nào không có sự tích tụ ở bất cứ đâu ở thế gian, các bậc thiện xảo nói vị ấy là có Thánh pháp.”
3.5
Pakappitā saṅkhatā yassa dhammā purekkhatā santi avevadātā, yadattanī passati ānisaṃsaṃ tannissito kuppapaṭiccasantiṃ.
Các pháp của người nào được xét đoán, được tạo tác, được chú trọng, là (các pháp) không trong sạch, (người ấy) nhìn thấy điều nào là việc lợi ích cho bản thân, rồi đã nương vào điều ấy, (là) sự an tịnh bị thay đổi, tùy theo điều kiện.
Với những ai các pháp,
Ðược sửa soạn tác thành,
Ðược đặt ra phía trước,
Không phải không tranh luận,
Khi đã thấy lợi ích,
Trên tự thân của mình,
Y đấy, duyên dao động,
Ðạt được sự tịch tịnh.
(Kinh Tập, câu kệ 784)
Pakappitā saṅkhatā yassa dhammā ti – Pakappanā ti dve pakappanā: taṇhāpakappanā ca diṭṭhipakappanā ca ―pe― Ayaṃ taṇhāpakappanā ―pe―Ayaṃ diṭṭhipakappanā, imā dve pakappanā. Saṅkhatā ti – saṅkhatā visaṅkhatā abhisaṅkhatā saṇṭhāpitā’ti pi saṅkhatā, athavā aniccā saṅkhatā paṭiccasamuppannā khayadhammā vayadhammā virāgadhammā nirodhadhammāti pi saṅkhatā. Yassā ti – diṭṭhigatikassa. Dhammā vuccanti dvāsaṭṭhidiṭṭhigatānī ’ti ‘pakappitā saṅkhatā yassa dhammā.’
Các pháp của người nào được xét đoán, được tạo tác: Sự xét đoán – Có hai sự xét đoán: xét đoán do tham ái và xét đoán do tà kiến. ―như trên― điều này là xét đoán do tham ái. ―như trên― điều này là xét đoán do tà kiến. Đây là hai sự xét đoán. Được tạo tác: được tạo tác, được tác thành, được sửa soạn, được thành lập, như thế cũng là được tạo tác. Hoặc các pháp hoại, các pháp diệt, các pháp lìa khỏi luyến ái, các pháp diệt tắt là không thường còn, được tạo tác, được sanh lên tùy theo điều kiện, như thế cũng là được tạo tác. Của người nào: của người có tà kiến.Các pháp gọi là 62 tà kiến. ‘Các pháp của người nào được xét đoán, được tạo tác’ là thế ấy.
Purekkhatā santi avevadātā ti – Purekkhatā ti dve purekkhārā: taṇhāpurekkhāro ca diṭṭhipurekkhāro ca ―pe― ayaṃ taṇhāpurekkhāro ―pe― ayaṃ diṭṭhipurekkhāro. Tassa taṇhāpurekkhāro appahīno diṭṭhipurekkhāro appaṭinissaṭṭho. Tassa taṇhāpurekkhārassa appahīnattā diṭṭhipurekkhārassa appaṭinissaṭṭhattā so taṇhaṃ vā diṭṭhiṃ vā purato katvā carati, taṇhādhajo taṇhāketu taṇhādhipateyyo, diṭṭhidhajo diṭṭhiketu diṭṭhādhipateyyo, taṇhāya vā diṭṭhiyā vā parivārito caratī ’ti ‘purekkhatā.’ Santī ti santi saṃvijjanti atthi upalabbhanti. Avevadātā ti avevadātā avodātā aparisuddhā saṃkiliṭṭhā saṃkilesikā ’ti ‘purekkhatā santi avevadātā.’
Được chú trọng, là (các pháp) không trong sạch: Được chú trọng – Có hai sự chú trọng: chú trọng do tham ái và chú trọng do tà kiến. ―như trên― đều này là chú trọng do tham ái. ―như trên― điều này là chú trọng do tà kiến. Đối với vị ấy, sự chú trọng do tham ái không bị dứt bỏ, sự chú trọng do tà kiến không bị xả bỏ. Đối với vị ấy, do không dứt bỏ sự chú trọng do tham ái, do không xả bỏ sự chú trọng do tà kiến, người ấy sống, chú trọng cho tham ái hoặc tà kiến, có tham ái là ngọn cờ, có tham ái là biểu hiện, có tham ái là chủ đạo, có tà kiến là ngọn cờ, có tà kiến là biểu hiện, có tà kiến là chủ đạo, sống được vây quanh bởi tham ái hoặc bởi tà kiến. Là: là (nghĩa là) được biết đến, có, được nhận lấy. Không trong sạch: không trong sạch (nghĩa là) không trong trắng, không thanh tịnh, bị ô nhiễm, liên quan phiền não. ‘Được chú trọng, là (các pháp) không trong sạch’ là thế ấy
Yadattanī passati ānisaṃsan ti – Yadattanī ti yaṃ attani. Attā vuccati diṭṭhigataṃ. Attano diṭṭhiyā dve ānisaṃse passati: diṭṭhadhammikañca ānisaṃsaṃ samparāyikañca ānisaṃsaṃ.
(Người ấy) nhìn thấy điều nào là việc lợi ích cho bản thân – Điều nào … cho bản thân: điều nào ở bản thân. Bản thân: đề cập đến việc đã theo tà kiến. Do tà kiến của bản thân, (người ấy) nhìn thấy hai sự lợi ích: lợi ích ở đời hiện tại và lợi ích ở đời vị lai.
Katamo diṭṭhiyā diṭṭhadhammiko ānisaṃso? Yaṃdiṭṭhiko satthā hoti, taṃdiṭṭhikā sāvakā honti. Taṃdiṭṭhikaṃ satthāraṃ sāvakā sakkaronti garukaronti mānenti pūjenti apacitiṃ karonti. Labhati ca tato nidānaṃ cīvarapiṇḍapātasenāsanagilānapaccayabhesajjaparikkhāraṃ. Ayaṃ diṭṭhiyā diṭṭhadhammiko ānisaṃso.
Lợi ích ở đời hiện tại do tà kiến là lợi ích nào? Vị thầy có quan điểm nào thì các đệ tử có cùng quan điểm ấy. Các đệ tử trọng vọng, cung kính, sùng bái, cúng dường, nể nang vị thầy có quan điểm ấy. Và do điều đó (vị thầy) nhận được các vật dụng về y phục, vật thực, chỗ trú ngụ, và thuốc men chữa bệnh. Điều này là lợi ích ở đời hiện tại do tà kiến.
Katamo diṭṭhiyā samparāyiko ānisaṃso? Ayaṃ diṭṭhi alaṃ nāgattāya vā supaṇṇattāya vā yakkhattāya vā asurattāya vā gandhabbattāya vā mahārājattāya vā indattāya vā brahmattāya vā devattāya vā. Ayaṃ diṭṭhi alaṃ suddhiyā visuddhiyā parisuddhiyā muttiyā vimuttiyā parimuttiyā, imāya diṭṭhiyā sujjhanti visujjhanti parisujjhanti muccanti vimuccanti parimuccanti; imāya diṭṭhiyā sujjhissāmi visujjhissāmi parisujjhissāmi muccissāmi vimuccissāmi parimuccissāmīti āyatiṃ phalapāṭikaṅkhī hoti. Ayaṃ diṭṭhiyā samparāyiko ānisaṃso. Attano diṭṭhiyā ime dve ānisaṃse passati dakkhati oloketi nijjhāyati upaparikkhatī ’ti ‘yadattani passati ānisaṃsaṃ.’
Lợi ích ở đời vị lai do tà kiến là lợi ích nào? Là có sự mong mỏi quả thành tựu ở vị lai rằng: ‘Quan điểm này đủ để đưa đến bản thể loài rồng, hoặc đưa đến bản thể nhân điểu, hoặc đưa đến bản thể A-tu-la, hoặc đưa đến bản thể Càn-thát-bà, hoặc đưa đến bản thể đại vương, hoặc đưa đến bản thể Thiên chủ, hoặc đưa đến bản thể Phạm Thiên, hoặc đưa đến bản thể Thiên nhân. Quan điểm này đủ để đưa đến sự trong sạch, đưa đến sự thanh tịnh, đưa đến sự hoàn toàn thanh tịnh, đưa đến sự thoát khỏi, đưa đến sự giải thoát, đưa đến sự hoàn toàn giải thoát. Với quan điểm này, họ trở nên trong sạch, họ trở nên thanh tịnh, họ trở nên hoàn toàn thanh tịnh, họ được thoát khỏi, họ được giải thoát, họ được hoàn toàn giải thoát. Với quan điểm này, ta sẽ trở nên trong sạch, ta sẽ trở nên thanh tịnh, ta sẽ trở nên hoàn toàn thanh tịnh, ta sẽ được thoát khỏi, ta sẽ được giải thoát, ta sẽ được hoàn toàn giải thoát.’ Điều này là lợi ích ở đời vị lai do tà kiến. Với tà kiến của bản thân, (người ấy) nhìn thấy, nhìn ngắm, quan sát, suy xét, xem xét hai sự lợi ích này. ‘(Người ấy) nhìn thấy điều nào là việc lợi ích cho bản thân’ là thế ấy.
Tannissito kuppapaṭiccasantin ti – Tisso santiyo: accantasanti tadaṅgasanti sammutisanti. Katamā accantasanti? Accantasanti vuccati amataṃ nibbānaṃ yo so sabbasaṅkhārasamatho sabbūpadhipaṭinissaggo taṇhakkhayo virāgo nirodho nibbānaṃ. Ayaṃ accantasanti.
Katamā tadaṅgasanti? Paṭhamajjhānaṃ samāpannassa nīvaraṇā santā honti, dutiyajjhānaṃ samāpannassa vitakkavicārā santā honti, tatiyajjhānaṃ samāpannassa pīti santā hoti, catutthajjhānaṃ samāpannassa sukhadukkhā santā honti, ākāsānañcāyatanaṃ samāpannassa rūpasaññā paṭighasaññā nānattasaññā santā honti, viññāṇañcāyatanaṃ samāpannassa ākāsānañcāyatanasaññā santā hoti, ākiñcaññāyatanaṃ samāpannassa viññāṇañcāyatanasaññā santā hoti nevasaññānāsaññāyatanaṃ samāpannassa ākiñcaññāyatanasaññā santā hoti, ayaṃ tadaṅgasanti.
Katamā sammutisanti? Sammutisanti vuccanti dvāsaṭṭhi diṭṭhigatāni, (imā) diṭṭhisantiyo. Api ca sammutisanti imasmiṃ atthe adhippetā santīti.
Rồi đã nương vào điều ấy, (vào) sự an tịnh bị thay đổi, tùy theo điều kiện – Có ba sự an tịnh: sự an tịnh tuyệt đối, sự an tịnh do chi phần ấy, sự an tịnh do quy định.
Sự an tịnh tuyệt đối là điều nào? Sự an tịnh tuyệt đối nói đến Bất Tử, Niết Bàn, sự yên lặng của tất cả các hành, sự từ bỏ tất cả các mầm tái sanh, sự diệt tận tham ái, sự lìa khỏi luyến ái, sự tịch diệt, Niết Bàn. Đây là sự an tịnh tuyệt đối.
Sự an tịnh do chi phần ấy là điều nào? Đối với vị đã thể nhập sơ thiền, các pháp che lấp (thiền định) được an tịnh. Đối với vị thể nhập nhị thiền, tầm và tứ được an tịnh. Đối với vị thể nhập tam thiền, hỷ được an tịnh. Đối với vị thể nhập tứ thiền, lạc và khổ được an tịnh. Đối với vị thể nhập không vô biên xứ, sắc tưởng, bất bình tưởng, dị biệt tưởng được an tịnh. Đối với vị thể nhập thức vô biên xứ, không vô biên xứ tưởng được an tịnh. Đối với vị thể nhập vô sở hữu xứ, thức vô biên xứ tưởng được an tịnh. Đối với vị thể nhập phi tưởng phi phi tưởng xứ, vô sở hữu xứ tưởng được an tịnh. Đây là sự an tịnh do chi phần.
Sự an tịnh do quy định là điều nào? Sự an tịnh do quy định nói đến 62 tà kiến, các điều này là sự an tịnh của tà kiến. Hơn nữa, sự an tịnh do quy định là sự an tịnh được đề cập ở ý nghĩa này.
Tannissito kuppapaṭiccasantin ti kuppasantiṃ pakuppasantiṃ eritasantiṃ sameritasantiṃ calitasantiṃ ghaṭṭitasantiṃ kappitasantiṃ pakappitasantiṃ aniccaṃ saṅkhataṃ paṭiccasamuppannaṃ khayadhammaṃ vayadhammaṃ virāgadhammaṃ nirodhadhammaṃ, santiṃ nissito assito allīno upagato ajjhosito adhimutto ’ti ‘tannissito kuppapaṭiccasantiṃ.’
Rồi đã nương vào điều ấy, (vào) sự an tịnh bị thay đổi, tùy theo điều kiện: rồi đã nương vào, phụ thuộc vào, đã bám vào, đã tiến vào, đã bám chặt, đã hướng đến sự an tịnh bị thay đổi, sự an tịnh bị khuấy động, sự an tịnh bị di động, sự an tịnh bị chuyển động, sự an tịnh bị dao động, sự an tịnh bị tác động, sự an tịnh được sắp xếp, sự an tịnh được xét đoán, sự an tịnh là pháp hoại, pháp diệt, pháp lìa khỏi luyến ái, pháp diệt tắt có tính chất không thường còn, được tạo tác, được sanh lên tùy theo điều kiện. ‘Rồi đã nương vào điều ấy, (vào) sự an tịnh bị thay đổi, tùy theo điều kiện’ là thế ấy.
Tenāha bhagavā:
“Pakappitā saṅkhatā yassa dhammā purekkhatā santi avevadātā, yadattanī passati ānisaṃsaṃ tannissito kuppapaṭiccasantin ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Các pháp của người nào được xét đoán, được tạo tác, được chú trọng, là (các pháp) không trong sạch, (người ấy) nhìn thấy điều nào là việc lợi ích cho bản thân, rồi đã nương vào điều ấy, (vào) sự an tịnh bị thay đổi, tùy theo điều kiện.”
3.6
Diṭṭhinivesā na hi svātivattā dhammesu niccheyya samuggahītaṃ, tasmā naro tesu nivesanesu nirassati ādiyaticca dhammaṃ.
Các sự chấp chặt vào tà kiến quả thật không dễ vượt qua sau khi đã suy xét điều đã được chọn lựa trong số các pháp (tà kiến). Vì thế, trong số các sự chấp chặt ấy, loài người rời bỏ và nắm giữ tà kiến (này đến tà kiến khác).
Ðối với các thiên kiến,
Không dễ gì vượt qua,
Thẩm sát các pháp xong,
Mới tác thành chấp trước.
Do vậy là con người,
Ðối với trú xứ ấy,
Có khi quyết từ bỏ,
Có khi chấp nhận Pháp.
(Kinh Tập, câu kệ 785)
Diṭṭhinivesā na hi svātivattā ti – Diṭṭhinivesā ti ‘sassato loko, idameva saccaṃ, moghamaññan ’ti abhinivesaparāmāso diṭṭhinivesanaṃ. ‘Asassato loko, antavā loko, anantavā loko, taṃ jīvaṃ taṃ sarīraṃ, aññaṃ jīvaṃ aññaṃ sarīraṃ, hoti tathāgato parammaraṇā, na hoti tathāgato parammaraṇā, hoti ca na ca hoti tathāgato parammaraṇā, neva hoti na na hoti tathāgato parammaraṇā, idameva saccaṃ, moghamaññan ’ti abhinivesaparāmāso diṭṭhinivesanan ’ti ‘diṭṭhinivesā.’ Na hi svātivattā ti – diṭṭhinivesā na hi svātivattā durativattā duttarā duppatarā dussamatikkamā dubbītivattā ’ti ‘diṭṭhinivesā na hi svātivattā.’
Các sự chấp chặt vào tà kiến quả thật không dễ vượt qua – Các sự chấp chặt vào tà kiến: Sự cố chấp và bám víu rằng: ‘Thế giới là thường còn; chỉ điều này là sự thật, cái khác là rỗng không’ là sự chấp chặt vào tà kiến. Sự cố chấp và bám víu rằng: ‘Thế giới là không thường còn, thế giới là có giới hạn, thế giới là không có giới hạn, mạng sống là vật ấy thân thể là vật ấy, mạng sống là vật khác thân thể là vật khác, đức Như Lai hiện hữu ở nơi khác sau khi chết, đức Như Lai không hiện hữu ở nơi khác sau khi chết, đức Như Lai hiện hữu và không hiện hữu ở nơi khác sau khi chết, đức Như Lai không hiện hữu và không phải là không hiện hữu ở nơi khác sau khi chết; chỉ điều này là sự thật, cái khác là rỗng không’ là sự chấp chặt vào tà kiến. ‘Các sự chấp chặt vào tà kiến’ là thế ấy. Quả thật không dễ vượt qua: Các sự chấp chặt vào tà kiến quả thật không dễ vượt qua, khó vượt qua, khó vượt lên, khó vượt hẳn, khó vượt trội, khó vượt trên hẳn. ‘Các sự chấp chặt vào tà kiến quả thật không dễ vượt qua’ là thế ấy.
Dhammesu niccheyya samuggahītan ti – Dhammesū ti dvāsaṭṭhi diṭṭhigatesu. Niccheyyā ti nicchinitvā vinicchinitvā vicinitvā pavicinitvā tulayitvā tīrayitvā vibhāvayitvā vibhūtaṃ katvā. Samuggahītan ti nivesanesu odhiggāho bilaggāho varaggāho koṭṭhāsaggāho uccayaggāho samuccayaggāho, idaṃ saccaṃ tacchaṃ tathaṃ bhūtaṃ yathāsabhāvaṃ aviparītaṃ gahitaṃ parāmaṭṭhaṃ abhiniviṭṭhaṃ ajjhositaṃ adhimuttan ’ti ‘dhammesu niccheyya samuggahītaṃ.’
Sau khi đã suy xét điều đã được chọn lựa trong số các pháp – Trong số các pháp: trong số 62 tà kiến. Sau khi đã suy xét: sau khi suy xét, sau khi suy nghiệm, sau khi chọn lựa, sau khi chọn lọc, sau khi cân nhắc, sau khi xét đoán, sau khi phân biệt, sau khi làm rõ. Điều đã được chọn lựa là sự nắm lấy có giới hạn, sự nắm lấy từng phần, sự nắm lấy tối thượng, sự nắm lấy toàn phần, sự nắm lấy theo số lượng, sự nắm lấy tổng thể ở các sự chấp chặt rằng: ‘Điều này là sự thật, là đúng đắn, là như thế, là đang xảy ra, có bản thể như vậy, không bị sai lệch, được nắm giữ, được bám víu, được cố chấp, được bám chặt, được hướng đến. ‘Sau khi đã suy xét điều đã được chọn lựa trong số các pháp’ là thế ấy.
Tasmā naro tesu nivesanesū ti – Tasmā ti tasmā taṃkāraṇā taṃhetu tappaccayā tannidānā. Naroti satto naro mānavo poso puggalo jīvo jāgu jantu indagū hindagū manujo. Tesu nivesanesū ti tesu diṭṭhinivesanesū ’ti ‘tasmā naro tesu nivesanesu.’
Vì thế, trong số các sự chấp chặt ấy, loài người – Vì thế: bởi điều ấy, bởi lý do ấy, bởi nhân ấy, bởi duyên ấy, bởi căn nguyên ấy. Loài người là chúng sanh, đàn ông, thanh niên, người nam, cá nhân, mạng sống, người còn sanh tử, con người, người đi theo nghiệp, nhân loại.
Nirassati ādiyaticca dhamman ti – Nirassatī ti dvīhi kāraṇehi nirassati: paravicchindanāya vā nirassati, anabhisambhuṇanto vā nirassati.
Rời bỏ và nắm giữ tà kiến: Rời bỏ – Rời bỏ bởi hai lý do: rời bỏ do sự can ngăn của người khác, hoặc là trong khi không thành tựu rồi rời bỏ.
Kathaṃ paravicchindanāya nirassati? Paro vicchindeti, so satthā na sabbaññū, dhammo na svākkhāto, gaṇo na supaṭipanno, diṭṭhi na bhaddikā paṭipadā na supaññattā, maggo na niyyāniko, natthettha suddhi vā visuddhi vā parisuddhi vā mutti vā vimutti vā parimutti vā, natthettha sujjhanti vā visujjhanti vā parisujjhanti vā muccanti vā vimuccanti vā parimuccanti vā, hīnā nihīnā omakā lāmakā chattakā parittā ’ti, evaṃ paro vicchindeti. Evaṃ vicchindiyamāno satthāraṃ nirassati, dhammakkhānaṃ nirassati, gaṇaṃ nirassati, diṭṭhiṃ nirassati, paṭipadaṃ nirassati, dhammakkhānaṃ nirassati, gaṇaṃ nirassati, diṭṭhiṃ nirassati, paṭipadaṃ nirassati, maggaṃ nirassati, evaṃ paravicchindanāya nirassati.
Rời bỏ do sự can ngăn của người khác là thế nào? Người khác can ngăn rằng: ‘Vị thầy ấy không toàn tri, pháp không khéo được thuyết giảng, nhóm không khéo được huấn luyện, quan điểm không tốt lành, sự thực hành không khéo được quy định, đạo lộ không đưa đến giải thoát, sự trong sạch, sự thanh tịnh, sự hoàn toàn thanh tịnh, sự thoát khỏi, sự giải thoát, hay sự hoàn toàn giải thoát không có ở đây; họ trở nên trong sạch, trở nên thanh tịnh, trở nên hoàn toàn thanh tịnh, được thoát khỏi, được giải thoát, hoặc được hoàn toàn giải thoát không có ở đây, họ trở nên thấp hèn, hèn kém, hèn mọn, thấp kém, thấp thỏi, tồi tệ, nhỏ nhoi; người khác can ngăn là như vậy. Trong khi bị căn ngăn như vậy rồi rời bỏ vị thầy, rời bỏ sự thuyết giảng pháp, rời bỏ nhóm, rời bỏ quan điểm, rời bỏ sự thực hành, rời bỏ đạo lộ; rời bỏ do sự can ngăn của người khác là như vậy.
Kathaṃ anabhisambhūṇanto nirassati? Sīlaṃ anabhisambhūṇanto sīlaṃ nirassati, vataṃ anabhisambhūṇanto vataṃ nirassati, sīlabbataṃ anabhisambhūṇanto sīlabbataṃ nirassati. Ādiyaticca dhamman ti satthāraṃ gaṇhāti, dhammakkhānaṃ gaṇhāti, gaṇaṃ gaṇhāti, diṭṭhiṃ gaṇhāti, paṭipadaṃ gaṇhāti, maggaṃ gaṇhāti parāmasati abhinivisatī ’ti ‘nirassati ādiyaticca dhammaṃ.’
Trong khi không thành tựu rồi rời bỏ là thế nào? Trong khi không thành tựu giới rồi rời bỏ giới, trong khi không thành tựu phận sự rồi rời bỏ phận sự, trong khi không thành tựu giới và phận sự rồi rời bỏ giới và phận sự. Và nắm giữ tà kiến: Nắm lấy vị thầy, nắm lấy sự thuyết giảng pháp, nắm lấy nhóm, nắm lấy quan điểm, nắm lấy sự thực hành, nắm lấy đạo lộ, rồi bám víu, cố chấp. ‘Rời bỏ và nắm giữ tà kiến’ là thế ấy.Tenāha bhagavā:
“Diṭṭhinivesā na hi svātivattā dhammesu niccheyya samuggahītaṃ, tasmā naro tesu nivesanesu nirassati ādiyaticca dhamman ”ti
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Các sự chấp chặt vào tà kiến quả thật không dễ vượt qua sau khi đã suy xét điều đã được chọn lựa trong số các pháp (tà kiến). Vì thế, trong số các sự chấp chặt ấy, loài người rời bỏ và nắm giữ tà kiến (này đến tà kiến khác).”
3.7
Dhonassa hi natthi kuhiñca loke pakappitā diṭṭhi bhavābhavesu, māyañca mānañca pahāya dhono sa kena gaccheyya anūpayo so.
Quả thật, đối với vị đã rủ sạch thì không có tư tưởng được sắp đặt liên quan đến hữu và phi hữu ở bất cứ đâu ở thế gian. Vị đã rủ sạch sau khi dứt bỏ xảo quyệt và ngã mạn, thì bởi điều gì mà vị ấy có thể ra đi khi vị ấy không có sự vướng bận?Vị tẩy sạch loại bỏ,
Không tìm được ở đời,
Các kiến được sửa soạn,
Ðối với hữu, phi hữu.
Bỏ man trá, kiêu mạn,
Vị tẩy sạch loại bỏ,
Vị ấy đi với gì,
Vị ấy không chấp thủ.
(Kinh Tập, câu kệ 786)
Dhonassa hi natthi kuhiñci loke pakappitā diṭṭhi bhavābhavesū ti – Dhono ti dhonā vuccati paññā, yā paññā pajānanā vicayo pavicayo dhammavicayo sallakkhaṇā upalakkhaṇā paccupalakkhaṇā paṇḍiccaṃ kosallaṃ nepuññaṃ vebhavyā cintā upaparikkhā bhūrī medhā pariṇāyikā vipassanā sampajaññaṃ patodo paññā paññindriyaṃ paññābalaṃ paññāsatthaṃ paññāpāsādo paññā-āloko paññā-obhāso paññāratanaṃ amoho dhammavicayo sammādiṭṭhi.
Quả thật, đối với vị đã rủ sạch thì không có tư tưởng được sắp đặt liên quan đến hữu và phi hữu ở bất cứ đâu ở thế gian – Đã rủ sạch: đã rủ sạch được gọi là tuệ. Tuệ là sự nhận biết, kiến thức, sự chọn lựa, sự khám phá, sự chọn lựa pháp, sự quan sát, sự suy xét, sự phân biệt, sự thông thái, sự thông thạo, sự khôn khéo, sự thông suốt, sự cân nhắc, sự rõ ràng, sự hiểu biết rộng rãi, sự thông minh, pháp dẫn đầu, sự thấy rõ, sự tỉnh giác, vật xuyên thủng, tuệ là tuệ quyền, tuệ lực, tuệ là vũ khí, tuệ là lâu đài, tuệ là ánh sáng, tuệ là hào quang, tuệ là báu vật, là sự không si mê, sự chọn lựa pháp, chánh kiến.
Kiṃ kāraṇā dhonā vuccati paññā? Tāya paññāya kāyaduccaritaṃ dhutañca dhotañca sandhotañca niddhotañca, vacīduccaritaṃ dhutañca dhotañca sandhotañca niddhotañca, manoduccaritaṃ dhutañca dhotañca sandhotañca niddhotañca, rāgo dhuto ca dhoto ca sandhoto ca niddhoto ca, doso ― moho ― kodho ― upanāho ― makkho ― palāso dhuto ca dhoto ca sandhoto ca niddhoto ca, issā dhutā ca dhotā ca sandhotā ca niddhotā ca, sāṭheyyaṃ dhutañca dhotañca sandhotañca niddhotañca, thambho dhuto ca dhoto ca sandhoto ca niddhoto ca, sārambho ― māno ― atimāno ― mado ― pamādo dhuto ca dhoto ca sandhoto ca niddhoto ca, sabbe kilesā ― sabbe duccaritā ― sabbe darathā ― sabbe pariḷāhā ― sabbe santāpā ― sabbākusalābhisaṅkhārā dhutā ca dhotā ca sandhotā ca niddhotā ca. Taṃkāraṇā dhonā vuccati paññā. Athavā sammādiṭṭhiyā micchādiṭṭhi dhutā ca dhotā ca sandhotā ca niddhotā ca, sammāsaṅkappena micchāsaṅkappo dhuto ca dhoto ca sandhoto ca niddhoto ca, sammāvācāya micchāvācā dhutā ca ― sammākammantena micchākammanto dhuto ca, ― sammāājīvena micchāājīvo dhuto ca, ― sammāvāyāmena micchāvāyāmo dhuto ca, ― sammāsatiyā micchāsati dhutā ca, ― sammāsamādhinā micchāsamādhi dhuto ca dhoto ca sandhoto ca niddhoto ca, sammāñāṇena micchāñāṇaṃ dhutañca ― sammāvimuttiyā micchāvimutti dhutā ca dhotā ca sandhotā ca niddhotā ca. Athavā ariyena aṭṭhaṅgikena maggena sabbe kilesā, sabbe duccaritā, sabbe darathā, sabbe pariḷāhā, sabbe santāpā, sabbākusalābhisaṅkhārā dhutā ca dhotā ca sandhotā ca niddhotā ca. Arahā imehi dhoniyehi dhammehi upeto, samupeto, upagato, samupagato, upapanno, samupapanno, samannāgato, tasmā arahā dhono. So dhutarāgo, dhutapāpo, dhutakileso, dhutapariḷāho ’ti ‘dhono.’
Vì lý do gì mà đã rủ sạch được gọi là tuệ? Nhờ vào tuệ ấy, uế hạnh về thân được rủ bỏ, được rủ sạch, được tẩy sạch, được gột sạch; uế hạnh về khẩu được rủ bỏ, được rủ sạch, được tẩy sạch, được gột sạch; uế hạnh về ý được rủ bỏ, được rủ sạch, được tẩy sạch, được gột sạch; sự luyến ái được rủ bỏ, được rủ sạch, được tẩy sạch, được gột sạch; sân hận ― si mê ― giận dữ ― thù hằn ― gièm pha ― ác ý được rủ bỏ, được rủ sạch, được tẩy sạch, được gột sạch; ganh tỵ được rủ bỏ, được rủ sạch, được tẩy sạch, được gột sạch; bội bạc được rủ bỏ, được rủ sạch, được tẩy sạch, được gột sạch; bướng bỉnh được rủ bỏ, được rủ sạch, được tẩy sạch, được gột sạch; hung hăng ― ngã mạn ― kiêu căng ― đam mê ― xao lãng được rủ bỏ, được rủ sạch, được tẩy sạch, được gột sạch; tất cả ô nhiễm ― tất cả uế hạnh ― mọi sự lo lắng ― mọi sự bực bội ― mọi sự nóng nảy ― mọi sự tạo tác bất thiện được rủ bỏ, được rủ sạch, được tẩy sạch, được gột sạch. Vì lý do ấy mà đã rủ sạch được gọi là tuệ. Hoặc là nhờ vào chánh kiến, tà kiến được rủ bỏ, được rủ sạch, được tẩy sạch, được gột sạch; nhờ vào chánh tư duy, tà tư duy được rủ bỏ, được rủ sạch, được tẩy sạch, được gột sạch; nhờ vào chánh ngữ, tà ngữ được rủ bỏ ― nhờ vào chánh nghiệp, tà nghiệp được rủ bỏ ― nhờ vào chánh mạng, tà mạng được rủ bỏ ― nhờ vào chánh tinh tấn, tà tinh tấn được rủ bỏ ― nhờ vào chánh niệm, tà niệm được rủ bỏ ― nhờ vào chánh định, tà định được rủ bỏ ― nhờ vào chánh trí, tà trí được rủ bỏ ― nhờ vào chánh giải thoát, tà giải thoát được rủ bỏ, được rủ sạch, được tẩy sạch, được gột sạch. Hoặc là nhờ vào Thánh Đạo tám chi, tất cả ô nhiễm, tất cả uế hạnh, mọi sự lo lắng, mọi sự bực bội, mọi sự nóng nảy, mọi sự tạo tác bất thiện được rủ bỏ, được rủ sạch, được tẩy sạch, được gột sạch. Bậc A-la-hán đã tiến đến, đã tiến gần, đã tiến vào, đã tiến sát, đã tiếp cận, đã tròn đủ, đã thành tựu các pháp cần được rủ sạch này, vì thế bậc A-la-hán đã được rủ sạch. Vị ấy có ái luyến đã được rủ bỏ, có điều ác đã được rủ bỏ, có ô nhiễm đã được rủ bỏ, có sự bực bội đã được rủ bỏ. ‘Được rủ sạch’ là thế ấy.
Kuhiñcī ti kuhiñci kimhici katthaci ajjhattaṃ vā bahiddhā vā ajjhattabahiddhā vā. Loke ti apāyaloke manussaloke devaloke khandhaloke dhātuloke āyatanaloke. Pakappitā ti dve pakappanā: taṇhāpakappanā ca diṭṭhipakappanā ca. ―pe― ayaṃ taṇhāpakappanā ―pe― ayaṃ diṭṭhipakappanā. Bhāvābhavesū ti bhavābhave kammabhave punabbhave, kāmabhave kammabhave kāmabhave punabbhave, rūpabhave kammabhave rūpabhave punabbhave, arūpabhave kammabhave arūpabhave punabbhave punappuna bhave punappunagatiyā punappuna-uppattiyā punappunapaṭisandhiyā punappuna-attabhāvābhinibbattiyā. Dhonassa hi natthi kuhiñci loke pakappitā diṭṭhi bhavābhavesū ti – dhonassa kuhiñci loke bhavābhavesu ca kappitā abhisaṅkhatā saṇṭhapitā diṭṭhi natthi na santi na saṃvijjanti nupalabbhanti pahīnā samucchinnā vūpasantā paṭippassaddhā abhabbuppattikā ñāṇagginā daḍḍhā ’ti ‘dhonassa hi natthi kuhiñci loke pakappitā diṭṭhi bhavābhavesu.’
Ở bất cứ đâu: ở bất cứ đâu, về bất cứ điều gì, ở bất cứ chỗ nào, nội phần hoặc ngoại phần hoặc nội phần và ngoại phần. Ở thế gian: ở thế gian của khổ cảnh, ở thế gian của loài người, ở thế gian của chư Thiên, ở thế gian của các uẩn, ở thế gian của các giới, ở thế gian của các xứ. Được sắp đặt – Có hai sự sắp đặt: sắp đặt do tham ái và sắp đặt do tà kiến. ―như trên― điều này là sắp đặt do tham ái. ―như trên― điều này là sắp đặt do tà kiến. Đây là hai sự sắp đặt. Ở hữu và phi hữu: ở dục giới sắc giới vô sắc giới, ở cảnh giới của nghiệp, ở cảnh giới của sự tái sanh; ở cảnh giới của nghiệp là dục giới, ở cảnh giới của sự tái sanh là dục giới, ở cảnh giới của nghiệp là sắc giới, ở cảnh giới của sự tái sanh là sắc giới, ở cảnh giới của nghiệp là vô sắc giới, ở cảnh giới của sự tái sanh là vô sắc giới, ở sự sanh lên được tiếp diễn, ở cảnh giới tái sanh được tiếp diễn, ở sự tiếp nối tái sanh được tiếp diễn, ở sự tái sanh của bản ngã được tiếp diễn. Quả thật, đối với vị đã rủ sạch thì không có tư tưởng được sắp đặt liên quan đến hữu và phi hữu ở bất cứ đâu ở thế gian: đối với vị đã rủ sạch, tư tưởng đã được sắp đặt, đã được tác thành, đã được thành lập liên quan đến hữu và phi hữu ở bất cứ đâu ở thế gian thì không có, không hiện diện, không tìm thấy, không tồn tại, được dứt bỏ, được trừ tuyệt, được vắng lặng, được tịch tịnh, không thể sanh khởi nữa, đã bị thiêu đốt bởi ngọn lửa trí tuệ. ‘Quả thật, đối với vị đã rủ sạch thì không có tư tưởng được sắp đặt liên quan đến hữu và phi hữu ở bất cứ đâu ở thế gian’ là thế ấ
Māyañca mānañca pahāya dhono ti – māyā vuccati vañcanikā cariyā; idhekacco kāyena duccaritaṃ caritvā, vācāya duccaritaṃ caritvā, manasā duccaritaṃ caritvā tassa paṭicchādanahetu pāpikaṃ icchaṃ paṇidahati: ‘Mā maṃ jaññā ’ti icchati. ‘Mā maṃ jaññā ’ti saṅkappeti. ‘Mā maṃ jaññā ’ti vācaṃ bhāsati. ‘Mā maṃ jaññā ’ti kāyena parakkamati. Yā evarūpā māyā māyāvitā accayā vañcanā nikati nikiraṇā pariharaṇā gūhanā parigūhanā chādanā paricchādanā anuttānīkammaṃ anāvikammaṃ vocchādanā pāpakiriyā, ayaṃ vuccati māyā.
Vị đã rủ sạch sau khi dứt bỏ xảo quyệt và ngã mạn – xảo quyệt nói đến các hành vi lường gạt; ở đây có người sau khi làm uế hạnh bằng thân, sau khi làm uế hạnh bằng lời nói, sau khi làm uế hạnh bằng ý, vì nguyên nhân che đậy việc ấy, xác quyết ước muốn xấu xa: (Vị ấy) ước muốn rằng: ‘Chớ ai biết về tôi,’ suy tư rằng: ‘Chớ ai biết về tôi,’ nói lời rằng: ‘Chớ ai biết về tôi,’ nỗ lực bằng thân rằng: ‘Chớ ai biết về tôi.’ Sự xảo quyệt với hình thức như vầy là có trạng thái xảo quyệt, là việc tội lỗi, lường gạt, gian lận, thay đổi, tránh né, cất giấu, che giấu, che đậy, che đậy kín, không phơi bày, không làm rõ, khéo che đậy, việc làm ác, điều này gọi là xảo quyệt.
Māno ti ekavidhena māno: yā cittassa unnati. Duvidhena māno: attukkaṃsanamāno, paravambhanamāno. Tividhena māno: seyyohamasmīti māno, sadisohamasmīti māno, hīnohamasmīti māno. Catubbidhena māno: lābhena mānaṃ janeti, yasena mānaṃ janeti, pasaṃsāya mānaṃ janeti, sukhena mānaṃ janeti. Pañcavidhena māno: lābhī’mhi manāpikānaṃ rūpānanti mānaṃ janeti, lābhī’mhi manāpikānaṃ saddānaṃ ― gandhānaṃ ― rasānaṃ ― phoṭṭhabbānanti mānaṃ janeti. Chabbidhena māno: cakkhusampadāya mānaṃ janeti, sotasampadāya ― ghānasampadāya ― jivhāsampadāya ― kāyasampadāya ― manosampadāya mānaṃ janeti. Sattavidhena māno: māno, atimāno, mānātimāno, omāno, adhimāno, asmimāno, micchāmāno. Aṭṭhavidhena māno: lābhena mānaṃ janeti, alābhena omānaṃ janeti, yasena mānaṃ janeti, ayasena omānaṃ janeti, pasaṃsāya mānaṃ janeti, nindāya omānaṃ janeti, sukhena mānaṃ janeti, dukkhena omānaṃ janeti. Navavidhena māno: seyyassa seyyohamasmīti māno, seyyassa sadisohamasmīti māno, seyyassa hīnohamasmīti māno, sadisassa seyyohamasmīti māno, sadisassa sadisohamasmīti māno, sadisassa hīnohamasmīti māno, hīnassa seyyohamasmīti māno, hīnassa sadisohamasmīti māno, hīnassa hīnohamasmīti māno. Dasavidhena māno: idhekacco mānaṃ janeti jātiyā vā gottena vā kolaputtiyena vā vaṇṇapokkharatāya vā dhanena vā ajjhenena vā kammāyatanena vā sippāyatanena vā vijjāṭṭhānena vā sutena vā paṭibhāṇena vā aññataraññatarena vā vatthunā. Yo evarūpo māno maññanā maññitattaṃ unnati unnāmo dhajo sampaggāho ketukamyatā cittassa, ayaṃ vuccati māno. Māyañca mānañca pahāya dhono ti – dhono māyañca mānañca pahāya pajahitvā vinodetvā vyantīkaritvā anabhāvaṃ gametvā ’ti ‘māyañca mānañca pahāya dhono.’
Ngã mạn – Ngã mạn theo một loại: là sự cao ngạo của tâm. Ngã mạn theo hai loại: ngã mạn do tâng bốc bản thân và ngã mạn do khinh bỉ người khác. Ngã mạn theo ba loại: ngã mạn (với ý nghĩ) ‘Tôi tốt hơn,’ ngã mạn (với ý nghĩ) ‘Tôi ngang bằng,’ ngã mạn (với ý nghĩ) ‘Tôi thấp hèn.’ Ngã mạn theo bốn loại: do lợi lộc rồi sanh khởi ngã mạn, do danh vọng rồi sanh khởi ngã mạn, do khen ngợi rồi sanh khởi ngã mạn, do sung sướng rồi sanh khởi ngã mạn. Ngã mạn theo năm loại: (nghĩ rằng:) ‘Ta đạt được các sắc thích ý’ rồi sanh khởi ngã mạn, (nghĩ rằng:) ‘Ta đạt được các thinh ― các hương ― các vị ― các xúc thích ý’ rồi sanh khởi ngã mạn. Ngã mạn theo sáu loại: Do sự thành tựu của mắt rồi sanh khởi ngã mạn, do sự thành tựu của tai ― do sự thành tựu của mũi ― do sự thành tựu của lưỡi ― do sự thành tựu của thân ― do sự thành tựu của ý rồi sanh khởi ngã mạn. Ngã mạn theo bảy loại: ngã mạn, cống cao, cống cao dựa trên ngã mạn, tự ti, ngã mạn thái quá, ngã mạn về bản thân, ngã mạn do hiểu biết sai trái. Ngã mạn theo tám loại: do lợi lộc rồi sanh khởi ngã mạn, do không có lợi lộc rồi sanh khởi tự ti, do danh tiếng rồi sanh khởi ngã mạn, do không có danh tiếng rồi sanh khởi tự ti, do khen ngợi rồi sanh khởi ngã mạn, do chê trách rồi sanh khởi tự ti, do sung sướng rồi sanh khởi ngã mạn, do khổ đau rồi sanh khởi tự ti. Ngã mạn theo chín loại: Người tốt hơn có sự ngã mạn (nghĩ rằng) ‘Tôi tốt hơn,’ người tốt hơn có sự ngã mạn (nghĩ rằng) ‘Tôi ngang bằng,’ người tốt hơn có sự ngã mạn (nghĩ rằng) ‘Tôi thấp hèn,’ người ngang bằng có sự ngã mạn (nghĩ rằng) ‘Tôi tốt hơn,’ người ngang bằng có sự ngã mạn (nghĩ rằng) ‘Tôi ngang bằng,’ người ngang bằng có sự ngã mạn (nghĩ rằng) ‘Tôi thấp hèn,’ người thấp hèn có sự ngã mạn (nghĩ rằng) ‘Tôi tốt hơn,’ người thấp hèn có sự ngã mạn (nghĩ rằng) ‘Tôi ngang bằng,’ người thấp hèn có sự ngã mạn (nghĩ rằng) ‘Tôi thấp hèn,’ Ngã mạn theo mười loại: Ở đây có người sanh khởi ngã mạn về xuất thân, về dòng dõi, về con nhà gia thế, về vẻ đẹp của vóc dáng, về tài sản, về học vấn, về công việc, về tài nghệ, về kiến thức, về sự học hỏi, về tài biện giải, hoặc về sự việc này khác.’ Ngã mạn với hình thức như vầy là biểu hiện của ngã mạn, bản thể của ngã mạn, sự cao ngạo, sự nâng cao, (như) ngọn cờ, sự tự nâng lên, sự khoe khoang tự đắc của tâm, điều này gọi là ngã mạn. Vị đã rủ sạch sau khi dứt bỏ xảo quyệt và ngã mạn – Vị đã rủ sạch sau khi từ bỏ, sau khi dứt bỏ, sau khi xua đi, sau khi làm chấm dứt, sau khi khiến cho không còn hiện hữu xảo quyệt và ngã mạn. ‘Vị đã rủ sạch sau khi dứt bỏ xảo quyệt và ngã mạn’ là thế ấy.
Sa kena gaccheyya anūpayo so ti – Upayā ti dve upayā: taṇhā-upayo ca diṭṭhi-upayo ca. ―pe― ayaṃ taṇhūpayo. ―pe― ayaṃ diṭṭhūpayo. Tassa taṇhūpayo pahīno, diṭṭhūpayo paṭinissaṭṭho. Taṇhūpayassa pahīnattā diṭṭhūpayassa paṭinissaṭṭhattā anūpayo puggalo kena rāgena gaccheyya, kena dosena gaccheyya, kena mohena gaccheyya, kena mānena gaccheyya, kāya diṭṭhiyā gaccheyya, kena uddhaccena gaccheyya, kāya vicikicchāya gaccheyya, kehi anusayehi gaccheyya? Rattoti vā duṭṭhoti vā mūḷhoti vā vinibaddhoti vā parāmaṭṭhoti vā vikkhepagatoti vā thāmagatoti vā? Te abhisaṅkhārā pahīnā. Abhisaṅkhārānaṃ pahīṇattā gatiyā kena gaccheyya nerayikoti vā tiracchānayonikoti vā pettivisayikoti vā manussoti vā devoti vā rūpīti vā arūpīti vā saññīti vā asaññīti vā nevasaññīnāsaññīti vā? So hetu natthi, paccayo natthi, kāraṇaṃ natthi, yena gaccheyyā ’ti ‘sa kena gaccheyya anūpayo so.’
Bởi điều gì mà vị ấy có thể ra đi khi vị ấy không có sự vướng bận? – Sự vướng bận – Có hai sự vướng bận: sự vướng bận do tham ái và sự vướng bận do tà kiến. ―như trên― điều này là sự vướng bận do tham ái. ―như trên― điều này là sự vướng bận do tà kiến. Đây là hai sự vướng bận. Đối với vị ấy, sự vướng bận do tham ái được dứt bỏ, sự vướng bận do tà kiến được xả bỏ. Do tình trạng dứt bỏ sự vướng bận do tham ái, do tình trạng xả bỏ sự vướng bận do tà kiến, thì vị không có sự vướng bận có thể ra đi bởi sự luyến ái gì, có thể ra đi bởi sự sân hận gì, có thể ra đi bởi sự si mê gì, có thể ra đi bởi sự ngã mạn gì, có thể ra đi bởi tà kiến gì, có thể ra đi bởi sự phóng dật gì, có thể ra đi bởi hoài nghi gì, có thể ra đi bởi các pháp tiềm ẩn gì, có phải là người bị luyến ái, hoặc bị sân hận, hoặc bị si mê, hoặc bị bảo thủ, hoặc bị bám víu, hoặc vững chải? Các sự tạo tác ấy được dứt bỏ. Do tình trạng dứt bỏ của các pháp tạo tác, thì vị ấy có thể ra đi về cảnh giới tái sanh gì, hay (trở thành) người địa ngục, hoặc hạng sanh vào thai bào của loài thú, hoặc người ở cảnh giới ngạ quỷ, hoặc loài người, hoặc chư Thiên, hoặc hữu hình, hoặc vô hình, hoặc hữu tưởng, hoặc vô tưởng, hoặc phi tưởng phi phi tưởng? Vị ấy không có nhân, không có duyên, không có lý do, mà vì điều ấy có thể ra đi. ‘Bởi điều gì mà vị ấy có thể ra đi khi vị ấy không có sự vướng bận?’ là thế ấy.
Tenāha bhagavā: “Dhonassa hi natthi kuhiñci loke pakappitā diṭṭhi bhavābhavesu, māyañca mānañca pahāya dhono sa kena gaccheyya anūpayo so ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Quả thật, đối với vị đã rủ sạch thì không có tư tưởng được sắp đặt liên quan đến hữu và phi hữu ở bất cứ đâu ở thế gian. Vị đã rủ sạch sau khi dứt bỏ xảo quyệt và ngã mạn, thì bởi điều gì mà vị ấy có thể ra đi khi vị ấy không có sự vướng bận?”
