Kinh Đại Diễn Giải đọc online – Phần III
Thuộc Kinh Tiểu Bộ (Khuddaka Nikàya) | Tạng Kinh (SUTTANTAPITAKA)
Dịch Việt: Tỳ khưu Indacanda và các cộng sự
Nguồn: https://www.tamtangpaliviet.net/ & https://theravada.vn/
Nội dung Kinh Đại Diễn Giải được chia thành 3 phần:
12. CŪLAVIYŪHASUTTANIDDESO – DIỄN GIẢI KINH SỰ DÀN TRẬN NHỎ
12.1
Atha cūḷaviyūhasuttaniddeso vuccate:
Giờ phần Diễn Giải Kinh ‘Sự Dàn Trận Nhỏ’ được nói đến:
Sakaṃ sakaṃ diṭṭhiparibbasānā viggayha nānā kusalā vadanti, evaṃ pajānāti sa vedi dhammaṃ idaṃ paṭikkosamakevalī so.
Trong khi sống theo quan điểm riêng của từng cá nhân, nhiều vị (tự xưng là) thiện xảo, giữ khư khư (quan điểm của mình), nói khác nhau rằng: Người nào nhận biết như vầy, người ấy đã hiểu biết pháp. Kẻ khinh miệt điều này, kẻ ấy là không toàn hảo.
(XII) Những vấn đề nhỏ bé (Sn 171)
Người hỏi:
Mỗi người tự thiên chấp,
Về tri kiến của mình,
Do chấp thủ sai biệt,
Bậc thiện xảo nói lên,
Ai biết như thế này,
Vị ấy biết được pháp,
Ai chỉ trích điểm này,
Vị ấy không hoàn toàn.
(Kinh Tập, câu kệ 878)
Sakaṃ sakaṃ diṭṭhiparibbasānā ’ti – Santeke samaṇabrāhmaṇā diṭṭhigatikā; te dvāsaṭṭhiyā diṭṭhigatānaṃ aññataraññataraṃ diṭṭhigataṃ gahetvā uggahetvā gaṇhitvā parāmasitvā abhinivisitvā sakāya sakāya diṭṭhiyā vasanti saṃvasanti āvasanti parivasanti. Yathā agārikā vā gharesu vasanti, sāpattikā vā āpattīsu vasanti, sakilesā vā kilesesu vasanti; evamevaṃ santeke samaṇabrāhmaṇā diṭṭhigatikā, te dvāsaṭṭhiyā diṭṭhigatānaṃ aññataraññataraṃ diṭṭhigataṃ gahetvā uggahetvā gaṇhitvā parāmasitvā abhinivisitvā sakāya sakāya diṭṭhiyā vasanti saṃvasanti āvasanti parivasantī ’ti – sakaṃ sakaṃ diṭṭhiparibbasānā.
Trong khi sống theo quan điểm riêng của từng cá nhân – Có một số Sa-môn và Bà-la-môn là những người theo tà kiến. Các vị ấy chấp nhận, tiếp thu, nắm lấy, bám víu, cố chấp một tà kiến nào đó trong số 62 tà kiến, rồi sống, cộng trú, thường trú, cư trú theo tà kiến của riêng mình. Giống như những người tại gia sống trong các ngôi nhà, những người có tội lỗi sống trong các tội lỗi, những người có ô nhiễm sống trong các ô nhiễm, tương tợ y như thế, có một số Sa-môn và Bà-la-môn là những người theo tà kiến. Các vị ấy chấp nhận, tiếp thu, nắm lấy, bám víu, cố chấp một tà kiến nào đó trong số 62 tà kiến, rồi sống, cộng trú, thường trú, cư trú theo tà kiến của riêng mình; – ‘trong khi sống theo quan điểm riêng của từng cá nhân’ là như thế.
Viggayha nānā kusalā vadantī ’ti – Viggayhā ’ti gahetvā uggahetvā gaṇhitvā parāmasitvā abhinivisitvā nānā vadanti vividhaṃ vadanti aññamaññaṃ vadanti puthu vadanti na ekaṃ vadanti kathenti bhaṇanti dīpayanti voharanti. Kusalā ’ti kusalavādā paṇḍitavādā thiravādā ñāyavādā hetuvādā lakkhaṇavādā kāraṇavādā ṭhānavādā sakāya laddhiyāti – viggayha nānā kusalā vadanti.
Nhiều vị (tự xưng là) thiện xảo, giữ khư khư (quan điểm của mình), nói khác nhau rằng – Giữ khư khư (quan điểm của mình): sau khi chấp nhận, sau khi tiếp thu, sau khi nắm lấy, sau khi bám víu, sau khi cố chấp (quan điểm của mình), rồi nói khác nhau, nói khác biệt, nói cách này cách khác, nói một cách riêng biệt, nói, thuyết giảng, phát ngôn, diễn giải, diễn tả không đồng nhất. Thiện xảo: là có học thuyết thiện xảo, có học thuyết sáng suốt, có học thuyết vững chắc, có học thuyết đúng đắn, có học thuyết nhân (quả), có học thuyết rõ rệt, có học thuyết gương mẫu, có học thuyết nền tảng theo quan niệm của mình; – ‘nhiều vị (tự xưng là) thiện xảo, giữ khư khư (quan điểm của mình), nói khác nhau rằng’ là như thế.
Evaṃ pajānāti sa vedi dhamman ’ti – Yo idaṃ dhammaṃ diṭṭhiṃ paṭipadaṃ maggaṃ jānāti, so dhammaṃ vedi aññāsi apassi paṭivijjhī ’ti4 – evaṃ pajānāti7 sa vedi dhammaṃ.
