Kinh Đại Diễn Giải đọc online – Phần II
Thuộc Kinh Tiểu Bộ (Khuddaka Nikàya) | Tạng Kinh (SUTTANTAPITAKA)
Dịch Việt: Tỳ khưu Indacanda và các cộng sự
Nguồn: https://www.tamtangpaliviet.net/ & https://theravada.vn/
Nội dung Kinh Đại Diễn Giải được chia thành 3 phần:
9. MĀGANDIYASUTTANIDDESO – DIỄN GIẢI KINH MĀGANDIYA
9.1
Atha māgandiya suttaniddeso vuccate:
Giờ Diễn Giải Kinh về Māgandiya được nói đến:
Disvāna taṇhaṃ aratiṃ ragañca nāhosi chando api methunasmiṃ, kimevidaṃ muttakarīsapuṇṇaṃ? pādāpi naṃ samphusituṃ na icche.
Sau khi nhìn thấy tham ái, bất mãn, và luyến ái, ngay cả sự mong muốn về việc đôi lứa đã không có. Vật được chứa đầy nước tiểu và phân này là cái gì đây? Ta không muốn chạm đến nó dầu là bàn chân.
(IX) Kinh Màgandiya (SN 163)
Thế Tôn:
Sau khi thấy khát ái,
Bất lạc và tham đắm,
Không thể có ưa muốn,
Ðối với sự dâm dục.
Sao, với bao đầy tràn,
Nước tiểu, phân uế này,
Ta không có ước muốn,
Với chân động chạm nó.
(Kinh Tập, câu kệ 835)
Disvāna taṇhaṃ aratiṃ ragañca nāhosi chando api methunasmin ti taṇhañca aratiñca ragañca māradhītaro disvā passitvā methunadhamme chando vā rāgo vā pemaṃ vā nāhosīti disvāna taṇhaṃ aratiṃ ragañca nāhosi chando api methunasmiṃ.
Sau khi nhìn thấy tham ái, bất mãn, và luyến ái, ngay cả sự mong muốn về việc đôi lứa đã không có: Sau khi nhìn thấy ba người con gái của Ma Vương là Taṇhā, Aratī, và Ragā (tham ái, bất mãn, và luyến ái), sự mong muốn, hoặc luyến ái, hoặc yêu thương về việc đôi lứa đã không hiện hữu; – ‘sau khi nhìn thấy tham ái, bất mãn, và luyến ái, ngay cả sự mong muốn về việc đôi lứa đã không có’ là như thế.
Kimevidaṃ muttakarīsapuṇṇaṃ pādāpi naṃ samphusituṃ na icche ti kimevidaṃ sarīraṃ muttapuṇṇaṃ karīsapuṇṇaṃ semhapuṇṇaṃ rudhirapuṇṇaṃ aṭṭhisaṅghātaṃ nahārusambandhaṃ rudhiramaṃsāvalepanaṃ cammāvanaddhaṃ chaviyā paṭicchannaṃ chiddāvachiddaṃ uggharantaṃ paggharantaṃ kimisaṅghanisevitaṃ nānākalimalaparipūraṃ pādena akkamituṃ na iccheyyaṃ, kuto pana saṃvāso vā samāgamo vā ’ti – kimevidaṃ muttakarīsapuṇṇaṃ pādāpi naṃ samphusituṃ na icche.
Vật được chứa đầy nước tiểu và phân này là cái gì đây? Ta không muốn chạm đến nó dầu là bàn chân: Thân xác này được chứa đầy nước tiểu, được chứa đầy phân, được chứa đầy mủ, được chứa đầy máu, được kết nối bởi những khúc xương, được buộc chung lại bằng những sợi gân, được bôi trét với máu và thịt, được bao bọc bởi lớp da trong, được che đậy bởi lớp da ngoài, được đục thủng ở nhiều lỗ đang rò rỉ bên trên, đang rò rỉ bên dưới, được lai vãng bởi tập thể dòi bọ, được tràn đầy bởi những thứ xấu xa dơ bẩn nhiều loại, là cái gì đây? Ta không muốn đặt bàn chân lên nó, vậy thì làm sao có được sự sống chung hay sự kết hợp với nhau? – ‘Vật được chứa đầy nước tiểu và phân này là cái gì đây? Ta không muốn chạm đến nó dầu là bàn chân’ là như thế.
Tenāha bhagavā:
“Disvāna taṇhaṃ aratiṃ ragañca nāhosi chando api methunasmiṃ, kimevidaṃ muttakarīsapuṇṇaṃ pādāpi naṃ samphusituṃ na icche ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Sau khi nhìn thấy tham ái, bất mãn, và luyến ái, ngay cả sự mong muốn về việc đôi lứa đã không có. Vật được chứa đầy nước tiểu và phân này là cái gì đây? Ta không muốn chạm đến nó dầu là bàn chân.”
9.2
Etādisaṃ ce ratanaṃ na icchasi nāriṃ narindehi bahūhi patthitaṃ, diṭṭhiggataṃ sīlavatānujīvitaṃ bhavūpapattiñca vadesi kīdisaṃ.
Nếu Ngài không ước muốn báu vật như thế này, người nữ được mong ước bởi nhiều vị vua chúa. Về quan điểm, về giới, về phận sự, về cuộc sống, và về sự sanh lên của hiện hữu, Ngài nói theo loại nào?
Màgandiya:
Nếu Ngài không ước muốn:
Ngọc báu như thế này,
Nữ nhân được mong cầu,
Bởi rất nhiều đế vương,
Hãy nói như thế nào,
Là tri kiến của Ngài,
Giới cấm và sinh mạng,
Cùng sự hữu phát sanh.
(Kinh Tập, câu kệ 836)
Anacchariyamevetaṃ manusso yaṃ dibbe kāme patthayanto mānusake kāme na iccheyya, mānusake vā kāme patthayanto dibbe kāme na iccheyya, yaṃ tvaṃ ubhopi na icchasi na sādiyasi na patthesi na pihesi nābhijappasi, kiṃ te dassanaṃ? Katamāya tvaṃ diṭṭhiyā samannāgato ’ti pucchati.
Māgandiya hỏi rằng: ‘Con người trong khi mong ước các dục ở cõi trời thì không ước muốn các dục thuộc loài người, hoặc là trong khi mong ước các dục thuộc loài người thì không ước muốn các dục ở cõi trời, điều này không kỳ lạ chút nào, còn Ngài lại không ước muốn, không ưng thuận, không ước nguyện, không mong cầu, không tham đắm luôn cả hai điều này, vậy quan điểm của Ngài là gì? Ngài có quan điểm thuộc loại nào?’
“Etādisaṃ ce ratanaṃ na icchasi nāriṃ narindehi bahuhi patthitaṃ, diṭṭhiggataṃ sīlavatānujīvitaṃ bhavūpapattiñca vadesi kīdisan ”ti.
“Nếu Ngài không ước muốn báu vật như thế này, người nữ được mong ước bởi nhiều vị vua chúa. Về quan điểm, về giới, về phận sự, về cuộc sống, và về sự sanh lên của hiện hữu, Ngài nói theo loại nào?”
9.3
Idaṃ vadāmīti na tassa hoti (māgandiyā ’ti bhagavā) dhammesu niccheyya samuggahītaṃ, passañca diṭṭhīsu anuggahāya ajjhattasantiṃ pacinaṃ adassaṃ.
(Đức Thế Tôn nói: “Này Māgandiya,) sau khi đã suy xét trong số các pháp (tà kiến), đối với Ta đây không có điều gì đã được ôm giữ (nói rằng): ‘Ta nói điều này.’ Và trong khi nhìn thấy mà không bám níu vào các tà kiến, trong khi tìm tòi, Ta đã nhìn thấy sự an tịnh ở nội phần.” Thế Tôn:
Thế Tôn liền trả lời,
Cho Màgandiya,
Với Ta không có nói,
Ta nói như thế này,
Sau khi quán sát kỹ
Sự chấp thủ trong pháp,
Trong tất cả tri kiến,
Ta không có chấp trước,
Ta thấy sự cất chứa,
Tịch tịnh trong nội tâm.
(Kinh Tập, câu kệ 837)
Idaṃ vadāmīti na tassa hotī ti – Idaṃ vadāmī ti idaṃ vadāmi, etaṃ vadāmi, ettakaṃ vadāmi, ettāvatā vadāmi, idaṃ diṭṭhigataṃ vadāmi ‘Sassato loko ’ti vā ―pe― ‘Neva hoti na na hoti tathāgato parammaraṇā ’ti vā. Na tassa hotī ti – na mayhaṃ hoti ettāvatā vadāmī ti tassa hotī ti – idaṃ vadāmīti na tassa hoti. Māgandiyā ti bhagavā taṃ brāhmaṇaṃ nāmena ālapati. Bhagavā ti gāravādhivacanaṃ ―pe― sacchikā paññatti yadidaṃ bhagavā ti – māgandiyāti bhagavā.
Dhammesu niccheyya samuggahītan ti – Dhammesū ti dvāsaṭṭhidiṭṭhigatesu. Niccheyyā ti nicchinitvā vinicchinitvā vicinitvā pavicinitvā tulayitvā tīrayitvā vibhāvayitvā vibhūtaṃ katvā odhiggāho bilaggāho varaggāho koṭṭhāsaggāho uccayaggāho samuccayaggāho: idaṃ saccaṃ tacchaṃ tathaṃ bhūtaṃ yāthāvaṃ aviparītanti gahitaṃ parāmaṭṭhaṃ abhiniviṭṭhaṃ ajjhositaṃ adhimuttaṃ natthi [na santi] na saṃvijjati nūpalabbhati pahīnaṃ samucchinnaṃ vūpasantaṃ paṭippassaddhaṃ abhabbuppattikaṃ ñāṇagginā daḍḍhan ti – dhammesu niccheyya samuggahītaṃ.
Passañca diṭṭhīsu anuggahāyā ti – diṭṭhīsu ādīnavaṃ passanto diṭṭhiyo na gaṇhāmi na parāmasāmi nābhinivisāmi; athavā, na gaṇhitabbā na parāmasitabbā nābhinivisitabbāti evampi – ‘passañca diṭṭhīsu anuggahāya.’
Athavā, ‘sassato loko, idameva saccaṃ, moghamaññan’ti diṭṭhigatametaṃ diṭṭhigahanaṃ diṭṭhikantāro diṭṭhivisūkāyikaṃ diṭṭhivipphanditaṃ diṭṭhisaṃyojanaṃ sadukkhaṃ savighātaṃ saupāyāsaṃ sapariḷāhaṃ na nibbidāya na virāgāya na nirodhāya na upasamāya na abhiññāya na sambodhāya na nibbānāya saṃvattatīti diṭṭhīsu ādīnavaṃ passanto diṭṭhiyo na gaṇhāmi na parāmasāmi nābhinivisāmi; athavā, na gaṇhitabbā na parāmasitabbā nābhinivisitabbāti evampi – ‘passañca diṭṭhīsu anuggahāya.’
Athavā, ‘asassato loko, antavā loko, anantavā loko, taṃ jīvaṃ taṃ sarīraṃ, aññaṃ jīvaṃ aññaṃ sarīraṃ, hoti tathāgato parammaraṇā, na hoti tathāgato parammaraṇā, hoti ca na ca hoti tathāgato parammaraṇā, neva hoti na na hoti tathāgato parammaraṇā, idameva saccaṃ, moghamaññan’ti diṭṭhigatametaṃ diṭṭhigahanaṃ diṭṭhikantāro diṭṭhivisūkāyikaṃ diṭṭhivipphanditaṃ diṭṭhisaññojanaṃ sadukkhaṃ savighātaṃ saupāyāsaṃ sapariḷāhaṃ na nibbidāya na virāgāya na nirodhāya na upasamāya na abhiññāya na sambodhāya na nibbānāya saṃvattatīti diṭṭhīsu ādīnavaṃ passanto diṭṭhiyo na gaṇhāmi, na parāmasāmi, nābhinivisāmi; athavā, na gaṇhitabbā na parāmasitabbā nābhinivisitabbāti evampi – ‘passañca diṭṭhīsu anuggahāya.’
Athavā, imā diṭṭhiyo evaṃ gahitā evaṃ parāmaṭṭhā evaṃgatikā bhavissanti evaṃ abhisamparāyāti diṭṭhīsu ādīnavaṃ passanto diṭṭhiyo na gaṇhāmi, na parāmasāmi, nābhinivisāmi; athavā, na gaṇhitabbā na parāmasitabbā nābhinivisitabbāti evampi – ‘passañca diṭṭhīsu anuggahāya.’
Athavā, imā diṭṭhiyo nirayasaṃvattanikā tiracchānayonisaṃvattanikā pettivisayasaṃvattanikāti diṭṭhīsu ādīnavaṃ passanto diṭṭhiyo na gaṇhāmi, na parāmasāmi, nābhinivisāmi; athavā, na gaṇhitabbā na parāmasitabbā nābhinivisitabbāti evampi – ‘passañca diṭṭhīsu anuggahāya.’
Athavā, imā diṭṭhiyo aniccā saṅkhatā paṭiccasamuppannā khayadhammā vayadhammā virāgadhammā nirodhadhammāti diṭṭhīsu ādīnavaṃ passanto diṭṭhiyo na gaṇhāmi, na parāmasāmi, nābhinivisāmi. Athavā, na gaṇhitabbā na parāmasitabbā nābhinivisitabbāti evampi – ‘passañca diṭṭhīsu anuggahāya.’
Ajjhattasantiṃ pacinaṃ adassan ti – Ajjhattasantin ti ajjhattaṃ rāgassa santiṃ dosassa santiṃ mohassa santiṃ kodhassa – upanāhassa – makkhassa – paḷāsassa – issāya – macchariyassa – māyāya – sāṭheyyassa – thambhassa – sārambhassa – mānassa – atimānassa – madassa – pamādassa sabbakilesānaṃ – sabbaduccaritānaṁ – sabbadarathānaṁ – sabbapariḷāhānaṁ – sabbasantāpānaṁ – sabbākusalābhisaṅkhārānaṃ santiṃ upasantiṃ vūpasantiṃ nibbutiṃ paṭippassaddhiṃ.
Pacinan ti pacinanto vicinanto pavicinanto tulayanto tīrayanto vibhāvayanto vibhūtaṃ karonto; ‘sabbe saṅkhārā aniccā ’ti pacinanto vicinanto pavicinanto tulayanto tīrayanto vibhāvayanto vibhūtaṃ karonto; ‘sabbe saṅkhārā dukkhā ’ti ―pe― ‘sabbe dhammā anattā ’ti pacinanto vicinanto pavicinanto tulayanto tīrayanto vibhāvayanto vibhūtaṃ karonto; ‘yaṃ kiñci samudayadhammaṃ sabbantaṃ nirodhadhamman ’ti pacinanto vicinanto pavicinanto tulayanto tīrayanto vibhāvayanto vibhūtaṃ karonto.
Adassan ti adassaṃ adakkhi apassiṃ paṭivijjhin ’ti – ‘ajjhattasantiṃ pacinaṃ adassaṃ.’
Tenāha bhagavā:
“Idaṃ vadāmīti na tassa hoti (māgandiyā ’ti bhagavā) dhammesu niccheyya samuggahītaṃ, passañca diṭṭhīsu anuggahāya ajjhattasantiṃ pacinaṃ adassan ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
(Đức Thế Tôn nói rằng: “Này Māgandiya,) sau khi đã suy xét trong số các pháp (tà kiến), đối với Ta đây không có điều gì đã được ôm giữ (nói rằng): ‘Ta nói điều này.’ Và trong khi nhìn thấy mà không bám níu vào các tà kiến, trong khi tìm tòi, Ta đã nhìn thấy sự an tịnh ở nội phần.”
9.4
Vinicchayā yāni pakappitāni (iti māgandiyo) te ve muni brūsi anuggahāya, ajjhattasantīti yametamatthaṃ kathannu dhīrehi paveditaṃ taṃ.
(Māgandiya nói rằng:) “Các phán đoán nào đã được xếp đặt, này bậc hiền trí, ngài nói về chính chúng mà không bám níu. Điều nào có ý nghĩa là ‘sự an tịnh ở nội phần,’ điều ấy đã được tuyên bố thế nào bởi các bậc sáng trí?”
Màgandiya:
Màgandiya nói:
Các lý thuyết quyết định,
Ngài nói vị ẩn sĩ,
Không nắm giữ thuyết nào.
Còn về ý nghĩa này,
Của hai chữ nội tịnh,
Thế nào là bậc Hiền trí,
Hiểu biết hai chữ ấy?
(Kinh Tập, câu kệ 838)
Vinicchayā yāni pakappitānī ti – Vinicchayā vuccanti dvāsaṭṭhi diṭṭhigatāni. Pakappitānī ti kappitā pakappitā abhisaṅkhatā saṇṭhapitātipi pakappitāni; athavā, aniccā saṅkhatā paṭiccasamuppannā khayadhammā vayadhammā virāgadhammā nirodhadhammā vipariṇāmadhammātipi pakappitānīti – ‘vinicchayā yāni pakappitāni.’ Iti māgandiyo ti – Itī ti padasandhi padasaṃsaggo padapāripūri akkharasamavāyo byañjanasiliṭṭhatā padānupubbatā nāmetaṃ ‘itī ’ti. Māgandiyo ti tassa brāhmaṇassa nāmaṃ saṅkhā samaññā paññatti vohāro ’ti – ‘iti māgandiyo.’
Te ve muni brūsi anuggahāya ajjhattasantīti yametamatthan ti – Te ve ti dvāsaṭṭhi diṭṭhigatāni. Munī ti monaṃ vuccati ñāṇaṃ ―pe― saṅgajālamaticca so munīti. Anuggahāyā ti diṭṭhīsu ādīnavaṃ passanto diṭṭhiyo na gaṇhāmi na parāmasāmi nābhinivisāmīti ca bhaṇasi ajjhattasantīti ca bhaṇasi. Yametamatthan ti yaṃ paramatthanti – ‘te ve muni brūsi anuggahāya ajjhattasantī ’ti – ‘yametamatthaṃ.’
Kathannu dhīrehi paveditaṃ tan ti – Kathannū ti padaṃ saṃsayapucchā vimatipucchā dveḷhakapucchā anekaṃsapucchā, evannu kho na nu kho kinnu kho kathannu kho ’ti – ‘kathannu.’ Dhīrehī ti dhīrehi paṇḍitehi paññāvantehi buddhimantehi ñāṇīhi vibhāvīhi medhāvīhi. Paveditanti veditaṃ paveditaṃ ācikkhitaṃ desitaṃ paññāpitaṃ paṭṭhapitaṃ vibhattaṃ uttānīkataṃ pakāsitan ’ti – ‘kathannu dhīrehi paveditaṃ taṃ.’
Tenāha so brāhmaṇo:
“Vinicchayā yāni pakappitāni (iti māgandiyo) te ve muni brūsi anuggahāya, ajjhattasantīti yametamatthaṃ kathannu dhīrehi paveditaṃ tan ”ti.
Vì thế, vị Bà-la-môn đã nói rằng:
(Māgandiya nói rằng:) “Các phán đoán nào đã được xếp đặt, này bậc hiền trí, ngài nói về chính chúng mà không bám níu. Điều nào có ý nghĩa là ‘sự an tịnh ở nội phần,’ điều ấy đã được tuyên bố thế nào bởi các bậc sáng trí?”
9.5
Na diṭṭhiyā na sutiyā na ñāṇena (māgandiyā ’ti bhagavā) sīlabbatenāpi na suddhimāha, adiṭṭhiyā assutiyā añāṇā asīlatā abbatā nopi tena. ete ca nissajja anuggahāya santo anissāya bhavaṃ na jappe.
(Đức Thế Tôn nói: “Này Māgandiya,) người ta đã nói rằng sự trong sạch không phải do kiến, không phải do nghe, không phải do trí, không phải do giới và phận sự, cũng không phải do (không có) điều ấy là do không kiến, do không nghe, do không trí, do không giới, do không phận sự. Và sau khi không nương tựa, không bám níu vào các điều này, được an tịnh, không lệ thuộc, không còn tham muốn hữu.”
Thế Tôn:
Thế Tôn nói như sau:
Này Màgandiya,
Không phải từ tri kiến,
Từ truyền thống, từ trí,
Không phải từ giới cấm,
Thanh tịnh được đem đến.
Người ta nói như vậy,
Nhưng cũng không phải là
Không kiến, không truyền thống,
Không trí, không giới cấm,
Từ bỏ tất cả chúng,
Không chấp thủ sự gì,
Bậc thiện không y chỉ,
Không ước muốn sanh hữu.
(Kinh Tập, câu kệ 839)
Na diṭṭhiyā na sutiyā na ñāṇenā ti – diṭṭhiyāpi suddhiṃ visuddhiṃ parisuddhiṃ muttiṃ vimuttiṃ parimuttiṃ nāha na kathemi na bhaṇāmi na dīpayāmi na voharāmi; sutiyāpi suddhiṃ visuddhiṃ parisuddhiṃ muttiṃ vimuttiṃ parimuttiṃ nāha, na kathemi na bhaṇāmi na dīpayāmi na voharāmi; diṭṭhiyā sutiyāpi suddhiṃ visuddhiṃ parisuddhiṃ muttiṃ vimuttiṃ parimuttiṃ nāha na kathemi na bhaṇāmi dīpayāmi na voharāmi; ñāṇenapi suddhiṃ visuddhiṃ parisuddhiṃ muttiṃ vimuttiṃ parimuttiṃ nāha na kathemi na bhaṇāmi na dīpayāmi na voharāmī ’ti – na diṭṭhiyā na sutiyā na ñāṇena. Māgandiyāti bhagavā ti – Māgandiyā ti bhagavā taṃ brāhmaṇaṃ nāmena ālapati. Bhagavā ti gāravādhivacanaṃ ―pe― sacchikā paññatti yadidaṃ bhagavā ti – ‘māgandiyāti bhagavā.’
Sīlabbatenāpi na suddhimāhā ti – sīlenapi suddhiṃ visuddhiṃ parisuddhiṃ muttiṃ vimuttiṃ parimuttiṃ nāha na kathemi na bhaṇāmi na dīpayāmi na voharāmi; vatenapi suddhiṃ visuddhiṃ parisuddhiṃ muttiṃ vimuttiṃ parimuttiṃ nāha na kathemi na bhaṇāmi na dīpayāmi na voharāmi; sīlabbatenāpi suddhiṃ visuddhiṃ parisuddhiṃ muttiṃ vimuttiṃ parimuttiṃ nāha na kathemi na bhaṇāmi na dīpayāmi na voharāmī ’ti – ‘sīlabbatenāpi na suddhimāha.’
Adiṭṭhiyā assutiyā añāṇā asīlatā abbatā nopi tenā ti – Diṭṭhipi icchitabbā dasavatthukā sammādiṭṭhi: atthi dinnaṃ, atthi yiṭṭhaṃ, atthi hutaṃ, atthi sukaṭadukkaṭānaṃ kammānaṃ phalaṃ vipāko, atthi ayaṃ loko, atthi paro loko, atthi mātā, atthi pitā, atthi sattā opapātikā, atthi loke samaṇabrāhmaṇā sammaggatā sammāpaṭipannā ye imañca lokaṃ parañca lokaṃ sayaṃ abhiññā sacchikatvā pavedentīti. Savaṇampi icchitabbaṃ parato ghoso: suttaṃ geyyaṃ veyyākaraṇaṃ gāthā udānaṃ itivuttakaṃ jātakaṃ abbhutadhammaṃ vedallaṃ. Ñāṇampi icchitabbaṃ: kammassakataṃ ñāṇaṃ saccānulomikaṃ ñāṇaṃ, abhiññā ñāṇaṃ samāpattiyā ñāṇaṃ. Sīlampi icchitabbaṃ: pātimokkhasaṃvaro. Vatampi icchitabbaṃ: aṭṭha dhutaṅgāni āraññikaṅgaṃ piṇḍapātikaṅgaṃ paṃsukūlikaṅgaṃ tecīvarikaṅgaṃ sapadānacārikaṅgaṃ khalupacchābhattikaṅgaṃ nesajjikaṅgaṃ yathāsanthatikaṅgan ’ti – ‘adiṭṭhiyā assutiyā añāṇā asīlatā abbatā.’ Nopi tenā ti nāpi sammādiṭṭhimattena nāpi savaṇamattena nāpi ñāṇamattena nāpi sīlamattena nāpi vatamattena ajjhattasantiṃ patto hoti. Napi vinā etehi dhammehi ajjhattasantiṃ pāpuṇāti. Apica, sambhārā ime dhammā honti ajjhattasantiṃ pāpuṇituṃ adhigantuṃ phusituṃ sacchikātun ’ti – ‘adiṭṭhiyā assutiyā añāṇā asīlatā abbatā nopi tena.’
Ete ca nissajja anuggahāyā ti – Ete ti kaṇhapakkhikānaṃ dhammānaṃ samugghātato pahānaṃ icchitabbaṃ, tedhātukesu kusalesu dhammesu atammayatā icchitabbā, yato kaṇhapakkhiyā dhammā samugghātappahānena pahīnā honti ucchinnamūlā tālāvatthukatā anabhāvakatā āyatiṃ anuppādadhammā, tedhātukesu ca kusalesu dhammesu atammayatā hoti. Ettāvatāpi na gaṇhāti, na parāmasati, nābhinivisati. Athavā, na gaṇhitabbā na parāmasitabbā nābhinivisitabbāti evampi ‘ete ca nissajja anuggahāya.’ Yato taṇhā ca diṭṭhi ca māno ca pahīnā honti ucchinnamūlā tālāvatthukatā4 anabhāvakatā āyatiṃ anuppādadhammā, ettāvatāpi na gaṇhāti na parāmasati nābhinivisatīti evampi – ‘ete ca nissajja anuggahāya.’ Yato puññābhisaṅkhāro ca apuññābhisaṅkhāro ca āneñjābhisaṅkhāro ca pahīnā honti ucchinnamūlā tālāvatthukatā anabhāvakatā āyatiṃ anuppādadhammā, ettāvatāpi na gaṇhāti na parāmasati nābhinivisatīti evampi – ‘ete ca nissajja anuggahāya.’
Santo anissāya bhavaṃ na jappe ti – Santo ti rāgassa samitattā santo, dosassa samitattā santo, mohassa samitattā santo, kodhassa – upanāhassa makkhassa – paḷāsassa – issāya – macchariyassa māyāya – sāṭheyyassa – thambhassa – sārambhassa – mānassa – atimānassa madassa – pamādassa – sabbakilesānaṃ – sabbaduccaritānaṃ – sabbadarathānaṃ sabbapariḷāhānaṃ sabbasantāpānaṃ – sabbākusalābhisaṅkhārānaṃ santattā samitattā vūpasamitattā vijjhātattā nibbutattā vigatattā paṭippassaddhattā santo upasanto vūpasanto nibbuto paṭippassaddho ’ti – ‘santo.’
Anissāyā ti – Dve nissayā: taṇhānissayo ca diṭṭhinissayo ca. ―pe― ayaṃ taṇhānissayo ―pe― ayaṃ diṭṭhinissayo. Taṇhānissayaṃ pahāya diṭṭhinissayaṃ paṭinissajitvā cakkhuṃ anissāya sotaṃ anissāya ghānaṃ anissāya jivhaṃ anissāya kāyaṃ anissāya manaṃ nissāya rūpe sadde gandhe rase phoṭṭhabbe dhamme tulaṃ gaṇaṃ āvāsaṃ lābhaṃ yasaṃ pasaṃsaṃ sukhaṃ cīvaraṃ piṇḍapātaṃ senāsanaṃ gilānapaccayabhesajjaparikkhāraṃ kāmadhātuṃ rūpadhātuṃ arūpadhātuṃ kāmabhavaṃ rūpabhavaṃ arūpabhavaṃ saññābhavaṃ asaññābhavaṃ nevasaññānāsaññābhavaṃ ekavokārabhavaṃ catuvokārabhavaṃ pañcavokārabhavaṃ atītaṃ anāgataṃ paccuppannaṃ diṭṭhasutamutaviññātabbe dhamme anissāya agaṇhitvā aparāmasitvā anabhinivisitvā ’ti – ‘santo anissāya.’
Bhavaṃ na jappe ti – kāmabhavaṃ na jappeyya, rūpabhavaṃ na jappeyya, arūpabhavaṃ na jappeyya, nappajappeyya, na abhijappeyyā ’ti – ‘santo anissāya bhavaṃ na jappe.’
Tenāha bhagavā:
Na diṭṭhiyā na sutiyā na ñāṇena (māgandiyā ’ti bhagavā) sīlabbatenāpi na suddhimāha, adiṭṭhiyā assutiyā añāṇā asīlatā abbatā nopi tena. ete ca nissajja anuggahāya santo anissāya bhavaṃ na jappe.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
(Đức Thế Tôn nói: “Này Māgandiya,) người ta đã nói rằng sự trong sạch không phải do kiến, không phải do nghe, không phải do trí, không phải do giới và phận sự, cũng không phải do (không có) điều ấy là do không kiến, do không nghe, do không trí, do không giới, do không phận sự. Và sau khi không nương tựa, không bám níu vào các điều này, được an tịnh, không lệ thuộc, không còn tham muốn hữu.”
9.6
No ce kira diṭṭhiyā na sutiyā na ñāṇena (iti māgandiyo ) sīlabbatenāpi na suddhimāha, adiṭṭhiyā assutiyā añāṇā asīlatā abbatā nopi tena. maññāmahaṃ momūhameva dhammaṃ diṭṭhiyā eke paccenti suddhiṃ.
(Māgandiya nói rằng:) “Nếu nói rằng sự trong sạch không phải do kiến, không phải do nghe, không phải do trí, không phải do giới và phận sự, cũng không phải do (không có) điều ấy là do không kiến, do không nghe, do không trí, do không giới, do không phận sự, tôi nghĩ rằng giáo lý (ấy) thật mù mờ; một số người tin rằng trong sạch là do kiến.”
Màgandiya:
Màgandiya nói:
Nếu không từ tri kiến,
Từ truyền thống, từ trí,
Không phải từ giới cấm,
Thanh tịnh được đưa đến.
Người ta nói như vậy,
Cũng không phải không kiến,
Không truyền thống, không trí,
Không giới luật giới cấm,
Thanh tịnh được đem đến
Con nghĩ rằng pháp vậy,
Là pháp kẻ ngu si,
Vì rằng thật có người,
Nhờ kiến đến thanh tịnh.
(Kinh Tập, câu kệ 840)
No ce kira diṭṭhiyā na sutiyā na ñāṇenā ti – Diṭṭhiyāpi suddhiṃ visuddhiṃ parisuddhiṃ muttiṃ vimuttiṃ parimuttiṃ n’ āha na kathesi na bhaṇasi na dīpayasi na voharasi. Sutenapi suddhiṃ visuddhiṃ parisuddhiṃ muttiṃ vimuttiṃ parimuttiṃ – Diṭṭhasutenapi suddhiṃ visuddhiṃ parisuddhiṃ muttiṃ vimuttiṃ parimuttiṃ – Ñāṇenapi suddhiṃ visuddhiṃ parisuddhiṃ muttiṃ vimuttiṃ parimuttiṃ n’ āha na kathesi na bhaṇasi na dīpayasi na voharasī ’ti – ‘no ce kira diṭṭhiyā na sutiyā na ñāṇena.’ Iti māgandiyo ti – Itī ti padasandhi ―pe― Māgandiyo ti tassa brāhmaṇassa nāmaṃ ―pe― ‘iti māgandiyo.’
Sīlabbatenāpi na suddhimāhā ti – Sīlenapi suddhiṃ visuddhiṃ parisuddhiṃ ―pe― vatenapi suddhiṃ visuddhiṃ parisuddhiṃ ―pe― sīlabbatenāpi suddhiṃ visuddhiṃ parisuddhiṃ muttiṃ vimuttiṃ parimuttiṃ n ’āha na kathesi na bhaṇasi na dīpayasi na voharasī ’ti – ‘sīlabbatenāpi na suddhimāha.’
Adiṭṭhiyā assutiyā añāṇā asīlatā abbatā nopi tenā ti diṭṭhipi icchitabbāti evaṃ bhaṇasi; savaṇampi icchitabbanti evaṃ bhaṇasi; ñāṇampi icchitabbanti evaṃ bhaṇasi; sīlampi icchitabbanti evaṃ bhaṇasi; vatampi icchitabbanti evaṃ bhaṇasi. Na sakkosi ekaṃsena anujānituṃ na sakkosi ekaṃsena paṭikkhipitun ’ti – ‘adiṭṭhiyā assutiyā añāṇā asīlatā abbatā nopi tena.’
Maññāmahaṃ momūhameva dhamman ti – Momūhadhammo ayaṃ tuyhaṃ bāladhammo mūḷhadhammo aññāṇadhammo amarāvikkhepadhammoti evaṃ maññāmi evaṃ jānāmi evaṃ ājānāmi evaṃ vijānāmi evaṃ paṭivijānāmi evaṃ paṭivijjhāmī ’ti – ‘maññāmahaṃ momūhameva dhammaṃ.’
Diṭṭhiyā eke paccenti suddhin ti – Diṭṭhiyā eke samaṇabrāhmaṇā suddhiṃ visuddhiṃ parisuddhiṃ muttiṃ vimuttiṃ parimuttiṃ paccenti: ‘Sassato loko, idameva saccaṃ, moghamaññan ’ti diṭṭhiyā eke samaṇabrāhmaṇā suddhiṃ visuddhiṃ parisuddhiṃ muttiṃ vimuttiṃ parimuttiṃ paccenti. ‘Asassato loko, ―pe― ‘Neva hoti na na hoti tathāgato parammaraṇā, idameva saccaṃ moghamaññan ’ti diṭṭhiyā eke samaṇabrāhmaṇā suddhiṃ visuddhiṃ parisuddhiṃ muttiṃ vimuttiṃ parimuttiṃ paccentī ’ti – ‘diṭṭhiyā eke paccenti suddhiṃ.’
Tenāha so brāhmaṇo:
“No ce kira diṭṭhiyā na sutiyā na ñāṇena (iti māgandiyo) sīlabbatenāpi na suddhimāha, adiṭṭhiyā assutiyā añāṇā
asīlatā abbatā nopi tena. maññāmahaṃ momūhameva dhammaṃ diṭṭhiyā eke paccenti suddhin ”ti.
Vì thế, vị Bà-la-môn đã nói rằng:
(Māgandiya nói rằng:) “Nếu nói rằng sự trong sạch không phải do kiến, không phải do nghe, không phải do trí, không phải do giới và phận sự, cũng không phải do (không có) điều ấy là do không kiến, do không nghe, do không trí, do không giới, do không phận sự, tôi nghĩ rằng giáo lý (ấy) thật mù mờ; một số người tin rằng trong sạch là do kiến.”
9.7
Diṭṭhiñca nissāya anupucchamāno (māgandiyā ’ti bhagavā) samuggahītesu pamohamāgato , ito ca nāddakkhi aṇumpi saññaṃ tasmā tuvaṃ momūhato dahāsi.
(Đức Thế Tôn nói: “Này Māgandiya,) sau khi nương tựa vào kiến, trong khi tìm hiểu, ngươi đã đi đến sự mê muội ở những điều đã được nắm bắt. Và từ đây ngươi đã không tiếp thâu sự nhận thức dầu là nhỏ nhoi; do đó ngươi ghi nhận (điều ấy) là mù mờ.”
Thế Tôn:
Thế Tôn nói như sau:
Này Màgandiya,
Nếu y vẫn tri kiến,
Ông còn tiếp tục hỏi,
Chính do những chấp thủ,
Ði đến sự ngu si,
Từ đó, Ông không thấy,
Một chút gì về tưởng,
Do vậy, Ông chớ thấy,
Tất cả là ngu si.
(Kinh Tập, câu kệ 841)
Diṭṭhiñca nissāya anupucchamāno ti – māgandiyo brāhmaṇo diṭṭhiṃ nissāya diṭṭhiṃ pucchati, lagganaṃ nissāya lagganaṃ pucchati, bandhanaṃ nissāya bandhanaṃ pucchati, paḷibodhaṃ nissāya paḷibodhaṃ pucchati. Anupucchamāno ti punappunaṃ pucchatī ’ti – ‘diṭṭhiñca nissāya anupucchamāno.’ Māgandiyā ti bhagavā taṃ brāhmaṇaṃ nāmena ālapati. Bhagavā ti – gāravādhivacanaṃ ―pe― sacchikāpaññatti yadidaṃ bhagavā ’ti – ‘māgandiyāti bhagavā.’
Samuggahītesu pamohamāgato ti – yā sā diṭṭhi tayā gahitā parāmaṭṭhā abhiniviṭṭhā ajjhositā adhimuttā, tāyeva tvaṃ diṭṭhiyā mūḷhosi pamūḷhosi sammūḷhosi mohaṃ āgatosi pamohaṃ āgatosi sammohaṃ āgatosi andhakāraṃ pakkhannosī ’ti – ‘samuggahītesu pamohamāgato.’
Ito ca nāddakkhi aṇumpi saññan ti – ito ajjhattasantito vā paṭipadāto vā dhammadesanāto vā yuttasaññaṃ vā pattasaññaṃ vā lakkhaṇasaññaṃ vā kāraṇasaññaṃ vā ṭhānasaññaṃ vā nappaṭilabhasi kuto ñāṇanti evampi – ‘ito ca nāddakkhi aṇumpi saññaṃ.’ Athavā, aniccaṃ vā aniccasaññānulomaṃ vā, dukkhaṃ vā dukkhasaññānulomaṃ vā, anattaṃ vā anattasaññānulomaṃ vā, saññuppādamattaṃ vā saññānimittaṃ vā nappaṭilabhasi, kuto ñāṇanti evampi – ‘ito ca nāddakkhi aṇumpi saññaṃ.’
Tasmā tuvaṃ momūhato dahāsī ti – Tasmā ti tasmā taṃkāraṇā taṃhetu tappaccayā tannidānā. Momūhadhammato bāladhammato mūḷhadhammato aññāṇa dhammato amarāvikkhepadhammato dahāsi passasi dakkhasi olokesi nijjhāyasi upaparikkhasī ’ti – ‘tasmā tuvaṃ momūhato dahāsī ’ti.
Tenāha bhagavā:
“Diṭṭhiñca nissāya anupucchamāno (māgandiyā ’ti bhagavā) samuggahītosi pamohamāgato, ito ca nāddakkhi aṇumpi saññaṃ tasmā tuvaṃ momūhato dahāsī ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
(Đức Thế Tôn nói: “Này Māgandiya,) sau khi nương tựa vào kiến, trong khi tìm hiểu, ngươi đã đi đến sự mê muội ở những điều đã được nắm bắt. Và từ đây ngươi đã không tiếp thâu sự nhận thức dầu là nhỏ nhoi; do đó ngươi ghi nhận (điều ấy) là mù mờ.”
9.8
Samo visesī udavā nihīno yo maññati so vivadetha tena. tīsu vidhāsu avikampamāno samo visesīti na tassa hoti.
Bằng nhau, đặc biệt, hoặc thấp hèn,
kẻ nào nghĩ vậy, kẻ ấy sẽ tranh cãi vì điều ấy.
Người không dao động ở ba trạng thái kiêu mạn ấy,
đối với người ấy không có (ý nghĩ): ‘bằng nhau’ hay ‘đặc biệt.’
Bằng ta thắng hơn ta,
Hay thấp kém hơn ta,
Ai suy nghĩ như vậy,
Do vậy đấu tranh khởi,
Ai không bị dao động
Bởi ba vấn đề ấy,
Như vậy, đối vị ấy,
Không bằng, không thù thắng.
(Kinh Tập, câu kệ 842)
Samo visesī udavā nihīno yo maññati so vivadetha tenā ti – ‘Sadisohamasmī ’ti vā ‘seyyohamasmī ’ti vā ‘hīno hamasmī ’ti vā yo maññati, so tena mānena tāya diṭṭhiyā tena vā puggalena kalahaṃ kareyya bhaṇḍanaṃ kareyya viggahaṃ kareyya vivādaṃ kareyya medhagaṃ kareyya: “Na tvaṃ imaṃ dhammavinayaṃ ājānāsi, ahaṃ imaṃ dhammavinayaṃ ājānāmi. Kiṃ tvaṃ imaṃ dhammavinayaṃ ājānissasi? Micchāpaṭipanno tvamasi, ahamasmi sammāpaṭipanno, sahitamme, asahitante, pure vacanīyaṃ pacchā avaca, pacchā vacanīyaṃ pure avaca, āciṇṇante viparāvattaṃ, āropito te vādo, niggahītosi, cara vādappamokkhāya, nibbeṭhehi sace pahosī ’ti – ‘samo visesī udavā nihīno yo maññati so vivadetha tena.’
Tīsu vidhāsu avikampamāno samo visesīti na tassa hotī ti – Yassetā tisso vidhā pahīnā samucchinnā vūpasantā paṭippassaddhā abhabbuppattikā ñāṇagginā daḍḍhā, so tīsu vidhāsu na kampati na vikampati; avikampamānassa puggalassa ‘sadisohamasmī ’ti vā ‘seyyohamasmī ’ti vā ‘hīnohamasmī ’ti vā na tassa hotī ti na mayhaṃ hotī ’ti – ‘tīsu vidhāsu avikampamāno samo visesīti na tassa hoti.’
Tenāha bhagavā:
“Samo visesī udavā nihīno yo maññati so vivadetha tena. tīsu vidhāsu avikampamāno samo visesīti na tassa hotī ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Bằng nhau, đặc biệt, hoặc thấp hèn,
kẻ nào nghĩ vậy, kẻ ấy sẽ tranh cãi vì điều ấy.