3.8
Upayo hi dhammesu upeti vādaṃ anūpayaṃ kena kathaṃ vadeyya, attaṃ nirattaṃ na hi tassa atthi
adhosi so diṭṭhimidheva sabbaṃ.
Quả thật, người vướng bận tiếp cận sự tranh luận về các pháp,
vì điều gì, bằng cách nào có thể nói về người không vướng bận?
Bởi vì điều được nắm lấy và được rời bỏ là không có đối với vị ấy;
vị ấy đã rũ bỏ mọi tà kiến ở ngay tại nơi đây.
Với ai có chấp thủ,
Bị chỉ trích trong Pháp,
Với ai không chấp thủ,
Lấy gì có thể nói?
Chính đối với vị ấy,
Ngã, phi ngã đều không,
Vị ấy đã tẩy sạch,
Mọi tà kiến ở đời.
(Kinh Tập, câu kệ 787)
Upayo hi dhammesu upeti vādan ti – Upayo ti dve upayā: taṇhūpayo ca diṭṭhūpayo ca. ―pe― ayaṃ taṇhūpayo. ―pe― ayaṃ diṭṭhūpayo. Tassa taṇhūpayo appahīno, diṭṭhūpayo appaṭinissaṭṭho. Taṇhūpayassa appahīnattā diṭṭhūpayassa appaṭinissaṭṭhattā dhammesu vādaṃ upeti: rattoti vā duṭṭhoti vā mūḷhoti vā vinibaddhoti vā parāmaṭṭhoti vā vikkhepagatoti vā aniṭṭhaṃ gatoti vā thāmagatoti vā. Te abhisaṅkhārā appahīnā. Abhisaṅkhārānaṃ appahīnattā gatiyā vādaṃ upeti: nerayikoti vā tiracchānayonikoti vā pettivisayikoti vā manussoti vā devoti vā rūpīti vā arūpīti vā saññīti vā asaññīti vā nevanaññīnāsaññīti vā vādaṃ upeti upagacchati gaṇhāti parāmasati abhinivisatī ’ti ‘upayo hi dhammesu upeti vādaṃ.’
Anūpayaṃ kena kathaṃ vadeyyā ti – Upayo ti dve upayā: taṇhūpayo ca diṭṭhūpayo ca. ―pe― ayaṃ taṇhūpayo. ―pe― ayaṃ diṭṭhūpayo. Tassa taṇhūpayo pahīno, diṭṭhūpayo paṭinissaṭṭho. Taṇhūpayassa pahīnattā diṭṭhūpayassa paṭinissaṭṭhattā anūpayaṃ puggalaṃ kena rāgena vadeyya, kena dosena vadeyya, kena mohena vadeyya, kena mānena vadeyya, kāya diṭṭhiyā vadeyya, kena uddhaccena vadeyya, kāya vicikicchāya vadeyya, kehi anusayehi vadeyya rattoti vā duṭṭhoti vā mūḷhoti vā vinibaddhoti vā parāmaṭṭhoti vā vikkhepagatoti vā aniṭṭhaṃ gatoti vā thāmagatoti vā? Te abhisaṅkhārā pahīnā. Abhisaṅkhārānaṃ pahīnattā gatiyā kena vadeyya nerayikoti vā ―pe― nevasaññīnāsaññīti vā? So hetu natthi, paccayo natthi, kāraṇaṃ natthi, yena vadeyya katheyya bhaṇeyya dīpayeyya vohareyyā ’ti ‘anūpayaṃ kena kathaṃ vadeyya.’
Attaṃ nirattaṃ na hi tassa atthī ti – Attā ti sassatadiṭṭhi natthi. Nirattā ti ucchedadiṭṭhi natthi. Attāti gahitaṃ natthi. Nirattāti muñcitabbaṃ natthi. Yassatthi gahitaṃ, tassatthi muñcitabbaṃ; yassatthi muñcitabbaṃ, tassatthi gahitaṃ; gahaṇamuñcanā samatikkanto arahā vuddhiparihānivītivatto. So vutthavāso ciṇṇacaraṇo gataddho gatadiso. Jātimaraṇasaṃsāro natthi tassa punabbhavo ’ti ‘attaṃ nirattaṃ na hi tassa atthi.’
Adhosi so diṭṭhimidheva sabban ti – tassa dvāsaṭṭhi diṭṭhigatāni pahīnāni samucchinnāni vūpasantāni paṭippassaddhāni abhabbuppattikāni ñāṇagginā daḍḍhāni. So sabbaṃ diṭṭhigataṃ idheva adhosi dhuni sandhuni niddhuni pajahi vinodesi vyantiṃ akāsi anabhāvaṃ gamesī ’ti ‘adhosi so diṭṭhimidheva sabban ’ti.
Tenāha bhagavā:
“Upayo hi dhammesu upeti vādaṃ anūpayaṃ kena kathaṃ vadeyya, attaṃ nirattaṃ na hi tassa atthi
adhosi so diṭṭhimidheva sabban ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Quả thật, người vướng bận tiếp cận sự tranh luận về các pháp, vì điều gì, bằng cách nào có thể nói về người không vướng bận? Bởi vì điều được nắm lấy và được rời bỏ là không có đối với vị ấy; vị ấy đã rũ bỏ mọi tà kiến ở ngay tại nơi đây.”
Duṭṭhaṭṭhakasuttaniddeso tatiyo.
Diễn Giải Kinh Nhóm Tám về Xấu Xa là thứ ba.
4. SUDDHAṬṬHAKASUTTANIDDESO – DIỄN GIẢI KINH NHÓM TÁM VỀ TRONG SẠCH
4.1
Atha suddhaṭṭhakasuttaniddeso vuccati.
Giờ Diễn Giải Kinh Nhóm Tám về Trong Sạch được nói đến:
Passāmi suddhaṃ paramaṃ arogaṃ diṭṭhena saṃsuddhi narassa hoti, evābhijānaṃ paramanti ñatvā
suddhānupassī pacceti ñāṇaṃ.
Ta nhìn thấy vị trong sạch là cao cả, vô bệnh,
do việc nhìn thấy mà con người có được sự thanh tịnh.
Trong khi biết rõ như vậy, sau khi biết được (việc ấy) là ‘cao cả,’
người có sự quan sát vị trong sạch trở về với trí.
(IV) Kinh Thanh Tịnh tám kệ (Sn 154)
Ta thấy vị thanh tịnh,
Vị tối thượng, không bệnh,
Sự thanh tịnh con người,
Với tri kiến, đạt được.
Nắm giữ quan điểm này.
Xem đấy là tối thượng,
Vị này sẽ xem trí,
Là tùy quán thanh tịnh.
(Kinh Tập, câu kệ 788)
Passāmi suddhaṃ paramaṃ arogan ti – Passāmi suddhan ti passāmi suddhaṃ, dakkhāmi suddhaṃ, olokemi suddhaṃ, nijjhāyāmi suddhaṃ, upaparikkhāmi suddhaṃ. Paramaṃ arogan ti – paramaṃ ārogyappattaṃ khemappattaṃ tāṇappattaṃ lenappattaṃ saraṇappattaṃ abhayappattaṃ accutappattaṃ nibbānappattan ’ti ‘passāmi suddhaṃ paramaṃ arogaṃ.’
Diṭṭhena saṃsuddhi narassa hotī ti – cakkhuviññānena rūpadassanena narassa suddhi visuddhi parisuddhi mutti vimutti parimutti hoti; naro sujjhati visujjhati parisujjhati muccati vimuccati parimuccatī ’ti ‘diṭṭhena saṃsuddhi narassa hoti.’
Evābhijānaṃ paramanti ñatvā ti – evaṃ abhijānanto ājānanto vijānanto paṭivijānanto paṭivijjhanto idaṃ paramaṃ aggaṃ seṭṭhaṃ viseṭṭhaṃ pāmokkhaṃ uttamaṃ pavaranti ñatvā jānitvā tulayitvā tīrayitvā vibhāvayitvā vibhūtaṃ katvā ’ti ‘evābhijānaṃ paramanti ñatvā.’
Suddhānupassī pacceti ñāṇan ti – Yo suddhaṃ passati, so suddhānupassī. Pacceti ñāṇan ti – cakkhuviññāṇaṃ rūpadassanena ñāṇanti pacceti, maggoti pacceti, pathoti pacceti, niyyānanti paccetī ’ti ‘suddhānupassī pacceti ñāṇan ’ti.
Tenāha bhagavā:
“Passāmi suddhaṃ paramaṃ arogaṃ diṭṭhena saṃsuddhi narassa hoti, evābhijānaṃ paramanti ñatvā suddhānupassī pacceti ñāṇan ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Ta nhìn thấy vị trong sạch là cao cả, vô bệnh, do việc nhìn thấy mà con người có được sự thanh tịnh. Trong khi biết rõ như vậy, sau khi biết được (việc ấy) là ‘cao cả,’ người có sự quan sát vị trong sạch trở về với trí.”
4.2
Diṭṭhena ce suddhi narassa hoti ñāṇena vā so pajahāti dukkhaṃ, aññena so sujjhati sopadhīko diṭṭhī hi naṃ pāva tathā vadānaṃ.
Nếu do nhìn thấy mà con người có được sự trong sạch, hoặc do nhận biết mà người ấy dứt bỏ khổ đau, thì người ấy–người còn mầm mống tái sanh–được trong sạch do (đạo lộ) khác (so với Thánh Đạo), chính tà kiến (thế ấy) đã mớm lời cho người ấy trong khi nói như thế.Nếu thanh tịnh con người,
Do tri kiến đạt được,
Hay với trí vị ấy,
Từ bỏ sự đau khổ
Vị ấy có sanh y,
Ngoài Thánh đạo được tịnh,
Vị ấy nói như vậy,
Do tri kiến cá nhân.
(Kinh Tập, câu kệ 789)
Diṭṭhena ce suddhi narassa hotī ti – cakkhuviññāṇena rūpadassanena ce narassa suddhi visuddhi parisuddhi mutti vimutti parimutti hoti, naro sujjhati visujjhati parisujjhati, muccati vimuccati parimuccatī ’ti ‘diṭṭhena ce suddhi narassa hoti.’
Nếu do nhìn thấy mà con người có được sự trong sạch – Nếu do sự nhận thức của mắt, do sự nhìn thấy của mắt, con người có được sự trong sạch, sự thanh tịnh, sự hoàn toàn thanh tịnh, sự thoát khỏi, sự giải thoát, sự hoàn toàn giải thoát, con người được trong sạch, được thanh tịnh, được hoàn toàn thanh tịnh, được thoát khỏi, được giải thoát, được hoàn toàn giải thoát. ‘Nếu do nhìn thấy mà con người có được sự trong sạch’ là thế ấy.
Ñāṇena vā so pajahāti dukkhan ti – cakkhuviññāṇena rūpadassanena ce naro jātidukkhaṃ pajahāti, jarādukkhaṃ pajahāti, vyādhidukkhaṃ pajahāti, maraṇadukkhaṃ pajahāti, sokaparidevadukkhadomanassūpāyāsadukkhaṃ pajahātī ’ti ‘ñāṇena va so pajahāti dukkhaṃ.’
Hoặc do nhận biết mà người ấy dứt bỏ khổ đau – Nếu do sự nhận thức của mắt, do sự nhìn thấy của mắt, con người dứt bỏ khổ do sanh, dứt bỏ khổ do già, dứt bỏ khổ do bệnh, dứt bỏ khổ do chết, dứt bỏ khổ do sầu bi khổ ưu não. ‘Hoặc do nhận biết mà người ấy dứt bỏ khổ đau’ là thế ấy.
Aññena so sujjhati sopadhīko ti – aññena asuddhimaggena micchāpaṭipadāya aniyyāṇikapathena aññatra satipaṭṭhānehi aññatra sammappadhānehi aññatra iddhipādehi aññatra indriyehi aññatra balehi aññatra bojjhaṅgehi aññatra ariyā aṭṭhaṅgikamaggā naro sujjhati visujjhati parisujjhati muccati vimuccati parimuccati. Sopadhīko ti sarāgo sadoso samoho samāno sataṇho sadiṭṭhi sakileso sa-upādāno ’ti ‘aññena so sujjhati sopadhīko.’
Thì người ấy–người còn mầm mống tái sanh–được trong sạch do (đạo lộ) khác (so với Thánh Đạo) – Do (đạo lộ) khác là do đạo lộ không trong sạch, do cách thực hành sai trái, do đường lối không dẫn dắt ra khỏi, ngoại trừ các sự thiết lập niệm, ngoại trừ các chánh tinh tấn, ngoại trừ các nền tảng của thần thông, ngoại trừ các quyền, ngoại trừ các lực, ngoại trừ các chi phần đưa đến giác ngộ, ngoại trừ Thánh đạo tám chi phần, con người được trong sạch, được thanh tịnh, được hoàn toàn thanh tịnh, được thoát khỏi, được giải thoát, được hoàn toàn giải thoát. Còn mầm mống tái sanh là có luyến ái, có sân, có si, có ngã mạn, có tham ái, có tà kiến, có ô nhiễm, có chấp thủ. ‘Thì người ấy–người còn mầm mống tái sanh–được trong sạch do (đạo lộ) khác (so với Thánh Đạo)’ là thế ấy.
Diṭṭhī hi naṃ pāva tathā vadānan ti – sā ca diṭṭhi naṃ puggalaṃ pāvadati: ‘iti ca yaṃ puggalo micchādiṭṭhiko viparītadassano ’ti. Tathā vadānan ti – tathā vadantaṃ kathentaṃ bhaṇantaṃ dīpayantaṃ voharantaṃ, ‘sassato loko idameva saccaṃ moghamaññan’ti tathā vadantaṃ kathentaṃ bhaṇantaṃ dīpayantaṃ voharantaṃ, ‘asassato loko, antavā loko, anantavā loko, taṃ jīvaṃ taṃ sarīraṃ, aññaṃ jīvaṃ aññaṃ sarīraṃ, hoti tathāgato parammaraṇā, na hoti tathāgato parammaraṇā, hoti ca na ca hoti tathāgato parammaraṇā, neva hoti na na hoti tathāgato parammaraṇā idameva saccaṃ moghamaññan’ti tathā vadantaṃ kathentaṃ bhaṇantaṃ dīpayantaṃ voharantan ’ti ‘diṭṭhī hi naṃ pāva tathāvadānaṃ.’
Chính tà kiến (thế ấy) đã mớm lời cho người ấy trong khi nói như thế – Và tà kiến ấy mớm lời cho nhân vật ấy rằng: ‘Và điều mà cá nhân người có tà kiến, có quan điểm sai lệch là thế ấy. Trong khi nói như thế: trong khi đang nói, đang thuyết giảng, đang thốt ra, đang giảng giải, đang phát ngôn như thế; ‘Thế giới là thường còn, chính điều này là chân lý, điều khác là rồ dại’ trong khi đang nói, đang thuyết giảng, đang thốt ra, đang giảng giải, đang phát ngôn như thế; ‘Thế giới là không thường còn,’ ‘Thế giới là có giới hạn,’ ‘Thế giới là không có giới hạn,’ ‘Thế giới là có giới hạn và không có giới hạn,’ ‘Thế giới không phải là có giới hạn và cũng không phải là không có giới hạn,’ ‘Mạng sống là vật ấy thân thể là vật ấy,’ ‘Mạng sống là vật khác thân thể là vật khác,’ ‘Có phải đức Như Lai hiện hữu ở nơi khác sau khi chết,’ ‘Có phải đức Như Lai không hiện hữu ở nơi khác sau khi chết,’ ‘Có phải đức Như Lai hiện hữu và không hiện hữu ở nơi khác sau khi chết,’ ‘Có phải đức Như Lai không hiện hữu và không phải là không hiện hữu ở nơi khác sau khi chết,’ chính điều này là chân lý, điều khác là rồ dại’ trong khi đang nói, đang thuyết giảng, đang thốt ra, đang giảng giải, đang phát ngôn như thế. ‘Chính tà kiến (thế ấy) đã mớm lời cho người ấy trong khi nói như thế’ là thế ấy.
Tenāha bhagavā:
“Diṭṭhena ce suddhi narassa hoti ñāṇena vā so pajahāti dukkhaṃ, aññena so sujjhati sopadhīko diṭṭhī hi naṃ pāva tathā vadānan ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Nếu do nhìn thấy mà con người có được sự trong sạch, hoặc do nhận biết mà người ấy dứt bỏ khổ đau, thì người ấy–người còn mầm mống tái sanh–được trong sạch do (đạo lộ) khác (so với Thánh Đạo), chính tà kiến (thế ấy) đã mớm lời cho người ấy trong khi nói như thế.”
4.3
Na brāhmaṇo aññato suddhimāha diṭṭhe sute sīlavate mute vā, puññe ca pāpe ca anūpalitto attañjaho nayidha pakubbamāno.
Vị Bà-la-môn đã nói rằng sự trong sạch là không do (đạo lộ) khác, không liên quan đến điều đã được thấy, đến điều đã được nghe, đến giới và phận sự, hoặc đến điều đã được cảm giác, là người không bị vấy bẩn bởi phước và tội, buông bỏ tự ngã, không tạo tác (nghiệp gì) ở nơi đây.Bà-la-môn không nói,
Ngoài Thánh đạo được tịnh,
Với điều được thấy nghe,
Giới đức, được thọ tưởng;
Với công đức, ác đức,
Vị ấy không nhiễm trước,
Từ bỏ mọi chấp ngã,
Không làm gì ở đời.
(Kinh Tập, câu kệ 790)
Na brāhmaṇo aññato suddhimāha diṭṭhe sute sīlavate mute vā ti – Nā ti paṭikkhepo. Brāhmaṇo ti sattannaṃ dhammānaṃ bāhitattā brāhmaṇo: sakkāyadiṭṭhi bāhitā hoti, vicikicchā bāhitā hoti, sīlabbataparāmāso bāhito hoti, rāgo bāhito hoti, doso bāhito hoti, moho bāhito hoti, māno bāhito hoti, bāhitāssa honti pāpakā akusalā dhammā saṃkilesikā ponobhavikā sadarā dukkhavipākā āyatiṃ jātijarāmaraṇīyā.
“Bāhetvā sabbapāpakāni (sabhiyāti bhagavā) vimalo sādhu samāhito ṭhitatto, saṃsāramaticca kevalī so
asito tādī pavuccate sa brahmā.”
(Đức Thế Tôn dạy Sabhiya rằng:)
Sau khi loại trừ tất cả các điều ác, là người không còn bợn nhơ, tốt lành, định tỉnh, bản thân ổn định. Sau khi vượt qua luân hồi, vị ấy đã thành tựu. Không bị lệ thuộc, (vững chải) như thế ấy, vị ấy được gọi là Bà-la- môn.”
Thế Tôn liền đáp lại:
Hỡi này Sabhiya,
Ai loại khỏi ra ngoài,
Tất cả các ác pháp,
Không uế, khéo định tĩnh,
Kiên trì, vững an trú,
Vượt qua được luân hồi,
Hoàn toàn về mọi mặt,
Không y chỉ vị ấy,
Ðược gọi Bà-la-môn.
(Kinh Tập, câu kệ 519)
Na brāhmaṇo aññato suddhimāhā ti – brāhmaṇo aññena asuddhimaggena micchāpaṭipadāya aniyyāṇakapathena aññatra satipaṭṭhānehi aññatra sammappadhānehi aññatra iddhipādehi aññatra indriyehi aññatra balehi aññatra bojjhaṅgehi aññatra ariyena aṭṭhaṅgikena maggena suddhiṃ visuddhiṃ parisuddhiṃ muttiṃ vimuttiṃ parimuttiṃ nāha na katheti na bhaṇati na dīpayati na voharatī ’ti ‘na brāhmaṇo aññato suddhimāha.’
Diṭṭhe sute sīlavate mute vā ti – Santeke samaṇabrāhmaṇā diṭṭhasuddhikā. Te ekaccānaṃ rūpānaṃ dassanaṃ maṅgalaṃ paccenti, ekaccānaṃ rūpānaṃ dassanaṃ amaṅgalaṃ paccenti.
Katamesaṃ rūpānaṃ dassanaṃ maṅgalaṃ paccenti? Te kālato vuṭṭhahitvā abhimaṅgalagatāni rūpāni passanti: caṭaka sakuṇaṃ passanti, phussabeluvalaṭṭhiṃ passanti, gabbhinitthiṃ passanti, kumārakaṃ khandhe āropetvā gacchantaṃ passanti, puṇṇaghaṭaṃ passanti, rohitamacchaṃ passanti, ājaññaṃ passanti, ājaññarathaṃ passanti, usabhaṃ passanti, gokapilaṃ passanti; evarūpānaṃ rūpānaṃ dassanaṃ maṅgalaṃ paccenti.
Katamesaṃ rūpānaṃ dassanaṃ amaṅgalaṃ paccenti? Palālapuñjaṃ passanti, takkaghaṭaṃ passanti, rittaghaṭaṃ passanti, naṭaṃ passanti, naggasamaṇaṃ passanti, kharaṃ passanti, kharayānaṃ passanti, ekayuttayānaṃ passanti, kāṇaṃ passanti, kuṇiṃ passanti, khañjaṃ passanti, pakkhahataṃ passanti, jiṇṇakaṃ passanti, byādhitaṃ passanti, mataṃ passanti; evarūpānaṃ rūpānaṃ dassanaṃ amaṅgalaṃ paccenti.
Ime te samaṇabrāhmaṇā diṭṭhasuddhikā. Te diṭṭhena suddhiṃ visuddhiṃ parisuddhiṃ muttiṃ vimuttiṃ parimuttiṃ paccenti.
Santeke samaṇabrāhmaṇā sutasuddhikā. Te ekaccānaṃ saddānaṃ savaṇaṃ maṅgalaṃ paccenti, ekaccānaṃ saddānaṃ savaṇaṃ amaṅgalaṃ paccenti.
Katamesaṃ saddānaṃ savaṇaṃ maṅgalaṃ paccenti? Te kālato vuṭṭhahitvā abhimaṅgalagatāni saddāni suṇanti: vaḍḍhāti vā vaḍḍhamānāti vā puṇṇāti vā phussāti vā asokāti vā sumanāti vā sunakkhattāti vā sumaṅgalāti vā sirīti vā sirivaḍḍhāti vā; evarūpānaṃ saddānaṃ savaṇaṃ maṅgalaṃ paccenti.
Katamesaṃ saddānaṃ savaṇaṃ amaṅgalaṃ paccenti? Kāṇoti vā kuṇīti vā khañjoti vā pakkhahatoti vā jiṇṇakoti vā byādhitoti vā matoti vā chinnanti vā bhinnanti vā daḍḍhanti vā naṭṭhanti vā natthīti vā; evarūpānaṃ saddānaṃ savaṇaṃ amaṅgalaṃ paccenti.
Ime te samaṇabrāhmaṇā sutasuddhikā. Te sutena suddhiṃ visuddhiṃ parisuddhiṃ muttiṃ vimuttiṃ parimuttiṃ paccenti.
Santeke samaṇabrāhmaṇā sīlasuddhikā. Te sīlamattena saṃyamamattena saṃvaramattena avītikkamamattena suddhiṃ visuddhiṃ parisuddhiṃ muttiṃ vimuttiṃ parimuttiṃ paccenti.
Samaṇo maṇḍikāputto evamāha: “Catuhi kho ahaṃ thapati dhammehi samannāgataṃ purisapuggalaṃ paññāpemi sampannakusalaṃ paramakusalaṃ uttamapattippattaṃ samaṇaṃ ayojjhaṃ. Katamehi catuhi? Idha thapati4 na kāyena pāpakaṃ kammaṃ karoti, na pāpikaṃ vācaṃ bhāsati, na pāpakaṃ saṅkappaṃ saṅkappeti, na pāpakaṃ ājīvaṃ ājīvati. Imehi kho ahaṃ thapati4 catuhi dhammehi samannāgataṃ purisapuggalaṃ paññāpemi sampannakusalaṃ paramakusalaṃ uttamapattippattaṃ samaṇaṃ ayojjhaṃ” Evameva santeke samaṇabrāhmaṇā sīlasuddhikā. Te sīlamattena saṃyamamattena saṃvaramattena avītikkamamattena suddhiṃ visuddhiṃ parisuddhiṃ muttiṃ vimuttiṃ parimuttiṃ paccenti.
Santeke samaṇabrāhmaṇā vatasuddhikā. Te hatthivatikā vā honti, assavatikā vā honti, govatikā vā honti, kukkuravatikā vā honti, kākavatikā vā honti, vāsudevavatikā vā honti, baladevavatikā vā honti, puṇṇabhaddavatikā vā honti, maṇibhaddavatikā vā honti, aggivatikā vā honti, nāgavatikā vā honti, supaṇṇavatikā vā honti, yakkhavatikā vā honti, asuravatikā vā honti, gandhabbavatikā vā honti, mahārājavatikā vā honti, candavatikā vā honti, suriyavatikā vā honti, indavatikā vā honti, brahmavatikā vā honti, devavatikā vā honti, disāvatikā vā honti. Ime te samaṇabrāhmaṇā vatasuddhikā. Te vatena suddhiṃ visuddhiṃ parisuddhiṃ muttiṃ vimuttiṃ parimuttiṃ paccenti.
Santeke samaṇabrāhmaṇā mutasuddhikā. Te kālato vuṭṭhahitvā paṭhaviṃ āmasanti, haritaṃ āmasanti, gomayaṃ āmasanti, kacchapaṃ āmasanti, phālaṃ akkamanti, tilavāhaṃ āmasanti, phussa tilaṃ khādanti, phussatelaṃ makkhenti, phussadantakaṭṭhaṃ khādanti, phussamattikāya nahāyanti, phussasāṭakaṃ nivāsenti, phussaveṭhaṃ veṭhenti. Ime te samaṇabrāhmaṇā mutasuddhikā. Te mutena suddhiṃ visuddhiṃ parisuddhiṃ muttiṃ vimuttiṃ parimuttiṃ paccenti.
Na brāhmaṇo aññato suddhimāha diṭṭhe sute sīlavate mute vā ti brāhmaṇo diṭṭhasuddhiyāpi suddhiṃ nāha, sutasuddhiyāpi suddhiṃ nāha, sīlasuddhiyāpi suddhiṃ nāha, vatasuddhiyāpi suddhiṃ nāha, mutasuddhiyāpi suddhiṃ nāha, na katheti, na bhaṇati, na dīpayati, na voharatī ’ti ‘na brāhmaṇo aññato suddhimāha diṭṭhe sute sīlavate mute vā.’
Puññe ca pāpe ca anūpalitto ti – Puññaṃ vuccati yaṃ kiñci tedhātukaṃ kusalābhisaṅkhāraṃ, apuññaṃ vuccati sabbaṃ akusalaṃ. Yato puññābhisaṅkhāro ca apuññābhisaṅkhāro ca āneñjābhisaṅkhāro pahīnā honti ucchinnamūlā tālāvatthukatā anabhāvaṅgatā āyatiṃ anuppādadhammā, ettāvatā puññe ca pāpe ca na limpati na saṃlimpati, na upalimpati, alitto asaṃlitto anūpalitto nikkhanto nissaṭo vippamutto visaññutto vimariyādīkatena cetasā viharatī ’ti ‘puññe ca pāpe ca anūpalitto.’
Attañjaho nayidha pakubbamāno ti – ‘Attañjaho ’ti attadiṭṭhijaho, attaṃ jahoti gāhajaho, attaṃ jahoti taṇhāvasena diṭṭhivasena gahitaṃ parāmaṭṭhaṃ abhiniviṭṭhaṃ ajjhositaṃ adhimuttaṃ, sabbaṃ taṃ cattaṃ hoti vantaṃ muttaṃ pahīnaṃ paṭinissaṭṭhaṃ. Nayidha pakubbamāno ti Puññābhisaṅkhāraṃ vā apuññābhisaṅkhāraṃ vā āneñjābhisaṅkhāraṃ vā akubbamāno ajanayamāno asañjanayamāno anibbattayamāno anabhinibbattayamāno ’ti ‘attaṃ jaho nayidha pakubbamāno.’
Tenāha bhagavā:
“Na brāhmaṇo aññato suddhimāha diṭṭhe sute sīlavate mute vā, puññe ca pāpe ca anūpalitto attañjaho nayidha pakubbamāno”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Vị Bà-la-môn đã nói rằng sự trong sạch là không do (đạo lộ) khác, không liên quan đến điều đã được thấy, đến điều đã được nghe, đến giới và phận sự, hoặc đến điều đã được cảm giác, là người không bị vấy bẩn bởi phước và tội, buông bỏ tự ngã, không tạo tác (nghiệp gì) ở nơi đây.”
4.4
Purimaṃ pahāya aparaṃ sitā se ejānugā te na taranti saṅgaṃ, te uggahāyanti nirassajanti kapīva sākhaṃ pamukhaṅ gahāya.
Buông bỏ cái trước rồi nương vào cái khác, đeo đuổi dục vọng, những người ấy không vượt qua sự dính mắc. Họ nắm bắt rồi rời bỏ, tựa như con khỉ với việc nắm lấy cành cây trước mặt.
Từ bỏ tri kiến cũ,
Y chỉ tri kiến mới,
Ði đến sự tham đắm,
Không vượt qua ái dục;
Họ nắm giữ chấp trước,
Họ từ bỏ xa lánh,
Như khỉ thả cành này,
Rồi lại nắm cành khác.
(Kinh Tập, câu kệ 791)
Purimaṃ pahāya aparaṃ sitā se ti – Purimaṃ satthāraṃ pahāya aparaṃ satthāraṃ nissitā, purimaṃ dhammakkhānaṃ pahāya aparaṃ dhammakkhānaṃ nissitā, purimaṃ gaṇaṃ pahāya aparaṃ gaṇaṃ nissitā, purimaṃ diṭṭhiṃ pahāya aparaṃ diṭṭhiṃ nissitā, purimaṃ paṭipadaṃ pahāya aparaṃ paṭipadaṃ nissitā, purimaṃ maggaṃ pahāya aparaṃ maggaṃ nissitā sannissitā allīnā upagatā ajjhositā adhimuttā ’ti ‘purimaṃ pahāya aparaṃ sitā se.’
Ejānugā te na taranti saṅgan ti – Ejā vuccati taṇhā, yo rāgo sārāgo —pe— abhijjhā lobho akusalamūlaṃ. Ejānugā ti ejānugā ejānugatā ejānusaṭā ejāyāpannā patitā abhibhūtā pariyādinnacittā. Te na taranti saṅgan ti – rāgasaṅgaṃ dosasaṅgaṃ mohasaṅgaṃ mānasaṅgaṃ diṭṭhisaṅgaṃ kilesasaṅgaṃ duccaritasaṅgaṃ na taranti, na uttaranti, na samatikkamanti, na vītivattantī ’ti ‘ejānugā te na taranti saṅgaṃ.’
Te uggahāyanti nirassajantī ti – Satthāraṃ gaṇhanti, taṃ muñcitvā aññaṃ satthāraṃ gaṇhanti, dhammakkhānaṃ gaṇhanti, taṃ muñcitvā aññaṃ dhammakkhānaṃ gaṇhanti; gaṇaṃ gaṇhanti, taṃ muñcitvā aññaṃ gaṇaṃ gaṇhanti; diṭṭhiṃ gaṇhanti, taṃ muñcitvā aññaṃ diṭṭhiṃ gaṇhanti; paṭipadaṃ gaṇhanti, taṃ muñcitvā aññaṃ paṭipadaṃ gaṇhanti; maggaṃ gaṇhanti, taṃ muñcitvā aññaṃ maggaṃ gaṇhanti; gaṇhanti ca muñcanti ca ādiyanti ca nirassajanti cā ’ti ‘te uggahāyanti nirassajanti.’
Kapīva sākhaṃ pamukhaṅgahāyā ti – Yathā makkaṭo araññe pavane caramāno sākhaṃ gaṇhāti, taṃ muñcitvā aññaṃ sākhaṃ gaṇhāti, taṃ muñcitvā aññaṃ sākhaṃ gaṇhāti. Evameva puthu samaṇabrāhmaṇā puthu6diṭṭhigatāni gaṇhanti ca muñcanti ca ādiyanti ca nirassajanti cā ’ti ‘kapīva sākhaṃ pamukhaṅgahāya.’
Tenāha bhagavā:
“Purimaṃ pahāya aparaṃ sitā se ejānugā te na taranti saṅgaṃ, te uggahāyanti nirassajanti kapīva sākhaṃ pamukhaṅgahāyā ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Buông bỏ cái trước rồi nương vào cái khác, đeo đuổi dục vọng, những người ấy không vượt qua sự dính mắc. Họ nắm bắt rồi rời bỏ, tựa như con khỉ với việc nắm lấy cành cây trước mặt.”
4.5
Sayaṃ samādāya vatāni jantu uccāvacaṃ gacchati saññasatto, vidvā ca vedehi samecca dhammaṃ na uccāvacaṃ gacchati bhūripañño.
Người sau khi tự mình thọ trì các phận sự thì đi đến chỗ cao chỗ thấp, bị dính mắc vào tưởng; còn người hiểu biết, với các sự hiểu biết, sau khi thông hiểu pháp thì không đi đến chỗ cao chỗ thấp, là người có tuệ bao la.
Người tự mình chấp nhận,
Các chủng loại giới cấm,
Ði chỗ cao chỗ thấp,
Sống bị tưởng chi phối;
Người có trí rộng lớn,
Nhờ trí tuệ, quán pháp,
Có trí, không đi đến
Các pháp cao và thấp.
(Kinh Tập, câu kệ 792)
Sayaṃ samādāya vatāni jantū ti – Sayaṃ samādāyā ti sāmaṃ samādāya. Vatānī ti hatthivataṃ vā assavataṃ vā govataṃ vā kukkuravataṃ vā kākavataṃ vā vāsudevavataṃ vā baladevavataṃ vā puṇṇabhaddavataṃ vā maṇibhaddavataṃ vā aggivataṃ vā nāgavataṃ vā supaṇṇavataṃ vā yakkhavataṃ vā asuravataṃ vā ―pe― disāvataṃ vā, ādāya samādāya ādiyitvā samādiyitvā gaṇhitvā parāmasitvā abhinivisitvā. Jantū ti satto naro ―pe― manujo ’ti ‘sayaṃ samādāya vatāni jantu.’
Uccāvacaṃ gacchati saññasatto ti satthārato satthāraṃ gacchati, dhammakkhānato dhammakkhānaṃ gacchati, gaṇato gaṇaṃ gacchati, diṭṭhiyā diṭṭhiṃ gacchati, paṭipadāto paṭipadaṃ gacchati, maggato maggaṃ gacchati. Saññasatto ti kāmasaññāya vyāpādasaññāya vihiṃsāsaññāya diṭṭhisaññāya satto visatto āsatto laggo laggito paḷibuddho. Yathā bhittikhīle vā nāgadante vā bhaṇḍaṃ sattaṃ visattaṃ āsattaṃ laggaṃ laggitaṃ paḷibuddhaṃ; evameva kāmasaññāya vyāpādasaññāya vihiṃsāsaññāya diṭṭhisaññāya satto visatto āsatto laggo laggito paḷibuddho ’ti ‘uccāvacaṃ gacchati saññasatto.’
Vidvā ca vedehi samecca dhamman ti – Vidvā ti vidvā vijjāgato ñāṇī [buddhimā] vibhāvī medhāvī. Vedehī ti – vedā vuccanti catusu maggesu ñāṇaṃ, paññā paññindriyaṃ paññābalaṃ dhammavicayasambojjhaṅgo vīmaṃsā vipassanā sammādiṭṭhi, tehi vedehi jātijarāmaraṇassa antagato antappatto koṭigato koṭippatto pariyantagato pariyantappatto vosānagato vosānappatto tāṇagato tāṇappatto lenagato lenappatto saraṇagato saraṇappatto abhayagato abhayappatto accutagato accutappatto amatagato amatappatto nibbānagato nibbānappatto; vedānaṃ vā antagatoti vedagū, vedehi vā antaṃ gatoti vedagū, sattannaṃ vā dhammānaṃ viditattā vedagū: sakkāyadiṭṭhi viditā hoti, vicikicchā viditā hoti, sīlabbataparāmāso vidito hoti, rāgo vidito hoti, doso vidito hoti, moho vidito hoti, māno vidito hoti, viditāssa honti pāpakā akusalā dhammā saṃkilesikā ponobhavikā sadarā dukkhavipākā āyatiṃ jātijarāmaraṇīyā.
“Vedāni viceyya kevalāni (sabhiyāti bhagavā) samaṇānaṃ yānipatthi brāhmaṇānaṃ, sabbavedanāsu vītarāgo
sabbaṃ vedamaticca vedagū so ”ti.
(Đức Thế Tôn dạy Sabhiya rằng:)
“Sau khi suy xét về toàn bộ các sự hiểu biết mà các Sa- môn và Bà-la- môn có được, đã xa lìa sự luyến ái đối với tất cả các cảm thọ, sau khi đã vượt qua mọi hiểu biết, vị ấy là người hiểu biết sâu sắc.”
Thế Tôn liền đáp lại:
Hỡi này Sabhiya,
Ai quán sát Vệ-đà,
Hoàn toàn và toàn diện,
Ðược Sa-môn, Phạm chí,
Ðạt được rất đầy đủ,
Vị ấy gọi ly tham,
Trong tất cả cảm thọ,
Do vượt qua Vệ-đà,
Ðược gọi bậc Vệ-đà?
(Kinh Tập, câu kệ 529)
Vidvā ca vedehi samecca dhamman ti – Samecca abhisamecca dhammaṃ; ‘sabbe saṅkhārā aniccā ’ti samecca abhisamecca dhammaṃ; ‘sabbe saṅkhārā dukkhā ’ti samecca abhisamecca dhammaṃ; ‘avijjā paccayā saṅkharā ’ti samecca abhisamecca dhammaṃ; ‘saṅkhārapaccayā viññāṇan ’ti samecca abhisamecca dhammaṃ; ‘viññāṇapaccayā nāmarūpan ’ti, ‘nāmarūpapaccayā saḷāyatanan ’ti, ‘saḷāyatanapaccayā phasso ’ti ‘phassapaccayā vedanā ’ti, ‘vedanāpaccayā taṇhā ’ti, ‘taṇhāpaccayā upādānan ’ti, ‘upādānapaccayā bhavo ’ti, ‘bhavapaccayā jātī ’ti, ‘jātipaccayā jarāmaraṇan ’ti samecca abhisamecca dhammaṃ; ‘avijjānirodhā saṅkhāranirodho’ti samecca abhisamecca dhammaṃ; ‘saṅkhāranirodhā viññāṇanirodho’ti samecca abhisamecca dhammaṃ; ‘viññāṇanirodhā nāmarūpanirodho’ti ‘nāmarūpanirodhā saḷāyatananirodho ’ti; ‘saḷāyatananirodhā phassanirodho ’ti; ‘phassanirodhā vedanānirodho ’ti; ‘vedanānirodhā taṇhānirodho ’ti; ‘taṇhānirodhā upādānanirodho ’ti; ‘upādānanirodhā bhavanirodho ’ti; ‘bhavanirodhā jātinirodho ’ti; ‘jātinirodhā jarāmaraṇanirodho ’ti samecca abhisamecca dhammaṃ; ‘idaṃ dukkhan’ti samecca abhisamecca dhammaṃ; ‘ayaṃ dukkhasamudayo’ti; ‘ayaṃ dukkhanirodho ’ti ‘ayaṃ dukkhanirodhagāminīpaṭipadā ’ti samecca abhisamecca dhammaṃ; ‘ime āsavā ’ti samecca abhisamecca dhammaṃ; ‘ayaṃ āsavasamudayo ’ti ‘ayaṃ āsavanirodho ’ti, ‘ayaṃ āsavanirodhagāminīpaṭipadā ’ti samecca abhisamecca dhammaṃ, ‘ime dhammā abhiññeyyā ’ti samecca abhisamecca dhammaṃ, ‘ime dhammā pariññeyyā ’ti; ‘ime dhammā pahātabbā ’ti ‘ime dhammā bhāvetabbā ’ti; ‘ime dhammā sacchikātabbā ’ti samecca abhisamecca dhammaṃ; channaṃ phassāyatanānaṃ samudayañca atthaṅgamañca assādañca ādīnavañca nissaraṇañca samecca abhisamecca dhammaṃ; pañcannaṃ upādānakkhandhānaṃ samudayañca atthaṅgamañca assādañca ādīnavañca nissaraṇañca samecca abhisamecca dhammaṃ; catunnaṃ mahābhūtānaṃ samudayañca atthaṅgamañca assādañca ādīnavañca nissaraṇañca samecca abhisamecca dhammaṃ; ‘yaṃ kiñci samudayadhammaṃ, sabbaṃ taṃ nirodhadhamman ’ti samecca abhisamecca dhamman ’ti ‘vidvā ca vedehi samecca dhammaṃ.’
Na uccāvacaṃ gacchati bhūripañño ti – Na satthārato satthāraṃ gacchati, na dhammakkhānato dhammakkhānaṃ gacchati, na diṭṭhiyā diṭṭhiṃ gacchati, na paṭipadāya paṭipadaṃ gacchati, na maggato maggaṃ gacchati. Bhūripañño ti bhūripañño mahāpañño puthupañño hāsupañño javanapañño tikkhapañño nibbedhikapañño; bhūri vuccati paṭhavī, tāya paṭhavīsamāya paññāya vipulāya vitthatāya samannāgato ’ti ‘na uccāvacaṃ gacchati bhūripañño.’
Tenāha bhagavā:
“Sayaṃ samādāya vatāni jantu uccāvacaṃ gacchati saññasatto, vidvā ca vedehi samecca dhammaṃ na uccāvacaṃ gacchati bhūripañño ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Người sau khi tự mình thọ trì các phận sự thì đi đến chỗ cao chỗ thấp, bị dính mắc vào tưởng; còn người hiểu biết, với các sự hiểu biết, sau khi thông hiểu pháp thì không đi đến chỗ cao chỗ thấp, là người có tuệ bao la.”
4.6
Sa sabbadhammesu visenibhūto yaṃ kiñci diṭṭhaṃ va sutaṃ mutaṃ vā, tameva dassiṃ vivaṭaṃ carantaṃ kenīdha lokasmiṃ vikappayeyya.
Vị ấy, người diệt đạo binh ở tất cả các pháp, về bất cứ điều gì đã được thấy, đã được nghe, hoặc đã được cảm giác. Vi ấy, người có nhãn quan như thế, đang hành xử rõ ràng, thì có thể chi phối vị ấy bởi điều gì ở thế gian này?
Vị ấy đạt thù thắng,
Trong tất cả các pháp,
Phàm có điều thấy, nghe,
Hay cảm thọ, tưởng đến;
Với vị tri kiến vậy,
Sống đời sống rộng mở,
Không bị ai ở đời,
Có thể chi phối được.
(Kinh Tập, câu kệ 793)
Sa sabbadhammesu visenibhūto yaṃ kiñci diṭṭhaṃ va sutaṃ mutaṃ vā ti senā vuccati mārasenā; kāyaduccaritaṃ mārasenā, vacīduccaritaṃ mārasenā, manoduccaritaṃ mārasenā, rāgo mārasenā, doso mārasenā, moho mārasenā, kodho ― upanāho ―pe― sabbākusalābhisaṅkhārā mārasenā. Vuttaṃ hetaṃ bhagavatā:
1. “Kāmā te paṭhamā senā dutiyā arati vuccati, tatiyā khuppipāsā te catutthī taṇhā pavuccati.
1. Các dục là đạo binh thứ nhất của ngươi, thứ nhì gọi là sự không hứng thú, thứ ba của ngươi là đói và khát, thứ tư gọi là tham ái.
Dục, đội quân thứ nhất.
Thứ hai, gọi bất lạc,
Thứ ba, đói và khát,
Thứ tư, gọi tham ái.
(Kinh Tập, câu kệ 436)
2. Pañcamī thīnamiddhaṃ te chaṭṭhā bhīrū pavuccati, sattamī vicikicchā te makkho thambho te aṭṭhamo.
2. Thứ năm của ngươi là dã dượi và buồn ngủ, thứ sáu gọi là sợ sệt, thứ bảy của ngươi là hoài nghi, thứ tám của ngươi là gièm pha, bướng bỉnh.Năm, hôn trầm thụy miên,Thứ sáu, gọi sợ hãi,
Thứ bảy, gọi nghi ngờ,Tám, dèm pha ngoan cố.
(Kinh Tập, câu kệ 437)
3. Lābho siloko sakkāro micchāladdho ca yo yaso, yo cattānaṃ samukkaṃse pare ca avajānati.
3. Lợi lộc, danh tiếng, tôn vinh, và danh vọng nào đã đạt được sai trái, kẻ nào đề cao bản thân và khi dễ những người khác, …Lợi, danh và cung kính,Danh vọng được tà vạy,
Ai tự đề cao mình,Hủy báng các người khác.
(Kinh Tập, câu kệ 438)
4. Esā namuci te senā kaṇhassābhippahāriṇī, na naṃ asūro jināti jetvā ca labhate sukhan ”ti.
4. Này Namuci, chúng là đạo binh của ngươi, là toán xung kích của Kaṇha. Kẻ khiếp nhược không chiến thắng nó, và sau khi chiến thắng thì đạt được sự an lạc.
Ôi, này Na-mu-ci,
Ðây là quân đội Ngươi,
Ðây quân đội chiến trận,
Của dòng họ Kanhà,
Kẻ nhát, không thắng Ngươi,
Ai thắng Ngươi, được lạc.
(Kinh Tập, câu kệ 439)
Yato catuhi ariyamaggehi sabbā ca mārasenā sabbe ca paṭisenikarā kilesā jitā ca parājitā ca bhaggā vippaluggā parammukhā, so vuccati visenibhūto; so diṭṭhe visenibhūto suto visenibhūto mute visenibhūto viññāte visenibhūto ’ti ‘sa sabbadhammesu visenibhūto yaṃ kiñci diṭṭhaṃ va sutaṃ mutaṃ vā.’
Tameva dassiṃ vivaṭaṃ carantan ti – tameva suddhadassiṃ visuddhadassiṃ parisuddhadassiṃ vodānadassiṃ pariyodānadassiṃ; athavā suddhadassanaṃ visuddhadassanaṃ parisuddhadassanaṃ vodānadassanaṃ pariyodānadassanaṃ. Vivaṭan ti taṇhāchadanaṃ diṭṭhichadanaṃ kilesachadanaṃ duccaritachadanaṃ, tāni chadanāni vivaṭāni honti viddhaṃsitāni ugghāṭitāni samugghāṭitāni pahīnāni samucchinnāni vūpasantāni paṭippassaddhāni abhabbuppattikāni ñāṇagginā daḍḍhāni. Carantan ti carantaṃ vicarantaṃ [viharantaṃ] irīyantaṃ vattentaṃ pālentaṃ yapentaṃ yāpentan ’ti ‘tameva dassiṃ vivaṭaṃ carantaṃ.’