Người nào nhận biết như vầy, người ấy đã hiểu biết pháp: Người nào nhận biết pháp, quan điểm, cách thực hành, đạo lộ này, người ấy đã hiểu biết, đã biết được, đã nhìn thấy, đã thấu triệt pháp; – ‘người nào nhận biết như vầy, người ấy đã hiểu biết pháp’ là như thế.
Idaṃ paṭikkosamakevalī so ’ti – Yo imaṃ dhammaṃ diṭṭhiṃ paṭipadaṃ maggaṃ paṭikkosati, akevalī so asamatto so aparipuṇṇo so, hīno nihīno omako lāmako chattako paritto ’ti – idaṃ paṭikkosamakevalī so.
Kẻ khinh miệt điều này, kẻ ấy là không toàn hảo – Kẻ nào khinh miệt pháp, quan điểm, cách thực hành, đạo lộ này, kẻ ấy là không toàn hảo, không đầy đủ, không tròn đủ, là thấp hèn, hèn kém, thấp kém, thấp thỏi, tồi tệ, nhỏ nhoi; – ‘kẻ khinh miệt điều này, kẻ ấy là không toàn hảo’ là như thế.
Tenāha so nimmito: “Sakaṃ sakaṃ diṭṭhiparibbasānā viggayha nānā kusalā vadanti, evaṃ pajānāti sa vedi dhammaṃ idaṃ paṭikkosamakevalī so ” ti.
Vì thế, vị (Phật) do thần thông biến hóa ra đã hỏi rằng:
“Trong khi sống theo quan điểm riêng của từng cá nhân, nhiều vị (tự xưng là) thiện xảo, giữ khư khư (quan điểm của mình), nói khác nhau rằng: -Người nào nhận biết như vầy, người ấy đã hiểu biết pháp. Kẻ khinh miệt điều này, kẻ ấy là không toàn hảo.”
12.2
Evampi viggayha vivādayanti bālo paro akkusaloti cāhu, sacco nu vādo katamo imesaṃ sabbeva h ’ime kusalāvadānā.
Sau khi giữ khư khư (quan điểm của mình) như vậy, chúng tranh cãi, và đã nói rằng: ‘Người khác là ngu si, không thiện xảo.’ Vậy thì lời nói nào trong số này là sự thật, bởi vì tất cả những người này đều tuyên bố (họ) là thiện xảo?
Do chấp thủ như vậy,
Họ tranh luận với nhau,
Họ nói kẻ khác ngu.
Không có khéo thiện xảo.
Trong những lời nói này,
Lời nói ai chân thật,
Hay tất cả vị này,
Là những bậc khéo nói?
(Kinh Tập, câu kệ 879)
Evampi viggayha vivādayantī ’ti – Evaṃ gahetvā uggahetvā gaṇhitvā parāmasitvā abhinivisitvā vivādayanti, kalahaṃ karonti, bhaṇḍanaṃ karonti, viggahaṃ karonti, vivādaṃ karonti, medhagaṃ karonti: ‘Na tvaṃ imaṃ dhammavinayaṃ ājānāsi ―pe― Nibbeṭhehi vā sace pahosī ’ti – evampi viggayha vivādayanti.
Bālo paro akkusaloti cāhū ’ti – Paro bālo hīno nihīno omako lāmako chattako paritto akusalo avidvā avijjāgato aññāṇī avibhāvī duppaññoti evamāhaṃsu, evaṃ kathenti, evaṃ bhaṇanti, evaṃ dīpayanti, evaṃ voharantī ’ti – bālo paro akkusaloti cāhu.
Sacco nu vādo katamo imesan ’ti – Imesaṃ samaṇabrāhmaṇānaṃ katamo sacco taccho tatho bhūto yāthāvo aviparīto ’ti – sacco nu vādo katamo imesaṃ.
Sabbeva h’ ime kusalāvadānā ’ti – Sabbepi ime samaṇabrāhmaṇā kusalavādā paṇḍitavādā thiravādā ñāyavādā hetuvādā lakkhaṇavādā kāraṇavādā ṭhānavādā sakāya laddhiyā ’ti – sabbeva h’ ime kusalāvadānā.
Tenāha bhagavā: “Evampi viggayha vivādayanti bālo paro akkusalo’ti1 cāhu, sacco nu vādo katamo imesaṃ sabbeva h ’ime kusalāvadānā ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Sau khi giữ khư khư (quan điểm của mình) như vậy, chúng tranh cãi, và đã nói rằng: ‘Người khác là ngu si, không thiện xảo.’ Vậy thì lời nói nào trong số này là sự thật, bởi vì tất cả những người này đều tuyên bố (họ) là thiện xảo?”
12.3
Parassa ce dhammamanānujānaṃ bālo mago hoti nihīnapañño, sabbeva bālā sunihīnapaññā sabbevime diṭṭhiparibbasānā.
Nếu kẻ không thừa nhận pháp của người khác là ngu si, là loài thú, là có tuệ thấp kém, thì tất cả quả là những kẻ ngu si, có tuệ vô cùng thấp kém, tất cả những người này quả đang sống theo quan điểm (của mình).
Thế Tôn:
Nếu không có chấp thuận,
Pháp của các người khác,
Nói kẻ khác là ngu,
Tuệ như vậy thấp kém.
Tất cả là ngu si,
Có tuệ thật thấp kém.
Tất cả tri kiến này.
Ðều chỉ là thiên chấp.
(Kinh Tập, câu kệ 880)
Parassa ce dhammamanānujānan ’ti – Parassa dhammaṃ paṭipadaṃ maggaṃ ananujānanto ananupassanto ananumananto ananumaññanto ananumodanto ’ti – parassa ce dhammamanānujānaṃ.