Người không dao động ở ba trạng thái kiêu mạn ấy,
đối với người ấy không có (ý nghĩ): ‘bằng nhau’ hay ‘đặc biệt.’”
9.9
Saccanti so brāhmaṇo kiṃ vadeyya musāti vā so vivadetha kena, yasmiṃ samaṃ visamaṃ vāpi natthi sa kena vādaṃ paṭisaṃyujeyya.
Vị Bà-la-môn ấy có thể nói gì (cho rằng): ‘Đây là sự thật’?
Hoặc vị ấy có thể tranh cãi với ai rằng: ‘Đây là sai trái’?
Ở vị nào (ý niệm so sánh) bằng nhau hay không bằng nhau là không có,
vị ấy có thể vướng víu vào sự tranh luận với ai đây?
Sao Bà-la-môn ấy
Lại nói: “Ðây sự thật “,
Ðây chính là nói láo,
Ðể gây nên tranh luận,
Với ai không hề có,
Bằng nhau, không bằng nhau.
Do đâu nó có thể,
Mắc vào tranh luận được.
(Kinh Tập, câu kệ 843)
Saccanti so brāhmaṇo kiṃ vadeyyā ti – Brāhmaṇo ti sattannaṃ dhammānaṃ bāhitattā brāhmaṇo ―pe― Asito tādī pavuccate sa brahmā. Saccanti so brāhmaṇo kiṃ vadeyyā ti – ‘Sassato loko, idameva saccaṃ, moghamaññan ’ti brāhmaṇo kiṃ vadeyya, kiṃ katheyya, kiṃ bhaṇeyya, kiṃ vohareyya? ‘Asassato loko ―pe― Neva hoti na na hoti tathāgato parammaraṇā, idameva saccaṃ, moghamaññan ’ti brāhmaṇo kiṃ vadeyya, kiṃ katheyya, kiṃ bhaṇeyya, kiṃ dīpayeyya, kiṃ vohareyya cā ’ti? – ‘saccanti so brāhmaṇo kiṃ vadeyya.’
Vị Bà-la-môn ấy có thể nói gì (cho rằng): ‘Đây là sự thật’? – Bà-la-môn do trạng thái đã loại trừ bảy pháp:[1] ―như trên― Không bị lệ thuộc, tự tại, vị ấy được gọi là Bà-la-môn. Vị Bà-la-môn ấy có thể nói gì (cho rằng): ‘Đây là sự thật’? – Vị Bà-la-môn có thể nói gì, có thể thuyết gì, có thể phát ngôn gì, có thể diễn giải gì, có thể diễn tả gì (cho rằng): ‘Thế giới là thường còn; chính điều này là chân lý, điều khác là rồ dại’? Và vị Bà-la-môn có thể nói gì, có thể thuyết gì, có thể phát ngôn gì, có thể diễn giải gì, có thể diễn tả gì (cho rằng): ‘Thế giới là không thường còn, —như trên— đức Như Lai không hiện hữu và không phải là không hiện hữu ở nơi khác sau khi chết; chính điều này là chân lý, điều khác là rồ dại’ – Vị Bà-la-môn ấy có thể nói gì (cho rằng): ‘Đây là sự thật’? – là như thế.
[1] Xem bảy pháp ở trang 121.
Musāti vā so vivadetha kenā ti – Brāhmaṇo ‘mayhaṃva saccaṃ, tuyhaṃ musā ’ti kena mānena kāya diṭṭhiyā kena vā puggalena kalahaṃ kareyya bhaṇḍanaṃ kareyya viggahaṃ kareyya vivādaṃ kareyya medhagaṃ kareyya: ‘Na tvaṃ imaṃ dhammavinayaṃ ājānāsi ―pe― nibbeṭhehi vā sace pahosī ’ti – ‘musāti vā so vivadetha kena.’
Hoặc vị ấy có thể tranh cãi với ai rằng: ‘Đây là sai trái’? (Nghĩ rằng): ‘Sự thật thuộc về chính ta, sai trái thuộc về ngươi,’ do ngã mạn ấy, do quan điểm ấy, vị Bà-la-môn thực hiện sự cãi cọ, thực hiện sự xung đột, thực hiện sự tranh luận, thực hiện sự tranh cãi, thực hiện sự gây gỗ với người kia rằng: ‘Ngươi không biết Pháp và Luật này —như trên— hoặc ngươi hãy gỡ rối nếu ngươi có khả năng’ – Hoặc vị ấy có thể tranh cãi với ai rằng: ‘Đây là sai trái’? – là như thế.
Yasmiṃ samaṃ visamaṃ vāpi natthī ti – Yasmin ti yasmiṃ puggale arahante khīṇāsave ‘sadisohamasmī ’ti māno natthi, ‘seyyohamasmī ’ti atimāno natthi; ‘hīnohamasmī ’ti omāno natthi, na santi na saṃvijjati nūpalabbhati, pahīnaṃ samucchinnaṃ vūpasantaṃ paṭippassaddhaṃ abhabbuppattikaṃ ñāṇagginā daḍḍhan ’ti – ‘yasmiṃ samaṃ visamaṃ vāpi natthi.’
Ở vị nào (ý niệm so sánh) bằng nhau hay không bằng nhau là không có – Ở vị nào: ở người nào là bậc A-la-hán có lậu hoặc đã được cạn kiệt, sự ngã mạn (với ý nghĩ) ‘Tôi ngang bằng’ là không có, sự cống cao (với ý nghĩ) ‘Tôi tốt hơn’ là không có, sự tự ti (với ý nghĩ) ‘Tôi thấp hèn’ là không có, không hiện diện, không tìm thấy, không tồn tại, được dứt bỏ, được trừ tuyệt, được vắng lặng, được tịch tịnh, không thể sanh khởi nữa, đã được thiêu đốt bởi ngọn lửa trí tuệ – Ở vị nào (ý niệm so sánh) bằng nhau hay không bằng nhau là không có – là như thế.
Sa kena vādaṃ paṭisaṃyujeyyā ti – So kena mānena kāya diṭṭhiyā kena vā puggalena vādaṃ paṭisaṃyujeyya, paṭicareyya, kalahaṃ kareyya, bhaṇḍanaṃ kareyya, viggahaṃ kareyya, vivādaṃ kareyya, medhagaṃ kareyya: ‘Na tvaṃ imaṃ dhammavinayaṃ ājānāsi ―pe― nibbeṭhehi vā sace pahosī ’ti – ‘sa kena vādaṃ paṭisaṃyujeyya.’
Vị ấy có thể vướng víu vào sự tranh luận với ai đây? – Do ngã mạn nào, do quan điểm nào, vị ấy có thể vướng víu vào, có thể công kích, có thể thực hiện sự cãi cọ, có thể thực hiện sự xung đột, có thể thực hiện sự tranh luận, có thể thực hiện sự tranh cãi, có thể thực hiện sự gây gỗ với người nào rằng: ‘Ngươi không biết Pháp và Luật này —như trên— hoặc ngươi hãy gỡ rối nếu ngươi có khả năng’? – Vị ấy có thể vướng víu vào sự tranh luận với ai đây? – là như thế.
Tenāha bhagavā:
“Saccanti so brāhmaṇo kiṃ vadeyya musāti vā so vivadetha kena, yasmiṃ samaṃ visamaṃ vāpi natthi sa kena vādaṃ paṭisaṃyujeyyā ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Vị Bà-la-môn ấy có thể nói gì (cho rằng): ‘Đây là sự thật’?
Hoặc vị ấy có thể tranh cãi với ai rằng: ‘Đây là sai trái’?
Ở vị nào (ý niệm so sánh) bằng nhau hay không bằng nhau là không có,
vị ấy có thể vướng víu vào sự tranh luận với ai đây?”
9.10
Okaṃ pahāya aniketasārī gāme akubbaṃ muni santhavāni, kāmehi ritto apurekkharāno kathaṃ na viggayha janena kayirā.
Sau khi từ bỏ chỗ ngụ, không có sự vương vấn nhà ở, vị hiền trí không nên tạo ra các sự thân thiết ở trong làng, trống vắng đối với các dục, không ước vọng, không nên tạo ra cuộc nói chuyện cãi vã với người (khác).
Ðoạn tận mọi nhà cửa,
Sống là kẻ không nhà,
Ẩn sĩ không thân thiết,
Với một ai ở làng,
Trống không các dục vọng,
Không xem trọng sự gì,
Không nói chuyện tranh luận,
Với một ai ở đời.
(Kinh Tập, câu kệ 844)
“Atha kho haliddakānī gahapati yenāyasmā mahākaccāno tenupasaṅkami, upasaṅkamitvā āyasmantaṃ mahākaccānaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho haliddakānī gahapati āyasmantaṃ mahākaccānaṃ etadavoca:
‘Vuttamidaṃ bhante kaccāna, bhagavatā aṭṭhakavaggiye māgandiyapañhe: Okaṃ pahāya aniketasārī
gāme akubbaṃ muni santhavāni, kāmehi ritto apurekkharāno kathaṃ na viggayha janena kayirā ”ti.
Imassa nu kho bhante kaccāna, bhagavatā saṅkhittena bhāsitassa kathaṃ vitthārena attho daṭṭhabbo” ti.
“Rūpadhātu kho gahapati, viññāṇassa oko. Rūpadhāturāgavinibaddhañca pana viññāṇaṃ ‘okasārī ’ti vuccati. Vedanādhātu kho gahapati — saññādhātu kho gahapati — saṅkhāradhātu kho gahapati, viññāṇassa oko, saṅkhāradhāturāgavinibaddhañca pana viññāṇaṃ ‘okasārī ’ti vuccati. Evaṃ kho gahapati okasārī hoti.
Kathañca kho gahapati anokasārī hoti? Rūpadhātuyā kho gahapati yo chando yo rāgo yā nandī yā taṇhā ye upayūpādānā cetaso adhiṭṭhānābhinivesānusayā, te tathāgatassa pahīnā ucchinnamūlā tālāvatthukatā anabhāvakatā āyatiṃ anuppādadhammā, tasmā tathāgato ‘anokasārī ’ti vuccati. Vedanādhātuyā kho gahapati — saññādhātuyā kho gahapati — saṅkhāradhātuyā kho gahapati — viññāṇadhātuyā kho gahapati, yo chando yogo yā nandi yā taṇhā ye upayūpādānā cetaso adhiṭṭhānābhinivesānusayā, te tathāgatassa pahīnā ucchinnamūlā tālāvatthukatā anabhāvakatā āyatiṃ anuppādadhammā, tasmā tathāgato ‘anokasārī ’ti vuccati. Evaṃ kho gahapati anokasārī hoti.
Kathañca gahapati, niketasārī hoti? Rūpanimittaniketavisāravinibandhā kho gahapati ‘niketasārī ’ti vuccati. Saddanimitta- … gandhanimitta- … rasanimitta- … phoṭṭhabbanimitta- … dhammanimitta-niketavisāravinibandhā kho gahapati ‘niketasārī ’ti vuccati. Evaṃ kho gahapati, niketasārī hoti.
Kathañca gahapati, aniketasārī hoti? Rūpanimittaniketavisāravinibandhā kho gahapati tathāgatassa pahīnā ucchinnamūlā tālāvatthukatā anabhāvakatā āyatiṃ anuppādadhammā, tasmā tathāgato ‘aniketasārī ’ti vuccati. Saddanimitta … gandhanimitta … rasanimitta … phoṭṭhabbanimitta … dhammanimittaniketavisāravinibandhā kho gahapati, tathāgatassa pahīnā ucchinnamūlā tālāvatthukatā anabhāvakatā āyatiṃ anuppādadhammā, tasmā tathāgato aniketasārī ’ti vuccati. Evaṃ kho gahapati, aniketasārī hoti.
Kathañca gahapati, gāme santhavajāto hoti? Idha gahapati, ekacco bhikkhu gihīhi saṃsaṭṭho viharati: sahanandī sahasokī, sukhitesu sukhito, dukkhitesu dukkhito, uppannesu kiccakaraṇīyesu attanā voyogaṃ āpajjati. Evaṃ kho gahapati, gāme santhavajāto hoti.
Kathañca gahapati, gāme na santhavajāto hoti? Idha gahapati, ekacco bhikkhu gihīhi saṃsaṭṭho viharati: na sahanandī na sahasokī, na sukhitesu sukhito, na dukkhitesu dukkhito, uppannesu kiccakaraṇīyesu na attanā voyogaṃ āpajjati. Evaṃ kho gahapati, gāme na santhavajāto hoti.
Kathañca gahapati, kāmehi aritto hoti? Idha gahapati, ekacco bhikkhu kāmesu avītarāgo hoti avigatachando avigatapemo avigatapipāso avigatapariḷāho avigatataṇho. Evaṃ kho gahapati, kāmehi aritto hoti.
Kathañca gahapati, kāmehi ritto hoti? Idha gahapati, ekacco bhikkhu kāmesu vītarāgo hoti vigatachando vigatapemo vigatapipāso vigatapariḷāho vigatataṇho. Evaṃ kho gahapati, kāmehi ritto hoti.
Kathañca gahapati, purekkharāno ti? Idha gahapati, ekaccassa bhikkhuno evaṃ hoti: ‘Evaṃrūpo siyaṃ anāgatamaddhānan ’ti, tattha nandiṃ samannāneti. ‘Evaṃvedano siyaṃ … evaṃsañño siyaṃ evaṃsaṅkhāro siyaṃ … evaṃviññāṇo siyaṃ anāgatamaddhānan ’ti, tattha nandiṃ samannāneti. Evaṃ kho gahapati, purekkharāno hoti.
Kathañca gahapati, apurekkharāno hoti? Idha gahapati, ekaccassa bhikkhuno evaṃ hoti: ‘Evaṃrūpo siyaṃ anāgatamaddhānan ’ti, na tattha nandiṃ samannāneti. ‘Evaṃvedano siyaṃ … evaṃsañño siyaṃ … evaṃsaṅkhāro siyaṃ … evaṃviññāṇo siyaṃ anāgatamaddhānan ’ti, na tattha nandiṃ samannāneti. Evaṃ kho gahapati, apurekkharāno hoti.
Kathañca gahapati, kathaṃ viggayha janena kattā hoti? Idha gahapati, ekacco bhikkhu evarūpaṃ kathaṃ kattā hoti: ‘Na tvaṃ imaṃ dhammavinayaṃ ājānāsi ―pe― nibbeṭhehi vā sace pahosī ’ti. Evaṃ kho gahapati, kathaṃ viggayha janena kattā hoti.
Kathañca gahapati, kathaṃ na viggayha janena kattā hoti? Idha gahapati, ekacco bhikkhu na evarūpaṃ kathaṃ kattā hoti: ‘Na tvaṃ imaṃ dhammavinayaṃ ājānāsi ―pe― nibbeṭhehi vā sace pahosī ’ti. Evaṃ kho gahapati, kathaṃ na viggayha janena kattā hoti. Iti kho gahapati, yantaṃ vuttaṃ bhagavatā aṭṭhakavaggiye māgandiyapañhe:
Okaṃ pahāya aniketasārī gāme akubbaṃ muni santhavāni, kāmehi ritto apurekkharāno kathaṃ na viggayha janena kayirā ”ti.
Imassa kho gahapati, bhagavatā saṅkhittena bhāsitassa evaṃ vitthārena attho daṭṭhabbo ”ti.
Tenāha bhagavā:
“Okaṃ pahāya aniketasārī gāme akubbaṃ muni santhavāni, kāmehi ritto apurekkharāno kathaṃ na viggayha janena kayirā ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Sau khi từ bỏ chỗ ngụ, không có sự vương vấn nhà ở, vị hiền trí không nên tạo ra các sự thân thiết ở trong làng,
trống vắng đối với các dục, không ước vọng, không nên tạo ra cuộc nói chuyện cãi vã với người (khác).”
9.11
Yehi vivitto vicareyya loke na tāni uggayha vadeyya nāgo, elambujaṃ kaṇṭakaṃ vārijaṃ yathā jalena paṅkena ca nūpalittaṃ. Evaṃ munī santivādo agiddho kāme ca loke ca anūpalitto.
Sống ở thế gian, (bản thân) đã được viễn ly với những điều nào, bậc long tượng sẽ không tiếp thu và sẽ không nói về những điều ấy. Giống như cây sen có gai (ở cuống), được sanh ra ở trong nước, không bị vấy bẩn bởi nước và bùn, tương tự như vậy, bậc hiền trí nói về sự an tịnh, không bị thèm khát, không bị vấy bẩn ở dục và ở thế gian.
Vị ấy sống viễn ly,
Mọi sự việc ở đời,
Bậc Long tượng không chấp,
Và không nói đến họ.
Như hoa sen có gai,
Sanh ra ở trong nước,
Không bị nước và bùn,
Mắc dính và thấm ướt.
Như vậy bậc ẩn sĩ,
Nói an tịnh, không tham,
Không bị dục và đời,
Mắc dính và thấm ướt.
(Kinh Tập, câu kệ 845)
Yehi vivitto vicareyya loke ti – Yehī ti yehi diṭṭhigatehi. Vivitto ti kāyaduccaritena ritto vivitto pavivitto; vacīduccaritena ― manoduccaritena ― rāgena ―pe―sabbākusalābhisaṅkhārehi ritto vivitto pavivitto. Vicareyyā ti careyya vihareyya irīyeyya vatteyya pāleyya yapeyya yāpeyya. Loke ti manussaloke ―pe― āyatanaloketi – ‘yehi vivitto vicareyya loke.’
Na tāni uggayha vadeyya nāgo ti – Nāgo ti āguṃ na karotīti nāgo, na gacchatīti nāgo, nāgacchatīti nāgo. Kathaṃ āguṃ na karotīti nāgo? Āgu vuccanti pāpakā akusalā dhammā saṃkilesikā ponobhavikā sadarā dukkhavipākā āyatiṃ jātijarāmaraṇīyā.
“Āguṃ na karoti kiñci loke (sabhiyāti bhagavā) sabbasaññoge visajja bandhanāni, sabbattha na sajjati vimutto
nāgo tādī pavuccate tathattā.” Evaṃ āguṃ na karotīti nāgo.
Kathaṃ na gacchatīti nāgo? Na chandāgatiṃ gacchati, na dosāgatiṃ gacchati, na mohāgatiṃ gacchati, na bhayāgatiṃ gacchati, na rāgavasena gacchati, na dosavasena gacchati, na mohavasena gacchati, na mānavasena gacchati, na diṭṭhivasena gacchati, na uddhaccavasena gacchati, na vicikicchāvasena gacchati, na anusayavasena gacchati, na vaggehi dhammehi yāyati nīyati vuyhati saṃharīyati; evaṃ na gacchatīti nāgo. Kathaṃ nāgacchatī ti nāgo? Sotāpattimaggena ye kilesā pahīnā, te kilesā na puneti, na pacceti, na paccāgacchati. Sakadāgāmi-maggena — anāgāmimaggena — arahattamaggena ye kilesā pahīnā, te kilese na puneti, na pacceti, na paccāgacchati; evaṃ nāgacchatīti nāgo.
Na tāni uggayha vadeyya nāgo ti – Nāgo na tāni diṭṭhigatāni gahetvā uggahetvā gaṇhitvā parāmasitvā abhinivisitvā vadeyya katheyya bhaṇeyya dīpayeyya vohareyya: ‘Sassato loko —pe— neva hoti na na hoti tathāgato parammaraṇā, idameva saccaṃ, moghamaññan ’ti vadeyya katheyya bhaṇeyya dīpayeyya vohareyyā ’ti – ‘na tāni uggayha vadeyya nāgo.’
Elambujaṃ kaṇṭakaṃ vārijaṃ yathā jalena paṅkena ca nūpalittan ti – Elaṃ vuccati udakaṃ. Ambujaṃ vuccati padumaṃ. Kaṇṭako vuccati kharadaṇḍo. Vāri vuccati udakaṃ. Vārijaṃvuccati padumaṃ vārisambhavaṃ. Jalaṃ vuccati udakaṃ. Paṅko vuccati kaddamo. Yathā padumaṃ vārijaṃ vārisambhavaṃ jalena ca paṅkena ca na lippati, na saṃlippati nūpalippati, alittaṃ asaṃlittaṃ, anupalittan ’ti – ‘elambujaṃ kaṇṭakaṃ vārijaṃ yathā jalena paṅkena ca nūpalittaṃ.’
Evaṃ munī santivādo agiddho kāme ca loke ca anūpalitto ti – Evan ti opammasampaṭipādanaṃ. Munī ti monaṃ vuccati ñāṇaṃ ―pe― saṅgajālamaticca so muni.
Santivādo ti santivādo muni tāṇavādo lenavādo saraṇavādo abhayavādo accutavādo amatavādo nibbānavādo ’ti – ‘evaṃ munī santivādo.’ Agiddho ti gedho vuccati taṇhā: yo rāgo sārāgo ―pe― abhijjhā lobho akusalamūlaṃ. Yassa so gedho pahīno samucchinno vūpasanto paṭippassaddho abhabbuppattiko ñāṇagginā daḍḍho, so vuccati agiddho. So rūpe agiddho; sadde ― gandhe ― rase ― phoṭṭhabbe ― kule ― gaṇe ― āvāse ― lābhe ― yase ― pasaṃsāya ― sukhe ― cīvare ― piṇḍapāte ― senāsanagilānapaccayabhesajjaparikkhāre ― kāmadhātuyā ― rūpadhātuyā ― arūpadhātuyā ― kāmabhave ― rūpabhave ― arūpabhave ― saññābhave ― asaññābhave ― nevasaññānāsaññābhave ― ekavokārabhave ― catuvokārabhave ― pañcavokārabhave ― atīte ― anāgate ― paccuppanne ― diṭṭhasutamutaviññātabbesu dhammesu agiddho agathito amucchito anajjhopanno vītagedho vigatagedho cattagedho vantagedho muttagedho pahīnagedho paṭinissaṭṭhagedho vītarāgo vigatarāgo cattarāgo vantarāgo muttarāgo pahīnarāgo paṭinissaṭṭharāgo nicchāto nibbuto sītībhūto sukhapaṭisaṃvedī brahmabhūtena attanā viharatī ’ti – ‘evaṃ munī santivādo agiddho.’
Kāme ca loke ca anūpalitto ti – Kāmā ti uddānato dve kāmā: vatthukāmā ca kilesakāmā ca ―pe―Ime vuccati vatthukāmā ―pe―Ime vuccati kilesakāmā. Loke ti apāyaloke manussaloke devaloke khandhaloke dhātuloke āyatanaloke. Lepā ti dve lepā: taṇhālepo ca diṭṭhilepo ca ―pe―
ayaṃ taṇhālepo ―pe― ayaṃ diṭṭhilepo. Muni taṇhālepaṃ pahāya diṭṭhilepaṃ paṭinissajitvā kāme ca loke ca na lippati, na palippati, na upalippati, alitto asaṃlitto anupalitto nikkhanto nissaṭo vippamutto visaññutto vimariyādīkatena cetasā viharatī ’ti – ‘evaṃ munī santivādo agiddho kāme ca loke ca anūpalitto.’
Tenāha bhagavā:
“Yehi vivitto vicareyya loke na tāni uggayha vadeyya nāgo, elambujaṃ kaṇṭakaṃ vārijaṃ yathā jalena paṅkena ca nūpalittaṃ. Evaṃ munī santivādo agiddho kāme ca loke ca anūpalitto ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Sống ở thế gian, (bản thân) đã được viễn ly với những điều nào, bậc long tượng sẽ không tiếp thu và sẽ không nói về những điều ấy. Giống như cây sen có gai (ở cuống), được sanh ra ở trong nước, không bị vấy bẩn bởi nước và bùn, tương tự như vậy, bậc hiền trí nói về sự an tịnh, không bị thèm khát, không bị vấy bẩn ở dục và ở thế gian.”
9.12
Na vedagū diṭṭhiyā na mutiyā sa mānameti na hi tammayo so, na kammunā nopi sutena neyyo anūpanīto sa nivesanesu.
Bậc hiểu biết sâu sắc không do tà kiến, không do cảm giác mà vị ấy đi đến ngã mạn, bởi vì vị ấy không có điều ấy là bản tính. Không do hành động, cũng không do điều đã được nghe mà vị ấy có thể bị dẫn đi, vị ấy không bị dẫn dắt vào trong các sự chấp chặt.
Bậc trí, không do kiến,
Cũng không do thọ tưởng,
Ði đến sự kiêu mạn,
Không có tham dự vào,
Không để cho hành động,
Cho truyền thống dắt dẫn,
Không để bị chi phối,
Trong trú xứ của ý.
(Kinh Tập, câu kệ 846)
Na vedagū diṭṭhiyā na mutiyā sa mānametī ti – Nā ti paṭikkhepo. Vedagū ti – Vedaṃ vuccati catusu maggesu ñāṇaṃ, paññā paññindriyaṃ paññābalaṃ dhammavicayasambojjhaṅgo vīmaṃsā vipassanā sammādiṭṭhi. Tehi vedehi jātijarāmaraṇassa antagato antappatto koṭigato koṭippatto pariyantagato pariyantappatto vosānagato vosānappatto tāṇagato tāṇappatto lenagato lenappatto saraṇagato saraṇappatto abhayagato abhayappatto accutagato accutappatto amatagato amatappatto nibbānagato nibbānappatto. Vedānaṃ vā antaṃ gatoti vedagū, vedehi vā antaṃ gatoti vedagū, sattannaṃ vā dhammānaṃ viditattā vedagū: sakkāyadiṭṭhi viditā hoti, vicikicchā viditā hoti, sīlabbataparāmāso vidito hoti, rāgo vidito hoti, doso vidito hoti, moho vidito hoti, māno vidito hoti, viditāssa honti pāpakā akusalā dhammā saṃkilesikā ponobhavikā sadarā dukkhavipākā āyatiṃ jātijarāmaraṇīyā.
“Vedāni viceyya kevalāni (sabhiyāti bhagavā) samaṇānaṃ yāni ’dhatthi brāhmaṇānaṃ, sabbavedanāsu vītarāgo
sabbavedamaticca vedagū so ”ti.
Na diṭṭhiyā ti – tassa dvāsaṭṭhi diṭṭhigatāni pahīnāni samucchinnāni vūpasantāni paṭippassaddhāni abhabbuppattikāni ñāṇagginā daḍḍhāni. So diṭṭhiyā na yāyati, na nīyati, na vuyhati, na saṃharīyati, napi taṃ diṭṭhigataṃ sārato pacceti, na paccāgacchatī ’ti – ‘na vedagū diṭṭhiyā.’
Na mutiyā sa mānametī ti – mutarūpena vā paratoghosena vā mahājanasammutiyā vā mānaṃ neti, na upeti, na upagacchati, na gaṇhāti, na parāmasati, nābhinivisatī ’ti – ‘na vedagū diṭṭhiyā na mutiyā sa mānameti.’
Na hi tammayo so ti – na taṇhāvasena na diṭṭhivasena tammayo hoti tapparamo tapparāyaṇo; yato taṇhā ca diṭṭhi ca māno ca assa pahīnā honti ucchinnamūlā tālāvatthukatā anabhāvakatā āyatiṃ anuppādadhammā, ettāvatā na tammayo hoti, na tapparamo, na tapparāyaṇo ’ti – ‘na hi tammayo so.’
Na kammunā nopi sutena neyyo ti – Na kammunā ti puññābhisaṅkhārena vā apuññābhisaṅkhārena vā āneñjābhisaṅkhārena vā na yāyati, na nīyati, na vuyhati, na saṃharīyatī ’ti – ‘na kammunā.’ Nopi sutena neyyo ti sutasuddhiyā vā paratoghosena vā mahājanasammutiyā vā na yāyati, na nīyati, na vuyhati, na saṃharīyatī ’ti – ‘na kammunā nopi sutena neyyo.’
Anūpanīto sa nivesanesū ti – Upayā ti dve upayā: taṇhā-upayo ca diṭṭhi-upayo ca ―pe― ayaṃ taṇhā-upayo ―pe― ayaṃ diṭṭhi-upayo. Tassa taṇhā-upayo pahīno, diṭṭhi-upayo paṭinissaṭṭho; taṇhūpayassa pahīnattā diṭṭhūpayassa paṭinissaṭṭhattā so nivesanesu anūpanīto anupalitto anupagato anajjhosito anadhimutto nikkhanto nissaṭo vippamutto visaññutto vimariyādīkatena cetasā viharatī ’ti – ‘anūpanīto sa nivesanesu.’
Tenāha bhagavā:
“Na vedagū diṭṭhiyā na mutiyā sa mānameti na hi tammayo so, na kammunā nopi sutena neyyo anūpanīto sa nivesanesū ”ti
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Bậc hiểu biết sâu sắc không do tà kiến, không do cảm giác mà vị ấy đi đến ngã mạn, bởi vì vị ấy không có điều ấy là bản tính. Không do hành động, cũng không do điều đã được nghe mà vị ấy có thể bị dẫn đi, vị ấy không bị dẫn dắt vào trong các sự chấp chặt.”
9.13
Saññāvirattassa na santi ganthā
paññāvimuttassa na santi mohā,
saññaṃ ca diṭṭhiṃ ca ye aggahesuṃ
te ghaṭṭayantā vicaranti loke.
Đối với vị đã xa lìa tưởng, các trói buộc không hiện hữu, đối với vị đã được giải thoát do tuệ, các si mê không hiện hữu.
Và những người nào đã nắm giữ tưởng và tà kiến, những người ấy sống, gây va chạm, ở thế gian.
Người không ưa thích tưởng,
Không có bị trói buộc,
Vị được tuệ giải thoát,
Không có sự si mê,
Và những ai chấp thủ,
Tư tưởng và tri kiến,
Người ấy sống xung đột,
Với mọi người ở đời.
(Kinh Tập, câu kệ 847)
Saññāvirattassa na santi ganthā ti – yo samathapubbaṅgamaṃ ariyamaggaṃ bhāveti, tassa ādito upādāya ganthā vikkhambhitā honti, arahatte patte arahato ganthā ca mohā ca nīvaraṇā ca, kāmasaññā vyāpādasaññā vihiṃsāsaññā diṭṭhisaññā ca pahīnā honti, ucchinnamūlā tālāvatthukatā anabhāvakatā āyatiṃ anuppādadhammā ’ti – ‘saññāvirattassa na santi ganthā.’
Đối với vị đã xa lìa tưởng, các trói buộc không hiện hữu: vị nào tu tập Thánh Đạo có thiền chỉ tịnh là yếu tố đi trước, các trói buộc liên quan đến giai đoạn đầu của vị ấy được loại trừ; khi đạt đến quả vị A-la-hán, các trói buộc, các si mê, các pháp che lấp, và các dục tưởng, sân tưởng, hại tưởng, tà kiến tưởng được dứt bỏ, có rễ đã được cắt lìa, như cây thốt nốt bị bứng gốc, khiến cho không còn hiện hữu, không còn điều kiện sanh khởi trong tương lai; – ‘đối với vị đã xa lìa tưởng, các trói buộc không hiện hữu’ là như thế.
Paññāvimuttassa na santi mohā ti – yo vipassanāpubbaṅgamaṃ ariyamaggaṃ bhāveti, tassa ādito upādāya mohā vikkhambhitā honti, arahatte patte10 arahato mohā ca ganthā ca nīvaraṇā ca kāmasaññā vyāpādasaññā vihiṃsāsaññā diṭṭhisaññā ca pahīnā honti, ucchinnamūlā tālāvatthukatā anabhāvakatā āyatiṃ anuppādadhammā ’ti – ‘paññāvimuttassa na santi mohā.’
Đối với vị đã được giải thoát do tuệ, các si mê không hiện hữu: vị nào tu tập Thánh Đạo có thiền minh sát là yếu tố đi trước, các si mê liên quan đến giai đoạn đầu của vị ấy được loại trừ; khi đạt đến quả vị A-la-hán, các si mê, các trói buộc, các pháp che lấp, và các dục tưởng, sân tưởng, hại tưởng, tà kiến tưởng được dứt bỏ, có rễ đã được cắt lìa, như cây thốt nốt bị bứng gốc, khiến cho không còn hiện hữu, không còn điều kiện sanh khởi trong tương lai; – ‘đối với vị đã được giải thoát do tuệ, các si mê không hiện hữu’ là như thế.
Saññaṃ ca diṭṭhiṃ ca ye aggahesuṃ te ghaṭṭayantā vicaranti loke ti – ye saññaṃ gaṇhanti kāmasaññaṃ vyāpādasaññaṃ vihiṃsāsaññaṃ, te saññāvasena ghaṭṭenti saṃghaṭṭenti. Rājānopi rājūhi vivadanti, khattiyāpi khattiyehi vivadanti, brāhmaṇāpi brāhmaṇehi vivadanti, gahapatikāpi gahapatīhi vivadanti, mātāpi puttena vivadati, puttopi mātarā vivadati, pitāpi puttena vivadati, puttopi pitarā vivadati, bhātāpi bhātarā vivadati, bhaginīpi bhaginiyā vivadati, bhātāpi bhaginiyā vivadati, bhaginīpi bhātarā vivadati, sahāyopi sahāyena vivadati. Te tattha kalahaviggahavivādamāpannā aññamaññaṃ pāṇīhipi upakkamanti, leḍḍūhipi upakkamanti, daṇḍehipi upakkamanti, satthehipi upakkamanti. Te tattha maraṇampi nigacchanti, maraṇamattampi dukkhaṃ. Ye diṭṭhiṃ gaṇhanti: ‘Sassato loko’ ti vā ―pe― ‘neva hoti na na hoti tathāgato parammaraṇā ’ti vā, te diṭṭhivasena ghaṭṭenti saṃghaṭṭenti, satthārato satthāraṃ ghaṭṭenti, dhammakkhānato dhammakkhānaṃ ghaṭṭenti, gaṇato gaṇaṃ ghaṭṭenti, diṭṭhiyā diṭṭhiṃ ghaṭṭenti, paṭipadāya paṭipadaṃ ghaṭṭenti, maggato maggaṃ ghaṭṭenti.
Và những người nào đã nắm giữ tưởng và tà kiến, những người ấy sống, gây va chạm, ở thế gian: Những kẻ nào nắm lấy tưởng, dục tưởng, sân tưởng, hại tưởng; do tác động của tưởng, những kẻ ấy gây va chạm, gây đụng chạm. Các vị vua tranh cãi với các vị vua, các Sát-đế-lỵ tranh cãi với các Sát-đế-lỵ, các Bà-la-môn tranh cãi với các Bà-la-môn, các gia chủ tranh cãi với các gia chủ, mẹ tranh cãi với con trai, con trai tranh cãi với mẹ, cha tranh cãi với con trai, con trai tranh cãi với cha, anh em trai tranh cãi với anh em trai, chị em gái tranh cãi với chị em gái, anh em trai tranh cãi với chị em gái, chị em gái tranh cãi với anh em trai, bạn bè tranh cãi với bạn bè. Tại nơi ấy, chúng khởi sự cãi cọ, cãi vã, tranh cãi, rồi công kích lẫn nhau bằng những bàn tay, công kích lẫn nhau bằng những cục đất, công kích lẫn nhau bằng những gậy gộc, công kích lẫn nhau bằng những gươm dao. Tại nơi ấy, chúng đi đến sự chết và sự khổ đau kề cận cái chết. Những kẻ nào nắm lấy tà kiến rằng: ‘Thế giới là thường còn —như trên— hoặc ‘Đức Như Lai không hiện hữu và không phải là không hiện hữu ở nơi khác sau khi chết;’ do tác động của tà kiến, những kẻ ấy gây va chạm, gây đụng chạm; chúng gây va chạm bậc đạo sư (này) với bậc đạo sư (khác), chúng gây va chạm giáo lý (này) với giáo lý (khác), chúng gây va chạm tập thể (này) với tập thể (khác), chúng gây va chạm quan điểm (này) với (khác), chúng gây va chạm lối thực hành (này) với lối thực hành (khác), gây va chạm đạo lộ (này) với đạo lộ (khác).
Athavā te vivadanti, kalahaṃ karonti, bhaṇḍanaṃ karonti, viggahaṃ karonti, vivādaṃ karonti, medhagaṃ karonti: ‘Na tvaṃ imaṃ dhammavinayaṃ ājānāsi ―pe― nibbeṭhehi vā sace pahosī ’ti. Tesaṃ abhisaṅkhārā appahīnā, abhisaṅkhārānaṃ appahīnattā gatiyā ghaṭṭenti, niraye ghaṭṭenti, tiracchānayoniyā ghaṭṭenti, pettivisaye ghaṭṭenti. manussaloke ghaṭṭenti. devaloke ghaṭṭenti. gatiyā gatiṃ upapattiyā upapattiṃ paṭisandhiyā paṭisandhiṃ bhavena bhavaṃ saṃsārena saṃsāraṃ vaṭṭena vaṭṭaṃ ghaṭṭenti saṃghaṭṭenti. Ghaṭṭentā caranti vicaranti viharanti irīyanti vattenti pālenti yapenti yāpenti. Loke ti apāyaloke ―pe― āyatanaloke ’ti; – ‘saññañca diṭṭhiñca ye aggahesuṃ te ghaṭṭayantā vicaranti loke.’
Hoặc là chúng tranh cãi, rồi thực hiện sự cãi cọ, thực hiện sự cãi lộn, thực hiện sự cãi vã, thực hiện sự tranh cãi, thực hiện sự gây gỗ rằng: ‘Ngươi không biết Pháp và Luật này ―như trên― hoặc ngươi hãy gỡ rối nếu ngươi có khả năng.’ Các sự tạo tác của chúng chưa được dứt bỏ; do trạng thái chưa được dứt bỏ của các sự tạo tác, chúng va chạm vào địa ngục, chúng va chạm vào thai bào của loài thú chúng va chạm vào cảnh giới ngạ quỷ, chúng va chạm vào nhân giới, chúng va chạm vào Thiên giới, chúng va chạm, chúng đụng chạm cảnh giới với cảnh giới, sự tái sanh với sự tái sanh, mầm tái sanh với mầm tái sanh, cõi với cõi, luân hồi với luân hồi, luân chuyển với luân chuyển. Trong khi va chạm, chúng sống, hành xử, cư trú, cư xử, vận hành, bảo hộ, duy trì, nuôi dưỡng. Ở thế gian: ở thế gian của khổ cảnh ―như trên― ở thế gian của loài người; – ‘và những người nào đã nắm giữ tưởng và tà kiến, những người ấy sống, gây va chạm, ở thế gian’ là như thế.
Tenāha bhagavā:
“Saññāvirattassa na santi ganthā paññāvimuttassa na santi mohā, saññaṃ ca diṭṭhiṃ ca ye aggahesuṃ te ghaṭṭayantā vicaranti loke “ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Đối với vị đã xa lìa tưởng, các trói buộc không hiện hữu, đối với vị đã được giải thoát do tuệ, các si mê không hiện hữu. Và những người nào đã nắm giữ tưởng và tà kiến, những người ấy sống, gây va chạm, ở thế gian.”
Māgandiyasuttaniddeso navamo.
Diễn Giải Kinh Māgandiya là thứ chín.
10. PURĀBHEDASUTTANIDDESO – DIỄN GIẢI KINH TRƯỚC KHI HOẠI RÃ
10.1
Atha purābhedasuttaniddeso vuccati:
Giờ Diễn Giải Kinh Trưởc Khi Hoại Rã được nói đến:
Kathaṃdassī kathaṃsīlo upasantoti vuccati, taṃ me gotama pabrūhi pucchito uttamaṃ naraṃ.
Có sự hiểu biết thế nào, có giới thế nào, được gọi là ‘an tịnh’? Thưa ngài Gotama, được hỏi về con người tối thượng, xin ngài hãy nói cho tôi về vị ấy.
(X) Kinh Trước khi bị hủy hoại (Sn 166)
Người hỏi:
Người sống đời an tịnh,
Kiến và giới thế nào?
Con hỏi Gotama,
Là bậc người tối thượng.
(Kinh Tập, câu kệ 848)
Kathaṃdassī kathaṃsīlo upasantoti vuccatī ti – Kathaṃdassī ti kīdisena dassanena samannāgato kiṃsaṇṭhitena kimpakārena kiṃpaṭibhāgenāti kathaṃdassī. Kathaṃsīlo ti kīdisena sīlena samannāgato kiṃsaṇṭhitena kimpakārena kimpaṭibhāgenāti kathaṃdassī kathaṃsīlo.’
Có sự hiểu biết thế nào, có giới thế nào, được gọi là ‘an tịnh’? – Có sự hiểu biết thế nào: Được thành tựu với sự hiểu biết thuộc loại nào, tương tự cái gì, có kiểu cách gì, tương đương cái gì; – ‘có sự hiểu biết thế nào’ là như thế. Có giới thế nào: Được thành tựu với giới thuộc loại nào, tương tự cái gì, có kiểu cách gì, tương đương cái gì; – ‘có sự hiểu biết thế nào, có giới thế nào’ là như thế.
Upasantoti vuccatī ti – santo upasanto vūpasanto nicchāto nibbuto paṭippassaddhoti vuccati pavuccati kathīyati bhaṇīyati dīpīyati voharīyati. Kathaṃdassī ’ti adhipaññaṃ pucchati; kathaṃ sīlo ’ti adhisīlaṃ pucchati upasanto ’ti adhicittaṃ pucchatī ’ti – ‘kathaṃdassī kathaṃsīlo upasantoti vuccati.’