Kenīdha lokasmiṃ vikappayeyyā ti – Kappā ti dve kappā: taṇhākappo ca diṭṭhikappo ca ―pe― ayaṃ taṇhākappo ―pe― ayaṃ diṭṭhikappo. Tassa taṇhākappo pahīno, diṭṭhikappo paṭinissaṭṭho. Taṇhākappassa pahīnattā diṭṭhikappassa paṭinissaṭṭhattā kena rāgena kappeyya, kena dosena kappeyya, kena mohena kappeyya, kena mānena kappeyya, kāya diṭṭhiyā kappeyya, kena uddhaccena kappeyya, kāya vicikicchāya kappeyya, kehi anusayehi kappeyya rattoti vā duṭṭhoti vā mūḷhoti vā vinibaddhoti vā parāmaṭṭhoti vā vikkhepagatoti vā aniṭṭhaṃ gatoti vā thāmagatoti vā? Te abhisaṅkhārā pahīnā. Abhisaṅkhārānaṃ pahīnattā gatiyā kena kappeyya nerayikoti vā, tiracchānayonikoti vā, pettivisayikoti vā, manussoti vā, devoti vā, rūpīti vā, arūpīti vā, saññīti vā, asaññīti vā, nevasaññīnāsaññīti vā? So hetu natthi paccayo natthi kāraṇaṃ natthi, yena kappeyya vikappeyya vikappaṃ āpajjeyya. Lokasmin ti apāyaloke manussaloke devaloke khandhaloke dhātuloke āyatanaloke ’ti ‘kenīdha lokasmiṃ vikappayeyya.’
Tenāha bhagavā:
“Sa sabbadhammesu visenibhūto yaṃ kiñci diṭṭhaṃ va sutaṃ mutaṃ vā, tameva dassiṃ vivaṭaṃ carantaṃ kenīdha lokasmiṃ vikappayeyyā ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Vị ấy, người diệt đạo binh ở tất cả các pháp, về bất cứ điều gì đã thấy, đã nghe, hoặc đã cảm giác. Vị ấy, người có nhãn quan như thế, đang hành xử rõ ràng, thì có thể chi phối vị ấy bởi điều gì ở thế gian này?”
4.7
Na kappayanti na purekkharonti accantasuddhinti na te vadanti, ādānaganthaṃ gathitaṃ visajja āsaṃ na kubbanti kuhiñci loke.
Các vị ấy không tác động, không chú trọng, không nói về sự trong sạch tột cùng. Sau khi tháo gỡ sự trói buộc vào chấp thủ đã bị buộc trói, các vị không tạo nên niềm mong mỏi ở bất cứ đâu ở thế gian.
Họ không tác thành gì,
Họ không đề cao gì,
Họ không có nói lên,
Ðây tối thắng thanh tịnh,
Không dính líu tham đắm,
Mọi chấp trước triền phược,
Họ không tạo tham vọng,
Bất cứ đâu ở đời.
(Kinh Tập, câu kệ 794)
Na kappayanti na purekkharontī ti – Kappā ti dve kappā: taṇhākappo ca diṭṭhikappo ca ―pe― ayaṃ taṇhākappo ―pe― ayaṃ diṭṭhikappo. Tesaṃ taṇhākappo pahīno, diṭṭhikappo paṭinissaṭṭho. Taṇhākappassa pahīnattā diṭṭhikappassa paṭinissaṭṭhattā taṇhākappaṃ vā diṭṭhikappaṃ vā na kappenti na janenti na sañjanenti na nibbattenti nābhinibbattentīti na kappayanti. Na purekkharontī ti – Purekkhārā ti dve purekkhārā: taṇhāpurekkhāro ca diṭṭhipurekkhāro ca. ―pe― ayaṃ diṭṭhipurekkhāro ―pe― ayaṃ taṇhāpurekkhāro. Tesaṃ taṇhāpurekkhāro pahīno, diṭṭhipurekkhāro paṭinissaṭṭho. Taṇhāpurekkhārassa pahīnattā diṭṭhipurekkhārassa paṭinissaṭṭhattā na taṇhaṃ vā na diṭṭhiṃ vā purato katvā caranti; na taṇhādhajā na taṇhāketu na taṇhādhipateyyā na diṭṭhidhajā na diṭṭhiketu4 na diṭṭhādhipateyyā, na taṇhāya vā na diṭṭhiyā vā parivāritā carantī ’ti ‘na kappayanti na purekkharonti.’
Accantasuddhinti na te vadantī ti – accantasuddhiṃ saṃsārasuddhiṃ akiriyadiṭṭhiṃ sassatavādaṃ na vadanti na kathenti na bhaṇanti na dīpayanti na voharantī ’ti ‘accantasuddhiṃ ti na te vadanti.’
Ādānaganthaṃ gathitaṃ visajjā ti – Ganthā ti cattāro ganthā: abhijjhā kāyagantho, byāpādo kāyagantho, sīlabbataparāmāso kāyagantho, idaṃsaccābhiniveso kāyagantho. Attano diṭṭhiyā rāgo abhijjhā kāyagantho. Paravādesu āghāto appaccayo byāpādo kāyagantho. Attano sīlaṃ vā vataṃ vā sīlabbataṃ vā parāmasantīti sīlabbataparāmāso kāyagantho. Attano diṭṭhi idaṃsaccābhiniveso kāyagantho. Kiṃ kāraṇā vuccati ādānagantho? Tehi ganthehi rūpaṃ ādiyanti upādiyanti gaṇhanti parāmasanti abhinivisanti, vedanaṃ saññaṃ saṅkhāre viññāṇaṃ gatiṃ uppattiṃ paṭisandhiṃ bhavaṃ saṃsāravaṭṭaṃ ādiyanti upādiyanti gaṇhanti parāmasanti abhinivisanti. Taṃkāraṇā vuccati ādānagantho. Visajjā ti ganthe vossajitvā vā visajja; athavā ganthe gathite ganthite bandhe vibandhe ābandhe lagge laggite paḷibuddhe bandhane poṭhayitvā visajja. Yathā vayhaṃ vā rathaṃ vā sakaṭaṃ vā sandamānikaṃ vā sajjaṃ visajjaṃ karonti vikopenti, evamevaṃ ganthe vossajitvā vā visajja; athavā ganthe gathite ganthite bandhe vibandhe ābandhe lagge laggite paḷibuddhe bandhane poṭhayitvā visajjā ’ti ‘ādānaganthaṃ gathitaṃ visajja.’
Āsaṃ na kubbanti kuhiñci loke ti – Āsā vuccati taṇhā yo rāgo sārāgo —pe— abhijjhā lobho akusalamūlaṃ. Āsaṃ na kubbantī ti āsaṃ na kubbanti na janenti na sañjanenti na nibbattenti na abhinibbattenti. Kuhiñcī ti kuhiñci kimhici katthaci ajjhattaṃ vā bahiddhā vā ajjhattabahiddhā vā. Loke ti apāyaloke —pe— āyatanaloke ’ti ‘āsaṃ na kubbanti kuhiñci loke.’
Tenāha bhagavā:
“Na kappayanti na purekkharonti accantasuddhinti na te vadanti, ādānaganthaṃ gathitaṃ visajja āsaṃ na kubbanti kuhiñci loke ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Các vị ấy không tác động, không chú trọng, không nói về sự trong sạch tột cùng. Sau khi tháo gỡ sự trói buộc vào chấp thủ đã bị cột trói, các vị không tạo nên niềm mong mỏi ở bất cứ đâu ở thế gian.”
4.8
Sīmātigo brāhmaṇo tassa natthi ñatvā ca disvā ca samuggahītaṃ, na rāgarāgī na virāgaratto tassīdha natthi paramuggahītaṃ.
Vị Bà-la-môn, có sự vượt quá ranh giới, đối với vị ấy không có điều gì được ôm giữ, sau khi đã biết và sau khi đã thấy, không có sự luyến ái với ái dục, không bị luyến ái ở pháp ly ái dục; đối với vị ấy, điều tối thắng được ôm giữ là không có ở nơi đây.
Với vị Bà-la-môn
Ðã vượt khỏi biên giới,
Sau khi biết và thấy,
Không có kiến chấp trước.
Tham ái không chi phối,
Cũng không tham, ly tham,
Vị ấy ở đời này,
Không chấp thủ gì khác.
(Kinh Tập, câu kệ 795)
Sīmātigo brāhmaṇo tassa natthi ñatvā ca disvā ca samuggahītan ti – Sīmā ti catasso sīmāyo: sakkāyadiṭṭhi vicikicchā sīlabbataparāmāso diṭṭhānusayo vicikicchānusayo tadekaṭṭhā ca kilesā, ayaṃ paṭhamā sīmā. Oḷārikaṃ kāmarāgasaññojanaṃ paṭighasaññojanaṃ oḷāriko kāmarāgānusayo paṭighānusayo tadekaṭṭhā ca kilesā, ayaṃ dutiyā sīmā. Anusahagataṃ kāmarāgasaññojanaṃ paṭighasaññojanaṃ anusahagato kāmarāgānusayo paṭighānusayo tadekaṭṭhā ca kilesā, ayaṃ tatiyā sīmā. Rūparāgo arūparāgo māno uddhaccaṃ avijjā mānānusayo bhavarāgānusayo avijjānusayo tadekaṭṭhā ca kilesā, ayaṃ catutthā sīmā. Yato ca catuhi ariyamaggehi imā catasso sīmāyo atikkanto hoti samatikkanto vītivatto, so vuccati sīmātigo.
Vị Bà-la-môn, có sự vượt quá ranh giới, đối với vị ấy không có điều gì được ôm giữ, sau khi đã biết và sau khi đã thấy: Ranh giới – Có bốn ranh giới: sự nhận thức sai trái về thân, sự hoài nghi, sự bám víu vào giới và phận sự, tà kiến tiềm ẩn, hoài nghi tiềm ẩn, và các phiền não cộng trú với mỗi pháp ấy; đây là ranh giới thứ nhất. Sự ràng buộc của ái dục (sự luyến ái về dục) và sự ràng buộc của bất bình có tính chất thô thiển, ái dục tiềm ẩn và bất bình tiềm ẩn có tính chất thô thiển, và các phiền não cộng trú với mỗi pháp ấy; đây là ranh giới thứ nhì. Sự ràng buộc của ái dục và sự ràng buộc của bất bình có tính chất vi tế, ái dục tiềm ẩn và bất bình tiềm ẩn có tính chất vi tế, và các phiền não cộng trú với mỗi pháp ấy; đây là ranh giới thứ ba. Ái sắc, ái vô sắc, ngã mạn, phóng dật, vô minh, ngã mạn tiềm ẩn, hữu ái tiềm ẩn, vô minh tiềm ẩn, các phiền não cộng trú với mỗi pháp ấy; đây là ranh giới thứ tư. Và từ khi vượt trội, vượt qua, vượt trên hẳn bốn ranh giới nhờ vào bốn Thánh Đạo này, vị ấy được gọi là có sự vượt quá ranh giới.
Brāhmaṇo ti – sattannaṃ dhammānaṃ bāhitattā brāhmaṇo; sakkāyadiṭṭhi bāhitā hoti, vicikicchā bāhitā hoti, sīlabbataparāmāso bāhito hoti —pe— asito tādī pavuccate sa brahmā. Tassā ti arahato khīṇāsavassa. Ñatvā ti paracittañāṇena vā ñatvā, pubbenivāsānussatiñāṇena vā ñatvā. Disvā ti – maṃsacakkhunā vā disvā, dibbacakkhunā vā disvā. Sīmātigo brāhmaṇo tassa natthi ñatvā ca disvā ca samuggahītan ti – Tassa idaṃ paramaṃ aggaṃ seṭṭhaṃ viseṭṭhaṃ pāmokkhaṃ uttamaṃ pavaranti gahitaṃ parāmaṭṭhaṃ abhiniviṭṭhaṃ adhimuttaṃ natthi na santi na saṃvijjati nūpalabbhati pahīnaṃ samucchinnaṃ vūpasantaṃ paṭippassaddhaṃ abhabbuppattikaṃ ñāṇagginā daḍḍhan ’ti ‘sīmātigo brāhmaṇo tassa natthi ñatvā ca disvā ca samuggahītaṃ.’
Vị Bà-la-môn: Bà-la-môn do trạng thái đã loại trừ bảy pháp: sự nhận thức sai trái về thân được loại trừ, sự hoài nghi được loại trừ, sự bám víu vào giới và phận sự được loại trừ, —như trên— Không bị lệ thuộc, (vững chải) như thế ấy, vị ấy được gọi là Bà-la-môn. Đối với vị ấy: Đối với vị A-la-hán có lậu hoặc đã cạn kiệt. Sau khi đã biết: Sau khi đã biết bằng trí biết tâm người khác hoặc sau khi đã biết bằng trí nhớ về các kiếp sống trước. Sau khi đã thấy: sau khi đã thấy bằng nhục nhãn hoặc sau khi đã thấy bằng Thiên nhẫn. Vị Bà-la-môn, có sự vượt quá ranh giới, đối với vị ấy không có điều gì được ôm giữ, sau khi đã biết và sau khi đã thấy – Đối với vị ấy, điều đã nắm giữ, đã bám víu, đã cố chấp, đã hướng đến rằng: ‘Cái này là tối thắng, cao cả, nhất hạng, thù thắng, dẫn đầu, tối thượng, cao quý’ là không có, không hiện diện, không tìm thấy, không tồn tại, được dứt bỏ, được trừ tuyệt, được vắng lặng, được tịch tịnh, không thể sanh khởi nữa, đã bị thiêu đốt bởi ngọn lửa trí tuệ. ‘Vị Bà-la-môn, có sự vượt quá ranh giới, đối với vị ấy không có điều gì được ôm giữ, sau khi đã biết và sau khi đã thấy’ là thế ấy.
Na rāgarāgī na virāgaratto ti – Rāgarattā vuccanti ye pañcasu kāmaguṇesu rattā giddhā gathitā mucchitā ajjhopannā laggā laggitā paḷibuddhā. Virāgarattā vuccanti ye rūpāvacara-arūpāvacara-samāpattīsu rattā giddhā gathitā mucchitā ajjhopannā laggā laggitā paḷibuddhā. Na rāgarāgī na virāgaratto ti yato kāmarāgo ca rūparāgo ca arūparāgo ca pahīnā honti ucchinnamūlā tālāvatthukatā anabhāvakatā āyatiṃ anuppādadhammā, ettāvatā ‘na rāgarāgī na virāgaratto.’
Không có sự luyến ái với ái dục, không bị luyến ái ở pháp ly ái dục – Bị luyến ái ở ái dục nói đến những người nào bị luyến ái, bị thèm khát, bị buộc trói, bị mê mẫn, bị gần gũi, máng vào, bị vướng vào, bị giữ lại ở năm loại dục. Bị luyến ái ở pháp ly ái dục nói đến những người nào bị luyến ái, bị thèm khát, bị buộc trói, bị mê mẫn, bị gần gũi, máng vào, bị vướng vào, bị giữ lại ở các sự thể nhập vào cảnh sắc giới và cảnh vô sắc giới. Không có sự luyến ái với ái dục, không bị luyến ái ở pháp ly ái dục: Từ khi sự luyến ái ở dục giới, sự luyến ái ở sắc giới, và sự luyến ái ở vô sắc giới được dứt bỏ, có rễ được cắt lìa, như cây thốt nốt bị bứng gốc, khiến cho không còn hiện hữu, không còn điều kiện sanh khởi trong tương lai, cho đến như thế là ‘không có sự luyến ái với ái dục, không bị luyến ái ở pháp ly ái dục.’
Tassīdha natthi paramuggahītan ti – Tassā ti arahato khīṇāsavassa; tassa idaṃ paramaṃ aggaṃ seṭṭhaṃ viseṭṭhaṃ pāmokkhaṃ uttamaṃ pavaranti gahitaṃ parāmaṭṭhaṃ abhiniviṭṭhaṃ ajjhositaṃ adhimuttaṃ natthi na santi na saṃvijjati nūpalabbhati pahīnaṃ samucchinnaṃ vūpasantaṃ paṭippassaddhaṃ abhabbuppattikaṃ ñāṇagginā daḍḍhan ’ti ‘tassīdha natthi paramuggahītaṃ.’
Đối với vị ấy, điều tối thắng được ôm giữ là không có ở nơi đây – Đối với vị ấy: Đối với vị A-la-hán có lậu hoặc đã cạn kiệt. Đối với vị ấy, điều đã nắm giữ, đã bám víu, đã cố chấp, đã hướng đến rằng: ‘Cái này là tối thắng, cao cả, nhất hạng, thù thắng, dẫn đầu, tối thượng, cao quý’ là không có, không hiện diện, không tìm thấy, không tồn tại, được dứt bỏ, được trừ tuyệt, được vắng lặng, được tịch tịnh, không thể sanh khởi nữa, đã bị thiêu đốt bởi ngọn lửa trí tuệ. ‘Đối với vị ấy, điều tối thắng được ôm giữ là không có ở nơi đây’ là thế ấy.
Tenāha bhagavā:
“Sīmātigo brāhmaṇo tassa natthi ñatvā ca disvā ca samuggahītaṃ, na rāgarāgī na virāgaratto, tassīdha natthi paramuggahītan ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Vị Bà-la-môn, có sự vượt quá ranh giới, đối với vị ấy không có điều gì được ôm giữ, sau khi đã biết và sau khi đã thấy, không có sự luyến ái với ái dục, không bị luyến ái ở pháp ly ái dục; đối với vị ấy, điều tối thắng được ôm giữ là không có ở nơi đây.”
Suddhaṭṭhakasuttaniddeso tatiyo.
Diễn Giải Kinh Nhóm Tám về Trong Sạch là thứ tư.
5. PARAMAṬṬHAKASUTTANIDDESO – DIỄN GIẢI KINH NHÓM TÁM VỀ TỐI THẮNG
5.1
Atha paramaṭṭhakasuttaniddeso vuccati.
Giờ Diễn Giải Kinh Nhóm Tám về Tối Thắng được nói đến:
Paramanti diṭṭhīsu paribbasāno yaduttariṃ kurute jantu loke, hīnāti aññe tato sabbamāha tasmā vivādāni avītivatto.
Trong khi sống trong các tà kiến (nghĩ là) ‘tối thắng,’ con người làm cho điều ấy nổi trội ở thế gian. Kẻ đã nói so với điều ấy tất cả những cái khác là ‘thấp thỏi,’ vì thế không vượt lên trên các sự tranh luận.
(V) Kinh Tối Thắng tám kệ (Sn 156)
Ai thiên trú trong kiến,
Xem kiến ấy tối thắng,
Ở đời đặt kiến ấy,
Vào địa vị tối thượng.
Người ấy nói tất cả,
Người khác là hạ liệt,
Do vậy không vượt khỏi,
Sự tranh luận ở đời.
(Kinh Tập, câu kệ 796)
Paramanti diṭṭhīsu paribbasāno ti – Santeke samaṇabrāhmaṇā diṭṭhigatikā, te dvāsaṭṭhiyā diṭṭhigatānaṃ aññataraññataraṃ diṭṭhigataṃ idaṃ paramaṃ aggaṃ seṭṭhaṃ viseṭṭhaṃ pāmokkhaṃ uttamaṃ pavaran ’ti gahetvā uggahetvā gaṇhitvā parāmasitvā abhinivisitvā sakāya sakāya diṭṭhiyā vasanti āvasanti parivasanti. Yathā agārikā vā gharesu vasanti, sāpattikā vā āpattīsu vasanti, sakilesā vā kilesesu vasanti, evameva santeke samaṇabrāhmaṇā diṭṭhigatikā, te dvāsaṭṭhiyā diṭṭhigatānaṃ aññataraññataraṃ diṭṭhigataṃ idaṃ paramaṃ aggaṃ seṭṭhaṃ viseṭṭhaṃ pāmokkhaṃ uttamaṃ pavaranti gahetvā uggahetvā gaṇhitvā abhinivisitvā sakāya sakāya diṭṭhiyā vasanti āvasanti parivasantī ’ti ‘paramanti diṭṭhīsu paribbasāno.’
Yaduttariṃ kurute jantu loke ti – Yadu ti yaṃ. Uttariṃ kurute ti uttariṃ karoti aggaṃ seṭṭhaṃ viseṭṭhaṃ pāmokkhaṃ uttamaṃ pavaraṃ karoti – Ayaṃ satthā sabbaññūti uttariṃ karoti aggaṃ seṭṭhaṃ viseṭṭhaṃ pāmokkhaṃ uttamaṃ pavaraṃ karoti. Ayaṃ dhammo svākkhāto, ayaṃ gaṇo supaṭipanno, ayaṃ diṭṭhi bhaddikā, ayaṃ paṭipadā supaññattā, ayaṃ maggo niyyānikoti uttariṃ karoti aggaṃ seṭṭhaṃ viseṭṭhaṃ pāmokkhaṃ uttamaṃ pavaraṃ karoti nibbatteti abhinibbatteti. Jantū ti satto naro —pe— manujo. Loke ti apāyaloke —pe— āyatanaloke ’ti ‘yaduttariṃ kurute jantu loke.’
Hīnāti aññe tato sabbamāhā ti – Attano satthāraṃ dhammakkhānaṃ gaṇaṃ diṭṭhiṃ paṭipadaṃ maggaṃ ṭhapetvā sabbe paravāde khipati ukkhipati parikkhipati: so satthā na sabbaññū, dhammo na svākkhāto, gaṇo na supaṭipanno, diṭṭhi na bhaddikā, paṭipadā na supaññattā, maggo na niyyāniko, na tattha suddhi vā visuddhi vā parisuddhi vā mutti vā vimutti vā parimutti vā, natthettha sujjhanti vā visujjhanti vā parisujjhanti vā muccanti vā vimuccanti vā parimuccanti vā, hīnā nihīnā omakā lāmakā chattakā parittāti evamāha evaṃ katheti evaṃ bhaṇati evaṃ dīpayati evaṃ voharatī ’ti ‘hīnāti aññe tato sabbamāha.’
Tasmā vivādāni avītivatto ti – Tasmā ti tasmā taṃkāraṇā taṃhetu tappaccayā tannidānā. Vivādānī ti diṭṭhikalahāni diṭṭhibhaṇḍanāni diṭṭhiviggahāni diṭṭhivivādāni diṭṭhimedhagāni. Avītivatto ti anatikkanto asamatikkanto avītivatto ’ti ‘tasmā vivādāni avītivatto.’
Tenāha bhagavā:
“Paramanti diṭṭhīsu paribbasāno yaduttariṃ kurute jantu loke, hīnāti aññe tato sabbamāha tasmā vivādāni avītivatto ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
Trong khi sống trong các tà kiến (nghĩ là) ‘tối thắng,’ con người làm cho điều ấy nổi trội ở thế gian. Kẻ đã nói so với điều ấy tất cả những cái khác là ‘thấp thỏi,’ vì thế không vượt lên trên các sự tranh luận.
5.2
Yadattanī passati ānisaṃsaṃ diṭṭhe sute sīlavate mute vā, tadeva so tattha samuggahāya nihīnato passati sabbamaññaṃ.
Người nhìn thấy cái gì đó ở điều đã được thấy, ở điều đã được nghe, ở giới và phận sự, hoặc ở điều đã được cảm giác là sự lợi ích cho bản thân, sau khi ôm giữ chính cái (tà kiến) ấy tại nơi đó, người ấy nhìn thấy mọi cái khác đều là hèn kém.Khi nó thấy lợi ích,
Ðến với tự ngã nó,
Ðối với vật thấy nghe,
Giới đức hay thọ tưởng;
Vị ấy ở tại đấy,
Liền chấp trước nắm giữ,
Nó thấy mọi người khác,
Là hạ liệt thấp kém.
(Kinh Tập, câu kệ 797)
Yadattanī passati ānisaṃsaṃ diṭṭhe sute sīlavate mute vā ti – Yadattanī ti yaṃ attani. Attā vuccati diṭṭhigataṃ. Attano diṭṭhiyā dve ānisaṃse passati: diṭṭhadhammikañca ānisaṃsaṃ samparāyikañca ānisaṃsaṃ.
Katamo diṭṭhiyā diṭṭhadhammiko ānisaṃso? Yandiṭṭhiko satthā hoti, tandiṭṭhikā sāvakā honti, tandiṭṭhikaṃ satthāraṃ sāvakā sakkaronti garukaronti mānenti pūjenti, labhati ca tatonidānaṃ cīvarapiṇḍapātasenāsanagilānappaccayabhesajjaparikkhāraṃ. Ayaṃ diṭṭhiyā diṭṭhadhammiko ānisaṃso.
Katamo diṭṭhiyā samparāyiko ānisaṃso? Ayaṃ diṭṭhi alaṃ nāgattāya vā supaṇṇattāya vā yakkhattāya vā asurattāya vā gandhabbattāya vā mahārājattāya vā indattāya vā brahmattāya vā devattāya vā, ayaṃ diṭṭhi alaṃ suddhiyā visuddhiyā parisuddhiyā muttiyā vimuttiyā parimuttiyā, imāya diṭṭhiyā sujjhanti visujjhanti parisujjhanti muccanti vimuccanti parimuccanti, imāya diṭṭhiyā sujjhissāmi visujjhissāmi parisujjhissāmi muccissāmi vimuccissāmi parimuccissāmīti āyatiṃ phalapāṭikaṅkhī hoti. Ayaṃ diṭṭhiyā samparāyiko ānisaṃso. Attano diṭṭhiyā ime dve ānisaṃse passati.
Diṭṭhasuddhiyāpi dve ānisaṃse passati ― sutasuddhiyāpi dve ānisaṃse passati ― sīlasuddhiyāpi dve ānisaṃse passati ― vatasuddhiyāpi dve ānisaṃse passati ― mutasuddhiyāpi dve ānisaṃse passati: diṭṭhadhammikañca ānisaṃsaṃ samparāyikañca ānisaṃsaṃ.
Katamo mutasuddhiyā diṭṭhadhammiko ānisaṃso? Yandiṭṭhiko satthā hoti, tandiṭṭhikā sāvakā honti ―pe― Ayaṃ mutasuddhiyā diṭṭhadhammiko ānisaṃso.
Katamo mutasuddhiyā samparāyiko ānisaṃso? Ayaṃ diṭṭhi alaṃ nāgattāya vā ―pe― Ayaṃ mutasuddhiyā samparāyiko ānisaṃso. Mutasuddhiyāpi ime dve ānisaṃse passati dakkhati oloketi nijjhāyati upaparikkhatī ’ti ‘yadattanī passati ānisaṃsaṃ diṭṭhe sute sīlavate mute vā.’
Tadeva so tattha samuggahāyā ti – Tadevā ti taṃ diṭṭhigataṃ. Tatthā ti sakāya diṭṭhiyā sakāya khantiyā sakāya ruciyā sakāya laddhiyā. Samuggahāyā ti – Idaṃ paramaṃ aggaṃ seṭṭhaṃ viseṭṭhaṃ pāmokkhaṃ uttamaṃ pavaranti gahetvā uggahetvā gaṇhitvā parāmasitvā abhinivisitvā ’ti ‘tadeva so tattha samuggahāya.’
Nihīnato passati sabbamaññan ti aññaṃ satthāraṃ dhammakkhānaṃ gaṇaṃ diṭṭhiṃ paṭipadaṃ maggaṃ hīnato nihīnato omakato lāmakato chattakato parittato dissati passati dakkhati oloketi nijjhāyati upaparikkhatī ’ti ‘nihīnato passati sabbamaññaṃ.’
Tenāha bhagavā:
“Yadattanī passati ānisaṃsaṃ diṭṭhe sute sīlavate mute vā, tadeva so tattha samuggahāya nihīnato passati sabbamaññan ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Người nhìn thấy cái gì đó là sự lợi ích cho bản thân ở điều đã được thấy, ở điều đã được nghe, ở giới và phận sự, hoặc ở điều đã được cảm giác là sự lợi ích cho bản thân, sau khi ôm giữ chính cái (tà kiến) ấy tại nơi đó, người ấy nhìn thấy mọi cái khác đều là hèn kém.”
5.3
Taṃ cāpi ganthaṃ kusalā vadanti yannissito passati hīnamaññaṃ, tasmā hi diṭṭhaṃ va sutaṃ mutaṃ vā
sīlabbataṃ bhikkhu na nissayeyya.
Hơn nữa, điều ấy các bậc thiện xảo gọi là sự trói buộc, người bị nương tựa vào điều ấy nhìn thấy cái khác là thấp hèn. Chính vì thế, vị tỳ khưu không nên nương tựa vào điều đã được thấy, điều đã được nghe, điều đã được cảm giác, hoặc vào giới và phận sự.
Người y chỉ kiến ấy,
Thấy người khác hạ liệt,
Bậc thiện nói như vậy,
Ðấy là sự trói buộc;
Do vậy đối thấy nghe,
Thọ, tưởng hay giới cấm,
Bậc Tỷ-kheo không có
Y chỉ, nương tựa vào.
(Kinh Tập, câu kệ 798)
Taṃ cāpi ganthaṃ kusalā vadantī ti – Kusalā ti ye te khandhakusalā dhātukusalā āyatanakusalā paṭiccasamuppādakusalā satipaṭṭhānakusalā sammappadhānakusalā iddhipādakusalā indriyakusalā balakusalā bojjhaṅgakusalā maggakusalā phalakusalā nibbānakusalā, te kusalā evaṃ vadanti: gantho eso, lagganaṃ etaṃ, bandhanaṃ etaṃ, paḷibodho esoti evaṃ vadanti evaṃ kathenti evaṃ bhaṇanti evaṃ dīpayanti evaṃ voharantī ’ti ‘taṃ cāpi ganthaṃ kusalā vadanti.’
Hơn nữa, điều ấy các bậc thiện xảo gọi là sự trói buộc – Các bậc thiện xảo: Các bậc thiện xảo về uẩn, thiện xảo về giới, thiện xảo về xứ, thiện xảo về tùy thuận sanh khởi, thiện xảo về việc thiết lập niệm, thiện xảo về chánh cần, thiện xảo về nền tảng của thần thông, thiện xảo về quyền, thiện xảo về lực, thiện xảo về chi phần đưa đến giác ngộ, thiện xảo về Đạo, thiện xảo về Quả, thiện xảo về Niết Bàn, các bậc thiện xảo ấy nói như vầy: ‘Điều này là sự trói buộc, điều này là sự dính mắc, điều này là sự cột trói, điều này là sự vướng bận,’ các vị nói như vậy, thuyết giảng như vậy, thốt ra như vậy, giảng giải như vậy, phát ngôn như vậy. ‘Hơn nữa, điều ấy các bậc thiện xảo gọi là sự trói buộc’ là thế ấy.
Yaṃ nissito passati hīnamaññan ti – Yaṃ nissito ti yaṃ satthāraṃ dhammakkhānaṃ gaṇaṃ diṭṭhiṃ paṭipadaṃ maggaṃ nissito sannissito allīno upagato ajjhosito adhimutto. Passati hīnamaññan ti aññaṃ satthāraṃ dhammakkhānaṃ gaṇaṃ diṭṭhiṃ paṭipadaṃ maggaṃ hīnato nihīnato omakato lāmakato chattakato parittato dissati passati dakkhati oloketi nijjhāyati upanijjhāyati upaparikkhatī ’ti ‘yaṃ nissito passati hīnamaññaṃ.’
Người bị nương tựa vào điều ấy nhìn thấy cái khác là thấp hèn – Nương tựa vào điều ấy: là nương nhờ, nương tựa, bám vào, tiến vào, bám chặt, hướng đến bậc đạo sư, pháp thoại, hội chúng, quan điểm, lối thực hành, đạo lộ ấy. Nhìn thấy cái khác là thấp hèn: là nhìn xem, nhìn thấy, nhìn ngắm, quan sát, suy xét, nhận xét, xem xét bậc đạo sư, pháp thoại, hội chúng, quan điểm, lối thực hành, đạo lộ khác là thấp hèn, hèn kém, thấp kém, thấp thỏi, tồi tệ, nhỏ nhoi. ‘Người bị nương tựa vào điều ấy nhìn thấy cái khác là thấp hèn’ là thế ấy.
Tasmā hi diṭṭhaṃ va sutaṃ mutaṃ vā sīlabbataṃ bhikkhu na nissayeyyā ti Tasmā ti tasmā taṃkāraṇā taṃhetu tappaccayā taṃ nidānā – diṭṭhaṃ vā diṭṭhasuddhiṃ vā sutaṃ vā sutasuddhiṃ vā mutaṃ vā mutasuddhiṃ vā sīlaṃ vā sīlasuddhiṃ vā vataṃ vā vatasuddhiṃ vā na nissayeyya na gaṇheyya na parāmaseyya na abhiniviseyyā ’ti ‘tasmā hi diṭṭhaṃ va sutaṃ mutaṃ vā sīlabbataṃ bhikkhu na nissayeyya.’
Chính vì thế, vị tỳ khưu không nên nương tựa vào điều đã được thấy, điều đã được nghe, điều đã được cảm giác, hoặc vào giới và phận sự – Vì thế: là do điều ấy, bởi lý do ấy, do nhân ấy, do duyên ấy, do căn nguyên ấy, không nên nương tựa, không nên nắm lấy, không nên bám víu, không nên cố chấp vào điều đã được thấy hoặc sự trong sạch do thấy, vào điều đã được nghe hoặc sự trong sạch do nghe, vào điều đã được cảm giác hoặc sự trong sạch do cảm giác, vào giới hoặc sự trong sạch do giới, vào phận sự hoặc sự trong sạch do phận sự. ‘Chính vì thế, vị tỳ khưu không nên nương tựa vào điều đã được thấy, điều đã được nghe, điều đã được cảm giác, hoặc vào giới và phận sự’ là thế ấy.
Tenāha bhagavā:
“Taṃ cāpi ganthaṃ kusalā vadanti yaṃ nissito passati hīnamaññaṃ, tasmā hi diṭṭhaṃ va sutaṃ mutaṃ vā sīlabbataṃ bhikkhu na nissayeyyā ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Hơn nữa, điều ấy các bậc thiện xảo gọi là sự trói buộc, người bị nương tựa vào điều ấy nhìn thấy cái khác là thấp hèn. Chính vì thế, vị tỳ khưu không nên nương tựa vào điều đã được thấy, điều đã được nghe, điều đã được cảm giác, hoặc vào giới và phận sự.”
5.4
Diṭṭhimpi lokasmiṃ na kappayeyya ñāṇena vā sīlavatena vāpi, samoti attānamanūpaneyya hīno na maññetha visesi vāpi.
Cũng không nên xác lập ở thế gian quan điểm dựa vào trí (chứng đắc) hoặc dựa vào giới và phận sự. Không nên tự nhủ bản thân là ‘ngang bằng,’ không nên nghĩ mình là thấp hèn hoặc là có sự đặc biệt.
Chớ có tác thành ra
Tri kiến ở trên đời,
Từ ở nơi chánh trí,
Hay từ nơi giới đức,
Không bận tâm so sánh,
Tự ngã bằng người khác,
Không có suy nghĩ đến,
Ðây “liệt ” hay đây “thắng”.
(Kinh Tập, câu kệ 799)
Diṭṭhimpi lokasmiṃ na kappayeyya ñāṇena vā sīlavatena vāpī ti aṭṭhasamāpattiñāṇena vā pañcābhiññāñāṇena vā micchāñāṇena vā sīlena vā vatena vā sīlabbatena vā diṭṭhiṃ na kappayeyya na janeyya na sañjaneyya na nibbatteyya nābhinibbatteyya. Lokasmin ti apāyaloke —pe— āyatanaloke ’ti ‘diṭṭhimpi lokasmiṃ na kappayeyya ñāṇena vā sīlavatena vāpi.’
Cũng không nên xác lập ở thế gian quan điểm dựa vào trí (chứng đắc) hoặc dựa vào giới và phận sự: Không nên xác lập, không nên làm sanh ra, không nên làm sanh khởi, không nên làm hạ sanh, không nên làm phát sanh ra quan điểm dựa vào trí của tám sự chứng đạt (về thiền), hoặc dựa vào trí của năm thắng trí, hoặc dựa vào trí sái quấy, hoặc dựa vào giới, hoặc dựa vào phận sự, hoặc dựa vào giới và phận sự. Ở thế gian: ở thế gian của khổ cảnh, —như trên— ở thế gian của các xứ.
Samoti attānamanūpaneyyā ti sadisohamasmīti attānaṃ na upaneyya jātiyā vā gottena vā kolaputtiyena vā vaṇṇapokkharatāya vā dhanena vā ajjhenena vā kammāyatanena vā sippāyatanena vā vijjāṭṭhānena vā sutena vā paṭibhānena vā aññataraññatarena vā vatthunā ’ti ‘samoti attānamanūpaneyya.’
Không nên tự nhủ bản thân là ‘ngang bằng’ – Không nên tự nhủ bản thân rằng: ‘Tôi là tương đương’ dựa vào sự xuất thân, dựa vào dòng dõi, dựa vào con nhà gia thế, dựa vào vẻ đẹp của vóc dáng, dựa vào tài sản, dựa vào học vấn, dựa vào công việc, dựa vào tài nghệ, dựa vào kiến thức, dựa vào sự học hỏi, dựa vào tài biện giải, hoặc dựa vào sự việc này khác. Không nên tự nhủ bản thân là ‘ngang bằng’ là thế ấy.
Hīno na maññetha visesi vāpī ti – ‘Hīnohamasmī ’ti attānaṃ na upaneyya1 jātiyā vā gottena vā —pe— aññataraññatarena vā vatthunā. ‘Seyyohamasmī ’ti attānaṃ na upaneyya1 jātiyā vā gottena vā —pe— aññataraññatarena vā vatthunā ’ti ‘hīno na maññetha visesi vāpi.’
Không nên nghĩ mình là thấp hèn hoặc là có sự đặc biệt: Không nên cho rằng bản thân: ‘Tôi là thấp hèn’ dựa vào sự xuất thân, dựa vào dòng dõi, —như trên— hoặc dựa vào sự việc này khác. Không nên cho rằng bản thân: ‘Tôi là tốt hơn’ dựa vào sự xuất thân, dựa vào dòng dõi, —như trên— hoặc dựa vào sự việc này khác. ‘Không nên nghĩ mình là thấp hèn hoặc thậm chí là có sự đặc biệt’ là thế ấy.
Tenāha bhagavā:
“Diṭṭhimpi lokasmiṃ na kappayeyya ñāṇena vā sīlavatena vāpi, samoti attānamanūpaneyya hīno na maññetha visesi vāpī ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Cũng không nên xác lập ở thế gian quan điểm dựa vào trí (chứng đắc) hoặc dựa vào giới và phận sự. Không nên tự nhủ bản thân là ‘ngang bằng,’ không nên nghĩ mình là thấp hèn hoặc là có sự đặc biệt.”
5.5
Attaṃ pahāya anupādiyāno ñāṇepi so nissayaṃ no karoti, sa ve viyattesu na vaggasārī diṭṭhimpi so na pacceti kiñci.
Sau khi dứt bỏ điều đã được chấp giữ, không còn chấp thủ, vị ấy không tiến hành sự nương tựa dầu là ở trí. Quả vậy, giữa những người đã bị phân ly, vị ấy không theo phe nhóm, vị ấy không trở lại bất cứ tà kiến nào nữa.
Ðoạn tận, từ bỏ ngã,
Không chấp thủ sự gì,
Không tác thành, dựng nên,
Nương tựa ở nơi trí,
Chân thật giữa tranh chấp
Không theo phe phái nào,
Vị ấy không đi theo
Một loại tri kiến nào.
(Kinh Tập, câu kệ 800)
Attaṃ pahāya anupādiyāno ti – Attaṃ pahāyā ti attadiṭṭhiṃ pahāya; attaṃ pahāyā ’ti attagāhaṃ pahāya; attaṃ pahāyā ’ti taṇhāvasena diṭṭhivasena gahitaṃ parāmaṭṭhaṃ abhiniviṭṭhaṃ ajjhositaṃ adhimuttaṃ pahāya pajahitvā vinodayitvā byantiṃ karitvā anabhāvaṃ gametvā ’ti ‘attaṃ pahāya.’ Anupādiyāno ti catuhi upādānehi anupādiyamāno agaṇhamāno aparāmasamāno anabhinivisamāno ’ti ‘attaṃ pahāya anupādiyāno.’
Sau khi dứt bỏ điều đã được chấp giữ, không còn chấp thủ – Sau khi dứt bỏ điều đã được chấp giữ: sau khi dứt bỏ tà kiến đã được chấp giữ. Sau khi dứt bỏ điều đã được chấp giữ là sau khi dứt bỏ sự nắm lấy đã được chấp giữ. Sau khi dứt bỏ điều đã được chấp giữ là sau khi dứt bỏ, sau khi từ bỏ, sau khi xua đi, sau khi làm chấm dứt, sau khi khiến cho không còn hiện hữu điều đã bị nắm lấy, đã bị bám víu, đã bị cố chấp, đã bị bám chặt, đã bị hướng đến bởi tác động của tham ái, bởi tác động của tà kiến. ‘Sau khi dứt bỏ điều đã được chấp giữ’ là thế ấy. Không còn chấp thủ: trong khi không còn chấp thủ, không còn nắm lấy, không còn bám víu, không còn cố chấp vào bốn điều chấp thủ. ‘Sau khi dứt bỏ điều đã được chấp giữ, không còn chấp thủ’ là thế ấy.
Ñāṇepi so nissayaṃ no karotī ti aṭṭhasamāpattiñāṇe vā pañcābhiññāñāṇe vā micchāñāṇe vā taṇhānissayaṃ vā diṭṭhinissayaṃ vā na karoti na janeti na sañjaneti na nibbatteti nābhinibbattetī ’ti ‘ñāṇepi so nissayaṃ no karoti.’
Vị ấy không tiến hành sự nương tựa dầu là ở trí: là không tiến hành, không làm sanh ra, không làm sanh khởi, không làm hạ sanh, không làm phát sanh ra sự nương tựa vào tham ái hoặc sự nương tựa vào tà kiến dựa vào trí của tám sự chứng đạt (về thiền), hoặc dựa vào trí của năm thắng trí, hoặc dựa vào trí sái quấy . ‘Vị ấy không tiến hành sự nương tựa dầu là ở trí’ là thế ấy.
Sa ve viyattesu na vaggasārī ti sa ve viyattesu bhinnesu dvejjhāpannesu dveḷhakajātesu nānādiṭṭhikesu nānākhantikesu nānārucikesu nānāladdhikesu nānādiṭṭhinissayaṃ nissitesu chandāgatiṃ gacchantesu dosāgatiṃ gacchantesu mohāgatiṃ gacchantesu bhayāgatiṃ gacchantesu na chandāgatiṃ gacchati, na dosāgatiṃ gacchati, na mohāgatiṃ gacchati, na bhayāgatiṃ gacchati; na rāgavasena gacchati, na dosavasena gacchati, na mohavasena gacchati, na mānavasena gacchati, na diṭṭhivasena gacchati, na uddhaccavasena gacchati, na vicikicchāvasena gacchati, na anusayavasena gacchati, na vaggehi dhammehi yāyati niyyati vuyhati saṃharīyatī ’ti ‘sa ve viyattesu na vaggasārī.’
Quả vậy, giữa những người đã bị phân ly, vị ấy không theo phe nhóm: Quả vậy, giữa những người đã bị phân ly, đã bị chia rẽ, đã bị phân thành hai, đã bị sanh làm hai, có quan điểm khác biệt, có sự chấp nhận khác biệt, có sự ưa thích khác biệt, có sự chọn lựa khác biệt, đã nương tựa vào những quan điểm khác biệt, giữa những người bị chi phối bởi sự ưa thích, bị chi phối bởi sự sân hận, bị chi phối bởi sự si mê, bị chi phối bởi sự sợ hãi, vị ấy không bị chi phối bởi sự ưa thích, không bị chi phối bởi sự sân hận, không bị chi phối bởi sự si mê, không bị chi phối bởi sự sợ hãi, không bị tác động của luyến ái, không bị tác động của sân hận, không bị tác động của si mê, không bị tác động của ngã mạn, không bị tác động của tà kiến, không bị tác động của phóng dật, không bị tác động của hoài nghi, không bị tác động của pháp tiềm ẩn, không bị đưa đi, bị dẫnđi, bị lôi đi, bị mang đi bởi các pháp có tính chất phe nhóm. ‘Quả vậy, giữa những người đã bị phân ly, vị ấy không theo phe nhóm’ là thế ấy.
Diṭṭhimpi so na pacceti kiñcī ti. Tassa dvāsaṭṭhi diṭṭhigatāni pahīnāni samucchinnāni vūpasantāni paṭipassaddhāni abhabbuppattikāni ñāṇagginā daḍḍhāni. So kiñci diṭṭhigataṃ na pacceti na paccāgacchatī ’ti ‘diṭṭhimpi so na pacceti kiñci.’
Vị ấy không trở lại bất cứ tà kiến nào nữa: Đối với vị ấy, 62 tà kiến đã được dứt bỏ, được trừ tuyệt, được vắng lặng, được tịch tịnh, không thể sanh khởi nữa, đã được thiêu đốt bởi ngọn lửa trí tuệ. Vị ấy không trở lại, không quay về lại bất cứ tà kiến nào nữa. ‘Vị ấy không trở lại bất cứ tà kiến nào nữa’ là thế ấy.
Tenāha bhagavā:
“Attaṃ pahāya anupādiyāno ñāṇepi1 so nissayaṃ no karoti, sa ve viyattesu na vaggasārī diṭṭhimpi so na pacceti kiñcī ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Sau khi dứt bỏ điều đã được chấp giữ, không còn chấp thủ, vị ấy không tiến hành sự nương tựa dầu là ở trí. Quả vậy, giữa những người đã bị phân ly, vị ấy không theo phe nhóm, vị ấy không trở lại bất cứ tà kiến nào nữa.”
5.6
Yassūbhayante paṇidhīdha natthi bhavābhavāya idha vā huraṃ vā, nivesanā tassa na santi keci dhammesu niccheyya samuggahītaṃ.
Đối với vị nào, ở đây, không có ước vọng về cả hai thái cực, về hữu và phi hữu, về đời này hay đời sau, đối với vị ấy, không có bất cứ các sự chấp chặt nào sau khi đã suy xét điều đã được ôm giữ trong số các pháp (tà kiến).
Với ai, hay cực đoan,
Không có hướng nguyện gì,
Với hữu và phi hữu,
Hay đời này đời sau,
Vị ấy không an trú,
Tại một trú xứ nào,
Từ bỏ mọi chấp thủ,
Ðối với tất cả pháp.
(Kinh Tập, câu kệ 801)
Yassūbhayante paṇidhīdha natthi bhavābhavāya idha vā huraṃ vā ti – Yassā ti arahato khīṇāsavassa. Anto ti phasso eko anto, phassasamudayo dutiyo anto; atīto eko anto, anāgato dutiyo anto; sukhā vedanā eko anto, dukkhā vedanā dutiyo anto; nāmaṃ eko anto, rūpaṃ dutiyo anto; cha ajjhattikāni āyatanāni eko anto, cha bāhirāni āyatanāni dutiyo anto; sakkāyo eko anto, sakkāyasamudayo dutiyo anto.
Paṇidhi vuccati taṇhā yo rāgo sārāgo —pe— abhijjhā lobho akusalamūlaṃ. Bhavābhavāyā ti bhavābhavāya kammabhavāya punabbhavāya, kāmabhavāya kammabhavāya, kāmabhavāya punabbhavāya, rūpabhavāya kammabhavāya, rūpabhavāya punabbhavāya, arūpabhavāya kammabhavāya, arūpabhavāya punabbhavāya punappuna bhavāya punappunagatiyā punappunauppattiyā punappunapaṭisandhiyā punappunaattabhāvābhinibbattiyā.
Idhā ti sakattabhāvo.
Huraṃ ti parattabhāvo; idhāti sakarūpavedanāsaññāsaṅkhāraviññāṇaṃ; huraṃti pararūpavedanāsaññāsaṅkhāraviññāṇaṃ; idhāti cha ajjhattikāni āyatanāni; huraṃti cha bāhirāni āyatanāni; idhāti manussaloko; huraṃti devaloko; idhāti kāmadhātu; huraṃti rūpadhātu arūpadhātu; idhāti kāmadhātu rūpadhātu; huraṃti arūpadhātu.