Bālo mago hoti nihīnapañño ’ti – Paro bālo hoti, hīno nihīno omako lāmako chattako paritto hīnapañño nihīnapañño omakapañño lāmakapañño chattakapañño parittapañño ’ti – bālo mago hoti nihīnapañño.
Sabbeva bālā sunihīnapaññā ’ti – Sabbavime samaṇabrāhmaṇā bālā hīnā nihīnā omakā lāmakā chattakā parittā, sabbeva hīnapaññā nihīnapaññā omakapaññā lāmakapaññā chattakapaññā parittapaññā ’ti – sabbeva bālā sunihīnapaññā
Sabbevime diṭṭhiparibbasānā ’ti – Sabbevime samaṇabrāhmaṇā diṭṭhigatikā. Te dvāsaṭṭhiyā diṭṭhigatānaṃ aññataraññataraṃ diṭṭhigataṃ gahetvā uggahetvā gaṇhitvā parāmasitvā abhinivisitvā, sakāya sakāya diṭṭhiyā vasanti saṃvasanti āvasanti parivasanti. Yathā agārikā vā gharesu vasanti, sāpattikā vā āpattīsu vasanti, sakilesā vā kilesesu vasanti, evamevaṃ sabbevime samaṇabrāhmaṇā diṭṭhigatikā –pe– parivasantī ’ti – sabbevime diṭṭhiparibbasānā.
Tenāha bhagavā: “Parassa ce dhammamanānujānaṃ bālo mago hoti nihīnapañño, sabbeva bālā sunihīnapaññā sabbevime diṭṭhiparibbasānā ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Nếu kẻ không thừa nhận pháp của người khác là ngu si, là loài thú, là có tuệ thấp kém, thì tất cả quả là những kẻ ngu si, có tuệ vô cùng thấp kém, tất cả những người này quả đang sống theo quan điểm (của mình).”
12.4
Sandiṭṭhiyā ceva na vevadātā saṃsuddhapaññā kusalā mutīmā, tesaṃ na koci parihīnapañño diṭṭhī hi tesampi tathā samattā.
Và nếu do quan điểm của mình, những kẻ không trong sạch trở nên có tuệ thanh tịnh, thiện xảo, có sự nhận thức, thì không ai trong số họ là có tuệ hoàn toàn thấp kém, bởi vì quan điểm của họ đã được thâu nhận cũng là như thế ấy.
Nếu các cuộc tranh luận,
Ðược tri kiến gạn lọc,
Trí tuệ được thanh tịnh,
Thiện xảo trí sáng suốt,
Họ không có một ai,
Là trí tuệ hạ liệt,
Và tri kiến của họ,
Ðược hoàn toàn viên mãn.
(Kinh Tập, câu kệ 881)
Sandiṭṭhiyā ceva na vevadātā ’ti – Sakāya diṭṭhiyā sakāya khantiyā sakāya ruciyā sakāya laddhiyā, na vevadātā avodātā apariyodātā saṃkilesikā ’ti – sandiṭṭhiyā ceva na vevadātā.
Saṃsuddhapaññā kusalā mutīmā ’ti – Saṃsuddhapaññā ti suddhapaññā parisuddhapaññā odātapaññā pariyodātapaññā. Athavā, suddhadassanā visuddhadassanā parisuddhadassanā vodātadassanā pariyodātadassanā ’ti ¬- saṃsuddhapaññā. Kusalā ’ti kusalā paṇḍitā paññavanto buddhimanto ñāṇino vibhāvino medhāvino ’ti – saṃsuddhapaññā kusalā. Mutimā ’ti mutimā paṇḍitā paññavanto buddhimanto ñāṇino vibhāvino medhāvino ’ti – saṃsuddhapaññā kusalā mutīmā.
Tesaṃ na koci parihīnapañño ’ti – Tesaṃ samaṇabrāhmaṇānaṃ na koci hīnapañño nihīnapañño omakapañño lāmakapañño chattakapañño parittapañño atthi, sabbeva seṭṭhapaññā visiṭṭhapaññā pāmokkhapaññā uttamapaññā pavarapaññā ’ti – tesaṃ na koci parihīnapañño.
Diṭṭhi hī tesampi tathā samattā ’ti – Tesaṃ samaṇabrāhmaṇānaṃ diṭṭhi tathā samattā samādinnā gahitā parāmaṭṭhā abhiniviṭṭhā ajjhositā adhimuttā ’ti – diṭṭhī hi tesampi tathā samattā.
Tenāha bhagavā: “Sandiṭṭhiyā ceva na vevadātā saṃsuddhapaññā kusalā mutīmā, tesaṃ na koci parihīnapañño
diṭṭhī hi tesampi tathā samattā ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Và nếu do quan điểm của mình, những kẻ không trong sạch trở nên có tuệ thanh tịnh, thiện xảo, có sự nhận thức, thì không ai trong số họ là có tuệ hoàn toàn thấp kém,bởi vì quan điểm của họ đã được thâu nhận cũng là như thế ấy.”
12.5
Na cāhametaṃ tathiyanti brūmi yamāhu bālā mithu aññamaññaṃ, sakaṃ sakaṃ diṭṭhimakaṃsu saccaṃ
tasmā hi bāloti paraṃ dahanti.
Nhưng Ta không nói rằng: ‘Điều ấy là bản thể thật,’ là điều mà các kẻ ngu đã nói đối chọi lẫn nhau. Họ đã tạo lập quan điểm riêng của từng cá nhân là chân lý, chính vì điều ấy, họ xem người khác là ‘kẻ ngu si.’
Ta không có nói rằng:
“Ðây chính là sự thật”.
Các người ngu với nhau,
Cùng nhau nói như vậy,
Với tri kiến tự mình,
Họ nói là chân thật,
Do vậy các người khác,
Ðược họ xem là ngu.