Được gọi là ‘an tịnh’: được gọi là, được nói ra, được thuyết giảng, được phát ngôn, được diễn giải, được diễn tả là an tịnh, yên tịnh, vắng lặng, không còn khao khát, tịch diệt, tịch tịnh. ‘Có sự hiểu biết thế nào’ là hỏi về thắng tuệ; ‘có giới thế nào’ là hỏi về thắng giới; ‘an tịnh’ là hỏi về thắng tâm; – có sự hiểu biết thế nào, có giới thế nào, được gọi là ‘an tịnh’? là như thế.
Taṃ me gotama pabrūhī ti – Tan ti yaṃ pucchāmi yaṃ yācāmi yaṃ ajjhesāmi yaṃ pasādemi. Gotamā ti so nimmito buddhaṃ bhagavantaṃ gottena ālapati. Pabrūhī ti brūhi ācikkha desehi paññapehi paṭṭhapehi vivara vibhaja uttānīkarohi pakāsehī ’ti – ‘taṃ me gotama pabrūhi.’
Thưa ngài Gotama, xin ngài hãy nói cho tôi về vị ấy – Vị ấy: là vị tôi hỏi, vị tôi yêu cầu, vị tôi mời, vị tôi thỉnh. Thưa ngài Gotama: Vị (Phật) đã được hóa hiện ấy xưng hô với đức Phật Thế Tôn bằng họ. Xin ngài hãy nói về: Xin Ngài hãy nói, hãy nêu ra, hãy thuyết giảng, hãy thông báo, hãy ấn định, hãy khai mở, hãy chia sẻ, hãy làm rõ, hãy bày tỏ; – ‘Thưa ngài Gotama, xin ngài hãy nói cho tôi về vị ấy’ là như thế.
Pucchito uttamaṃ naran ti – Pucchito ti puṭṭho pucchito yācito ajjhesito pasādito. Uttamaṃ naran ti aggaṃ seṭṭhaṃ viseṭṭhaṃ pāmokkhaṃ uttamaṃ pavaraṃ naran ’ti – ‘pucchito uttamaṃ naraṃ.’
Được hỏi về con người tối thượng – Được hỏi về: được vấn, được hỏi, được yêu cầu, bị nài ép, được tin tưởng. Con người tối thượng: là con người cao cả, nhất hạng, thù thắng, dẫn đầu, tối thượng, cao quý; – ‘được hỏi về con người tối thượng’ là như thế.
Tenāha so nimmito:
“Kathaṃdassī kathaṃsīlo upasantoti vuccati, taṃ me gotama pabrūhi pucchito uttamaṃ naran ”ti.
Vì thế, vị (Phật) đã được hóa hiện ra đã nói rằng:
“Có sự hiểu biết thế nào, có giới thế nào, được gọi là ‘an tịnh’? Thưa ngài Gotama, được hỏi về con người tối thượng, xin ngài hãy nói cho tôi về vị ấy.”
10.2
Vītataṇho purā bhedā (iti bhagavā) pubbamantamanissito, vemajjhenūpasaṃkheyyo tassa natthi purekkhataṃ.
(Đức Thế Tôn nói:) “Vị có tham ái đã được xa lìa, trước khi hoại rã (xác thân), không nương tựa vào thời gian trước (quá khứ), ở vào khoảng giữa (hiện tại) không thể phân hạng; việc mong ước là không có đối với vị ấy.”
Thế Tôn:
Thế Tôn đáp như sau:
Ly ái trước thân hoại,
Không y chỉ ban đầu,
Không y chỉ cuối cùng,
Không kể đến vật giữa,
Không có ưa thích nào.
(Kinh Tập, câu kệ 849)
Vītataṇho purā bhedā ti – Purā kāyassa bhedā purā attabhāvassa bhedā purā kalebarassanikkhepā purā jīvitindriyassa upacchedā, vītataṇho vigatataṇho cattataṇho vantataṇho muttataṇho pahīnataṇho paṭinissaṭṭhataṇho vītarāgo vigatarāgo cattarāgo vantarāgo muttarāgo pahīnarāgo paṭinissaṭṭharāgo, nicchāto nibbuto sītībhūto sukhapaṭisaṃvedī brahmabhūtena attanā viharati.
Vị có tham ái đã được xa lìa, trước khi hoại rã (xác thân) – trước khi hoại rã thân thể, trước khi hoại rã bản thân, trước khi quăng bỏ thân xác, trước khi cắt đứt mạng quyền, vị có tham ái đã được xa lìa, có tham ái đã được tách lìa, có tham ái đã được từ bỏ, có tham ái đã được tẩy trừ, có tham ái đã được giải thoát, có tham ái đã được dứt bỏ, có tham ái đã được xả bỏ, có luyến ái đã được xa lìa, có luyến ái đã được tách lìa, có luyến ái đã được từ bỏ, có luyến ái đã được tẩy trừ, có luyến ái đã được giải thoát, có luyến ái đã được dứt bỏ, có luyến ái đã được xả bỏ, không còn khao khát, được tịch tịnh, có trạng thái mát lạnh, có sự cảm thọ lạc, sống với trạng thái cao thượng tự thân.
Bhagavā ti gāravādhivacanaṃ. Api ca bhaggarāgoti bhagavā, bhaggadosoti bhagavā, bhaggamohoti bhagavā, bhaggadiṭṭhīti bhagavā, bhaggamānoti bhagavā, bhaggakaṇṭakoti bhagavā, bhaggakilesoti bhagavā, bhaji vibhaji paṭivibhaji dhammaratananti bhagavā, bhavānaṃ antakaroti bhagavā, bhāvitakāyo bhāvitasīlo bhāvitacitto bhāvitapaññoti bhagavā, bhaji vā bhagavā araññe vanapatthāni pantāni senāsanāni appasaddāni appanigghosāni vijanavātāni manussarāhaseyyāni paṭisallāna-sāruppānīti bhagavā, bhāgī vā bhagavā cīvarapiṇḍapātasenāsanagilāna-paccayabhesajjaparikkhārānanti bhagavā, bhāgī vā bhagavā attharasassa dhammarasassa vimuttirasassa adhisīlassa adhicittassa adhipaññāyāti bhagavā, bhāgī vā bhagavā catunnaṃ jhānānaṃ catunnaṃ appamaññānaṃ catunnaṃ arūpasamāpattīnanti bhagavā, bhāgī vā bhagavā aṭṭhannaṃ vimokkhānaṃ aṭṭhannaṃ abhibhāyatanānaṃ navannaṃ anupubbavihāra-samāpattīnanti bhagavā, bhāgī vā bhagavā dasannaṃ saññābhāvanānaṃ dasannaṃ kasiṇasamāpattīnaṃ ānāpānasatisamādhissa asubhasamāpattiyāti bhagavā, bhāgī vā bhagavā catunnaṃ satipaṭṭhānānaṃ catunnaṃ sammappadhānānaṃ catunnaṃ iddhipādānaṃ pañcannaṃ indriyānaṃ pañcannaṃ balānaṃ sattannaṃ bojjhaṅgānaṃ ariyassa aṭṭhaṅgikassa maggassāti bhagavā, bhāgī vā bhagavā dasannaṃ tathāgatabalānaṃ catunnaṃ vesārajjānaṃ catunnaṃ paṭisambhidānaṃ channaṃ abhiññānaṃ channaṃ buddhadhammānanti bhagavā. Bhagavā ti netaṃ nāmaṃ mātarā kataṃ, na pitarā kataṃ, na bhātarā kataṃ, na bhaginiyā kataṃ, na mittāmaccehi kataṃ, na ñātisālohitehi kataṃ, na samaṇabrāhmaṇehi kataṃ, na devatāhi kataṃ, vimokkhantikametaṃ buddhānaṃ bhagavantānaṃ bodhiyā mūle saha sabbaññutañāṇassa paṭilābhā sacchikā paññatti yadidaṃ ‘bhagavā ’ti – ‘vītataṇho purā bhedā iti bhagavā.
Đức Thế Tôn: là từ xưng hô với sự tôn kính. Thêm nữa, đức Thế Tôn là ‘vị có luyến ái đã được phá vỡ;’ đức Thế Tôn là ‘vị có sân hận đã được phá vỡ;’ đức Thế Tôn là ‘vị có si mê đã được phá vỡ;’ đức Thế Tôn là ‘vị có ngã mạn đã được phá vỡ;’ đức Thế Tôn là ‘vị có tà kiến đã được phá vỡ;’ đức Thế Tôn là ‘vị có cây gai đã được phá vỡ;’ đức Thế Tôn là ‘vị có ô nhiễm đã được phá vỡ;’ đức Thế Tôn là ‘vị đã phân phát, đã phân chia, đã phân phối Pháp bảo;’ đức Thế Tôn là ‘vị thực hiện sự chấm dứt các hữu;’ đức Thế Tôn là ‘vị có thân đã được tu tập, có giới đã được tu tập, có tâm đã được tu tập, có tuệ đã được tu tập;’ đức Thế Tôn là ‘vị đã thân cận các khu rừng, các khu rừng thưa, các chỗ trú ngụ xa vắng có ít âm thanh, ít tiếng ồn, có bầu không gian vắng vẻ, tách biệt với dân chúng, thích hợp cho việc thiền tịnh;’ đức Thế Tôn là ‘vị có phần về các vật dụng là y phục, đồ ăn khất thực, chỗ nằm ngồi, thuốc men chữa bệnh;’ đức Thế Tôn là ‘vị có phần hoặc sở hữu về vị của mục đích, về vị của Pháp, về vị của của giải thoát, về thắng giới, về thắng tâm, về thắng tuệ;’ đức Thế Tôn là ‘vị có phần hoặc sở hữu về bốn thiền, về bốn vô lượng (tâm), về bốn sự thể nhập vô sắc;’ đức Thế Tôn là ‘vị có phần hoặc sở hữu về tám giải thoát, về tám tám thắng xứ (của thiền), về chín sự thể nhập và an trú theo tuần tự;’ đức Thế Tôn là ‘vị có phần hoặc sở hữu về mười sự tu tập về tưởng, về mười sự thể nhập các đề mục kasiṇa, về định niệm hơi thở vào-hơi thở ra, về sự thể nhập các đề mục tử thi;’ đức Thế Tôn là ‘vị có phần hoặc sở hữu về bốn sự thiết lập niệm, bốn chánh tinh tấn, bốn nền tảng của thần thông, năm quyền, năm lực, bảy chi phần đưa đến giác ngộ, Thánh đạo tám chi phần;’ đức Thế Tôn là ‘vị có phần hoặc sở hữu về mười Như Lai lực, về bốn pháp tự tin, về bốn tuệ phân tích, về sáu thắng trí, về sáu pháp của đức Phật.’ ‘Đức Thế Tôn,’ tên gọi này không do mẹ tạo ra, không do cha tạo ra, không do anh em trai tạo ra, không do chị em gái tạo ra, không do bạn bè hoặc thân hữu tạo ra, không do các thân quyến cùng huyết thống tạo ra, không do các Sa-môn hoặc Bà-la-môn tạo ra, không do chư Thiên tạo ra, sự tận cùng của giải thoát này là sự quy định thuộc về chư Phật Thế Tôn do sự đạt được, do sự chứng ngộ trí Toàn Tri ở cội cây Bồ Đề, tức là ‘đức Thế Tôn;’ – ‘vị có tham ái đã được xa lìa, trước khi hoại rã (xác thân)’ là như thế.
Pubbamantamanissito ti – pubbanto vuccati atīto addhā; atītaṃ addhānaṃ ārabbha taṇhā pahīnā hoti, diṭṭhi paṭinissaṭṭhā; taṇhāya pahīnattā diṭṭhiyā paṭinissaṭṭhattā, evampi ‘pubbamantamanissito.’ Athavā, ‘evaṃrūpo ahosiṃ atītamaddhānan ’ti ‘tattha nandiṃ na samannāneti, ‘evaṃvedano ahosiṃ, evaṃsañño ahosiṃ, evaṃsaṅkhāro ahosiṃ, evaṃviññāṇo ahosiṃ atītamaddhānan ’ti tattha nandiṃ na samannāneti, evampi ‘pubbamantamanissito.’ Athavā, ‘iti me cakkhu ahosi atītamaddhānaṃ, iti rūpāti, tattha na chandarāgapaṭibaddhaṃ hoti viññāṇaṃ; na chandarāgapaṭibaddhattā viññāṇassa na tadabhinandati, na tadabhinandanto; evampi ‘pubbamantamanissito.’ ‘Iti me sotaṃ ahosi atītamaddhānaṃ, iti saddā ’ti, iti me ghānaṃ ahosi atītamaddhānaṃ, iti gandhā ’ti, iti me jivhā ahosi atītamaddhānaṃ, iti rasā ’ti, iti me kāyo ahosi atītamaddhānaṃ, iti phoṭṭhabbā ’ti, iti me mano ahosi atītamaddhānaṃ, iti dhammā ’ti, tattha na chandarāgapaṭibaddhaṃ hoti viññāṇaṃ; na chandarāgapaṭibaddhattā viññāṇassa na tadabhinandati, na tadabhinandanto evampi ‘pubbamantamanissito.’ ‘Athavā, yān’ assu tāni pubbe mātugāmena saddhiṃ hasitalapitakīḷitāni, na tadassādeti, na taṃ nikāmeti; na ca tena vittiṃ āpajjati, evampi ‘pubbamantamanissito.’
Không nương tựa vào thời gian trước – Thời gian trước nói đến thời quá khứ. Liên quan đến thời quá khứ, tham ái đã được dứt bỏ, tà kiến đã được xả bỏ; do trạng thái đã dứt bỏ đối với tham ái, do trạng thái đã xả bỏ đối với tà kiến; – như vậy là ‘không nương tựa vào thời gian trước.’ Hoặc là, ‘Ta đã có sắc như vầy vào thời quá khứ,’ rồi dẫn đến việc vui mừng về điều ấy. ‘Ta đã có thọ như vầy … ‘Ta đã có tưởng như vầy … ‘Ta đã có hành như vầy … ‘Ta đã có thức như vầy vào thời quá khứ,’ rồi dẫn đến việc vui mừng về điều ấy; – như vậy cũng là ‘không nương tựa vào thời gian trước.’ Hoặc là, ‘Mắt của ta đã là như vầy vào thời quá khứ, các sắc đã là như vầy,’ thức không bị trói buộc vào sự mong muốn và luyến ái về điều ấy; do không có trạng thái bị trói buộc vào sự mong muốn và luyến ái của thức, nên không thích thú điều ấy; trong khi không thích thú điều ấy, – như vậy cũng là ‘không nương tựa vào thời gian trước.’ ‘Tai của ta đã là như vầy vào thời quá khứ, các thinh đã là như vầy,’ … ‘Mũi của ta đã là như vầy vào thời quá khứ, các hương đã là như vầy,’ … ‘Lưỡi của ta đã là như vầy vào thời quá khứ, các vị đã là như vầy,’ … ‘Thân của ta đã là như vầy vào thời quá khứ, các xúc đã là như vầy,’ … ‘Ý của ta đã là như vầy vào thời quá khứ, các pháp đã là như vầy,’ thức không bị trói buộc vào sự mong muốn và luyến ái về điều ấy; do trạng thái không bị trói buộc vào sự mong muốn và luyến ái của thức, nên không thích thú điều ấy; trong khi không thích thú điều ấy, – như vậy cũng là ‘không nương tựa vào thời gian trước.’ Hoặc là, người ấy có các việc cười hớt, chuyện trò, đùa giỡn với người nữ lúc trước đây, không khoái cảm điều ấy, không khao khát điều ấy, và không do điều ấy đạt được sự vui lòng; – như vậy cũng là ‘không nương tựa vào thời gian trước.’
Vemajjhenūpasaṅkheyyo ti – Vemajjhaṃ vuccati paccuppanno addhā, paccuppannaṃ addhānaṃ ārabbha taṇhā pahīnā hoti, diṭṭhi paṭinissaṭṭhā; taṇhāya pahīnattā diṭṭhiyā paṭinissaṭṭhattā ‘ratto ’ti nūpasaṅkheyyo, ‘duṭṭho ’ti nūpasaṅkheyyo, mūḷho ’ti nupasaṅkheyyo, vinibaddho ’ti nupasaṅkheyyo, ‘parāmaṭṭho ’ti nūpasaṅkheyyo, ‘vikkhepagato ’ti nūpasaṅkheyyo, ‘aniṭṭhaṃ gato ’ti nūpasaṅkheyyo, ‘thāmagato ’ti nūpasaṅkheyyo; te abhisaṅkhārā pahīnā; abhisaṅkhārānaṃ pahīnattā gatiyā nupasaṅkheyyo: nerayikoti vā tiracchānayonikoti vā pettivisayikoti vā manussoti vā devoti vā rūpīti vā arūpīti vā saññīti vā asaññīti vā nevasaññīnāsaññīti vā; so hetu natthi paccayo natthi, kāraṇaṃ natthi, yena saṅkhaṃ gaccheyyā ’ti – ‘vemajjhenūpasaṅkheyyo.’
Ở vào khoảng giữa không thể phân hạng – Khoảng giữa nói đến thời vị lai. Liên quan đến thời vị lai, tham ái là được dứt bỏ, tà kiến là được xả bỏ; do trạng thái đã dứt bỏ đối với tham ái, do trạng thái đã xả bỏ đối với tà kiến, không thể phân hạng là ‘luyến ái,’ không thể phân hạng là ‘sân hận,’ không thể phân hạng là ‘si mê,’ không thể phân hạng là ‘bảo thủ,’ không thể phân hạng là ‘bám víu,’ không thể phân hạng là ‘phóng đãng,’ không thể phân hạng là ‘không dứt khoát,’ không thể phân hạng là ‘cứng cỏi;’ các pháp tạo tác ấy đã được dứt bỏ, do trạng thái đã dứt bỏ đối với các pháp tạo tác, không thể phân hạng theo cảnh giới tái sanh là ‘người địa ngục,’ hoặc ‘hạng sanh vào thai bào của loài thú,’ hoặc ‘người ở cảnh giới ngạ quỷ,’ hoặc ‘loài người,’ hoặc ‘Thiên nhân,’ hoặc ‘hữu hình,’ hoặc ‘vô hình,’ hoặc ‘hữu tưởng,’ hoặc ‘vô tưởng,’ hoặc ‘phi tưởng phi phi tưởng’? Không có nhân, không có duyên, không có lý do, mà bởi điều ấy vị ấy có thể đi đến sự định đặt;’ – ‘ở vào khoảng giữa không thể phân hạng’ là như thế.
Tassa natthi purekkhatan ti – Tassā ti arahato khīṇāsavassa. Purekkhāro ti dve purekkhārā: taṇhāpurekkhāro ca diṭṭhipurekkhāro ca, ―pe― ayaṃ taṇhāpurekkhāro ―pe― ayaṃ diṭṭhipurekkhāro. Tassa taṇhāpurekkhāro pahīno, diṭṭhipurekkhāro paṭinissaṭṭho; taṇhāpurekkhārassa pahīnattā diṭṭhipurekkhārassa paṭinissaṭṭhattā, na taṇhaṃ vā diṭṭhiṃ vā purato katvā carati, na taṇhādhajo na taṇhāketu na taṇhādhipateyyo, na diṭṭhidhajo na diṭṭhiketu na diṭṭhādhipateyyo, na taṇhāya vā diṭṭhiyā vā parivārito carati; evampi – ‘tassa natthi purekkhataṃ. Athavā, ‘evaṃrūpo siyaṃ anāgatamaddhānan ’ti, tattha nandiṃ na samannāneti; evampi ‘tassa natthi purekkhataṃ;’ ‘evaṃvedano siyaṃ … evaṃsañño siyaṃ … evaṃsaṅkhāro siyaṃ … evaṃviññāṇo siyaṃ anāgatamaddhānan ’ti, tattha nandiṃ na samannāneti; evampi tassa natthi purekkhataṃ. Athavā, ‘iti me cakkhu siyā anāgatamaddhānaṃ, iti rūpā ’ti appaṭiladdhassa paṭilābhāya cittaṃ na paṇidahati; cetaso appanidhānappaccayā na tadabhinandati, na tadabhinandanto; evampi ‘tassa natthi purekkhataṃ.’ ‘Iti me sotaṃ siyā anāgatamaddhānaṃ, iti saddā ’ti – ‘iti me ghānaṃ siyā anāgatamaddhānaṃ, iti gandhā ’ti – ‘iti me jivhā siyā anāgatamaddhānaṃ, iti rasā’ ti – ‘iti me kāyo siyā anāgatamaddhānaṃ, iti phoṭṭhabbā ’ti – ‘iti me mano siyā anāgatamaddhānaṃ, iti dhammā ’ti appaṭiladdhassa paṭilābhāya cittaṃ na paṇidahati; cetaso appanidhānappaccayā na tadabhinandati, na tadabhinandanto; evampi – ‘tassa natthi purekkhataṃ.’ Athavā ‘imināhaṃ sīlena vā vatena vā tapena vā brahmacariyena vā devo vā bhavissāmi devaññataro vā ’ti appaṭiladdhassa paṭilābhāya cittaṃ na paṇidahati; cetaso appaṇidhānappaccayā na tadabhinandati, na tadabhinandanto; evampi – ‘tassa natthi purekkhataṃ.’
Việc mong ước là không có đối với vị ấy – Đối với vị ấy: đối với vị A-la-hán có lậu hoặc đã được cạn kiệt. Việc mong ước – Có hai sự mong ước: mong ước do tham ái và mong ước do tà kiến. ―như trên― điều này là mong ước do tham ái. ―như trên― điều này là mong ước do tà kiến. Đối với vị ấy, sự mong ước do tham ái đã được dứt bỏ, sự mong ước do tà kiến đã được xả bỏ; do trạng thái đã dứt bỏ đối với sự mong ước do tham ái, do trạng thái đã xả bỏ đối với sự mong ước do tà kiến, vị ấy sống, không mong ước tham ái hoặc tà kiến, không có tham ái là ngọn cờ, không có tham ái là biểu hiện, không có tham ái là chủ đạo, không có tà kiến là ngọn cờ, không có tà kiến là biểu hiện, không có tà kiến là chủ đạo, vị ấy sống không bị vây quanh bởi tham ái hoặc bởi tà kiến; – ‘việc mong ước là không có đối với vị ấy’ là như vậy. Hoặc là, ‘Ta sẽ có sắc như vầy vào thời vị lai,’ rồi không dẫn đến việc vui mừng về điều ấy; như vậy là ‘việc mong ước là không có đối với vị ấy.’ ‘Ta sẽ có thọ như vầy … ‘Ta sẽ có tưởng như vầy … ‘Ta sẽ có hành như vầy … ‘Ta sẽ có thức như vầy vào thời vị lai,’ rồi không dẫn đến việc vui mừng về điều ấy; – như vậy cũng là ‘việc mong ước là không có đối với vị ấy.’ Hoặc là, ‘Mắt của ta sẽ là như vầy vào thời vị lai, các sắc sẽ là như vầy,’ rồi không chuyên chú tâm vào việc đạt được điều chưa đạt được; do duyên không chuyên chú của tâm, nên không thích thú điều ấy; trong khi không thích thú điều ấy, – như vậy cũng là ‘việc mong ước là không có đối với vị ấy.’ ‘Tai của ta sẽ là như vầy vào thời vị lai, các thinh sẽ là như vầy,’ … ‘Mũi của ta sẽ là như vầy vào thời vị lai, các hương sẽ là như vầy,… ‘Lưỡi của ta sẽ là như vầy vào thời vị lai, các vị sẽ là như vầy,’ … ‘Thân của ta sẽ là như vầy vào thời vị lai, các xúc sẽ là như vầy,’ … ‘Ý của ta sẽ là như vầy vào thời vị lai, các pháp sẽ là như vầy,’ rồi không chuyên chú tâm vào việc đạt được điều chưa đạt được; do duyên không chuyên chú của tâm, nên không thích thú điều ấy; trong khi không thích thú điều ấy, – như vậy cũng là ‘việc mong ước là không có đối với vị ấy.’ Hoặc là, ‘Với giới này, hay với phận sự này, hay với sự khắc khổ này, hay với Phạm hạnh này, ta sẽ trở thành Thiên Vương hoặc một Thiên nhân nào đó,’ rồi không chuyên chú tâm vào việc đạt được điều chưa đạt được; do duyên không chuyên chú của tâm, nên không thích thú điều ấy; trong khi không thích thú điều ấy, – như vậy cũng là ‘việc mong ước là không có đối với vị ấy.’
Tenāha bhagavā:
“Vītataṇho purābhedā (iti bhagavā) pubbamantamanissito, vemajjhenūpasaṅkheyyo tassa natthi purekkhatan ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
(Đức Thế Tôn nói:) “Vị có tham ái đã được xa lìa, trước khi hoại rã (xác thân), không nương tựa vào thời gian trước (quá khứ), ở vào khoảng giữa (hiện tại) không thể phân hạng; việc mong ước là không có đối với vị ấy.”
10.3
Akkodhano asantāsī avikatthī akukkuco mantabhāṇī anuddhato sa ve vācāyato muni.
Không có sự giận dữ, không có sự xao động, không có sự phô trương, không có sự hối hận, có lời nói khôn khéo, không bị phóng túng, vị ấy quả thật là bậc hiền trí đã thu thúc về khẩu.
Không phẫn nộ, không sợ,
Không khoa đại, không hối,
Nói hòa nhã, không động,
Bậc ẩn sĩ thận ngôn.
(Kinh Tập, câu kệ 850)
Akkodhano asantāsī ’ti – Akkodhano ti hi kho vuttaṃ, api ca kodho tāva vattabbo. Dasahākārehi kodho jāyati: ‘Anatthaṃ me acarī ’ti kodho jāyati. ‘Anatthamme caratī ’ti kodho jāyati. ‘Anatthamme carissatī ’ti kodho jāyati. ‘Piyassa me manāpassa anatthaṃ acari … anatthaṃ carati … anatthaṃ carissatī ’ti kodho jāyati. ‘Appiyassa me amanāpassa atthaṃ acari … atthaṃ carati … atthaṃ carissatī ’ti kodho jāyati. Aṭṭhāne vā pana kodho jāyati. Yo evarūpo cittassa āghāto paṭighāto paṭighaṃ paṭivirodho kopo pakopo sampakopo doso padoso sampadoso, cittassa vyāpatti manopadoso kodho kujjhanā kujjhitattaṃ doso dussanā dussitattaṃ vyāpatti vyāpajjanā vyāpajjitattaṃ virodho paṭivirodho caṇḍikkaṃ asuropo anattamanatā cittassa; ayaṃ vuccati kodho.
Không có sự giận dữ, không có sự xao động – Bởi vì ‘sự không giận dữ’ được nói đến, trước hết sự giận dữ nên được nói đến. Sự giận dữ sanh lên theo mười biểu hiện: (Nghĩ rằng): ‘Nó đã làm điều bất lợi cho ta,’ giận dữ sanh khởi. (Nghĩ rằng): ‘Nó đang làm điều bất lợi cho ta,’ giận dữ sanh khởi. (Nghĩ rằng): ‘Nó sẽ làm điều bất lợi cho ta,’ giận dữ sanh khởi. (Nghĩ rằng): ‘Nó đã làm điều bất lợi … đang làm điều bất lợi … sẽ làm điều bất lợi cho người yêu quý, hợp ý của ta,’ giận dữ sanh khởi. (Nghĩ rằng): ‘Nó đã làm điều có lợi … đang làm điều có lợi … sẽ làm điều có lợi cho người không yêu quý, không hợp ý của ta,’ giận dữ sanh khởi. Thêm nữa là sự giận dữ sanh khởi vô cớ. Cái nào có hình thức là sự gây tổn hại, sự gây thương tổn, sự thù hận, sự đối chọi, sự căm giận, sự căm hờn, sự căm ghét, sự sân hận, sự nổi sân, sự sân nộ của tâm; sự độc ác, ý sân hận, sự giận dữ, biểu hiện giận dữ, trạng thái giận dữ, sự sân hận, biểu hiện sân hận, trạng thái sân hận, sự độc ác, biểu hiện độc ác, trạng thái độc ác, sự chống đối, sự đối chọi, sự tàn nhẫn, sự lỗ mãng, trạng thái không hoan hỷ của tâm; điều này được gọi là sự giận dữ.
Api ca, kodhassa adhimattaparittatā veditabbā: Atthi kañci kālaṃ kodho cittāvilakaraṇamatto hoti, na ca tāva mukhakulānavikulāno hoti; atthi kañci kālaṃ kodho mukhakulānavikulānamatto hoti, na ca tāva hanusañcopano hoti; atthi kañci kālaṃ kodho hanusañcopanamatto hoti, na ca tāva pharusavācānicchāraṇo hoti; atthi kañci kālaṃ kodho pharusavācā-nicchāraṇamatto hoti, na ca tāva disāvidisānuvilokano hoti; atthi kañci kālaṃ kodho disāvidisānuvilokanamatto hoti, na ca tāva daṇḍasattha-parāmasano hoti; atthi kañci kālaṃ kodho daṇḍasatthaparāmasanamatto hoti, na ca tāva daṇḍasattha-abbhukkiraṇo hoti; atthi kañci kālaṃ kodho daṇḍasattha-abbhukkiraṇamatto hoti, na ca tāva daṇḍasattha-abhinipātano hoti; atthi kañci kālaṃ kodho daṇḍasattha-abhinipātanamatto hoti, na ca tāva chinnavichinna karaṇo hoti; atthi kañci kālaṃ kodho chinnavichinnakaraṇamatto hoti, na ca tāva sambhañjanapaḷibhañjano hoti; atthi kañci kālaṃ kodho sambhañjanapaḷibhañjanamatto hoti, na ca tāva aṅgam-aṅgāpakaḍḍhano hoti; atthi kañci kālaṃ kodho aṅgamaṅgāpakaḍḍhanamatto hoti, na ca tāva jīvitā voropaṇo hoti; atthi kañci kālaṃ kodho jīvitā voropaṇamatto hoti, na ca tāva sabbacāgapariccāgāya saṇṭhito hoti. Yato kodho parapuggalaṃ ghātetvā attānaṃ ghāteti, ettāvatā kodho paramussadagato paramavepullappatto hoti
Thêm nữa, trạng thái nhiều ít của sự giận dữ nên được nói đến: Có lúc sự giận dữ là ở mức độ làm xáo trộn tâm, nhưng chưa nhíu mày nhăn mặt; có lúc sự giận dữ là ở mức độ nhíu mày nhăn mặt, nhưng chưa nghiến hai hàm răng; có lúc sự giận dữ là ở mức độ nghiến hai hàm răng, nhưng chưa thốt ra lời nói thô lỗ; có lúc sự giận dữ là ở mức độ thốt ra lời nói thô lỗ, nhưng chưa nhìn trừng trừng; có lúc sự giận dữ là ở mức độ nhìn trừng trừng, nhưng chưa nắm lấy gậy gộc gươm đao; có lúc sự giận dữ là ở mức độ nắm lấy gậy gộc gươm đao, nhưng chưa giơ gậy gộc gươm đao lên; có lúc sự giận dữ là ở mức độ giơ gậy gộc gươm đao lên, nhưng chưa giáng gậy gộc gươm đao xuống; có lúc sự giận dữ là ở mức độ giáng gậy gộc gươm đao xuống, nhưng chưa làm việc băm chém; có lúc sự giận dữ là ở mức độ làm việc băm chém, nhưng chưa có sự tổn thương gãy vỡ; có lúc sự giận dữ là ở mức độ có sự tổn thương gãy vỡ, nhưng chưa có sự tách rời các phần cơ thể; có lúc sự giận dữ là ở mức độ có sự tách rời các phần cơ thể, nhưng chưa có sự đoạt lấy mạng sống; có lúc sự giận dữ là ở mức độ có sự đoạt lấy mạng sống, nhưng chưa đến mức buông bỏ tất cả luôn cả việc tự sát. Khi sự giận dữ khiến cho giết chết người rồi giết chết mình, đến chừng ấy thì sự giận dữ đã đạt đến mức quá lố, đã đạt đến mức tận cùng.
Yassa so kodho pahīno samucchinno vūpasanto paṭippassaddho abhabbuppattiko ñāṇagginā daḍḍho, so vuccati ‘akkodhano.’ Kodhassa pahīnattā ‘akkodhano.’ Kodhavatthussa pariññātattā ‘akkodhano.’ Kodhahetussa upacchinnattā akkodhano ’ti – akkodhano.
Asantāsī ti – Idhekacco tāsī hoti uttāsī parittāsī, so tasati uttasati parittasati bhāyati santāsaṃ āpajjati: kulaṃ vā na labhāmi, gaṇaṃ vā na labhāmi, āvāsaṃ vā na labhāmi, lābhaṃ vā na labhāmi, yasaṃ vā na labhāmi, pasaṃsaṃ vā na labhāmi, sukhaṃ vā na labhāmi, cīvaraṃ vā na labhāmi, piṇḍapātaṃ vā na labhāmi, senāsanaṃ vā na labhāmi, gilānapaccayabhesajjaparikkhāraṃ vā na labhāmi gilānūpaṭṭhākaṃ vā na labhāmi, appaññātomhī ’ti tasati uttasati parittasati bhāyati santāsaṃ āpajjati.
Idha bhikkhu asantāsī hoti anuttāsī aparittāsī, so na tasati na uttasati na parittasati na bhāyati na santāsaṃ āpajjati: kulaṃ vā na labhāmi, gaṇaṃ vā na labhāmi, āvāsaṃ vā na labhāmi, lābhaṃ vā na labhāmi, yasaṃ vā na labhāmi, pasaṃsaṃ vā na labhāmi, sukhaṃ vā na labhāmi, cīvaraṃ vā na labhāmi, piṇḍapātaṃ vā na labhāmi, senāsanaṃ vā na labhāmi, gilānapaccayabhesajjaparikkhāraṃ vā na labhāmi, gilānūpaṭṭhākaṃ vā na labhāmi, appaññātomhī ’ti na tasati na uttasati na parittasati na bhāyati na santāsaṃ āpajjatī ’ti – akkodhano asantāsī.
Avikatthī akukkuco ti – Idhekacco katthī hoti vikatthī, so katthati vikatthati: ahamasmi sīlasampannoti vā vatasampannoti vā sīlabbatasampannoti vā, jātiyā vā gottena vā kolaputtiyena vā vaṇṇapokkharatāya vā dhanena vā ajjhenena vā kammāyatanena vā sippāyatanena vā vijjāṭṭhānena vā sutena vā paṭibhānena vā aññataraññatarena vā vatthunā, uccākulā pabbajitoti vā mahākulā pabbajitoti vā mahābhogakulā pabbajitoti vā uḷārabhogakulā pabbajitoti vā, ñāto yasassī sagahaṭṭhapabbajitānanti vā, lābhīmhi cīvarapiṇḍapātasenāsanagilānappaccayabhesajjaparikkhārānanti vā, suttantikoti vā vinayadharoti vā dhammakathikoti vā, āraññikoti vā piṇḍapātikoti vā paṃsukūlikoti vā tecīvarikoti vā sapadānacārikoti vā khalupacchābhattikoti vā nesajjikoti vā yathāsanthatikoti vā, paṭhamassa jhānassa lābhīti vā, dutiyassa jhānassa lābhīti vā, tatiyassa jhānassa lābhīti vā, catutthassa jhānassa lābhīti vā, ākāsānañcāyatanasamāpattiyā viññāṇañcāyatanasamāpattiyā ākiñcaññāyatanasamāpattiyā nevasaññānāsaññāyatanasamāpattiyā lābhīti vā katthati vikatthati. Evaṃ na katthati, na vikatthati; katthanā vikatthanā ārato virato paṭivirato nikkhanto nissaṭo vippamutto visaññutto vimariyādīkatena cetasā viharatī ’ti – avikatthī.
Akukkuco ti – Kukkuccan ti hatthakukkuccampi kukkuccaṃ, pādakukkuccampi kukkuccaṃ, hatthapādakukkuccampi kukkuccaṃ, akappiye kappiyasaññitā, kappiye akappiyasaññitā, vikāle kālasaññitā, kāle vikālasaññitā, avajje vajjasaññitā, vajje avajjasaññitā. Yaṃ evarūpaṃ kukkuccaṃ kukkuccāyanā kukkuccāyitattaṃ, cetaso vippaṭisāro manovilekho, idaṃ vuccati kukkuccaṃ.
Api ca dvīhi kāraṇehi uppajjati kukkuccaṃ cetaso vippaṭisāro manovilekho: katattā ca akatattā ca. Kathaṃ katattā ca akatattā ca uppajjati kukkuccaṃ cetaso vippaṭisāro manovilekho? ‘Kataṃ me kāyaduccaritaṃ, akataṃ me kāyasucaritan ’ti uppajjati kukkuccaṃ cetaso vippaṭisāro manovilekho; ‘Kataṃ me vacīduccaritaṃ, akataṃ me vacīsucaritan ’ti uppajjati kukkuccaṃ cetaso vippaṭisāro manovilekho; ‘Kataṃ me manoduccaritaṃ, akataṃ me manosucaritan ’ti uppajjati kukkuccaṃ cetaso vippaṭisāro manovilekho; ‘Kato me pāṇātipāto, akatā me pāṇātipātā veramaṇī ’ti uppajjati kukkuccaṃ cetaso vippaṭisāro manovilekho; ‘Kataṃ me adinnādānaṃ akatā me adinnādānā veramaṇī ’ti uppajjati kukkuccaṃ cetaso vippaṭisāro manovilekho; ‘Kato me kāmesu micchācāro, akatā me kāmesu micchācārā veramaṇī ’ti uppajjati kukkuccaṃ cetaso vippaṭisāro manovilekho; ‘Kato me musāvādo, akatā me musāvādā veramaṇī ’ti – ‘Katā me pisunā vācā, akatā me pisuṇāya vācāya veramaṇī ’ti – ‘Katā me pharusā vācā, akatā me pharusāya vācāya veramaṇī ’ti – ‘Kato me samphappalāpo, akatā me samphappalāpā veramaṇī ’ti – ‘Katā me abhijjhā, akatā me anabhijjhā ’ti – ‘Kato me vyāpādo, akato me avyāpādo ’ti – ‘Katā me micchādiṭṭhi, akatā me sammādiṭṭhī ’ti uppajjati kukkuccaṃ cetaso vippaṭisāro manovilekho. Evaṃ katattā ca akatattā ca uppajjati kukkuccaṃ cetaso vippaṭisāro manovilekho.
Athavā ‘sīlesumhi na paripūrakārī ’ti uppajjati kukkuccaṃ cetaso vippaṭisāro manovilekho. ‘Indriyesumhi aguttadvāro ’ti – ‘Bhojane amattaññūmhī ’ti – ‘Jāgariyaṃ ananuyuttomhī ’ti – ‘Na sati sampajaññena samannāgatomhī ’ti – ‘Abhāvitā me cattāro satipaṭṭhānā ’ti – ‘Abhāvitā me cattāro sammappadhānā ’ti – ‘Abhāvitā me cattāro iddhipādā ’ti – ‘Abhāvitāni me pañcindriyānī ’ti – ‘Abhāvitāni me pañcabalānī ’ti – ‘Abhāvitā me satta bojjhaṅgā ’ti – ‘Abhāvito me ariyo aṭṭhaṅgiko maggo ’ti – ‘Dukkhaṃ me apariññātan ’ti – ‘Samudayo me appahīno ’ti – ‘Maggo me abhāvito ’ti – ‘Nirodho me asacchikato ’ti uppajjati kukkuccaṃ cetaso vippaṭisāro manovilekho. Yassetaṃ kukkuccaṃ pahīnaṃ samucchinnaṃ vūpasantaṃ paṭippassaddhaṃ abhabbuppattikaṃ ñāṇagginā daḍḍhaṃ, so vuccati akukkucco ’ti – avikatthī akukkuco.
Mantabhāṇī anuddhato ti – Mantā vuccati paññā, yā paññā pajānanā – amoho dhammavicayo sammādiṭṭhi; mantāya pariggahetvā vācaṃ bhāsati, bahumpi kathento bahumpi bhaṇanto bahumpi dīpayanto bahumpi voharanto dukkathitaṃ dubhaṇitaṃ dullapitaṃ duruttaṃ dubbhāsitaṃ vācaṃ na bhāsatī ’ti mantabhāṇī. Anuddhato – Tattha katamaṃ uddhaccaṃ? Yaṃ cittassa uddhaccaṃ avūpasamo cetaso vikkhepo bhantattaṃ cittassa, idaṃ vuccati uddhaccaṃ. Yassetaṃ uddhaccaṃ pahīnaṃ samucchinnaṃ vūpasantaṃ paṭippassaddhaṃ abhabbuppattikaṃ ñāṇagginā daḍḍhaṃ, so vuccati anuddhato ’ti – mantabhāṇī anuddhato.
Sa ve vācāyato munī ti – Idha bhikkhu musāvādaṃ pahāya musāvādā paṭivirato hoti, saccavādī saccasandho theto paccayiko avisaṃvādako lokassa. Pisunaṃ vācaṃ pahāya pisunāya vācāya paṭivirato hoti; ito sutvā na amutra akkhātā imesaṃ bhedāya, amutra vā sutvā na imesaṃ akkhātā amūsaṃ bhedāya, iti bhinnānaṃ vā sandhātā sahitānaṃ vā anuppadātā samaggārāmo samaggarato samagganandī samaggakaraṇiṃ vācaṃ bhāsitā hoti. Pharusaṃ vācaṃ pahāya pharusāya vācāya paṭivirato hoti, yā sā vācā neḷā kaṇṇasukhā pemanīyā hadayaṅgamā porī bahujanakantā bahujanamanāpā, tathārūpiṃ vācaṃ bhāsitā hoti. Samphappalāpaṃ pahāya samphappalāpā paṭivirato hoti, kālavādī bhūtavādī atthavādī dhammavādī vinayavādī nidhānavatiṃ vācaṃ bhāsitā hoti, kālena sāpadesaṃ pariyantavatiṃ atthasaṃhitaṃ. Catuhi vacīsucaritehi samannāgato catudosāpagataṃ vācaṃ bhāsati, dvattiṃsāya tiracchānakathāya ārato assa virato paṭivirato nikkhanto nissaṭo vippamutto visaññutto vimariyādīkatena cetasā viharati.