Đối với vị nào, ở đây, không có ước vọng về cả hai thái cực, về hữu và phi hữu, về đời này hay đời sau – Đối với vị nào: đối với vị A-la-hán có lậu hoặc đã được cạn kiệt. Thái cực: Xúc là một thái cực, nhân sanh ra xúc là thái cực thứ hai. Quá khứ là một thái cực, vị lai là thái cực thứ hai. Cảm thọ lạc là một thái cực, cảm thọ khổ là thái cực thứ hai. Danh là một thái cực, sắc là thái cực thứ hai. Sáu nội xứ là một thái cực, sáu ngoại xứ là thái cực thứ hai. Sự chấp thân này là một thái cực, nhân sanh ra sự chấp thân này là thái cực thứ hai. Ước vọng: được gọi là tham ái, nghĩa là luyến ái, luyến ái mãnh liệt, —như trên— tham đắm, tham, cội nguồn của bất thiện. Về hữu và phi hữu: về dục giới sắc giới vô sắc giới, về cảnh giới của nghiệp, về cảnh giới của sự tái sanh; về cảnh giới của nghiệp là dục giới, về cảnh giới của sự tái sanh là dục giới, về cảnh giới của nghiệp là sắc giới, về cảnh giới của sự tái sanh là sắc giới, về cảnh giới của nghiệp là vô sắc giới, về cảnh giới của sự tái sanh là vô sắc giới, về sự sanh lên được tiếp diễn, về cảnh giới tái sanh được tiếp diễn, về sự tiếp nối tái sanh được tiếp diễn, về sự tái sanh của bản ngã được tiếp diễn. Đời này: là bản ngã của bản thân. Đời sau: là bản ngã của người khác. Đời này là sắc-thọ-tưởng-hành-thức của bản thân, đời sau là sắc-thọ-tưởng-hành-thức của người khác. Đời này là sáu nội xứ, đời sau là sáu ngoại xứ. Đời này là thế giới loài người, đời sau là thế giới chư Thiên. Đời này là dục giới, đời sau là sắc giới, vô sắc giới. Đời này là dục giới, sắc giới, đời sau là vô sắc giới.
Yassūbhayante paṇidhīdha natthi bhavābhavāya idha vā huraṃ vā ti yassa ubho ante ca bhavābhavāya ca idha huraṃ ca paṇidhi taṇhā natthi na santi, na saṃvijjati, nūpalabbhati, pahīnā samucchinnā vūpasantā paṭippassaddhā abhabbuppattikā ñāṇagginā daḍḍhā ’ti ‘yassūbhayante paṇidhīdha natthi bhavābhavāya idha vā huraṃ vā.’
Đối với vị nào, ở đây, không có ước vọng về cả hai thái cực, về hữu và phi hữu, về đời này hay đời sau: đối với vị nào, ước vọng, tham ái về cả hai thái cực, về hữu và phi hữu, về đời này và đời sau là không có, không hiện diện, không tìm thấy, không tồn tại, được dứt bỏ, được trừ tuyệt, được vắng lặng, được tịch tịnh, không thể sanh khởi nữa, đã bị thiêu đốt bởi ngọn lửa trí tuệ. ‘Đối với vị nào, ở đây, không có ước vọng về cả hai thái cực, về hữu và phi hữu, về đời này hay đời sau’ là thế ấy.
Nivesanā tassa na santi kecī ti – Nivesanā ti dve nivesanā taṇhānivesanā ca diṭṭhinivesanā ca —pe— ayaṃ taṇhānivesanā —pe— ayaṃ diṭṭhinivesanā. Tassā ti arahato khīṇāsavassa. Nivesanā tassa na santi kecī ti nivesanā tassa keci natthi na santi na saṃvijjanti nūpalabbanti, pahīnā samucchinnā vūpasantā paṭippassaddhā abhabbuppattikā ñāṇagginā daḍḍhā ’ti ‘nivesanā tassa na santi keci.’
Đối với vị ấy, không có bất cứ các sự chấp chặt nào – Các sự chấp chặt: Có hai sự chấp chặt: sự chấp chặt do tham ái và sự chấp chặt do tà kiến. ―như trên― điều này là sự chấp chặt do tham ái. ―như trên― điều này là sự chấp chặt do tà kiến. Đối với vị ấy: đối với vị A-la-hán có lậu hoặc đã được cạn kiệt. Đối với vị ấy, không có bất cứ các sự chấp chặt nào: Đối với vị ấy, bất cứ các sự chấp chặt nào là không có, không hiện diện, không tìm thấy, không tồn tại, được dứt bỏ, được trừ tuyệt, được vắng lặng, được tịch tịnh, không thể sanh khởi nữa, đã bị thiêu đốt bởi ngọn lửa trí tuệ. ‘Đối với vị ấy, không có bất cứ các sự chấp chặt nào’ là thế ấy.
Dhammesu niccheyya samuggahītan ti – Dhammesū ti dvāsaṭṭhiyā diṭṭhigatesu. Niccheyyā ti nicchinitvā vicinitvā pavicinitvā tulayitvā tīrayitvā vibhāvayitvā vibhūtaṃ katvā. Samuggahītanti odhiggāho bilaggāho varaggāho koṭṭhāsaggāho uccayaggāho samuccayaggāho: ‘Idaṃ saccaṃ tacchaṃ tathaṃ bhūtaṃ yāthāvaṃ aviparītanti gahitaṃ parāmaṭṭhaṃ abhiniviṭṭhaṃ ajjhositaṃ adhimuttaṃ natthi na santi na saṃvijjati7 nūpalabbhati pahīnaṃ samucchinnaṃ vūpasantaṃ paṭippassaddhaṃ abhabbuppattikaṃ ñāṇagginā daḍḍhan’ ti ‘dhammesu niccheyya samuggahītaṃ.’
Sau khi đã suy xét điều đã được ôm giữ trong số các pháp – Trong số các pháp: là trong số 62 tà kiến. Sau khi đã suy xét: sau khi suy xét, sau khi chọn lựa, sau khi chọn lọc, sau khi cân nhắc, sau khi sắp đặt, sau khi phân biệt, sau khi làm rõ. Điều đã được ôm giữ: là sự nắm lấy có giới hạn, sự nắm lấy từng phần, sự nắm lấy tối thượng, sự nắm lấy toàn phần, sự nắm lấy theo số lượng, sự nắm lấy tổng thể rằng: ‘Điều này là sự thật, là đúng đắn, là như thế, là đang xảy ra, là chính xác, không bị sai lệch’ đã được nắm giữ, đã được bám víu, đã được cố chấp, đã được bám chặt, đã được hướng đến là không có, không hiện diện, không tìm thấy, không tồn tại, được dứt bỏ, được trừ tuyệt, được vắng lặng, được tịch tịnh, không thể sanh khởi nữa, đã bị thiêu đốt bởi ngọn lửa trí tuệ. ‘Sau khi đã suy xét điều đã được ôm giữ trong số các pháp’ là thế ấy.
Tenāha bhagavā:
“Yassūbhayante paṇidhīdha natthi bhavābhavāya idha vā huraṃ vā, nivesanā tassa na santi keci dhammesu niccheyya samuggahītan ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Đối với vị nào, ở đây, không có ước vọng về cả hai thái cực, về hữu và phi hữu, về đời này hay đời sau, đối với vị ấy, không có bất cứ các sự chấp chặt nào sau khi đã suy xét điều đã được ôm giữ trong số các pháp (tà kiến).”
5.7
Tassīdha diṭṭhe va sute mute vā pakappitā natthi aṇūpi saññā, taṃ brāhmaṇaṃ diṭṭhimanādiyānaṃ kenīdha lokasmiṃ vikappayeyya.
Tưởng được xếp đặt liên quan đến điều đã được thấy, đã được nghe, hoặc đã được cảm giác ở nơi đây dầu là nhỏ nhoi cũng không có đối với vị ấy; vị Bà-la-môn ấy không chấp thủ tà kiến, thì có thể chi phối vị ấy bởi điều gì ở thế gian này?Ðối vị ấy ở đây,
Những gì được thấy nghe,
Ðược cảm thọ tưởng đến,
Chút suy tưởng cũng không;
Vị Bà-la-môn ấy
Không chấp thủ tri kiến,
Không ai ở đời này
Có thể chi phối được.
(Kinh Tập, câu kệ 802)
Tassīdha diṭṭhe va sute mute vā pakappitā natthi aṇūpi saññā ti Tassā ti arahato khīṇāsavassa, tassa diṭṭhe vā diṭṭhasuddhiyā vā sute vā sutasuddhiyā vā mute vā mutasuddhiyā vā, saññāpubbaṅgamatā saññāvikappayatā saññāviggahena saññāya uṭṭhapitā samuṭṭhapitā kappitā pakappitā saṅkhatā abhisaṅkhatā saṇṭhapitā diṭṭhi natthi na santi na saṃvijjati nūpalabbhati, pahīnā samucchinnā vūpasantā paṭippassaddhā abhabbuppattikā ñāṇagginā daḍḍhā ’ti ‘tassīdha diṭṭheva sute mute vā pakappitā natthi aṇūpi saññā.’
Taṃ brāhmaṇaṃ diṭṭhimanādiyānan ti – Brāhmaṇo ti sattannaṃ dhammānaṃ bāhitattā brāhmaṇo, sakkāyadiṭṭhi bāhitā hoti, ―pe― asito tādī pavuccate sa brahmā. Taṃ brāhmaṇaṃ diṭṭhimanādiyānan ti – taṃ brāhmaṇaṃ diṭṭhimanādiyantaṃ agaṇhantaṃ aparāmasantaṃ anabhinivisantan ’ti ‘taṃ brāhmaṇaṃ diṭṭhimanādiyānaṃ.’
Kenīdha lokasmiṃ vikappayeyyā ti – Kappā ti dve kappā: taṇhākappo ca diṭṭhikappo ca ―pe― ayaṃ taṇhākappo ―pe― ayaṃ diṭṭhikappo. Tassa taṇhākappo pahīno diṭṭhikappo paṭinissaṭṭho. Taṇhākappassa pahīnattā diṭṭhikappassa paṭinissaṭṭhattā kena rāgena kappeyya, kena dosena kappeyya, kena mohena kappeyya, kena mānena kappeyya, kāya diṭṭhiyā kappeyya, kena uddhaccena kappeyya, kāya vicikicchāya kappeyya, kehi anusayehi kappeyya rattoti vā duṭṭhoti vā mūḷhoti vā vinibaddhoti vā parāmaṭṭhoti vā vikkhepagatoti vā aniṭṭhaṃ gatoti vā thāmagatoti vā? Te abhisaṅkhārā pahīnā, abhisaṅkhārānaṃ pahīnattā gatiyā kena kappeyya nerayikoti vā tiracchānayonikoti vā pettivisayikoti vā manussoti vā devoti vā rūpīti vā arūpīti vā saññīti vā asaññīti vā nevasaññīnāsaññīti vā? So hetu natthi paccayo natthi kāraṇaṃ natthi yena kappeyya vikappeyya vikappaṃ āpajjeyya. Lokasmin ti apāyaloke manussaloke devaloke khandhaloke dhātuloke āyatanaloke ’ti ‘kenīdha lokasmiṃ vikappayeyya.’
Tenāha bhagavā:
“Tassīdha diṭṭhe va sute mute vā pakappitā natthi aṇūpi saññā, taṃ brāhmaṇaṃ diṭṭhimanādiyānaṃ
kenīdha lokasmiṃ vikappayeyyā ”ti
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Tưởng được xếp đặt liên quan đến điều đã được thấy, đã được nghe, hoặc đã được cảm giác ở nơi đây dầu là nhỏ nhoi cũng không có đối với vị ấy; vị Bà-la-môn ấy không chấp thủ tà kiến, thì có thể chi phối vị ấy bởi điều gì ở thế gian nàyy?”
5.8
Na kappayanti na purekkharonti dhammāpi tesaṃ na paṭicchitāse, na brāhmaṇo sīlavatena neyyo pāraṃ gato na pacceti tādī.
(Các bậc A-la-hán) không sắp xếp, không chú trọng luôn cả các pháp (tà kiến), đối với các vị ấy, đều không được chấp nhận. Vị Bà-la- môn không bị dẫn dắt đi bởi giới và phận sự, đã đi đến bờ kia, không quay trở lại, là bậc tự tại.
Họ không tác thành gì,
Họ không đề cao gì,
Các pháp không được họ,
Chấp trước nắm giữ gì
Không một Phạm chí nào,
Bị giới cấm dắt dẫn,
Ði đến bờ bên kia,
Vị ấy không trở lui.
(Kinh Tập, câu kệ 803)
Na kappayanti na purekkharontī ti – Kappā ’ti dve kappā: taṇhākappo ca diṭṭhikappo ca.
Katamo taṇhākappo? Yāvatā taṇhāsaṅkhātena sīmakataṃ mariyādīkataṃ odhikataṃ pariyantakataṃ pariggahitaṃ mamāyitaṃ: idaṃ mamaṃ etaṃ mamaṃ ettakaṃ mamaṃ ettāvatā mamaṃ, mama rūpā saddā gandhā rasā phoṭṭhabbā attharaṇā pāpuraṇā dāsidāsā ajeḷakā kukkuṭasūkarā hatthigavāssavaḷavā khettaṃ vatthu hiraññaṃ suvaṇṇaṃ gāmanigamarājadhāniyo raṭṭhaṃ ca janapado ca koso ca koṭṭhāgārañca kevalampi mahāpaṭhaviṃ taṇhāvasena mamāyati yāvatā aṭṭhasatataṇhāvicaritaṃ; ayaṃ taṇhākappo.
Katamo diṭṭhikappo? Vīsativatthukā sakkāyadiṭṭhi, dasavatthukā micchādiṭṭhi, dasavatthukā antaggāhikā diṭṭhi, yā evarūpā diṭṭhi diṭṭhigataṃ diṭṭhigahanaṃ diṭṭhikantāraṃ diṭṭhivisūkāyikaṃ diṭṭhivipphanditaṃ diṭṭhisaññojanaṃ gāho paṭiggāho abhiniveso parāmāso kummaggo micchāpatho micchattaṃ titthāyatanaṃ vipariyesagāho viparītagāho vipallāsagāho micchāgāho, ayāthāvakasmiṃ yāthāvakanti gāho, yāvatā dvāsaṭṭhi diṭṭhigatāni; ayaṃ diṭṭhikappo.
Tesaṃ taṇhākappo pahīno, diṭṭhikappo paṭinissaṭṭho; taṇhākappassa pahīnattā diṭṭhikappassa paṭinissaṭṭhattā taṇhākappaṃ vā diṭṭhikappaṃ vā na kappenti na janenti na sañjanenti na nibbattenti nābhinibbattentī ’ti ‘na kappayanti.’
Na purekkharontī ti – Purekkhārā ti dve purekkhārā: taṇhāpurekkhāro ca diṭṭhipurekkhāro ca —pe— ayaṃ taṇhāpurekkhāro —pe— ayaṃ diṭṭhipurekkhāro. Tesaṃ taṇhāpurekkhāro pahīno, diṭṭhipurekkhāro paṭinissaṭṭho taṇhāpurekkhārassa pahīnattā diṭṭhipurekkhārassa paṭinissaṭṭhattā na taṇhaṃ vā na diṭṭhiṃ vā purato katvā caranti. Na taṇhādhajā na taṇhāketū na taṇhādhipateyyā na diṭṭhidhajā na diṭṭhiketū na diṭṭhādhipateyyā na taṇhāya vā na diṭṭhiyā vā parivāretvā carantī ’ti ‘na kappayanti na purekkharonti.’
Dhammāpi tesaṃ na paṭicchitāse ti – Dhammā vuccanti dvāsaṭṭhi diṭṭhigatāni. Tesan ti tesaṃ arahantānaṃ khīṇāsavānaṃ. Na paṭicchitāse ti sassato loko idameva saccaṃ moghamaññanti na paṭicchitāse, asassato loko, antavā loko, anantavā loko, taṃ jīvaṃ taṃ sarīraṃ, aññaṃ jīvaṃ aññaṃ sarīraṃ, hoti tathāgato parammaraṇā, na hoti tathāgato parammaraṇā, hoti ca na ca hoti tathāgato parammaraṇā, neva hoti na na hoti tathāgato parammaraṇā, idameva saccaṃ moghamaññanti na paṭicchitāse ’ti ‘dhammāpi tesaṃ na paṭicchitāse.’
Na brāhmaṇo sīlavatena neyyo ti – Nā ti paṭikkhepo. Brāhmaṇo ti sattannaṃ dhammānaṃ bāhitattā brāhmaṇo, —pe— asito tādī pavuccate sa brahmā. Na brāhmaṇo sīlavatena neyyo ti brāhmaṇo sīlena vā vatena vā sīlabbatena vā na yāyati na niyyati na vuyhati na saṃharīyatī ’ti ‘na brāhmaṇo sīlavatena neyyo.’
Pāraṃ gato na pacceti tādī ti – Pāraṃ vuccati amataṃ nibbānaṃ, yo so sabbasaṅkhārasamatho sabbūpadhipaṭinissaggo taṇhakkhayo virāgo nirodho nibbānaṃ, so pāraṃ gato pāraṃ patto antagato antappatto koṭigato koṭippatto (vitthāro) jātimaraṇasaṃsāro natthi tassa punabbhavo ’ti ‘pāraṃ gato.’ Na paccetī ti sotāpattimaggena ye kilesā pahīnā, te kilese na puneti na pacceti na paccāgacchati. Sakadāgāmimaggena ye kilesā pahīnā, te kilese na puneti na pacceti na paccāgacchati. Anāgāmimaggena ye kilesā pahīnā te kilese na puneti na pacceti na paccāgacchati. Arahattamaggena ye kilesā pahīnā, te kilese na puneti na pacceti na paccāgacchatī ’ti ‘pāraṃ gato na pacceti.’
Tādī ti arahā pañcahākārehi tādī: iṭṭhāniṭṭhe tādī, cattāvīti tādī, tiṇṇāvīti tādī, muttāvīti tādī, taṃniddesā tādī.
Kathaṃ arahā iṭṭhāniṭṭhe tādī? Arahā lābhepi tādī, alābhepi tādī, yasepi tādī, ayasepi tādī, pasaṃsāyapi tādī, nindāyapi tādī, sukhepi tādī dukkhepi tādī, ekaṃ ce bāhaṃ gandhena limpeyyuṃ , ekaṃ ce bāhaṃ vāsiyā taccheyyuṃ, amusmiṃ natthi rāgo, amusmiṃ natthi paṭighaṃ, anunayapaṭighavippahīno ugghātinighātivītivatto anurodhavirodhaṃ samatikkanto; evaṃ arahā iṭṭhāniṭṭhe tādī.
Kathaṃ arahā cattāvīti tādī? Arahato rāgo catto vanto mutto pahīno paṭinissaṭṭho, doso moho kodho upanāho makkho paḷāso issā macchariyaṃ māyā sāṭheyyaṃ thambho sārambho māno atimāno mado pamādo sabbe kilesā sabbe duccaritā sabbe darathā sabbe pariḷāhā sabbe santāpā sabbākusalābhisaṅkhārā cattā vantā muttā pahīnā paṭinissaṭṭhā, evaṃ arahā cattāvīti tādī.
Kathaṃ arahā tiṇṇāvīti tādī? Arahā kāmoghaṃ tiṇṇo bhavoghaṃ tiṇṇo diṭṭhoghaṃ tiṇṇo avijjoghaṃ tiṇṇo sabbaṃ saṃsārapathaṃ tiṇṇo uttiṇṇo nittiṇṇo atikkanto samatikkanto vītivatto, so vutthavāso ciṇṇacaraṇo jātimaraṇasaṃsāro natthi tassa punabbhavoti, evaṃ arahā tiṇṇāvīti tādī.
Kathaṃ arahā muttāvīti tādī? Arahato rāgā cittaṃ muttaṃ vimuttaṃ suvimuttaṃ, dosā cittaṃ muttaṃ vimuttaṃ suvimuttaṃ, mohā cittaṃ muttaṃ vimuttaṃ suvimuttaṃ, kodhā upanāhā makkhā paḷāsā issāya macchariyā māyāya sāṭheyyā thambhā sārambhā mānā atimānā madā pamādā sabbakilesehi sabbaduccaritehi sabbadarathehi sabbapariḷāhehi sabbasantāpehi sabbākusalābhisaṅkhārehi cittaṃ muttaṃ vimuttaṃ suvimuttaṃ, evaṃ arahā muttāvīti tādī.
Kathaṃ arahā tanniddesā tādī? Arahā sīle sati sīlavāti taṃniddesā tādī; saddhāya sati saddhoti taṃniddesā tādī, viriye sati viriyavāti taṃniddesā tādī, satiyā sati satimāti taṃniddesā tādī, samādhismiṃ sati samāhitoti taṃniddesā tādī, paññāya sati paññavāti taṃ niddesā tādī, vijjāya sati tevijjoti taṃniddesā tādī, abhiññāya sati chaḷabhiññoti taṃniddesā tādī, evaṃ arahā taṃniddesā tādī ’ti ‘pāraṅgato na pacceti tādī.’
Tenāha bhagavā:
“Na kappayanti na purekkharonti dhammāpi tesaṃ na paṭicchitāse, na brāhmaṇo sīlavatena neyyo pāraṅgato na pacceti tādī ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“(Các bậc A-la-hán) không sắp xếp, không chú trọng
luôn cả các pháp (tà kiến), đối với các vị ấy, đều không được chấp nhận.
Vị Bà-la- môn không bị dẫn dắt đi bởi giới và phận sự,
đã đi đến bờ kia, không quay trở lại, là bậc tự tại.”
Paramaṭṭhakasuttaniddeso pañcamo.
Diễn Giải Kinh về Tối Thắng.
6. JARĀSUTTANIDDESO – DIỄN GIẢI KINH VỀ SỰ GIÀ
6.1
Atha jarāsuttaniddeso vuccati:
Giờ Diễn Giải Kinh về Sự Già được nói đến:
Appaṃ vata jīvitaṃ idaṃ oraṃ vassasatāpi mīyati, yo cepi aticca jīvati atha kho so jarasāpi mīyati.
Quả thật, mạng sống này là ít ỏi,
thậm chí kém hơn trăm tuổi cũng chết rồi.
Nếu người nào vượt qua (hạn tuổi ấy) vẫn còn sống,
người ấy rồi cũng chết vì già.
(VI) Kinh Già (Sn 158)
Sinh mạng này ngắn thay,
Trong trăm năm, rồi chết,
Nếu ai sống hơn nữa,
Rồi cũng chết vì già.
(Kinh Tập, câu kệ 804)
Appaṃ vata jīvitaṃ idan ti – Jīvitan ti āyu ṭhiti yapanā yāpanā irīyanā vattanā pālanā jīvitaṃ jīvitindriyaṃ. Api ca dvīhi kāraṇehi appakaṃ jīvitaṃ, thokakaṃ jīvitaṃ, ṭhitiparittatāya vā appakaṃ jīvitaṃ, sarasaparittatāya vā appakaṃ jīvitaṃ.
Kathaṃ ṭhitiparittatāya vā appakaṃ jīvitaṃ? Atīte cittakkhaṇe jīvittha na jīvati na jīvissati; anāgate cittakkhaṇe jīvissati na jīvati na jīvittha; paccuppanne cittakkhaṇe jīvati na jīvittha na jīvissati.
1. Jīvitaṃ attabhāvo ca sukhadukkhā ca kevalā, ekacittasamāyuttā lahuso vattate khaṇo.
2. Cullāsītisahassāni kappā tiṭṭhanti ye marū, natveva tepi jīvanti dvīhi cittehi saṃyutā.
3. Ye niruddhā marantassa tiṭṭhamānassa vā idha, sabbepi sadisā khandhā gatā appaṭisandhikā.
4. Anantarā ca ye bhaggā ye ca bhaggā anāgatā, tadantare niruddhānaṃ vesamaṃ natthi lakkhaṇe.
5. Anibbattena na jāto paccuppannena jīvati, cittabhaṅgā10 mato loko paññatti paramatthiyā.
6. Yathā ninnā pavattanti chandena pariṇāmitā,
acchinnadhārā vattanti saḷāyatanapaccayā.
7. Anidhānagatā bhaggā puñjo natthi anāgate,
nibbattāyeva tiṭṭhanti āragge sāsapūpamā.
8. Nibbattānañca dhammānaṃ bhaṅgo nesaṃ purakkhato, palokadhammā tiṭṭhanti purāṇehi amissitā.
9. Adassanāto āyanti bhaṅgā gacchanti adassanaṃ, vijjuppādova ākāse uppajjanti vayanti cā ”ti. Evaṃ ṭhitiparittatāya appakaṃ jīvitaṃ.
Kathaṃ sarasaparittatāya appakaṃ jīvitaṃ? Assāsūpanibaddhaṃ jīvitaṃ, passāsūpanibaddhaṃ jīvitaṃ, assāsapassāsūpanibaddhaṃ jīvitaṃ, mahābhūtupanibaddhaṃ jīvitaṃ, kabalīkārāhārūpanibaddhaṃ jīvitaṃ, usmūpanibaddhaṃ jīvitaṃ, viññāṇūpanibaddhaṃ jīvitaṃ. Mūlampi imesaṃ dubbalaṃ, pubbahetūpi imesaṃ dubbalā, yepi paccayā tepi dubbalā, yāpi pabhavikā sāpi dubbalā, sahabhūpimesaṃ dubbalā, sampayogāpi imesaṃ dubbalā, sahajāpi imesaṃ dubbalā, yāpi payojikā sāpi dubbalā, aññamaññaṃ niccadubbalā ime, aññamaññaṃ anavaṭṭhitā ime, aññamaññaṃ paripātayanti ime, aññamaññassa hi natthi tāyitā, na cāpi ṭhapenti aññamaññaṃ ime. Yo’pi nibbattako so na vijjati.
10. “Na ca kenaci koci hāyati bhaṅgabyā ime hi sabbaso, purimehi pabhāvitā ime yepi pabhavakā te pure matā, purimā’pi ca pacchimā’pi ca aññamaññaṃ na kadācimāddasun ”ti. Evaṃ sarasaparittatāya appakaṃ jīvitaṃ.
Api ca cātummahārājikānaṃ devānaṃ jīvitaṃ upādāya manussānaṃ appakaṃ jīvitaṃ parittaṃ jīvitaṃ thokaṃ jīvitaṃ khaṇikaṃ jīvitaṃ lahukaṃ jīvitaṃ ittaraṃ jīvitaṃ anaddhaniyaṃ jīvitaṃ na ciraṭṭhitikaṃ jīvitaṃ. —pe— tāvatiṃsānaṃ devānaṃ —pe— yāmānaṃ devānaṃ —pe— tusitānaṃ devānaṃ —pe— nimmāṇaratīnaṃ devānaṃ —pe— paranimmitavasavattīnaṃ devānaṃ —pe— brahmakāyikānaṃ devānaṃ jīvitaṃ upādāya manussānaṃ appakaṃ jīvitaṃ parittaṃ jīvitaṃ thokaṃ jīvitaṃ khaṇikaṃ jīvitaṃ lahukaṃ jīvitaṃ ittaraṃ jīvitaṃ anaddhaniyaṃ14 jīvitaṃ na ciraṭṭhitikaṃ jīvitaṃ. Vuttampi cetaṃ bhagavatā:
“Appamidaṃ bhikkhave manussānaṃ āyu, gamanīyo samparāyo, mantāya boddhabbaṃ , kattabbaṃ kusalaṃ, caritabbaṃ brahmacariyaṃ, natthi jātassa amaraṇaṃ, yo bhikkhave ciraṃ jīvati, so vassasataṃ appaṃ vā bhiyyo vā.”
11. Appamāyu manussānaṃ hīḷeyya naṃ suporiso, careyyādittasīsova natthi maccussa nāgamo.
12. Accayanti ahorattā jīvitaṃ uparujjhati, āyu khīyati maccānaṃ kunnadīnaṃva odakan ”ti.
Appaṃ vata jīvitaṃ idaṃ oraṃ vassasatāpi mīyatī ti – kalalakālepi cavati marati antaradhāyati vippalujjati, abbudakālepi cavati marati antaradhāyati vippalujjati, pesikālepi cavati marati antaradhāyati vippalujjati, ghanakālepi cavati marati antaradhāyati vippalujjati, pasākhakālepi cavati marati antaradhāyati vippalujjati, jātamattopi cavati marati antaradhāyati vippalujjati, sūtigharepi cavati marati antaradhāyati vippalujjati, addhamāsikopi cavati marati antaradhāyati vippalujjati, māsikopi cavati marati antaradhāyati vippalujjati, dvemāsikopi temāsikopi catumāsikopi pañcamāsikopi cavati marati antaradhāyati vippalujjati, chamāsikopi sattamāsikopi aṭṭhamāsikopi navamāsikopi dasamāsikopi – saṃvaccharikopi cavati marati antaradhāyati vippalujjati, dvevassikopi – tivassikopi catuvassikopi pañcavassikopi chavassikopi sattavassikopi aṭṭhavassikopi navavassikopi dasavassikopi vīsativassikopi tiṃsavassikopi cattārīsavassikopi paññāsavassikopi saṭṭhivassikopi sattativassikopi asītivassikopi navutivassikopi cavati marati antaradhāyati vippalujjatīti ‘oraṃ vassasatāpi mīyati.’
Yo cepi aticca jīvatī ti – Yo vassasataṃ atikkamitvā jīvati, so ekaṃ vā vassaṃ jīvati, dve vā vassāni jīvati, tīṇi vā vassāni jīvati, cattāri vā vassāni jīvati, pañca vā vassāni jīvati, dasa vā vassāni jīvati, vīsatiṃ vā vassāni jīvati, tiṃsaṃ vā vassāni jīvati, cattārīsaṃ vā vassāni jīvatī ’ti ‘yo cepi aticca jīvati.’
Atha kho so jarasāpi mīyatī ti – Yadā jiṇṇo hoti vuddho mahallako addhagato vayo anuppatto, khaṇḍadanto palitakeso, vilūnaṃ khalitaṃsiro valitaṃ tilakāhatagatto vaṅko bhoggo daṇḍaparāyaṇo, so jarāyapi cavati marati antaradhāyati vippalujjati, natthi maraṇamhā mokkho.
13. “Phalānamiva pakkānaṃ pāto papanato bhayaṃ, evaṃ jātāna maccānaṃ niccaṃ maraṇato bhayaṃ.
14. Yathāpi kumbhakārassa kataṃ mattikabhājanaṃ, sabbaṃ bhedanapariyantaṃ evaṃ maccāna jīvitaṃ.
15. Daharā ca mahantā ca ye bālā ye ca paṇḍitā. sabbe maccuvasaṃ yanti sabbe maccuparāyaṇā.
16. “Tesaṃ maccuparetānaṃ gacchataṃ paralokato, na pitā tāyate puttaṃ ñātī vā pana ñātake.
17. Pekkhataññeva ñātīnaṃ passa lālapataṃ puthū, ekamekova maccānaṃ govajjho viya nīyati, evamabbhāhato loko maccunā ca jarāya cā ”ti.
Atha kho so jarasāpi mīyati.
Tenāha bhagavā:
“Appaṃ vata jīvitaṃ idaṃ oraṃ vassasatāpi mīyati, yo cepi aticca jīvati atha kho so jarasāpi mīyatī ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Quả thật, mạng sống này là ít ỏi,
thậm chí kém hơn trăm tuổi cũng chết rồi.
Nếu người nào vượt qua (hạn tuổi ấy) vẫn còn sống,
người ấy rồi cũng chết vì già.”
6.2
Socanti janā mamāyite na hi santi niccā pariggahā, vinābhāvaṃ santam evidaṃ iti disvā nāgāramāvase.
Loài người sầu muộn về vật đã được chấp là của ta,
bởi vì các sự bám giữ được trường tồn là không có,
sự chia lìa này thật sự đang hiện hữu,
sau khi nhìn thấy như thế thì không nên sống đời tại gia.
Loài Người sầu vì ngã,
Mọi chấp thủ vô thường,
Trống không là đời này,
Thấy vậy sống không nhà.
(Kinh Tập, câu kệ 805)
Socanti janā mamāyite ti – Janā ti khattiyā ca brāhmaṇā ca vessā ca suddā ca gahaṭṭhā ca pabbajitā ca devā ca manussā ca. Mamattā ti dve mamattā: taṇhāmamattaṃ ca diṭṭhimamattaṃ ca —pe— idaṃ taṇhāmamattaṃ —pe— idaṃ diṭṭhimamattaṃ. Mamāyitaṃ vatthuṃ acchedasaṅkinopi socanti, acchijjantepi socanti, acchinnepi socanti. Mamāyitaṃ vatthuṃ vipariṇāmasaṅkinopi socanti, vipariṇamantepi socanti, vipariṇatepi socanti, kilamanti, paridevanti, urattāḷiṃ kandanti, sammohaṃ āpajjantī ’ti – socanti janā mamāyite.
Loài người sầu muộn về vật đã được chấp là của ta – Loài người là các Sát-đế-lỵ, các Bà-la-môn, các thương buôn, các nô lệ, các gia chủ, các vị xuất gia, chư Thiên, và nhân loại. Trạng thái chấp là của ta – có hai trạng thái chấp là của ta: trạng thái chấp là của ta do tham ái và trạng thái chấp là của ta do tà kiến. —như trên— điều này là trạng thái chấp là của ta do tham ái. —như trên— điều này là trạng thái chấp là của ta do tà kiến. Có sự lo âu về sự chiếm đoạt đồ vật đã được chấp là của ta nên họ sầu muộn, trong khi đang bị chiếm đoạt cũng sầu muộn, khi đã bị chiếm đoạt cũng sầu muộn. Có sự lo âu về sự biến đổi của đồ vật đã được chấp là của ta nên họ sầu muộn, trong khi đang bị biến đổi cũng sầu muộn, khi đã bị biến đổi cũng sầu muộn, mệt mỏi, than vãn, khóc nức nở, đi đến sự mê muội. ‘Loài người sầu muộn về vật đã được chấp là của ta’ là thế ấy.
Na hi santi niccā pariggahā ti – Pariggahā ti dve pariggahā: taṇhāpariggaho ca diṭṭhipariggaho ca —pe— ayaṃ taṇhāpariggaho —pe— ayaṃ diṭṭhipariggaho. Taṇhāpariggaho anicco saṅkhato paṭiccasamuppanno khayadhammo vayadhammo virāgadhammo nirodhadhammo vipariṇāmadhammo. Diṭṭhipariggaho ca anicco saṅkhato paṭiccasamuppanno khayadhammo vayadhammo virāgadhammo nirodhadhammo vipariṇāmadhammo.
Bởi vì các sự bám giữ được trường tồn là không có: Các sự bám giữ – Có hai sự bám giữ: sự bám giữ do tham ái và sự bám giữ do tà kiến. —như trên— điều này là bám giữ do tham ái. —như trên— điều này là bám giữ do tà kiến. Sự bám giữ do tham ái là không thường còn, bị tạo tác, được sanh lên tùy theo điều kiện, có sự hoại, có sự diệt, có sự hết ưa thích, có sự chấm dứt, có sự biến đổi. Sự bám giữ do tà kiến là không thường còn, bị tạo tác, được sanh lên tùy theo điều kiện, có sự hoại, có sự diệt, có sự hết ưa thích, có sự chấm dứt, có sự biến đổi.
Vuttaṃ hetaṃ bhagavatā:
“Passatha no tumhe bhikkhave, taṃ pariggahaṃ, yvāssa pariggaho nicco dhuvo sassato avipariṇāmadhammo sassatisamaṃ tatheva ṭhassatī ”ti? No hetaṃ bhante. “Sādhu bhikkhave, ahampi kho etaṃ bhikkhave pariggahaṃ na samanupassāmi, yvāssa8 pariggaho nicco dhuvo sassato avipariṇāmadhammo sassatisamaṃ tatheva ṭhassatī ”ti. Pariggahā niccā dhuvā sassatā avipariṇāmadhammā natthi na santi na saṃvijjanti nupalabbhantī ’ti – na hi santi niccā pariggahā.
Bởi vì, điều này đã được đức Thế Tôn nói đến:
“Này các tỳ khưu, các ngươi có thấy sự nắm giữ nào là thường còn, ổn định, trường tồn, không có sự biến đổi, sẽ tồn tại y như thế một cách vĩnh viễn?” “Bạch Ngài, điều ấy không đúng.” “Này các tỳ khưu, tốt lắm! Này các tỳ khưu, Ta cũng không nhìn thấy sự nắm giữ nào là thường còn, ổn định, trường tồn, không có sự biến đổi, sẽ tồn tại y như thế một cách vĩnh viễn.” Các sự nắm giữ thường còn, ổn định, trường tồn, không có sự biến đổi là không có, không hiện diện, không tìm thấy, không tồn tại. ‘Bởi vì các sự bám giữ được trường tồn là không có’ là thế ấy.
Vinābhāvaṃ santamevidan ti – nānābhāve vinābhāve aññathābhāve sante saṃvijjamāne upalabbhiyamāne. Vuttaṃ hetaṃ bhagavatā: “Alaṃ ānanda, mā soci, mā paridevi. Nanu etaṃ mayā ānanda, paṭigacceva akkhātaṃ ‘sabbeheva piyehi manāpehi nānābhāvo vinābhāvo aññathābhāvo. Taṃ kutettha ānanda, labbhā, yaṃ taṃ jātaṃ bhūtaṃ saṅkhataṃ palokadhammaṃ taṃ vata mā palujjī ’ti, netaṃ ṭhānaṃ vijjatī ”ti. Purimānaṃ purimānaṃ khandhānaṃ dhātūnaṃ āyatanānaṃ vipariṇāmaññathābhāvā pacchimā pacchimā khandhā ca dhātuyo ca āyatanāni ca pavattantī ’ti – vinābhāvaṃ santamevidaṃ.
Sự chia lìa này thật sự đang hiện diện: ở bản tánh thay đổi, ở bản tánh chia lìa, ở bản tánh đổi khác, khi đang hiện diện, khi đang được tìm thấy, khi đang được tồn tại. Bởi vì, điều này đã được đức Thế Tôn nói đến: “Này Ānanda, thôi đi! Chớ sầu muộn, chớ than vãn. Này Ānanda, chẳng phải điều này đã được Ta nói ngay từ trước rằng: ‘Với tất cả các vật đáng yêu đáng mến, thì đều có bản tánh thay đổi, bản tánh chia lìa, bản tánh đổi khác’? Này Ānanda, ở đây làm sao có thể đạt được sự kiện ấy? Là sự kiện vật được sanh ra, được hiện hữu, bị tạo tác, có pháp tiêu hoại, nhưng mà vật ấy chớ có tiêu hoại,’ sự kiện này không được biết đến.” Do bản tánh biến hoại và đổi khác của các uẩn, của các giới, của các xứ ngay trước đây mà các uẩn, các giới, và các xứ kế liền đó vận hành. ‘Sự chia lìa này thật sự đang hiện diện’ là thế ấy.
Iti disvā nāgāramāvase ti – Itī ti padasandhi padasaṃsaggo padapāripūrī akkharasamavāyo byañjanasiliṭṭhatā padānupubbatā nāmetaṃ itīti. Iti disvā – passitvā tulayitvā tīrayitvā vibhāvayitvā vibhūtaṃ katvā mamattesū ’ti – iti disvā. Nāgāramāvase ti – sabbaṃ gharāvāsapaḷibodhaṃ chinditvā puttadārapaḷibodhaṃ chinditvā ñātipaḷibodhaṃ chinditvā mittāmaccapaḷibodhaṃ chinditvā sannidhipaḷibodhaṃ chinditvā kesamassuṃ ohāretvā kāsāyāni vatthāni acchādetvā agārasmā anagāriyaṃ pabbajitvā akiñcanabhāvaṃ upagantvā eko careyya vihareyya iriyeyya vatteyya pāleyya yapeyya yāpeyyā ’ti – iti disvā nāgāramāvase.
Sau khi nhìn thấy như thế thì không nên sống đời tại gia: Như thế: cái này gọi là sự nối liền các câu văn, sự kết hợp các câu văn, sự làm đầy đủ các câu văn, sự gặp gỡ của các âm, trạng thái trau chuốt từ ngữ, tính chất tuần tự của các câu văn. ‘Như thế’ là thế ấy. Sau khi nhìn thấy như thế: sau khi nhìn xem, sau khi cân nhắc, sau khi xét đoán, sau khi phân hạng, sau khi làm rõ rệt về các trạng thái chấp là của ta. ‘Sau khi nhìn thấy như thế’ là thế ấy. Không nên sống đời tại gia: Sau khi cắt đứt tất cả sự vướng bận của việc cư ngụ ở căn nhà, sau khi cắt đứt sự vướng bận về vợ con, sau khi cắt đứt sự vướng bận về thân quyến, sau khi cắt đứt sự vướng bận về bạn bè thân hữu, sau khi cắt đứt sự vướng bận về sự tích trữ, sau khi cạo bỏ râu tóc, khoác lên các y màu ca-sa, rời nhà xuất gia sống không nhà, sau khi đi đến trạng thái không có gì, một mình thực hành, sống, cư xử, vận hành, bảo hộ, duy trì, nuôi dưỡng. ‘Không nên sống đời tại gia’ là thế ấy.
Tenāha bhagavā:
“Socanti janā mamāyite na hi santi niccā pariggahā, vinābhāvaṃ santamevidaṃ iti disvā nāgāramāvase ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Loài người sầu muộn về vật đã được chấp là của ta, bởi vì các sự bám giữ được trường tồn là không có, sự chia lìa này thật sự đang hiện hữu, sau khi nhìn thấy như thế thì không nên sống đời tại gia.”
6.3
Maraṇenapi taṃ pahīyati yaṃ puriso mamidanti maññati, etaṃ disvāna paṇḍito na mamattāya nametha māmako.
Cái nào mà người suy nghĩ rằng: ‘Cái này là của tôi,’ cái ấy cũng bị dứt bỏ bởi sự chết. Sau khi nhìn thấy điều này, vị sáng suốt, người tận tụy, không nên thiên về trạng thái chấp là của tôi.
Vì loài Người nghĩ rằng
Cái này là của tôi,
Cái ấy bị sự chết,
Làm hoại diệt hư tàn.
Biết vậy, bậc Hiền trí,
Không gọi, không hướng đến,
Cái này ngã của ta,
Cái này là của ta.
(Kinh Tập, câu kệ 806)
Maraṇepi taṃ pahīyatī ti – Maraṇan ti yā tesaṃ tesaṃ sattānaṃ tamhā tamhā sattanikāyā cuti cavanatā bhedo antaradhānaṃ maccu maraṇaṃ kālakiriyā khandhānaṃ bhedo kalebarassa nikkhepo jīvitindriyassūpacchedo. Tan ti rūpagataṃ vedanāgataṃ saññāgataṃ saṅkhāragataṃ viññāṇagataṃ. Pahīyatī ti pahīyati jahīyati vijahīyati antaradhāyati vippalujjati.
Cái ấy bị dứt bỏ cũng bởi sự chết – Sự chết: sự quá vãng, trạng thái hủy diệt, sự tan rã, sự biến mất, sự tử vong, sự chết, sự hoàn tất thời gian, sự tan rã của các uẩn, sự quăng bỏ thân xác, sự bẻ gãy mạng quyền của các chúng sanh ấy khỏi tập thể của chính các chúng sanh ấy. Cái ấy: đề cập đến sắc, đề cập đến thọ, đề cập đến tưởng, đề cập đến các hành, đề cập đến thức. Bị dứt bỏ: bị dứt bỏ là bị từ bỏ, bị rời bỏ, bị biến mất, bị tiêu hoại.
Bhāsitampi hetaṃ:
1. “Pubbeva maccaṃ vijahanti bhogā macco va ne pubbataraṃ jahāti, asassatā bhogino kāmakāmī tasmā na socāmahaṃ sokakāle.
Bởi vì, điều này cũng đã được nói đến:
1. Các của cải rời bỏ con người trước hơn hết, chính con người từ bỏ các của cải trước hơn nữa, những người mong muốn ngũ dục có của cải không được trường tồn, vì thế, Ta không sầu muộn ở thời điểm của sầu muộn.
2. Udeti āpūrati veti cando atthaṅgametvāna paleti sūriyo, viditā mayā sattuka! Lokadhammā tasmā na socāmahaṃ sokakāle ”ti. – Maraṇenapi taṃ pahīyati.
2. Mặt trăng mọc lên, tròn dần rồi lại khuyết.
Mặt trời sau khi lặn xuống thì biến mất đi.
Này Sattuka, các pháp thế gian đã được Ta nhận biết;
vì thế, Ta không sầu muộn ở thời điểm của sầu muộn. ‘Cái ấy bị dứt bỏ cũng bởi sự chết’ là thế ấy.
Yaṃ puriso mamidanti maññatī ti – Yan ti rūpagataṃ vedanāgataṃ saññāgataṃ saṅkhāragataṃ viññāṇagataṃ. Puriso ti saṅkhā samaññā paññatti vohāro nāmaṃ nāmakammaṃ nāmadheyyaṃ nirutti byañjanaṃ abhilāpo. Mamidanti maññatī ti taṇhāmaññanāya maññati, diṭṭhimaññanāya maññati, mānamaññanāya maññati, kilesamaññanāya maññati, duccaritamaññanāya maññati, payogamaññanāya maññati, vipākamaññanāya maññatī ’ti – yaṃ puriso mamidanti maññati
Cái nào mà người suy nghĩ rằng: ‘Cái này là của tôi’ – Cái nào: đề cập đến sắc, đề cập đến thọ, đề cập đến tưởng, đề cập đến các hành, đề cập đến thức. Người: là sự ấn định, sự chỉ định, sự quy định, sự diễn tả, tên gọi, sự đặt tên, sự định danh, từ mô tả, tên hiệu, từ kêu gọi. Suy nghĩ rằng: ‘Cái này là của tôi’ là suy nghĩ với sự suy nghĩ bởi tham ái, suy nghĩ với sự suy nghĩ bởi tà kiến, suy nghĩ với sự suy nghĩ bởi ngã mạn, suy nghĩ với sự suy nghĩ bởi ô nhiễm, suy nghĩ với sự suy nghĩ bởi uế hạnh, suy nghĩ với sự suy nghĩ bởi thực dụng, suy nghĩ với sự suy nghĩ bởi kết quả. ‘Cái nào mà người suy nghĩ rằng: Cái này là của tôi,’ là thế ấy.
Etaṃ disvāna paṇḍito ti etaṃ ādīnavaṃ ñatvā jānitvā tulayitvā tīrayitvā vibhāvayitvā vibhūtaṃ katvā mamattesū ’ti – etaṃ disvāna. Paṇḍito ti dhīro paññavā buddhimā ñāṇī vibhāvī medhāvī ’ti – etaṃ disvāna paṇḍito.
Sau khi nhìn thấy điều này, vị sáng suốt: Sau khi nhìn thấy điều bất lợi ấy, sau khi nhìn xem, sau khi cân nhắc, sau khi xét đoán, sau khi phân hạng, sau khi làm rõ rệt về các trạng thái chấp là của tôi. ‘Sau khi nhìn thấy điều này’ là thế ấy. Bậc sáng suốt: là người sáng trí, có tuệ, có sự giác ngộ, có trí, rành mạch, thông minh. ‘Sau khi nhìn thấy điều này, vị sáng suốt’ là thế ấy.