(Kinh Tập, câu kệ 882)
Na cāhametaṃ tathiyanti brūmī ’ti – Nā ’ti paṭikkhepo. Etan ’ti dvāsaṭṭhi diṭṭhigatāni; nāhaṃ etaṃ tacchaṃ tathaṃ bhūtaṃ yāthāvaṃ aviparītan ’ti brūmi ācikkhāmi desemi paññapemi paṭṭhapemi vivarāmi vibhajāmi uttānīkaromi pakāsemī ’ti – na cāhametaṃ tathiyanti brūmi.
Yamāhu bālā mithu aññamaññan ’ti – Mithū ’ti dve janā, dve kalahakārakā, dve bhaṇḍanakārakā, dve bhassakārakā, dve vivādakārakā, dve adhikaraṇakārakā, dve vādino, dve sallāpakā; te aññamaññaṃ bālato hīnato nihīnato omakato lāmakato chattakato parittato evamāhaṃsu, evaṃ kathenti, evaṃ bhaṇanti, evaṃ voharantī ’ti – yamāhu bālā mithu aññamaññaṃ.
Sakaṃ sakaṃ diṭṭhimakaṃsu saccan ’ti – Sassato loke idameva saccaṃ moghamaññan ’ti sakaṃ sakaṃ diṭṭhimakaṃsu saccaṃ. Asassato loko idameva saccaṃ moghamaññan ’ti –pe– neva hoti na na hoti tathāgato parammaraṇā, idameva saccaṃ moghamaññan ’ti – sakaṃ sakaṃ diṭṭhimakaṃsu saccaṃ.
Tasmā hi bāloti paraṃ dahantī ’ti – Tasmā ’ti tasmā taṅkāraṇā taṃhetu tappaccayā tannidānā; paraṃ bālato hīnato nihīnato omakato lāmakato chattakato parittato; dahanti passanti dakkhanti olokenti nijjhāyanti upaparikkhantī ’ti – tasmā hi bāloti paraṃ dahanti.
Tenāha bhagavā: “Na cāhametaṃ tathiyanti2 brūmi yamāhu bālā mithu aññamaññaṃ, sakaṃ sakaṃ diṭṭhimakaṃsu saccaṃ tasmā hi bāloti paraṃ dahantī ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Nhưng Ta không nói rằng: ‘Điều ấy là bản thể thật,’ là điều mà các kẻ ngu đã nói đối chọi lẫn nhau. Họ đã tạo lập quan điểm riêng của từng cá nhân là chân lý, chính vì điều ấy, họ xem người khác là ‘kẻ ngu si.’”
12.6
Yamāhu saccaṃ tathiyanti eke tamāhu aññe tucchaṃ musāti, evampi viggayha vivādayanti kasmā na ekaṃ samaṇā vadanti.
Điều mà một số kẻ đã nói: ‘Là sự thật, là bản thể thật,’
những kẻ khác đã nói điều ấy: ‘Là rỗng không, là sai trái.’
Sau khi giữ khư khư (quan điểm của mình) như vậy, họ tranh cãi.
Vì sao các vị Sa-môn nói không đồng nhất?
Người hỏi:
Một số người nói rằng:
“Ðây mới là sự thật”
Họ nói các người khác,
Là trống không, giả dối,
Do chấp thủ như vậy,
Họ tranh luận đấu tranh,
Vì sao bậc Sa-môn,
Không cùng nói một lời?
(Kinh Tập, câu kệ 883)
Yamāhu saccaṃ tathiyanti eke ’ti – Yaṃ diṭṭhiṃ paṭipadaṃ maggaṃ eke samaṇabrāhmaṇā idaṃ saccaṃ tathaṃ bhūtaṃ yāthāvaṃ aviparītanti evamāhaṃsu evaṃ kathenti evaṃ bhaṇanti evaṃ dīpayanti evaṃ voharantī ’ti – yamāhu saccaṃ tathiyanti eke.
Điều mà một số kẻ đã nói: ‘Là sự thật, là bản thể thật’ – Giáo pháp, quan điểm, cách thực hành, đạo lộ nào mà một số Sa-môn và Bà-la-môn đã nói như vậy, thuyết như vậy, phát ngôn như vậy, diễn giải như vậy, diễn tả như vậy (rằng): ‘Điều này là đúng đắn, là thực thể, là đang xảy ra, là xác đáng, là không bị sai lệch’; – ‘điều mà một số kẻ đã nói: ‘Là sự thật, là bản thể thật’ là như thế.
Tamāhu aññe tucchaṃ musātī ’ti – Tameva dhammaṃ diṭṭhiṃ paṭipadaṃ maggaṃ eke samaṇabrāhmaṇā tucchaṃ etaṃ musā etaṃ abhūtaṃ etaṃ alikaṃ etaṃ ayāthāvaṃ etanti evamāhaṃsu evaṃ kathenti evaṃ bhaṇanti evaṃ dīpayanti evaṃ voharantī ’ti – tamāhu aññe tucchaṃ musāti.
Những kẻ khác đã nói điều ấy: ‘Là rỗng không, là sai trái’ – Một số Sa-môn và Bà-la-môn đã nói như vậy, thuyết như vậy, phát ngôn như vậy, diễn giải như vậy, diễn tả như vậy về giáo pháp, quan điểm, cách thực hành, đạo lộ ấy rằng: ‘Điều ấy là rỗng không, điều ấy là sai trái, điều ấy là không xảy ra, điều ấy là không thật, điều ấy là không xác đáng; – ‘những kẻ khác đã nói điều ấy: ‘Là rỗng không, là sai trái’ là như thế.