Dasa kathāvatthūni katheti, seyyathīdaṃ? Appicchakathaṃ katheti, santuṭṭhikathaṃ katheti, pavivekakathaṃ asaṃsaggakathaṃ, viriyārambhakathaṃ, sīlakathaṃ, samādhikathaṃ, paññākathaṃ, vimuttikathaṃ, vimuttiñāṇadassanakathaṃ, satipaṭṭhānakathaṃ, sammappadhānakathaṃ, iddhipādakathaṃ, indriyakathaṃ, balakathaṃ, bojjhaṅgakathaṃ, maggakathaṃ, phalakathaṃ, nibbānakathaṃ katheti; vācāya yato yatto pariyatto gutto gopito rakkhito vūpasanto. Munī ti monaṃ vuccati ñāṇaṃ, yā paññā pajānanā ―pe― amoho dhammavicayo sammādiṭṭhi1 ―pe― saṅgajālamaticca so munī ’ti – sa ve vācāyato muni.
Tenāha bhagavā:
“Akkodhano asantāsī avikatthī akukkuco,
mantabhāṇī anuddhato sa ve vācāyato munī ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Không có sự giận dữ, không có sự xao động, không có sự phô trương, không có sự hối hận, có lời nói khôn khéo, không bị phóng túng, vị ấy quả thật là bậc hiền trí đã thu thúc về khẩu.”
10.4
Nirāsatti anāgate atītaṃ nānusocati,vivekadassī phassesu diṭṭhīsu ca na nīyati.
Vị không có sự dính mắc ở tương lai, không sầu muộn về quá khứ, nhìn thấy sự viễn ly ở các xúc, và không bị dẫn đi bởi các tà kiến.
Không ước vọng tương lai,
Không sầu muộn quá khứ,
Thấy viễn ly giữa xúc,
Không để kiến dắt dẫn.
(Kinh Tập, câu kệ 851)
Nirāsatti anāgate ti – Āsatti vuccati taṇhā, yo rāgo sārāgo ―pe― abhijjhā lobho akusalamūlaṃ. Yassesā āsatti taṇhā pahīnā samucchinnā vūpasantā paṭippassaddhā abhabbuppattikā ñāṇagginā daḍḍhā ’ti, – evampi ‘nirāsatti anāgate.’ Athavā, ‘evaṃrūpo siyaṃ anāgatamaddhānan ’ti tattha nandiṃ na samannāneti, ‘evaṃvedano siyaṃ ― ‘evaṃsañño siyaṃ ― ‘evaṃsaṅkhāro siyaṃ ― ‘evaṃviññāṇo siyaṃ anāgatamaddhānan ’ti tattha nandiṃ na samannāneti, – evampi ‘nirāsatti anāgate.’ Athavā, ‘iti me cakkhuṃ siyā anāgatamaddhānaṃ, iti rūpā ’ti appaṭiladdhassa paṭilābhāya cittaṃ na paṇidahati, cetaso appaṇidhānappaccayā na tadabhinandati, na tadabhinandanto, – evampi ‘nirāsatti anāgate;’ ‘iti me sotaṃ siyā anāgatamaddhānaṃ, iti saddā ’ti ―pe― ‘iti me mano siyā anāgatamaddhānaṃ, iti dhammā ’ti appaṭiladdhassa paṭilābhāya cittaṃ na paṇidahati; cetaso appanidhānappaccayā na tadabhinandati; na tadabhinandanto, – evampi ‘nirāsatti anāgate.’ Athavā ‘imināhaṃ sīlena vā vatena vā tapena vā brahmacariyena vā devo vā bhavissāmi devaññataro vā ’ti appaṭiladdhassa paṭilābhāya cittaṃ na paṇidahati; cetaso appaṇidhānappaccayā na tadabhinandati, na tadabhinandanto – evampi ‘nirāsatti anāgate.’
Atītaṃ nānusocatī ti – vipariṇataṃ vā vatthuṃ na socati, vipariṇatasmiṃ vā vatthusmiṃ na socati; cakkhuṃ me vipariṇatanti na socati, sotaṃ me ― ghānaṃ me ― jivhā me ― kāyo me ― rūpā me ― saddā me ― gandhā me ― rasā me ― phoṭṭhabbā me ― kulaṃ me ― gaṇo me ― āvāso me ― lābho me ― yaso me ― pasaṃsā me ― sukhaṃ me ― cīvaraṃ me ― piṇḍapāto me ― senāsanaṃ me ― gilānapaccayabhesajjaparikkhāro me — mātā me ― pitā me ― bhātā me ― bhaginī me ― putto me ― dhītā me ― mittā me ― amaccā me ― ñātakā me ― sālohitā me vipariṇatāti na socati na kilamati na paridevati na urattāḷiṃ kandati na sammohaṃ āpajjatī ’ti – atītaṃ nānusocati.
Vivekadassī phassesū ti – Phasso ti cakkhusamphasso sotasamphasso ghānasamphasso jivhāsamphasso kāyasamphasso manosamphasso adhivacanasamphasso paṭighasamphasso sukhavedanīyo phasso dukkhavedanīyo phasso adukkhamasukhavedanīyo phasso, kusalo phasso akusalo phasso abyākato phasso kāmāvacaro phasso rūpāvacaro phasso arūpāvacaro phasso suññato phasso animitto phasso appaṇihito phasso lokiyo phasso lokuttaro phasso atīto phasso anāgato phasso paccuppanno phasso; yo evarūpo phasso phusanā samphusanā samphusitattaṃ, ayaṃ vuccati phasso.
Vivekadassī phassesū ti – Cakkhusamphassaṃ vivittaṃ passati attena vā attaniyena vā niccena vā dhuvena vā sassatena vā avipariṇāmadhammena vā, sotasamphassaṃ vivittaṃ passati ― ghānasamphassaṃ vicittaṃ passati ― jivhāsamphassaṃ vivittaṃ passati kāyasamphassaṃ vivittaṃ passati ― manosamphassaṃ vivittaṃ passati ― adhivacanasamphassaṃ vivittaṃ passati paṭighasamphassaṃ vivittaṃ passati ― sukhavedanīyaṃ phassaṃ ― dukkhavedanīyaṃ phassaṃ ― adukkhamasukhavedanīyaṃ phassaṃ ― kusalaṃ phassaṃ ― akusalaṃ phassaṃ ― avyākataṃ phassaṃ ― kāmāvacaraṃ phassaṃ ― rūpāvacaraṃ phassaṃ ― arūpāvacaraṃ phassaṃ ― lokiyaṃ phassaṃ vivittaṃ passati attena vā attaniyena vā niccena vā dhuvena vā sassatena vā avipariṇāmadhammena vā. Athavā, atītaṃ phassaṃ anāgatehi ca paccuppannehi ca phassehi vivittaṃ passati, anāgataṃ phassaṃ atītehi ca paccuppannehi ca phassehi vivittaṃ passati, paccuppannaṃ phassaṃ atītehi ca anāgatehi ca phassehi vivittaṃ passati. Athavā, ye te phassā ariyā anāsavā lokuttarā suññatāpaṭisaññuttā, te phasse vivitte passati rāgena dosena mohena kodhena upanāhena makkhena paḷāsena issāya macchariyena māyāya sāṭheyyena thambhena sārambhena mānena atimānena madena pamādena sabbakilesehi sabbaduccaritehi sabbadarathehi sabbapariḷāhehi sabbasantāpehi sabbakusalābhisaṅkhārehi vivitte passatī ’ti – vivekadassī phassesu.
Diṭṭhīsu ca na nīyatī ’ti – Tassa dvāsaṭṭhi diṭṭhigatāni pahīnāni samucchinnāni vūpasantāni paṭippassaddhāni abhabbuppattikāni ñāṇagginā daḍḍhāni. So diṭṭhiyā na yāyati na nīyati na vuyhati na saṃharīyati napi taṃ diṭṭhigataṃ sārato pacceti na paccāgacchatī ’ti – ‘diṭṭhīsu ca na nīyati.’
Tenāha bhagavā: “Nirāsatti anāgate atītaṃ nānusocati, vivekadassī phassesu diṭṭhīsu ca na nīyatī ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Vị không có sự dính mắc ở tương lai, không sầu muộn về quá khứ, nhìn thấy sự viễn ly ở các xúc, và không bị dẫn đi bởi các tà kiến.”
10.5
Patilīno akuhako apihālu amaccharī, appagabbho ajeguccho pesuneyye ca no yuto.
Vị đã xa rời (các bất thiện pháp), không lừa gạt, không mong cầu, không bỏn xẻn, không xấc xược, không gây nhờm gớm, và không can dự vào việc nói đâm thọc.
Sống riêng, không man trá,
Không thích, không xan tham,
Không xông xáo nhàm chán,
Không đi đến hai lưỡi.
(Kinh Tập, câu kệ 852)
Patilīno akuhako ti – Patilīno ti rāgassa pahīnattā patilīno dosassa pahīnattā patilīno mohassa pahīnattā patilīno; kodhassa – upanāhassa – makkhassa – paḷāsassa – issāya – macchariyassa –pe– sabbākusalābhisaṅkhārānaṃ pahīnattā patilīno. Vuttaṃ hetaṃ bhagavatā: “Kathañca bhikkhave bhikkhu patilīno hoti? Imassa bhikkhave bhikkhuno asmimāno pahīno hoti ucchinnamūlo tālāvatthukato anabhāvakato āyatiṃ anuppādadhammo. Evaṃ kho bhikkhave bhikkhu patilīno hotī ”ti – patilīno.
Akuhako ti – Tīṇi kuhanavatthūni: paccayapaṭisedhanasaṅkhātaṃ kuhanavatthu, iriyāpathasaṅkhātaṃ kuhanavatthu, sāmantajappanasaṅkhātaṃ kuhanavatthu.
Katamaṃ paccayapaṭisedhanasaṅkhātaṃ kuhanavatthu? Idha gahapatikā bhikkhuṃ nimantenti cīvara-piṇḍapāta-senāsana-gilānapaccayabhesajjaparikkhārehi. So pāpiccho icchāpakato atthiko cīvara-piṇḍapāta-senāsana-gilānapaccayabhesajjaparikkhārānaṃ bhiyyokamyataṃ upādāya cīvaraṃ paccakkhāti piṇḍapātaṃ paccakkhāti senāsanaṃ paccakkhāti gilānapaccayabhesajjaparikkhāraṃ paccakkhāti. So evamāha: Kiṃ samaṇassa mahagghena cīvarena? Etaṃ sāruppaṃ – yaṃ samaṇo susānā vā saṅkārakūṭā vā pāpaṇikā vā nantakāni uccinitvā saṅghāṭiṃ dhāreyya. Kiṃ samaṇassa mahagghena piṇḍapātena? Etaṃ sāruppaṃ – yaṃ samaṇo uñchācariyāya piṇḍiyālopena jīvikaṃ kappeyya. Kiṃ samaṇassa mahagghena senāsanena? Etaṃ sāruppaṃ – yaṃ samaṇo rukkhamūliko vā assa sosāniko vā abbhokāsiko vā. Kiṃ samaṇassa mahagghena gilānapaccayabhesajjaparikkhārena? Etaṃ sāruppaṃ – yaṃ samaṇo pūtimuttena vā harītakīkhaṇḍena vā osadhaṃ kareyyāti. Tadupādāya lūkhaṃ cīvaraṃ dhāreti, lūkhaṃ piṇḍapātaṃ paribhuñjati, lūkhaṃ senāsanaṃ paṭisevati, lūkhaṃ gilānapaccayabhesajjaparikkhāraṃ paṭisevati. Tamenaṃ gahapatikā evaṃ jānanti: Ayaṃ samaṇo appiccho santuṭṭho pavivitto asaṃsaṭṭho āraddhaviriyo dhutavādo ’ti, bhiyyo bhiyyo nimantenti cīvara-piṇḍapāta-senāsana-gilānapaccayabhesajjaparikkhārehi. So evamāha: “Tiṇṇaṃ sammukhībhāvā saddho kulaputto bahuṃ puññaṃ pasavati: Saddhāya sammukhībhāvā saddho kulaputto bahuṃ puññaṃ pasavati. Deyyadhammassa sammukhībhāvā saddho kulaputto bahuṃ puññaṃ pasavati. Dakkhiṇeyyānaṃ sammukhībhāvā saddho kulaputto bahuṃ puññaṃ pasavati. Tumhākaṃ cevāyaṃ saddhā atthi, deyyadhammo ca saṃvijjati. Ahañca paṭiggāhako. Sacehaṃ na paṭiggahessāmi, evaṃ tumhe puññena paribāhirā bhavissatha. Na mayhaṃ iminā attho. Api ca, tumhākaṃ yeva anukampāya paṭigaṇhāmī ”ti. Tadupādāya bahumpi cīvaraṃ paṭigaṇhāti, bahumpi piṇḍapātaṃ paṭigaṇhāti, bahumpi senāsanaṃ paṭigaṇhāti, bahumpi gilānapaccayabhesajjaparikkhāraṃ paṭigaṇhāti. Yā evarūpā bhākuṭitā bhākuṭiyaṃ kuhanā kuhāyanā kuhitattaṃ, idaṃ paccayapaṭisedhanasaṅkhātaṃ kuhanavatthu.
Kiểu cách lừa gạt có liên quan đến (bốn món) vật dụng là kiểu cách nào? Ở đây, các gia chủ thỉnh mời vị tỳ khưu về y phục, đồ ăn khất thực, chỗ nằm ngồi, và thuốc men chữa bệnh. Vị ấy có ước muốn xấu xa, bị thúc đẩy bởi ước muốn, có sự tầm cầu, do sự mong muốn được nhiều hơn về y phục, về đồ ăn khất thực, về chỗ nằm ngồi, về thuốc men chữa bệnh, rồi từ chối y phục, từ chối đồ ăn khất thực, từ chối chỗ nằm ngồi, từ chối thuốc men chữa bệnh. Vị ấy nói như sau: “Lợi ích gì cho vị Sa-môn với y phục đắt giá? Điều đúng đắn là vị Sa-môn nên nhặt các mảnh vải từ bãi tha ma, hoặc từ đống rác, hoặc từ vải bỏ của tiệm vải, rồi làm y hai lớp và mặc vào. Lợi ích gì cho vị Sa-môn với đồ ăn khất thực đắt giá? Điều đúng đắn là vị Sa-môn nên duy trì mạng sống bằng vắt thức ăn do việc đi khất thực. Lợi ích gì cho vị Sa-môn với chỗ nằm ngồi đắt giá? Điều đúng đắn là vị Sa-môn nên ngụ ở gốc cây, hoặc là ngụ ở mộ địa, hoặc là ngụ ở ngoài trời. Lợi ích gì cho vị Sa-môn với thuốc men chữa bệnh đắt giá? Điều đúng đắn là vị Sa-môn nên chế tạo thuốc men với nước tiểu bò hoặc với mẩu cây harītakī.” Từ đó trở đi, vị ấy mặc y thô tệ, ăn đồ ăn khất thực thô tệ, sử dụng chỗ nằm ngồi thô tệ, sử dụng thuốc men chữa bệnh thô tệ. Các gia chủ biết về vị ấy như vầy: “Vị Sa-môn này ít ham muốn, tự biết đủ, sống tách biệt, không giao du, có sự nỗ lực tinh tấn, thuyết về hạnh từ khước,” rồi thỉnh mời (vị ấy) về y phục, đồ ăn khất thực, chỗ nằm ngồi, và thuốc men chữa bệnh càng nhiều hơn nữa. Vị ấy nói như sau: “Do sự hiện diện của ba pháp, người thiện tín tạo ra nhiều phước báu: Do sự hiện diện của đức tin, người thiện tín tạo ra nhiều phước báu; do sự hiện diện của vật thí, người thiện tín tạo ra nhiều phước báu; do sự hiện diện của các bậc xứng đáng được cúng dường, người thiện tín tạo ra nhiều phước báu. Và các người là có đức tin, có vật thí, còn tôi là người thọ nhận. Nếu tôi không thọ nhận, như vậy các người sẽ mất phần phước báu. Không có lợi ích gì cho tôi với việc này, nhưng vì lòng thương tưởng đến các người mà tôi thọ nhận.” Từ đó trở đi, vị ấy thọ nhận nhiều y phục, thọ nhận nhiều đồ ăn khất thực, thọ nhận nhiều chỗ nằm ngồi, thọ nhận nhiều thuốc men chữa bệnh. Những việc có hình thức như là sự nhíu mày, trạng thái nhíu mày, việc lừa gạt, thái độ lừa gạt, trạng thái lừa gạt, đây là kiểu cách lừa gạt có liên quan đến (bốn món) vật dụng.
Katamaṃ iriyāpathasaṅkhātaṃ kuhanavatthu? Idhekacco pāpiccho icchāpakato sambhāvanādhippāyo ‘evaṃ maṃ jano sambhāvessatī ’ti gamanaṃ saṇṭhapeti, ṭhānaṃ saṇṭhapeti, nisajjaṃ saṇṭhapeti, sayanaṃ saṇṭhapeti, paṇidhāya gacchati, paṇidhāya tiṭṭhati, paṇidhāya nisīdati, paṇidhāya seyyaṃ kappeti, samāhito viya gacchati, samāhito viya tiṭṭhati, samāhito viya nisīdati, samāhito viya seyyaṃ kappeti, āpāthakajjhāyī ca hoti. Yā evarūpā iriyāpathassa aṭṭhapanā ṭhapanā saṇṭhapanā bhākuṭitā bhākuṭiyaṃ kuhanā kuhāyanā kuhitattaṃ; idaṃ iriyāpathasaṅkhātaṃ kuhanavatthu.
Kiểu cách lừa gạt từ các oai nghi là kiểu cách nào? Ở đây, có vị (tỳ khưu) có ước muốn xấu xa, bị thúc đẩy bởi ước muốn, mong muốn sự tôn kính (nghĩ rằng): ‘Như vầy mọi người sẽ tôn kính ta,’ rồi tạo dáng đi, tạo dáng đứng, tạo dáng ngồi, tạo dáng nằm, lập nguyện rồi mới đi, lập nguyện rồi mới đứng, lập nguyện rồi mới ngồi, lập nguyện rồi mới nằm, đi như là đã đắc định, đứng như là đã đắc định, ngồi như là đã đắc định, nằm như là đã đắc định, là người tham thiền giữa công chúng. Những việc có hình thức như là tạo dáng với sự trân trọng, biểu hiện tạo dáng, việc tạo dáng, sự nhíu mày, trạng thái nhíu mày, việc lừa gạt, thái độ lừa gạt, trạng thái lừa gạt ở các oai nghi, đây là kiểu cách lừa gạt từ các oai nghi.
Katamaṃ sāmantajappanasaṅkhātaṃ kuhanavatthu? Idhekacco pāpiccho icchāpakato sambhāvanādhippāyo ‘evaṃ maṃ jano sambhāvessatī ’ti ariyadhammasannissitaṃ vācaṃ bhāsati. ‘Yo evarūpaṃ cīvaraṃ dhāreti, so samaṇo mahesakkho ’ti bhaṇati. ‘Yo evarūpaṃ pattaṃ dhāreti, lohathālakaṃ dhāreti, dhammakarakaṃ dhāreti, parissāvanaṃ dhāreti, kuñcikaṃ dhāreti, upāhanaṃ dhāreti, kāyabandhanaṃ dhāreti, āyogaṃ dhāreti, so samaṇo mahesakkho ’ti bhaṇati. ‘Yassa evarūpo upajjhāyo so samaṇo mahesakkho ’ti bhaṇati. ‘Yassa evarūpo ācariyo, evarūpā samānupajjhāyakā samānācariyakā mittā sandiṭṭhā sambhattā sahāyā, so samaṇo mahesakkho ’ti bhaṇati. ‘Yo evarūpe vihāre vasati, so samaṇo mahesakkho ’ti bhaṇati. ‘Yo evarūpe aḍḍhayoge vasati, pāsāde vasati, hammiye vasati, guhāyaṃ vasati, leṇe vasati, kuṭiyā vasati, kūṭāgāre vasati, aṭṭe vasati, māḷe vasati, uddaṇḍe vasati, upaṭṭhānasālāyaṃ vasati, maṇḍape vasati, rukkhamūle vasati, so samaṇo mahesakkho ’ti bhaṇati.
Kiểu cách lừa gạt do việc nói gần nói xa là kiểu cách nào? Ở đây, có vị (tỳ khưu) có ước muốn xấu xa, bị thúc đẩy bởi ước muốn, mong muốn sự tôn kính (nghĩ rằng): ‘Như vầy mọi người sẽ tôn kính ta,’ rồi nói lời liên quan đến Thánh pháp. Nói rằng: ‘Vị nào mặc y như vầy, vị ấy là Sa-môn có uy lực lớn.’ Nói rằng: ‘Vị nào mang bình bát như vầy, mang bát nhỏ bằng đồng, mang bình nước, mang đồ lọc nước, mang chìa khóa, mang dép, mang dây thắt lưng, mang dây buộc như vầy, vị ấy là Sa-môn có uy lực lớn.’ Nói rằng: ‘Vị nào có thầy tế độ như vầy, vị ấy là Sa-môn có uy lực lớn.’ Nói rằng: ‘Vị nào có thầy dạy học như vầy, có các vị đồng thầy tế độ, các vị đồng thầy dạy học, các bạn bè, các vị đồng quan điểm, các vị thân thiết, hoặc các vị thân hữu như vầy, vị ấy là Sa-môn có uy lực lớn.’ Nói rằng: ‘Vị nào ngụ ở trú xá như vầy, vị ấy là Sa-môn có uy lực lớn.’ Nói rằng: ‘Vị nào ngụ ở nhà một mái như vầy, ngụ ở tòa lâu đài, ngụ ở tòa nhà dài, ngụ ở hang, ngụ ở động, ngụ ở cốc, ngụ ở nhà mái nhọn, ngụ ở chòi canh, ngụ ở ngôi nhà tròn, ngụ ở căn lều, ngụ ở hội trường, ngụ ở mái che, ngụ ở gốc cây, vị ấy là Sa-môn có uy lực lớn.’
Athavā, korañjikakorañjiko bhākuṭikabhākuṭiko kuhakakuhako lapakalapako, mukhasambhāvito ‘ayaṃ samaṇo imāsaṃ evarūpānaṃ santānaṃ vihārasamāpattīnaṃ lābhī ’ti tādisaṃ gambhīraṃ gūḷhaṃ nipuṇaṃ paṭicchannaṃ lokuttaraṃ suññatāpaṭisaṃyuttaṃ kathaṃ katheti. Yā evarūpā bhākuṭitā4 bhākuṭiyaṃ kuhanā kuhāyanā kuhitattaṃ. Idaṃ vuccati sāmantajappanasaṅkhātaṃ kuhanavatthu.
Hoặc là, vị giả nhân giả nghĩa, vị nhíu mặt nhăn mày, vị lừa gạt gian dối, vị tỉ tê nài nỉ, thể hiện ở khuôn mặt (để người khác hiểu lầm rằng): ‘Vị Sa-môn này đã đạt được các sự thể nhập an tịnh có hình thức như thế này,’ rồi thuyết bài giảng – thâm sâu, bí hiểm, vi tế, ẩn tàng, vô thượng ở thế gian, gắn liền với không tánh – tương đương với điều ấy. Những việc có hình thức như là nhíu mày, trạng thái nhíu mày, việc lừa gạt, thái độ lừa gạt, trạng thái lừa gạt, đây là kiểu cách lừa gạt do việc nói gần nói xa.
Yassimāni tīṇi kuhanavatthūni pahīnāni samucchinnāni vūpasantāni paṭippassaddhāni abhabbuppattikāni ñāṇagginā daḍḍhāni, so vuccati akuhako ’ti – ‘patilīno akuhako.
Đối với vị nào, ba kiểu cách lừa gạt này được dứt bỏ, được trừ tuyệt, được vắng lặng, được tịch tịnh, không thể sanh khởi nữa, đã được thiêu đốt bởi ngọn lửa trí tuệ, vị ấy được gọi là không lừa gạt – ‘vị đã xa rời (các bất thiện pháp), không lừa gạt’ là như thế.
Apihālu amaccharī ti – Pihā vuccati taṇhā, yo rāgo sārāgo –pe– abhijjhā lobho akusalamūlaṃ. Yassesā pihā taṇhā pahīnā samucchinnā vūpasantā paṭippassaddhā abhabbuppattikā ñāṇagginā daḍḍhā, so vuccati apihālu. So rūpe na piheti, sadde gandhe rase phoṭṭhabbe, kulaṃ gaṇaṃ āvāsaṃ lābhaṃ yasaṃ pasaṃsaṃ sukhaṃ, cīvaraṃ piṇḍapātaṃ senāsanaṃ gilānapaccayabhesajjaparikkhāraṃ kāmadhātuṃ rūpadhātuṃ arūpadhātuṃ, kāmabhavaṃ rūpabhavaṃ arūpabhavaṃ saññābhavaṃ asaññābhavaṃ nevasaññānāsaññābhavaṃ ekavokārabhavaṃ catuvokārabhavaṃ pañcavokārabhavaṃ, atītaṃ anāgataṃ paccuppannaṃ, diṭṭhasutamutaviññātabbe dhamme na piheti na icchati na sādiyati na pattheti nābhijappatī ’ti – ‘apihālu.’ Amaccharī ti pañca macchariyāni: āvāsamacchariyaṃ kulamacchariyaṃ vaṇṇamacchariyaṃ lābhamacchariyaṃ dhammamacchariyaṃ, yaṃ evarūpaṃ macchariyaṃ maccharāyanā maccharāyitattaṃ vevicchaṃ kadariyaṃ kaṭukañcukatā aggahitattaṃ cittassa, idaṃ vuccati macchariyaṃ. Api ca, khandhamacchariyampi macchariyaṃ, dhātumacchariyampi macchariyaṃ, āyatanamacchariyampi macchariyaṃ, gāho, idaṃ vuccati macchariyaṃ. Yassetaṃ macchariyaṃ pahīnaṃ samucchinnaṃ vūpasantaṃ paṭippassaddhaṃ abhabbuppattikaṃ ñāṇagginā daḍḍhaṃ, so vuccati amaccharī ’ti – ‘apihālu amaccharī.’
Appagabbho ajeguccho ti – Pāgabbhiyan ti tīṇi pāgabbhiyāni: kāyikaṃ pāgabbhiyaṃ vācasikaṃ pāgabbhiyaṃ cetasikaṃ pāgabbhiyaṃ.
Katamaṃ kāyikaṃ pāgabbhiyaṃ? Idhekacco saṅghagatopi kāyikaṃ pāgabbhiyaṃ dasseti, gaṇagatopi kāyikaṃ pāgabbhiyaṃ dasseti, bhojanasālāyampi kāyikaṃ pāgabbhiyaṃ dasseti, jantāgharepi kāyikaṃ pāgabbhiyaṃ dasseti, udakatitthepi kāyikaṃ pāgabbhiyaṃ dasseti, antaragharaṃ pavisantopi kāyikaṃ pāgabbhiyaṃ dasseti, antaragharaṃ paviṭṭhopi kāyikaṃ pāgabbhiyaṃ dasseti.
Kathaṃ saṅghagato kāyikaṃ pāgabbhiyaṃ dasseti? Idhekacco saṅghagato acittīkārakato there bhikkhū ghaṭṭayantopi tiṭṭhati, ghaṭṭayantopi nisīdati, puratopi tiṭṭhati, puratopi nisīdati, uccepi āsane nisīdati, sasīsaṃ pārupitvāpi nisīdati, ṭhitakopi bhaṇati, bāhāvikkhepako pi bhaṇati. Evaṃ saṅghagato kāyikaṃ pāgabbhiyaṃ dasseti.
Kathaṃ gaṇagato kāyikaṃ pāgabbhiyaṃ dasseti? Idhekacco gaṇagato acittīkārakato4 therānaṃ bhikkhūnaṃ anupāhanānaṃ caṅkamantānaṃ saupāhano caṅkamati, nīce caṅkame caṅkamantānaṃ ucce caṅkame caṅkamati, chamāya caṅkamantānaṃ caṅkame caṅkamati, ghaṭṭayantopi tiṭṭhati, ghaṭṭayantopi nisīdati, puratopi tiṭṭhati, puratopi nisīdati, uccepi āsane nisīdati, sasīsaṃ pārupitvāpi nisīdati, ṭhitakopi bhaṇati, bāhāvikkhepakopi bhaṇati. Evaṃ gaṇagato kāyikaṃ pāgabbhiyaṃ dasseti.
Kathaṃ bhojanasālāyaṃ kāyikaṃ pāgabbhiyaṃ dasseti? Idhekacco bhojanasālāyaṃ acittīkārakato there bhikkhū anupakhajja nisīdati, navepi bhikkhū āsanena paṭibāhati, ghaṭṭayantopi tiṭṭhati, ghaṭṭayantopi nisīdati, puratopi tiṭṭhati, puratopi nisīdati, uccepi āsane nisīdati, sasīsaṃ pārupitvāpi nisīdati, ṭhitakopi bhaṇati, bāhāvikkhepakopi bhaṇati. Evaṃ bhojanasālāyaṃ kāyikaṃ pāgabbhiyaṃ dasseti.
Kathaṃ jantāghare kāyikaṃ pāgabbhiyaṃ dasseti? Idhekacco jantāghare acittīkārakato there bhikkhū ghaṭṭayantopi tiṭṭhati ghaṭṭayantopi nisīdati, puratopi tiṭṭhati, puratopi nisīdati, uccepi āsane nisīdati, anāpucchāpi kaṭṭhaṃ pakkhipati, anāpucchāpi dvāraṃ pidahati, bāhāvikkhepakopi bhaṇati. Evaṃ jantāghare kāyikaṃ pāgabbhiyaṃ dasseti.
Kathaṃ udakatitthe kāyikaṃ pāgabbhiyaṃ dasseti? Idhekacco udakatitthe acittīkārakato there bhikkhū ghaṭṭayantopi otarati, puratopi otarati, ghaṭṭayantopi nahāyati, puratopi nahāyati, uparitopi nahāyati, ghaṭṭayantopi uttarati, puratopi uttarati, uparitopi uttarati. Evaṃ udakatitthe kāyikaṃ pāgabbhiyaṃ dasseti.
Kathaṃ antaragharaṃ pavisanto kāyikaṃ pāgabbhiyaṃ dasseti? Idhekacco antaragharaṃ pavisanto acittīkārakato there bhikkhū ghaṭṭayantopi gacchati, puratopi gacchati, vokkammāpi therānaṃ bhikkhūnaṃ purato purato gacchati. Evaṃ antaragharaṃ pavisantopi kāyikaṃ pāgabbhiyaṃ dasseti.
Kathaṃ antaragharaṃ paviṭṭho kāyikaṃ pāgabbhiyaṃ dasseti? Idhekacco antaragharaṃ paviṭṭho ‘na pavisatha bhante ’ti vuccamāno pavisati, ‘na tiṭṭhatha bhante ’ti vuccamāno tiṭṭhati, ‘na nisīdatha bhante ’ti vuccamāno nisīdati, anokāsampi pavisati, anokāsepi tiṭṭhati, anokāsepi nisīdati, yāni tānipi honti kulānaṃ ovarakāni gūḷhāni ca paṭicchannāni ca. Yattha kulitthiyo kuladhītaro kulasuṇhāyo kulakumārikāyo nisīdanti, tatthapi sahasā pavisati, kumārakassapi siraṃ parāmasati. Evaṃ antaragharaṃ paviṭṭho kāyikaṃ pāgabbhiyaṃ dasseti. Idaṃ kāyikaṃ pāgabbhiyaṃ.
Katamaṃ vācasikaṃ pāgabbhiyaṃ? Idhekacco saṅghagatopi vācasikaṃ pāgabbhiyaṃ dasseti, gaṇagatopi vācasikaṃ pāgabbhiyaṃ dasseti, antaragharaṃ paviṭṭhopi vācasikaṃ pāgabbhiyaṃ dasseti.
Kathaṃ saṅghagatopi vācasikaṃ pāgabbhiyaṃ dasseti? Idhekacco saṅghagato acittīkārakato there bhikkhū anāpucchā vā anajjhiṭṭho vā dhammaṃ bhaṇati, pañhaṃ vissajjeti pātimokkhaṃ uddisati, ṭhitakopi bhaṇati, bāhāvikkhepakopi bhaṇati. Evaṃ saṅghagato vācasikaṃ pāgabbhiyaṃ dasseti.
Kathaṃ gaṇagato vācasikaṃ pāgabbhiyaṃ dasseti? Idhekacco gaṇagato acittīkārakato there bhikkhū anāpucchā vā anajjhiṭṭho vā ārāmagatānaṃ bhikkhūnaṃ dhammaṃ bhaṇati, pañhaṃ vissajjeti, ṭhitakopi bhaṇati, bāhāvikkhepakopi bhaṇati, ārāmagatānaṃ bhikkhūṇīnaṃ upāsakānaṃ upāsikānaṃ dhammaṃ bhaṇati, pañhaṃ vissajjeti, ṭhitakopi bhaṇati, bāhāvikkhepakopi bhaṇati. Evaṃ gaṇagato vācasikaṃ pāgabbhiyaṃ dasseti.
Kathaṃ antaragharaṃ paviṭṭho vācasikaṃ pāgabbhiyaṃ dasseti? Idhekacco antaragharaṃ paviṭṭho itthiṃ vā kumāriṃ vā evamāha: ‘Itthaṃnāme, itthaṃgotte, kiṃ atthi? Yāgu atthi, bhattaṃ atthi, khādanīyaṃ atthi, kiṃ pivissāma, kiṃ bhuñjissāma, kiṃ khādissāma, kiṃ vā atthi, kiṃ vā me dassathā ’ti vippalapati. Evaṃ antaragharaṃ paviṭṭho vācasikaṃ pāgabbhiyaṃ dasseti. Idaṃ vācasikaṃ pāgabbhiyaṃ.
Katamaṃ cetasikaṃ pāgabbhiyaṃ? Idhekacco na uccākulā pabbajito samāno uccākulā pabbajitena saddhiṃ sadisaṃ attānaṃ dahati cittena, na mahākulā pabbajito samāno mahākulā pabbajitena saddhiṃ sadisaṃ attānaṃ dahati cittena, na mahābhogakulā pabbajito samāno mahābhogakulā pabbajitena saddhiṃ sadisaṃ attānaṃ dahati cittena, na uḷārabhogakulā pabbajito samāno – na suttantiko samāno suttantikena saddhiṃ sadisaṃ attānaṃ dahati cittena, na vinayadharo samāno – na dhammakathiko samāno – na āraññiko samāno – na piṇḍapātiko samāno – na paṃsukūliko samāno – na tecīvariko samāno – na sapadānacāriko samāno – na khalupacchābhattiko samāno – na nesajjiko samāno – na yathāsanthatiko samāno – na paṭhamassa jhānassa lābhī samāno paṭhamassa jhānassa lābhinā saddhiṃ sadisaṃ attānaṃ dahati cittena –pe– na nevasaññānāsaññāyatanasamāpattiyā lābhī samāno nevasaññānāsaññāyatanasamāpattiyā lābhinā saddhiṃ sadisaṃ attānaṃ dahati cittena. Idaṃ cetasikaṃ pāgabbhiyaṃ.
Yassimāni tīṇi pāgabbhiyāni pahīnāni samucchinnāni vūpasantāni paṭippassaddhāni abhabbuppattikāni ñāṇagginā daḍḍhāni, so vuccati appagabbho ’ti – ‘appagabbho.’
Ajeguccho ti – Atthi puggalo jeguccho, atthi ajeguccho. Katamo ca puggalo jeguccho? Idhekacco puggalo dussīlo hoti pāpadhammo asucisaṅkassarasamācāro paṭicchannakammanto assamaṇo samaṇapaṭiñño abrahmacārī brahmacārīpaṭiñño antopūti avassuto kasambujāto; ayaṃ vuccati puggalo jeguccho. Athavā, kodhano hoti upāyāsabahulo, appampi vutto samāno abhisajjati kuppati vyāpajjati patitthīyati, kopañca dosañca appaccayañca pātukaroti; ayaṃ vuccati puggalo jeguccho. Athavā, kodhano hoti upanāhī, makkhī hoti paḷāsī, issukī hoti maccharī, saṭho hoti māyāvī, thaddho hoti atimānī, pāpiccho hoti micchādiṭṭhī, sandiṭṭhiparāmāsī hoti ādhānagāhī duppaṭinissaggī; ayaṃ vuccati puggalo jeguccho.
Katamo ca puggalo ajeguccho? Idha bhikkhu sīlavā hoti, pātimokkhasaṃvarasaṃvuto viharati, ācāragocarasampanno aṇumattesu vajjesu bhayadassāvī, samādāya sikkhati sikkhāpadesu; ayaṃ vuccati puggalo ajeguccho. Athavā, akkodhano hoti anupāyāsabahulo, bahumpi vutto samāno nābhisajjati na kuppati na vyāpajjati na patitthīyati, na kopañca dosañca appaccayañca pātukaroti; ayaṃ vuccati puggalo ajeguccho. Athavā, akkodhano hoti anupanāhī, amakkhī hoti apaḷāsī, anussukī hoti amaccharī, asaṭho hoti amāyāvī, athaddho hoti anatimānī, na pāpiccho hoti, na micchādiṭṭhi, asandiṭṭhiparāmāsī hoti anādhānagāhī suppaṭinissaggī; ayaṃ vuccati puggalo ajeguccho. Sabbe bālaputhujjanā jegucchā. Puthujjanakalyāṇakaṃ upādāya aṭṭha ariyapuggalā ajegucchā ’ti – ‘appagabbho ajeguccho.’
Pesuneyye ca no yuto ti – Pesuññan ti idhekacco pisunavāco hoti: ito sutvā amutra akkhātā imesaṃ bhedāya; amutra vā sutvā imesaṃ akkhātā amūsaṃ bhedāya; iti samaggānaṃ vā bhettā bhinnānaṃ vā anuppadātā vaggārāmo vaggarato, vagganandī vaggakaraṇiṃ vācaṃ bhāsitā hoti. Idaṃ vuccati pesuññaṃ.
Api ca, dvīhi kāraṇehi pesuññaṃ upasaṃharati: piyakamyatāya vā bhedādhippāyo vā. Kathaṃ piyakamyatāya pesuññaṃ upasaṃharati? ‘Imassa piyo bhavissāmi, manāpo bhavissāmi, vissāsiko bhavissāmi, abbhantariko bhavissāmi, suhadayo bhavissāmī ’ti; evaṃ piyakamyatāya pesuññaṃ upasaṃharati. Kathaṃ bhedādhippāyo pesuññaṃ upasaṃharati? ‘Kathaṃ ime nānā assu, vinā assu, vaggā assu, dvedhā assu, dvejjhā assu, dve pakkhā assu, bhijjeyyuṃ na samāgaccheyyuṃ, dukkhaṃ aphāsuṃ vihareyyun ’ti; evaṃ bhedādhippāyo pesuññaṃ upasaṃharati. Yassetaṃ pesuññaṃ pahīnaṃ samucchinnaṃ vūpasantaṃ paṭippassaddhaṃ abhabbuppattikaṃ ñāṇagginā daḍḍhaṃ, so pesuññe no yuto na yutto nappayutto na samāyutto ’ti – ‘pesuneyye ca no yuto.’
Tenāha bhagavā: “Patilīno akuhako apihālu amaccharī, appagabbho ajeguccho pesuneyye ca no yuto ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Vị đã xa rời (các bất thiện pháp), không lừa gạt, không mong cầu, không bỏn xẻn, không xấc xược, không gây nhờm gớm, và không can dự vào việc nói đâm thọc.”
10.6
Sātiyesu anassāvī atimāne ca no yuto, saṇho ca paṭibhānavā na saddho na virajjati.
Vị không có sự buông xuôi theo các khoái lạc, không can dự vào việc ngã mạn thái quá, nhuần nhuyễn, và sáng trí, không cả tin, không lìa luyến ái.
Không mê vật khả ái,
Cũng không có quá mạn,
Nhu hòa, nhưng ứng biện,
Không vọng tín, không tham.
(Kinh Tập, câu kệ 853)
Sātiyesu anassāvī ti – Sātiyā vuccanti pañca kāmaguṇā. Kiṃ kāraṇā sātiyā vuccanti pañca kāmaguṇā? Yebhuyyena devamanussā pañca kāmaguṇe icchanti sādiyanti patthayanti pihayanti abhijappanti, taṃkāraṇā sātiyā vuccanti pañca kāmaguṇā. Yesaṃ esā sātiyā taṇhā appahīnā, tesaṃ cakkhuto rūpataṇhā savati āsavati sandati pavattati, sotato saddataṇhā –pe– ghānato gandhataṇhā – jivhāto rasataṇhā – kāyato phoṭṭhabbataṇhā – manato dhammataṇhā savati āsavati7 sandati pavattati. Yesaṃ esā sātiyā taṇhā pahīnā samucchinnā vūpasantā paṭippassaddhā abhabbuppattikā ñāṇagginā daḍḍhā, tesaṃ cakkhuto rūpataṇhā na savati nāsavati na sandati nappavattati, sotato saddataṇhā –pe– mānato dhammataṇhā na savati nāsavati na sandati na pavattatī ’ti – ‘sātiyesu anassāvī.’