Na mamattāya nametha māmako ti – Mamattā ti dve mamattā: taṇhāmamattaṃ ca diṭṭhimamattaṃ ca —pe— idaṃ taṇhāmamattaṃ —pe— idaṃ diṭṭhimamattaṃ. Māmako ti – māmako buddhamāmako dhammamāmako saṅghamāmako; so taṃ bhagavantaṃ mamāyati. Bhagavā taṃ puggalaṃ parigaṇhāti.
Người tận tụy, không nên thiên về trạng thái chấp là của tôi – Trạng thái chấp là của tôi: có hai trạng thái chấp là của tôi: trạng thái chấp là của tôi do tham ái và trạng thái chấp là của tôi do tà kiến. —như trên— điều này là trạng thái chấp là của tôi do tham ái. —như trên— điều này là trạng thái chấp là của tôi do tà kiến. Người tận tụy: Người tận tụy là người tận tụy với đức Phật, người tận tụy với Giáo Pháp, người tận tụy với Hội Chúng; người ấy trở nên tận tụy với đức Thế Tôn ấy. Đức Thế Tôn sở hữu con người ấy.
Vuttaṃ hetaṃ bhagavatā:
“Ye te bhikkhave bhikkhū kuhā thaddhā lapā siṅgī unnaḷā asamāhitā, na me te bhikkhave, bhikkhū māmakā. Apagatā ca te bhikkhave, bhikkhū imasmā dhammavinayā. Na ca pana te imasmiṃ dhammavinaye vuddhiṃ virūḷhiṃ vepullaṃ āpajjanti. Ye ca kho te bhikkhave, bhikkhū nikkuhā nillapā dhīrā atthaddhā susamāhitā, te kho me bhikkhave, bhikkhū māmakā. Anapagatā ca te bhikkhave, bhikkhū imasmā dhammavinayā; te ca imasmiṃ dhammavinaye vuddhiṃ virūḷhiṃ vepullaṃ āpajjanti.
Bởi vì, điều này đã được đức Thế Tôn nói đến:
“Này các tỳ khưu, những vị tỳ khưu nào là dối trá, ương ngạnh, nói nhiều, lừa đảo, khoác lác, không định tỉnh, này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu ấy không phải là những người tận tụy. Và này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu ấy đã lìa khỏi Pháp và Luật này. Và này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu ấy không đạt được sự phát triển, tăng trưởng, lớn mạnh trong Pháp và Luật này. Và này các tỳ khưu, những vị tỳ khưu nào là không dối trá, không nói nhiều, thông minh, không ương ngạnh, khéo định tỉnh, này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu ấy là những người tận tụy, và này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu ấy đã không lìa khỏi Pháp và Luật này. Này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu ấy đạt được sự phát triển, tăng trưởng, lớn mạnh trong Pháp và Luật này.
3. “Kuhā thaddhā lapā siṅgī unnaḷā asamāhitā, na te dhamme virūhanti sammāsambuddhadesite.
3. “Những người dối trá, ương ngạnh, nói nhiều, lừa đảo, khoác lác, không định tỉnh, những người ấy không tiến triển trong Giáo Pháp đã được đấng Chánh Đẳng Giác thuyết giảng.
4. Nikkuhā nillapā dhīrā atthaddhā susamāhitā, te ve dhamme virūhanti sammāsambuddhadesite ”ti.
4. Các vị không dối trá, không nói nhiều, thông minh, không ương ngạnh, khéo định tỉnh, thật vậy các vị ấy tiến triển trong Giáo Pháp đã được đấng Chánh Đẳng Giác thuyết giảng.”
Na mamattāya nametha māmako ti – māmako taṇhāmamattaṃ pahāya diṭṭhimamattaṃ paṭinissajitvā mamattāya na nameyya, na onameyya, na tanninno assa, na tappoṇo na tappabbhāro na tadadhimutto na tadadhipateyyo ’ti – na mamattāya nametha māmako.
Người tận tụy, không nên thiên về trạng thái chấp là của tôi – Người tận tụy sau khi từ bỏ trạng thái chấp là của tôi do tham ái, sau khi xả bỏ trạng thái chấp là của tôi do tà kiến, không nên thiên về, không nên nghiêng xuống, không nên uốn cong theo nó, không chiều theo nó, không xuôi theo nó, không hướng đến nó, không xem nó là chủ đạo. ‘Người tận tụy, không nên thiên về trạng thái chấp là của tôi’ là thế ấy.
Tenāha bhagavā: “Maraṇenapi taṃ pahīyati yaṃ puriso mamidanti maññati, etaṃ disvāna paṇḍito na mamattāya nametha māmako ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Cái nào mà người suy nghĩ rằng: ‘Cái này là của tôi,’ cái ấy cũng bị dứt bỏ bởi sự chết. Sau khi nhìn thấy điều này, vị sáng suốt, người tận tụy, không nên thiên về trạng thái chấp là của tôi.”
6.4
Supinena yathāpi saṅgataṃ paṭibuddho puriso na passati, evaṃ piyāyitaṃ janaṃ petaṃ kālakataṃ na passati.
Cũng giống như sự việc đã được gặp gỡ qua giấc chiêm bao, khi thức giấc, người không còn nhìn thấy, tương tự như thế, với người được yêu mến đã từ trần, đã quá vãng, thì không nhìn thấy nữa.
Như những gì hiện lên,
Trong giấc ngủ mộng mị,
Con người khi tỉnh dậy,
Không còn thấy được gì.
Cũng vậy ở đời này,
Người được ưa, ái luyến,
Rồi sẽ chết mất đi,
Không ai còn thấy được.
(Kinh Tập, câu kệ 807)
Supinena yathāpi saṅgatan ti – Saṅgataṃ samāgataṃ samāhitaṃ sannipatitan ’ti – supinena yathāpi saṅgataṃ.
Cũng giống như sự việc đã được gặp gỡ qua giấc chiêm bao – Sự việc đã được gặp gỡ, đã được tiếp cận, đã được tập trung, đã được tụ hội. ‘Cũng giống như sự việc đã được gặp gỡ qua giấc chiêm bao’ là thế ấy.
Paṭibuddho puriso na passatī ti – Yathā puriso supinagato candaṃ passati, suriyaṃ passati, mahāsamuddaṃ passati, sineruṃ pabbatarājānaṃ passati, hatthiṃ passati, assaṃ passati, rathaṃ passati, pattiṃ passati, senābyūhaṃ passati, ārāmarāmaṇeyyakaṃ passati, vanarāmaṇeyyakaṃ passati, bhūmirāmaṇeyyakaṃ passati, pokkharaṇīrāmaṇeyyakaṃ passati; paṭibuddho na kiñci passatī ’ti – paṭibuddho puriso na passati.
Khi thức giấc, người không còn nhìn thấy – Giống như người đi vào giấc chiêm bao nhìn thấy mặt trăng, nhìn thấy mặt trời, nhìn thấy đại dương, nhìn thấy núi chúa Sineru, nhìn thấy voi, nhìn thấy ngựa, nhìn thấy cỗ xe, nhìn thấy người lính, nhìn thấy đoàn quân, nhìn thấy khu vườn đáng yêu, nhìn thấy cánh rừng đáng yêu, nhìn thấy vùng đất đáng yêu, nhìn thấy hồ nước đáng yêu; khi thức giấc thì không còn nhìn thấy bất cứ thứ gì. ‘Khi thức giấc, người không còn nhìn thấy’ là thế ấy.
Evaṃ piyāyitaṃ janan ti – Evan ti opammasampaṭipādanaṃ. Piyāyitaṃ janan ti piyāyitaṃ mamāyitaṃ janaṃ, mātaraṃ vā pitaraṃ vā bhātaraṃ vā bhaginiṃ vā puttaṃ vā dhītaraṃ vā mittaṃ vā amaccaṃ vā ñātisālohitaṃ vā ’ti – evaṃ piyāyitaṃ janaṃ.
Tương tự như thế, với người được yêu mến – Tương tự như thế: báo hiệu sự so sánh. Với người được yêu mến: với người được yêu mến, đã được chấp là của tôi, mẹ, hoặc cha, hoặc anh em trai, hoặc chị em gái, hoặc con trai, hoặc con gái, hoặc bạn bè, hoặc thân hữu, hoặc thân quyến cùng huyết thống. ‘Tương tự như thế, với người được yêu mến’ là thế ấy.
Petaṃ kālakataṃ na passatī ti – Peto vuccati mato kālakato, taṃ petaṃ na passati, na dakkhati, nādhigacchati, na vindati, na paṭilabhatī ’ti – petaṃ kālakataṃ na passati.
Đã từ trần, đã quá vãng, thì không nhìn thấy nữa – Đã từ trần gọi là đã chết, đã quá vãng, với người đã từ trần ấy thì không nhìn thấy nữa, không ngắm thấy nữa, không đạt đến nữa, không kiếm được nữa, không nhận được nữa. ‘Đã từ trần, đã quá vãng, thì không nhìn thấy nữa’ là thế ấy.
Tenāha bhagavā: Supinena yathāpi saṅgataṃ paṭibuddho puriso na passati, evaṃ piyāyitaṃ janaṃ petaṃ kālakataṃ na passatī ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Cũng giống như sự việc đã được gặp gỡ qua giấc chiêm bao, khi thức giấc, người không còn nhìn thấy, tương tự như thế, với người được yêu mến đã từ trần, đã quá vãng, thì không nhìn thấy nữa.”
6.5
Diṭṭhāpi sutāpi te janā yesaṃ nāmamidaṃ pavuccati, nāmamevāvasissati akkheyyaṃ petassa jantuno.
Những người ấy dầu đã được thấy, dầu đã được nghe, đối với họ, tên gọi này được nói đến. Chỉ mỗi tên gọi sẽ còn ở lại, sẽ được nhắc đến đối với người đã từ trần.
Các loại hạng người ấy
Ðược thấy và được nghe,
Nên họ được gọi tên,
Tên này hay tên khác.
Với người đã chết đi,
Chỉ được gọi tên không,
Vì chỉ có tên suông,
Sẽ được còn tồn tại.
(Kinh Tập, câu kệ 808)
Diṭṭhāpi sutāpi te janā ti – Diṭṭhā ti ye cakkhuviññāṇābhisambhūtā. Sutā ti ye sotaviññāṇābhisambhūtā. Te janā ti khattiyā ca brāhmaṇā ca vessā ca suddā ca gahaṭṭhā ca pabbajitā ca devā ca manussā cā ’ti – diṭṭhāpi sutāpi te janā.
Những người ấy dầu đã được thấy, dầu đã được nghe – Đã được thấy: những gì được hình thành nhờ vào nhãn thức. Đã được nghe: những gì được hình thành nhờ vào nhĩ thức. Những người ấy: là các Sát-đế-lỵ, các Bà-la-môn, các thương buôn, các nô lệ, các gia chủ, các vị xuất gia, chư Thiên, và nhân loại. ‘Những người ấy dầu đã được thấy, dầu đã được nghe’ là thế ấy.
Yesaṃ nāmamidaṃ pavuccatī ti – Yesan ti khattiyānaṃ brāhmaṇānaṃ vessānaṃ suddānaṃ gahaṭṭhānaṃ pabbajitānaṃ devānaṃ manussānaṃ. Nāman ti saṅkhā samaññā paññatti vohāro nāmaṃ nāmakammaṃ nāmadheyyaṃ nirutti byañjanaṃ abhilāpo. Pavuccatī ti vuccati pavuccati kathīyati bhaṇīyati dīpīyati voharīyatī ’ti – yesaṃ nāmamidaṃ pavuccati.
Đối với họ, tên gọi này được nói đến – Đối với họ: đối với các Sát-đế-lỵ, đối với các Bà-la-môn, đối với các thương buôn, đối với các nô lệ, đối với các gia chủ, đối với các vị xuất gia, đối với chư Thiên, đối với nhân loại. Tên gọi: là sự ấn định, sự chỉ định, sự quy định, sự diễn tả, tên gọi, sự đặt tên, sự định danh, từ mô tả, tên hiệu, từ kêu gọi. Được nói đến: được gọi là, được nói đến, được thuyết, được phát ngôn, được diễn giải, được diễn tả. ‘Đối với họ, tên gọi này được nói đến’ là thế ấy.
Nāmamevāvasissati akkheyyan ti – Rūpagataṃ vedanāgataṃ saññāgataṃ saṅkhāragataṃ viññāṇagataṃ pahīyati jahīyati [vijahīyati] antaradhāyati vippalujjatī ’ti nāmamevāvasissati. Akkheyyan ti akkhātuṃ kathetuṃ bhaṇituṃ dīpayituṃ voharitun ’ti – nāmamevāvasissati akkheyyaṃ.
Chỉ mỗi tên gọi sẽ còn ở lại, sẽ được nhắc đến: Việc đề cập đến sắc, đề cập đến thọ, đề cập đến tưởng, đề cập đến các hành, đề cập đến thức bị dứt bỏ, bị từ bỏ, bị rời bỏ, bị biến mất, bị tiêu hoại. ‘Chỉ mỗi tên gọi sẽ còn ở lại’ là thế ấy. Sẽ được nhắc đến: để nhắc đến, để thuyết, để phát ngôn, để diễn giải, để diễn tả. ‘Chỉ mỗi tên gọi sẽ còn ở lại, sẽ được nhắc đến’ là thế ấy.
Petassa jantuno ti – Petassā ti petassa kālakatassa. Jantuno ti sattassa narassa māṇavassa posassa puggalassa jīvassa jāgussa jantussa indagussa hindagussa manujassā ’ti – akkheyyaṃ petassa jantuno.
Đối với người đã từ trần – Đã từ trần: đã từ trần là đã quá vãng. Đối với người: là đối với chúng sanh, đối với đàn ông, đối với thanh niên, đối với người nam, đối với cá nhân, đối với mạng sống, đối với người còn sanh tử, đối với con người, đối với người đi theo nghiệp, đối với nhân loại. ‘Sẽ được nhắc đến đối với người đã từ trần’ là thế ấy.
Tenāha bhagavā: “Diṭṭhāpi sutāpi te janā yesaṃ nāmamidaṃ pavuccati, nāmamevāvasissati akkheyyaṃ petassa jantuno ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Những người ấy dầu đã được thấy, dầu đã được nghe, đối với họ, tên gọi này được nói đến. Chỉ mỗi tên gọi sẽ còn ở lại, sẽ được nhắc đến đối với người đã từ trần.”
6.6
Sokaparidevamaccharaṃ na jahanti giddhā mamāyite, tasmā munayo pariggahaṃ hitvā acariṃsu khemadassino.
Những người bị thèm khát ở vật đã được chấp là của ta không buông bỏ sầu muộn, than vãn, và bỏn xẻn. Do đó, các bậc hiền trí, với việc nhìn thấy sự an toàn, đã từ bỏ sự bám giữ, đã sống.
Tham đắm cái của ta,
Họ không có từ bỏ,
Sầu khổ và than van,
Cùng xan tham keo kiết.
Do vậy bậc ẩn sĩ,
Sau khi bỏ chấp thủ,
Ðã sống một đời sống,
Thấy được sự an ổn.
(Kinh Tập, câu kệ 809)
Sokaparidevamaccharaṃ na jahanti giddhā mamāyite ti – Soko ti ñātivyasanena vā phuṭṭhassa bhogavyasanena vā phuṭṭhassa rogavyasanena vā phuṭṭhassa sīlavyasanena vā phuṭṭhassa diṭṭhivyasanena vā phuṭṭhassa aññataraññatarena vā vyasanena samannāgatassa aññataraññatarena vā dukkhadhammena phuṭṭhassa soko socanā socitattaṃ antosoko antoparisoko antodāho antoparidāho cetaso parijhāyanā domanassaṃ sokasallaṃ.
Paridevo ti – Ñātivyasanena vā phuṭṭhassa bhogavyasanena vā phuṭṭhassa rogavyasanena vā phuṭṭhassa sīlavyasanena vā phuṭṭhassa diṭṭhivyasanena vā phuṭṭhassa aññataraññatarena vā vyasanena samannāgatassa aññataraññatarena vā dukkhadhammena phuṭṭhassa ādevo paridevo ādevanā paridevanā ādevitattaṃ paridevitattaṃ vācā palāpo vippalāpo lālappo lālappanā lālappitattaṃ.
Macchariyanti – pañca macchariyāni: āvāsamacchariyaṃ kulamacchariyaṃ lābhamacchariyaṃ vaṇṇamacchariyaṃ dhammamacchariyaṃ, yaṃ evarūpaṃ macchariyaṃ maccharāyanā maccharāyitattaṃ vevicchaṃ kadariyaṃ kaṭukañcukatā aggahitattaṃ cittassa, idaṃ vuccati macchariyaṃ. Api ca khandhamacchariyampi macchariyaṃ, dhātumacchariyampi macchariyaṃ, āyatanamacchariyampi macchariyaṃ, gāho; idaṃ vuccati macchariyaṃ.
Những người bị thèm khát ở vật đã được chấp là của ta không buông bỏ sầu muộn, than vãn, và bỏn xẻn – Sầu muộn: Là sự sầu muộn, sự buồn rầu, trạng thái buồn phiền, sự sầu muộn ở nội tâm, sự buồn thảm ở nội tâm, sự nóng nảy ở nội tâm, sự bực tức ở nội tâm, nỗi ưu phiền do trạng thái bực bội của tâm, sự sầu muộn ví như mũi tên của người bị tác động bởi sự rủi ro về thân quyến, bị tác động bởi sự rủi ro về của cải, bị tác động bởi sự rủi ro về bệnh tật, bị tác động bởi sự suy giảm về giới hạnh, bị tác động bởi sự suy giảm về kiến thức, bị gặp phải sự rủi ro này hoặc rủi ro khác, bị tác động bởi sự khổ đau này hoặc sự khổ đau khác. Than vãn: sự than van, sự than trách, sự than thở, sự than vãn, trạng thái than van, trạng thái than trách, lời nói, nói lảm nhảm, nói huyên thuyên, nói kể lể, lối nói kể lể, trạng thái nói kể lể của người bị tác động bởi sự rủi ro về thân quyến, bị tác động bởi sự rủi ro về của cải, bị tác động bởi sự rủi ro về bệnh tật, bị tác động bởi sự suy giảm về giới hạnh, bị tác động bởi sự suy giảm về kiến thức, bị gặp phải sự rủi ro này hoặc rủi ro khác, bị tác động bởi sự khổ đau này hoặc sự khổ đau khác. Bỏn xẻn: Có năm sự bỏn xẻn: bỏn xẻn về chỗ ở, bỏn xẻn về gia tộc, bỏn xẻn về lợi lộc, bỏn xẻn về danh tiếng, bỏn xẻn về Pháp; bỏn xẻ với hình thức như vầy là biểu hiện của bỏn xẻn, trạng thái của bỏn xẻn, sự hám lợi, keo kiệt, tính chất bủn xỉn, trạng thái nắm giữ của tâm, điều này được gọi là bỏn xẻn. Còn nữa, bỏn xẻn về uẩn cũng là bỏn xẻn, bỏn xẻn về giới cũng là bỏn xẻn, bỏn xẻn về xứ cũng là bỏn xẻn, sự nắm lấy, điều này được gọi là bỏn xẻn.
Gedho vuccati taṇhā, yo rāgo sārāgo ―pe― abhijjhā lobho akusalamūlaṃ.
Thèm khát được gọi là tham ái, nghĩa là luyến ái, luyến ái mãnh liệt, —như trên— tham đắm, tham, cội nguồn của bất thiện.
Mamattā ti dve mamattā: taṇhāmamattaṃ ca diṭṭhimamattaṃ ca. ―pe― idaṃ taṇhāmamattaṃ ―pe― idaṃ diṭṭhimamattaṃ. Mamāyitaṃ vatthuṃ acchedasaṅkinopi socanti, acchijjantepi socanti, acchinnepi socanti. Mamāyitaṃ vatthuṃ vipariṇāmasaṅkinopi socanti, vipariṇamantepi socanti [vipariṇatepi socanti ]. Mamāyitaṃ vatthuṃ acchedasaṅkinopi paridevanti, acchijjantepi paridevanti, acchinnepi paridevanti. Mamāyitaṃ vatthuṃ vipariṇāmasaṅkinopi paridevanti, vipariṇamantepi paridevanti, vipariṇatepi paridevanti. Mamāyitaṃ vatthuṃ rakkhanti gopenti parigaṇhanti, mamāyanti maccharāyanti. Mamāyitasmiṃ vatthusmiṃ [socanti ] sokaṃ na jahanti, paridevaṃ na jahanti, macchariyaṃ na jahanti, gedhaṃ na jahanti, nappajahanti na vinodenti na byantiṃ karonti na anabhāvaṃ gamentī ’ti – sokaparidevamaccharaṃ na jahanti giddhā mamāyite.
Trạng thái chấp là của ta – có hai trạng thái chấp là của ta: trạng thái chấp là của ta do tham ái và trạng thái chấp là của ta do tà kiến. —như trên— điều này là trạng thái chấp là của ta do tham ái. —như trên— điều này là trạng thái chấp là của ta do tà kiến. Có sự lo âu về sự chiếm đoạt đồ vật đã được chấp là của ta nên họ sầu muộn, trong khi đang bị chiếm đoạt cũng sầu muộn, khi đã bị chiếm đoạt cũng sầu muộn. Có sự lo âu về sự biến đổi của đồ vật đã được chấp là của ta nên họ sầu muộn, trong khi đang bị biến đổi cũng sầu muộn, khi đã bị biến đổi cũng sầu muộn. Có sự lo âu về sự chiếm đoạt đồ vật đã được chấp là của ta nên họ than vãn, trong khi đang bị chiếm đoạt cũng than vãn, khi đã bị chiếm đoạt cũng than vãn. Có sự lo âu về sự biến đổi của đồ vật đã được chấp là của ta nên họ than vãn, trong khi đang bị biến đổi cũng than vãn, khi đã bị biến đổi cũng than vãn. Họ bảo vệ, gìn giữ, bám giữ, sở hữu, bỏn xẻn vật đã được chấp là của ta. Họ không buông bỏ sự sầu muộn liên quan đến vật đã được chấp là của ta, không buông bỏ sự than vãn, không buông bỏ sự bỏn xẻn, không buông bỏ sự thèm khát, không dứt bỏ, không xua đi, không làm chấm dứt, không khiến cho không còn hiện hữu. ‘Những người bị thèm khát ở vật đã được chấp là của ta không buông bỏ sầu muộn, than vãn, và bỏn xẻn’ là thế ấy.
Tasmā munayo pariggahaṃ hitvā acariṃsu khemadassino ti – Tasmā ti tasmā taṃkāraṇā taṃhetu tappaccayā taṃnidānā etaṃ ādīnavaṃ sampassamānā mamattesū ’ti – tasmā. Munayo ti monaṃ vuccati ñāṇaṃ, yā paññā pajānanā ―pe― amoho dhammavicayo sammādiṭṭhi; tena ñāṇena samannāgatā munayo monappattā. Tīṇi moneyyāni: kāyamoneyyaṃ vacīmoneyyaṃ manomoneyyaṃ ―pe― saṅgajālamaticca so muni. Pariggaho ti – dve pariggahā: taṇhāpariggaho ca diṭṭhipariggaho ca ―pe― ayaṃ taṇhāpariggaho ―pe― ayaṃ diṭṭhipariggaho. Munayo taṇhāpariggahaṃ pariccajitvā diṭṭhipariggahaṃ paṭinissajitvā cajitvā pariccajitvā pajahitvā vinodetvā byantiṃ karitvā anabhāvaṃ gametvā acariṃsu vicariṃsu irīyiṃsu vattayiṃsu pālayiṃsu yapayiṃsu yāpayiṃsu. Khemadassino ti – Khemaṃ vuccati amataṃ nibbānaṃ, yo so sabbasaṅkhārasamatho sabbūpadhipaṭinissaggo taṇhakkhayo virāgo nirodho nibbānaṃ. Khemadassino ti khemadassino tāṇadassino lenadassino saraṇadassino abhayadassino accutadassino amatadassino nibbānadassino ’ti – tasmā munayo pariggahaṃ hitvā acariṃsu khemadassino.
Do đó, các bậc hiền trí, với việc nhìn thấy sự an toàn, đã từ bỏ sự bám giữ, đã sống – Do đó: Do đó là bởi lý do ấy, bởi nhân ấy, bởi duyên ấy, bởi căn nguyên ấy, trong khi nhìn thấy điều bất lợi này ở các trạng thái chấp là của ta. ‘Do đó’ là thế ấy. Các bậc hiền trí: bản thể hiền trí được gọi là trí, tức là tuệ, là sự nhận biết, —như trên— không si mê, sự chọn lựa pháp, chánh kiến, được thành tựu với trí ấy các bậc hiền trí đạt đến bản thể hiền trí. Ba hạnh của hiền trí: hiền trí hạnh về thân, hiền trí hạnh về khẩu, hiền trí hạnh về ý ―như trên ― đã vượt qua sự dính líu và mạng lưới (tham ái và tà kiến), vị ấy là hiền trí. Sự bám giữ: có hai sự bám giữ: sự bám giữ do tham ái và sự bám giữ do tà kiến. —như trên— điều này là bám giữ do tham ái. —như trên— điều này là bám giữ do tà kiến. Sau khi buông bỏ sự bám giữ do tham ái, sau khi xả bỏ sự bám giữ do tà kiến, sau khi phế bỏ, sau khi buông bỏ, sau khi dứt bỏ, sau khi xua đi, sau khi làm chấm dứt, sau khi khiến cho không còn hiện hữu, các bậc hiền trí đã sống, đã sinh hoạt, đã cư xử, đã vận hành, đã bảo hộ, đã duy trì, đã nuôi dưỡng. Nhìn thấy sự an toàn: Sự an toàn được gọi là Bất Tử, Niết Bàn. Pháp ấy là sự yên lặng của tất cả các hành, sự từ bỏ tất cả các mầm tái sanh, sự diệt trừ tham ái, sự lìa khỏi luyến ái, sự tịch diệt, Niết Bàn. Nhìn thấy sự an toàn: Nhìn thấy sự an toàn là nhìn thấy nơi nương tựa, nhìn thấy nơi trú ẩn, nhìn thấy nơi nương nhờ, nhìn thấy nơi không nguy hiểm, nhìn thấy chốn vĩnh cửu, nhìn thấy Bất Tử, nhìn thấy Niết Bàn. ‘Do đó, các bậc hiền trí, với việc nhìn thấy sự an toàn, đã từ bỏ sự bám giữ, đã sống’ là thế ấy.
Tenāha bhagavā: “Sokaparidevamaccharaṃ na jahanti giddhā mamāyite, tasmā munayo pariggahaṃ hitvā acariṃsu khemadassino ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Những người bị thèm khát ở vật đã được chấp là của ta không buông bỏ sầu muộn, than vãn, và bỏn xẻn. Do đó, các bậc hiền trí, với việc nhìn thấy sự an toàn, đã từ bỏ sự bám giữ, đã sống.”
6.7
Patilīnacarassa bhikkhuno bhajamānassa vivittamāsanaṃ, sāmaggiyamāhu tassetaṃ yo attānaṃ bhavane na dassaye.
Ðối với vị tỳ khưu có hạnh sống tách ly, đang thân cận chỗ ngồi vắng vẻ, các vị đã nói rằng điều này là hợp nhất đối với vị ấy, vị ấy sẽ không phô bày bản thân ở cảnh giới (tái sanh nào nữa).
Ðối với vị Tỷ-kheo
Sống thanh vắng một mình,
Sống tu tập tâm ý,
Hướng đến hạnh viễn ly,
Nếp sống vậy được nói,
Hòa hợp với vị ấy,
Và không nêu tự ngã,
Trong hiện hữu của mình.
(Kinh Tập, câu kệ 810)
Patilīnacarassa bhikkhuno ti – patilīnacarā vuccanti satta sekhā; arahā patilīno. Kiṃ kāraṇā patilīnacarā vuccanti satta sekhā? Te tato tato cittaṃ patilīnentā patikuṭentā pativaṭṭentā sannirumbhentā sanniggaṇhantā sannivārentā rakkhantā gopentā caranti viharanti irīyanti vattenti pālenti yapenti yāpenti. Cakkhudvāre cittaṃ patilīnentā patikuṭentā pativaṭṭentā sannirumbhentā sanniggaṇhantā sannivārentā rakkhantā gopentā caranti viharanti irīyanti vattenti pālenti yapenti yāpenti. Sotadvāre cittaṃ – ghānadvāre cittaṃ – jivhādvāre cittaṃ – kāyadvāre cittaṃ – manodvāre cittaṃ patilīnentā patikuṭentā pativaṭṭentā sannirumbhentā sanniggaṇhantā sannivārentā rakkhantā gopentā caranti viharanti irīyanti vattenti pālenti yāpenti yāpenti. Yathā kukkuṭapattaṃ vā nahārudaddulaṃ vā aggimhi pakkhittaṃ (hoti) patilīyati patikuṭati pativaṭṭati na sampasārīyati, evamevaṃ te tato tato cittaṃ patilīnentā patikuṭentā pativaṭṭentā sannirumbhentā sanniggaṇhantā sannivārentā rakkhantā gopentā caranti viharanti irīyanti vattenti pālenti yapenti yāpenti. Cakkhudvāre cittaṃ – sotadvāre cittaṃ – ghānadvāre cittaṃ – jivhādvāre cittaṃ – kāyadvāre cittaṃ – manodvāre cittaṃ patilīnentā patikuṭentā pativaṭṭentā sannirumbhentā sanniggaṇhantā sannivārentā rakkhantā gopentā caranti viharanti irīyanti vattenti pālenti yapenti yāpenti. Taṃkāraṇā patilīnacarā vuccanti satta sekhā. Bhikkhuno ti puthujjanakalyāṇakassa vā bhikkhuno sekhassa vā bhikkhuno ’ti – patilīnacarassa bhikkhuno.
Ðối với vị tỳ khưu có hạnh sống tách ly: Bảy hạng Hữu Học được gọi là có hạnh sống tách ly; bậc A-la-hán là bậc đã tách ly. Vì lý do gì mà bảy hạng Hữu Học được gọi là có hạnh sống tách ly? Các vị ấy–trong khi thâu hẹp tâm lại, co rút tâm, cuốn tròn lại, kiềm chế, khống chế, ngăn chận, bảo vệ, gìn giữ tâm đối với cảnh này, cảnh khác–thực hành, sống, cư xử, vận hành, bảo hộ, duy trì, nuôi dưỡng (bản thân). Trong khi thâu hẹp tâm lại, trong khi co rút, cuốn tròn lại, kiềm chế, khống chế, ngăn chận, bảo vệ, gìn giữ tâm ở nhãn môn, các vị thực hành, sống, cư xử, vận hành, bảo hộ, duy trì, nuôi dưỡng (bản thân). Trong khi thâu hẹp tâm lại, co rút tâm, cuốn tròn lại, kiềm chế, khống chế, ngăn chận, bảo vệ, gìn giữ tâm ở nhĩ môn – tâm ở tỷ môn – tâm ở thiệt môn – tâm ở thân môn – tâm ở ý môn, các vị thực hành, sống, cư xử, vận hành, bảo hộ, duy trì, nuôi dưỡng (bản thân). Giống như cọng lông gà hoặc sợi dây gân bị ném vào ngọn lửa thì bị thâu hẹp lại, bị co rút, bị cuốn tròn lại, không được duỗi ra, tương tợ y như thế các vị ấy–trong khi thâu hẹp tâm lại, co rút tâm, cuốn tròn lại, kiềm chế, khống chế, ngăn chận, bảo vệ, gìn giữ tâm đối với cảnh này, cảnh khác–thực hành, sống, cư xử, vận hành, bảo hộ, duy trì, nuôi dưỡng (bản thân). Trong khi thâu hẹp tâm lại, co rút tâm, cuốn tròn lại, kiềm chế, khống chế, ngăn chận, bảo vệ, gìn giữ tâm ở nhãn môn – tâm ở nhĩ môn – tâm ở tỷ môn – tâm ở thiệt môn – tâm ở thân môn – tâm ở ý môn, các vị thực hành, sống, cư xử, vận hành, bảo hộ, duy trì, nuôi dưỡng (bản thân). Vì lý do ấy, bảy hạng Hữu Học được gọi là có hạnh sống tách ly. Đối với vị tỳ khưu: đối với vị tỳ khưu phàm nhân tốt lành hoặc đối với vị tỳ khưu là bậc Hữu Học. ‘Ðối với vị tỳ khưu có hạnh sống tách ly’ là thế ấy.
Bhajamānassa vivittamāsanan ti – Āsanaṃ vuccati yattha nisīdanti, mañco pīṭhaṃ bhisi taṭṭikā cammakhaṇḍo tiṇasanthāro paṇṇasanthāro palālasanthāro; taṃ āsanaṃ asappāyarūpadassanena rittaṃ vivittaṃ pavivittaṃ, asappāyasaddasavaṇena asappāyagandhaghāyanena asappāyarasasāyanena – asappāyaphoṭṭhabbaphusanena – asappāyehi pañcahi kāmaguṇehi rittaṃ vivittaṃ pavivittaṃ, taṃ vivittaṃ āsanaṃ bhajato sambhajato sevato nisevato saṃsevato paṭisevato ’ti – bhajamānassa vivittamāsanaṃ.
Đang thân cận chỗ ngồi vắng vẻ – Chỗ ngồi là nơi nào các vị ngồi xuống, là cái giường, cái ghế, nệm, thảm đan, tấm da thú, thảm cỏ, thảm lá, thảm rơm; chỗ ngồi ấy là trống vắng, vắng vẻ, tách biệt với việc thấy các cảnh sắc không tốt, với việc nghe các âm thanh không tốt, với việc ngửi các mùi không tốt, với việc nếm các vị không tốt, với việc chạm các xúc không tốt, là trống vắng, vắng vẻ, tách biệt với năm loại dục; đối với vị thân cận, gần gũi, phục vụ, phụng sự, cộng sự, sử dụng chỗ ngồi vắng vẻ ấy. ‘Đang thân cận chỗ ngồi vắng vẻ’ là thế ấy.
Sāmaggiyamāhu tassetaṃ yo attānaṃ bhavane na dassaye ti – Sāmaggī ti tisso sāmaggiyo: gaṇasāmaggi dhammasāmaggi anabhinibbattisāmaggi.
Katamā gaṇasāmaggi? Bahū cepi bhikkhū samaggā sammodamānā avivadamānā khīrodakībhūtā aññamaññaṃ piyacakkhūhi sampassantā viharanti. Ayaṃ gaṇasāmaggi.
Katamā dhammasāmaggi? Cattāro satipaṭṭhānā cattāro sammappadhānā cattāro iddhipādā pañcindriyāni pañcabalāni satta bojjhaṅgā ariyo aṭṭhaṅgiko maggo, te ekato pakkhandanti pasīdanti sampatiṭṭhanti vimuccanti. Na tesaṃ dhammānaṃ vivādo pavivādo atthi. Ayaṃ dhammasāmaggi.
Các vị đã nói rằng điều này là hợp nhất đối với vị ấy, vị ấy sẽ không phô bày bản thân ở cảnh giới (tái sanh nào nữa) – Sự hợp nhất: có ba sự hợp nhất: sự hợp nhất của nhóm, sự hợp nhất của Pháp, sự hợp nhất ở việc vô sanh.
Sự hợp nhất của nhóm là việc nào? Nếu nhiều vị tỳ khưu sống có sự hợp nhất, thân thiện, không cãi cọ, có trạng thái như sữa với nước, nhìn nhau bằng những ánh mắt thương mến; đây là sự hợp nhất của nhóm.
Sự hợp nhất của Pháp là việc nào? Bốn sự thiết lập niệm, bốn chánh tinh tấn, bốn nền tảng của thần thông, năm quyền, năm lực, bảy chi phần đưa đến giác ngộ, đạo lộ thánh thiện tám chi phần, các pháp ấy tiến vào, có niềm tin, tự thiết lập vững chắc, được giải thoát đồng nhau. Không có sự xung đột, xung khắc giữa các pháp ấy; đây là sự hợp nhất của Pháp.
Katamā anabhinibbattisāmaggi? Bahū cepi bhikkhū anupādisesāya nibbānadhātuyā parinibbāyanti. Na tena nibbānadhātuyā ūnattaṃ vā puṇṇattaṃ vā paññāyati. Ayaṃ anabhinibbattisāmaggi.
Sự hợp nhất ở việc vô sanh là việc nào? Nếu nhiều vị tỳ khưu vô dư Niết Bàn ở cảnh giới Niết Bàn không còn dư sót, không vì điều ấy mà cảnh giới Niết Bàn được xem là vơi hay đầy; đây là sự hợp nhất ở việc vô sanh.
Bhavane ti – nerayikānaṃ nirayo bhavanaṃ, tiracchānayonikānaṃ tiracchānayoni bhavanaṃ, petti visayikānaṃ pettivisayo bhavanaṃ, manussānaṃ manussaloko bhavanaṃ, devānaṃ devaloko bhavanan ’ti.
Ở cảnh giới (tái sanh nào nữa): đối với các người địa ngục, địa ngục là cảnh giới; đối với các chủng loại súc sanh, chủng loại súc sanh là cảnh giới; đối với các thân phận ngạ quỷ, thân phận ngạ quỷ là cảnh giới; đối với loài người, thế giới loài người là cảnh giới; đối với chư Thiên, thế giới chư Thiên là cảnh giới.
Sāmaggiyamāhu tassetaṃ yo attānaṃ bhavane na dassaye ti – Tassesā sāmaggi etaṃ channaṃ etaṃ patirūpaṃ etaṃ anucchavikaṃ etaṃ anulomaṃ, yo evaṃ paṭicchanne niraye attānaṃ na dasseyya, tiracchānayoniyā attānaṃ na dasseyya, pettivisaye attānaṃ na dasseyya, manussaloke attānaṃ na dasseyya, devaloke attānaṃ na dasseyyā ’ti. Evamāhu evamāhaṃsu evaṃ kathenti evaṃ bhaṇanti evaṃ dīpayanti evaṃ voharantī ’ti – sāmaggiyamāhu tassetaṃ yo attānaṃ bhavane na dassaye.
Các vị đã nói rằng điều này là hợp nhất đối với vị ấy, vị ấy sẽ không phô bày bản thân ở cảnh giới (tái sanh nào nữa): Sự hợp nhất ấy là có cho vị ấy, điều này là thích đáng, điều này là phù hợp, điều này là đúng đắn, điều này là hợp lẽ, vị nào được che đậy như vậy sẽ không phô bày bản thân ở địa ngục, sẽ không phô bày bản thân ở chủng loại súc sanh, sẽ không phô bày bản thân ở thân phận ngạ quỷ, sẽ không phô bày bản thân ở thế giới loài người, sẽ không phô bày bản thân ở thế giới chư Thiên. Họ đã nói như vậy: Họ đã nói như vậy, thuyết như vậy, phát ngôn như vậy, diễn giải như vậy, diễn tả như vậy. ‘Các vị đã nói rằng điều này thân phận ngạ quỷ đối với vị ấy, vị ấy sẽ không phô bày bản thân ở cảnh giới (tái sanh nào nữa)’ là thế ấy.
Tenāha bhagavā:
“Patilīnacarassa bhikkhuno bhajamānassa vicittamāsanaṃ, sāmaggiyamāhu tassetaṃ yo attānaṃ bhavane na dassaye ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Ðối với vị tỳ khưu có hạnh sống tách ly, đang thân cận chỗ ngồi vắng vẻ, các vị đã nói rằng điều này là hợp nhất đối với vị ấy, vị ấy sẽ không phô bày bản thân ở cảnh giới (tái sanh nào nữa).”
6.8
Sabbattha munī anissito na piyaṃ kubbati nopi appiyaṃ, tasmiṃ paridevamaccharaṃ paṇṇe vāri yathā na lippati.
Bậc hiền trí, không bị lệ thuộc vào tất cả các nơi, không tạo ra vật yêu mến cũng không tạo ra vật không yêu mến, than vãn và bỏn xẻn không gây bẩn ở vị ấy, giống như nước không gây bẩn ở lá sen.
Vị ẩn sĩ không tựa,
Không y chỉ một ai,
Không làm thành thương yêu,
Không tác thành ghét bỏ.
Do vậy trong sầu than,
Trong xan tham keo kiết,
Như nước trên lá cây,
Không dính ướt làm nhơ.
(Kinh Tập, câu kệ 811)
Sabbattha munī anissito ti – sabbaṃ vuccati dvādasāyatanāni: cakkhuñceva rūpā ca, sotañca saddā ca, ghānañca gandhā ca, jivhā ca rasā ca, kāyo ca phoṭṭhabbā ca, mano ca dhammā ca. Munī ti monaṃ vuccati ñāṇaṃ ―pe― saṅgajālamaticca so muni.
Anissito ti – dve nissayā: taṇhānissayo ca diṭṭhinissayo ca ―pe― ayaṃ taṇhānissayo ―pe― ayaṃ diṭṭhinissayo. Muni taṇhānissayaṃ pahāya diṭṭhinissayaṃ paṭinissajitvā cakkhuṃ anissito sotaṃ anissito ghānaṃ anissito jivhaṃ anissito kāyaṃ anissito manaṃ anissito rūpe sadde gandhe rase phoṭṭhabbe dhamme kulaṃ gaṇaṃ āvāsaṃ lābhaṃ yasaṃ pasaṃsaṃ sukhaṃ cīvaraṃ piṇḍapātaṃ senāsanaṃ gilānapaccayabhesajjaparikkhāraṃ kāmadhātuṃ rūpadhātuṃ arūpadhātuṃ kāmabhavaṃ rūpabhavaṃ arūpabhavaṃ saññābhavaṃ asaññābhavaṃ nevasaññānāsaññābhavaṃ ekavokārabhavaṃ catuvokārabhavaṃ pañcavokārabhavaṃ atītaṃ anāgataṃ paccuppannaṃ diṭṭhaṃ sutaṃ mutaṃ viññātaṃ sabbe dhamme anissito anallīno anupagato anajjhosito anadhimutto nikkhanto nissaṭo vippamutto visaññutto vimariyādīkatena cetasā viharatī ’ti – sabbattha munī anissito.
Na piyaṃ kubbati nopi appiyan ti – Piyā ti dve piyā: sattā vā saṅkhārā vā. Katame sattā piyā? Idha yassa te honti atthakāmā hitakāmā phāsukāmā yogakkhemakāmā, mātā vā pitā vā bhātā vā bhaginī vā putto vā dhītā vā mittā vā amaccā vā ñātī vā sālohitā vā, ime sattā piyā. Katame saṅkhārā piyā? Manāpikā rūpā manāpikā saddā manāpikā gandhā manāpikā rasā manāpikā phoṭṭhabbā, ime saṅkhārā piyā.
Appiyā ti – dve appiyā: sattā vā saṅkhārā vā. Katame sattā appiyā? Idha yassa te honti anatthakāmā ahitakāmā aphāsukāmā ayogakkhemakāmā jīvitā voropetukāmā, ime sattā appiyā. Katame saṅkhārā appiyā? Amanāpikā rūpā amanāpikā saddā amanāpikā gandhā amanāpikā rasā amanāpikā phoṭṭhabbā, ime saṅkhārā appiyā.
Na piyaṃ kubbati nopi appiyan ti ‘ayaṃ me satto piyo, ime ca me saṅkhārā manāpā ’ti rāgavasena piyaṃ na karoti. ‘Ayaṃ me satto appiyo, ime saṅkhārā amanāpā ’ti paṭighavasena appiyaṃ na karoti na janeti na sañjaneti na nibbatteti nābhinibbattetī ’ti – na piyaṃ kubbati nopi appiyaṃ.
Tasmiṃ paridevamaccharaṃ paṇṇe vāri yathā na lippatī ti – Tasmin ti tasmiṃ puggale arahante khīṇāsave. Paridevo ti – ñātivyasanena vā phuṭṭhassa bhogavyasanena vā phuṭṭhassa rogavyasanena vā phuṭṭhassa sīlavyasanena vā phuṭṭhassa diṭṭhivyasanena vā phuṭṭhassa aññataraññatarena vā vyasanena samannāgatassa aññataraññatarena dukkhadhammena phuṭṭhassa ādevo paridevo ādevanā paridevanā ādevitattaṃ paridevitattaṃ vācā palāpo vippalāpo lālappo lālappanā lālappitattaṃ. Macchariyan ti pañca macchariyāni: āvāsamacchariyaṃ kulamacchariyaṃ lābhamacchariyaṃ vaṇṇamacchariyaṃ dhammamacchariyaṃ. Yaṃ evarūpaṃ macchariyaṃ maccharāyanā maccharāyitattaṃ vevicchaṃ kadariyaṃ kaṭukañcukatā aggahitattaṃ cittassa, idaṃ vuccati macchariyaṃ. Api ca, khandhamacchariyampi macchariyaṃ, dhātumacchariyampi macchariyaṃ, āyatanamacchariyampi macchariyaṃ, gāho vuccati macchariyaṃ.
Paṇṇe vāri yathā na lippatī ti – Paṇṇaṃ vuccati padumapattaṃ. Vāri vuccati udakaṃ. Yathā vāri padumapatte na lippati na saṃlippati na upalippati, alittaṃ asaṃlittaṃ anupalittaṃ, evamevaṃ tasmiṃ puggale arahante khīṇāsave paridevo ca macchariyañca na lippati na saṃlippati na upalippati alitto asaṃlitto anupalitto; so ca puggalo tehi kilesehi na lippati na saṃlippati na upalippati alitto asaṃlitto anupalitto nikkhanto nissaṭo vippamutto visaññutto vimariyādīkatena cetasā viharatī ’ti – tasmiṃ paridevamaccharaṃ paṇṇe vāri yathā na lippati.
Tenāha bhagavā: “Sabbattha munī anissito na piyaṃ kubbati nopi appiyaṃ, tasmiṃ paridevamaccharaṃ paṇṇe vāri yathā na lippatī ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Bậc hiền trí, không bị lệ thuộc vào tất cả các nơi, không tạo ra vật yêu mến cũng không tạo ra vật không yêu mến, than vãn và bỏn xẻn không gây bẩn ở vị ấy, giống như nước không gây bẩn ở lá sen.”
6.9
Udabindu yathāpi pokkhare padume vāri yathā na lippati, evaṃ muni nopalippati yadidaṃ diṭṭhasutaṃ mutesu vā.
Cũng giống như giọt nước ở lá sen, giống như nước không gây bẩn ở hoa sen, tương tự như thế bậc hiền trí không vấy bẩn ở những điều đã được thấy, đã được nghe, hoặc đã được cảm giác.
Giống như một giọt nước,
Không dính ướt hoa sen,
Như nước trên bông sen,
Khôn dính ướt làm nhơ.
Ðối với vật thấy nghe,
Ðược cảm thọ tưởng đến,
Cũng vậy bậc ẩn sĩ
Không dính ướt tham đắm.
(Kinh Tập, câu kệ 812)
Udabindu yathāpi pokkhare ti – Udabindu vuccati udakathevo. Pokkharaṃ vuccati padumapattaṃ. Yathā udabindu padumapatte na lippati na palippati na upalippati alittaṃ apalittaṃ anupalittan ’ti – udabindu yathāpi pokkhare.
Padume vāri yathā na lippatī ti – Padumaṃ vuccati padumapupphaṃ. Vāri vuccati udakaṃ. Yathā vāri padumapupphe na lippati na palippati na upalippati alittaṃ apalittaṃ anupalittan ’ti – padume vāri yathā na lippati.