Evampi viggayha vivādayantī ’ti – Evaṃ gahetvā uggahetvā gaṇhitvā parāmasitvā abhinivisitvā vivādayanti, kalahaṃ karonti, bhaṇḍanaṃ karonti viggahaṃ karonti, vivādaṃ karonti, medhagaṃ karonti: ‘Na tvaṃ imaṃ dhammavinayaṃ ājānāsi –nt– nibbeṭhehi vā sace pahosī ’ti – evampi viggayha vivādayanti.
Sau khi giữ khư khư (quan điểm của mình) như vậy, họ tranh cãi – Sau khi chấp nhận, sau khi tiếp thu, sau khi nắm lấy, sau khi bám víu, sau khi cố chấp (quan điểm của mình) như vậy, họ tranh cãi, họ gây ra sự cãi cọ, gây ra sự cãi lộn, gây ra sự cãi vã, gây ra sự tranh cãi, gây ra sự gây gỗ rằng: ‘Ngươi không biết Pháp và Luật này —nt— hoặc ngươi hãy gỡ rối nếu ngươi có khả năng; – ‘sau khi giữ khư khư (quan điểm của mình) như vậy, họ tranh cãi’ là như thế.
Kasmā na ekaṃ samaṇā vadantī ’ti – Kasmā ’ti kasmā kiṅkāraṇā kiṃhetu kimpaccayā kinnidānā kiṃsamudayā kiñjātiyā kimpabhavā na ekaṃ vadanti, nānā vadanti, vividhaṃ vadanti, aññamaññaṃ vadanti kathenti bhaṇanti dīpayanti voharantī ’ti – kasmā na ekaṃ samaṇā vadanti.
Vì sao các vị Sa-môn nói không đồng nhất? – Vì sao: là vì điều gì, bởi lý do gì, bởi nhân gì, bởi duyên gì, bởi căn nguyên gì, bởi nhân sanh khởi gì, bởi mầm sanh khởi gì, bởi nguồn sanh khởi gì, họ nói không đồng nhất, nói khác nhau, nói khác biệt, nói cách này cách khác, nói, thuyết giảng, phát ngôn, diễn giải, diễn tả một cách riêng biệt; – ‘vì sao các vị Sa-môn nói không đồng nhất?’ là như thế.
Tenāha so nimmito: “Yamāhu saccaṃ tathiyanti eke tamāhu aññe tucchaṃ musāti, evampi viggayha vivādayanti kasmā na ekaṃ samaṇā vadantī ”ti.
Vì thế, vị (Phật) do thần thông biến hóa ra đã hỏi rằng: “Điều mà một số kẻ đã nói: ‘Là sự thật, là bản thể thật,’ những kẻ khác đã nói điều ấy: ‘Là rỗng không, là sai trái.’ Sau khi giữ khư khư (quan điểm của mình) như vậy, họ tranh cãi. Vì sao các vị Sa-môn nói không đồng nhất?”
12.7
Ekaṃ hi saccaṃ na dutiyamatthi yasmiṃ pajā no vivade pajānaṃ, nānā te saccāni sayaṃ thunanti tasmā na ekaṃ samaṇā vadanti.
Bởi vì Sự Thật chỉ có một, không có cái thứ nhì, trong khi nhận biết về Sự Thật ấy, loài người sẽ không tranh cãi. Chúng tự mình kể lể về các sự thật khác nhau; vì thế, các vị Sa-môn nói không đồng nhất.
Thế Tôn:
Sự thật chỉ có một,
Không sự thật thứ hai,
Người hiểu biết tranh luận,
Với người có hiểu biết,
Nhưng chân thật họ khen,
Chỉ sự thật của họ,
Do vậy bậc Sa-môn,
Không cùng nói một lời.
(Kinh Tập, câu kệ 884)
Ekaṃ hi saccaṃ na dutiyamatthī ’ti – Ekaṃ saccaṃ vuccati dukkhanirodho nibbānaṃ, yo so sabbasaṅkhārasamatho sabbūpadhipaṭinissaggo taṇhakkhayo virāgo nirodho nibbānaṃ. Athavā ekaṃ saccaṃ vuccati maggasaccaṃ niyyānasaccaṃ dukkhanirodhagāminī paṭipadā ariyo aṭṭhaṅgiko maggo seyyathīdaṃ: sammādiṭṭhi sammāsaṅkappo sammāvācā sammākammanto sammā-ājīvo sammāvāyāmo sammāsati sammāsamādhī ’ti – ekaṃ hi saccaṃ na dutiyamatthi
Yasmiṃ pajā no vivade pajānan ’ti – Yasmin ’ti yasmiṃ sacce. Pajā ’ti sattādhivacanaṃ. Pajānaṃ yaṃ saccaṃ pajānantā vijānantā paṭivijānantā paṭivijjhantā na kalahaṃ kareyyuṃ, na bhaṇḍanaṃ kareyyuṃ, na viggahaṃ kareyyuṃ, na vivādaṃ kareyyuṃ, na medhagaṃ kareyyuṃ, kalahaṃ bhaṇḍanaṃ viggahaṃ vivādaṃ medhagaṃ pajaheyyuṃ vinodeyyuṃ byantīkareyyuṃ anabhāvaṃ gameyyun ’ti – yasmiṃ pajā no vivade pajānaṃ.
Nānā te saccāni sayaṃ thunantī ’ti – Nānā te saccāni sayaṃ thunanti vadanti kathenti bhaṇanti dīpayanti voharanti: ‘Sassato loko, idameva saccaṃ moghamaññan ’ti sayaṃ thunanti vadanti kathenti bhaṇanti dīpayanti voharantī ’ti – nānā te saccāni sayaṃ thunanti.