Atimāne ca no yuto ti – Katamo atimāno? Idhekacco paraṃ atimaññati jātiyā vā gottena vā –pe– aññataraññatarena vā vatthunā. Yo evarūpo māno maññanā maññitattaṃ unnati unnamo dhajo sampaggāho ketukamyatā cittassa, ayaṃ vuccati atimāno. Yasseso atimāno pahīno samucchinno vūpasanto paṭippassaddho abhabbuppattiko ñāṇagginā daḍḍho, so atimāne ca no yuto na yutto nappayutto na samāyutto ’ti – ‘atimāne ca no yuto.’
Saṇho ca paṭibhānavā ti – Saṇho ti saṇhena kāyakammena samannāgatoti saṇho; saṇhena vacīkammena samannāgatoti saṇho; saṇhena manokammena samannāgatoti saṇho; saṇhehi satipaṭṭhānehi samannāgatoti saṇho; saṇhehi sammappadhānehi – saṇhehi iddhipādehi – saṇhehi indriyehi – saṇhehi balehi – saṇhehi bojjhaṅgehi samannāgatoti saṇho; saṇhena ariyena aṭṭhaṅgikena maggena samannāgatoti saṇho.
Paṭibhānavā ti – Tayo paṭibhānavanto: pariyattipaṭibhānavā paripucchāpaṭibhānavā adhigamapaṭibhānavā.
Katamo pariyattipaṭibhānavā? Idhekaccassa pakatiyāpi pariyāputaṃ hoti suttaṃ geyyaṃ veyyākaraṇaṃ gāthaṃ udānaṃ itivuttakaṃ jātakaṃ abbhutadhammaṃ vedallaṃ; tassa pariyattiṃ nissāya paṭibhāti. Ayaṃ pariyattipaṭibhānavā.
Katamo paripucchāpaṭibhānavā? Idhekacco paripucchitā hoti attatthe ca ñāyatthe ca lakkhaṇe ca kāraṇe ca ṭhānāṭhāne ca, tassa taṃ paripucchaṃ nissāya paṭibhāti. Ayaṃ paripucchāpaṭibhānavā.
Katamo adhigamapaṭibhānavā? Idhekaccassa adhigatā honti cattāro satipaṭṭhānā cattāro sammappadhānā cattāro iddhipādā pañcindriyāni pañca balāni sattabojjhaṅgā ariyo aṭṭhaṅgiko maggo cattāro ariyamaggā cattāri sāmaññaphalāni catasso paṭisambhidāyo cha abhiññāyo; tassa attho ñāto, dhammo ñāto, nirutti ñātā, atthe ñāte attho paṭibhāti, dhamme ñāte dhammo paṭibhāti, niruttiyā ñātāya nirutti paṭibhāti, imesu tīsu ñāṇesu ñāṇaṃ paṭibhānapaṭisambhidā. Imāya paṭibhānapaṭisambhidāya upeto samupeto upāgato samupāgato upapanno samupapanno samannāgato, so vuccati paṭibhānavā.
Yassa pariyatti natthi, paripucchā natthi, adhigamo natthi, kiṃ tassa paṭibhāyissatī ’ti – ‘saṇho ca paṭibhānavā.
Na saddho na virajjatī ti – Na saddho ti sāmaṃ sayaṃ abhiññātaṃ attapaccakkhaṃ dhammaṃ na kassaci saddahati, aññassa samaṇassa vā brāhmaṇassa vā devassa vā mārassa vā brahmuno vā. ‘Sabbe saṅkhārā aniccā ’ti sāmaṃ sayaṃ abhiññātaṃ –pe– ‘Sabbe saṅkhārā dukkhā ’ti –pe– ‘Sabbe dhammā anattā ’ti –pe– Avijjāpaccayā saṅkhārā ’ti –pe– Jātipaccayā jarāmaraṇan ’ti –pe– Avijjānirodhā saṅkhāranirodho ’ti –pe– ‘Jātinirodhā jarāmaraṇanirodho ’ti –pe– ‘Idaṃ dukkhan ’ti –pe– ‘Ayaṃ dukkhanirodhagāminī paṭipadā ’ti ‘ime āsavā ’ti –pe– ‘Ayaṃ āsavanirodhagāminī paṭipadā ’ti ‘ime dhammā abhiññeyyā ’ti –pe– ‘Ime dhammā sacchikātabbā ’ti sāmaṃ sayaṃ sayamabhiññātaṃ –pe– Channaṃ phassāyatanānaṃ samudayañca atthaṅgamañca assādañca ādīnavañca nissaraṇañca. Pañcannaṃ upādānakkhandhānaṃ samudayañca –pe– Catunnaṃ mahābhūtānaṃ samudayañca atthaṅgamañca assādañca ādīnavañca nissaraṇañca sāmaṃ sayamabhiññātaṃ –pe– Yaṃ kiñci samudayadhammaṃ sabbaṃ taṃ nirodhadhammanti sāmaṃ sayamabhiññātaṃ attapaccakkhaṃ dhammaṃ na kassaci saddahati, aññassa samaṇassa vā brāhmaṇassa vā devassa vā mārassa vā brahmuno vā.
Vuttaṃ hetaṃ bhagavatā:
“Saddahasi tvaṃ sāriputta saddhindriyaṃ bhāvitaṃ bahulīkataṃ amatogadhaṃ hoti amataparāyanaṃ amatapariyosānaṃ? Viriyindriyaṃ – satindriyaṃ – samādhindriyaṃ – paññindriyaṃ bhāvitaṃ bahulīkataṃ amatogadhaṃ hoti amataparāyanaṃ amatapariyosānan ”ti? “Na khvāhaṃ ettha bhante bhagavato saddhāya gacchāmi saddhindriyaṃ – viriyindriyaṃ – satindriyaṃ – samādhindriyaṃ paññindriyaṃ bhāvitaṃ bahulīkataṃ amatogadhaṃ hoti amataparāyanaṃ amatapariyosānanti. Yesaṃ nu etaṃ bhante aññātaṃ assa adiṭṭhaṃ aviditaṃ asacchikataṃ aphassitaṃ paññāya, te tattha paresaṃ saddhāya gaccheyyuṃ: saddhindriyaṃ bhāvitaṃ bahulīkataṃ amatogadhaṃ hoti amataparāyanaṃ amatapariyosānaṃ, viriyindriyaṃ – satindriyaṃ – samādhindriyaṃ – paññindriyaṃ bhāvitaṃ bahulīkataṃ amatogadhaṃ hoti amataparāyanaṃ amatapariyosānanti. Yesañca kho etaṃ bhante ñātaṃ diṭṭhaṃ viditaṃ sacchikataṃ phassitaṃ paññāya, nikkaṅkhā te tattha nibbicikicchā: saddhindriyaṃ bhāvitaṃ bahulīkataṃ amatogadhaṃ hoti amataparāyanaṃ amatapariyosānaṃ viriyindriyaṃ – satindriyaṃ – samādhindriyaṃ – paññindriyaṃ bhāvitaṃ bahulīkataṃ amatogadhaṃ hoti amataparāyanaṃ amatapariyosānanti. Mayhañca kho etaṃ bhante ñātaṃ diṭṭhaṃ viditaṃ sacchikataṃ phassitaṃ paññāya. Nikkaṅkhohaṃ tattha nibbicikiccho: saddhindriyaṃ – viriyindriyaṃ – satindriyaṃ – samādhindriyaṃ – paññindriyaṃ bhāvitaṃ bahulīkataṃ amatogadhaṃ hoti amataparāyanaṃ amatapariyosānan ”ti. “Sādhu sādhu sāriputta, yesaṃ hetaṃ sāriputta, aññātaṃ assa adiṭṭhaṃ aviditaṃ asacchikataṃ aphassitaṃ paññāya, te tattha paresaṃ saddhāya gaccheyyuṃ. Saddhindriyaṃ –pe– paññindriyaṃ bhāvitaṃ bahulīkataṃ amatogadhaṃ hoti amataparāyanaṃ amatapariyosānan ”ti.
“Assaddho akataññū ca sandhicchedo ca yo naro, hatāvakāso vantāso sa ve uttamaporiso ”ti.
Na virajjatī ti – Sabbe bālaputhujjanā rajjanti, puthujjanakalyāṇakaṃ upādāya satta sekhā virajjanti, arahā neva rajjati no virajjati. Viratto so khayā rāgassa vītarāgattā khayā dosassa vītadosattā khayā mohassa vītamohattā; so vutthavāso ciṇṇacaraṇo –pe– Jātimaraṇasaṃsāro natthi tassa punabbhavo ’ti – ‘na saddho na virajjati.’
Tenāha bhagavā: “Sātiyesu anassāvī atimāne ca no yuto, saṇho ca paṭibhānavā na saddho na virajjatī ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Vị không có sự buông xuôi theo các khoái lạc, không can dự vào việc ngã mạn thái quá, nhuần nhuyễn, và sáng trí, không cả tin, không lìa luyến ái.”
10.7
Lābhakamyā na sikkhati alābhe ca na kuppati, aviruddho ca taṇhāya rase ca nānugijjhati.
Vị học tập không vì ham muốn lợi lộc, và không bực tức khi không được lợi lộc,không chống đối, và không thèm muốn các vị nếm do tham ái.
Không tu tập vì lợi,
Không được lợi, không sân,
Không bị ái kích thích,
Không đam mê các vị.
(Kinh Tập, câu kệ 854)
Lābhakamyā na sikkhati alābhe ca na kuppatī ti – Kathaṃ lābhakamyā sikkhati? “Idha bhikkhu bhikkhuṃ passati lābhiṃ cīvara-piṇḍapāta-senāsana-gilānapaccayabhesajjaparikkhārānaṃ. Tassa evaṃ hoti: ‘Kena nu kho ayamāyasmā lābhī cīvara-piṇḍapāta-senāsana-gilānapaccayabhesajjaparikkhārānan ’ti. Tassa evaṃ hoti: ‘Ayaṃ kho āyasmā suttantiko, tenāyamāyasmā lābhī cīvara-piṇḍapāta-senāsana-gilānapaccayabhejja-parikkhārānan ’ti. So lābhahetu lābhapaccayā lābhakāraṇā lābhābhinibbattiyā lābhaṃ paripācento suttantaṃ pariyāpuṇāti. Evampi lābhakamyā sikkhati.
Athavā, bhikkhu bhikkhuṃ passati lābhiṃ cīvara-piṇḍapāta-senāsana-gilānapaccayabhesajjaparikkhārānaṃ. Tassa evaṃ hoti: ‘Kena nu kho ayamāyasmā lābhī cīvara-piṇḍapāta-senāsana-gilānapaccayabhesajja-parikkhārānan ’ti. Tassa evaṃ hoti: ‘Ayaṃ kho āyasmā vinayadharo –pe– dhammakathiko, tenāyamāyasmā lābhī cīvara-piṇḍapāta-senāsana-gilānapaccayabhejja-parikkhārānan ’ti. So lābhahetu lābhapaccayā lābhakāraṇā lābhābhinibbattiyā lābhaṃ paripācento abhidhammaṃ pariyāpuṇāti. Evampi lābhakamyā sikkhati.
Athavā, bhikkhu bhikkhuṃ passati lābhiṃ cīvara-piṇḍapāta-senāsana-gilānapaccayabhesajjaparikkhārānaṃ. Tassa evaṃ hoti: ‘Kena nu kho ayamāyasmā lābhī cīvara-piṇḍapāta-senāsana-gilānapaccayabhesajja-parikkhārānan ’ti. Tassa evaṃ hoti: ‘Ayaṃ kho āyasmā āraññiko – piṇḍapātiko – paṃsukūliko – tecīvariko – sapadānacāriko – khalupacchābhattiko – nesajjiko – yathāsanthatiko, tenāyamāyasmā lābhī cīvara-piṇḍapāta-senāsana-gilānapaccayabhesajja-parikkhārānan ’ti. So lābhahetu lābhapaccayā lābhakāraṇā lābhābhinibbattiyā lābhaṃ paripācento āraññiko hoti –pe– yathāsanthatiko hoti. Evampi lābhakamyā sikkhati.
Kathaṃ na lābhakamyā sikkhati? Idha bhikkhu na lābhahetu na lābhapaccayā na lābhakāraṇā na lābhābhinibbattiyā na lābhaṃ paripācento yāvadeva attadamatthāya attasamatthāya attaparinibbāpanatthāya suttantaṃ pariyāpuṇāti vinayaṃ pariyāpuṇāti abhidhammaṃ pariyāpuṇāti. Evampi na lābhakamyā sikkhati.
Athavā, bhikkhu na lābhahetu na lābhapaccayā na lābhakāraṇā na lābhābhinibbattiyā na lābhaṃ paripācento yāvadeva appicchaṃ yeva nissāya santuṭṭhiññeva nissāya sallekhaññeva nissāya pavivekaññeva nissāya idamatthitaññeva nissāya āraññiko hoti, piṇḍapātiko hoti, paṃsukūliko hoti, tecīvariko hoti, sapadānacāriko hoti, khalupacchābhattiko hoti, nesajjiko hoti, yathāsanthatiko hoti. Evampi na lābhakamyā sikkhatī ’ti – lābhakamyā na sikkhati.
Alābhe ca na kuppatī ti – Kathaṃ alābhe kuppati? Idhekacco kulaṃ vā na labhāmi, gaṇaṃ vā na labhāmi, āvāsaṃ vā na labhāmi, lābhaṃ vā na labhāmi, yasaṃ vā na labhāmi, pasaṃsaṃ vā na labhāmi, sukhaṃ vā na labhāmi, cīvaraṃ vā na labhāmi, piṇḍapātaṃ vā na labhāmi, senāsanaṃ vā na labhāmi, gilānapaccayabhesajjaparikkhāraṃ vā na labhāmi, gilānupaṭṭhākaṃ vā na labhāmi, appaññātomhī ’ti kuppati vyāpajjati patitthīyati kopañca dosañca appaccayañca pātukaroti. Evaṃ alābhe kuppati.
Kathaṃ alābhe na kuppati? Idha bhikkhu kulaṃ vā na labhāmi, gaṇaṃ vā na labhāmi –pe– appaññātomhī ’ti na kuppati na vyāpajjati na patitthīyati3 na kopañca dosañca appaccayañca pātukaroti. Evaṃ alābhe ca na kuppatī ’ti – lābhakamyā na sikkhati alābhe ca na kuppati.
Aviruddho ca taṇhāya rase ca nānugijjhatī ti – Viruddho ti yo cittassa āghāto paṭighāto paṭighaṃ paṭivirodho kopo pakopo sampakopo doso padoso sampadoso cittassa byāpatti manopadoso kodho kujjhanā kujjhitattaṃ doso dussanā dussitattaṃ byāpatti byāpajjanā byāpajjitattaṃ virodho paṭivirodho caṇḍikkaṃ asuropo anattamanatā cittassa, ayaṃ vuccati virodho. Yasseso virodho pahīno samucchinno vūpasanto paṭippassaddho abhabbuppattiko ñāṇagginā daḍḍho, so vuccati aviruddho.
Taṇhā ti rūpataṇhā saddataṇhā gandhataṇhā rasataṇhā phoṭṭhabbataṇhā dhammataṇhā.
Raso ti mūlaraso khandharaso tacaraso pattaraso puppharaso phalaraso, ambilaṃ madhuraṃ tittakaṃ kaṭukaṃ loṇikaṃ khārikaṃ lapilaṃ kasāvo sāduṃ asāduṃ sītaṃ uṇhaṃ. Santeke samaṇabrāhmaṇā rasagiddhā, te jivhaggena rasaggāni pariyesantā āhiṇḍanti. Te ambilaṃ labhitvā anambilaṃ pariyesanti, anambilaṃ labhitvā ambilaṃ pariyesanti; madhuraṃ labhitvā amadhuraṃ pariyesanti, amadhuraṃ labhitvā madhuraṃ pariyesanti; tittakaṃ labhitvā atittakaṃ pariyesanti, atittakaṃ labhitvā tittakaṃ pariyesanti; kaṭukaṃ labhitvā akaṭukaṃ pariyesanti, akaṭukaṃ labhitvā kaṭukaṃ pariyesanti; loṇikaṃ labhitvā aloṇikaṃ pariyesanti, aloṇikaṃ labhitvā loṇikaṃ pariyesanti; –– khārikaṃ labhitvā akhārikaṃ pariyesanti, akhārikaṃ labhitvā khārikaṃ pariyesanti; lapilaṃ labhitvā kasāvaṃ pariyesanti, kasāvaṃ labhitvā lapilaṃ pariyesanti; sāduṃ labhitvā asāduṃ pariyesanti, asāduṃ labhitvā sāduṃ pariyesanti; sītaṃ labhitvā uṇhaṃ pariyesanti, uṇhaṃ labhitvā sītaṃ pariyesanti. Te yaṃ yaṃ labhitvā tena tena na santussanti, aparāparaṃ pariyesanti, manāpikesu rasesu rattā giddhā gathitā mucchitā ajjhopannā laggā laggitā paḷibuddhā. Yassesā rasataṇhā pahīnā samucchinnā vūpasantā paṭippassaddhā abhabbuppattikā ñāṇagginā daḍḍhā, so paṭisaṅkhā yoniso āhāraṃ āhāreti: neva davāya na madāya na maṇḍanāya na vibhūsanāya, yāvadeva imassa kāyassa ṭhitiyā yāpanāya vihiṃsūparatiyā brahmacariyānuggahāya, iti purāṇañca vedanaṃ paṭihaṅkhāmi navañca vedanaṃ na uppādessāmi; yātrā ca me bhavissati anavajjatā ca phāsuvihāro ca.
Yathā vaṇaṃ ālimpeyya yāvadeva ropaṇatthāya, yathā vā pana akkhaṃ abbhañjeyya yāvadeva bhārassa nittharaṇatthāya, yathā vā pana puttamaṃsaṃ āhāraṃ āhareyya yāvadeva kantārassa nittharaṇatthāya; evameva bhikkhu paṭisaṅkhā yoniso āhāraṃ āhāreti, ‘neva davāya na madāya na maṇḍanāya na vibhūsanāya, yāvadeva imassa kāyassa ṭhitiyā yāpanāya vihiṃsūparatiyā brahmacariyānuggahāya. Iti purāṇañca vedanaṃ paṭihaṅkhāmi navañca vedanaṃ na uppādessāmi; yātrā na me bhavissati anavajjatā ca phāsuvihāro cā ’ti, rasataṇhaṃ pajahati vinodeti byantīkaroti anabhāvaṃ gameti. Rasataṇhāya ārato assa virato paṭivirato nikkhanto nissaṭo vippamutto visaññutto vimariyādīkatena cetasā viharatī ’ti – ‘aviruddho ca taṇhāya rase ca nānugijjhati.’
Tenāha bhagavā: “Lābhakamyā na sikkhati alābhe ca na kuppati, aviruddho ca taṇhāya rase ca nānugijjhatī ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Vị học tập không vì ham muốn lợi lộc, và không bực tức khi không được lợi lộc,không chống đối, và không thèm muốn các vị nếm do tham ái.”
10.8
Upekkhako sadā sato na loke maññate samaṃ, na visesī na nīceyyo tassa yo santi ussadā.
Vị hành xả, luôn luôn có niệm, ở thế gian không nghĩ (bản thân) là ngang bằng, không (nghĩ) là có sự ưu việt, không (nghĩ) là thấp hèn, đối với vị ấy, không có các sự kiêu ngạo.
Thường trú xả, chánh niệm,
Ở đời, không nghĩ mình,
Bằng hơn hay thua người,
Vị ấy, không bồng bột.
(Kinh Tập, câu kệ 855)
Upekkhako sadā sato ti – Upekkhako ti chaḷaṅgupekkhāya samannāgato: cakkhunā rūpaṃ disvā neva sumano hoti na dummano, upekkhako viharati sato sampajāno; sotena saddaṃ sutvā – ghānena gandhaṃ ghāyitvā – jivhāya rasaṃ sāyitvā – kāyena phoṭṭhabbaṃ phusitvā – manasā dhammaṃ viññāya neva sumano hoti na dummano, upekkhako viharati sato sampajāno.
Cakkhunā rūpaṃ disvā manāpaṃ nābhigijjhati nābhihaṃsati na rāgaṃ janeti, tassa ṭhitova kāyo hoti, ṭhitaṃ cittaṃ ajjhattaṃ susaṇṭhitaṃ suvimuttaṃ. Cakkhunā kho paneva rūpaṃ disvā amanāpaṃ na maṅku hoti appatiṭṭhitacitto alīnamanaso abyāpannacetaso, tassa ṭhitova kāyo hoti, ṭhitaṃ cittaṃ ajjhattaṃ susaṇṭhitaṃ suvimuttaṃ.
Sotena saddaṃ sutvā – Ghānena gandhaṃ ghāyitvā – Jivhāya rasaṃ sāyitvā – Kāyena phoṭṭhabbaṃ phusitvā – Manasā dhammaṃ viññāya manāpaṃ nābhigijjhati nābhihaṃsati na rāgaṃ janeti, tassa ṭhitova kāyo hoti, ṭhitaṃ cittaṃ ajjhattaṃ susaṇṭhitaṃ suvimuttaṃ. Manasā kho paneva dhammaṃ viññāya amanāpaṃ na maṅku hoti appatiṭṭhitacitto alīnamanaso1 abyāpannacetaso, tassa ṭhitova kāyo hoti, ṭhitaṃ cittaṃ ajjhattaṃ susaṇṭhitaṃ suvimuttaṃ. Cakkhunā rūpaṃ disvā manāpāmanāpesu rūpesu, tassa ṭhito ca kāyo hoti, ṭhitaṃ cittaṃ ajjhattaṃ susaṇṭhitaṃ suvimuttaṃ. Sotena saddaṃ sutvā – ghānena gandhaṃ ghāyitvā – jivhāya rasaṃ sāyitvā – kāyena phoṭṭhabbaṃ phusitvā – manasā dhammaṃ viññāya manāpāmanāpesu dhammesu, tassa ṭhitova kāyo hoti, ṭhitaṃ cittaṃ ajjhattaṃ susaṇṭhitaṃ suvimuttaṃ.
Cakkhunā rūpaṃ disvā rajanīye na rajjati, dosanīye na dussati, mohanīye na muyhati, kopanīye na kuppati, kilesanīye na kilissati, madanīye na majjati. Sotena saddaṃ sutvā –pe– Manasā dhammaṃ viññāya rajanīye na rajjati, dosanīye na dussati, mohanīye na muyhati, kopanīye na kuppati, kilesanīye na kilissati, madanīye na majjati. Diṭṭhe diṭṭhamatto, sute sutamatto, mute mutamatto, viññāte viññātamatto. Diṭṭhe na lippati, sute na lippati,2 mute na lippati, viññāte na lippati. Diṭṭhe anupayo anapāyo anissito appaṭibaddho vippamutto visaññutto vimariyādīkatena cetasā viharati. Sute mute viññāte anupayo anapāyo3 anissito appaṭibaddho vippamutto visaññutto vimariyādīkatena cetasā viharati.
Saṃvijjati arahato cakkhu, passati arahā cakkhunā rūpaṃ. Chandarāgo arahato natthi, suvimuttacitto arahā. Saṃvijjati arahato sotaṃ, suṇāti arahā sotena saddaṃ. Chandarāgo arahato natthi, suvimuttacitto arahā. Saṃvijjati arahato ghānaṃ, ghāyati arahā ghānena gandhaṃ. Chandarāgo arahato natthi, suvimuttacitto arahā. Saṃvijjati arahato jivhā, sāyati arahā jivhāya rasaṃ. Chandarāgo arahato natthi, , suvimuttacitto arahā. Saṃvijjati arahato kāyo, phusati arahā kāyena phoṭṭhabbaṃ –pe– Saṃvijjati arahato mano, vijānāti arahā manasā dhammaṃ. Chandarāgo arahato natthi, suvimuttacitto arahā.
Cakkhuṃ rūpārāmaṃ rūparataṃ rūpasammuditaṃ, taṃ arahato dantaṃ guttaṃ rakkhitaṃ saṃvutaṃ, tassa ca saṃvarāya dhammaṃ deseti. Sotaṃ saddārāmaṃ –pe– Ghānaṃ gandhārāmaṃ – Jivhā rasārāmā rasaratā rasasammudito, sā arahato dantā guttā rakkhitā saṃvutā, tassā ca saṃvarāya dhammaṃ deseti. Kāyo phoṭṭhabbārāmo –pe– Mano dhammārāmo dhammarato dhammasammudito, so arahato danto gutto rakkhito saṃvuto, tassa ca saṃvarāya dhammaṃ deseti.
1. “Dantaṃ nayanti samitiṃ dantaṃ rājābhirūhati, danto seṭṭho manussesu yo ’ti vākyaṃ titikkhati.
1. Người ta đưa (ngựa) đã được rèn luyện đến nơi tụ hội. Đức vua cỡi lên (ngựa) đã được rèn luyện. Người đã được rèn luyện chịu đựng lời mắng nhiếc là hạng nhất giữa loài người.
2. Varamassatarā dantā ājānīyā ca sindhavā, kuñjarā ca mahānāgā attadanto tato varaṃ.
2. Cao quý thay những con lừa đã được thuần hóa, những con ngựa Sindhu thuần chủng, và những con voi thuộc loài khổng tượng, người đã tự rèn luyện bản thân là cao quý hơn cả.
3. Na hi etehi yānehi gaccheyya agataṃ disaṃ, yathattanā sudantena danto dantena gacchati.
3. Bởi vì chẳng phải nhờ vào những cỗ xe ấy mà có thể đi đến nơi chưa đi đến (Niết Bàn), như là nhờ vào bản thân đã khéo được rèn luyện. Do nhờ đã được rèn luyện mà người đã được rèn luyện đi đến (Niết Bàn).
4. Vidhāsu na vikampanti vippamuttā punabbhavā, dantabhūmimanuppattā te loke vijitāvino.
4. Các vị không dao động ở các trạng thái kiêu mạn, đã được thoát khỏi việc sanh ra lần nữa,đã đạt đến lãnh vực của các bậc đã được rèn luyện, các vị ấy là những người chiến thắng ở thế gian.
5. Yassindriyāni bhāvitāni ajjhattabahiddhā ca sabbaloke, nibbijjha imaṃ parañca lokaṃ kālaṃ kaṅkhati bhāvito sadanto ”ti.
5. Vị nào có các giác quan đã được tu tập, ở nội phần, ở ngoại phần, và ở toàn thể thế gian, sau khi thấu triệt đời này và đời sau, vị đã được tu tập chờ đợi thời điểm, vị ấy là đã được huấn luyện.”
Upekkhako sadā ti – Sadā sabbadā sabbakālaṃ niccakālaṃ dhuvakālaṃ –pe– pacchime vayokhandhe. Sato ti catūhi kāraṇehi sato: kāye kāyānupassanāsatipaṭṭhānaṃ bhāvento sato, vedanāsu – citte – dhammesu dhammānupassanāsatipaṭṭhānaṃ bhāvento sato–pe– so vuccati sato ’ti – upekkhako sadā sato.
Na loke maññate saman ti – ‘Sadisohamasmī ’ti mānaṃ na janeti jātiyā vā gottena vā –pe– aññataraññatarena vā vatthunā ’ti – na loke maññate samaṃ.
Na visesī na nīceyyo ti – ‘Seyyohamasmī ’ti atimānaṃ na janeti jātiyā vā gottena vā –pe– aññataraññatarena vā vatthunā. ‘Hīnohamasmī ’ti mānaṃ na janeti jātiyā vā gottena vā –pe– aññataraññatarena va vatthunā ’ti – na visesī na nīceyyo.
Tassa no santi ussadā ti – Tassā ti arahato khīṇāsavassa. Ussadā ti sattussadā rāgussado dosussado mohussado mānussado diṭṭhussado kilesussado kammussado. Tassime ussadā natthi na santi na saṃvijjanti nūpalabbhanti pahīnā samucchinnā vūpasantā paṭippassaddhā abhabbuppattikā ñāṇagginā daḍḍhā ’ti – tassa no santi ussadā.
Tenāha bhagavā:
“Upekkhako sadā sato na loke maññate samaṃ, na visesī na nīceyyo tassa no santi ussadā ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Vị hành xả, luôn luôn có niệm, ở thế gian không nghĩ (bản thân) là ngang bằng, không (nghĩ) là có sự ưu việt, không (nghĩ) là thấp hèn, đối với vị ấy, không có các sự kiêu ngạo.”
10.9
Yassa nissayatā natthi ñatvā dhammaṃ anissito, bhavāya vibhavāya vā taṇhā yassa na vijjati.
Đối với vị nào không có sự nương tựa, – sau khi hiểu được Giáo Pháp (vị ấy) không còn nương tựa, – đối với vị ấy tham ái ở hữu và phi hữu không tìm thấy.
Không y chỉ một ai,
Biết pháp, không y chỉ,
Vị ấy không có ái,
Ðối với hữu, phi hữu.
(Kinh Tập, câu kệ 856)
Yassa nissayatā natthī ti – Yassā ti arahato khīṇāsavassa. Nissayatā ti – Dve nissayā: taṇhānissayo ca diṭṭhinissayo ca. –pe– ayaṃ taṇhānissayo.
–pe– ayaṃ diṭṭhinissayo. Tassa taṇhānissayo pahīno diṭṭhinissayo paṭinissaṭṭho. Taṇhānissayassa pahīnattā diṭṭhinissayassa paṭinissaṭṭhattā nissayatā yassa natthi na santi na saṃvijjati nūpalabbhati, pahīnā samucchinnā vūpasantā paṭippassaddhā abhabbuppattikā ñāṇagginā daḍḍhāti – yassa nissayatā natthi.
Ñatvā dhammaṃ anissito ti – Ñatvā ti ñatvā jānitvā tulayitvā tīrayitvā vibhāvayitvā vibhūtaṃ katvā; ‘sabbe saṅkhārā aniccā ’ti sabbe saṅkhārā dukkhā ’ti ‘sabbe dhammā anattā ’ti –pe– ‘yaṃ kiñci samudayadhammaṃ sabbantaṃ nirodhadhammaṃ ’ti ñatvā jānitvā tulayitvā tīrayitvā vibhāvayitvā vibhūtaṃ katvā. Anissito ti – Dve nissayā: taṇhānissayo ca diṭṭhinissayo ca –pe– ayaṃ taṇhānissayo. –pe– ayaṃ diṭṭhinissayo. Taṇhānissayaṃ pahāya diṭṭhinissayaṃ paṭinissajitvā cakkhuṃ anissito sotaṃ anissito ghānaṃ anissito jivhaṃ anissito kāyaṃ anissito manaṃ anissito, rūpe sadde gandhe rase phoṭṭhabbe kulaṃ gaṇaṃ āvāsaṃ –pe– diṭṭhasutamutaviññātabbe dhamme anissito anallīno anupagato anajjhosito anadhimutto nikkhanto nissaṭo vippamutto visaññutto vimariyādīkatena cetasā viharatī ’ti – ñatvā dhammaṃ anissito.
Bhavāya vibhavāya vā taṇhā yassa na vijjatī ti – Taṇhā ti rūpataṇhā saddataṇhā gandhataṇhā rasataṇhā phoṭṭhabbataṇhā dhammataṇhā. Yassā ti arahato khīṇāsavassa. Bhavāyā ti bhavadiṭṭhiyā; vibhavāyā ti vibhavadiṭṭhiyā; bhavāyā ti sassatadiṭṭhiyā vā; vibhavāyā ti ucchedadiṭṭhiyā; bhavāyā ti punappuna -bhavāya punappuna-gatiyā punappuna-uppattiyā punappuna-paṭisandhiyā punappuna-attabhāvābhinibbattiyā. Taṇhā yassa natthi na santi na saṃvijjati nūpalabbhati, pahīnā samucchinnā vūpasantā paṭippassaddhā abhabbuppattikā ñāṇagginā daḍḍhā ’ti – bhavāya vibhavāya ca taṇhā yassa na vijjati.
Tenāha bhagavā:
“Yassa nissayatā natthi ñatvā dhammaṃ anissito, bhavāya vibhavāya vā1 taṇhā yassa na vijjatī ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Đối với vị nào không có sự nương tựa, – sau khi hiểu được Giáo Pháp (vị ấy) không còn nương tựa, –đối với vị ấy tham ái ở hữu và phi hữu không tìm thấy.”
10.10
Taṃ brūmi upasanto ’ti kāmesu anapekkhinaṃ, ganthā tassa na vijjanti atarī so visattikaṃ.
Ta nói rằng vị ấy là ‘bậc an tịnh’ không trông mong về các dục, đối với vị ấy các sự trói buộc không tìm thấy; vị ấy đã vượt qua sự vướng mắc.
Ta gọi vị an tịnh,
Không mong cầu các dục,
Vị ấy không triền phược,
Vượt khỏi các tham trước.
(Kinh Tập, câu kệ 857)
Taṃ brūmi upasanto ti – Upasanto vūpasanto nibbuto paṭippassaddho ’ti taṃ brūmi taṃ kathemi taṃ bhaṇāmi taṃ dīpayāmi taṃ voharāmī ’ti – taṃ brūmi upasanto.
Ta nói rằng vị ấy là ‘bậc an tịnh’ – Ta nói rằng vị ấy, Ta thuyết rằng vị ấy, Ta phát ngôn rằng vị ấy, Ta diễn giải rằng vị ấy, Ta diễn tả rằng vị ấy là ‘bậc an tịnh, bậc vắng lặng, bậc tịch diệt, bậc tịch tịnh;’ – Ta nói rằng vị ấy là ‘bậc an tịnh’ là như thế.
Kāmesu anapekkhinan ti – Kāmā ti uddānato dve kāmā: vatthukāmā ca kilesakāmā ca –pe– Ime vuccanti vatthukāmā. –pe– Ime vuccanti kilesakāmā. Vatthukāme parijānitvā kilesakāme pahāya pajahitvā vinoditvā byantīkaritvā anabhāvaṃ gametvā; kāmesu anapekkhinan ti vītakāmo cattakāmo vantakāmo muttakāmo pahīnakāmo paṭinissaṭṭhakāmo, kāmesu vītarāgo vigatarāgo cattarāgo vantarāgo muttarāgo pahīnarāgo paṭinissaṭṭharāgo nicchāto nibbuto sītibhūto sukhapaṭisaṃvedī brahmabhūtena attanā viharatī ’ti – kāmesu anapekkhinaṃ
Không trông mong về các dục – Các dục: theo sự phân hạng thì có hai loại dục: các vật dục và các ô nhiễm dục. —nt— Các điều này được gọi là các vật dục. —nt— Các điều này được gọi là các ô nhiễm dục. Sau khi biết toàn diện về các vật dục, sau khi dứt bỏ, sau khi từ bỏ, sau khi xua đi, sau khi làm chấm dứt, sau khi khiến cho không còn hiện hữu các ô nhiễm dục; vị không trông mong về các dục: là vị có dục đã được xa lìa, có dục đã được từ bỏ, có dục đã được tẩy trừ, có dục đã được giải thoát, có dục đã được dứt bỏ, có dục đã được xả bỏ; đối với các dục, là vị có luyến ái đã được xa lìa, có luyến ái đã được tách lìa, có luyến ái đã được từ bỏ, có luyến ái đã được tẩy trừ, có luyến ái đã được giải thoát, có luyến ái đã được dứt bỏ, có luyến ái đã được xả bỏ, đã không còn khao khát, đã được tịch diệt, có trạng thái mát mẻ, có sự cảm thọ lạc, sống với trạng thái cao thượng tự thân; – ‘không trông mong về các dục’ là như thế.
Ganthā tassa na vijjantī ti – Ganthā ti cattāro ganthā: abhijjhā kāyagantho vyāpādo kāyagantho sīlabbataparāmāso kāyagantho idaṃsaccābhiniveso kāyagantho. Attano diṭṭhiyā rāgo abhijjhā kāyagantho; paravādesu āghāto appaccayo vyāpādo kāyagantho; attano sīlaṃ vā vataṃ vā sīlabbataṃ vā parāmasati sīlabbataparāmāso kāyagantho; attano diṭṭhi idaṃsaccābhiniveso kāyagantho. Tassā ti arahato khīṇāsavassa; ganthā tassa natthi na santi na saṃvijjanti nūpalabbhanti pahīnā samucchinnā vūpasantā paṭippassaddhā abhabbuppattikā ñāṇagginā daḍḍhā ’ti – ganthā tassa na vijjanti.
Đối với vị ấy các sự trói buộc không tìm thấy – Các sự trói buộc: tham đắm là sự trói buộc về thân, bất bình là sự trói buộc về thân, sự bám víu vào giới và phận sự là sự trói buộc về thân, sự cố chấp ‘chỉ điều này là chân lý’ là sự trói buộc về thân. Sự luyến ái, tham đắm vào quan điểm của bản thân là sự trói buộc về thân. Sự căm hờn, sự không bằng lòng, sự bất bình đối với các học thuyết khác là sự trói buộc về thân. Sự bám víu vào giới và phận sự rằng: ‘Họ bám víu vào giới, hoặc phận sự, hoặc giới và phận sự của bản thân’ là sự trói buộc về thân. Quan điểm của bản thân có sự cố chấp ‘chỉ điều này là chân lý’ là sự trói buộc về thân. Đối với vị ấy: Đối với vị A-la-hán có lậu hoặc đã cạn kiệt; đối với vị ấy, các sự trói buộc là không có, không hiện diện, không tìm thấy, không tồn tại, đã được dứt bỏ, đã được trừ tuyệt, đã được vắng lặng, đã được tịch tịnh, không thể sanh khởi nữa, đã được thiêu đốt bởi ngọn lửa trí tuệ; – đối với vị ấy các sự trói buộc không tìm thấy.
Atarī so visattikan ti – Visattikā vuccati taṇhā, yo rāgo sārāgo –pe– abhijjhā lobho akusalamūlaṃ. Visattakā ti – Kenaṭṭhena visattikā? Visatā ’ti visattikā, visālā ’ti visattikā, visaṭā ’ti visattikā, visamā ’ti visattikā, visakkatī ’ti visattikā, visaṃharatī ’ti visattikā, visaṃvādikā ’ti visattikā, visamūlā ’ti visattikā, visaphalā ’ti visattikā, visaparibhogā ’ti visattikā. Visālā vā pana sā taṇhā rūpe sadde gandhe rase phoṭṭhabbe kule gaṇe āvāse –pe– diṭṭhasutamutaviññātabbesu dhammesu visatā vitthatāti visattikā. Atarī so visattikan ti so imaṃ visattikaṃ taṇhaṃ atari2 uttari patari samatikkami vītivattatī ’ti – atarī so visattikaṃ.
Vị ấy đã vượt qua sự vướng mắc – Sự vướng mắc nói đến tham ái, nghĩa là sự luyến ái, luyến ái mãnh liệt, –nt– tham đắm, tham, cội nguồn của bất thiện. Sự vướng mắc – Sự vướng mắc với ý nghĩa gì? Vướng mắc là vì ‘được trải rộng;’ vướng mắc là vì ‘bao quát;’ vướng mắc là vì ‘được lan rộng;’ vướng mắc là vì ‘lôi kéo theo;’ vướng mắc là vì ‘mang lại chất độc;’ vướng mắc là vì ‘truyền bá chất độc;’ vướng mắc là vì ‘nhân độc hại;’ vướng mắc là vì ‘kết quả độc hại;’ vướng mắc là vì ‘sự thọ dụng độc hại.’ Hoặc hơn nữa, vướng mắc là vì ‘ái ấy là bao quát, được trải rộng, được lan rộng ở sắc, ở thinh, ở hương, ở vị, ở xúc, ở gia tộc, ở đồ chúng, ở chỗ ngụ, –nt– ở các pháp được thấy-được nghe-được cảm giác-được nhận thức.’ Vị ấy đã vượt qua sự vướng mắc: vị ấy đã vượt qua, đã vượt lên, đã vượt khỏi, đã băng qua, đã băng qua khỏi sự vướng mắc, tham ái này; – ‘vị ấy đã vượt qua sự vướng mắc’ là như thế.
Tenāha bhagavā:
“Taṃ brūmi upasanto ’ti kāmesu anapekkhinaṃ, ganthā tassa na vijjanti atarī so visattikan ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Ta nói rằng vị ấy là ‘bậc an tịnh’ không trông mong về các dục, đối với vị ấy các sự trói buộc không tìm thấy; vị ấy đã vượt qua sự vướng mắc.”
10.11
Na tassa puttā pasavo khettaṃ vatthuñca vijjati, attā vāpi nirattā vā na tasmiṃ upalabbhati.
Đối với vị ấy, không có con cái, các thú nuôi, ruộng vườn, và đất đai không tìm thấy.
Ngã (thường kiến) và luôn cả phi ngã (đoạn kiến) cũng không tồn tại ở vị ấy.
Vị ấy không con cái,
Thú vật, ruộng, đất đai,
Không có gì nắm lấy,
Là ta, là không ta.