Evaṃ muni nopalippati yadidaṃ diṭṭhasutaṃ mutesu vā ti – Evan ti opammasampaṭipādanaṃ. Munī ti monaṃ vuccati ñāṇaṃ ―pe― saṅgajālamaticca so muni. Lepā ti dve lepā: taṇhālepo ca diṭṭhilepo ca ―pe― ayaṃ taṇhālepo ―pe― ayaṃ diṭṭhilepo. Muni taṇhālepaṃ pahāya diṭṭhilepaṃ paṭinissajitvā diṭṭhe na lippati, sute na lippati, mute na lippati, viññāte na lippati na palippati na upalippati, alitto apalitto anupalitto nikkhanto nissaṭo vippamutto visaññutto vimariyādīkatena cetasā viharatī ’ti evaṃ muni nopalippati yadidaṃ diṭṭhasutaṃ mutesu vā.
Tenāha bhagavā:
“Udabindu yathāpi pokkhare padume vāri yathā na lippati, evaṃ muni nopalippati yadidaṃ diṭṭhasutaṃ mutesu vā ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Cũng giống như giọt nước ở lá sen, giống như nước không gây bẩn ở hoa sen, tương tự như thế bậc hiền trí không vấy bẩn ở những điều đã được thấy, đã được nghe, đã được cảm giác.”
6.10
Dhono na hi tena maññati yadidaṃ diṭṭhasutaṃ mutesu vā, nāññena visuddhimicchati na hi so rajjati no virajjati.
Thật vậy, vị đã rũ sạch không suy nghĩ theo lối ấy, tức là về những điều đã được thấy, đã được nghe, hoặc đã được cảm giác, (cũng) không ước muốn sự thanh tịnh theo cách nào khác, bởi vì vị ấy không luyến ái, (cũng) không lìa luyến ái.
Do vậy bậc tẩy sạch,
Không có suy tư đến,
Ðiều được thấy được nghe,
Ðược cảm thọ tưởng đến.
Vị ấy muốn thanh tịnh,
Không có dựa gì khác,
Vị ấy không tham đắm,
Cũng không có ly tham.
(Kinh Tập, câu kệ 813)
Dhono na hi tena maññati yadidaṃ diṭṭhasutaṃ mutesu vā ti – Dhono ti dhonā vuccati paññā, yā paññā pajānanā ―pe― amoho dhammavicayo sammādiṭṭhi.[a]
Thật vậy, vị đã rũ sạch không suy nghĩ theo lối ấy, tức là về những điều đã được thấy, đã được nghe, hoặc đã được cảm giác – Vị đã rũ sạch: Đã rũ sạch được gọi là tuệ. Tuệ là sự nhận biết, ―như trên― là sự không si mê, sự chọn lựa pháp, chánh kiến.
Kiṃkāraṇā dhonā vuccati paññā? Tāya paññāya kāyaduccaritaṃ dhutañca dhotañca sandhotañca niddhotañca; vacīduccaritaṃ – manoduccaritaṃ dhutañca dhotañca sandhotañca niddhotañca; rāgo dhuto ca dhoto ca sandhoto ca niddhoto ca, doso – moho – kodho – upanāho – makkho – paḷāso – issā – macchariyaṃ – māyā – sāṭheyyaṃ – thambho – sārambho – māno – atimāno – mado – pamādo – sabbe kilesā – sabbe duccaritā – sabbe darathā – sabbe pariḷāhā – sabbe santāpā – sabbākusalābhisaṅkhārā dhutā ca dhotā ca sandhotā ca niddhotā ca; taṃkāraṇā dhonā vuccati paññā.
Vì lý do gì mà đã rũ sạch được gọi là tuệ? Nhờ vào tuệ ấy, uế hạnh về thân được rũ bỏ, được rũ sạch, được tẩy sạch, được gột sạch; uế hạnh về khẩu được rũ bỏ, được rũ sạch, được tẩy sạch, được gột sạch; uế hạnh về ý được rũ bỏ, được rũ sạch, được tẩy sạch, được gột sạch; sự luyến ái được rũ bỏ, được rũ sạch, được tẩy sạch, được gột sạch; sân hận ― si mê ― giận dữ ― thù hằn ― gièm pha ― ác ý ― ganh tỵ ― bỏn xẻn ― xảo quyệt ― bội bạc ― bướng bỉnh ― hung hăng ― ngã mạn ― kiêu căng ― đam mê ― xao lãng ― tất cả ô nhiễm ― tất cả uế hạnh ― mọi sự lo lắng ― mọi sự bực bội ― mọi sự nóng nảy ― tất cả pháp tạo tác bất thiện được rũ bỏ, được rũ sạch, được tẩy sạch, được gột sạch. Vì lý do ấy mà đã rũ sạch được gọi là tuệ.
Athavā sammādiṭṭhiyā micchādiṭṭhi dhutā ca dhotā ca sandhotā ca niddhotā ca; sammāsaṅkappena micchāsaṅkappo dhuto ca dhoto ca sandhoto ca niddhoto ca; sammāvācāya micchāvācā dhutā ca dhotā ca ― sammākammantena micchākammanto dhuto ca dhoto ca ― sammā-ājīvena micchā-ājīvo dhuto ca dhoto ca – sammāvāyāmena micchāvāyāmo dhuto ca dhoto ca – sammāsatiyā micchāsati dhutā ca dhotā ca – sammāsamādhinā micchāsamādhi dhuto ca dhoto ca – sammāñāṇena micchāñāṇaṃ dhutañca dhotañca – sammāvimuttiyā micchāvimutti dhutā ca dhotā ca sandhotā ca niddhotā ca
Hoặc là nhờ vào chánh kiến, tà kiến được rũ bỏ, được rũ sạch, được tẩy sạch, được gột sạch; nhờ vào chánh tư duy, tà tư duy được rũ bỏ, được rũ sạch, được tẩy sạch, được gột sạch; nhờ vào chánh ngữ, tà ngữ được rũ bỏ, được rũ sạch ― nhờ vào chánh nghiệp, tà nghiệp được rũ bỏ, được rũ sạch ― nhờ vào chánh mạng, tà mạng được rũ bỏ, được rũ sạch ― nhờ vào chánh tinh tấn, tà tinh tấn được rũ bỏ, được rũ sạch ― nhờ vào chánh niệm, tà niệm được rũ bỏ, được rũ sạch ― nhờ vào chánh định, tà định được rũ bỏ, được rũ sạch ― nhờ vào chánh trí, tà trí được rũ bỏ, được rũ sạch ― nhờ vào chánh giải thoát, tà giải thoát được rũ bỏ, được rũ sạch, được tẩy sạch, được gột sạch.
Athavā ariyena aṭṭhaṅgikena maggena sabbe kilesā sabbe duccaritā sabbe darathā sabbe pariḷāhā sabbe santāpā sabbākusalābhisaṅkhārā dhutā ca dhotā ca sandhotā ca niddhotā ca. Arahā imehi dhonehi dhammehi upeto samupeto upāgato samupāgato upapanno samupapanno samannāgato. Tasmā arahā dhono. So dhutarāgo dhutapāpo dhutakileso dhutapariḷāho ’ti – dhono.
Hoặc là nhờ vào Thánh Đạo tám chi, tất cả ô nhiễm, tất cả uế hạnh, mọi sự lo lắng, mọi sự bực bội, mọi sự nóng nảy, tất cả pháp tạo tác bất thiện được rũ bỏ, được rũ sạch, được tẩy sạch, được gột sạch. Bậc A-la-hán đã tiến đến, đã tiến gần, đã tiến vào, đã tiến sát, đã tiếp cận, đã tròn đủ, đã thành tựu các pháp cần được rũ sạch này, vì thế bậc A-la-hán là vị đã rũ sạch. Vị ấy có ái luyến đã được rũ bỏ, có điều ác đã được rũ bỏ, có ô nhiễm đã được rũ bỏ, có sự bực bội đã được rũ bỏ. ‘Vị đã rũ sạch’ là thế ấy.
Dhono na hi tena maññati yadidaṃ diṭṭhasutaṃ mutesu vā ti dhono diṭṭhaṃ na maññati, diṭṭhasmiṃ na maññati, diṭṭhato na maññati, diṭṭhaṃ meti na maññati; sutaṃ na maññati, sutasmiṃ na maññati, sutato na maññati, sutaṃ meti na maññati; mutaṃ na maññati, mutasmiṃ na maññati, mutato na maññati, mutaṃ meti na maññati; viññātaṃ na maññati, viññātasmiṃ na maññati, viññātato na maññati, viññātaṃ meti na maññati. Vuttampi hetaṃ bhagavatā:
Thật vậy, vị đã rũ sạch không suy nghĩ theo lối ấy, tức là về những điều đã được thấy, đã được nghe, hoặc đã được cảm giác: Vị đã rũ sạch không suy nghĩ đến điều đã được thấy, không suy nghĩ về điều đã được thấy, không suy nghĩ theo điều đã được thấy; không suy nghĩ đến điều đã được nghe, không suy nghĩ về điều đã được nghe, không suy nghĩ theo điều đã được nghe; không suy nghĩ đến điều đã được cảm giác, không suy nghĩ về điều đã được cảm giác, không suy nghĩ theo điều đã được cảm giác; không suy nghĩ đến điều đã được nhận thức, không suy nghĩ về điều đã được nhận thức, không suy nghĩ theo điều đã được nhận thức, không suy nghĩ rằng: “Điều đã được nhận thức là của tôi.” Bởi vì, điều này cũng đã được đức Thế Tôn nói đến:
“Asmīti bhikkhave maññitametaṃ, ayamahamasmīti maññitametaṃ, bhavissanti maññitametaṃ, na bhavissanti maññitametaṃ, rūpī bhavissanti maññitametaṃ, arūpī bhavissanti maññitametaṃ, saññī bhavissanti maññitametaṃ, asaññī bhavissanti maññitametaṃ, nevasaññīnāsaññī bhavissanti maññitametaṃ. Maññitaṃ hi bhikkhave, rogo, maññitaṃ gaṇḍo, maññitaṃ sallaṃ, maññitaṃ upaddavo; tasmātiha bhikkhave amaññamānena cetasā viharissāmāti evaṃ hi vo bhikkhave sikkhitabban ”ti [a] – dhono na hi tena maññati yadidaṃ diṭṭhasutaṃ mutesu vā
“Này các tỳ khưu, ‘Tôi là’ điều này là ý suy nghĩ, ‘Tôi là cái này’ điều này là ý suy nghĩ, ‘Tôi sẽ là’ điều này là ý suy nghĩ, ‘Tôi sẽ không là’ điều này là ý suy nghĩ, ‘Tôi sẽ là có sắc’ điều này là ý suy nghĩ, ‘Tôi sẽ là vô sắc’ điều này là ý suy nghĩ, ‘Tôi sẽ là có tưởng’ điều này là ý suy nghĩ, ‘Tôi sẽ là vô tưởng’ điều này là ý suy nghĩ, ‘Tôi sẽ là phi tưởng phi phi tưởng’ điều này là ý suy nghĩ. Này các tỳ khưu, ý suy nghĩ là cơn bệnh, ý suy nghĩ là mụt ghẻ, ý suy nghĩ là mũi tên, ý suy nghĩ là sự bất hạnh. Này các tỳ khưu, vì thế ở đây chúng ta sẽ sống với tâm ý không suy nghĩ. Này các tỳ khưu, các ngươi nên học tập đúng như vậy. ‘Thật vậy, vị đã rũ sạch không suy nghĩ theo lối ấy, tức là về những điều đã được thấy, đã được nghe, hoặc đã được cảm giác’ là thế ấy.[1]
Nāññena visuddhimicchatī ti – Dhono aññena asuddhimaggena micchāpaṭipadāya aniyyāṇikapathena aññatra satipaṭṭhānehi aññatra sammappadhānehi aññatra iddhipādehi aññatra indriyehi aññatra balehi aññatra bojjhaṅgehi aññatra ariyā aṭṭhaṅgikā maggā suddhiṃ visuddhiṃ parisuddhiṃ muttiṃ vimuttiṃ parimuttiṃ na icchati na sādiyati na pattheti na piheti nābhijappatī ’ti – nāññena visuddhimicchati.
Không ước muốn sự thanh tịnh theo cách nào khác: Vị đã rũ sạch không ước muốn, không ưng thuận, không ước nguyện, không mong cầu, không quá tham muốn sự trong sạch, sự thanh tịnh, sự hoàn toàn trong sạch, sự thoát khỏi, sự giải thoát, sự hoàn toàn thoát khỏi theo đạo lộ không trong sạch khác với sự thực hành sai trái với đường lối không dẫn dắt ra khỏi, ngoại trừ bốn sự thiết lập niệm, ngoại trừ bốn chánh tinh tấn, ngoại trừ bốn nền tảng của thần thông, ngoại trừ năm quyền, ngoại trừ năm lực, ngoại trừ bảy chi phần đưa đến giác ngộ, ngoại trừ đạo lộ thánh thiện tám chi phần. ‘Không ước muốn sự thanh tịnh theo cách nào khác’ là thế ấy.
Na hi so rajjati no virajjatī ti – Sabbe bālaputhujjanā rajjanti. Puthujjanakalyāṇakaṃ upādāya satta sekhā virajjanti. Arahā neva rajjati no virajjati. Viratto so khayā rāgassa vītarāgattā khayā dosassa vītadosattā khayā mohassa vītamohattā. So vutthavāso ciṇṇacaraṇo ―pe― jātijarāmaraṇasaṃsāro natthi tassa punabbhavo ’ti – na hi so rajjati no virajjati.
Bởi vì vị ấy không luyến ái, (cũng) không lìa luyến ái: Tất cả phàm nhân ngu si đều luyến ái. Bảy hạng Hữu Học tính luôn phàm nhân tốt lành lìa luyến ái. Bậc A-la-hán chẳng những không luyến ái mà còn không lìa luyến ái. Vị ấy đã lìa luyến ái, do sự cạn kiệt của luyến ái có trạng thái luyến ái đã được xa lìa, do sự cạn kiệt của sân hận có trạng thái sân hận đã được xa lìa, do sự cạn kiệt của si mê có trạng thái si mê đã được xa lìa. Vị ấy đã sống cuộc sống (của bậc Thánh), đã thực hành tánh hạnh ―như trên― luân hồi sanh tử, việc hiện hữu lần nữa không có đối với vị ấy. ‘Bởi vì vị ấy không luyến ái, (cũng) không lìa luyến ái’ là thế ấy.
[1] Tương Ưng Sáu Xứ, phẩm Rắn Độc.
Tenāha bhagavā: “Dhono na hi tena maññati yadidaṃ diṭṭhasutaṃ mutesu vā, nāññena visuddhimicchati na hi so rajjati no virajjati.”
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Thật vậy, vị đã rủ sạch không suy nghĩ theo điều ấy,
tức là về những điều đã được thấy, đã được nghe, hoặc đã được cảm giác,
(cũng) không mong mỏi sự thanh tịnh theo điều nào khác,
bởi vì vị ấy không luyến ái, (cũng) không tách ly luyến ái.”
Jarāsuttaniddeso chaṭṭho.
Diễn Giải Kinh về Sự Già là thứ sáu.
7. TISSAMETTEYYASUTTANIDDESO – DIỄN GIẢI KINH TISSA METTEYYA
7.1
Atha tissametteyyasuttaniddeso vuccati:
Methunamanuyuttassa (iccāyasmā tisso metteyyo) vighātaṃ brūhi mārisa, sutvāna tava sāsanaṃ viveke sikkhissāma se.
Giờ Diễn Giải Kinh về vị Tissa Metteyya được nói đến:
“Bạch Ngài, xin Ngài hãy nói về sự tàn hại dành cho kẻ đeo đuổi việc đôi lứa. Sau khi lắng nghe lời dạy của Ngài, chúng con sẽ học tập về hạnh viễn ly,” (vị Tissa Metteyya đã nói thế ấy).
(VII) Kinh Tissametteyya (Sn 160)
Tissa Metteyya,
Tôn giả nói như sau:
Thế Tôn hãy nói lên,
Sự tai hại của người,
Ðắm say về dâm dục,
Sau khi nghe, chúng con
Sẽ học tập lời Ngài,
Lời dạy về viễn ly.
(Kinh Tập, câu kệ 814)
Methunamanuyuttassā ti – Methunadhammo nāma: yo so asaddhammo gāmadhammo vasaladhammo duṭṭhullo odakantiko rahasso dvayaṃdvayasamāpatti. [a] Kiṃkāraṇā vuccati methunadhammo? Ubhinnaṃ rattānaṃ sārattānaṃ avassutānaṃ pariyuṭṭhitānaṃ pariyādinnacittānaṃ ubhinnaṃ sadisānaṃ dhammoti, taṃkāraṇā vuccati methunadhammo. Yathā ubho kalahakārakā ‘methunakā ’ti vuccanti, ubho bhaṇḍanakārakā ‘methunakā ’ti vuccanti, ubho bhassakārakā ‘methunakā ’ti vuccanti, ubho vivādakārakā ‘methunakā ’ti vuccanti, ubho adhikaraṇakārakā ‘methunakā ’ti vuccanti, ubho vādino ‘methunakā ’ti vuccanti, ubho sallāpakā ‘methunakā ’ti vuccanti, evamevaṃ ubhinnaṃ rattānaṃ sārattānaṃ avassutānaṃ pariyuṭṭhitānaṃ pariyādinnacittānaṃ ubhinnaṃ sadisānaṃ dhammoti, taṃkāraṇā vuccati methunadhammo.
Methunamanuyuttassā ti – methunadhamme yuttassa payuttassa āyuttassa samāyuttassa taccaritassa tabbahulassa taggarukassa tanninnassa tappoṇassa tappabbhārassa tadadhimuttassa tadadhipateyyassā ’ti – methunamanuyuttassa.
Dành cho kẻ đeo đuổi việc đôi lứa: Việc đôi lứa nghĩa là việc kết hợp của hai người, theo từng cặp, ở nơi kín đáo, là việc làm không tốt đẹp, là việc làm của các dân làng, là việc làm của những người thấp kém, là xấu xa, kết cuộc phải dùng nước tẩy rửa. Vì lý do gì mà được gọi là pháp đôi lứa? Khi cả hai bị luyến ái, bị luyến ái nặng, bị nhiễm dục, bị khởi dục, có tâm bị nắm giữ, cả hai là tương tự nhau về bản thể; vì lý do ấy mà được gọi là pháp đôi lứa. Giống như hai người gây nên sự xung đột được gọi là tay đôi, hai người gây nên sự cãi cọ được gọi là tay đôi, hai người gây nên sự tranh luận được gọi là tay đôi, hai người gây nên sự nói chuyện nhảm nhí được gọi là tay đôi, hai người gây nên sự tranh tụng được gọi là tay đôi, hai người tranh luận được gọi là tay đôi, hai người chuyện trò được gọi là tay đôi. Tương tự y như thế, khi cả hai bị luyến ái, bị luyến ái nặng, bị nhiễm dục, bị khởi dục, có tâm bị nắm giữ, cả hai là tương tự nhau về bản thể; vì lý do ấy mà được gọi là pháp đôi lứa. Dành cho kẻ đeo đuổi việc đôi lứa: dành cho kẻ gắn bó, gắn liền, gắn chặt, kết gắn ở pháp đôi lứa, đi theo nó, phát triển theo nó, xem trọng nó, uốn cong theo nó, chiều theo nó, xuôi theo nó, hướng đến nó, xem nó là chủ đạo. ‘Dành cho kẻ đeo đuổi việc đôi lứa’ là thế ấy.
Iccāyasmā tisso metteyyo ti – Iccā ti padasandhi padasaṃsaggo padapāripūri akkharasamavāyo byañjanasiliṭṭhatā padānupubbatā nāmetaṃ iccāti. Āyasmā ti – piyavacanaṃ garuvacanaṃ sagāravavacanaṃ sappatissavacanametaṃ āyasmāti. Tisso ti – tassa therassa nāmaṃ saṃkhā samaññā paññatti vohāro nāmaṃ nāmakammaṃ nāmadheyyaṃ nirutti byañjanaṃ abhilāpo. Metteyyo ti – tassa therassa gottaṃ saṃkhā samaññā paññatti vohāro ’ti – iccāyasmā tisso metteyyo.
Đại đức Tissa Metteyya đã nói thế ấy – Thế ấy: điều này nghĩa là sự liên kết từ, sự kết hợp từ, sự làm đầy đủ từ, sự gắn liền các mẫu tự, trạng thái trôi chảy của âm, tính chất tiếp nối của từ. Đại đức – Từ ‘đại đức’ này là lời nói quý mến, lời nói kính trọng, lời nói có sự tôn kính, lời nói của sự phục tùng. Tisso: là tên của vị trưởng lão ấy, là sự ấn định, sự chỉ định, sự quy định, sự diễn tả, tên gọi, sự đặt tên, sự định danh, từ mô tả, tên hiệu, từ kêu gọi. Metteyyo: là họ của vị trưởng lão ấy, là sự ấn định, sự chỉ định, sự quy định, sự diễn tả. ‘Vị Tissa Metteyya đã nói thế ấy’ là thế ấy.
Vighātaṃ brūhi mārisā ti – Vighātan ti vighātaṃ upaghātaṃ pīḷanaṃ ghaṭṭanaṃ upaddavaṃ upasaggaṃ. Brūhi – ācikkha desehi paññapehi paṭṭhapehi vivara vibhaja uttānīkarohi pakāsehi. Mārisā ti – piyavacanaṃ garuvacanaṃ sagāravavacanaṃ sappatissavacanametaṃ mārisā ’ti – vighātaṃ brūhi mārisa
Bạch Ngài, xin Ngài hãy nói về sự tàn hại – Sự tàn hại: Sự tàn hại là sự phá hại, sự hành hạ, sự khuấy rồi, sự bất hạnh, sự nguy hiểm. Xin Ngài hãy nói: Xin Ngài hãy bảo, hãy thuyết giảng, hãy thông báo, hãy ấn định, hãy khai mở, hãy chia sẻ, hãy làm rõ, hãy bày tỏ. Bạch Ngài: từ ‘bạch Ngài’ này là lời nói quý mến, lời nói kính trọng, lời nói có sự tôn kính, lời nói của sự phục tùng. ‘Bạch Ngài, xin Ngài hãy nói về sự tàn hại’ là thế ấy.
Sutvāna tava sāsanan ti – tuyhaṃ vacanaṃ vyappathaṃ desanaṃ anusāsanaṃ anusiṭṭhiṃ sutvā suṇitvā uggahetvā upadhārayitvā upalakkhayitvā ’ti – sutvāna tava sāsanaṃ.
Sau khi lắng nghe lời dạy của Ngài: Sau khi lắng nghe, sau khi nghe rõ, sau khi học hỏi, sau khi tiếp thu, sau khi xem xét lời nói, lời phát biểu, bài thuyết giảng, sự chỉ dạy, sự khuyên bảo của Ngài. ‘Sau khi lắng nghe lời dạy của Ngài’ là thế ấy.
Viveke sikkhissāma se ti – Viveko ti tayo vivekā: kāyaviveko cittaviveko upadhiviveko.
Chúng con sẽ học tập về hạnh viễn ly – Hạnh viễn ly: Có ba hạnh viễn ly: thân viễn ly, tâm viễn ly, sanh y viễn ly.
Katamo kāyaviveko? Idha bhikkhu vivittaṃ senāsanaṃ bhajati: araññaṃ rukkhamūlaṃ pabbataṃ kandaraṃ giriguhaṃ susānaṃ vanapatthaṃ abbhokāsaṃ palālapuñjaṃ. Kāyena vivitto viharati. So eko gacchati, eko tiṭṭhati, eko nisīdati eko seyyaṃ kappeti, eko gāmaṃ piṇḍāya pavisati, eko paṭikkamati, eko raho nisīdati, eko caṅkamaṃ adhiṭṭhāti, eko carati viharati irīyati vattati pāleti yapeti yāpeti. Ayaṃ kāyaviveko.
Thế nào là thân viễn ly? Ở đây, vị tỳ khưu thân cận chỗ trú ngụ vắng vẻ, khu rừng rậm, gốc cây, sườn núi, thung lũng, khe núi, bãi tha ma, khu rừng thưa, đồng trống, đống rơm, và sống cô quạnh về thân. Vị ấy đi một mình, đứng một mình, ngồi một mình, nằm một mình, đi vào làng để khất thực một mình, đi trở về một mình, ngồi cô độc một mình, quyết định kinh hành một mình, thực hành một mình, sống, cư xử, vận hành, bảo hộ, duy trì, nuôi dưỡng một mình. Đây là thân viễn ly.
Katamo cittaviveko? Paṭhamaṃ jhānaṃ samāpannassa nīvaraṇehi cittaṃ vivittaṃ hoti. Dutiyaṃ jhānaṃ samāpannassa vitakkavicārehi cittaṃ vivittaṃ hoti. Tatiyaṃ jhānaṃ samāpannassa pītiyā cittaṃ vivittaṃ hoti. Catutthaṃ jhānaṃ samāpannassa sukhadukkhehi cittaṃ vivittaṃ hoti. Ākāsānañcāyatanaṃ samāpannassa rūpasaññāya paṭighasaññāya nānattasaññāya cittaṃ vivittaṃ hoti. Viññāṇañcāyatanaṃ samāpannassa ākāsānañcāyatanasaññāya cittaṃ vivittaṃ hoti. Ākiñcaññāyatanaṃ samāpannassa viññāṇañcāyatanasaññāya cittaṃ vivittaṃ hoti. Nevasaññānāsaññāyatanaṃ samāpannassa ākiñcaññāyatanasaññāya cittaṃ vivittaṃ hoti. Sotāpannassa sakkāyadiṭṭhiyā vicikicchāya sīlabbataparāmāsā diṭṭhānusayā vicikicchānusayā tadekaṭṭhehi ca kilesehi cittaṃ vivittaṃ hoti. Sakadāgāmissa oḷārikā kāmarāgasaññojanā paṭighasaññojanā oḷārikā kāmarāgānusayā paṭighānusayā tadekaṭṭhehi ca kilesehi cittaṃ vivittaṃ hoti. Anāgāmissa anusahagatā kāmarāgasaññojanā paṭighasaññojanā anusahagatā kāmarāgānusayā paṭighānusayā tadekaṭṭhehi ca kilesehi cittaṃ vivittaṃ hoti. Arahato rūparāgā arūparāgā mānā uddhaccā avijjāya mānānusayā bhavarāgānusayā avijjānusayā tadekaṭṭhehi ca kilesehi bahiddhā ca sabbanimittehi cittaṃ vivittaṃ hoti. Ayaṃ cittaviveko.
Katamo upadhiviveko? Upadhi vuccanti kilesā ca khandhā ca abhisaṅkhārā ca.
Thế nào là tâm viễn ly? Đối với vị thể nhập sơ thiền, tâm được viễn ly các pháp che lấp. Đối với vị thể nhập nhị thiền, tâm được viễn ly tầm và tứ. Đối với vị thể nhập tam thiền, tâm được viễn ly hỷ. Đối với vị thể nhập tứ thiền, tâm được viễn ly lạc và khổ. Đối với vị thể nhập không vô biên xứ, tâm được viễn ly sắc tưởng, bất bình tưởng, dị biệt tưởng. Đối với vị thể nhập thức vô biên xứ, tâm được viễn ly không vô biên xứ tưởng. Đối với vị thể nhập vô sở hữu xứ, tâm được viễn ly thức vô biên xứ tưởng. Đối với vị thể nhập phi tưởng phi phi tưởng xứ, tâm được viễn ly vô sở hữu xứ tưởng. Đối với vị Nhập Lưu, tâm được viễn ly sự nhận thức sai trái về thân, sự hoài nghi, sự bám víu vào giới và phận sự, tà kiến tiềm ẩn, hoài nghi tiềm ẩn, và các phiền não cộng trú với mỗi pháp ấy. Đối với vị Nhất Lai, tâm được viễn ly sự ràng buộc của ái dục và sự ràng buộc của bất bình có tính chất thô thiển, ái dục tiềm ẩn và bất bình tiềm ẩn có tính chất thô thiển, và các phiền não đồng hành theo với mỗi pháp ấy. Đối với vị Bất Lai, tâm được viễn ly sự ràng buộc của ái dục và sự ràng buộc của bất bình có tính chất vi tế, ái dục tiềm ẩn và bất bình tiềm ẩn có tính chất vi tế, và các phiền não cộng trú với mỗi pháp ấy. Đối với vị A-la-hán, tâm được viễn ly ái sắc, ái vô sắc, ngã mạn, phóng dật, vô minh, ngã mạn tiềm ẩn, hữu ái tiềm ẩn, vô minh tiềm ẩn, các phiền não cộng trú với mỗi pháp ấy, và mọi hiện tướng ở bên ngoài. Đây là tâm viễn ly.
Upadhiviveko vuccati amataṃ nibbānaṃ, yo so sabbasaṅkhārasamatho sabbūpadhipaṭinissaggo taṇhakkhayo virāgo nirodho nibbānaṃ. Ayaṃ upadhiviveko.
Thế nào là sanh y viễn ly? Sanh y được nói đến các ô nhiễm, các uẩn, và cách hành. Sanh y viễn ly nói đến Bất Tử, Niết Bàn, là sự yên lặng của tất cả các hành, sự từ bỏ tất cả các mầm tái sanh, sự diệt trừ tham ái, sự lìa khỏi luyến ái, sự tịch diệt, Niết Bàn. Đây là sanh y viễn ly.
Kāyaviveko ca vavakaṭṭhakāyānaṃ nekkhammābhiratānaṃ. Cittaviveko ca parisuddhacittānaṃ paramavodānappattānaṃ. Upadhiviveko ca nirupadhīnaṃ puggalānaṃ visaṅkhāragatānaṃ.
Thân viễn ly là đối với các vị có thân đã lui về nơi ẩn dật, đã thích thú trong việc xuất ly; tâm viễn ly là đối với các vị có tâm hoàn toàn trong sạch, đã đạt đến sự trong sạch tối cao; và sanh y viễn ly là đối với các cá nhân không còn mầm mống tái sanh, đã xa lìa các pháp tạo tác.
Viveke sikkhissāma se ti – So thero pakatiyā sikkhitasikkho. Api ca, dhammadesanaṃ upādāya dhammadesanaṃ yācanto evamāha: ‘Viveke sikkhissāma se ’ti.
Chúng con sẽ học tập về hạnh viễn ly: Vị trưởng lão ấy có việc học tập đã được học tập bình thường. Và thêm nữa, liên quan đến việc thuyết giảng Giáo Pháp, trong khi thỉnh cầu sự thuyết giảng Giáo Pháp, vị trưởng lão ấy đã nói như vầy: ‘Chúng con sẽ học tập về hạnh viễn ly.’
Tenāha tisso metteyyo:
“Methunamanuyuttassa (iccāyasmā tisso metteyyo) vighātaṃ brūhi mārisa, sutvāna tava sāsanaṃ viveke sikkhissāma se ”ti.
Vì thế, (trưởng lão) Tissa Metteyya đã nói rằng:
“Bạch Ngài, xin Ngài hãy nói về sự tàn hại dành cho kẻ đeo đuổi việc đôi lứa. Sau khi lắng nghe lời dạy của Ngài, chúng con sẽ học tập về hạnh viễn ly,” (vị Tissa Metteyya đã nói thế ấy).
7.2
Methunamanuyuttassa (metteyyāti bhagavā) mussate vāpi sāsanaṃ,micchā ca paṭipajjati etaṃ tasmiṃ anāriyaṃ.
Đức Thế Tôn đã nói như vầy:
“Này Metteyya, đối với kẻ đeo đuổi việc đôi lứa, lời giảng dạy thậm chí còn bị quên lãng và là kẻ thực hành sai trái; điều này ở kẻ ấy là không thánh thiện.”
Thế Tôn nói như sau:
Hỡi này Metteyya,
Ai đắm say dâm dục,
Quên mất lời giảng dạy,
Rơi vào đường tà vạy,
Nếp sống ấy không thánh.
(Kinh Tập, câu kệ 815)
Methunamanuyuttassā ti – Methunadhammo nāma yo so asaddhammo gāmadhammo vasaladhammo duṭṭhullo odakantiko rahasso dvayaṃdvayasamāpatti. Kiṃ kāraṇā vuccati methunadhammo? Ubhinnaṃ rattānaṃ sārattānaṃ avassutānaṃ pariyuṭṭhitānaṃ pariyādinnacittānaṃ ubhinnaṃ sadisānaṃ dhammoti, taṃkāraṇā vuccati methunadhammo. Yathā ubho kalahakārakā ‘methunakā ’ti vuccanti, ubho bhaṇḍanakārakā ‘methunakā ’ti vuccanti, ubho bhassakārakā ‘methunakā ’ti vuccanti, ubho vivādakārakā ‘methunakā ’ti vuccanti, ubho adhikaraṇakārakā ‘methunakā ’ti vuccanti, ubho vādino ‘methunakā ’ti vuccanti, ubho sallāpakā ‘methunakā ’ti vuccanti, evamevaṃ ubhinnaṃ rattānaṃ sārattānaṃ avassutānaṃ pariyuṭṭhitānaṃ pariyādinnacittānaṃ ubhinnaṃ sadisānaṃ dhammoti, taṃkāraṇā vuccati methunadhammo. Methunamanuyuttassā ti methunadhamme yuttassa payuttassa āyuttassa samāyuttassa taccaritassa tabbahulassa taggarukassa tanninnassa tappoṇassa tappabbhārassa tadadhimuttassa tadadhipateyyassā ’ti – methunamanuyuttassa.
Metteyyā ti – bhagavā taṃ theraṃ gottena ālapati. Bhagavā ti gāravādhivacanaṃ; api ca, bhaggarāgoti bhagavā; bhaggadosoti bhagavā; bhaggamohoti bhagavā; bhaggamānoti bhagavā; bhaggadiṭṭhīti bhagavā; bhaggakaṇṭakoti bhagavā; bhaggakilesoti bhagavā; bhaji vibhaji pavibhaji dhammaratananti bhagavā; bhavānaṃ antakaroti bhagavā; bhāvitakāyo bhāvitasīlo bhāvitacitto bhāvitapaññoti bhagavā; bhaji vā bhagavā araññe vanapatthāni pantāni senāsanāni appasaddāni appanigghosāni vijanavātāni manussarāhasseyyakāni paṭisallānasāruppānīti bhagavā; bhāgī vā bhagavā cīvara-piṇḍapāta-senāsana-gilānapaccayabhesajja-parikkhārānanti bhagavā; bhāgī vā bhagavā attharasassa dhammarasassa vimuttirasassa adhisīlassa adhicittassa adhipaññāyāti bhagavā.
Bhāgī vā bhagavā catunnaṃ jhānānaṃ catunnaṃ appamaññānaṃ catunnaṃ arūpasamāpattīnanti bhagavā; bhāgī vā bhagavā aṭṭhannaṃ vimokkhānaṃ aṭṭhannaṃ abhibhāyatanānaṃ navannaṃ anupubbavihārasamāpattīnanti bhagavā; bhāgī vā bhagavā dasannaṃ saññābhāvanānaṃ dasannaṃ kasiṇasamāpattīnaṃ, ānāpānasatisamādhissa asubhasamāpattiyāti bhagavā; bhāgī vā bhagavā catunnaṃ satipaṭṭhānānaṃ catunnaṃ sammappadhānānaṃ catunnaṃ iddhipādānaṃ pañcannaṃ indriyānaṃ pañcannaṃ balānaṃ sattannaṃ bojjhaṅgānaṃ ariyassa aṭṭhaṅgikassa maggassāti bhagavā; bhāgī vā bhagavā dasannaṃ tathāgatabalānaṃ catunnaṃ vesārajjānaṃ catunnaṃ paṭisambhidānaṃ channaṃ abhiññānaṃ channaṃ buddhadhammānanti bhagavā, bhagavāti netaṃ nāmaṃ mātarā kataṃ, na pitarā kataṃ, na bhātarā kataṃ, na bhaginiyā kataṃ, na mittāmaccehi kataṃ, na ñātisālohitehi kataṃ, na samaṇabrāhmaṇehi kataṃ, na devatāhi kataṃ, vimokkhantikametaṃ buddhānaṃ bhagavantānaṃ bodhiyā mūle saha sabbaññutañāṇassa paṭilābhā sacchikā paññatti yadidaṃ bhagavā ’ti – metteyyāti bhagavā.
Mussate vāpi sāsanan ti – Dvīhi kāraṇehi sāsanaṃ mussati: pariyattisāsanampi mussati, paṭipattisāsanampi mussati. Katamaṃ taṃ pariyattisāsanaṃ? Yantassa pariyāputaṃ suttaṃ geyyaṃ veyyākaraṇaṃ gāthā udānaṃ itivuttakaṃ jātakaṃ abbhutadhammaṃ vedallaṃ, idaṃ pariyattisāsanaṃ. Tampi mussati sammussati pamussati sampamussati paribāhiro hotī ’ti – evampi mussate vāpi sāsanaṃ. Katamaṃ paṭipattisāsanaṃ? Sammāpaṭipadā anulomapaṭipadā apaccanīkapaṭipadā anvatthapaṭipadā dhammānudhammapaṭipadā sīlesu paripūrakāritā indriyesu guttadvāratā bhojane mattaññutā jāgariyānuyogo satisampajaññaṃ cattāro satipaṭṭhānā cattāro sammappadhānā cattāro iddhipādā pañcindriyāni pañca balāni satta bojjhaṅgā ariyo aṭṭhaṅgiko maggo, idaṃ paṭipattisāsanaṃ. Tampi mussati sammussati pamussati sampamussati paribāhiro hotī ’ti – evampi mussate vāpi sāsanaṃ.
Micchā ca paṭipajjatī ti – Pāṇampi hanti, adinnampi ādiyati, sandhimpi chindati, nillopampi harati, ekāgārikampi karoti, paripanthepi tiṭṭhati, paradārampi gacchati, musāpi bhaṇatī ’ti – micchā ca paṭipajjati.
Etaṃ tasmiṃ anāriyan ti – Etaṃ tasmiṃ puggale anariyadhammo bāladhammo mūḷhadhammo aññāṇadhammo amarāvikkhepadhammo yadidaṃ micchāpaṭipadā ’ti – etaṃ tasmiṃ anāriyaṃ.
Tenāha bhagavā:
“Methunamanuyuttassa (metteyyāti bhaga vā) mussate vāpi sāsanaṃ micchā ca paṭipajjati etaṃ tasmiṃ anāriyan ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
Đức Thế Tôn đã nói như vầy: “Này Metteyya, đối với kẻ đeo đuổi việc đôi lứa, lời giảng dạy thậm chí còn bị quên lãng, và là kẻ thực hành sai trái; điều này ở kẻ ấy là không thánh thiện.”
7.3
Eko pubbe caritvāna methunaṃ yo nisevati, yānaṃ bhantaṃva taṃ loke hīnamāhu puthujjanaṃ.
Người nào sau khi sống một mình trước đây, (giờ) gần gũi việc đôi lứa, ví như chiếc xe bị chao đảo, người ấy ở thế gian đã được gọi là kẻ phàm phu thấp hèn.
Ai trước sống một mình,
Nay rơi vào dâm dục,
Như xe bị nghiêng ngã,
Người ấy ở trong đời,
Ðược gọi là phàm phu,
Ðược gọi là hạ liệt.
(Kinh Tập, câu kệ 816)
Eko pubbe caritvānā ti – Dvīhi kāraṇehi eko pubbe caritvāna: pabbajjāsaṅkhātena vā gaṇā vavassaggaṭṭhena vā. Kathaṃ pabbajjāsaṅkhātena eko pubbe caritvāna? Sabbaṃ gharāvāsapaḷibodhaṃ chinditvā puttadārapaḷibodhaṃ chinditvā ñātipaḷibodhaṃ chinditvā mittāmaccapaḷibodhaṃ chinditvā sannidhipaḷibodhaṃ chinditvā kesamassuṃ ohāretvā kāsāyāni vatthāni acchādetvā agārasmā anagāriyaṃ pabbajitvā akiñcanabhāvaṃ upagantvā eko carati viharati irīyati vattati pāleti yapeti yāpeti. Evaṃ pabbajjāsaṅkhātena eko pubbe caritvāna. Kathaṃ gaṇā vavassaggaṭṭhena1 eko pubbe caritvāna? So evaṃ pabbajito samāno eko araññe vanapatthāni pantāni senāsanāni paṭisevati appasaddāni appanigghosāni vijanavātāni manussarāhaseyyakāni paṭisallānasāruppāni. So eko gacchati, eko tiṭṭhati, eko nisīdati, eko seyyaṃ kappeti, eko gāmaṃ piṇḍāya pavisati, eko paṭikkamati, eko raho nisīdati, eko caṅkamaṃ adhiṭṭhāti, eko carati viharati irīyati vattati pāleti yapeti yāpeti. Evaṃ gaṇā vavassaggaṭṭhena1 eko pubbe caritvāna.
Methunaṃ yo nisevatī ti – Methunadhammo nāma yo so asaddhammo ―pe― dvayaṃdvayasamāpatti ―pe― taṃkāraṇā vuccati methunadhammo. Methunaṃ yo nisevatī ti yo aparena samayena buddhaṃ dhammaṃ saṅghaṃ sikkhaṃ paccakkhāya hīnāyāvattitvā methunaṃ dhammaṃ sevati nisevati saṃsevati paṭisevatī ’ti – methunaṃ yo nisevati.
Yānaṃ bhantaṃva taṃ loke ti – Yānan ti hatthiyānaṃ assayānaṃ goyānaṃ ajayānaṃ meṇḍayānaṃ oṭṭhayānaṃ kharayānaṃ, bhantaṃ adantaṃ akāritaṃ avinītaṃ uppathaṃ gaṇhāti, visamaṃ khāṇumpi pāsāṇampi abhirūhati, yānampi ārohakampi bhañjati papātepi papatati.
Yathā taṃ bhantaṃ yānaṃ adantaṃ akāritaṃ avinītaṃ uppathaṃ gaṇhāti evamevaṃ so vibbhantako bhantayānapaṭibhāgo uppathaṃ gaṇhāti micchādiṭṭhiṃ gaṇhāti ―pe― micchāsamādhiṃ gaṇhāti.
Yathā taṃ bhantaṃ yānaṃ adantaṃ akāritaṃ avinītaṃ visamaṃ khāṇumpi pāsāṇampi abhirūhati, evamevaṃ so vibbhantako bhantayānapaṭibhāgo visamaṃ kāyakammaṃ abhirūhati, visamaṃ vacīkammaṃ abhirūhati, visamaṃ manokammaṃ abhirūhati, visamaṃ pāṇātipātaṃ abhirūhati, visamaṃ adinnādānaṃ abhirūhati, visamaṃ kāmesu micchācāraṃ abhirūhati, visamaṃ musāvādaṃ abhirūhati, visamaṃ pisunavācaṃ abhirūhati, visamaṃ pharusavācaṃ abhirūhati, visamaṃ samphappalāpaṃ abhirūhati, visamaṃ abhijjhaṃ abhirūhati visamaṃ vyāpādaṃ abhirūhati, visamaṃ micchādiṭṭhiṃ abhirūhati, visame saṅkhāre abhirūhati, visame pañca kāmaguṇe abhirūhati, visame pañca nīvaraṇe abhirūhati.
Yathā taṃ bhantaṃ yānaṃ adantaṃ akāritaṃ avinītaṃ yānampi ārohakampi bhañjati, evamevaṃ so vibbhantako bhantayānapaṭibhāgo niraye attānaṃ bhañjati. Tiracchānayoniyaṃ attānaṃ bhañjati. Pettivisaye attānaṃ bhañjati. Manussaloke attānaṃ bhañjati. Devaloke attānaṃ bhañjati. Yathā taṃ bhantaṃ yānaṃ adantaṃ akāritaṃ avinītaṃ papāte papatati, evamevaṃ so vibbhantako bhantayānapaṭibhāgo jātipapātampi papatati. Jarāpapātampi papatati. Vyādhipapātampi papatati. Maraṇapapātampi papatati. Sokaparidevadukkhadomanassūpāyāsapapātampi papatati. Loke ti apāyaloke ―pe― manussaloke ’ti – yānaṃ bhantaṃva taṃ loke.
Hīnamāhu puthujjanan ti – Puthujjanā ti kenaṭṭhena puthujjanā? Puthu kilese janentīti puthujjanā. Puthu avihatasakkāyadiṭṭhikāti puthujjanā. Puthu satthārānaṃ mukhullokakāti puthujjanā. Puthu sabbagatīhi avuṭṭhitāti puthujjanā, puthu nānābhisaṅkhāre abhisaṅkharontīti puthujjanā. Puthu nānā-oghehi vuyhantīti puthujjanā. Puthu nānāsantāpehi santappantīti puthujjanā. Puthu nānāpariḷāhehi pariḍayhantīti puthujjanā. Puthu pañcasu kāmaguṇesu rattā giddhā gathitā mucchitā ajjhopannā laggā laggitā paḷibuddhāti puthujjanā. Puthu pañcahi nīvaraṇehi āvutā nivutā ovutā pihitā paṭicchannā paṭikujjitāti puthujjanā. Hīnamāhu puthujjananti puthujjanaṃ hīnaṃ nihīnaṃ omakaṃ lāmakaṃ chattakaṃ parittanti evamāhaṃsu, evaṃ kathenti, evaṃ bhaṇanti, evaṃ dīpayanti, evaṃ voharantī ’ti – hīnamāhu puthujjanaṃ.
Tenāha bhagavā: “Eko pubbe caritvāna methunaṃ yo nisevati, yānaṃ bhantaṃva taṃ loke hīnamāhu puthujjanan ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Người nào sau khi sống một mình trước đây, (giờ) gần gũi việc đôi lứa,ví như chiếc xe bị chao đảo, người ấy ở thế gian đã được gọi là kẻ phàm phu thấp hèn.”
7.4
Yaso kitti ca yā pubbe hāyate vāpi tassa sā, etampi disvā sikkhetha methunaṃ vippahātave.
Danh vọng và tiếng tăm nào đã có trước đây, điều ấy của vị ấy (giờ) hiển nhiên cũng bị giảm thiểu.nSau khi nhìn thấy điều này nên học tập nhằm dứt bỏ hẳn việc đôi lứa.
Tiếng tốt có từ trước,
Người ấy bị tổn giảm,
Thấy vậy hãy học tập,
Từ bỏ sự dâm dục.
(Kinh Tập, câu kệ 817)
Yaso kitti ca yā pubbe hāyate vāpi tassa sā ti – Katamo yaso? Idhekacco pubbe samaṇabhāve sakkato hoti garukato mānito pūjito apacito lābhī cīvara-piṇḍapāta-senāsana-gilānapaccayabhesajja-parikkhārānaṃ. Ayaṃ yaso.
Katamā kitti? Idhekacco pubbe samaṇabhāve kittivaṇṇabhato hoti: paṇḍito viyatto medhāvī bahussuto cittakathī kalyāṇapaṭibhāno, suttantikoti vā, vinayadharoti vā, dhammakathikoti vā, āraññikoti vā, piṇḍapātikoti vā, paṃsukūlikoti vā, tecīvarikoti vā, sapadānacārikoti vā khalupacchābhattikoti vā, nesajjikoti vā, yathāsanthatikoti vā, paṭhamassa jhānassa lābhīti vā, dutiyassa jhānassa lābhīti vā, tatiyassa jhānassa lābhīti vā, catutthassa jhānassa lābhīti vā, ākāsānañcāyatanasamāpattiyā lābhīti vā, viññāṇañcāyatanasamāpattiyā lābhīti vā, ākiñcaññāyatanasamāpattiyā lābhīti vā, nevasaññānāsaññāyatanasamāpattiyā lābhīti vā; ayaṃ kittī ’ti – yaso kitti ca yā pubbe.