Tasmā na ekaṃ samaṇā vadantī ’ti – Tasmā ’ti tasmā taṅkāraṇā taṃhetu tappaccayā tannidānā na ekaṃ vadanti, nānā vadanti, vividhaṃ vadanti, aññamaññaṃ vadanti, puthu vadanti kathenti bhaṇanti dīpayanti voharantī ’ti – tasmā na ekaṃ samaṇā vadanti.
Tenāha bhagavā: “Ekaṃ hi saccaṃ na dutiyamatthi yasmiṃ pajā no vivade pajānaṃ, nānā te saccāni sayaṃ thunanti tasmā na ekaṃ samaṇā vadantī ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Bởi vì Sự Thật chỉ có một, không có cái thứ nhì, trong khi nhận biết về Sự Thật ấy, loài người sẽ không tranh cãi. Chúng tự mình kể lể về các sự thật khác nhau; vì thế, các vị Sa-môn nói không đồng nhất.”
12.8
Kasmā nu saccāni vadanti nānā pavādiyā se kusalāvadānā, saccāni sutāni bahūni nānā udāhu te takkamanussaranti.
Nhưng vì sao họ, những nhà biện luận tuyên bố (mình) là thiện xảo, lại nói về các sự thật khác nhau? Phải chăng các sự thật đã được nghe là có nhiều và khác nhau? Hay là các vị ấy theo đuổi sự suy tư (của riêng mình)?
Người hỏi:
Vì sao họ nói lên,
Những chân thật sai khác,
Vì sao bậc thiện xảo,
Lại nói lời tranh luận,
Nếu các sự thật ấy,
Là nhiều và sai biệt,
Hay họ chỉ nhớ đến,
Những suy luận của họ.
(Kinh Tập, câu kệ 885)
Kasmā nu saccāni vadanti nānā ’ti – Kasmā ’ti kasmā kiṃkāraṇā kiṃhetu kimpaccayā kinnidānā saccāni nānā vadanti, vividhāni vadanti, aññamaññāni vadanti, puthūni vadanti kathenti bhaṇanti dīpayanti voharantī ’ti – kasmā nu saccāni vadanti nānā.
Pavādiyā se kusalāvadānā ’ti – Pavādiyā se ’ti vippavadantī ’ti pi pavādiyā se. Athavā sakaṃ sakaṃ diṭṭhigataṃ pavadanti kathenti bhaṇanti dīpayanti voharanti. ‘Sassato loko, idameva saccaṃ moghamaññan ’ti pavadanti kathenti bhaṇanti dīpayanti voharanti. ‘Asassato loko –pe– Neva hoti na na hoti tathāgato parammaraṇā, idameva saccaṃ moghamaññan ’ti pavadanti kathenti bhaṇanti dīpayanti voharanti. Kusalāvadānā ’ti kusalavādā paṇḍitavādā thiravādā ñāyavādā hetuvādā lakkhaṇavādā kāraṇavādā ṭhānavādā, sakāya laddhiyā ’ti – pavādiyā se kusalāvadānā.
Saccāni sutāni bahūni nānā ’ti – Saccāni sutāni bahukāni nānāni vividhāni aññamaññāni puthūnī ’ti – saccāni sutāni bahūni nānā.
Udāhu te takkamanussarantī ’ti – Udāhu takkena vitakkena saṅkappena yāyanti nīyanti vuyhanti saṃhariyyantī ’ti – evampi ‘udāhu te takkamanussaranti.’ Athavā takkapariyāhataṃ vīmaṃsānucaritaṃ sayampaṭibhānaṃ vadanti kathenti bhaṇanti dīpayanti voharantī ’ti – evampi ‘udāhu te takkamanussaranti.’
Tenāha so nimmito: “Kasmā nu saccāni vadanti nānā pavādiyā se kusalāvadānā, saccāni sutāni bahūni nānā
udāhu te takkamanussarantī ”ti.
Vì thế, vị (Phật) do thần thông biến hóa ra đã hỏi rằng:
“Nhưng vì sao họ, những nhà biện luận tuyên bố (mình) là thiện xảo, lại nói về các sự thật khác nhau? Phải chăng các sự thật đã được nghe là có nhiều và khác nhau? Hay là các vị ấy theo đuổi sự suy tư (của riêng mình)?”
12.9
Na heva saccāni bahūni nānā aññatra saññāya niccāni loke, takkañca diṭṭhīsu pakappayitvā saccaṃ musāti dvayadhammamāhu.
“Đương nhiên là không có nhiều sự thật khác nhau và thường còn ở thế gian, ngoại trừ (các sự thật) do tưởng (tạo ra). Và sau khi xếp đặt sự suy tư về các quan điểm (do chúng tạo ra), chúng đã nói về hai pháp là: ‘Đúng và sai.’
Thế Tôn:
Thật sự các sự thật,
Không có nhiều sai biệt,
Từ các luồng tư tưởng,
Về thường còn ở đời,
Do họ suy nghĩ đến,
Tư tưởng các tri kiến,
Họ nói có hai pháp,
Sự thật và giả dối.
(Kinh Tập, câu kệ 886)
Na heva saccāni bahūni nānā ’ti – Na heva saccāni bahukāni nānāni vividhāni aññamaññāni puthūnī ’ti – na heva saccāni bahūni nānā.
Aññatra saññāya niccāni loke ’ti – Aññatra saññāya niccagāhā ekaññeva saccaṃ loke kathīyati bhaṇīyati dīpīyati voharīyati dukkhanirodho nibbānaṃ, yo so sabbasaṅkhārasamatho sabbūpadhipaṭinissaggo taṇhakkhayo virāgo nirodho nibbānaṃ. Athavā, ekaṃ saccaṃ vuccati maggasaccaṃ niyyānasaccaṃ dukkhanirodhagāminī paṭipadā ariyo aṭṭhaṅgiko maggo; seyyathīdaṃ: sammādiṭṭhi ―pe― sammāsamādhī ’ti – aññatra saññāya niccāni loke.