(Kinh Tập, câu kệ 858)
Na tassa puttā pasavo khettaṃ vatthuñca vijjatī ti – Nā ti paṭikkhepo. Tassā ti arahato khīṇāsavassa. Puttā ti cattāro puttā: atrajo putto, khettajo putto, dinnako putto, antevāsiko putto. Pasavo ti ajeḷakā kukkuṭasūkarā hatthigavāssavaḷavā. Khettan ti sālikhettaṃ vīhikhettaṃ muggakhettaṃ māsakhettaṃ yavakhettaṃ godhumakhettaṃ tilakhettaṃ. Vatthun ti gharavatthu koṭṭhavatthu purevatthu pacchāvatthu ārāmavatthu vihāravatthu. Na tassa puttā pasavo khettaṃ vatthuñca vijjatī ti tassa puttapariggaho vā pasupariggaho vā khettapariggaho vā vatthupariggaho vā natthi na santi na saṃvijjanti nūpalabbhanti pahīnā samucchinnā vūpasantā paṭippassaddhā abhabbuppattikā ñāṇagginā daḍḍhā ’ti – na tassa puttā pasavo khettaṃ vatthuñca vijjati.
Attā vāpi nirattā vā na tasmiṃ upalabbhatī ti – Attā ti sassatadiṭṭhi natthi. Nirattā ti ucchedadiṭṭhi natthi. Attā ’ti gahitaṃ natthi; nirattā ’ti muñcitabbaṃ natthi. Yassa natthi gahitaṃ, tassa natthi muñcitabbaṃ. Yassa natthi muñcitabbaṃ, tassa natthi gahitaṃ. Gāhamuñcanasamatikkanto arahā vuddhiparihānivītivatto. So vutthavāso ciṇṇacaraṇo –pe– jātimaraṇasaṃsāro natthi tassa punabbhavo ’ti – attā vāpi nirattā vā na tasmiṃ upalabbhati.
Tenāha bhagavā: “Na tassa puttā pasavo khettaṃ vatthuñca vijjati, attā vāpi nirattā vā na tasmiṃ upalabbhatī ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Đối với vị ấy, không có con cái, các thú nuôi, ruộng vườn, và đất đai không tìm thấy. Ngã (thường kiến) và luôn cả phi ngã (đoạn kiến) cũng không tồn tại ở vị ấy.”
10.12
Yena naṃ vajjuṃ puthujjanā atho samaṇabrāhmaṇā, taṃ tassa apurekkhataṃ tasmā vādesu nejati.
Vì việc nào mà các phàm phu, rồi các Sa-môn, và các Bà-la-môn có thể kết tội vị ấy, việc ấy đối với vị ấy là không được coi trọng; vì thế vị ấy không dao động vì những lời (buộc tội).Phàm phu có buộc tội,
Hoặc Sa-môn, Phạm chí,
Vị ấy không quan tâm,
Trong lời nói không động,
(Kinh Tập, câu kệ 859)
Yena naṃ vajjuṃ puthujjanā atho samaṇabrāhmaṇā ’ti – Puthujjanā ’ti puthu kilese janentī ’ti puthujjanā. Puthu avihatasakkāyadiṭṭhikā ’ti puthujjanā. Puthu satthārānaṃ mukhullokakā ’ti puthujjanā. Puthu sabbagatīhi avuṭṭhitā ’ti puthujjanā. Puthu nānābhisaṅkhāre abhisaṅkharontī ’ti puthujjanā. Puthu nānā-oghehi vuyhantī ’ti puthujjanā. Puthu nānāsantāpehi santappantī ’ti puthujjanā. Puthu nānāpariḷāhehi pariḍayhantī ’ti puthujjanā. Puthu pañcasu kāmaguṇesu rattā giddhā gathitā mucchitā ajjhopannā laggā laggitā paḷibuddhā ’ti puthujjanā. Puthu pañcahi nīvaraṇehi āvutā nivutā ovutā pihitā paṭicchannā paṭikujjitā ’ti puthujjanā.
Samaṇā ’ti – Ye keci ito bahiddhā paribbājūpagatā paribbājasamāpannā.
Brāhmaṇā ’ti – ye keci bhovādikā. Yena naṃ vajjuṃ puthujjanā atho samaṇabrāhmaṇā ’ti – puthujjanā yena rāgena vadeyyuṃ, yena dosena vadeyyuṃ, yena mohena vadeyyuṃ, yena mānena vadeyyuṃ, yāya diṭṭhiyā vadeyyuṃ, yena uddhaccena vadeyyuṃ, yāya vicikicchāya vadeyyuṃ, yehi anusayehi vadeyyuṃ, ratto ’ti vā duṭṭho ’ti vā mūḷho ’ti vā vinibaddho ’ti vā parāmaṭṭho ’ti vā vikkhepagato ’ti vā aniṭṭhaṃ gato ’ti vā thāmagato ’ti vā. Te abhisaṅkhārā pahīnā. Abhisaṅkhārānaṃ pahīnattā gatiyā yena naṃ vadeyyuṃ nerayiko ’ti vā tiracchānayoniko ’ti vā pettivisayiko ’ti vā manusso ’ti vā devo ’ti vā rūpī ’ti vā arūpī ’ti vā saññī ’ti vā asaññī ’ti vā nevasaññīnāsaññī ’ti vā; so hetu natthi paccayo natthi kāraṇaṃ natthi yena naṃ vadeyyuṃ katheyyuṃ bhaṇeyyuṃ dīpayeyyuṃ vohareyyun ’ti – yena naṃ vajjuṃ puthujjanā atho samaṇabrāhmaṇā.
Taṃ tassa apurekkhatan ’ti – Tassā ’ti arahato khīṇāsavassa. Purekkhārā ’ti – Dve purekkhārā: taṇhāpurekkhāro ca diṭṭhipurekkhāro ca ―pe― ayaṃ taṇhāpurekkhāro –pe– ayaṃ diṭṭhipurekkhāro. Tassa taṇhāpurekkhāro pahīno, diṭṭhipurekkhāro paṭinissaṭṭho. Taṇhāpurekkhārassa pahīnattā diṭṭhipurekkhārassa paṭinissaṭṭhattā na taṇhaṃ vā diṭṭhiṃ vā purato katvā carati na taṇhādhajo na taṇhāketu na taṇhādhipateyyo na diṭṭhidhajo na diṭṭhiketu na diṭṭhādhipateyyo, na taṇhāya vā diṭṭhiyā vā parivārito caratī ’ti – taṃ tassa apurekkhataṃ.
Tasmā vādesu nejatī ’ti – Tasmā ’ti tasmā taṃkāraṇā taṃhetu tappaccayā taṃnidānā vādesu upavādesu nindāya garahāya akittiyā avaṇṇahārikāya nejati na iñjati na calati na vedhati nappavedhati na sampavedhatī ’ti – tasmā vādesu nejati.
Tenāha bhagavā: “Yena naṃ vajjuṃ puthujjanā atho samaṇabrāhmaṇā, taṃ tassa apurekkhataṃ tasmā vādesu nejatī ”ti
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Vì việc nào mà các phàm phu, rồi các Sa-môn, và các Bà-la-môn có thể kết tội vị ấy, việc ấy đối với vị ấy là không được coi trọng; vì thế vị ấy không dao động vì những lời (buộc tội).”
10.13
Vītagedho amaccharī na ussesu vadate muni, na samesu na omesu kappaṃ neti akappiyo.
Có sự thèm khát đã được xa lìa, không bỏn xẻn, bậc hiền trí không mô tả (bản thân) là trong số những người ưu việt, không là trong số những người ngang bằng, không là trong số những người thấp kém, là vị không bị sắp đặt, không đi đến sự sắp đặt (bởi tham ái và tà kiến).
Không tham, không xan lẫn,
Ẩn sĩ không nói cao,
Không nói bằng, nói thấp,
Không đi đến thời kiếp,
Vì vị ấy vượt khỏi,
Sự chi phối thời kiếp.
(Kinh Tập, câu kệ 860)
Vītagedho amaccharī ’ti – Gedho vuccati taṇhā, yo rāgo sārāgo –pe– abhijjhā lobho akusalamūlaṃ. Yasseso gedho pahīno samucchinno vūpasanto paṭippassaddho abhabbuppattiko ñāṇagginā daḍḍho; so vuccati vītagedho. So rūpe agiddho –pe– diṭṭhasutamutaviññātabbesu dhammesu agiddho agathito amucchito anajjhāpanno vītagedho vigatagedho cattagedho vantagedho muttagedho pahīnagedho paṭinissaṭṭhagedho nicchāto –pe– brahmabhūtena attanā viharatī ’ti – vītagedho. Amaccharī ’ti – Macchariyan ’ti pañca macchariyāni: āvāsamacchariyaṃ kulamacchariyaṃ lābhamacchariyaṃ vaṇṇamacchariyaṃ dhammamacchariyaṃ, yaṃ evarūpaṃ macchariyaṃ ―pe― gāho vuccati macchariyaṃ. Yassetaṃ macchariyaṃ pahīnaṃ samucchinnaṃ vūpasantaṃ paṭippassaddhaṃ abhabbuppattikaṃ ñāṇagginā daḍḍhaṃ, so vuccati amaccharī ’ti – vītagedho amaccharī.
Na ussesu2 vadate muni na samesu na omesū ’ti – Munī ’ti monaṃ vuccati ñāṇaṃ –pe– saṅgajālamaticca so muni. Seyyohamasmī ’ti vā sadisohamasmī ’ti vā hīnohamasmī ’ti vā na vadati na katheti na bhaṇati na dīpayati na voharatī ’ti – na ussesu2 vadate muni na samesu na omesu.
Kappaṃ neti akappiyo ’ti – Kappā ’ti dve kappā: taṇhākappo ca diṭṭhikappo ca. –pe– ayaṃ taṇhākappo. –pe– ayaṃ diṭṭhikappo. Tassa taṇhākappo pahīno diṭṭhikappo paṭinissaṭṭho; taṇhākappassa pahīnattā diṭṭhikappassa paṭinissaṭṭhattā taṇhākappaṃ vā diṭṭhikappaṃ vā n’ eti na upeti na upagacchati na gaṇhāti na parāmasati nābhinivisatī ’ti – kappaṃ neti. Akappiyo ’ti – Kappā ’ti dve kappā: taṇhākappo ca diṭṭhikappo ca. –pe– ayaṃ taṇhākappo. –pe– ayaṃ diṭṭhikappo. Tassa taṇhākappo pahīno diṭṭhikappo paṭinissaṭṭho. Tassa taṇhākappassa pahīnattā diṭṭhikappassa paṭinissaṭṭhattā taṇhākappaṃ vā diṭṭhikappaṃ vā na kappeti na janeti na sañjaneti na nibbatteti nābhinibbattetī ’ti – kappaṃ neti akappiyo.
Tenāha bhagavā: “Vītagedho amaccharī na ussesu vadate muni, na samesu na omesu kappaṃ neti akappiyo ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Có sự thèm khát đã được xa lìa, không bỏn xẻn, bậc hiền trí không mô tả (bản thân) là trong số những người ưu việt, không là trong số những người ngang bằng, không là trong số những người thấp kém, là vị không bị sắp đặt, không đi đến sự sắp đặt (bởi tham ái và tà kiến).”
10.14
Yassa loke sakaṃ natthi asatā ca na socati, dhammesu ca na gacchati sa ve santoti vuccati.
Đối với vị nào ở thế gian, vật sở hữu là không có, (là vị) không sầu muộn do tình trạng không có, và không đi đến (sự lầm lẫn) trong mọi pháp; thật vậy, vị ấy được gọi là ‘bậc an tịnh.’
Ai không có vật gì,
Không có, không sầu muộn,
Không đi đến các pháp,
Vị ấy gọi an tịnh.
(Kinh Tập, câu kệ 861)
Yassa loke sakaṃ natthī ’ti – Yassā ’ti arahato khīṇāsavassa. Sakaṃ natthī ’ti yassa ‘mayhaṃ vā idaṃ, paresaṃ vā idan ’ti kiñci rūpagataṃ vedanāgataṃ saññāgataṃ saṅkhāragataṃ viññāṇagataṃ gahitaṃ parāmaṭṭhaṃ abhiniviṭṭhaṃ ajjhositaṃ adhimuttaṃ natthi na santi –pe– ñāṇagginā daḍḍhan ’ti – yassa loke sakaṃ natthi.
Đối với vị nào ở thế gian, vật sở hữu là không có – Đối với vị nào: đối với vị A-la-hán có lậu hoặc đã được cạn kiệt. Vật sở hữu là không có: Đối với vị nào, bất cứ điều gì hướng đến sắc, hướng đến thọ, hướng đến tưởng, hướng đến các hành, hướng đến thức đã được nắm lấy, đã được bám víu, đã được cố chấp, đã được bám chặt, đã được hướng đến (rằng): ‘Cái này là của tôi, cái này là của những người khác’ là không có, không hiện diện, –nt– đã được thiêu đốt bởi ngọn lửa trí tuệ; – ‘đối với vị nào ở thế gian, vật sở hữu là không có’ là như thế.
Asatā ca na socatī ’ti – Vipariṇataṃ vā vatthuṃ na socati; vipariṇatasmiṃ vā vatthusmiṃ na socati; cakkhuṃ me vipariṇatanti na socati. Sotaṃ me – ghānaṃ me – jivhā me – kāyo me – mano me – rūpā me – saddā me – gandhā me – rasā me – phoṭṭhabbā me – kulaṃ me – gaṇo me – āvāso me – lābho me – yaso me – pasaṃsā me – sukhaṃ me – cīvaraṃ me – piṇḍapāto me – senāsanaṃ me – gilānapaccayabhesajjaparikkhāro me – mātā me – pitā me – bhātā me – bhaginī me – putto me – dhītā me – mittā me – amaccā me – ñātakā me – sālohitā me vipariṇatā ’ti na socati na kilamati na paridevati na urattāḷiṃ kandati na sammohaṃ āpajjatī ’ti – evampi asatā ca na socati.
Không sầu muộn do tình trạng không có – Không sầu muộn về vật đã bị biến đổi; không sầu muộn khi vật bị biến đổi; (nghĩ rằng): ‘Mắt của ta bị biến đổi’ mà không sầu muộn; (nghĩ rằng): ‘Tai của ta — ‘Mũi của ta — ‘Lưỡi của ta — ‘Thân của ta — ‘Ý của ta — ‘Các sắc của ta — ‘Các thinh của ta — ‘Các hương của ta — ‘Các vị của ta — ‘Các xúc của ta — ‘Gia tộc của ta — ‘Đồ chúng của ta — ‘Chỗ ngụ của ta — ‘Lợi lộc của ta — ‘Danh tiếng của ta — ‘Lời khen của ta — ‘Hạnh phúc của ta — ‘Y phục của ta — ‘Đồ ăn khất thực của ta — ‘Chỗ nằm ngồi của ta — ‘Vật dụng là thuốc men chữa bệnh của ta — ‘Mẹ của ta — ‘Cha của ta — ‘Anh em trai của ta — ‘Chị em gái của ta — ‘Con trai của ta — ‘Con gái của ta — ‘Bạn bè của ta — ‘Thân hữu của ta — ‘Thân quyến của ta — ‘Những người cùng huyết thống của ta bị biến đổi’ mà không sầu muộn, không mệt mỏi, không than vãn, không khóc nức nở, không đi đến sự mê muội; – ‘không sầu muộn do tình trạng không có’ là như vậy.
Athavā, asātāya dukkhāya vedanāya phuṭṭho pareto samohito samannāgato na socati na kilamati na paridevati na urattāḷiṃ kandati na sammohaṃ āpajjati. Cakkhurogena phuṭṭho pareto samohito samannāgato na socati na kilamati na paridevati na urattāḷiṃ kandati na sammohaṃ āpajjati. Sotarogena ghānarogena jivhārogena kāyarogena sīsarogena kaṇṇarogena mukharogena dantarogena kāsena sāsena pināsena ḍahena jarena kucchirogena mucchāya pakkhandikāya sūlāya visūcikāya kuṭṭhena gaṇḍena kilāsena sosena apamārena dadduyā kaṇḍuyā kacchuyā nakhasāya vitacchikāya lohitena pittena madhumehena aṃsāya pīḷakāya bhagandalāya pittasamuṭṭhānena ābādhena semhasamuṭṭhānena ābādhena vātasamuṭṭhānena ābādhena sannipātikena ābādhena utupariṇāmajena ābādhena visamaparihārajena ābādhena opakkamikena ābādhena kammavipākajena ābādhena sītena uṇhena jighacchāya pipāsāya [uccārena passāvena Syā, PTS] ḍaṃsamakasavātātapasiriṃsapa samphassehi phuṭṭho pareto samohito samannāgato na socati na kilamati na paridevati na urattāḷiṃ kandati na sammohaṃ āpajjatī ’ti – evampi asatā ca na socati.
Hoặc là, bị xúc chạm, bị chế ngự, bị xâm nhập, bị tiếp cận bởi thọ khổ, không thoải mái, mà không sầu muộn, không mệt mỏi, không than vãn, không khóc nức nở, không đi đến sự mê muội. Bị xúc chạm, bị chế ngự, bị xâm nhập, bị tiếp cận bởi bệnh ở mắt mà không sầu muộn, không mệt mỏi, không than vãn, không khóc nức nở, không đi đến sự mê muội. Bị xúc chạm, bị chế ngự, bị xâm nhập, bị tiếp cận bởi bệnh ở tai trong, bởi bệnh ở mũi, bởi bệnh ở lưỡi, bởi bệnh ở thân, bởi bệnh ở đầu, bởi bệnh ở lỗ tai, bởi bệnh ở miệng, bởi bệnh ở răng, bởi ho, bởi suyễn, bởi sổ mũi, bởi nhiệt, bởi cảm sốt, bởi đau bụng, bởi xây xẩm, bởi kiết lỵ, bởi đau bụng bão, bởi dịch tả, bởi phong cùi, bởi mụt nhọt, bởi bệnh chàm, bởi lao phổi, bởi động kinh, bởi mụt, bởi nhọt, bởi ghẻ ngứa, bởi sảy, bởi loét tay chân, bởi máu, bởi mật, bởi bệnh tiểu đường, bởi bệnh trĩ, bởi ghẻ lở, bởi loét hậu môn, bởi bệnh phát khởi từ mật, bởi bệnh phát khởi từ đàm, bởi bệnh phát khởi từ gió, bởi bệnh tổng hợp từ mật-đàm-gió, bởi bệnh sanh lên vì thay đổi thời tiết, bởi bệnh sanh lên vì bốn oai nghi không đồng đều, bởi bệnh vì sự cố gắng quá sức, bởi bệnh sanh lên vì quả của nghiệp, bởi lạnh, bởi nóng, bởi đói, bởi khát, bởi các xúc chạm với ruồi muỗi gió nắng và các loài bò sát, mà không sầu muộn, không mệt mỏi, không than vãn, không khóc nức nở, không đi đến sự mê muội; – ‘không sầu muộn do tình trạng không có’ còn là như vậy.
Athavā, asante asaṃvijjamāne anupalabbhamāne: ‘Ahu vata me, taṃ vata me natthi, siyā vata me, taṃ vatāhaṃ na labhāmī ’ti na socati na kilamati na paridevati na urattāḷiṃ kandati na sammohaṃ āpajjatī ’ti – evampi asatā ca na socati.
Hoặc là, trong khi không hiện hữu, không tìm thấy, không tồn tại (nghĩ rằng): ‘Quả thật đã có cho ta chăng? Cái ấy quả thật không có cho ta! Quả thật sẽ có cho ta chăng? Quả thật ta không đạt được cái ấy!’ mà không sầu muộn, không mệt mỏi, không than vãn, không khóc nức nở, không đi đến sự mê muội; – ‘không sầu muộn do tình trạng không có’ còn là như vậy.
Dhammesu ca na gacchatī ’ti – Na chandāgatiṃ gacchati, na dosāgatiṃ gacchati, na mohāgatiṃ gacchati, na bhayāgatiṃ gacchati, na rāgavasena gacchati, na dosavasena gacchati, na mohagatena gacchati, na mānavasena gacchati, na diṭṭhivasena gacchati, na uddhaccavasena gacchati, na vicikicchāvasena gacchati, na anusayavasena gacchati, na ca vaggehi dhammehi yāyati nīyati vuyhati saṃharīyatī ’ti – dhammesu ca na gacchati.
Và không đi đến (sự lầm lẫn) trong mọi pháp – Vị không đi đến sự thiên vị vì mong muốn, không đi đến sự thiên vị vì sân hận, không đi đến sự thiên vị vì si mê, không đi đến sự thiên vị vì sợ hãi, không đi đến do tác động của luyến ái, không đi đến do tác động của sân hận, không đi đến do tác động của si mê, không đi đến do tác động của ngã mạn, không đi đến do tác động của tà kiến, không đi đến do tác động của phóng dật, không đi đến do tác động của hoài nghi, không đi đến do tác động của pháp tiềm ẩn, và không bởi các pháp có tính chất phe nhóm mà bị đưa đi, bị dẫn đi, bị lôi đi, bị mang đi; – ‘và không đi đến (sự lầm lẫn) trong mọi pháp’ là như thế.
Sa ve santoti vuccatī ’ti – So santo upasanto vūpasanto nibbuto paṭippassaddhoti vuccati pavuccati kathīyati bhaṇīyati dīpīyati voharīyatī ’ti – sa ve santoti vuccati.
Thật vậy, vị ấy được gọi là ‘bậc an tịnh’ – Vị ấy được gọi là, được nói ra, được thuyết giảng, được phát ngôn, được diễn giải, được diễn tả là: ‘Bậc an tịnh, bậc yên tịnh, bậc vắng lặng, bậc tịch diệt, bậc tịch tịnh;’ – vị ấy được gọi là ‘bậc an tịnh’ là như thế.
Tenāha bhagavā: “Yassa loke sakaṃ natthi asatā ca na socati, dhammesu ca na gacchati sa ve santoti vuccatī ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Đối với vị nào ở thế gian, vật sở hữu là không có, (là vị) không sầu muộn do tình trạng không có, và không đi đến (sự lầm lẫn) trong mọi pháp; thật vậy, vị ấy được gọi là ‘bậc an tịnh.’”
Purābhedasuttaniddeso dasamo.
Diễn Giải Kinh ‘Trước Khi Hoại Rã’ là thứ mười.
11. KALAHAVIVĀDASUTTANIDDESO – DIỄN GIẢI KINH CÃI CỌ VÀ TRANH CÃI
11.1
Atha kalahavivādasuttaniddeso vuccati:
Giờ phần Diễn Giải Kinh ‘Cãi Cọ và Tranh Cãi’ được nói đến:
Kuto pahūtā kalahā vivādā paridevasokā sahamaccharā ca, mānātimānā saha pesunā cakuto pahūtā te tadiṅgha brūhi.
Từ đâu phát khởi các sự cãi cọ, các sự tranh cãi, các sự than vãn, các nỗi sầu muộn, và thêm các sự bỏn xẻn, các sự ngã mạn, và ngã mạn thái quá, rồi thêm các việc nói đâm thọc? Từ đâu chúng phát khởi? Nào, xin ngài hãy nói về điều ấy.
(XI) Kinh Tranh luận (Sn 168)
Người hỏi:
Từ đâu được khởi lên,
Các tranh luận, đấu tranh,
Than van và sầu muộn,
Cùng với tánh xan tham,
Mạn và tăng thượng mạn,
Kể cả với hai lưỡi,
Từ đâu chúng sanh nhiều,
Mong Ngài hãy nói lên.
(Kinh Tập, câu kệ 862)
Kuto pahūtā kalahā vivādā ’ti – Kalaho ’ti ekena ākārena kalaho; vivādotipi taññeva; yo kalaho so vivādo; yo vivādo so kalaho. Athavā, aparena ākārena vivādo vuccati: kalahassa pubbabhāgo vivādo. Rājānopi rājūhi vivadanti, khattiyāpi khattiyehi vivadanti, brāhmaṇāpi brāhmaṇehi vivadanti, gahapatīpi gahapatīhi vivadanti, mātāpi puttena vivadati, puttopi mātarā vivadati, pitāpi puttena vivadati, puttopi pitarā vivadati, bhātāpi bhātarā vivadati, bhātāpi bhaginiyā vivadati, bhaginīpi bhātarā vivadati, sahāyopi sahāyena vivadati; ayaṃ vivādo.
Từ đâu phát khởi các sự cãi cọ, các sự tranh cãi – Sự cãi cọ: Theo một cách thức, sự cãi cọ và sự tranh cãi cũng y như nhau; cái nào là cãi cọ, cái ấy là tranh cãi; cái nào là tranh cãi, cái ấy là cãi cọ. Hoặc là, theo một cách thức khác nói về tranh cãi: tranh cãi là phần đi trước của cãi cọ. Các vị vua tranh cãi với các vị vua, các Sát-đế-lỵ tranh cãi với các Sát-đế-lỵ, các Bà-la-môn tranh cãi với các Bà-la-môn, các gia chủ tranh cãi với các gia chủ, mẹ tranh cãi với con trai, con trai tranh cãi với mẹ, cha tranh cãi với con trai, con trai tranh cãi với cha, anh em trai tranh cãi với anh em trai, chị em gái tranh cãi với chị em gái, anh em trai tranh cãi với chị em gái, chị em gái tranh cãi với anh em trai, bạn bè tranh cãi với bạn bè; việc này là tranh cãi.
Katamo kalaho? Āgārikā daṇḍapasutā kāyena vācāya kalahaṃ karonti, pabbajitā āpattiṃ āpajjantā kāyena vācāya kalahaṃ karonti; ayaṃ kalaho.
Sự cãi cọ là việc nào? Các người tại gia, (trong khi tức giận) cầm lấy gậy gộc, thực hiện việc cãi cọ bằng thân bằng khẩu; các bậc xuất gia, trong khi vi phạm tội, thực hiện việc cãi cọ bằng thân bằng khẩu; việc này là cãi cọ.
Kuto pahūtā kalahā vivādā ’ti – Kalahā ca vivādā ca kuto pahūtā, kuto jātā, kuto sañjātā, kuto nibbattā, kuto abhinibbattā, kuto pātubhūtā, kinnidānā, kiṃsamudayā, kiñjātikā, kimpabhavā ’ti kalahassa ca vivādassa ca mūlaṃ pucchati, hetuṃ pucchati, nidānaṃ pucchati, sambhavaṃ pucchati, pabhavaṃ pucchati, samuṭṭhānaṃ pucchati, āhāraṃ pucchati, ārammaṇaṃ pucchati, paccayaṃ pucchati, samudayaṃ pucchati papucchati yācati ajjhesati pasādetī ’ti – kuto pahūtā kalahā vivādā.
Từ đâu phát khởi các sự cãi cọ, các sự tranh cãi – là hỏi về nguồn gốc, hỏi về nhân, hỏi về căn nguyên, hỏi về sự xuất phát, hỏi về nguồn sanh khởi, hỏi về nguồn phát khởi, hỏi về yếu tố nuôi dưỡng, hỏi về đối tượng, hỏi về duyên khởi, hỏi về nhân sanh khởi của sự cãi cọ và sự tranh cãi: ‘Các sự cãi cọ và các sự tranh cãi phát khởi từ đâu, sanh ra từ đâu, sanh khởi từ đâu, hạ sanh từ đâu, phát sanh từ đâu, xuất hiện từ đâu, có cái gì là căn nguyên, có cái gì là nhân sanh khởi, có cái gì là mầm sanh khởi, có cái gì là nguồn sanh khởi?’ là chất vấn, là yêu cầu, là thỉnh cầu, là đặt niềm tin; – ‘từ đâu phát khởi các sự cãi cọ, các sự tranh cãi’ là như thế.
Paridevasokā sahamaccharā cā ’ti – Paridevo ’ti ñātivyasanena vā phuṭṭhassa, bhogavyasanena vā phuṭṭhassa, rogavyasanena vā phuṭṭhassa, sīlavyasanena vā phuṭṭhassa, diṭṭhivyasanena vā phuṭṭhassa, aññataraññatarena vā vyasanena samannāgatassa aññataraññatarena vā dukkhadhammena phuṭṭhassa ādevo paridevo ādevanā paridevanā ādevitattaṃ paridevitattaṃ, vācā palāpo vippalāpo lālappo lālappanā lālappitattaṃ. Soko ’ti ñātivyasanena vā phuṭṭhassa, bhogavyasanena vā phuṭṭhassa, rogavyasanena vā phuṭṭhassa, sīlavyasanena vā phuṭṭhassa, diṭṭhivyasanena vā phuṭṭhassa, aññataraññatarena vā vyasanena samannāgatassa aññataraññatarena vā dukkhadhammena phuṭṭhassa soko socanā socitattaṃ antosoko antoparisoko antodāho antoparidāho, cetaso parijjhāyanā domanassaṃ sokasallaṃ. Maccharan ’ti pañca macchariyāni: āvāsamacchariyaṃ kulamacchariyaṃ lābhamacchariyaṃ vaṇṇamacchariyaṃ dhammamacchariyaṃ. Yaṃ evarūpaṃ macchariyaṃ maccharāyanā maccharāyitattaṃ, vevicchaṃ kadariyaṃ kaṭukañcukatā aggahitattaṃ cittassa; idaṃ vuccati macchariyaṃ. Api ca khandhamacchariyampi macchariyaṃ, dhātumacchariyampi macchariyaṃ, āyatanamacchariyampi macchariyaṃ, gāho vuccati macchariyan ’ti – paridevasokā sahamaccharā ca.
Các sự than vãn, các nỗi sầu muộn, và thêm các sự bỏn xẻn – Sự than vãn: là sự than van, sự than trách, sự than thở, sự than vãn, trạng thái than van, trạng thái than trách, lời nói, nói lảm nhảm, nói huyên thuyên, nói kể lể, lối nói kể lể, trạng thái nói kể lể của người bị tác động bởi sự rủi ro về thân quyến, bị tác động bởi sự rủi ro về của cải, bị tác động bởi sự rủi ro về bệnh tật, bị tác động bởi sự suy giảm về giới hạnh, bị tác động bởi sự suy giảm về kiến thức, bị gặp phải sự rủi ro này hoặc rủi ro khác, hoặc bị tác động bởi sự khổ này hoặc sự khổ khác. Nỗi sầu muộn: Nỗi sầu muộn là sự buồn rầu, trạng thái buồn phiền, sự sầu muộn ở nội tâm, sự buồn thảm ở nội tâm, sự nóng nảy ở nội tâm, sự bực tức ở nội tâm, nỗi ưu phiền do trạng thái bực bội của tâm, mũi tên sầu muộn của người bị tác động bởi sự rủi ro về thân quyến, bị tác động bởi sự rủi ro về của cải, bị tác động bởi sự rủi ro về bệnh tật, bị tác động bởi sự suy giảm về giới hạnh, bị tác động bởi sự suy giảm về kiến thức, bị gặp phải sự rủi ro này hoặc rủi ro khác, hoặc bị tác động bởi sự khổ này hoặc sự khổ khác. Sự bỏn xẻn: Có năm loại bỏn xẻn: bỏn xẻn về chỗ ở, bỏn xẻn về gia tộc, bỏn xẻn về lợi lộc, bỏn xẻn về danh tiếng, bỏn xẻn về Pháp. Bỏn xẻ với hình thức như vầy là biểu hiện của bỏn xẻn, trạng thái của bỏn xẻn, sự hám lợi, keo kiệt, tính chất bủn xỉn, trạng thái nắm giữ của tâm, điều này được gọi là bỏn xẻn. Còn nữa, bỏn xẻn về uẩn cũng là bỏn xẻn, bỏn xẻn về giới cũng là bỏn xẻn, bỏn xẻn về xứ cũng là bỏn xẻn, sự nắm lấy được gọi là bỏn xẻn; – ‘các sự than vãn, các nỗi sầu muộn, và thêm các sự bỏn xẻn’ là như thế.
Mānātimānā sahapesunā cā ’ti – Māno ’ti idhekacco mānaṃ janeti jātiyā vā gottena vā kolaputtiyena vā vaṇṇapokkharatāya vā dhanena vā ajjhenena vā kammāyatanena vā sippāyatanena vā vijjāṭṭhānena vā sutena vā paṭibhānena vā aññataraññatarena vā vatthunā. Atimāno ’ti idhekacco paraṃ atimaññati jātiyā vā gottena vā –pe– aññataraññatarena vā vatthunā.
Các sự ngã mạn, và ngã mạn thái quá, rồi thêm các việc nói đâm thọc –Ngã mạn: Ở đây một người nào đó sanh khởi ngã mạn về xuất thân, về dòng dõi, về con nhà gia thế, về vẻ đẹp của vóc dáng, về tài sản, về học vấn, về công việc, về tài nghệ, về kiến thức, về sự học hỏi, về tài biện giải, hoặc về sự việc này khác. Ngã mạn thái quá: Ở đây một người nào đó khinh khi người khác theo sự sanh ra, theo dòng họ, –nt– hoặc theo sự việc này khác.
Pesuññan ’ti – Idhekacco pisunavāco hoti: ito sutvā amutra akkhātā imesaṃ bhedāya, amutra vā sutvā imesaṃ akkhātā amūsaṃ bhedāya. Iti samaggānaṃ vā bhettā, bhinnānaṃ vā anuppadātā, vaggarāmo vaggarato vagganandī, vaggakaraṇiṃ vācaṃ bhāsitā hoti; idaṃ vuccati pesuññaṃ. Api ca, dvīhi kāraṇehi pesuññaṃ upasaṃharati: piyakamyatāya vā bhedādhippāyo vā. Kathaṃ piyakamyatāya pesuññaṃ upasaṃharati? Imassa piyo bhavissāmi, manāpo bhavissāmi, vissāsiko bhavissāmi, abbhantariko bhavissāmi, suhadayo bhavissāmī ’ti evaṃ piyakamyatāya pesuññaṃ upasaṃharati. Kathaṃ bhedādhippāyo1 pesuññaṃ upasaṃharati? Kathaṃ ime nānā assu, vinā assu, vaggā assu, dvidhā assu, dvejjhā assu, dve pakkhā assu, bhijjeyyuṃ na samāgaccheyyuṃ, dukkhaṃ na phāsu vihareyyun ’ti; evaṃ bhedādhippāyo1 pesuññaṃ upasaṃharatī ’ti – mānātimānā sahapesunā ca.
Việc nói đâm thọc: Ở đây, một người nào đó có lời nói đâm thọc: sau khi nghe ở chỗ này, là người nói lại ở chỗ kia nhằm chia rẽ những người này, hoặc là sau khi nghe ở chỗ kia, là người nói lại cho những người này nhằm chia rẽ những người kia; như vậy là người chia rẽ những kẻ đã được hợp nhất, là người khuyến khích những kẻ chia rẽ, là người thỏa thích phe nhóm, thích thú phe nhóm, hân hoan phe nhóm, là người nói lời tạo ra phe nhóm. Điều này được gọi là việc nói đâm thọc. Thêm nữa, người đem lại việc nói đâm thọc vì hai lý do: vì mong muốn được thương hoặc là vì ý định chia rẽ. Đem lại việc nói đâm thọc vì mong muốn được thương nghĩa là thế nào? (Nghĩ rằng): ‘Ta sẽ được người này yêu thương, ta sẽ được quý mến, ta sẽ được tin cậy, ta sẽ trở thành thân tín, ta sẽ trở thành tâm phúc;’ đem lại việc nói đâm thọc vì mong muốn được thương nghĩa là như vậy. Đem lại việc nói đâm thọc vì ý định chia rẽ nghĩa là thế nào? (Nghĩ rằng): ‘Làm thế nào để những người này trở thành xa lạ, trở thành tách biệt, trở thành phe nhóm, trở thành hai phần, trở thành hai phía, trở thành hai nhánh, bị chia rẽ, không thể hội tụ, sống khổ sở không thoải mái?’ đem lại việc nói đâm thọc vì ý định chia rẽ nghĩa là như vậy; – ‘các sự ngã mạn, và ngã mạn thái quá, rồi thêm các việc nói đâm thọc’ là như thế.
Kuto pahūtā te tadiṅgha brūhī ’ti – Kalaho ca vivādo ca paridevo ca soko ca macchariyaṃ ca māno ca atimāno ca pesuññañcāti, ime aṭṭha kilesā kuto pahūtā, kuto jātā, kuto sañjātā, kuto nibbattā, kuto abhinibbattā, kuto pātubhūtā, kinnidānā, kiṃsamudayā, kiñjātikā, kimpabhavā ’ti? Imesaṃ aṭṭhannaṃ kilesānaṃ mūlaṃ pucchati, hetuṃ pucchati, nidānaṃ pucchati, sambhavaṃ pucchati, pabhavaṃ pucchati, samuṭṭhānaṃ pucchati, āhāraṃ pucchati, ārammaṇaṃ pucchati, paccayaṃ pucchati, samudayaṃ pucchati, papucchati yācati ajjhesati pasādetī ’ti – kuto pahūtā te tadiṅgha brūhī ’ti. Iṅgha brūhi ācikkha desehi paññapehi paṭṭhapehi vivara vibhaja uttānīkarohi pakāsehī ’ti – kuto pahūtā te tadiṅgha brūhī ’ti.
Từ đâu chúng phát khởi? Nào, xin ngài hãy nói về điều ấy – Sự cãi cọ, sự tranh cãi, sự than vãn, nỗi sầu muộn, sự bỏn xẻn, sự ngã mạn, sự ngã mạn thái quá, và việc nói đâm thọc, tám điều ô nhiễm này phát khởi từ đâu, sanh ra từ đâu, sanh khởi từ đâu, hạ sanh từ đâu, phát sanh từ đâu, xuất hiện từ đâu, có cái gì là căn nguyên, có cái gì là nhân sanh khởi, có cái gì là mầm sanh khởi, có cái gì là nguồn sanh khởi? (Vị ấy) hỏi về nguồn gốc, hỏi về nhân, hỏi về căn nguyên, hỏi về sự xuất phát, hỏi về nguồn sanh khởi, hỏi về nguồn phát khởi, hỏi về yếu tố nuôi dưỡng, hỏi về đối tượng, hỏi về duyên khởi, hỏi về nhân sanh khởi của tám điều ô nhiễm này, là chất vấn, là yêu cầu, là thỉnh cầu, là đặt niềm tin; – ‘từ đâu chúng phát khởi? Nào, xin ngài hãy nói về điều ấy’ là như thế. Nào, xin ngài hãy nói, hãy nêu ra, hãy thuyết giảng, hãy thông báo, hãy ấn định, hãy khai mở, hãy chia sẻ, hãy làm rõ, hãy bày tỏ; – ‘từ đâu chúng phát khởi? Nào, xin ngài hãy nói về điều ấy’ là như thế.
Tenāha so nimmito: “Kuto pahūtā kalahā vivādā paridevasokā sahamaccharā ca, mānātimānā sahapesunā ca kuto pahūtā te tadiṅgha brūhī ”ti.
Vì thế, vị (Phật) do thần thông biến hóa ra đã hỏi rằng:
“Từ đâu phát khởi các sự cãi cọ, các sự tranh cãi, các sự than vãn, các nỗi sầu muộn, và thêm các sự bỏn xẻn, các sự ngã mạn, và ngã mạn thái quá, rồi thêm các việc nói đâm thọc? Từ đâu chúng phát khởi? Nào, xin ngài hãy nói về điều ấy.”
11.2
Piyappahūtā kalahā vivādā paridevasokā sahamaccharā ca, mānātimānā sahapesunā ca maccherayuttā kalahā vivādā vivādajātesu ca pesunāni.
Từ vật được yêu mến, phát khởi các sự cãi cọ, các sự tranh cãi, các sự than vãn, các nỗi sầu muộn, và thêm các sự bỏn xẻn, các sự ngã mạn, và ngã mạn thái quá, rồi thêm các việc nói đâm thọc. Các sự cãi cọ, các sự tranh cãi là có liên quan đến sự bỏn xẻn. Và ở các cuộc tranh cãi đã được sanh ra, có các việc nói đâm thọc.
Thế Tôn:
Từ ái sanh khởi nhiều,
Các tranh luận, đấu tranh
Than van và sầu muộn,
Cùng với tánh xan tham,
Mạn và tăng thượng mạn,
Kể cả với hai lưỡi,
Các tranh luận, đấu tranh,
Ðều liên hệ xan tham,
Những lời nói hai lưỡi,
Khởi lên từ tranh luận.
(Kinh Tập, câu kệ 863)
Piyappahūtā kalahā vivādā paridevasokā sahamaccharā cā ’ti – Piyā ’ti dve piyā: sattā vā saṅkhārā vā. Katame sattā piyā? Idha yassa te honti atthakāmā hitakāmā phāsukāmā yogakkhemakāmā, mātā vā pitā vā bhātā vā bhaginī vā putto vā dhītā vā mittā vā amaccā vā ñātī vā sālohitā vā, ime sattā piyā. Katame saṅkhārā piyā? Manāpikā rūpā manāpikā saddā manāpikā gandhā manāpikā rasā manāpikā phoṭṭhabbā, ime saṅkhārā piyā.
Piyaṃ vatthuṃ acchedasaṅkinopi kalahaṃ karonti, acchijjantepi kalahaṃ karonti, acchinnepi kalahaṃ karonti. Piyaṃ vatthuṃ vipariṇāmasaṅkinopi kalahaṃ karonti, vipariṇāmantepi kalahaṃ karonti, vipariṇatepi kalahaṃ karonti. Piyaṃ vatthuṃ acchedasaṅkinopi vivadanti, acchijjantepi vivadanti, acchinnepi vivadanti. Piyaṃ vatthuṃ vipariṇāmasaṅkinopi vivadanti, vipariṇāmantepi vivadanti, vipariṇatepi vivadanti. Piyaṃ vatthuṃ acchedasaṅkinopi paridevanti, acchijjantepi paridevanti, achinnepi paridevanti. Piyaṃ vatthuṃ vipariṇāmasaṅkinopi paridevanti, vipariṇāmantepi paridevanti, vipariṇatepi paridevanti. Piyaṃ vatthuṃ acchedasaṅkinopi socanti, acchijjantepi socanti, acchinnepi socanti. Piyaṃ vatthuṃ vipariṇāmasaṅkinopi socanti, vipariṇāmantepi socanti, vipariṇatepi socanti. Piyaṃ vatthuṃ rakkhanti gopenti pariggaṇhanti mamāyanti maccharāyanti.