Hāyate vāpi tassa sā ti – Tassa aparena samayena buddhaṃ dhammaṃ saṅghaṃ sikkhaṃ paccakkhāya hīnāyāvattassa so ca yaso sā ca kitti hāyati parihāyati paridhaṃsati paripatati antaradhāyati vippalujjatī ’ti – yaso kitti ca yā pubbe hāyate vāpi tassa sā.
Etampi disvā sikkhetha methunaṃ vippahātave ti – Etan ti pubbe samaṇabhāve yaso kitti ca, aparabhāge buddhaṃ dhammaṃ saṅghaṃ sikkhaṃ paccakkhāya hīnāyāvattassa ayaso ca akitti ca, etaṃ sampattivipattiṃ. Disvā ti passitvā tulayitvā tīrayitvā vibhāvayitvā vibhūtaṃ katvā ’ti – etampi disvā. Sikkhethā ti tisso sikkhā: adhisīlasikkhā adhicittasikkhā adhipaññāsikkhā.
Katamā adhisīlasikkhā? Idha bhikkhu sīlavā hoti pātimokkhasaṃvarasaṃvuto viharati ācāragocarasampanno aṇumattesu vajjesu bhayadassāvī samādāya sikkhati sikkhāpadesu, khuddako sīlakkhandho mahanto sīlakkhandho sīlaṃ patiṭṭhā ādi caraṇaṃ saṃyamo saṃvaro mokkhaṃ pamokkhaṃ kusalānaṃ dhammānaṃ samāpattiyā; ayaṃ adhisīlasikkhā.
Katamā adhicittasikkhā? Idha bhikkhu vivicceva kāmehi vivicca akusalehi dhammehi savitakkaṃ savicāraṃ vivekajaṃ pītisukhaṃ paṭhamaṃ jhānaṃ upasampajja viharati. ―pe― dutiyaṃ jhānaṃ ―pe― tatiyaṃ jhānaṃ ―pe― catutthaṃ jhānaṃ upasampajja viharati; ayaṃ adhicittasikkhā.
Katamā adhipaññāsikkhā? Idha bhikkhu paññavā hoti udayatthagāminiyā paññāya samannāgato hoti ariyāya nibbedhikāya sammā dukkhakkhayagāminiyā, so ‘idaṃ dukkhan ’ti yathābhūtaṃ pajānāti, ‘ayaṃ dukkhasamudayo ’ti yathābhūtaṃ pajānāti, ‘ayaṃ dukkhanirodho ’ti yathābhūtaṃ pajānāti, ‘ayaṃ dukkhanirodhagāminī paṭipadā ’ti yathābhūtaṃ pajānāti, ‘ime āsavā ’ti yathābhūtaṃ pajānāti, ‘ayaṃ āsavasamudayo ’ti yathābhūtaṃ pajānāti, ‘ayaṃ āsavanirodho ’ti yathābhūtaṃ pajānāti, ‘ayaṃ āsavanirodhagāminī paṭipadā ’ti yathābhūtaṃ pajānāti; ayaṃ adhipaññāsikkhā.
Methunadhammo nāma yo so asaddhammo ―pe― dvayaṃdvayasamāpatti. ―pe― taṃkāraṇā vuccati methunadhammo.
Etampi disvā sikkhetha methunaṃ vippahātave ti methunadhammassa pahānāya vūpasamāya paṭinissaggāya paṭippassaddhiyā adhisīlampi sikkheyya, adhicittampi sikkheyya, adhipaññampi sikkheyya, imā tisso sikkhāyo āvajjanto sikkheyya, jānanto sikkheyya, passanto sikkheyya, paccavekkhanto sikkheyya, cittaṃ adhiṭṭhahanto sikkheyya, saddhāya adhimuccanto sikkheyya, viriyaṃ paggaṇhanto sikkheyya, satiṃ upaṭṭhapento sikkheyya, cittaṃ samādahanto sikkheyya, paññāya pajānanto sikkheyya, abhiññeyyaṃ abhijānanto sikkheyya, pariññeyyaṃ parijānanto sikkheyya, pahātabbaṃ pajahanto sikkheyya, bhāvetabbaṃ bhāvento sikkheyya, sacchikātabbaṃ sacchikaronto sikkheyya ācareyya samācareyya samādāya vatteyyā ’ti – etampi disvā sikkhetha methunaṃ vippahātave.
Tenāha bhagavā: Yaso kitti ca yā pubbe hāyate vāpi tassa sā, etampi disvā sikkhetha methunaṃ vippahātave ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Danh vọng và tiếng tăm nào đã có trước đây, điều ấy của vị ấy (giờ) hiển nhiên cũng bị giảm thiểu. Sau khi nhìn thấy điều này nên học tập nhằm dứt bỏ hẳn việc đôi lứa.”
7.5
Saṅkappehi pareto so kapaṇo viya jhāyati, sutvā paresaṃ nigghosaṃ maṅku hoti tathāvidho.
Kẻ ấy, bị chi phối bởi các suy tư, trầm tư như là kẻ khốn khổ. Sau khi nghe lời quở trách của những người khác, kẻ như thế ấy trở nên tủi hổ.
Chi phối bởi suy tư,
Trầm ngâm như kẻ nghèo,
Nghe tiếng trách người khác,
Như kẻ bị thất vọng.
(Kinh Tập, câu kệ 818)
Saṅkappehi pareto so kapaṇo viya jhāyatī ti – kāmasaṅkappena byāpādasaṅkappena vihiṃsāsaṅkappena diṭṭhisaṅkappena phuṭṭho pareto samohito samannāgato pihito; kapaṇo viya mando viya momūho viya jhāyati pajjhāyati nijjhāyati apajjhāyati; yathā ulūko rukkhasākhāyaṃ mūsikaṃ magayamāno jhāyati pajjhāyati nijjhāyati apajjhāyati, yathā kotthu nadītīre macche magayamāno jhāyati pajjhāyati nijjhāyati apajjhāyati, yathā biḷāro sandhisamalasaṅkaṭīre mūsikaṃ magayamāno jhāyati pajjhāyati nijjhāyati apajjhāyati, yathā gadrabho vahacchinno sandhisamalasaṅkaṭīre jhāyati pajjhāyati nijjhāyati apajjhāyati, evamevaṃ so vibbhantako kāmasaṅkappena byāpādasaṅkappena vihiṃsāsaṅkappena diṭṭhisaṅkappena phuṭṭho pareto samohito samannāgato pihito kapaṇo viya mando viya momūho viya jhāyati pajjhāyati nijjhāyati apajjhāyatīti ‘saṅkappehi pareto so kapaṇo viya jhāyati.’
Sutvā paresaṃ nigghosaṃ maṅku hoti tathāvidho ti – Paresan ti upajjhāyā vā ācariyā vā samānupajjhāyakā vā samānācariyakā vā mittā vā sandiṭṭhā vā sambhattā vā sahāyā vā codenti: “Tassa te āvuso alābhā, tassa te dulladdhaṃ, yaṃ tvaṃ evarūpaṃ uḷāraṃ satthāraṃ labhitvā evaṃ svākkhāte dhammavinaye pabbajitvā evarūpaṃ ariyadhanaṃ labhitvāpi tassa methunadhammassa kāraṇā buddhaṃ dhammaṃ saṅghaṃ sikkhaṃ paccakkhāya hīnāyāvattosi. Saddhāpi nāma te nāhosi kusalesu dhammesu. Hirīpi nāma te nāhosi kusalesu dhammesu. Ottappampi nāma te nāhosi kusalesu dhammesu. Viriyampi nāma te nāhosi kusalesu dhammesu. Satipi nāma te nāhosi kusalesu dhammesu. Paññāpi nāma te nāhosi kusalesu dhammesū ”ti. Tesaṃ vacanaṃ byappathaṃ desanaṃ anusāsanaṃ anusiṭṭhiṃ sutvā – suṇitvā uggahetvā upadhāretvā upalakkhayitvā; maṅku hoti – pīḷito ghaṭṭito byādhito domanassito hoti.
Tathāvidho ti tathāvidho tādiso tassaṇṭhito tappakāro tappaṭibhāgo yo so vibbhantako ’ti – sutvā paresaṃ nigghosaṃ maṅku hoti tathāvidho.
Tenāha bhagavā:
“Saṅkappehi pareto so kapaṇo viya jhāyati, sutvā paresaṃ nigghosaṃ maṅku hoti tathāvidho ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Kẻ ấy, bị chi phối bởi các suy tư, trầm tư như là kẻ khốn khổ. Sau khi nghe lời quở trách của những người khác, kẻ như thế ấy trở nên tủi hổ.”
7.6
Atha satthāni kurute paravādehi codito, esa khvassa mahāgedho mosavajjaṃ pagāhati.
Bị khiển trách bởi các lời nói của những người khác,
rồi (kẻ này) tạo ra các vũ khí.
Điều ấy, đối với kẻ này, quả là sự vướng mắc lớn lao;
(kẻ này) lún sâu vào sự giả dối.
Bị người khác buộc tội,
Nó làm các đao kiếm,
Trở thành người tham lớn,
Chấp thủ điều vọng ngôn.
(Kinh Tập, câu kệ 819)
Atha satthāni kurute paravādehi codito ti – Athā ti padasandhi padasaṃsaggo padapāripūrī akkharasamavāyo byañjanasiliṭṭhatā padānupubbatā nāmetaṃ athā ’ti. Satthānī ti – tīṇi satthāni: kāyasatthaṃ vacīsatthaṃ manosatthaṃ. Tividhaṃ manoduccaritaṃ manosatthaṃ.
Paravādehi codito ti – Upajjhāyehi vā ācariyehi vā samānupajjhāyakehi vā samānācariyakehi vā mittehi vā sandiṭṭhehi vā sambhattehi vā sahāyehi vā codito sampajānamusā bhāsati: ‘Abhirato ahaṃ bhante ahosiṃ pabbajjāya. Mātā me posetabbā. Tenamhi vibbhanto ’ti bhaṇati. ‘Pitā me posetabbo. Tenamhi vibbhanto ’ti bhaṇati. ‘Bhātā me posetabbo ’ti bhaṇati. ‘Bhaginī me posetabbā ’ti bhaṇati. ‘Putto me posetabbā, ñātakā me posetabbā, sālohitā me posetabbā. Tenamhi vibbhanto ’ti bhaṇati. Vacīsatthaṃ karoti saṅkaroti janeti sañjaneti nibbatteti abhinibbattetī ’ti – atha satthāni kurute paravādehi codito.
Esa khvassa mahāgedho ti – Eso kho tassa mahāgedho mahāvanaṃ mahāgahanaṃ mahākantāro mahāvisamo mahākuṭilo mahāpaṅko mahāpalipo mahāpaḷibodho mahābandhanaṃ yadidaṃ sampajānamusāvādo ’ti – esa khvassa mahāgedho.
Mosavajjaṃ pagāhatī ti – Mosavajjaṃ vuccati musāvādo. Idhekacco sabhaggato vā parisaggato vā ñātimajjhagato vā pūgamajjhagato vā rājakulamajjhagato vā abhinīto sakkhipuṭṭho: ‘Ehambho purisa, yaṃ jānāsi, taṃ vadehī ’ti. So ajānaṃ vā āha: ‘Jānāmī ’ti. Jānaṃ vā āha: ‘Na jānāmī ’ti. Apassaṃ vā āha: ‘Passāmī ’ti. Passaṃ vā āha: ‘Na passāmī ’ti. Iti attahetu vā parahetu vā dhanahetu vā āmisakiñcikkhahetu vā sampajānamusā bhāsati; idaṃ vuccati mosavajjaṃ.
Api ca tīhākārehi musāvādo hoti: Pubbevassa hoti ‘musā bhaṇissan’ti. Bhaṇantassa hoti ‘musā bhaṇāmī ’ti. Bhaṇitassa hoti ‘musā mayā bhaṇitan’ti. Imehi tīhākārehi musāvādo hoti. Api ca, catuhākārehi musāvādo hoti: Pubbevassa hoti ‘musā bhaṇissan’ti. Bhaṇantassa hoti ‘musā bhaṇāmī ’ti. Bhaṇitassa hoti ‘musā mayā bhaṇitan’ti. Vinidhāya diṭṭhiṃ. Imehi catuhākārehi musāvādo hoti. Api ca, pañcahākārehi – chahākārehi – sattahākārehi – aṭṭhahākārehi musāvādo hoti: Pubbevassa hoti ‘musā bhaṇissan ’ti.
Bhaṇantassa hoti ‘musā bhaṇāmī ’ti. Bhaṇitassa hoti ‘musā bhaṇissan ’ti. Bhaṇantassa hoti ‘musā bhaṇāmī ’ti. Bhaṇitassa hoti ‘musā bhaṇissan ’ti. Bhaṇantassa hoti ‘musā bhaṇāmī ’ti. Bhaṇitassa hoti ‘musā mayā bhaṇitan ’ti. Vinidhāya diṭṭhiṃ, vinidhāya khantiṃ, vinidhāya ruciṃ, vinidhāya saññaṃ, vinidhāya bhāvaṃ. Imehi aṭṭhahākārehi musāvādo hoti.
Mosavajjaṃ pagāhatī ti mosavajjaṃ pagāhati ogāhati ajjhogāhati pavisatī ’ti – mosavajjaṃ pagāhati.
Tenāha bhagavā:
“Atha satthāni kurute paravādehi codito, esa khvassa mahāgedho mosavajjaṃ pagāhatī ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Bị khiển trách bởi các lời nói của những người khác, rồi (kẻ này) tạo ra các vũ khí. Điều ấy, đối với kẻ này, quả là sự vướng mắc lớn lao, (kẻ này) lún sâu vào sự giả dối.”
7.7
Paṇḍitoti samaññāto ekacariyamadhiṭṭhito, savāpi methune yutto mandova parikissati.
Đã được công nhận là ‘bậc sáng suốt,’ đã phát nguyện hạnh sống một mình, nếu kẻ ấy cũng gắn bó vào việc đôi lứa, ví như kẻ ngu khờ bị sầu muộn.
Ðược danh là Hiền trí,
An trú sống một mình,
Nếu rơi vào dâm dục,
Sầu não như kẻ ngu.
(Kinh Tập, câu kệ 820)
Paṇḍitoti samaññāto ti – Idhekacco pubbe samaṇabhāve kittivaṇṇabhato hoti paṇḍito viyatto medhāvī bahussuto cittakathī kalyāṇapaṭibhāno suttantikoti vā vinayadharoti vā dhammakathikoti vā ―pe― nevasaññānāsaññāyatanasamāpattiyā lābhīti vā, evaṃ ñāto hoti saññāto samaññāto hotīti – paṇḍitoti samaññāto.
Ekacariyaṃ adhiṭṭhito ti – Dvīhi kāraṇehi ekacariyaṃ adhiṭṭhito pabbajjāsaṅkhātena vā gaṇā vavassaggaṭṭhena vā. Kathaṃ pabbajjāsaṅkhātena ekacariyaṃ adhiṭṭhito? Sabbaṃ gharāvāsapaḷibodhaṃ chinditvā ―pe― evaṃ pabbajjāsaṅkhātena ekacariyaṃ adhiṭṭhito. Kathaṃ gaṇā vavassaggaṭṭhena ekacariyaṃ adhiṭṭhito? So evaṃ pabbajito samāno eko araññe vanapatthāni ―pe― evaṃ gaṇā vavassaggaṭṭhena ekacariyaṃ adhiṭṭhito ’ti – ekacariyaṃ adhiṭṭhito.
Sacāpi methune yutto ti – Methunadhammo nāma yo so asaddhammo gāmadhammo vasaladhammo ―pe― taṃkāraṇā vuccati methunadhammo. ‘Sacāpi methune yutto ’ti so aparena samayena buddhaṃ dhammaṃ saṅghaṃ sikkhaṃ paccakkhāya hīnāyāvattitvā methunadhamme yutto saṃyutto payutto āyutto samāyutto ’ti – sacāpi methune yutto.
Mandova parikissatī ti – Kapaṇo viya mando viya momūho viya kissati parikissati parikilissati, pāṇampi hanti, adinnampi ādiyati, sandhimpi chindati, nillopampi harati, ekāgārikampi karoti, paripanthepi tiṭṭhati, paradārampi gacchati, musāpi bhaṇati, evampi kissati parikissati parikilissati. Tamenaṃ rājāno gahetvā vividhā kammakāraṇā kārenti: kasāhipi tāḷenti, vettehipi tāḷenti, addhadaṇḍakehipi tāḷenti, hatthampi chindanti, pādampi chindanti, hatthapādampi chindanti, kaṇṇampi chindanti, nāsampi chindanti, kaṇṇanāsampi chindanti, bilaṅgathālikampi karonti, saṅkhamuṇḍikampi karonti, rāhumukhampi karonti, jotimālikampi karonti, hatthapajjotikampi karonti, erakavattikampi karonti, cirakavāsikampi karonti, eṇeyyakampi karonti, balisamaṃsikampi karonti, kahāpaṇakampi karonti, khārāpatacchikampi karonti, palighaparivattikampi karonti, palālapiṭṭhikampi karonti, tattenapi telena osiñcanti, sunakhehipi khādāpenti, jīvantampi sūle uttāsenti, asināpi sīsaṃ chindanti evampi kissati parikissati parikilissati. Athavā kāmataṇhāya abhibhūto pariyādinnacitto bhoge pariyesanto nāvāya mahāsamuddaṃ pakkhandati: sītassa purakkato uṇhassa purakkhato ḍaṃsamakasavātātapasiriṃsapasamphassehi rissamāno khuppipāsāhi miyamāno tigumbaṃ gacchati, takkolaṃ gacchati, takkasilaṃ gacchati, kālamukhaṃ gacchati, parammukhaṃ gacchati, vesuṅgaṃ gacchati, verāpathaṃ gacchati, javaṃ gacchati, tāmaliṃ gacchati, vaṅgaṃ gacchati, eḷavaddhanaṃ gacchati, suvaṇṇakūṭaṃ gacchati, suvaṇṇabhūmiṃ gacchati, tambapaṇṇiṃ gacchati, suppārakaṃ gacchati, bharukacchaṃ gacchati, suraṭṭhaṃ gacchati, aṅgalokaṃ gacchati, gaṅgaṇaṃ gacchati, paramagaṅgaṇaṃ gacchati, yonaṃ gacchati, paramayonaṃ gacchati, allasandaṃ gacchati, navakaṃ gacchati, mūlapadaṃ gacchati, …
… marukantāraṃ gacchati, jaṇṇupathaṃ gacchati, ajapathaṃ gacchati, meṇḍapathaṃ gacchati, saṅkupathaṃ gacchati, chattapathaṃ gacchati, vaṃsapathaṃ gacchati; sakuṇapathaṃ gacchati, mūsikapathaṃ gacchati, darīpathaṃ gacchati, vettādhāraṃ gacchati, evampi kissati, parikissati, parikilissati. Gavesanto na vindati. Alābhamūlakampi dukkhaṃ domanassaṃ paṭisaṃvedeti. Evampi kissati parikissati parikilissati. Gavesanto vindati laddhā ca ārakkhamūlakampi dukkhaṃ domanassaṃ paṭisaṃvedeti: “Kinti me bhoge neva rājāno hareyyuṃ, na corā hareyyuṃ, na aggi daheyya, na udakaṃ vaheyya, na appiyā dāyādā hareyyun”ti. Tassa evaṃ ārakkhato gopayato te bhogā vippalujjanti. So vippayogamūlakampi dukkhaṃ domanassaṃ paṭisaṃvedeti. Evampi kissati parikissati parikilissatī ’ti – sacāpi methune yutto mandova parikissati.
Tenāha bhagavā:
“Paṇḍitoti samaññāto ekacariyamadhiṭṭhito, sacāpi methune yutto mandova parikissatī ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Đã được công nhận là ‘bậc sáng suốt,’ đã phát nguyện hạnh sống một mình, nếu kẻ ấy cũng gắn bó vào việc đôi lứa, ví như kẻ ngu khờ bị sầu muộn.”
7.8
Etamādīnavaṃ ñatvā muni pubbāpare idha, ekacariyaṃ daḷhaṃ kayirā na nisevetha methunaṃ.
Sau khi biết được điều bất lợi này, ở đây bậc hiền trí trước đó và sau này, nên thực hành vững chải hạnh sống một mình, không nên gần gũi việc đôi lứa.
Thấy nguy hại như vậy,
Bậc ẩn sĩ trước sau,
Kiên trì sống cô độc,
Không thực hành dâm dục.
(Kinh Tập, câu kệ 821)
Etamādīnavaṃ ñatvā muni pubbāpare idhā ti – Etan ti pubbe samaṇabhāve yaso ca kitti ca, aparabhāge buddhaṃ dhammaṃ saṅghaṃ sikkhaṃ paccakkhāya hīnāyāvattassa ayaso ca akitti ca, etaṃ sampattivipattiṃ ñatvā jānitvā tulayitvā tīrayitvā vibhāvayitvā vibhūtaṃ katvā; munī ti monaṃ vuccati ñāṇaṃ, yā paññā pajānanā ―pe― saṅgajālamaticca so muni. Idhā ti imissā diṭṭhiyā imissā khantiyā imissā ruciyā imasmiṃ ādāye imasmiṃ dhamme imasmiṃ vinaye imasmiṃ dhammavinaye imasmiṃ pāvacane imasmiṃ satthusāsane imasmiṃ brahmacariye imasmiṃ attabhāve imasmiṃ manussaloke ’ti – etamādīnavaṃ ñatvā muni pubbāpare idha.
Ekacariyaṃ daḷhaṃ kayirā ti – Dvīhi kāraṇehi ekacariyaṃ daḷhaṃ kareyya: pabbajjāsaṅkhātena vā gaṇā vavassaggaṭṭhena vā. Kathaṃ pabbajjāsaṅkhātena ekacariyaṃ daḷhaṃ kareyya? Sabbaṃ gharāvāsapaḷibodhaṃ chinditvā puttadārapaḷibodhaṃ chinditvā ñātipaḷibodhaṃ chinditvā mittāmaccapaḷibodhaṃ chinditvā sannidhipaḷibodhaṃ chinditvā kesamassuṃ ohāretvā kāsāyāni vatthāni acchādetvā agārasmā anagāriyaṃ pabbajitvā akiñcanabhāvaṃ upagantvā eko careyya vihareyya [iriyeyya] vatteyya pāleyya yapeyya yāpeyya. Evaṃ pabbajjāsaṅkhātena ekacariyaṃ daḷhaṃ kareyya. Kathaṃ gaṇā vavassaggaṭṭhena ekacariyaṃ daḷhaṃ kareyya? So evaṃ pabbajito samāno eko araññe vanapatthāni pantāni senāsanāni paṭiseveyya appasaddāni appanigghosāni vijanavātāni manussarāhaseyyakāni paṭisallānasāruppāni. So eko gaccheyya, eko tiṭṭheyya, eko nisīdeyya eko seyyaṃ kappeyya, eko gāmaṃ piṇḍāya paviseyya, eko paṭikkameyya, eko raho nisīdeyya, eko caṅkamaṃ adhiṭṭheyya, eko careyya vihareyya irīyeyya vatteyya pāleyya yapeyya yāpeyya. Evaṃ gaṇā vavassaggaṭṭhena ekacariyaṃ daḷhaṃ kareyya, ekacariyaṃ thiraṃ kareyya, viriyaṃ kareyya daḷhasamādāno assa, avaṭṭhitasamādāno assa kusalesu dhammesū ’ti ekacariyaṃ daḷhaṃ kayirā.
Na nisevetha methunan ti – Methunadhammo nāma yo so asaddhammo gāmadhammo —pe— taṃkāraṇā vuccati methunadhammo. Methunadhammaṃ na seveyya, na niseveyya, na saṃseveyya na paṭiseveyya, na careyya, na samācareyya, na samādāya vatteyyā ’ti na nisevetha methunaṃ.
Tenāha bhagavā: “Etamādīnavaṃ ñatvā muni pubbāpare idha, ekacariyaṃ daḷhaṃ kayirā na nisevetha methunan ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Sau khi biết được điều bất lợi này, ở đây bậc hiền trí trước đó và sau này, nên thực hành vững chải hạnh sống một mình, không nên gần gũi việc đôi lứa.”
7.9
Vivekaññeva sikkhetha etadariyānamuttamaṃ, tena seṭṭho na maññetha sa ve nibbānasantike.
Nên học tập mỗi hạnh viễn ly, điều này đối với các bậc Thánh là tối thượng, với điều ấy không nên nghĩ (bản thân) là hạng nhất; vị ấy quả nhiên ở gần Niết Bàn.
Hãy học tập viễn ly,
Ðây hạnh thánh tối thượng,
Không nghĩ mình tối thắng,
Dầu gần được Niết-bàn.
(Kinh Tập, câu kệ 822)
Vivekaññeva sikkhethā ti – Vivekā ti tayo vivekā: kāyaviveko cittaviveko upadhiviveko. Katamo kāyaviveko? —pe— ayaṃ upadhiviveko. Kāyaviveko ca vavakaṭṭhakāyānaṃ nekkhammābhiratānaṃ. Cittaviveko ca parisuddhacittānaṃ paramavodānappattānaṃ. Upadhiviveko ca nirupadhīnaṃ puggalānaṃ visaṅkhāragatānaṃ. Sikkhā ti – tisso sikkhā: adhisīlasikkhā, adhicittasikkhā, adhipaññāsikkhā —pe— ayaṃ adhipaññāsikkhā. Vivekaññeva sikkhethā ti – vivekaññeva sikkheyya ācareyya samācareyya samādāya vatteyyā ’ti -vivekaññeva sikkhetha.
Etadariyānamuttaman ti – Ariyā vuccanti buddhā ca buddhasāvakā ca paccekabuddhā ca. Ariyānaṃ etaṃ aggaṃ seṭṭhaṃ viseṭṭhaṃ pāmokkhaṃ uttamaṃ pavaraṃ yadidaṃ vivekacariyā ’ti – etadariyānamuttamaṃ.
Tena seṭṭho na maññethā ti – tāya vivekacariyāya unnatiṃ na kareyya, unnamaṃ na kareyya, mānaṃ na kareyya, thāmaṃ na kareyya, thambhaṃ na kareyya, na tena mānaṃ janeyya, bandhaṃ na kareyya, na tena thaddho assa patthaddho paggahitasiro ’ti – tena seṭṭho na maññetha.
Sa ve nibbānasantike ti – so nibbānassa santike sāmantā āsanne avidūre upakaṭṭhe ’ti – sa ve nibbānasantike.
Tenāha bhagavā: “Vivekaññeva sikkhetha etadariyānamuttamaṃ, tena seṭṭho na maññetha sa ve nibbānasantike ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Nên học tập mỗi hạnh viễn ly, điều này đối với các bậc Thánh là tối thượng, với điều ấy không nên nghĩ (bản thân) là hạng nhất; vị ấy quả nhiên ở gần Niết Bàn.”
7.10
Rittassa munino carato kāmesu anapekkhino, oghatiṇṇassa pihayanti kāmesu gathitā pajā.
Đối với bậc hiền trí đang sống, trống vắng (mọi ô nhiễm), không có trông mong các dục, đã vượt qua (bốn) dòng nước lũ, người đời, bị buộc trói ở các dục, mong cầu (được như vị ấy).Sở hành bậc ẩn sĩ,
Trống không, không mong dục,
Bậc vượt khỏi bộc lưu,
Ðược các người ở đời,
Bị tham dục trói buộc,
Ganh tị và thèm muốn.
(Kinh Tập, câu kệ 823)
Rittassa munino carato ti – Rittassā ti rittassa vivittassa pavivittassa kāyaduccaritena rittassa vivittassa pavivittassa, vacīduccaritena rittassa vivittassa pavivittassa, manoduccaritena rittassa vivittassa pavivittassa, rāgena dosena mohena kodhena upanāhena makkhena paḷāsena issāya macchariyena māyāya sāṭheyyena thambhena sārambhena mānena atimānena madena pamādena sabbakilesehi sabbaduccaritehi sabbadarathehi sabbapariḷāhehi sabbasantāpehi sabbākusalābhisaṅkhārehi rittassa vivittassa pavivittassa. Munino ti monaṃ vuccati ñāṇaṃ ―pe― saṅgajālamaticca so muni. Carato ti carato viharato irīyato vattato pālayato yapato yāpayato ’ti – rittassa munino carato.
Đối với bậc hiền trí đang sống, trống vắng (mọi ô nhiễm) – Trống vắng: trống vắng, vắng vẻ, tách biệt là trống vắng, vắng vẻ, tách biệt với uế hạnh về thân; trống vắng, vắng vẻ, tách biệt với uế hạnh về khẩu; trống vắng, vắng vẻ, tách biệt với uế hạnh về ý; trống vắng, vắng vẻ, tách biệt với sự luyến ái, sân hận, si mê, giận dữ, thù hằn, gièm pha, ác ý, ganh tỵ, bỏn xẻn, xảo trá, bội bạc, bướng bỉnh, hung hăng, ngã mạn, kiêu căng, đam mê, xao lãng, tất cả ô nhiễm, tất cả uế hạnh, mọi sự lo lắng, mọi sự bực bội, mọi sự nóng nảy, tất cả pháp tạo tác bất thiện. Bậc hiền trí: bản thể hiền trí được gọi là trí, ―như trên― đã vượt qua sự dính líu và mạng lưới (tham ái và tà kiến), vị ấy là hiền trí. Đang sống: đang sống là đang trú, đang cư xử, đang vận hành, đang bảo hộ, đang duy trì, đang nuôi dưỡng. ‘Đối với bậc hiền trí đang sống, trống vắng (mọi ô nhiễm)’ là như thế.
Kāmesu anapekkhino ti – Kāmā ti uddānato dve kāmā: vatthukāmā ca kilesakāmā ca ―pe― ime vuccanti vatthukāmā. ―pe― ime vuccanti kilesakāmā. Vatthukāme parijānitvā kilesakāme pahāya pajahitvā vinodetvā byantīkaritvā anabhāvaṃ gametvā kāmesu anapekkhamāno cattakāmo vantakāmo muttakāmo pahīnakāmo paṭinissaṭṭhakāmo vītarāgo cattarāgo vantarāgo muttarāgo pahīnarāgo paṭinissaṭṭharāgo nicchāto nibbuto sītībhūto sukhapaṭisaṃvedī brahmabhūtena attanā viharatī ’ti – kāmesu anapekkhino.
Không có trông mong các dục – Các dục: theo sự phân hạng thì có hai loại dục: các vật dục và các ô nhiễm dục. —như trên— Các điều này được gọi là các vật dục. —như trên— Các điều này được gọi là các ô nhiễm dục. Sau khi biết toàn diện về các vật dục, sau khi dứt bỏ, sau khi từ bỏ, sau khi xua đi, sau khi làm chấm dứt, sau khi khiến cho không còn hiện hữu các ô nhiễm dục; trong khi không trông mong các dục, dục được từ bỏ, dục được tẩy trừ, dục được giải thoát, dục được dứt bỏ, dục được xả bỏ, luyến ái được xa lìa, luyến ái được từ bỏ, luyến ái được tẩy trừ, luyến ái được giải thoát, luyến ái được dứt bỏ, luyến ái được xả bỏ, không còn thèm khát, được tịch tịnh, có trạng thái mát lạnh, có sự nhận biết lạc, sống với trạng thái cao thượng tự thân; ‘không có trông mong các dục’ là như thế.
Oghatiṇṇassa pihayanti kāmesu gathitā pajā ti – Pajā ti sattādhivacanaṃ, pajā kāmesu rattā giddhā gathitā mucchitā ajjhopannā laggā laggitā paḷibuddhā; te kāmoghatiṇṇassa bhavoghatiṇṇassa diṭṭhoghatiṇṇassa avijjoghatiṇṇassa sabbasaṃsārapathaṃ tiṇṇassa uttiṇṇassa nittiṇṇassa atikkantassa samatikkantassa vītivattassa pāraṃ gatassa pāraṃ pattassa antaṃ gatassa antaṃ pattassa koṭiṃ gatassa koṭiṃ pattassa pariyantaṃ gatassa pariyantaṃ pattassa vosānaṃ gatassa vosānaṃ pattassa tāṇaṃ gatassa tāṇaṃ pattassa lenaṃ gatassa lenaṃ pattassa saraṇaṃ gatassa saraṇaṃ pattassa abhayaṃ gatassa abhayaṃ pattassa accutaṃ gatassa accutaṃ pattassa amataṃ gatassa amataṃ pattassa nibbānaṃ gatassa nibbānaṃ pattassa icchanti sādiyanti patthayanti pihayanti abhijappanti. Yathā nāma iṇāyikā ānaṇyaṃ patthenti pihayanti, yathā ābādhikā ārogyaṃ patthenti pihayanti, yathā bandhanabaddhā bandhanamokkhaṃ patthenti pihayanti, yathā dāsā bhujissaṃ patthenti pihayanti, yathā kantāraddhānapakkhannā khemantabhūmiṃ patthenti pihayanti, evamevaṃ pajā kāmesu rattā giddhā gathitā mucchitā ajjhopannā laggā laggitā paḷibuddhā. Te kāmoghatiṇṇassa bhavoghatiṇṇassa ―pe― nibbānaṃ gatassa nibbānaṃ pattassa icchanti sādiyanti patthayanti pihayanti abhijappantī ’ti – oghatiṇṇassa pihayanti kāmesu gathitā pajā.
Đã vượt qua (bốn) dòng nước lũ, người đời, bị buộc trói ở các dục, mong cầu (được như vị ấy) – Người đời: từ đề cập đến chúng sanh; người đời bị luyến ái, bị thèm khát, bị buộc trói, bị mê mẫn, bị gần gũi, máng vào, bị vướng vào, bị giữ lại ở các dục. Những người ấy ước muốn, ưng thuận, ước nguyện, mong cầu, tham đắm đối với vị đã vượt dòng lũ (ngũ) dục, đã vượt dòng lũ của hữu, đã vượt dòng lũ tà kiến, đã vượt dòng lũ vô minh, đã vượt. đã vượt lên, đã vượt khỏi, vượt trội, vượt qua, đã vượt lên trên mọi nẻo đường luân hồi, đã đi đến bờ kia, đã đạt đến bờ kia, đã đi đến điểm cuối, đã đạt đến điểm cuối, đã đi đến đỉnh, đã đạt đến đỉnh, đã đi đến tận cùng, đã đạt đến tận cùng, đã đi đến sự hoàn tất, đã đạt đến sự hoàn tất, đã đi đến chốn bảo hộ, đã đạt đến chốn bảo hộ, đã đi đến chỗ trú ẩn, đã đạt đến chỗ trú ẩn, đã đi đến nơi nương nhờ, đã đạt đến nơi nương nhờ, đã đi đến sự không còn sợ hãi, đã đạt đến sự không còn sợ hãi, đã đi đến sự không chết, đã đạt đến sự không chết, đã đi đến Bất Tử, đã đạt đến Bất Tử, đã đi đến Niết Bàn, đã đạt đến Niết Bàn. Giống như những người thiếu nợ ước nguyện, mong cầu việc thoát khỏi nợ, giống như những người bệnh ước nguyện, mong cầu việc hết bệnh, giống như những người bị trói buộc vào sự cột trói ước nguyện, mong cầu sự giải thoát khỏi sự cột trói, giống như những người lao vào đường xa hiểm trở ước nguyện, mong cầu vùng đất tuyệt đối an toàn; tương tự như vậy người đời bị luyến ái, bị thèm khát, bị buộc trói, bị mê mẫn, bị gần gũi, máng vào, bị vướng vào, bị giữ lại ở các dục. Những người ấy ước muốn, ưng thuận, ước nguyện, mong cầu, tham đắm đối với vị đã vượt dòng lũ (ngũ) dục, đã vượt dòng lũ của hữu —như trên— đã đi đến Niết Bàn, đã đạt đến Niết Bàn; ‘đã vượt qua (bốn) dòng nước lũ, người đời, bị buộc trói ở các dục, mong cầu (được như vị ấy)’ là như thế.
Tenāha bhagavā: “Rittassa munino carato kāmesu anapekkhino, oghatiṇṇassa pihayanti kāmesu gathitā pajā ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Đối với bậc hiền trí đang sống, trống vắng (mọi ô nhiễm), không có trông mong các dục, đã vượt qua (bốn) dòng nước lũ, người đời, bị buộc trói ở các dục, mong cầu (được như vị ấy).”
Tissametteyyasuttaniddeso sattamo.
Diễn Giải Kinh Tissametteyya là thứ bảy.
8. PASŪRASUTTANIDDESO – DIỄN GIẢI KINH PASŪRA
8.1
Atha pasūrasuttaniddeso vuccati:
Idheva suddhiṃ iti vādayanti nāññesu dhammesu visuddhimāhu, yannissitā tattha subhaṃ vadānā paccekasaccesu puthū niviṭṭhā.
Giờ Diễn Giải Kinh về vị Pasūra được nói đến:
Họ nói rằng: ‘Chính ở đây là trong sạch.’ Họ đã nói sự thanh tịnh không có ở các giáo pháp khác. Điều mà họ nương tựa, họ nói điều ấy là tốt đẹp, Phần đông đã đi theo những chân lý riêng biệt.
(VIII) Kinh Pasùra (Sn 161)
Ở đây chính thanh tịnh,
Họ thuyết giảng như vậy,
Họ nói trong pháp khác,
Không có sự thanh tịnh,
Họ nói chỗ y chỉ,
Ở đây là thanh tịnh,
Họ rộng rãi an trú,
Trong sự thật của mình.
(Kinh Tập, câu kệ 824)
Idheva suddhiṃ iti vādayantī ti – Idheva suddhiṃ visuddhiṃ parisuddhiṃ muttiṃ vimuttiṃ parimuttiṃ vadanti kathenti bhaṇanti dīpayanti voharanti: ‘Sassato loko, asassato loko, antavā loko, anantavā loko, taṃ jīvaṃ taṃ sarīraṃ, aññaṃ jīvaṃ aññaṃ sarīraṃ, hoti tathāgato parammaraṇā, na hoti tathāgato parammaraṇā, hoti ca na ca hoti tathāgato parammaraṇā, neva hoti na na hoti tathāgato parammaraṇā, idameva saccaṃ moghamaññan ’ti suddhiṃ visuddhiṃ parisuddhiṃ muttiṃ vimuttiṃ parimuttiṃ vadanti kathenti bhaṇanti dīpayanti voharantī ’ti – idheva suddhiṃ iti vādayanti.
Họ nói rằng: ‘Chính ở đây là trong sạch’ – Họ nói, họ thuyết, họ phát ngôn, họ diễn giải, họ diễn tả về sự trong sạch, về sự thanh tịnh, về sự hoàn toàn trong sạch, về sự thoát khỏi, về sự giải thoát, về sự hoàn toàn thoát khỏi ở chính nơi đây. Họ nói, họ thuyết, họ phát ngôn, họ diễn giải, họ diễn tả về sự trong sạch, về sự thanh tịnh, về sự hoàn toàn trong sạch, về sự thoát khỏi, về sự giải thoát, về sự hoàn toàn thoát khỏi rằng: ‘Thế giới là thường còn, thế giới là không thường còn, thế giới là có giới hạn, thế giới là không có giới hạn, mạng sống là vật ấy thân thể là vật ấy, mạng sống là vật khác thân thể là vật khác, đức Như Lai hiện hữu ở nơi khác sau khi chết, đức Như Lai không hiện hữu ở nơi khác sau khi chết, đức Như Lai hiện hữu và không hiện hữu ở nơi khác sau khi chết, đức Như Lai không hiện hữu và không phải là không hiện hữu ở nơi khác sau khi chết; chỉ điều này là sự thật, cái khác là rỗng không;’ ‘họ nói rằng: Chính ở đây là trong sạch’ là như thế.
Nāññesu dhammesu visuddhimāhū ti – Attano satthāraṃ dhammakkhānaṃ gaṇaṃ diṭṭhiṃ paṭipadaṃ maggaṃ ṭhapetvā sabbe paravāde khipanti ukkhipanti parikkhipanti: so satthā na sabbaññū, dhammo na svākkhāto, gaṇo na suppaṭipanno, diṭṭhi na bhaddikā, paṭipadā na supaññattā, maggo na niyyāṇiko, na tattha suddhi vā visuddhi vā parisuddhi vā mutti vā vimutti vā parimutti vā; na tattha1 sujjhanti vā visujjhanti vā parisujjhanti vā muccanti vā vimuccanti vā parimuccanti vā; hīnā nihīnā omakā lāmakā chattakā parittā ’ti evamāhaṃsu evaṃ vadanti evaṃ kathenti evaṃ bhaṇanti evaṃ dīpayanti evaṃ voharantī ’ti – nāññesu dhammesu visuddhimāhu.
Họ đã nói sự thanh tịnh không có ở các giáo pháp khác – Họ quăng bỏ, ném bỏ, vất bỏ tất cả các học thuyết khác, ngoại trừ bậc đạo sư, pháp thoại, hội chúng, quan điểm, lối thực hành, đạo lộ của bản thân. Họ đã nói như vầy: ‘Bậc đạo sư ấy không là đấng Toàn Tri, giáo pháp ấy không khéo được thuyết giảng, tập thể ấy đã không thực hành tốt đẹp, quan điểm ấy không tốt đẹp, lối thực hành ấy đã không khéo được quy định, đạo lộ ấy không dẫn dắt ra khỏi, ở nơi ấy không có sự trong sạch, hay sự thanh tịnh, hay sự hoàn toàn trong sạch, hay sự thoát khỏi, hay sự giải thoát, hay sự hoàn toàn thoát khỏi, không có ở nơi này những người được trong sạch, hay được thanh tịnh, hay được hoàn toàn trong sạch, hay được thoát khỏi, hay được giải thoát, hay được hoàn toàn thoát khỏi, là thấp hèn, hèn kém, hèn mọn, thấp kém, thấp thỏi, tồi tệ, nhỏ nhoi,’ họ nói như vậy, họ thuyết như vậy, họ phát ngôn như vậy, họ diễn giải như vậy, họ diễn tả như vậy; ‘họ đã nói sự thanh tịnh không có ở các giáo pháp khác’ là như thế.
Yannissitā tattha subhaṃ vadānā ti – Yannissitā ti yaṃ satthāraṃ dhammakkhānaṃ gaṇaṃ diṭṭhiṃ paṭipadaṃ maggaṃ nissitā assitā allīnā upāgatā ajjhositā adhimuttā. Tatthā ti sakāya diṭṭhiyā sakāya khantiyā sakāya ruciyā sakāya laddhiyā. Subhaṃ vadānā ti subhavādā sobhanavādā paṇḍitavādā thiravādā ñāyavādā hetuvādā lakkhaṇavādā kāraṇavādā ṭhānavādā sakāya laddhiyā ’ti – yannissitā tattha subhaṃ vadānā.
Điều mà họ nương tựa, họ nói điều ấy là tốt đẹp – Điều mà họ nương tựa là bậc đạo sư, pháp thoại, hội chúng, quan điểm, lối thực hành, đạo lộ nào mà họ đã nương vào, đã phụ thuộc vào, đã bám vào, đã tiến vào, đã bám chặt, đã hướng đến. Điều ấy là về quan điểm của mình, về sự chấp nhận của mình, về sự ưa thích của mình, về lập luận của mình. Họ nói là tốt đẹp là học thuyết tốt đẹp, học thuyết lịch sự, học thuyết sáng suốt, học thuyết vững chắc, học thuyết đúng đắn, học thuyết nhân (quả), học thuyết rõ rệt, học thuyết gương mẫu, học thuyết vững chắc theo lập luận của mình. ‘Điều mà họ nương tựa, họ nói điều ấy là tốt đẹp’ là như thế.
Paccekasaccesu puthu niviṭṭhā ti – Puthu samaṇabrāhmaṇā puthu paccekasaccesu niviṭṭhā patiṭṭhitā allīnā upagatā ajjhositā adhimuttā ‘sassato loko, idameva saccaṃ moghamaññan ’ti niviṭṭhā patiṭṭhitā allīnā upagatā ajjhositā adhimuttā; ‘asassato loko ―pe― neva hoti na na hoti tathāgato parammaraṇā, idameva saccaṃ moghamaññan ’ti niviṭṭhā patiṭṭhitā allīnā upagatā ajjhositā adhimuttā ’ti – paccekasaccesu puthū niviṭṭhā.
Phần đông đã đi theo những chân lý riêng biệt – Phần đông các Sa-môn và Bà-la-môn đã đi theo, đã thiết lập, đã bám vào, đã tiến vào, đã bám chặt, đã hướng đến những chân lý riêng biệt của cá nhân. Họ đã đi theo, đã thiết lập, đã bám vào, đã tiến vào, đã bám chặt, đã hướng đến rằng: ‘Thế giới là thường còn; chỉ điều này là sự thật, cái khác là rỗng không;’ họ đã đi theo, đã thiết lập, đã bám vào, đã tiến vào, đã bám chặt, đã hướng đến rằng: ‘Thế giới là không thường còn, ―như trên― đức Như Lai không hiện hữu và không phải là không hiện hữu ở nơi khác sau khi chết; chỉ điều này là sự thật, cái khác là rỗng không;’ ‘phần đông đã đi theo những chân lý riêng biệt’ là như thế.
Tenāha bhagavā:
“Idheva suddhiṃ iti vādayanti nāññesu dhammesu visuddhimāhu, yannissitā tattha subhaṃ vadānā paccekasaccesu puthū niviṭṭhā ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Họ nói rằng: ‘Chính ở đây là trong sạch.’ Họ đã nói sự thanh tịnh không có ở các giáo pháp khác. Điều mà họ nương tựa, họ nói điều ấy là tốt đẹp, Phần đông đã đi theo những chân lý riêng biệt.”
8.2
Te vādakāmā parisaṃ vigayha bālaṃ dahanti mithu aññamaññaṃ, vadanti te aññasitā kathojjaṃ pasaṃsakāmā kusalāvadānā.
Mong muốn tranh luận, những kẻ ấy sau khi chen vào hội chúng,
từng đôi, chúng đánh giá qua lại lẫn nhau là ngu dốt.
Dựa dẫm vào người khác, chúng nói lời bàn cãi,
mong muốn lời ca ngợi, chúng nói (học thuyết) là tốt lành.
Những ai muốn tranh luận,
Sau khi vào hội chúng,
Họ công kích lẫn nhau,
Họ gọi nhau là ngu,
Họ đi đến người khác,
Và khởi lên tranh luận,
Họ muốn được tán thán,
Họ gọi chúng thiện xảo.
(Kinh Tập, câu kệ 825)
Te vādakāmā parisaṃ vigayhā ti – Te vādakāmā ti te vādakāmā vādatthikā vādādhippāyā vādapurekkhārā vādapariyesanaṃ carantā. Parisaṃ – khattiyaparisaṃ brāhmaṇaparisaṃ gahapatiparisaṃ samaṇaparisaṃ vigayha ogayha. Vigayhā ti ajjhogahetvā pavisitvā ’ti – te vādakāmā parisaṃ vigayha.
Bālaṃ dahanti mithu aññamaññan ti – Mithū ti dve janā dve kalahakārakā dve bhaṇḍanakārakā dve bhassakārakā dve vivādakārakā dve adhikaraṇakārakā dve vādino dve sallāpakā; te aññamaññaṃ hīnato nihīnato omakato lāmakato chattakato parittato dahanti passanti dakkhanti olokenti nijjhāyanti upaparikkhantī ’ti – bālaṃ dahanti mithu aññamaññaṃ.