Takkañca diṭṭhīsu pakappayitvā saccaṃ musāti dvayadhammamāhū ’ti – Takkaṃ vitakkaṃ saṅkappaṃ takkayitvā vitakkayitvā saṅkappayitvā diṭṭhigatāni janenti sañjanenti nibbattenti abhinibbattenti; diṭṭhigatāni janetvā sañjanetvā nibbattetvā abhinibbattetvā ‘mayhaṃ saccaṃ tuyhaṃ musā ’ti evamāhaṃsu, evaṃ kathenti, evaṃ bhaṇanti, evaṃ dīpayanti, evaṃ voharantī ’ti – takkañca diṭṭhīsu pakappayitvā saccaṃ musāti dvayadhammamāhu.
Tenāha bhagavā: “Naheva saccāni bahūni nānā aññatra saññāya niccāni loko, takkañca diṭṭhīsu pakappayitvā saccaṃ musāti dvayadhammamāhū ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Đương nhiên là không có nhiều sự thật khác nhau và thường còn ở thế gian, ngoại trừ (các sự thật) do tưởng (tạo ra). Và sau khi xếp đặt sự suy tư về các quan điểm (do chúng tạo ra), chúng đã nói về hai pháp là: đúng và sai.”
12.10
Diṭṭhe sute sīlavate mute vā ete ca nissāya vimānadassī, vinicchaye ṭhatvā pahassamāno bālo paro akkusalo ’ti cāha.
Liên quan đến điều đã được thấy, đến điều đã được nghe, đến giới và phận sự, hoặc đến điều đã được cảm giác, sau khi nương tựa vào những điều này, rồi có sự coi khinh (người khác), sau khi ỷ vào các sự phán đoán, trong lúc hớn hở, (kẻ ấy) đã nói rằng: ‘Người khác là ngu si, là không thiện xảo.’
Các pháp được thấy nghe,
Ðược giữ giới, thọ tưởng,
Họ y cứ pháp này,
Họ suy tư, nhìn thấy,
An trú các quyết định,
Họ chê cười người khác,
Họ nói các người khác,
Là ngu si bất thiện.
(Kinh Tập, câu kệ 887)
Diṭṭhe sute sīlavate mute vā ete ca nissāya vimānadassī ’ti diṭṭhaṃ vā diṭṭhasuddhiṃ vā sutaṃ vā sutasuddhiṃ vā sīlaṃ vā sīlasuddhiṃ vā vataṃ vā vatasuddhiṃ vā mutaṃ vā mutasuddhiṃ vā nissāya upanissāya gaṇhitvā parāmasitvā abhinivisitvā ’ti – diṭṭhe sute sīlavate mute vā.
Ete ca nissāya vimānadassī ’ti – Na sammānetītipi vimānadassī. Athavā domanassaṃ janetītipi vimānadassī ’ti – diṭṭhe sute sīlavate mute vā ete ca nissāya vimānadassī.
Vinicchaye ṭhatvā pahassamāno ’ti – Vinicchayā vuccanti dvāsaṭṭhi diṭṭhigatāni. Diṭṭhivinicchaye vinicchayadiṭṭhiyā ṭhatvā patiṭṭhahitvā gaṇhitvā parāmasitvā abhinivisitvā ’ti – vinicchaye ṭhatvā. Pahassamāno ’ti – Tuṭṭho hoti haṭṭho pahaṭṭho attamano paripuṇṇasaṅkappo. Athavā, dantavidaṃsakaṃ pahassamāno ’ti – vinicchaye ṭhatvā pahassamāno.
Bālo paro akkusaloti cāhā ’ti – Paro bālo hīno nihīno omako lāmako chattako paritto akusalo avidvā avijjāgato aññāṇī avibhāvī amedhāvī duppaññoti evamāha, evaṃ katheti, evaṃ bhaṇati, evaṃ dīpayati, evaṃ voharatī ’ti – bālo paro akkusaloti cāha.
Tenāha bhagavā: “Diṭṭhe sute sīlavate mute vā ete ca nissāya vimānadassī, vinicchaye ṭhatvā pahassamāno
bālo paro akusalo ’ti cāhā ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Liên quan đến điều đã được thấy, đến điều đã được nghe, đến giới và phận sự, hoặc đến điều đã được cảm giác, sau khi nương tựa vào những điều này, rồi có sự coi khinh (người khác), sau khi ỷ vào các sự phán đoán, trong lúc hớn hở, (kẻ ấy) đã nói rằng: ‘Người khác là ngu si, là không thiện xảo.’”
12.11
Yeneva bāloti paraṃ dahāti tenātumānaṃ kusaloti cāha, sayamattanā so kusalāvadāno aññaṃ vimāneti tadeva pāvā.
Bởi chính lý do nào mà kẻ ấy đánh giá người khác là ‘ngu si,’ thì bởi lý do ấy kẻ ấy đã nói về bản thân là ‘thiện xảo.’ Kẻ ấy, trong khi tự mình tuyên bố chính mình là thiện xảo, rồi khinh thường người khác và phát biểu điều ấy.
Vì rằng đối người khác,
Nó xem là ngu si,
Tự mình gọi chính mình,
Là thiện xảo tốt đẹp,
Do chính mình khen mình,
Vị ấy gọi thiện xảo,
Khinh thường các người khác,
Lời người ấy là vậy.