Mānātimānā sahapesunā cā ’ti – Piyaṃ vatthuṃ nissāya mānaṃ janenti, piyaṃ vatthuṃ nissāya atimānaṃ janenti. Kathaṃ piyaṃ vatthuṃ nissāya mānaṃ janenti? “Mayaṃ lābhino manāpikānaṃ rūpānaṃ saddānaṃ gandhānaṃ rasānaṃ phoṭṭhabbānaṃ. Ime panaññe na lābhino manāpikānaṃ rūpānaṃ saddānaṃ gandhānaṃ rasānaṃ phoṭṭhabbānan ”ti; evaṃ piyaṃ vatthuṃ nissāya mānaṃ janenti. Kathaṃ piyaṃ vatthuṃ nissāya atimānaṃ janenti? “Mayaṃ lābhino manāpikānaṃ rūpānaṃ saddānaṃ gandhānaṃ rasānaṃ phoṭṭhabbānaṃ. Ime panaññe na lābhino manāpikānaṃ rūpānaṃ saddānaṃ gandhānaṃ rasānaṃ phoṭṭhabbānan”ti; evaṃ piyaṃ vatthuṃ nissāya atimānaṃ janenti.
Pesuññan ’ti – Idhekacco pisunavāco hoti: ito sutvā amutra akkhātā imesaṃ bhedāya ―pe― evaṃ bhedādhippāyo pesuññaṃ upasaṃharatī ’ti – mānātimānā sahapesunā ca.
Maccherayuttā kalahā vivādā ’ti – Kalaho ca vivādo ca paridevo ca soko ca māno ca atimāno ca pesuññañcā ’ti, ime satta kilesā macchariye yuttā payuttā āyuttā samāyuttā ’ti – maccherayuttā kalahā vivādā.
Vivādajātesu ca pesunānī ’ti – Vivāde jāte sañjāte nibbatte abhinibbatte pātubhūte pesuññaṃ upasaṃharanti: ito sutvā amutra akkhāyanti imesaṃ bhedāya. Amutra vā sutvā imesaṃ akkhāyanti amūsaṃ bhedāya. Iti samaggānaṃ vā bhettāro bhinnānaṃ vā anuppadātāro vaggārāmā vaggaratā vagganandī vaggakaraṇiṃ vācaṃ bhāsitāro honti; idaṃ vuccati pesuññaṃ. Api ca, dvīhi kāraṇehi pesuññaṃ upasaṃharanti: piyakamyatāya vā bhedādhippāyā vā. Kathaṃ piyakamyatāya pesuññaṃ upasaṃharanti? Imassa piyā bhavissāma, manāpā bhavissāma, vissāsikā bhavissāma, abbhantarikā bhavissāma, suhadayā bhavissāmā ’ti; evaṃ piyakamyatāya pesuññaṃ upasaṃharanti. Kathaṃ bhedādhippāyā pesuññaṃ upasaṃharanti? Kathaṃ ime nānā assu, vinā assu, vaggā assu, dvedhā assu, dvejjhā assu, dve pakkhā assu, bhijjeyyuṃ na samāgaccheyyuṃ, dukkhaṃ na phāsu vihareyyun ’ti; evaṃ bhedādhippāyā pesuññaṃ upasaṃharantī ’ti – vivādajātesu ca pesunāni.
Tenāha bhagavā: “Piyappahūtā kalahā vivādā paridevasokā sahamacchārā ca, mānātimānā sahapesunā ca maccherayuttā kalahā vivādā vivādajātesu ca pesunānī ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Từ vật được yêu mến, phát khởi các sự cãi cọ, các sự tranh cãi, các sự than vãn, các nỗi sầu muộn, và thêm các sự bỏn xẻn, các sự ngã mạn, và ngã mạn thái quá, rồi thêm các việc nói đâm thọc. Các sự cãi cọ, các sự tranh cãi là có liên quan đến sự bỏn xẻn. Và ở các cuộc tranh cãi đã được sanh ra, có các việc nói đâm thọc.”
11.3
Piyā su lokasmiṃ kutonidānā ye cāpi lobhā vicaranti loke, āsā ca niṭṭhā ca kuto nidānā ye samparāyāya narassa honti.
Vậy các vật được yêu mến ở thế gian có căn nguyên từ đâu, và luôn cả những ai sống ở thế gian cũng do tham (tham ấy có căn nguyên từ đâu)? Mong mỏi và sự thành tựu (của mong mỏi) – những sự việc đưa đến đời sống kế tiếp của con người – có căn nguyên từ đâu?
Người hỏi:
Do những nhân duyên nào,
Khả ái sanh ở đời?
Hay những tham lam nào,
Ðược lưu hành ở đời?
Ước vọng và thành đạt,
Là do nhơn duyên nào?
Khiến loài Người được sanh,
Trong thời gian tương lai?
(Kinh Tập, câu kệ 864)
Piyā su lokasmiṃ kutonidānā ’ti – Piyā kuto nidānā, kuto jātā, kuto sañjātā, kuto nibbattā, kuto abhinibbattā, kuto pātubhūtā, kinnidānā, kiṃsamudayā, kiñjātikā, kimpabhavāti piyānaṃ mūlaṃ –pe– samudayaṃ pucchati papucchati yācati ajjhesati pasādetī ’ti – piyā su lokasmiṃ kutonidānā.
Ye cāpi lobhā vicaranti loke ’ti – Ye cāpī ’ti khattiyā ca brāhmaṇā ca vessā ca suddā ca gahaṭṭhā ca pabbajitā ca devā ca manussā ca.
Lobhā ’ti yo lobho lubbhanā lubbhitattaṃ sārāgo sārajjanā sārajjitattaṃ abhijjhā lobho akusalamūlaṃ.
Vicarantī ’ti vicaranti viharanti irīyanti vattanti pālenti yapenti yāpenti.
Loke ’ti apāyaloke manussaloke devaloke khandhaloke dhātuloke āyatanaloke ’ti – ye cāpi lobhā vicaranti loke.
Āsā ca niṭṭhā ca kutonidānā ’ti – Āsā ca niṭṭhā ca kutonidānā kuto jātā kuto sañjātā kuto nibbatti kuto abhinibbattā kuto pātubhūtā kinnidānā kiṃsamudayā kiñjātikā kimpabhavā ’ti āsāya ca niṭṭhāya ca mūlaṃ pucchati –pe– samudayaṃ pucchati papucchati yācati ajjhesati pasādetī ’ti – āsā ca niṭṭhā ca kutonidānā.
Ye samparāyāya narassa hontī ’ti – Ye narassa parāyanā honti, dīpā honti, tāṇā honti, lenā honti, saraṇā honti, naro niṭṭhā parāyano hotī ’ti – ye samparāyāya narassa honti.
Tenāha so nimmito: “Piyā su lokasmiṃ kutonidānā ye cāpi lobhā vicaranti loke, āsā ca niṭṭhā ca kutonidānā, ye samparāyāya narassa honti.”
Vì thế, vị (Phật) do thần thông biến hóa ra đã hỏi rằng:
“Vậy các vật được yêu mến ở thế gian có căn nguyên từ đâu, và luôn cả những ai sống ở thế gian cũng do tham (tham ấy có căn nguyên từ đâu)? Mong mỏi và sự thành tựu (của mong mỏi) – những sự việc đưa đến đời sống kế tiếp của con người – có căn nguyên từ đâu?”
11.4
Chandanidānāni piyāni loke ye cāpi lobhā vicaranti loke, āsā ca niṭṭhā ca itonidānā ye samparāyāya narassa honti.
Các vật được yêu mến ở thế gian có mong muốn là căn nguyên, và luôn cả những ai sống ở thế gian cũng do tham (tham ấy có căn nguyên từ mong muốn). Mong mỏi và sự thành tựu (của mong mỏi) – những sự việc đưa đến đời sống kế tiếp của con người – có căn nguyên từ đây (từ sự mong muốn).
Thế Tôn:
Do ước muốn là nhân,
Khả ái sanh ở đời,
Hay với những tham lam,
Ðược lưu hành ở đời,
Ước vọng và thành đạt,
Do ước muốn làm nhân,
Khiến loài Người được sanh,
Trong thời gian tương lai.
(Kinh Tập, câu kệ 865)
Chandanidānāni piyāni loke ’ti – Chando ’ti yo kāmesu kāmacchando kāmarāgo kāmanandi kāmataṇhā kāmasineho kāmapariḷāho kāmamucchā kāmajjhosānaṃ kāmogho kāmayogo kāmupādānaṃ kāmacchandanīvaraṇaṃ. Api ca, pañca chandā: pariyesanacchando paṭilābhacchando paribhogacchando sannidhicchando vissajjana cchando.
Katamo pariyesanacchando? Idhekacco ajjhosito yeva atthiko chandajāto rūpe pariyesati, sadde – gandhe – rase – phoṭṭhabbe pariyesati; ayaṃ pariyesanacchando.
Katamo paṭilābhacchando? Idhekacco ajjhosito yeva atthiko chandajāto rūpe paṭilabhati, sadde – gandhe – rase – phoṭṭhabbe paṭilabhati; ayaṃ paṭilābhacchando.
Katamo paribhogacchando? Idhekacco ajjhosito yeva atthiko chandajāto rūpe paribhuñjati, sadde – gandhe – rase – phoṭṭhabbe paribhuñjati; ayaṃ paribhogacchando.
Katamo sannidhicchando? Idhekacco ajjhosito yeva atthiko chandajāto dhanasannicayaṃ karoti āpadāsu bhavissatī ’ti; ayaṃ sannidhicchando.
Katamo visajjanacchando? Idhekacco ajjhosito yeva atthiko chandajāto dhanaṃ vissajjeti hatthārohānaṃ assārohānaṃ rathikānaṃ dhanuggahānaṃ pattikānaṃ ‘ime maṃ rakkhissanti gopissanti samparivāressantī ’ti; ayaṃ vissajjanacchando.
Piyānī ’ti dve piyā: sattā vā saṅkhārā vā. –pe– ime sattā piyā. –pe– ime saṅkhārā piyā. Chandanidānāni piyāni loke ’ti piyā chandanidānā chandasamudayā chandajātikā chandapabhavā ’ti – chandanidānāni piyāni loke.
Ye cāpi lobhā vicaranti loke ’ti – Ye cāpī ’ti khattiyā ca brāhmaṇā ca vessā ca suddā ca gahaṭṭhā ca pabbajitā ca devā ca manussā ca. Lobhā ’ti yo lobho lubbhanā lubbhitattaṃ sārāgo sārajjanā sārajjitattaṃ abhijjhā lobho akusalamūlaṃ. Vicarantī ’ti vicaranti viharanti irīyanti vattanti pālenti yapenti yāpenti. Loke ’ti apāyaloke –pe– āyatanaloke ’ti – ye cāpi lobhā vicaranti loke.
Āsā ca niṭṭhā ca itonidānā ’ti – Āsā vuccati taṇhā, yo rāgo sārāgo –pe– abhijjhā lobho akusalamūlaṃ. Niṭṭhā ’ti idhekacco rūpe pariyesanto rūpaṃ paṭilabhati, rūpaniṭṭho hoti. Sadde – gandhe – rase – phoṭṭhabbe, kulaṃ, gaṇaṃ, āvāsaṃ, lābhaṃ, yasaṃ, pasaṃsaṃ, sukhaṃ, cīvaraṃ piṇḍapātaṃ, senāsanaṃ, gilānapaccayabhesajjaparikkhāraṃ, suttantaṃ, vinayaṃ, abhidhammaṃ, āraññikaṅgaṃ, piṇḍapātikaṅgaṃ, paṃsukūlikaṅgaṃ, tecīvarikaṅgaṃ, sapadānacārikaṅgaṃ, khalupacchābhattikaṅgaṃ, nesajjikaṅgaṃ, yathāsanthatikaṅgaṃ, paṭhamajjhānaṃ, dutiyajjhānaṃ, tatiyajjhānaṃ, catutthajjhānaṃ, ākāsānañcāyatanasamāpattiṃ, viññāṇañcāyatanasamāpattiṃ, ākiñcaññāyatanasamāpattiṃ, nevasaññānāsaññāyatanasamāpattiṃ pariyesanto nevasaññānāsaññāyatanasamāpattiṃ paṭilabhati, nevasaññānāsaññāyatanasamāpattiniṭṭho hoti.
“Āsāya kasate khettaṃ bījaṃ āsāya vappati, āsāya vāṇijā yanti samuddaṃ dhanahārakā,yāya āsāya tiṭṭhāmi sā me āsā samijjhatū ”ti.“Thửa ruộng được cày với sự mong mỏi, hạt giống được gieo với sự mong mỏi, những người thương buôn đi biển với sự mong mỏi là những người mang về của cải. Với sự mong mỏi nào mà tôi đứng (ở đây), mong rằng sự mong mỏi ấy của tôi được thành tựu.”
Āsāya samiddhi vuccate niṭṭhā. Āsā ca niṭṭhā ca itonidānā ’ti āsā ca niṭṭhā ca ito chandanidānā chandasamudayā chandajātikā chandapabhavā ’ti – āsā ca niṭṭhā ca itonidānā.
Ye samparāyāya narassa hontī ’ti – Ye narassa parāyanā honti, dīpā honti, tāṇā honti, lenā honti, saraṇā honti. Naro niṭṭhā parāyano hotī ’ti – ye samparāyāya narassa honti.
Tenāha bhagavā: “Chandanidānāni piyāni loke ye cāpi lobhā vicaranti loke, āsā ca niṭṭhā ca itonidānā ye samparāyāya narassa hontī ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Các vật được yêu mến ở thế gian có mong muốn là căn nguyên, và luôn cả những ai sống ở thế gian cũng do tham (tham ấy có căn nguyên từ mong muốn). Mong mỏi và sự thành tựu (của mong mỏi) – những sự việc đưa đến đời sống kế tiếp của con người – có căn nguyên từ đây (từ sự mong muốn).”
11.5
Chando nu lokasmiṃ kutonidāno vinicchayā cāpi kuto pahūtā, kodho mosavajjañca kathaṅkathā ca ye cāpi dhammā samaṇena vuttā.
Vậy mong muốn ở thế gian có căn nguyên từ đâu? Và luôn cả các phán đoán được phát khởi từ đâu? Sự giận dữ, lời nói giả dối, và sự nghi ngờ, và luôn cả các pháp nào đã được bậc Sa-môn nói đến?
Người hỏi:
Ước muốn sanh ở đời
Là do nhân duyên nào?
Hay cả những quyết định,
Do nhân nào được sanh?
Phẫn nộ và vọng ngữ,
Cùng với cả nghi hoặc,
Hoặc là những pháp nào,
Ðược Sa-môn nói đến?
(Kinh Tập, câu kệ 866)
Chando nu lokasmiṃ kutonidāno ’ti – Chando kutonidāno kuto jāto kuto sañjāto kuto nibbatto kuto abhinibbatto kuto pātubhūto kinnidāno kiṃsamudayo kiñjātiko kimpabhavoti chandassa mūlaṃ pucchati, –pe– samudayaṃ pucchati papucchati yācati ajjhesati pasādetī ’ti – chando nu lokasmiṃ kutonidāno.
Vinicchayā cāpi kuto pahūtā ’ti – Vinicchayā kuto pahūtā kuto jātā kuto sañjātā kuto nibbattā kuto abhinibbattā kuto pātubhūtā kinnidānā kiṃsamudayā kiñjātikā kimpabhavāti vinicchayānaṃ mūlaṃ pucchati –pe– samudayaṃ pucchati papucchati yācati ajjhesati pasādetī ’ti – vinicchayā cāpi kuto pahūtā.
Kodho mosavajjañca kathaṅkathā cā ’ti – Kodho ’ti – yo evarūpo cittassa āghāto paṭighāto paṭighaṃ paṭivirodho kopo pakopo sampakopo, doso padoso sampadoso, cittassa byāpatti manopadoso, kodho kujjhanā kujjhitattaṃ, doso dussanā dussitattaṃ, byāpatti byāpajjanā byāpajjitattaṃ, virodho paṭivirodho caṇḍikkaṃ asuropo anattamanatā cittassa.
Mosavajjaṃvuccati musāvādo. Kathaṅkathā vuccati vicikicchā ’ti – kodho mosavajjañca kathaṅkathā ca.
Ye cāpi dhammā samaṇena vuttā ’ti – Ye cāpī ’ti ye kodhena ca mosavajjena ca kathaṃkathāya ca sahagatā sahajātā saṃsaṭṭhā sampayuttā ekuppādā ekanirodhā ekavatthukā ekārammaṇā, ime vuccanti ‘ye cāpi dhammā.’ Athavā, ye te kilesā aññajātikā aññavihitakā, ime vuccanti ‘ye cāpi dhammā.’ Samaṇena vuttā ’ti samaṇena samitapāpena brāhmaṇena bāhitapāpadhammena bhikkhunā bhinnakilesamūlena sabbākusalamūlabandhanā pamuttena vuttā pavuttā ācikkhitā desitā paññapitā paṭṭhapitā vivaṭā vibhattā uttānīkatā pakāsitā ’ti – ye cāpi dhammā samaṇena vuttā.
Tenāha bhagavā: “Chando nu lokasmiṃ kutonidāno vinicchayā cāpi kuto pahūtā, kodho mosavajjañca kathaṃkathā ca ye cāpi dhammā samaṇena vuttā ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Vậy mong muốn ở thế gian có căn nguyên từ đâu? Và luôn cả các phán đoán được phát khởi từ đâu? Sự giận dữ, lời nói giả dối, và sự nghi ngờ, và luôn cả các pháp nào đã được bậc Sa-môn nói đến?”
11.6
Sātaṃ asātanti yamāhu loke tamūpanissāya pahoti chando, rūpesu disvā vibhavaṃ bhavañca vinicchayaṃ kurute jantu loke.
Khoái lạc, không khoái lạc – là điều con người ở thế gian đã nói; nương tựa vào điều ấy, mong muốn phát khởi. Sau khi nhìn thấy sự hiện hữu và không hiện hữu ở các sắc, con người ở thế gian thực hiện sự phán quyết.
Thế Tôn:
Khả ý, bất khả ý,
Ðược gọi vậy ở đời,
Do y chỉ nơi chúng,
Ước muốn được sanh khởi.
Sau khi thấy trong sắc,
Cả hữu và phi hữu,
Chúng sanh mới làm được,
Những quyết định ở đời.
(Kinh Tập, câu kệ 867)
Sātaṃ asātanti yamāhu loke ’ti – Sātan ’ti sukhā ca vedanā iṭṭhañca vatthu. Asātan ’ti dukkhā ca vedanā aniṭṭhañca vatthu. Yamāhu loke ’ti yaṃ āhaṃsu yaṃ kathenti yaṃ bhaṇanti yaṃ dīpayanti yaṃ voharantī ’ti – sātaṃ asātanti yamāhu loke.
Khoái lạc, không khoái lạc – là điều con người ở thế gian đã nói – Khoái lạc: là cảm thọ lạc và sự việc được ước muốn. Không khoái lạc: là cảm thọ khổ và sự việc không được ước muốn.Là điều con người ở thế gian đã nói: là điều người ta đã nói, điều người ta thuyết, điều người ta phát ngôn, điều người ta diễn giải, điều người ta diễn tả; – ‘khoái lạc, không khoái lạc – là điều con người ở thế gian đã nói’ là như thế.
Tamūpanissāya pahoti chando ’ti – Sātāsātaṃ nissāya, sukhadukkhaṃ nissāya, somanassadomanassaṃ nissāya, iṭṭhāniṭṭhaṃ nissāya, anunayapaṭighaṃ nissāya, chando hoti pahoti pabhavati jāyati sañjāyati nibbattati abhinibbattatī ’ti – tamūpanissāya pahoti chando.
Nương tựa vào điều ấy, mong muốn phát khởi – Nương tựa vào khoái lạc và không khoái lạc, nương tựa vào hạnh phúc và khổ đau, nương tựa vào hỷ tâm và ưu tâm, nương tựa vào vật ước muốn và không ước muốn, nương tựa vào sự say đắm và bất bình, mong muốn hiện diện, phát khởi, phát xuất, sanh ra, sanh khởi, hạ sanh, phát sanh; – ‘nương tựa vào điều ấy, mong muốn phát khởi’ là như thế.
Rūpesu disvā vibhavaṃ bhavañcā ’ti – Rūpesū ’ti cattāro ca mahābhūtā catunnañca mahābhūtānaṃ upādāya rūpaṃ. Katamo rūpānaṃ bhavo? Yo rūpānaṃ bhavo jāti sañjāti nibbatti abhinibbatti pātubhāvo; ayaṃ rūpānaṃ bhavo. Katamo rūpānaṃ vibhavo? Yo rūpānaṃ khayo vayo bhedo paribhedo aniccatā antaradhānaṃ; ayaṃ rūpānaṃ vibhavo. Rūpesu disvā vibhavaṃ bhavañcā ’ti rūpesu bhavañca vibhavañca disvā passitvā tulayitvā tīrayitvā vibhāvayitvā vibhūtaṃ katvā ’ti – rūpesu disvā vibhavaṃ bhavañca.
Sau khi nhìn thấy sự hiện hữu và không hiện hữu ở các sắc – Ở các sắc: là bốn yếu tố chính (đất nước gió lửa) và sắc liên quan đến bốn yếu tố chính. Sự hiện hữu của các sắc là việc nào? Sự hiện hữu của các sắc là sự sanh ra, sự sanh khởi, sự hạ sanh, sự phát sanh, sự xuất hiện của các sắc. Sự không hiện hữu của các sắc là việc nào? Sự không hiện hữu của các sắc là sự tiêu hoại, sự hoại diệt, sự tan rã, sự sụp đổ, sự không tồn tại, sự không hiện hữu của các sắc. Sau khi nhìn thấy sự hiện hữu và không hiện hữu ở các sắc: là sau khi nhìn thấy, sau khi nhìn xem, sau khi cân nhắc, sau khi xác định, sau khi minh định, sau khi làm rõ rệt sự hiện hữu và không hiện hữu ở các sắc; – ‘sau khi nhìn thấy sự hiện hữu và không hiện hữu ở các sắc’ là như thế.
Vinicchayaṃ kurute jantu loke ’ti – Vinicchayā ’ti dve vinicchayā taṇhāvinicchayo ca diṭṭhivinicchayo ca.
Con người ở thế gian thực hiện sự phán quyết – Sự phán quyết: Có hai sự phán quyết: sự phán quyết do tham ái và sự phán quyết do tà kiến.
Kathaṃ taṇhāvinicchayaṃ karoti? Idhekaccassa anuppannā ceva bhogā na uppajjanti, uppannā ca bhogā parikkhayaṃ gacchanti. Tassa evaṃ hoti: ‘Kena nu kho me upāyena anuppannā ceva bhogā na uppajjanti, uppannā ca bhogā parikkhayaṃ gacchantī ’ti? Tassa pana evaṃ hoti: ‘Surāmerayamajjapamādaṭṭhānānuyogaṃ anuyuttassa me anuppannā ceva bhogā na uppajjanti, uppannā ca bhogā parikkhayaṃ gacchanti. Vikālavisikhācariyānuyogaṃ anuyuttassa me anuppannā ceva bhogā na uppajjanti, uppannā ca bhogā parikkhayaṃ gacchanti. Samajjābhicaraṇaṃ anuyuttassa me – Jūtappamādaṭṭhānānuyogaṃ anuyuttassa me – Pāpamittānuyogaṃ anuyuttassa me anuppannā ceva bhogā na uppajjanti, uppannā ca bhogā parikkhayaṃ gacchanti. Ālassānuyogaṃ anuyuttassa me anuppannā ceva bhogā na uppajjanti, uppannā ca bhogā parikkhayaṃ gacchantī ’ti evaṃ ñāṇaṃ katvā cha bhogānaṃ apāyamukhāni na sevati, cha bhogānaṃ āyamukhāni sevati; evampi taṇhāvinicchayaṃ karoti. Athavā kasiyā vā vaṇijjāya vā gorakkhena vā issattena vā rājaporisena vā sippaññatarena vā paṭipajjati; evampi taṇhāvinicchayaṃ karoti.
Thực hiện sự phán quyết do tham ái là thế nào? Ở đây, các của cải của một người nào đó còn chưa được sanh lên thì không sanh lên, và các tài sản đã được sanh lên thì đi đến hoại diệt. Người ấy khởi ý như sau: ‘Bởi lý do gì mà các của cải của ta còn chưa được sanh lên thì không sanh lên, và các tài sản đã được sanh lên thì đi đến hoại diệt?’ Người ấy còn khởi ý như sau: ‘Khi ta gắn bó với việc dễ duôi uống chất say là rượu và chất lên men, các của cải của ta còn chưa được sanh lên thì không sanh lên, và các tài sản đã được sanh lên thì đi đến hoại diệt. Khi ta gắn bó với việc lai vãng ở các đường phố vào ban đêm, các của cải của ta còn chưa được sanh lên thì không sanh lên, và các tài sản đã được sanh lên thì đi đến hoại diệt. Khi ta gắn bó với việc thăm viếng các cuộc hội hè, – Khi ta gắn bó với việc dễ duôi ở các trò cờ bạc, – Khi ta gắn bó với các bạn ác xấu, các của cải của ta còn chưa được sanh lên thì không sanh lên, và các tài sản đã được sanh lên thì đi đến hoại diệt. Khi ta gắn bó với việc lười biếng, các của cải của ta còn chưa được sanh lên thì không sanh lên, và các tài sản đã được sanh lên thì đi đến hoại diệt,’ sau khi lập trí như vậy thì không thân cận với các sáu đường lối làm tiêu tán của cải và thân cận với sáu đường lối đem lại của cải; thực hiện sự phán quyết do tham ái là như vậy. Hoặc là, thực hành nghề nông, hoặc nghề buôn bán, hoặc chăn trâu bò, hoặc nghề bắn cung, hoặc hầu hạ vua chúa, hoặc một nghề nghiệp nào đó; thực hiện sự phán quyết do tham ái còn là như vậy.
Kathaṃ diṭṭhivinicchayaṃ karoti? Cakkhusmiṃ uppanne jānāti: ‘Attā me uppanno ’ti. Cakkhusmiṃ antarahite jānāsi: ‘Attā me antarahito, vigato me attā ’ti; evampi diṭṭhivinicchayaṃ karoti. Sotasmiṃ – ghānasmiṃ – jivhāya – kāyasmiṃ – rūpasmiṃ – saddasmiṃ – gandhasmiṃ – rasasmiṃ – phoṭṭhabbasmiṃ uppanne jānāti: ‘Attā me uppanno ’ti. Phoṭṭhabbasmiṃ antarahite jānāsi: ‘Attā me antarahito, vigato me attā ’ti; evampi diṭṭhivinicchayaṃ karoti janeti sañjaneti nibbatteti abhinibbatteti. Jantū ’ti satto naro māṇavo –pe– manujo. Loke ’ti apāyaloke –pe– āyatanaloke ’ti – vinicchayaṃ kurute jantu loke.
Thực hiện sự phán quyết do tà kiến là thế nào? Khi mắt sanh lên thì biết rằng: ‘Bản ngã của ta sanh lên.’ Khi mắt biến mất thì biết rằng: ‘Bản ngã của ta biến mất, bản ngã của ta đã đi khỏi;’ thực hiện sự phán quyết do tà kiến là như vậy. Khi tai – Khi mũi – Khi lưỡi – Khi thân – Khi sắc – Khi thinh – Khi hương – Khi vị – Khi xúc sanh lên thì biết rằng: ‘Bản ngã của ta sanh lên.’ Khi xúc biến mất thì biết rằng: ‘Bản ngã của ta biến mất, bản ngã của ta đã đi khỏi;’ tiến hành, làm sanh ra, làm sanh khởi, làm hạ sanh, làm phát sanh sự phán quyết do tà kiến còn là như vậy. Con người: là chúng sanh, đàn ông, thanh niên, –nt– nhân loại. Ở thế gian: ở thế gian của khổ cảnh, –nt– ở thế gian của các xứ; – ‘con người ở thế gian thực hiện sự phán quyết’ là như thế.
Tenāha bhagavā: “Sātaṃ asātanti yamāhu loko tamūpanissāya pahoti chando, rūpesu disvā vibhavaṃ bhavañca vinicchayaṃ kurute jantu loke ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Khoái lạc, không khoái lạc – là điều con người ở thế gian đã nói; nương tựa vào điều ấy, mong muốn phát khởi. Sau khi nhìn thấy sự hiện hữu và không hiện hữu ở các sắc, con người ở thế gian thực hiện sự phán quyết.”
11.7
Kodho mosavajjañca kathaṅkathā ca etepi dhammā dvayameva sante, kathaṃkathī ñāṇapathāya sikkhe ñatvā pavuttā samaṇena dhammā.
Sự giận dữ, lời nói giả dối, và sự nghi ngờ, các pháp này (sanh lên) trong khi cặp đôi[1] có mặt. Kẻ có sự nghi ngờ nên học tập theo đường lối của trí. Sau khi đã nhận biết, các pháp đã được bậc Sa-môn nói lên.
[1] Là hai pháp khoái lạc và không khoái lạc (SnA. ii, 552).
Phẫn nộ và vọng ngữ,
Cùng với cả nghi hoặc,
Những pháp này lưu hành,
Khi pháp đôi có mặt,
Kẻ nghi hãy học tập,
Trên con đường chánh trí,
Sau khi biết các pháp,
Do Sa-môn thuyết giảng.
(Kinh Tập, câu kệ 868)
Kodho mosavajjañca kathaṅkathā cā ’ti – Kodho ’ti yo evarūpo cittassa āghāto paṭighāto –pe– Mosavajjaṃ vuccati musāvādo. Kathaṅkathā vuccati vicikicchā. Iṭṭhaṃ vatthuṃ nissāyapi kodho jāyati, aniṭṭhaṃ vatthuṃ nissāyapi kodho jāyati. Iṭṭhaṃ vatthuṃ nissāyapi musāvādo uppajjati, aniṭṭhaṃ vatthuṃ nissāyapi musāvādo uppajjati. Iṭṭhaṃ vatthuṃ nissāyapi kathaṅkathā uppajjati, aniṭṭhaṃ vatthuṃ nissāyapi kathaṅkathā uppajjati.
Kathaṃ aniṭṭhaṃ vatthuṃ nissāya kodho jāyati? Pakatiyā aniṭṭhaṃ vatthuṃ nissāya kodho jāyati: Anatthaṃ me acarī ’ti kodho jāyati. Anatthaṃ me caratī ’ti kodho jāyati. Anatthaṃ me carissatī ’ti kodho jāyati. Piyassa me manāpassa anatthaṃ acari – anatthaṃ carati – anatthaṃ carissatī ’ti kodho jāyati. Appiyassa me amanāpassa atthaṃ acari – atthaṃ carati – atthaṃ carissatī ’ti kodho jāyati; evaṃ aniṭṭhaṃ vatthuṃ nissāya kodho jāyati.
Kathaṃ iṭṭhaṃ vatthuṃ nissāya kodho jāyati? Iṭṭhaṃ vatthuṃ acchedasaṅkinopi kodho jāyati, acchiddantepi kodho jāyati, acchinnepi kodho jāyati. Iṭṭhaṃ vatthuṃ vipariṇāmasaṅkinopi kodho jāyati, vipariṇāmantepi kodho jāyati, vipariṇatepi kodho jāyati; evaṃ iṭṭhaṃ vatthuṃ nissāya kodho jāyati.
Kathaṃ aniṭṭhaṃ vatthuṃ nissāya musāvādo uppajjati? Idhekacco andubandhanena vā baddho tassa bandhanassa mokkhatthāya sampajānamusā bhāsati. Rajjubandhanena vā baddho, saṅkhalikabandhanena vā baddho, vettabandhanena vā baddho, latābandhanena vā baddho, pakkhepabandhanena vā baddho, parikkhepabandhanena vā baddho, gāmanigamanagarajanapadaraṭṭha-bandhanena vā baddho, janapadabandhanena vā baddho, tassa bandhanassa mokkhatthāya sampajānamusā bhāsati; evaṃ aniṭṭhaṃ vatthuṃ nissāya musāvādo uppajjati.
Kathaṃ iṭṭhaṃ vatthuṃ nissāya musāvādo uppajjati? Idhekacco manāpikānaṃ rūpānaṃ hetu sampajānamusā bhāsati, manāpikānaṃ saddānaṃ – gandhānaṃ – rasānaṃ – phoṭṭhabbānaṃ hetu – cīvarahetu – piṇḍapātahetu – senāsanahetu – gilānapaccayabhesajjaparikkhārahetu sampajānamusā bhāsati; evaṃ iṭṭhaṃ vatthuṃ nissāya musāvādo uppajjati.
Kathaṃ aniṭṭhaṃ vatthuṃ nissāya kathaṅkathā uppajjati? ‘Muccissāmi nu kho cakkhurogato, na nu kho muccissāmi cakkhurogato; muccissāmi nu kho sotarogato – ghānarogato – jivhārogato – kāyarogato – sīsarogato – kaṇṇarogato – mukharogato; muccissāmi nu kho dantarogato, na nu kho muccissāmi dantarogato ’ti; evaṃ aniṭṭhaṃ vatthuṃ nissāya kathaṅkathā uppajjati.
Kathaṃ iṭṭhaṃ vatthuṃ nissāya kathaṅkathā uppajjati? ‘Labhissāmi nu kho manāpiye rūpe, na nu kho labhissāmi manāpiye rūpe; labhissāmi nu kho manāpiye9 sadde gandhe rase phoṭṭhabbe kulaṃ gaṇaṃ āvāsaṃ lābhaṃ yasaṃ pasaṃsaṃ sukhaṃ cīvaraṃ piṇḍapātaṃ senāsanaṃ gilānapaccayabhesajjaparikkhāran ’ti; evaṃ iṭṭhaṃ vatthuṃ nissāya kathaṅkathā uppajjatī ’ti – kodho mosavajjañca kathaṅkathā ca.
Etepi dhammā dvayameva sante ’ti – Sātāsāte sante sukhadukkhe sante somanassadomanasse sante iṭṭhāniṭṭhe sante anunayapaṭighe sante saṃvijjamāne atthi upalabbhamāne ’ti – etepi dhammā dvayameva sante.
Kathaṅkathī ñāṇapathāya sikkhe ’ti – Ñāṇampi ñāṇapatho, ñāṇassa ārammaṇampi ñāṇapatho, ñāṇasahabhunopi dhammā ñāṇapatho. Yathā ariyamaggo ariyapatho, devamaggo devapatho, brahmamaggo brahmapatho, evameva ñāṇampi ñāṇapatho, ñāṇassa ārammaṇampi ñāṇapatho, ñāṇasahabhunopi dhammā ñāṇapatho.
Sikkhe ’ti tisso sikkhā: adhisīlasikkhā adhicittasikkhā adhipaññāsikkhā.
Katamā adhisīlasikkhā? Idha bhikkhu sīlavā hoti pātimokkhasaṃvarasaṃvuto viharati, ācāragocarasampanno aṇumattesu vajjesu bhayadassāvī, samādāya sikkhati sikkhāpadesu; khuddako sīlakkhandho mahanto sīlakkhandho sīlaṃ patiṭṭhā ādi caraṇaṃ saṃyamo saṃvaro mukhaṃ pamukhaṃ kusalānaṃ dhammānaṃ samāpattiyā; ayaṃ adhisīlasikkhā.
Katamā adhicittasikkhā? Idha bhikkhu vivicceva kāmehi ―pe― catutthaṃ jhānaṃ upasampajja viharati; ayaṃ adhicittasikkhā.
Katamā adhipaññāsikkhā? Idha bhikkhu paññavā hoti, udayatthagāminiyā paññāya samannāgato ariyāya nibbedhikāya sammādukkhakkhayagāminiyā. So idaṃ dukkhan ’ti yathābhūtaṃ pajānāti ―pe― ayaṃ dukkhanirodhagāminī paṭipadā ’ti yathābhūtaṃ pajānāti; ime āsavā ’ti yathābhūtaṃ pajānāti ―pe― ayaṃ āsavanirodhagāminī paṭipadā ’ti yathābhūtaṃ pajānāti; ayaṃ adhipaññāsikkhā.
Kathaṅkathī ñāṇapathāya sikkhe ’ti – Kathaṅkathī puggalo sakaṅkho savilekho sadveḷhako savicikiccho ñāṇādhigamāya ñāṇaphusanāya ñāṇasacchikiriyāya adhisīlampi sikkheyya, adhicittampi sikkheyya, adhipaññampi sikkheyya; imā tisso sikkhāyo āvajjanto sikkheyya, jānanto sikkheyya, passanto sikkheyya, paccavekkhanto sikkheyya, cittaṃ adhiṭṭhahanto sikkheyya, saddhāya adhimuccanto sikkheyya, viriyaṃ paggaṇhanto sikkheyya, satiṃ upaṭṭhapento sikkheyya, cittaṃ samādahanto sikkheyya, paññāya pajānanto sikkheyya, abhiññeyyaṃ abhijānanto sikkheyya, pariññeyyaṃ parijānanto sikkheyya, pahātabbaṃ pajahanto sikkheyya, bhāvetabbaṃ bhāvento sikkheyya, sacchikātabbaṃ sacchikaronto sikkheyya ācareyya samācareyya samādāya vatteyyā ’ti – kathaṅkathī ñāṇapathāya sikkhe.
Ñatvā pavuttā samaṇena dhammā ’ti – Ñatvā ’ti ñatvā jānitvā tulayitvā tīrayitvā vibhāvayitvā vibhūtaṃ katvā vuttā pavuttā ācikkhitā desitā paññapitā paṭṭhapitā vivaṭā vibhattā uttānīkatā pakāsitā; sabbe saṅkhārā aniccā ’ti ñatvā jānitvā tulayitvā tīrayitvā vibhāvayitvā vibhūtaṃ katvā, vuttā pavuttā ācikkhitā desitā paññapitā paṭṭhapitā vivaṭā vibhattā uttānīkatā pakāsitā; sabbe saṅkhārā dukkhā ’ti ―pe― sabbe dhammā anattā ’ti ―pe― avijjāpaccayā saṅkhārā ’ti ―pe― jātipaccayā jarāmaraṇan ’ti ―pe― avijjānirodhā saṅkhāranirodho ’ti ―pe― jātinirodhā jarāmaraṇanirodho ’ti, idaṃ dukkhan ’ti –pe– ayaṃ dukkhanirodhagāminī paṭipadā ’ti, ime āsavā ’ti –pe– ayaṃ āsavanirodhagāminī paṭipadā ’ti, ime dhammā abhiññeyyā ’ti, ime dhammā pariññeyyā ’ti, ime dhammā pahātabbā ’ti, ime dhammā bhāvetabbā ’ti, ime dhammā sacchikātabbā ’ti, channaṃ phassāyatanānaṃ samudayañca atthaṅgamañca assādañca ādīnavañca nissaraṇañca, pañcannaṃ upādānakkhandhānaṃ, catunnaṃ mahābhūtānaṃ, ‘yaṃ kiñci samudayadhammaṃ sabbaṃ taṃ nirodhadhamman ’ti ñatvā jānitvā tulayitvā tīrayitvā vibhāvayitvā vibhūtaṃ katvā vuttā pavuttā ācikkhitā desitā paññāpitā paṭṭhapitā vivaṭā vibhattā uttānīkatā pakāsitā. Vuttaṃ hetaṃ bhagavatā: “Abhiññāyāhaṃ bhikkhave dhammaṃ desemi, no anabhiññāya. Sanidānāhaṃ bhikkhave dhammaṃ desemi, no anidānaṃ. Sappāṭihāriyāhaṃ bhikkhave dhammaṃ desemi, no appāṭihāriyaṃ. Tassa mayhaṃ bhikkhave abhiññāya dhammaṃ desayato no anabhiññāya, sanidānaṃ dhammaṃ desayato no anidānaṃ, sappāṭihāriyaṃ dhammaṃ no appāṭihāriyaṃ, karaṇīyo ovādo, karaṇīyā anusāsanī. Alañca pana vo bhikkhave tuṭṭhiyā, alaṃ pāmojjāya, alaṃ somanassāya sammāsambuddho bhagavā, svākkhāto dhammo, supaṭipanno saṅgho ’ti. Imasmiñca pana veyyākaraṇasmiṃ bhaññamāne dasasahassī lokadhātu akampitthā ”ti – ñatvā pavuttā samaṇena dhammā.
Tenāha bhagavā: “Kodho mosavajjañca kathaṅkathā ca etepi dhammā dvayameva sante, kathaṃkathī ñāṇapathāya sikkhe ñatvā pavuttā samaṇena dhammā ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Sự giận dữ, lời nói giả dối, và sự nghi ngờ, các pháp này (sanh lên) trong khi cặp đôi có mặt. Kẻ có sự nghi ngờ nên học tập theo đường lối của trí. Sau khi đã nhận biết, các pháp đã được bậc Sa-môn nói lên.”