Vadanti te aññasitā kathojjan ti – Te aññaṃ satthāraṃ dhammakkhānaṃ gaṇaṃ diṭṭhiṃ paṭipadaṃ maggaṃ nissitā assitā allīnā upagatā ajjhositā adhimuttā. Kathojjaṃ vuccati kalaho bhaṇḍanaṃ viggaho vivādo medhagaṃ; athavā kathojjan ti anojavantī sā kathā. Kathojjaṃ vadanti, kalahaṃ vadanti, bhaṇḍanaṃ vadanti, viggahaṃ vadanti, vivādaṃ vadanti, medhagaṃ vadanti kathenti bhaṇanti dīpayanti voharantī ’ti – vadanti te aññasitā kathojjaṃ.
Pasaṃsakāmā kusalāvadānā ti – Pasaṃsakāmā ti pasaṃsakāmā pasaṃsatthikā pasaṃsādhippāyā pasaṃsāpurekkhārā pasaṃsāpariyesanaṃ carantā. Kusalāvadānā ti kusalavādā paṇḍitavādā thiravādā ñāyavādā hetuvādā lakkhaṇavādā kāraṇavādā ṭhānavādā sakāya laddhiyā ’ti – pasaṃsakāmā kusalāvadānā.
Tenāha bhagavā: “Te vādakāmā parisaṃ vigayha bālaṃ dahanti mithu aññamaññaṃ, vadanti te aññasitā kathojjaṃ pasaṃsakāmā kusalāvadānā ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Mong muốn tranh luận, những kẻ ấy sau khi chen vào hội chúng, từng đôi, chúng đánh giá qua lại lẫn nhau là ngu dốt. Dựa dẫm vào người khác, chúng nói lời bàn cãi, mong muốn lời ca ngợi, chúng nói (học thuyết) là tốt lành.”
8.3
Yutto kathāyaṃ parisāya majjhe pasaṃsamicchaṃ vinighāti hoti, apāsadasmiṃ pana maṅku hoti, nindāya so kuppati randhamesī.
Kẻ gắn bó với sự phát biểu ở giữa hội chúng,
trong khi ước muốn lời ca ngợi, thì trở nên lo lắng.
Hơn nữa, khi bị bác bỏ thì trở nên xấu hổ,
kẻ ấy bực tức vì sự chê bai, có sự tìm kiếm điểm thiếu sót.
Ham mê thích tranh luận,
Ở giữa các hội chúng,
Ước muốn được tán thán,
Họ sợ hãi thất bại,
Khi bị đánh thất bại,
Họ trở thành rủn chí,
Bị chê, họ nổi giận,
Kẻ tìm lỗi người khác.
(Kinh Tập, câu kệ 826)
Yutto kathāyaṃ parisāya majjhe ti – Khattiyaparisāya vā brāhmaṇaparisāya vā gahapatiparisāya vā samaṇaparisāya vā majjhe attano kathāyaṃ yutto payutto āyutto samāyutto sampayutto kathetun ’ti – yutto kathāyaṃ parisāya majjhe.
Pasaṃsamicchaṃ vinighāti hotī ti – Pasaṃsamicchan ti pasaṃsaṃ thomanaṃ kittiṃ vaṇṇahāriyaṃ icchanto patthayanto pihayanto abhijappanto. Vinighāti hotī ti – pubbeva sallāpā kathaṃkathī vinighāti hoti: ‘Jayo nu kho me bhavissati, parājayo nu kho me bhavissati, kathaṃ niggahaṃ karissāmi, kathaṃ paṭikammaṃ karissāmi, kathaṃ visesaṃ karissāmi, kathaṃ paṭivisesaṃ karissāmi, kathaṃ āveṭhiyaṃ karissāmi, kathaṃ nibbeṭhiyaṃ karissāmi, kathaṃ chedaṃ karissāmi, kathaṃ maṇḍalaṃ karissāmī ’ti? Evaṃ pubbeva sallāpā kathaṅkathī vinighāti hotī ’ti – pasaṃsamicchaṃ vinighāti hoti.
Apāsadasmiṃ pana maṅku hotī ti – Ye te pañhavīmaṃsakā parisā pārisajjā pāsārikā te apasādenti. ‘Atthāpagataṃ bhaṇitan ’ti atthato apasādenti. ‘Byañjanāpagataṃ bhaṇitan ’ti byañjanato apasādenti. ‘Atthabyañjanāpagataṃ bhaṇitan ’ti atthabyañjanato apasādenti. ‘Attho te dunnīto. Byañjanaṃ te duropitaṃ. Atthabyañjanaṃ te dunnītaṃ duropitaṃ. Niggaho te akato. Paṭikammaṃ te dukkataṃ. Viseso te akato. Paṭiviseso te dukkato. Āveṭhiyā te akatā, nibbeṭhiyā te dukkatā. Chedo te akato. Maṇḍalaṃ te dukkataṃ. Visamaṃ kathitaṃ dukkathitaṃ dubbhaṇitaṃ dullapitaṃ duruttaṃ dubbhāsitan ’ti apasādenti.
Apāsadasmiṃ pana maṅku hotī ti apāhatasmiṃ maṅku hoti pīḷito ghaṭṭito byādhito domanassito hotī ’ti – apāsadasmiṃ pana maṅku hoti.
Nindāya so kuppati randhamesī ti – Nindāya garahāya akittiyā avaṇṇahārikāya kuppati vyāpajjati patitthīyati. Kopañca dosañca appaccayañca pātukarotī ’ti – nindāya so kuppati. Randhamesī ti randhamesī virandhamesī aparaddhamesī khalitamesī galitamesī ghaṭṭitamesī vivaramesī ’ti – nindāya so kuppati randhamesī.
Tenāha bhagavā:
“Yutto kathāyaṃ parisāya majjhe pasaṃsamicchaṃ vinighāti hoti, apāsadasmiṃ pana maṅku hoti nindāya so kuppati randhamesī ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Kẻ gắn bó với sự phát biểu ở giữa hội chúng,
trong khi ước muốn lời ca ngợi, thì trở nên lo lắng.
Hơn nữa, khi bị bác bỏ thì trở nên xấu hổ,
kẻ ấy bực tức vì sự chê bai, có sự tìm kiếm điểm thiếu sót.”
8.4
Yamassa vādaṃ parihīnamāhu apāsadaṃ pañhavīmaṃsakā se, paridevati socati hīnavādo upaccagā manti anutthunāti.
Họ đã nói rằng cuộc tranh luận của người này là hèn mọn, những vị xem xét câu hỏi đã bác bỏ. Người có cuộc tranh luận thấp hèn than vãn, sầu muộn, kể lể rằng: ‘Kẻ ấy đã vượt hẳn tôi.’
Khi các nhà thẩm sát,
Phê bình các câu hỏi,
Tuyên bố cuộc tranh luận,
Ði đến chỗ thất bại,
Kẻ nói lời hạ liệt,
Than khóc và sầu não,
Họ rên rỉ than van,
Nó đã đánh bại ta.
(Kinh Tập, câu kệ 827)
Yamassa vādaṃ parihīnamāhū ti – Yaṃ assa vādaṃ hīnaṃ nihīnaṃ parihīnaṃ parihāpitaṃ na paripūritaṃ evamāhaṃsu evaṃ kathenti evaṃ bhaṇanti evaṃ dīpayanti evaṃ voharantī ’ti – yamassa vādaṃ parihīnamāhu.
Apāsadaṃ pañhavīmaṃsakā se ti – Ye te pañhavīmaṃsakā parisā pārisajjā pāsārikā te apasādenti: ‘Atthāpagataṃ bhaṇitan ’ti atthato apasādenti. ‘Byañjanāpagataṃ bhaṇitan ’ti byañjanato apasādenti. ‘Atthabyañjanāpagataṃ bhaṇitan ’ti atthabyañjanato apasādenti. ‘Attho te dunnīto. Byañjanaṃ te duropitaṃ. Atthabyañjanaṃ dunnītaṃ duropitaṃ. Niggaho te akato. Paṭikammaṃ te dukkataṃ. Viseso te akato. Paṭiviseso te dukkato. Āveṭhiyā te akatā. Nibbeṭhiyā te dukkatā, chedo te akato, maṇḍalaṃ te dukkataṃ, visamaṃ kathitaṃ dukkathitaṃ dubbhaṇitaṃ dullapitaṃ duruttaṃ dubbhāsitanti apaharantī ’ti – apāsadaṃ pañhavīmaṃsakā se.
Paridevati socati hīnavādo ti – Paridevatī ti aññaṃ mayā āvajjitaṃ, aññaṃ cintitaṃ, aññaṃ upadhāritaṃ, aññaṃ upasikkhitaṃ, aññaṃ upalakkhitaṃ. So mahāpakkho mahāpariso mahāparivāro ‘Parisā’yaṃ vaggā na samaggā. Samaggāya parisāya hetu kathāsallāpo. Puna bhañjissāmī ’ti yā evarūpā vācā palāpo vippalāpo lālappo lālappanā lālappitattan ’ti – paridevati. Socatī ti ‘tassa jayo ’ti socati, ‘mayhaṃ parājayo ’ti socati, ‘tassa lābho ’ti socati, ‘mayhaṃ alābho ’ti socati, ‘tassa yaso ’ti socati, ‘mayhaṃ ayaso ’ti socati, ‘tassa pasaṃsā ’ti socati, ‘mayhaṃ nindā ’ti socati, ‘tassa sukhan ’ti socati, ‘mayhaṃ dukkhan ’ti socati. ‘So sakkato garukato mānito pūjito apacito lābhī cīvara-piṇḍapāta-senāsana-gilānappaccayahesajja-parikkhārānaṃ, ‘ahamasmi asakkato agarukato amānito apūjito anapacito na lābhī cīvara-piṇḍapāta-senāsana-gilānappaccaya-bhesajja-parikkharānan ’ti socati kilamati paridevati urattāḷiṃ kandati sammohaṃ āpajjatī ’ti – paridevati socati. Hīnavādo ti – hīnavādo parihīnavādo parihāpitavādo na paripūravādo ’ti – paridevati socati hīnavādo.
Upaccagā manti anutthunātī ti – So maṃ vādena vādaṃ accagā upaccagā atikkanto samatikkanto vītivatto ’ti evampi upaccagā manti; athavā maṃ vādena vādaṃ abhibhavitvā ajjhottharitvā pariyādiyitvā maddayitvā carati viharati irīyati vattati pāleti yapeti yāpetī ’ti evampi upaccagā manti. Anutthunā ti vuccati vācā palāpo vippalāpo lālappo lālappanā lālappitattan ’ti – upaccagā manti anutthunāti.
Tenāha bhagavā:“Yamassa vādaṃ parihīnamāhu apāsadaṃ pañhavīmaṃsakā se, paridevati socati hīṇavādo upaccagā manti anutthunātī ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Họ đã nói rằng cuộc tranh luận của người này là hèn mọn, những vị xem xét câu hỏi đã bác bỏ. Người có cuộc tranh luận thấp hèn than vãn, sầu muộn, kể lể rằng: ‘Kẻ ấy đã vượt hẳn tôi.’”
8.5
Ete vivādā samaṇesu jātā etesu ugghāti nighāti hoti, etampi disvā virame kathojjaṃ na haññadatth’ atthi pasaṃsalābhā.
Những sự tranh cãi này đã sanh khởi giữa các vị Sa-môn, ở những việc này có sự hưng phấn và chán nản. Sau khi nhìn thấy luôn cả điều này, nên xa lánh sự bàn cãi, bởi vì không có lợi ích nào khác ngoài việc đạt được lời ca ngợi.
Giữa các vị Sa-môn,
Các tranh luận khởi lên,
Trong các tranh luận này,
Có chiến thắng chiến bại.
Do thấy rõ như vậy,
Không vui thích tranh luận
Dầu có được tán thán,
Cũng không lợi ích gì.
(Kinh Tập, câu kệ 828)
Ete vivādā samaṇesu jātā ti – Samaṇā ti ye keci ito bahiddhā paribbājupagatā paribbājasamāpannā. Ete diṭṭhikalahā diṭṭhibhaṇḍanā diṭṭhiviggahā diṭṭhivivādā diṭṭhimedhagā samaṇesu jātā sañjātā nibbattā abhinibbattā pātubhūtā ’ti – ete vivādā samaṇesu jātā.
Etesu ugghāti nighāti hotī ti – Jayaparājayo hoti, lābhālābho hoti, yasāyaso hoti, nindāpasaṃsā hoti, sukhadukkhaṃ hoti, somanassadomanassaṃ hoti, iṭṭhāniṭṭhaṃ hoti, anunayapaṭighaṃ hoti, ugghātitanighātitaṃ hoti, anurodhavirodho hoti, jayena cittaṃ ugghātitaṃ hoti, parājayena cittaṃ nighātitaṃ hoti, lābhena cittaṃ ugghātitaṃ hoti, alābhena cittaṃ nighātitaṃ hoti, yasena cittaṃ ugghātitaṃ hoti, ayasena cittaṃ nighātitaṃ hoti, pasaṃsāya cittaṃ ugghātitaṃ hoti, nindāya cittaṃ nighātitaṃ hoti, sukhena cittaṃ ugghātitaṃ hoti, dukkhena cittaṃ nighātitaṃ hoti, somanassena cittaṃ ugghātitaṃ hoti, domanassena cittaṃ nighātitaṃ hoti, unnatiyā cittaṃ ugghātitaṃ hoti, onatiyā cittaṃ nighātitaṃ hotī ’ti – etesu ugghāti nighāti hoti.
Etampi disvā virame kathojjan ti – Etampi disvā ti etaṃ ādīnavaṃ disvā passitvā tulayitvā tīrayitvā vibhāvayitvā vibhūtaṃ katvā diṭṭhikalahesu diṭṭhibhaṇḍanesu diṭṭhiviggahesu diṭṭhivivādesu diṭṭhimedhagesū ’ti – etampi disvā. Virame kathojjan ti – kathojjaṃ vuccati kalaho bhaṇḍanaṃ viggaho vivādo medhagaṃ. Athavā kathojjan ti anojavantī sā kathā. Kathojjaṃ na kareyya, kalahaṃ na kareyya, bhaṇḍanaṃ na kareyya, viggahaṃ na kareyya, vivādaṃ na kareyya, medhagaṃ na kareyya, kalaha-bhaṇḍana-viggaha-vivāda-medhagaṃ pajaheyya, vinodeyya byantiṃ kareyya anabhāvaṃ gameyya, kalahabhaṇḍanaviggahavivādamedhagā ārato assa virato paṭivirato nikkhanto nissaṭo vippayutto visaññutto vimariyādīkatena cetasā vihareyyā ’ti – etampi disvā virame kathojjaṃ.
Na haññadatth’ atthi pasaṃsalābhā ti – pasaṃsalābhā añño attho natthi attattho vā parattho vā ubhayattho vā diṭṭhadhammiko vā attho samparāyiko vā attho uttāno vā attho gambhīro vā attho gūḷho vā attho paṭicchanno vā attho neyyo vā attho nīto vā attho anavajjo vā attho nikkileso vā attho vodāno vā attho paramattho vā natthi na santi na saṃvijjanti nūpalabbhantī ’ti – na haññadatth’ atthi pasaṃsalābhā.
Tenāha bhagavā:
“Ete vivādā samaṇesu jātā etesu ugghātinighāti hoti, etampi disvā virame kathojjaṃ na haññadatth’ atthi pasaṃsalābhā ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Những sự tranh cãi này đã sanh khởi giữa các vị Sa-môn, ở những việc này có sự hưng phấn và chán nản. Sau khi nhìn thấy luôn cả điều này, nên xa lánh sự bàn cãi, bởi vì không có lợi ích nào khác ngoài việc đạt được lời ca ngợi.”
8.6
Pasaṃsito vā pana tattha hoti akkhāya vādaṃ parisāya majjhe, so taṃ hasati unnamaticca tena pappuyya tamatthaṃ yathāmano ahu.
Hoặc hơn nữa, kẻ được ca ngợi ở nơi ấy, sau khi đã nói lên lời tranh luận ở giữa hội chúng, kẻ ấy cười về điều ấy, hãnh diện vì điều ấy, sau khi đã đạt được mục đích ấy theo như ý định đã có.
Hay trong tranh luận này,
Nó được lời tán thán,
Sau khi đã nói lên,
Chính giữa các hội chúng.
Do vậy nó vui cười,
Nó tự hào kiêu hãnh,
Ðạt được mục đích ấy,
Như tâm ý nói lên.
(Kinh Tập, câu kệ 829)
Pasaṃsito vā pana tattha hotī ti – Tatthā ti sakāya diṭṭhiyā sakāya khantiyā sakāya ruciyā sakāya laddhiyā pasaṃsito thomito kittito vaṇṇito hotī ’ti – pasaṃsito vā pana tattha hoti.
Akkhāya vādaṃ parisāya majjhe ti – khattiyaparisāya vā brāhmaṇaparisāya vā gahapatiparisāya vā samaṇaparisāya vā majjhe attano vādaṃ akkhāya ācikkhitvā anuvādaṃ akkhāya ācikkhitvā thambhayitvā brūhayitvā dīpayitvā jotayitvā voharitvā parigaṇhitvā ’ti – akkhāya vādaṃ parisāya majjhe.
So taṃ hasati unnamaticca tenā ti – so tena jayatthena tuṭṭho hoti haṭṭho pahaṭṭho attamano paripuṇṇasaṅkappo; athavā dantavidaṃsakaṃ hasamāno so hasati. Unnamaticca tenā ti – so tena jayatthena unnato hoti. Unnamo dhajo sampaggāho ketukamyatā cittassā ’ti – so taṃ hasati unnamaticca tena.
Pappuyya tamatthaṃ yathāmano ahū ti – Taṃ jayatthaṃ pappuyya pāpuṇitvā adhigantvā vinditvā paṭilabhitvā. Yathāmano ahū ti yathāmano ahu yathācitto ahu yathāsaṅkappo ahu yathāviññāṇo ahū ’ti – pappuyya tamatthaṃ yathāmano ahu.
Tenāha bhagavā:
“Pasaṃsito vā pana tattha hoti akkhāya vādaṃ parisāya majjhe, so taṃ hasati unnamaticca tena pappuyya tamatthaṃ yathāmano ahū ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Hoặc hơn nữa, kẻ được ca ngợi ở nơi ấy, sau khi đã nói lên lời tranh luận ở giữa hội chúng, kẻ ấy cười về điều ấy, hãnh diện vì điều ấy, sau khi đã đạt được mục đích ấy theo như ý định đã có.”
8.7
Yā unnati sāssa vighātabhūmi mānātimānaṃ vadate paneso, etampi disvā na vivādiyetha na hi tena suddhiṃ kusalā vadanti.
Cái nào là sự kiêu hãnh, cái ấy đối với kẻ này là vùng đất tiêu diệt. Hơn nữa, kẻ này nói một cách ngã mạn và ngã mạn thái quá. Sau khi nhìn thấy luôn cả điều này, không nên tranh cãi, các bậc thiện xảo nói sự trong sạch hiển nhiên là không do việc ấy.
Cái làm nó cống cao,
Cũng là đất hại nó,
Tuy vậy nó vẫn nói,
Lời cống cao kiêu mạn,
Khi thấy được như vậy,
Hãy đừng có tranh luận,
Bậc thiện xảo nói rằng,
Thanh tịnh không do vậy.
(Kinh Tập, câu kệ 830)
Yā unnati sāssa vighātabhūmī ti –Yā ti yā unnamo dhajo sampaggāho ketukamyatā cittassā ’ti yā unnati. Sāssa vighātabhūmī ti sā tassa vighātabhūmi upaghātabhūmi pīḷanabhūmi ghaṭṭanabhūmi upaddavabhūmi upassaggabhūmī ’ti – unnati sāssa vighātabhūmi.
Mānātimānaṃ vadate paneso ti – So puggalo mānaṃ ca vadati, atimānaṃ ca vadatī ’ti – mānātimānaṃ vadate paneso.
Etampi disvā na vivādiyethā ti – Etaṃ ādīnavaṃ disvā passitvā tulayitvā tīrayitvā vibhāvayitvā vibhūtaṃ katvā diṭṭhikalahesu diṭṭhibhaṇḍanesu diṭṭhiviggahesu diṭṭhivivādesu diṭṭhimedhagesū ’ti – etampi disvā. Na vivādiyethā ti – na kalahaṃ kareyya, na bhaṇḍanaṃ kareyya, na viggahaṃ kareyya, na vivādaṃ kareyya, na medhagaṃ kareyya, kalahabhaṇḍanaviggahavivādamedhagaṃ jaheyya vinodeyya byantiṃ kareyya anabhāvaṃ gameyya. Kalahabhaṇḍanaviggavivādamedhagā ārato assa virato paṭivirato nikkhanto nissaṭo vippayutto visaññutto vimariyādīkatena cetasā vihareyyā ’ti – etampi disvā na vivādiyetha.
Na hi tena suddhiṃ kusalā vadantī ti – Kusalā ti ye te khandhakusalā dhātukusalā āyatanakusalā paṭiccasamuppādakusalā satipaṭṭhānakusalā sammappadhānakusalā iddhipādakusalā indriyakusalā balakusalā bojjhaṅgakusalā maggakusalā phalakusalā nibbānakusalā [te kusalā] diṭṭhikalahena diṭṭhibhaṇḍanena diṭṭhiviggahena diṭṭhivivādena diṭṭhimedhagena suddhiṃ visuddhiṃ parisuddhiṃ [muttiṃ] vimuttiṃ parimuttiṃ na vadanti na kathenti na bhaṇanti na dīpayanti na voharantī ’ti – na hi tena suddhiṃ kusalā vadanti.
Tenāha bhagavā:
“Yā unnati sāssa vighātabhūmi mānātimānaṃ vadate paneso, etampi disvā na vivādiyetha na hi tena suddhiṃ kusalā vadantī ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Cái nào là sự kiêu hãnh, cái ấy đối với kẻ này là vùng đất tiêu diệt. Hơn nữa, kẻ này nói một cách ngã mạn và ngã mạn hái quá. Sau khi nhìn thấy luôn cả điều này, không nên tranh cãi, các bậc thiện xảo nói sự trong sạch hiển nhiên là không do việc ấy.”
8.8
Sūro yathā rājakhādāya puṭṭho abhigajjameti paṭisūramicchaṃ, yeneva so tena palehi sūra pubbeva natthi yadidaṃ yudhāya.
Giống như vị dũng sĩ, được chu cấp với thức ăn của nhà vua, đi đến, la hét, ước muốn có dũng sĩ đối địch, này dũng sĩ, ngươi hãy đi đến nơi kẻ (dũng sĩ đối địch) ấy, quả thật trước đây đã không còn (ô nhiễm) gì để mà chiến đấu.
Cũng như bậc anh hùng,
Nuôi dưỡng đồ ăn vua,
La hét muốn tìm cầu,
Một địch thủ anh hùng,
Ôi anh hùng hãy tránh,
Chỗ nào có vị ấy,
Từ trước đã không có,
Sự đấu tranh như vậy.
(Kinh Tập, câu kệ 831)
Sūro yathā rājakhādāya puṭṭho ti – Sūro ti sūro vīro vikkanto abhīru acchambhī anutrāsī apalāyī. Rājakhādāya puṭṭho ti rājakhādanīyena rājabhojanīyena puṭṭho posito āpādito vaḍḍhito ’ti – sūro yathā rājakhādāya puṭṭho.
Giống như vị dũng sĩ, được chu cấp với thức ăn của vua – Vị dũng sĩ: Vị dũng sĩ là vị anh hùng, người chiến sĩ, không sợ hãi, không kinh sợ, không sợ sệt, không trốn chạy. Được chu cấp với thức ăn của vua: được chu cấp, được nuôi dưỡng, được đạt đến, được tăng trưởng nhờ vào vật thực cứng của nhà vua, nhờ vào vật thực mềm của nhà vua; – ‘giống như vị dũng sĩ, được chu cấp với thức ăn của nhà vua’ là như thế.
Abhigajjameti paṭisūramicchan ti – So gajjanto uggajjanto abhigajjanto eti upeti upagacchati paṭisūraṃ paṭipurisaṃ paṭisattuṃ paṭimallaṃ icchanto sādiyanto patthayanto pihayanto abhigajjanto ’ti – abhigajjameti paṭisūramicchaṃ.
Đi đến, la hét, ước muốn có dũng sĩ đối địch: Vị ấy đi đến, tiếp cận, đi đến gần, vừa kêu la, vừa la lên, vừa la hét, trong khi ước muốn, trong khi ưng thuận, trong khi ước nguyện, trong khi mong cầu, trong khi tham đắm có dũng sĩ đối địch, có người nam đối địch, có kẻ thù đối địch, có võ sĩ đối địch; – ‘đi đến, la hét, ước muốn có dũng sĩ đối địch’ là như thế.
Yeneva so tena palehi sūrā ti – Yeneva so diṭṭhigatiko tena palehi, tena vaja , tena gaccha, tena abhikkama. So tuyhaṃ paṭisūro paṭipuriso paṭisattu paṭimallo ’ti – yeneva so tena palehi sūra.
Này dũng sĩ, ngươi hãy đi đến nơi kẻ (dũng sĩ đối địch) ấy: Kẻ dẫn dắt đến tà kiến ấy hiện ở nơi nào, thì ngươi hãy đi đến nơi ấy, hãy tiến đến nơi ấy, hãy đến gần nơi ấy, hãy tiến về nơi ấy. Kẻ ấy là dũng sĩ đối địch, người nam đối địch, kẻ thù đối địch, võ sĩ đối địch của ngươi; – ‘Này dũng sĩ, ngươi hãy đi đến nơi kẻ (dũng sĩ đối địch) ấy’ là như thế.
Pubbeva natthi yadidaṃ yudhāyā ti – Pubbeva bodhiyā mūle ye paṭisenikarā kilesā paṭilomakarā paṭikaṇṭakarā paṭipakkhakarā, te natthi na santi na saṃvijjanti nūpalabbhanti, pahīnā samucchinnā vūpasantā paṭippassaddhā abhabbuppattikā ñāṇagginā daḍḍhā. Yadidaṃ yudhāyā ti yadidaṃ yuddhatthāya kalahatthāya bhaṇḍanatthāya viggahatthāya vivādatthāya medhagatthāyā ’ti – pubbeva natthi yadidaṃ yudhāya.
Quả thật trước đây đã không còn (ô nhiễm) gì để mà chiến đấu – Quả thật trước đây ở gốc cây Bồ Đề, những ô nhiễm có hành động đối kháng, có hành động đối nghịch, có hành động chống đối, có hành động đối lập là không có, không hiện diện, không tìm thấy, không tồn tại, đã được dứt bỏ, đã được trừ tuyệt, đã được vắng lặng, đã được tịch tịnh, không thể sanh khởi nữa, đã bị thiêu đốt bởi ngọn lửa trí tuệ. Để mà chiến đấu: tức là nhằm mục đích chiến đấu, nhằm mục đích cãi cọ, nhằm mục đích xung đột, nhằm mục đích tranh luận, nhằm mục đích tranh cãi, nhằm mục đích gây gỗ; – ‘Quả thật trước đây đã không còn (ô nhiễm) gì để mà chiến đấu’ là như thế.
Tenāha bhagavā:
“Sūro yathā rājakhādāya puṭṭho abhigajjameti paṭisūramicchaṃ, yeneva so tena palehi sūra pubbeva natthi yadidaṃ yudhāyā ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Giống như vị dũng sĩ, được chu cấp với thức ăn của nhà vua, đi đến, la hét, ước muốn có dũng sĩ đối địch, này dũng sĩ, ngươi hãy đi đến nơi kẻ (dũng sĩ đối địch) ấy, quả thật trước đây đã không còn (ô nhiễm) gì để mà chiến đấu.”
8.9
Ye diṭṭhimuggayha vivādayanti idameva saccanti ca vādayanti, te tvaṃ vadassu na hi te ’dha atthi vādamhi jāte paṭisenikattā.
Những kẻ nào sau khi học hỏi tà kiến, rồi tranh cãi và nói rằng: ‘Chỉ mỗi điều này là sự thật.’ Ngươi hãy nói với những kẻ ấy rằng: ‘Khi cuộc nói chuyện sanh khởi, người đối kháng với ngươi ở đây thật sự không có.’
Những ai chấp tri kiến,
Tranh luận về kiến ấy,
Tuyên bố thuyết giảng rằng:
Chỉ đây là sự thật,
Ông hãy nói với họ,
Ở đây không tranh luận,
Ông hãy nói thêm rằng
Ở đây không địch thủ.
(Kinh Tập, câu kệ 832)
Ye diṭṭhimuggayha vivādayantī ti – Ye dvāsaṭṭhidiṭṭhigatānaṃ aññataraññataraṃ diṭṭhigataṃ gahetvā gaṇhitvā uggaṇhitvā parāmasitvā abhinivisitvā vivādayanti, kalahaṃ karonti, bhaṇḍanaṃ karonti, viggahaṃ karonti, vivādaṃ karonti, medhagaṃ karonti: ‘Na tvaṃ imaṃ dhammavinayaṃ ājānāsi, ahaṃ imaṃ dhammavinayaṃ ājānāmi, kiṃ tvaṃ imaṃ dhammavinayaṃ ājānissasi? Micchāpaṭipanno tvamasi, ahamasmi sammāpaṭipanno, sahitaṃ me, asahitaṃ te, pure vacanīyaṃ pacchā avaca pacchā vacanīyaṃ pure avaca, āciṇṇaṃ te vipāravattaṃ, āropito te vādo, niggahītosi, cara vādappamokkhāya, nibbeṭhehi vā sace pahosī ’ti – ye diṭṭhimuggayha vivādayanti.
Idameva saccanti ca vādayantī ti – ‘Sassato loko, idameva saccaṃ, moghamaññan ’ti vādayanti kathenti bhaṇanti dīpayanti voharanti; ‘Asassato loko, —pe— neva hoti, na na hoti tathāgato parammaraṇā idameva saccaṃ, moghaññan ’ti vādayanti kathenti bhaṇanti dīpayanti voharantī ’ti – idameva saccanti ca vādayanti.
Te tvaṃ vadassu na hi te ’dha atthi vādamhi jāte paṭisenikattā ti – Te tvaṃ diṭṭhigatike vadassu vā vādena vādaṃ viggahena viggahaṃ paṭikammena paṭikammaṃ visesena visesaṃ paṭivisesena paṭivisesaṃ āveṭhiyāya āveṭhiyaṃ nibbeṭhiyāya nibbeṭhiyaṃ chedena chedaṃ maṇḍalena maṇḍalaṃ. Te tuyhaṃ paṭisūrā paṭipurisā paṭisattū paṭimallāti te tvaṃ vadassu.
Na hi te ’dha atthi vādamhi jāte paṭisenikattā ti – Vāde jāte sañjāte nibbatte abhinibbatte pātubhūte yeva paṭisenikattā paṭilomakattā paṭikaṇṭakattā paṭipakkhakattā kalahaṃ kareyyuṃ bhaṇḍanaṃ kareyyuṃ viggahaṃ kareyyuṃ vivādaṃ kareyyuṃ medhagaṃ kareyyuṃ. Te natthi na santi na saṃvijjanti nūpalabbhanti, pahīnā samucchinnā vūpasantā paṭippassaddhā abhabbuppattikā ñāṇagginā daḍḍhā ’ti – te tvaṃ vadassu na hi te ’dha atthi vādamhi jāte paṭisenikattā.
Tenāha bhagavā: “Ye diṭṭhimuggayha vivādayanti idameva saccanti ca vādayanti, te tvaṃ vadassu na hi te ’dha atthi vādamhi jāte paṭisenikattā ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Những kẻ nào sau khi học hỏi tà kiến, rồi tranh cãi và nói rằng: ‘Chỉ mỗi điều này là sự thật.’ Ngươi hãy nói với những kẻ ấy rằng: ‘Khi cuộc nói chuyện sanh khởi, người đối kháng với ngươi ở đây thật sự không có.’”
8.10
Visenikatvā pana ye caranti diṭṭhīhi diṭṭhiṃ avirujjhamānā, tesu tvaṃ kiṃ labhetho pasūra yesīdha natthi paramuggahītaṃ.
Hơn nữa, sau khi tiêu diệt đạo binh (ô nhiễm), những vị nào sống không chống đối quan điểm (này) bằng các quan điểm (khác), này Pasūra, ngươi có thể đạt được cái gì ở những vị ấy, ở đây là đối với những vị mà điều được ôm giữ là tối thắng (hoàn toàn) không có?
Cuộc chiến đấu đã tàn,
Những ai sống như vậy,
Không có sự va chạm,
Giữa kiến này kiến khác,
Hỡi này Pasùra!
Ông được gì nơi họ,
Với người không chấp thủ,
Một sự gì tối thượng?
(Kinh Tập, câu kệ 833)
Visenikatvā pana ye carantī ti – Senā vuccati mārasenā: kāyaduccaritaṃ mārasenā, vacīduccaritaṃ mārasenā, manoduccaritaṃ mārasenā, lobho mārasenā, doso mārasenā, moho mārasenā, kodho mārasenā, upanāho mārasenā, makkho paḷāso issā macchariyaṃ māyā sāṭheyyaṃ thambho sārambho māno atimāno mado pamādo, sabbe kilesā sabbe duccaritā sabbe darathā sabbe pariḷāhā sabbe santāpā sabbākusalābhisaṅkhārā mārasenā. Vuttaṃ hetaṃ bhagavatā:
1. “Kāmā te paṭhamā senā dutiyā arati vuccati —pe— jetvā ca labhate sukhan ”ti.
Yato catuhi ariyamaggehi sabbā ca mārasenā sabbe ca paṭisenikarā kilesā jitā ca parājitā ca bhaggā vippaluggā parammukhā tena vuccati visenikatvā ’ti. Ye ti – arahanto khīṇāsavā.
Carantī ti caranti viharanti irīyanti vattenti pālenti yapenti yāpentī ’ti – visenikatvā pana ye caranti.
Diṭṭhīhi diṭṭhiṃ avirujjhamānā ti – Yesaṃ dvāsaṭṭhi diṭṭhigatāni pahīnāni samucchinnāni vūpasantāni paṭippassaddhāni abhabbuppattikāni ñāṇagginā daḍḍhāni, te diṭṭhīhi diṭṭhiṃ avirujjhamānā appaṭivirujjhamānā aghaṭṭiyamānā appaṭihaññamānā appaṭihanamānā ’ti – diṭṭhīhi diṭṭhiṃ avirujjhamānā.
Tesu tvaṃ kiṃ labhetho pasūrā ti – Tesu arahantesu khīṇāsavesu kiṃ labhetho paṭisūraṃ paṭipurisaṃ paṭisattuṃ paṭimallan ’ti – tesu tvaṃ kiṃ labhetho pasūra.
Yesīdha natthi paramuggahitan ti – Yesaṃ arahantānaṃ khīṇāsavānaṃ idaṃ paramaṃ aggaṃ seṭṭhaṃ visiṭṭhaṃ pāmokkhaṃ uttamaṃ pavaranti gahitaṃ parāmaṭṭhaṃ abhiniviṭṭhaṃ ajjhositaṃ adhimuttaṃ natthi na santi na saṃvijjanti nūpalabbhanti, pahīnaṃ samucchinnaṃ vūpasantaṃ paṭippassaddhaṃ abhabbuppattikaṃ ñāṇagginā daḍḍhan ’ti – yesīdha natthi paramuggahītaṃ.
Tenāha bhagavā:
“Visenikatvā na ye caranti diṭṭhīhi diṭṭhiṃ avirujjhamānā, tesu tvaṃ kiṃ labhetho pasūra yesīdha natthi paramuggahītan ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Hơn nữa, sau khi tiêu diệt đạo binh (ô nhiễm), những vị nào sống không chống đối quan điểm (này) bằng các quan điểm (khác), này Pasūra, ngươi có thể đạt được cái gì ở những vị ấy, ở đây là đối với những vị mà điều được ôm giữ là tối thắng (hoàn toàn) không có?”
8.11
Atha tvaṃ pavitakkamāgamo manasā diṭṭhigatāni cintayanto, dhonena yugaṃ samāgamo na hi tvaṃ sakkhasi sampayātave.
Giờ ngươi đã đi đến sự suy xét, trong khi dùng ý suy nghĩ về các tà kiến. Có sự gặp gỡ sánh đôi với vị đã rũ sạch, ngươi quả không có khả năng để đi cùng.
Vậy Ông hãy đi đến,
Suy tư ngẫm nghĩ kỹ,
Với tâm ý suy tư,
Trên những loại tri kiến,
Hãy hoà đồng chung hợp,
Với bậc đã tẩy sạch,
Ông không có thể không
Cùng vị ấy tiến bước.
(Kinh Tập, câu kệ 834)
Atha tvaṃ pavitakkamāgamo ti – Athā ti padasandhi padasaṃsaggo padapāripūrī akkharasamavāyo byañjanasiliṭṭhatā padānupubbatā nāmetaṃ ‘athā ’ti. Pavitakkamāgamo ti takkento vitakkento saṅkappento: ‘Jayo nu kho me bhavissati parājayo nu kho me bhavissati, kathaṃ niggahaṃ karissāmi, kathaṃ paṭikammaṃ karissāmi, kathaṃ visesaṃ karissāmi, kathaṃ paṭivisesaṃ karissāmi, kathaṃ āveṭhiyaṃ karissāmi, kathaṃ nibbeṭhiyaṃ karissāmi, kathaṃ chedaṃ karissāmi, kathaṃ maṇḍalaṃ karissāmī ’ti evaṃ takkento vitakkento saṅkappento āgatosi upāgatosi sampattosi mayā saddhiṃ samāgatosī ’ti – atha tvaṃ pavitakkamāgamo.
Manasā diṭṭhigatāni cintayanto ti – Mano ti yaṃ cittaṃ mano mānasaṃ hadayaṃ paṇḍaraṃ mano manāyatanaṃ manindriyaṃ viññāṇaṃ viññāṇakkhandho tajjā manoviññāṇadhātu. Cittena diṭṭhiṃ cintento vicintento ‘sassato loko ’ti vā ‘asassato loko ’ti vā ―pe― ‘neva hoti na na hoti tathāgato parammaraṇā ’ti vā ’ti – manasā diṭṭhigatāni cintayanto.
Dhonena yugaṃ samāgamo na hi tvaṃ sakkhasi sampayātave ti – Dhonā vuccati paññā, yā paññā pajānanā ―pe― Amoho dhammavicayo sammādiṭṭhi. Kiṃ kāraṇā dhonā vuccati paññā? Tāya paññāya kāyaduccaritaṃ dhutañca dhotañca sandhotañca niddhotañca, vacīduccaritaṃ ―pe― sabbākusalābhisaṅkhārā dhutā na dhotā ca sandhotā ca niddhotā ca. Athavā sammādiṭṭhiyā micchādiṭṭhi sammāsaṅkappena micchāsaṅkappo ―pe― sammāvimuttiyā micchāvimutti dhutā ca dhotā ca sandhotā ca niddhotā ca. Athavā ariyena aṭṭhaṅgikena maggena sabbe kilesā sabbe duccaritā sabbe darathā sabbe pariḷāhā sabbe santāpā sabbākusalābhisaṅkhārā dhutā ca dhotā ca sandhotā ca niddhotā ca. Bhagavā imehi dhoneyyehi dhammehi upeto samupeto upāgato samupāgato upapanno samupapanno samannāgato, tasmā bhagavā dhono. So dhutarāgo dhutapāpo dhutakileso dhutapariḷāho ’ti – dhono.
Dhonena yugaṃ samāgamo na hi tvaṃ sakkhasi sampayātave ti pasūro paribbājako nappaṭibalo dhonena buddhena bhagavatā saddhiṃ yugasamāgamaṃ samāgantvā yugaggāhaṃ gaṇhitvā sākacchetuṃ sallapituṃ sākacchaṃ samāpajjituṃ. Taṃ kissa hetu? Pasūro paribbājako hīno nihīno omako lāmako chattako paritto. So hi bhagavā aggo ca seṭṭho ca visiṭṭho ca pāmokkho ca uttamo ca pavaro ca.
Yathā saso na paṭibalo mattena mātaṅgena saddhiṃ yugasamāgamaṃ samāgantvā yugaggāhaṃ gaṇhituṃ, yathā kotthuko na paṭibalo sīhena migaraññā saddhiṃ yugasamāgamaṃ samāgantvā yugaggāhaṃ gaṇhituṃ, yathā vacchako taruṇako dhenūpako na paṭibalo usabhena calakakunā saddhiṃ yugasamāgamaṃ samāgantvā yugaggāhaṃ gaṇhituṃ, yathā dhaṅko na paṭibalo garuḷena venateyyena saddhiṃ yugasamāgamaṃ samāgantvā yugaggāhaṃ gaṇhituṃ, yathā caṇḍālo na paṭibalo raññā cakkavattinā saddhiṃ yugasamāgamaṃ samāgantvā yugaggāhaṃ gaṇhituṃ, yathā paṃsupisācako na paṭibalo indena devaraññā saddhiṃ yugasamāgamaṃ samāgantvā yugaggāhaṃ gaṇhituṃ, evamevaṃ pasūro paribbājako na paṭibalo dhonena buddhena bhagavatā saddhiṃ yugasamāgamaṃ samāgantvā yugaggāhaṃ gaṇhitvā sākacchetuṃ sallapituṃ sākacchaṃ samāpajjituṃ. Taṃ kissa hetu? Pasūro paribbājako hīnapañño nihīnapañño omakapañño lāmakapañño chattakapañño parittapañño. So hi bhagavā mahāpañño puthupañño hāsupañño javanapañño tikkhapañño nibbedhikapañño paññāpabhedakusalo pabhinnañāṇo adhigatapaṭisambhido catuvesārajjappatto dasabaladhārī purisāsabho purisasīho purisanāgo purisājañño purisadhorayho anantañāṇo anantatejo anantayaso aḍḍho mahaddhano dhanavā netā vinetā anunetā paññapetā nijjhāpetā pekkhetā pasādetā.
So hi bhagavā anuppannassa maggassa uppādetā asañjātassa maggassa sañjanetā anakkhātassa maggassa akkhātā maggaññū maggavidū maggakovido. Maggānugā ca panassa etarahi sāvakā viharanti pacchāsamannāgatā.
So hi bhagavā jānaṃ jānāti, passaṃ passati, cakkhubhūto, ñāṇabhūto, dhammabhūto, brahmabhūto vattā pavattā atthassa ninnetā amatassa dātā dhammassāmi tathāgato. Natthi tassa bhagavato anaññātaṃ adiṭṭhaṃ aviditaṃ asacchikataṃ athassitaṃ paññāya. Atītaṃ anāgataṃ paccuppannaṃ upādāya sabbe dhammā sabbākārena buddhassa bhagavato ñāṇamukhe āpāthaṃ āgacchanti. Yaṃ kiñci ñeyyaṃ nāma atthi dhammaṃ jānitabbaṃ, attattho vā parattho vā ubhayattho vā diṭṭhadhammiko vā attho samparāyiko vā attho [uttāno vā attho] gambhīro vā attho gūḷho vā attho paṭicchanno vā attho neyyo vā attho nīto vā attho anavajjo vā attho nikkileso vā attho vodāno vā attho paramattho vā attho sabbaṃ taṃ anto buddhañāṇe parivattati. Sabbaṃ kāyakammaṃ buddhassa bhagavato ñāṇānuparivatti. Sabbaṃ vacīkammaṃ ñāṇānuparivatti. Sabbaṃ manokammaṃ ñāṇānuparivatti.
Atīte buddhassa bhagavato appaṭihataṃ ñāṇaṃ. Anāgate appaṭihataṃ ñāṇaṃ. Paccuppanne appaṭihataṃ ñāṇaṃ. Yāvatakaṃ ñeyyaṃ, tāvatakaṃ ñāṇaṃ. Yāvatakaṃ ñāṇaṃ, tāvatakaṃ ñeyyaṃ. Ñeyyapariyantikaṃ ñāṇaṃ, ñāṇapariyantikaṃ ñeyyaṃ. Ñeyyaṃ atikkamitvā ñāṇaṃ nappavattati. Ñāṇaṃ atikkamitvā ñeyyapatho natthi. Aññamaññapariyantaṭṭhāyino te dhammā. Yathā dvinnaṃ samuggapaṭalānaṃ sammā phussitānaṃ heṭṭhimaṃ samuggapaṭalaṃ uparimaṃ nātivattati, uparimaṃ samuggapaṭalaṃ heṭṭhimaṃ nātivattati, aññamaññapariyantaṭṭhāyino, evamevaṃ buddhassa bhagavato ñeyyañca ñāṇañca aññamaññapariyantaṭṭhāyino. Yāvatakaṃ ñeyyaṃ, tāvatakaṃ ñāṇaṃ. Yāvatakaṃ ñāṇaṃ, tāvatakaṃ ñeyyaṃ. Ñeyyapariyantikaṃ ñāṇaṃ. Ñāṇapariyantikaṃ ñeyyaṃ. Ñeyyaṃ atikkamitvā ñāṇaṃ nappavattati. Ñāṇaṃ atikkamitvā ñeyyapatho natthi. Aññamaññapariyantaṭṭhāyino te dhammā. Sabbadhammesu buddhassa bhagavato ñāṇaṃ pavattati.
Sabbe dhammā buddhassa bhagavato āvajjanapaṭibaddhā ākaṅkhanapaṭibaddhā manasikārapaṭibaddhā cittuppādapaṭibaddhā. Sabbasattesu buddhassa bhagavato ñāṇaṃ pavattati. Sabbesañca sattānaṃ bhagavā āsayaṃ jānāti, anusayaṃ jānāti, caritaṃ jānāti, adhimuttiṃ jānāti. Apparajakkhe mahārajakkhe tikkhindriye mudindriye svākāre dvākāre suviññāpaye duviññāpaye bhabbābhabbe satte pajānāti. Sadevako loko samārako sabrahmako sassamaṇabrāhmaṇī pajā sadevamanussā anto buddhañāṇe parivattati. Yathā ye keci macchakacchapā antamaso timitimiṅgalaṃ upādāya anto mahāsamudde parivattanti, evameva sadevako loko samārako sabrahmako sassamaṇabrāhmaṇī pajā sadevamanussā anto buddhañāṇe parivattati.
Yathā ye keci pakkhī antamaso garuḷaṃ venateyyaṃ upādāya ākāsassa padese parivattanti, evamevaṃ yepi te sāriputtasamā paññāya, tepi buddhañāṇassa padese parivattanti. Buddhañāṇaṃ devamanussānaṃ paññaṃ pharitvā abhibhavitvā tiṭṭhati yeva. Yepi te khattiyapaṇḍitā brāhmaṇapaṇḍitā gahapatipaṇḍitā samaṇapaṇḍitā nipuṇā kataparappavādā vālavedhirūpā vobhindantā maññe caranti paññāgatena diṭṭhigatāni, te pañhe abhisaṅkharitvā tathāgataṃ upasaṅkamitvā pucchanti gūḷhāni ca paṭicchannāni ca. Kathitā vissajjitāva te pañhā bhagavatā honti niddiṭṭhakāraṇā. Upakkhittakāva te bhagavato sampajjanti. Atha kho bhagavāva tattha atirocati yadidaṃ paññāyā ’ti – dhonena yugaṃ samāgamo na hi tvaṃ sakkhasi sampayātave.
Tenāha bhagavā:
“Atha tvaṃ pavitakkamāgamo manasā diṭṭhigatāni cintayanto, dhonena yugaṃ samāgamo na hi tvaṃ sakkhasi sampayātave ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Giờ ngươi đã đi đến sự suy xét, trong khi dùng ý suy nghĩ về các tà kiến. Có sự gặp gỡ sánh đôi với vị đã rũ sạch,
ngươi quả không có khả năng để đi cùng.”
Pasūrasuttaniddeso aṭṭhamo.
Diễn Giải Kinh Pasūralà thứ tám.