11.8
Sātaṃ asātañca kutonidānā? kismiṃ asante na bhavanti hete, vibhavaṃ bhavañcāpi yametamatthaṃ etaṃ me pabrūhi yatonidānaṃ?
Khoái lạc và không khoái lạc có căn nguyên từ đâu? Khi cái gì không có mặt thì hai pháp này không có mặt? Về sự hiện hữu và không hiện hữu, điều nào là ý nghĩa? Xin Ngài hãy nói cho tôi điều ấy có căn nguyên từ đâu?
Người hỏi:
Khả ý, bất khả ý,
Là do nhân duyên nào,
Do cái gì không có,
Họ không có hiện hữu.
Còn về ý nghĩa này,
Về phi hữu và hữu,
Hãy nói cho chúng con,
Nguyên nhân gì chúng sanh?
(Kinh Tập, câu kệ 869)
Sātaṃ asātañca kutonidānā ’ti – Sātā asātā kutonidānā, kuto jātā, kuto sañjātā, kuto nibbattā, kuto abhinibbattā, kuto pātubhūtā, kinnidānā, kiṃsamudayā, kiñjātikā kimpabhavā ’ti sātāsātānaṃ mūlaṃ pucchati ―pe― samudayaṃ pucchati papucchati yācati ajjhesati pasādetī ’ti – sātaṃ asātañca kutonidānā.
Kismiṃ asante na bhavanti hete ’ti – Kismiṃ asante asaṃvijjamāne natthi anupalabbhamāne sātā asātā1 na bhavanti, na jāyanti, na sañjāyanti, na nibbattanti, na abhinibbattantī ’ti – kismiṃ asante na bhavanti hete.
Vibhavaṃ bhavañcāpi yametamatthan ’ti – Katamo sātāsātānaṃ bhavo? Yo sātāsātānaṃ bhavo pabhavo jāti sañjāti nibbatti abhinibbatti pātubhāvo, ayaṃ sātāsātānaṃ bhavo. Katamo sātāsātānaṃ vibhavo? Yo sātāsātānaṃ khayo vayo bhedo paribhedo aniccatā antaradhānaṃ; ayaṃ sātāsātānaṃ vibhavo. Yametamatthan ’ti yaṃ paramatthan ’ti – vibhavaṃ bhavañcāpi yametamatthaṃ.
Etaṃ me pabrūhi yatonidānan ’ti – Etan ’ti yaṃ pucchāmi, yaṃ yācāmi, yaṃ ajjhesāmi, yaṃ pasādemi.
Pabrūhī ’ti brūhi vadehi ācikkha desehi paññapehi paṭṭhapehi vivara vibhaja uttānīkarohi pakāsehī ’ti – etaṃ me pabrūhi.
Yatonidānan ’ti yannidānaṃ yaṃsamudayaṃ yañjātikaṃ yampabhavan ’ti – etaṃ me pabrūhi yatonidānaṃ.
Tenāha so nimmito: “Sātaṃ asātañca kutonidānā? kismiṃ asante na bhavanti hete, vibhavaṃ bhavañcāpi yametamatthaṃ etaṃ me pabrūhi yatonidānan ”ti.
Vì thế, vị (Phật) đã được hóa hiện ra đã hỏi rằng: “Khoái lạc và không khoái lạc có căn nguyên từ đâu? Khi cái gì không có mặt thì hai pháp này không có mặt? Về sự hiện hữu và không hiện hữu, điều nào là ý nghĩa? Xin Ngài hãy nói cho tôi điều ấy có căn nguyên từ đâu?”
11.9
Phassanidānaṃ sātaṃ asātaṃ phasse asante na bhavanti hete, vibhavaṃ bhavaṃ cāpi yametamatthaṃ etaṃ te pabrūmi itonidānaṃ.
Khoái lạc và không khoái lạc có xúc là căn nguyên. Khi xúc không có mặt, hai pháp này không có mặt. Về sự hiện hữu và không hiện hữu, điều nào là ý nghĩa, Ta nói cho ngươi điều ấy có căn nguyên từ đây.
Thế Tôn:
Do nhân duyên cảm xúc,
Khả ý, bất khả ý,
Nếu không có cảm xúc,
Họ cũng không hiện hữu,
Còn về ý nghĩa này,
Về phi hữu và hữu,
Ta nói cho Ông rõ,
Nguyên nhân này, chúng sanh.
(Kinh Tập, câu kệ 870)
Phassanidānaṃ sātaṃ asātan ’ti – Sukhavedanīyaṃ phassaṃ paṭicca uppajjati sukhā vedanā. Yā tasseva sukhavedanīyassa phassassa nirodhā yaṃ tajjaṃ vedayitaṃ sukhavedanīyaṃ phassaṃ paṭicca uppannā sukhā vedanā, sā nirujjhati, sā vūpasammati. Dukkhavedanīyaṃ phassaṃ paṭicca uppajjati dukkhā vedanā. Yā tasseva dukkhavedanīyassa phassassa nirodhā yaṃ tajjaṃ vedayitaṃ dukkhavedanīyaṃ phassaṃ paṭicca uppannā dukkhā vedanā, sā nirujjhati, sā vūpasammati. Adukkhamasukhavedanīyaṃ phassaṃ paṭicca uppajjati adukkhamasukhā vedanā. Yā tasseva adukkhamasukhavedanīyassa phassassa nirodhā yaṃ tajjaṃ vedayitaṃ adukkhamasukhavedanīyaṃ phassaṃ paṭicca uppannā adukkhamasukhā vedanā, sā nirujjhati, sā vūpasammati.
Phassanidānaṃ sātaṃ asātan ’ti sātāsātā phassanidānā phassasamudayā phassajātikā phassapabhavā ’ti – phassanidānaṃ sātaṃ asātaṃ.
Phasse asante na bhavanti hete ’ti – Phasse asante asaṃvijjamāne natthi anupalabbhamāne sātā asātā na bhavanti nappabhavanti na jāyanti na sañjāyanti na nibbattanti nābhinibbattanti na pātubhavantī ’ti – phasse asante na bhavanti hete.
Vibhavaṃ bhavañcāpi yametamatthan ’ti – Bhavadiṭṭhipi phassanidānā vibhavadiṭṭhipi phassanidānā.
Yametamatthan ’ti yaṃ paramatthan ’ti – vibhavaṃ bhavañcāpi yametamatthaṃ.
Etaṃ te pabrūmi itonidānan ’ti – Etan ’ti yaṃ pucchasi yaṃ yācasi yaṃ ajjhesasi yaṃ pasādesi. Pabrūmī ’ti brūmi ācikkhāmi desemi paññapemi paṭṭhapemi vivarāmi vibhajāmi uttānīkaromi pakāsemī ’ti – etaṃ te pabrūmi.
Itonidānan ’ti ito phassanidānaṃ phassasamudayaṃ phassajātikaṃ phassapabhavan ’ti – etaṃ te pabrūmi itonidānaṃ.
Tenāha bhagavā:
“Phassanidānaṃ sātaṃ asātaṃ
phasse asante na bhavanti hete,
vibhavaṃ bhavañcāpi yametamatthaṃ
etaṃ te pabrūmi itonidānan ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Khoái lạc và không khoái lạc có xúc là căn nguyên.
Khi xúc không có mặt, hai pháp này không có mặt.
Về sự hiện hữu và không hiện hữu, điều nào là ý nghĩa,
Ta nói cho ngươi điều ấy có căn nguyên từ đây.”
11.10
Phasso nu lokasmiṃ kutonidāno pariggahā cāpi kuto pahūtā, kismiṃ asante na mamattamatthi kismiṃ vibhūte na phusanti phassā.
Vậy xúc ở thế gian có căn nguyên từ đâu?
Và các sự bám giữ được khởi sanh từ đâu?
Khi cái gì không có mặt, thì không có trạng thái chấp là của ta?
Khi cái gì không hiện hữu, thì các xúc không xúc chạm?
Người hỏi:
Còn cảm xúc ở đời,
Do nhân gì sanh khởi,
Hay các loại chấp thủ,
Do từ đâu sanh nhiều,
Do cái gì không có,
Ngã sở hữu không có,
Cái gì không hiện hữu,
Khiến không có cảm xúc?
(Kinh Tập, câu kệ 871)
Phasso nu lokasmiṃ kutonidāno ’ti – Phasso kutonidāno, kuto jāto, kuto sañjāto, kuto nibbatto, kuto abhinibbatto, kuto pātubhūto, kinnidāno, kiṃ samudayo, kiñjātiko, kimpabhavo ’ti phassassa mūlaṃ pucchati, hetuṃ pucchati, –pe– samudayaṃ pucchati papucchati yācati ajjhesati pasādetī ’ti – phasso nu lokasmiṃ kutonidāno.
Pariggahā cāpi kuto pahūtā ’ti pariggahā kuto pahūtā, kuto jātā, kuto sañjātā, kuto nibbattā, kuto abhinibbattā, kuto pātubhūtā, kiṃnidānā, kiṃsamudayā, kiṃjātikā, kiṃpabhavā ’ti pariggahānaṃ mūlaṃ pucchati hetuṃ pucchati, –pe– samudayaṃ pucchati papucchati yācati ajjhesati pasādetī ’ti – pariggahā cāpi1 kuto pahūtā.
Kismiṃ asante na mamattamatthī ’ti – Kismiṃ asante asaṃvijjamāne natthi anupalabbhamāne mamattā natthi na santi na saṃvijjanti nūpalabbhanti pahīnā samucchinnā vūpasantā paṭippassaddhā abhabbuppattikā ñāṇagginā daḍḍhā ’ti – kismiṃ asante na mamattamatthi.
Kismiṃ vibhūte na phusanti phassā ’ti – Kismiṃ vibhūte vibhāvite atikkante samatikkante vītivatte phassā na phusantī ’ti – kismiṃ vibhūte na phusanti phassā.
Tenāha so nimmito: “Phasso nu lokasmiṃ kutonidāno pariggahā cāpi kuto pahūtā, kismiṃ asante na mamattamatthi kismiṃ vibhūte na phusanti phassā “ti.
Vì thế, vị (Phật) đã được hóa hiện ra đã hỏi rằng:
“Vậy xúc ở thế gian có căn nguyên từ đâu?
Và các sự bám giữ được khởi sanh từ đâu?
Khi cái gì không có mặt, thì không có trạng thái chấp là của ta?
Khi cái gì không hiện hữu, thì các xúc không xúc chạm?”
11.11
Nāmañca rūpañca paṭicca phasso icchānidānāni pariggahāni, icchāy’ asantyā na mamattamatthi
rūpe vibhūte na phusanti phassā.
Các xúc tùy thuộc vào danh và sắc.
Và các sự bám giữ có ước muốn là căn nguyên.
Khi ước muốn không có mặt thì không có trạng thái chấp là của ta.
Khi sắc không hiện hữu, thì các xúc không xúc chạm.
Thế Tôn:
Do duyên danh và sắc,
Nên có các cảm xúc,
Do nhân các ước muốn,
Nên có những chấp thủ,
Nếu ước muốn không có,
Ngã sở hữu cũng không,
Do sắc không hiện hữu,
Khiến không có cảm xúc.
(Kinh Tập, câu kệ 872)
Nāmañca rūpañca paṭicca phasso ’ti – Cakkhuṃ ca paṭicca rūpe ca uppajjati cakkhuviññāṇaṃ, tiṇṇaṃ saṅgati phasso; cakkhu ca rūpā ca rūpasmiṃ, cakkhusamphassaṃ ṭhapetvā sampayuttakā dhammā nāmasmiṃ; evampi nāmañca rūpañca paṭicca phasso.
Sotañca paṭicca sadde ca uppajjati sotaviññāṇaṃ, tiṇṇaṃ saṅgati phasso; sotañca saddā ca rūpasmiṃ, sotasamphassaṃ ṭhapetvā sampayuttakā dhammā nāmasmiṃ; evampi nāmañca rūpañca paṭicca phasso. Ghānaṃ ca paṭicca gandhe ca uppajjati ghānaviññāṇaṃ, tiṇṇaṃ saṅgati phasso; ghānañca gandhā ca rūpasmiṃ, ghānasamphassaṃ ṭhapetvā sampayuttakā dhammā nāmasmiṃ; evampi nāmañca rūpañca paṭicca phasso. Jivhañca paṭicca rase ca uppajjati jivhāviññāṇaṃ, tiṇṇaṃ saṅgati phasso; jivhā ca rasā ca rūpasmiṃ, jivhāsamphassaṃ ṭhapetvā sampayuttakā dhammā nāmasmiṃ; evampi nāmañca rūpañca paṭicca phasso. Kāyañca paṭicca phoṭṭhabbe ca uppajjati kāyaviññāṇaṃ, tiṇṇaṃ saṅgati phasso; kāyo ca phoṭṭhabbā ca rūpasmiṃ, kāyasamphassaṃ ṭhapetvā sampayuttakā dhammā nāmasmiṃ; evampi nāmañca rūpañca paṭicca phasso. Manañca paṭicca dhamme ca uppajjati manoviññāṇaṃ, tiṇṇaṃ saṅgati phasso; vatthurūpaṃ rūpasmiṃ, dhammā rūpino rūpasmiṃ, manosamphassaṃ ṭhapetvā sampayuttakā dhammā nāmasmiṃ; evampi nāmañca rūpañca paṭicca phasso.
Icchānidānāni pariggahānī ’ti – Icchā vuccati taṇhā, yo rāgo sārāgo –pe– abhijjhā lobho akusalamūlaṃ.
Pariggahā ’ti dve pariggahā: taṇhāpariggaho ca diṭṭhipariggaho ca –pe– ayaṃ taṇhāpariggaho –pe– ayaṃ diṭṭhipariggaho.
Icchānidānāni pariggahānī ’ti pariggahā icchānidānā icchāhetukā icchāpaccayā icchākāraṇā icchāpabhavā ’ti – icchānidānāni pariggahāni.
Icchāy’ asantyā na mamattamatthī ’ti – Icchā vuccati taṇhā, yo rāgo sārāgo –pe– abhijjhā lobho akusalamūlaṃ.
Mamattā ’ti dve mamattā: taṇhāmamattañca diṭṭhimamattañca –pe– idaṃ taṇhāmamattaṃ –pe– idaṃ diṭṭhimamattaṃ.
Icchāy’ asantyā na mamattamatthī ’ti icchāya asantyā asaṃvijjamānāya natthi anupalabbhamānāya mamattā natthi na santi na saṃvijjanti nūpalabbhanti, pahīnā samucchinnā vūpasantā paṭippassaddhā abhabbuppattikā ñāṇagginā daḍḍhā ’ti – icchāy’ asantyā na mamattamatthi.
Rūpe vibhūte na phusanti phassā ’ti – Rūpe ’ti cattāro ca mahābhūtā catunnañca mahābhūtānaṃ upādāya rūpaṃ. Rūpe vibhūte ’ti catuhākārehi rūpaṃ vibhūtaṃ hoti: ñātavibhūtena tīraṇavibhūtena pahānavibhūtena samatikkamavibhūtena.
Kathaṃ ñātavibhūtena rūpaṃ vibhūtaṃ hoti? Rūpaṃ jānāti yaṃ kiñci rūpaṃ, sabbaṃ rūpaṃ cattāri ca mahābhūtāni catunnañca mahābhūtānaṃ upādāya rūpan ’ti jānāti passati; evaṃ ñātavibhūtena rūpaṃ vibhūtaṃ hoti
Kathaṃ tīraṇavibhūtena rūpaṃ vibhūtaṃ hoti? Evaṃ ñātaṃ katvā rūpaṃ tīreti; aniccato dukkhato rogato gaṇḍato sallato aghato ābādhato parato palokato ītito upaddavato bhayato upassaggato calato pabhaṅgurato addhuvato atāṇato alenato asaraṇato rittato tucchato suññato anattato ādīnavato vipariṇāmadhammato asārakato aghamūlato vadhakato vibhavato sāsavato saṅkhatato mārāmisato jātidhammato jarādhammato byādhidhammato maraṇadhammato sokaparidevadukkhadomanassūpāyāsa-dhammato saṃkilesikadhammato samudayato atthaṅgamato assādato ādīnavato nissaraṇato tīreti; evaṃ tīraṇavibhūtena rūpaṃ vibhūtaṃ hoti.
Kathaṃ pahānavibhūtena rūpaṃ vibhūtaṃ hoti? Evaṃ tīrayitvā rūpe chandarāgaṃ pajahati vinodeti byantīkaroti anabhāvaṃ gameti. Vuttaṃ hetaṃ bhagavatā: “Yo bhikkhave rūpe chandarāgo, taṃ pajahatha; evaṃ taṃ rūpaṃ pahīnaṃ bhavissati ucchinnamūlaṃ tālāvatthukataṃ anabhāvakataṃ āyatiṃ anuppādadhamman ”ti; evaṃ pahānavibhūtena rūpaṃ vibhūtaṃ hoti.
Kathaṃ samatikkamavibhūtena rūpaṃ vibhūtaṃ hoti? Catasso arūpasamāpattiyo paṭiladdhassa rūpā vibhūtā honti vibhāvitā atikkantā samatikkantā vītivattā; evaṃ samatikkamavibhūtena rūpaṃ vibhūtaṃ hoti. Imehi catuhi kāraṇehi rūpaṃ vibhūtaṃ hoti.
Rūpe vibhūte na phusanti phassā ’ti rūpe vibhūte vibhāvite atikkante samatikkante vītivatte pañca phassā na phusanti: cakkhusamphasso sotasamphasso ghānasamphasso jivhāsamphasso kāyasamphasso – rūpe vibhūte na phusanti phassā.
Tenāha bhagavā:
“Nāmañca rūpañca paṭicca phasso
icchānidānāni pariggahāni,
icchāy’ asantyā na mamattamatthi
rūpe vibhūte na phusanti phassā ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Xúc tùy thuộc vào danh và sắc.
Và các sự bám giữ có ước muốn là căn nguyên.
Khi ước muốn không có mặt thì không có trạng thái chấp là của ta.
Khi sắc không hiện hữu, thì các xúc không xúc chạm.”
11.12
Kathaṃ sametassa vibhoti rūpaṃ sukhaṃ dukhaṃ vāpi kathaṃ vibhoti, etaṃ me pabrūhi yathā vibhoti taṃ jānissāma iti me mano ahū.
Đối với vị đã thành đạt thế nào thì sắc không hiện hữu?
Hạnh phúc hoặc luôn cả khổ đau không hiện hữu như thế nào?
Xin ngài hãy nói cho tôi điều ấy không hiện hữu ra sao,
chúng tôi sẽ biết điều ấy – ý nghĩ của tôi đã là thế ấy.
Người hỏi:
Sở hành như thế nào,
Sắc pháp không hiện hữu,
An lạc và khổ đau,
Thế nào không có mặt,
Hãy nói lên cho con,
Không có như thế nào,
Chúng con muốn được biết,
Tâm ý con nói vậy.
(Kinh Tập, câu kệ 873)
Kathaṃ sametassa vibhoti rūpan ’ti – Kathaṃ sametassā ’ti kathaṃ sametassa kathaṃ paṭipannassa kathaṃ irīyantassa kathaṃ vattantassa kathaṃ pālentassa kathaṃ yapentassa kathaṃ yāpentassa rūpaṃ vibhoti, vibhāvīyati atikkamīyati samatikkamīyati, vītivattīyatī ’ti – kathaṃ sametassa vibhoti rūpaṃ.
Sukhaṃ dukhaṃ vāpi kathaṃ vibhotī ’ti – Sukhaṃ ca dukkhaṃ ca kathaṃ vibhoti vibhāvīyati atikkamīyati samatikkamīyati vītivattīyatī ’ti – sukhaṃ dukhaṃ vāpi kathaṃ vibhoti.
Etaṃ me pabrūhi yathā vibhotī ’ti – Etan ’ti yaṃ pucchāmi, yaṃ yācāmi, yaṃ ajjhesāmi yaṃ pasādemī ’ti etaṃ. Me pabrūhī ’ti me pabrūhi ācikkha desehi paññapehi paṭṭhapehi vivara vibhaja uttānīkarohi pakāsehī ’ti etaṃ me pabrūhi. Yathā vibhotī ’ti yathā vibhoti vibhāvīyati atikkamīyati samatikkamīyati vītivattīyatī ’ti – etaṃ me pabrūhi yathā vibhoti.
Taṃ jānissāma iti me mano ahū ’ti – Taṃ jānissāmā ’ti taṃ jāneyyāma ājāneyyāma vijāneyyāma paṭivijāneyyāma paṭivijjheyyāmā ’ti taṃ jānissāma. Iti me mano ahūti – iti me mano ahu, iti me cittaṃ ahu, iti me saṅkappo ahu, iti me viññāṇaṃ ahū ’ti – taṃ jānissāma iti me mano ahu.
Tenāha so nimmito:
“Kathaṃ sametassa vibhoti rūpaṃ
sukhaṃ dukhaṃ vāpi kathaṃ vibhoti,
etaṃ me pabrūhi yathā vibhoti
taṃ jānissāma iti me mano ahū ”ti.
Vì thế, vị (Phật) do thần thông biến hóa ra đã hỏi rằng:
“Đối với vị đã thành đạt thế nào thì sắc không hiện hữu?
Hạnh phúc hoặc luôn cả khổ đau không hiện hữu như thế nào?
Xin ngài hãy nói cho tôi điều ấy không hiện hữu ra sao,
‘chúng tôi sẽ biết điều ấy,’ ý nghĩ của tôi đã là thế ấy.”
11.13
Na saññasaññī na visaññasaññī nopi asaññī na vibhūtasaññī, evaṃ sametassa vibhoti rūpaṃ saññānidānā hi papañcasaṅkhā.
Không phải là có tưởng do tưởng, không phải là có tưởng do tưởng sai lệch, cũng không phải là không có tưởng, không phải là có tưởng không được hiện hữu; đối với vị đã thành đạt như vậy thì sắc không hiện hữu, bởi vì cái gọi là vọng tưởng có tưởng là căn nguyên.
Thế Tôn:
Không có tưởng các tưởng,
Không có tưởng vô tưởng,
Phi tưởng cũng không có,
Vô hữu tưởng cũng không.
Do sở hành như vậy,
Sắc pháp không hiện hữu,
Do nhân duyên các tưởng,
Hý luận được hình thành.
(Kinh Tập, câu kệ 874)
Na saññasaññī na visaññasaññī ’ti – Saññasaññino vuccanti ye pakatisaññāya ṭhitā, napi so pakatisaññāya ṭhito. Visaññāsaññino vuccanti ummattakā ye ca khittacittā, napi so ummattako, nopi khittacitto ’ti – na saññasaññī na visaññasaññī.
Nopi asaññī na vibhūtasaññī ’ti – Asaññino vuccanti nirodhasamāpannā ye ca asaññasattā, napi so nirodhasamāpanno, napi asaññasatto. Vibhūtasaññino vuccanti ye catunnaṃ āruppasamāpattīnaṃ lābhino, napi so catunnaṃ arūpasamāpattīnaṃ lābhī ’ti – nopi asaññī na vibhūtasaññī.
Evaṃ sametassa vibhoti rūpan ’ti – Idha bhikkhu sukhassa ca pahānā –pe– catutthaṃ jhānaṃ upasampajja viharati. So evaṃ samāhite citte parisuddhe pariyodāte anaṅgaṇe vigatūpakkilese mudubhūte kammaniye ṭhite ānejjappatte ākāsānañcāyatanasamāpattipaṭilābhatthāya cittaṃ abhinīharati abhininnāmeti, āruppamagga samaṅgīti. Evaṃ sametassā ’ti evaṃ paṭipannassa evaṃ irīyantassa evaṃ vattantassa evaṃ pālentassa evaṃ yapentassa evaṃ yāpentassa rūpaṃ vibhoti vibhāvīyati atikkamīyati samatikkamīyati vītivattīyatī ’ti – evaṃ sametassa vibhoti rūpaṃ.
Saññānidānā hi papañcasaṅkhā ’ti – Papañcā yeva papañcasaṅkhā; taṇhā papañcasaṅkhā, diṭṭhi papañcasaṅkhā, mānaṃ papañcasaṅkhā, saññānidānā saññāsamudayā saññājātikā saññāpabhavā ’ti – saññānidānā hi papañcasaṅkhā.
Tenāha bhagavā:
“Na saññasaññī na visaññasaññī
nopi asaññī na vibhūtasaññī,
evaṃ sametassa vibhoti rūpaṃ
saññānidānā hi papañcasaṅkhā ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Không phải là có tưởng do tưởng, không phải là có tưởng do tưởng sai lệch, cũng không phải là không có tưởng, không phải là có tưởng không được hiện hữu; đối với vị đã thành đạt như vậy thì sắc không hiện hữu, bởi vì cái gọi là vọng tưởng có tưởng là căn nguyên.”
11.14
Yantaṃ apucchimha akittayī no aññaṃ taṃ pucchāma tadiṅgha brūhi, ettāvataggaṃ nu vadanti heke
yakkhassa suddhiṃ idha paṇḍitā se udāhu aññampi vadanti etto.
Điều mà chúng tôi đã hỏi Ngài, Ngài đã trả lời chúng tôi. Chúng tôi hỏi Ngài điều khác. Nào, xin Ngài hãy nói về điều ấy. Có phải một số bậc sáng suốt ở nơi đây nói rằng sự trong sạch của chúng sanh đến chừng này là cao nhất,[1] hay là họ còn nói về điều khác so với điều này?
[1] Nói về sự chứng đạt các tầng thiền vô sắc (Sđd.).
Người hỏi:
Ngài đã nói chúng con,
Những điều chúng con hỏi,
Có điều nữa hỏi Ngài,
Mong Ngài trả lời cho,
Bậc Hiền trí nói rằng,
Như thế này tối thượng,
Nghĩa là ở đời này,
Sự thanh tịnh Dạ-xoa
Hay là chúng muốn nói,
Có điều gì khác nữa?
(Kinh Tập, câu kệ 875)
Yantaṃ apucchimha akittayī no ’ti – Yantaṃ apucchimha ayācimha ajjhesimha pasādayimha. Akittayī no ’ti kittitaṃ ācikkhitaṃ desitaṃ paññapitaṃ paṭṭhapitaṃ vivaṭaṃ vibhattaṃ uttānīkataṃ pakāsitan ’ti – yantaṃ apucchimha akittayī no.
Aññaṃ taṃ pucchāma tadiṅgha brūhī ’ti – Aññaṃ taṃ pucchāma, aññaṃ taṃ papucchāma, aññaṃ taṃ ajjhesāma, aññaṃ taṃ pasādema, uttariṃ taṃ pucchāma. Tadiṅgha brūhī ’ti iṅgha brūhi ācikkha desehi paññapehi paṭṭhapehi vivara vibhaja uttānīkarohi pakāsehī ’ti – aññaṃ taṃ pucchāma tadiṅgha brūhi.
Ettāvataggaṃ nu vadanti heke yakkhassa suddhiṃ idha paṇḍitā se ’ti – Eke samaṇabrāhmaṇā etā arūpasamāpattiyo aggaṃ seṭṭhaṃ visiṭṭhaṃ pāmokkhaṃ uttamaṃ pavaraṃ vadanti kathenti bhaṇanti dīpayanti voharanti. Yakkhassā ’ti sattassa narassa māṇavassa posassa puggalassa jīvassa jāgussa jantussa indagussa manujassa. Suddhin ’ti suddhiṃ visuddhiṃ parisuddhiṃ muttiṃ vimuttiṃ parimuttiṃ. Idha paṇḍitā se ’ti idha paṇḍitavādā thiravādā ñāyavādā hetuvādā lakkhaṇavādā kāraṇavādā ṭhānavādā sakāya laddhiyā ’ti – ettāvataggaṃ nu vadanti heke yakkhassa suddhiṃ idha paṇḍitā se.
Udāhu aññampi vadanti etto ’ti – Udāhu eke samaṇabrāhmaṇā etā arūpasamāpattiyo atikkamitvā samatikkamitvā vītivattetvā, etto arūpasamāpattito aññaṃ uttariṃ yakkhassa suddhiṃ visuddhiṃ parisuddhiṃ muttiṃ vimuttiṃ parimuttiṃ vadanti kathenti bhaṇanti dīpayanti voharantī ’ti – udāhu aññampi vadanti etto.
Tenāha so nimmito:
“Yantaṃ apucchimha akittayī no
aññaṃ taṃ pucchāma tadiṅgha brūhi,
ettāvataggaṃ nu vadanti h ’eke
yakkhassa suddhiṃ idha paṇḍitā se
udāhu aññampi vadanti etto ”ti.
Vì thế, vị (Phật) do thần thông biến hóa ra đã hỏi rằng:
“Điều mà chúng tôi đã hỏi Ngài, Ngài đã trả lời chúng tôi. Chúng tôi hỏi Ngài điều khác. Nào, xin Ngài hãy nói về điều ấy. Có phải một số bậc sáng suốt ở nơi đây nói rằng sự trong sạch của chúng sanh đến chừng này là cao nhất, hay là họ còn nói về điều khác so với điều này?”
11.15
Ettāvataggampi vadanti h’ eke yakkhassa suddhiṃ idha paṇḍitā se, tesaṃ paneke samayaṃ vadanti
anupādisese kusalāvadānā.
Một số bậc sáng suốt ở nơi đây nói rằng sự trong sạch của chúng sanh chỉ đến chừng này là cao nhất. Trái lại, một số trong số đó nói về sự tịch diệt (đoạn kiến), trong khi tuyên bố là thiện xảo về trạng thái không còn dư sót.
Thế Tôn:
Bậc Hiền trí nói rằng,
Như thế là tối thượng,
Nghĩa là ở đời này,
Sự thanh tịnh Dạ-xoa,
Như có người nói rằng,
Chính là sự hoại diệt,
Lại một số thiện nhân,
Nói rằng: “Không dư y”.
(Kinh Tập, câu kệ 876)
Ettāvataggampi vadanti heke yakkhassa suddhiṃ idha paṇḍitā se ’ti – Santeke samaṇabrāhmaṇā sassatavādā etā arūpasamāpattiyo aggaṃ seṭṭhaṃ visiṭṭhaṃ pāmokkhaṃ uttamaṃ pavaraṃ vadanti kathenti bhaṇanti dīpayanti voharanti. Yakkhassā ’ti sattassa narassa māṇavassa posassa puggalassa jīvassa jāgussa jantussa indagussa manujassa. Suddhin ’ti suddhiṃ visuddhiṃ parisuddhiṃ muttiṃ vimuttiṃ parimuttiṃ. Idha paṇḍitā se ’ti idha paṇḍitavādā thiravādā ñāyavādā6 hetuvādā lakkhaṇavādā kāraṇavādā ṭhānavādā sakāya laddhiyā ’ti – ettāvataggampi vadanti heke yakkhassa suddhiṃ idha paṇḍitā se
Tesaṃ paneke samayaṃ vadanti anupādisese kusalāvadānā ’ti –Tesaṃ yeva samaṇabrāhmaṇānaṃ eke samaṇabrāhmaṇā ucchedavādā bhavatajjitā vibhavaṃ abhinandanti. Te sattassa samaṃ upasamaṃ vūpasamaṃ nirodhaṃ paṭippassaddhinti vadanti. Yato kiṃ bho ayaṃ attā kāyassa bhedā ucchijjati vinassati na hoti parammaraṇā, ettāvatā anupādiseso hoti. Kusalāvadānā ’ti kusalavādā paṇḍitavādā thiravādā ñāyavādā hetuvādā lakkhaṇavādā kāraṇavādā ṭhānavādā sakāya laddhiyā ’ti – tesaṃ paneke samayaṃ vadanti anupādisese kusalāvadānā.
Tenāha bhagavā:
“Ettāvataggampi vadanti h’ eke
yakkhassa suddhiṃ idha paṇḍitā se,
tesaṃ paneke samayaṃ vadanti
anupādisese kusalāvadānā ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Một số bậc sáng suốt ở nơi đây nói rằng sự trong sạch của chúng sanh chỉ đến chừng này là cao nhất.
Trái lại, một số trong số đó nói về sự tịch diệt (đoạn kiến), trong khi tuyên bố là thiện xảo về trạng thái không còn dư sót.”
11.6
Ete ca ñatvā upanissitāti ñatvā munī nissaye so vimaṃsī, ñatvā vimutto na vivādameti bhavābhavāya na sameti dhīro.
Và sau khi nhận biết những người này là những kẻ nương tựa,[1]
sau khi nhận biết, bậc hiền trí ấy có sự cân nhắc về các sự nương tựa,
sau khi nhận biết, bậc đã được giải thoát không đi đến tranh cãi,
bậc sáng trí không đi đến tái sanh ở hữu và phi hữu.
[1] Những người này nương tựa vào thường kiến hoặc đoạn kiến (NiddA. ii, 359).
Biết được những pháp ấy,
Ðều nương tựa y chỉ,
Biết vậy bậc ẩn sĩ,
Suy tư trên y chỉ,
Biết được, nên giải thoát,
Không đi đến tranh luận,
Bậc Hiền không tìm đến,
Cả hữu và phi hữu.
(Kinh Tập, câu kệ 877)
Ete ca ñatvā upanissitā ’ti – Ete ’ti diṭṭhigatike. Upanissitā ’ti sassatadiṭṭhinissitā ’ti ñatvā, ucchedadiṭṭhinissitā ’ti ñatvā, sassatucchedadiṭṭhinissitā ’ti ñatvā jānitvā tulayitvā tīrayitvā vibhāvayitvā vibhūtaṃ katvā ’ti – ete ca ñatvā upanissitāti.
Và sau khi nhận biết những người này là những kẻ nương tựa – Những người này: Những người theo tà kiến. Những kẻ nương tựa: sau khi nhận biết là ‘những người nương theo thường kiến,’ sau khi nhận biết là ‘những người nương theo đoạn kiến,’ sau khi nhận biết là ‘những người nương theo thường và đoạn kiến,’ sau khi biết được, sau khi cân nhắc, sau khi xác định, sau khi minh định, sau khi làm rõ rệt; – ‘và sau khi nhận biết những người này là những kẻ nương tựa’ là như thế.
Ñatvā muni nissaye so vimaṃsī ’ti – Munī ’ti monaṃ vuccati ñāṇaṃ –pe– saṅgajālamaticca so muni. Muni sassatadiṭṭhinissitāti ñatvā, ucchedadiṭṭhinissitāti ñatvā, sassatucchedadiṭṭhinissitāti ñatvā jānitvā tulayitvā tīrayitvā vibhāvayitvā vibhūtaṃ katvā. So vimaṃsī ’ti paṇḍito paññavā buddhimā ñāṇī vibhāvī medhāvī ’ti – ñatvā munī nissaye so vimaṃsī.
Sau khi nhận biết, bậc hiền trí ấy có sự cân nhắc về các sự nương tựa – Bậc hiền trí: Bản thể hiền trí nói đến trí, –nt– đã vượt qua sự quyến luyến và mạng lưới (tham ái và tà kiến), vị ấy là hiền trí. Bậc hiền trí sau khi nhận biết là ‘những người nương theo thường kiến,’ sau khi nhận biết là ‘những người nương theo đoạn kiến,’ sau khi nhận biết là ‘những người nương theo thường và đoạn kiến,’ sau khi biết được, sau khi cân nhắc, sau khi xác định, sau khi minh định, sau khi làm rõ rệt. Vị ấy có sự cân nhắc: là vị sáng suốt, có tuệ, có sự giác ngộ, có trí, có sự rành mạch, có sự thông minh; – ‘sau khi nhận biết, bậc hiền trí ấy có sự cân nhắc về các sự nương tựa’ là như thế.
Ñatvā vimutto na vivādametī ’ti – Ñatvā jānitvā tulayitvā tīrayitvā vibhāvayitvā vibhūtaṃ katvā. Vimutto ’ti mutto vimutto suvimutto parimutto accanta-anupādāvimokkhena, ‘sabbe saṅkhārā aniccā ’ti ñatvā jānitvā tulayitvā tīrayitvā vibhāvayitvā vibhūtaṃ katvā, mutto vimutto suvimutto parimutto accanta-anupādāvimokkhena, ‘sabbe saṅkhārā dukkhā ’ti ―pe― ‘sabbe dhammā anattā ’ti –pe– ‘yaṃ kiñci samudayadhammaṃ sabbantaṃ nirodhadhamman ’ti ñatvā jānitvā tulayitvā tīrayitvā vibhāvayitvā vibhūtaṃ katvā, mutto vimutto suvimutto parimutto accanta-anupādāvimokkhenā ’ti – ñatvā vimutto. Na vivādametī ’ti – na kalahaṃ karoti, na bhaṇḍanaṃ karoti, na viggahaṃ karoti, na vivādaṃ karoti, na medhagaṃ karoti. Vuttaṃ hetaṃ bhagavatā: ‘Evaṃ vimuttacitto kho aggivessana, bhikkhu na kenaci saṃvadati, na kenaci vivadati, yañca loke vuttaṃ. Tena ca voharati aparāmasan ’ti – ñatvā vimutto na vivādameti.
Sau khi nhận biết, bậc đã được giải thoát không đi đến tranh cãi – Sau khi nhận biết là sau khi biết được, sau khi cân nhắc, sau khi xác định, sau khi minh định, sau khi làm rõ rệt. Đã được giải thoát: là đã được thoát khỏi, đã được giải thoát, đã khéo được giải thoát, đã được giải thoát hoàn toàn với sự giải thoát tuyệt đối không còn chấp thủ. Sau khi nhận biết, sau khi biết được, sau khi cân nhắc, sau khi xác định, sau khi minh định, sau khi làm rõ rệt rằng: ‘Tất cả các hành là vô thường,’ thì đã được thoát khỏi, đã được giải thoát, đã khéo được giải thoát, đã được giải thoát hoàn toàn với sự giải thoát tuyệt đối không còn chấp thủ. Sau khi nhận biết, sau khi biết được, sau khi cân nhắc, sau khi xác định, sau khi minh định, sau khi làm rõ rệt rằng: ‘Tất cả các hành là khổ,’ –nt– ‘Tất cả các pháp là vô ngã,’ –nt– ‘Điều gì có bản tánh được sanh lên, toàn bộ điều ấy đều có bản tánh hoại diệt,’ thì đã được thoát khỏi, đã được giải thoát, đã khéo được giải thoát, đã được giải thoát hoàn toàn với sự giải thoát tuyệt đối không còn chấp thủ; – ‘sau khi nhận biết, bậc đã được giải thoát’ là như thế. Không đi đến tranh cãi: không gây ra sự cãi cọ, không gây ra sự cãi lộn, không gây ra sự cãi vã, không gây ra sự tranh cãi, không gây ra sự gây gỗ. Bởi vì, điều này đã được đức Thế Tôn nói đến: ‘Này Aggivessana, với tâm đã được giải thoát như vậy, vị tỳ khưu không nói hùa theo bất cứ ai, không tranh cãi với bất cứ ai, sử dụng ngôn từ được thông dụng ở thế gian, và không bám víu (vào ngôn từ ấy);’ – ‘sau khi nhận biết, bậc đã được giải thoát không đi đến tranh cãi’ là như thế.
Bhavābhavāya na sameti dhīro ’ti – Bhavābhavāyā ’ti bhavābhavāya kammabhavāya punabbhavāya kāmabhavāya, kammabhavāya kāmabhavāya punabbhavāya, rūpabhavāya kammabhavāya rūpabhavāya punabbhavāya, arūpabhavāya kammabhavāya arūpabhavāya punabbhavāya, punappuna bhavāya, punappuna gatiyā punappuna uppattiyā punappuna paṭisandhiyā punappuna attabhāvābhinippattiyā na sameti na samāgacchati na gaṇhāti na parāmasati nābhinivisati. Dhīro ’ti dhīro paṇḍito paññavā buddhimā ñāṇī vibhāvī medhāvī ’ti – bhavābhavāya na sameti dhīro.
Bậc sáng trí không đi đến tái sanh ở hữu và phi hữu – Ở hữu và phi hữu: ở hữu và phi hữu, ở sự hiện hữu của nghiệp, ở sự tái sanh, ở sự hiện hữu của nghiệp ở dục giới, ở sự tái sanh ở dục giới, ở sự hiện hữu của nghiệp ở sắc giới, ở sự tái sanh ở sắc giới, ở sự hiện hữu của nghiệp ở vô sắc giới, ở sự tái sanh ở vô sắc giới, ở sự hiện hữu liên tục, ở cảnh giới tái sanh liên tục, ở sự tái sanh liên tục, ở sự nối liền tái sanh liên tục, ở sự phát sanh bản ngã liên tục; không đi đến tái sanh, không đi đến gặp gỡ, không nắm lấy, không bám víu, không cố chấp. Bậc sáng trí: bậc sáng trí là vị sáng suốt, có tuệ, có sự giác ngộ, có trí, có sự rành mạch, có sự thông minh; – ‘bậc sáng trí không đi đến tái sanh ở hữu và phi hữu’ là như thế.
Tenāha bhagavā:
“Ete ca ñatvā upanissitāti
ñatvā munī nissaye so vimaṃsī,
ñatvā vimutto na vivādameti
bhavābhavāya na sameti dhīro ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Và sau khi nhận biết những người này là ‘những kẻ nương tựa,’
sau khi nhận biết, bậc hiền trí ấy có sự cân nhắc về các sự nương tựa,
sau khi nhận biết, bậc đã được giải thoát không đi đến tranh cãi,
bậc sáng trí không đi đến tái sanh ở hữu và phi hữu.”
Kalahavivādasuttaniddeso samatto ekādasamo.
Diễn Giải Kinh ‘Cãi Cọ và Tranh Cãi’ – Phần thứ mười một được đầy đủ.