(Kinh Tập, câu kệ 888)
Yeneva bāloti paraṃ dahātī ’ti – Yeneva hetunā yena paccayena yena kāraṇena yena pabhavena paraṃ bālato hīnato nihīnato omakato lāmakato chattakato parittato dahāti passati dakkhati oloketi nijjhāyati upaparikkhatī ’ti – yeneva bāloti paraṃ dahāti.
Tenātumānaṃ kusaloti cāhā ’ti – Ātumā vuccati attā. So pi teneva hetunā tena paccayena tena kāraṇena tena pabhavena attānaṃ ‘ahamasmi kusalo paṇḍito paññavā buddhimā ñāṇī vibhāvī medhāvī ’ti – tenātumānaṃ kusaloti cāha.
Sayamattanā so kusalāvadāno ’ti – Sayameva attānaṃ kusalavādo paṇḍitavādo thiravādo ñāyavādo hetuvādo lakkhaṇavādo kāraṇavādo ṭhānavādo sakāya laddhiyā ’ti – sayamattanā so kusalāvadāno.
Aññaṃ vimāneti tadeva pāvā ’ti – Na sammānetī ’ti pi aññaṃ vimāneti. Athavā, domanassaṃ janetī ’ti pi aññaṃ vimāneti. Tadeva pāvā ’ti tadeva taṃ diṭṭhigataṃ pāvadati: ‘Iti vāyaṃ puggalo micchādiṭṭhiko viparītadassano ’ti – aññaṃ vimāneti tadeva pāvā.
Tenāha bhagavā: “Yeneva bāloti paraṃ dahāti tenātumānaṃ kusaloti cāha, sayamattanā so kusalāvadāno aññaṃ vimāneti tadeva pāvā ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Bởi chính lý do nào mà kẻ ấy đánh giá người khác là ‘ngu si,’ thì bởi lý do ấy kẻ ấy đã nói về bản thân là ‘thiện xảo.’ Kẻ ấy, trong khi tự mình tuyên bố chính mình là thiện xảo, rồi khinh thường người khác và phát biểu điều ấy.”
12.12
Atisāradiṭṭhiyā so samatto mānena matto paripuṇṇamānī, sayameva sāmaṃ manasābhisitto diṭṭhī hi sā tassa tathā samattā.
Với quan điểm vượt quá giới hạn, kẻ ấy được thỏa mãn, bị say đắm vì ngã mạn, có sự tự cao là toàn vẹn,rồi tự chính mình đăng quang cho mình bằng tâm ý; chính quan điểm ấy của kẻ ấy đã được thâu nhận như thế.
Vị ấy quá say mê,
Với tri kiến của mình,
Nên trở thành kiêu mạn,
Viên mãn tự ý mình,
Tự mình với tâm ý,
Làm lễ quán đảnh mình,
Do vậy, bị say mê,
Trong tri kiến của mình.
(Kinh Tập, câu kệ 889)
Atisāradiṭṭhiyā so samatto ’ti – Atisāradiṭṭhiyo vuccanti dvāsaṭṭhidiṭṭhigatāni. Kiṃkāraṇā atisāradiṭṭhiyo vuccanti dvāsaṭṭhidiṭṭhigatāni? Sabbā tā diṭṭhiyo kāraṇātikkantā lakkhaṇātikkantā ṭhānātikkantā taṃkāraṇā atisāradiṭṭhiyo vuccanti dvāsaṭṭhi diṭṭhigatāni; sabbāpi diṭṭhiyo atisāradiṭṭhiyo. Kiṃkāraṇā sabbāpi diṭṭhiyo vuccanti atisāradiṭṭhiyo? Te aññamaññaṃ atikkamitvā samatikkamitvā vītivattitvā diṭṭhigatāni janenti sañjanenti nibbattenti abhinibbattenti; taṅkāraṇā sabbāpi diṭṭhiyo vuccanti atisāradiṭṭhiyo. Atisāradiṭṭhiyā so samatto ’ti atisāradiṭṭhiyā samatto paripuṇṇo anomo ’ti – atisāradiṭṭhiyā so samatto.
Mānena matto paripuṇṇamānī ’ti – Sakāya diṭṭhiyā diṭṭhimānena matto pamatto ummatto atimatto ’ti – mānena matto. Paripuṇṇamānī ’ti paripuṇṇamānī samattamānī anomamānī ’ti – mānena matto paripuṇṇamānī.
Sayameva sāmaṃ manasābhisitto ’ti – Sayameva attānaṃ cittena abhisiñcati: ‘Ahamasmi kusalo paṇḍito paññavā buddhimā ñāṇī vibhāvī medhāvī ’ti – sayameva sāmaṃ manasābhisitto.
Diṭṭhī hi sā tassa tathā samattā ’ti – Tassa sā diṭṭhi tathā samattā samādinnā gahitā parāmaṭṭhā abhiniviṭṭhā ajjhositā adhimuttā ’ti – diṭṭhī hi sā tassa tathā samattā.
Tenāha bhagavā: “Atisāradiṭṭhiyā so samatto mānena matto paripuṇṇamānī, sayameva sāmaṃ manasābhisitto diṭṭhī hi sā tassa tathā samattā ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Với quan điểm vượt quá giới hạn, kẻ ấy được thỏa mãn, bị say đắm vì ngã mạn, có sự tự cao là toàn vẹn, rồi tự chính mình đăng quang cho mình bằng tâm ý; chính quan điểm ấy của kẻ ấy đã được thâu nhận như thế.”
12.13
Parassa ce hi vacasā nihīno tumo sahā hoti nihīnapañño, atha ce sayaṃ vedagū hoti dhīro na koci bālo samaṇesu atthi.
Bởi vì, nếu do lời nói của kẻ khác mà trở thành thấp kém, thì bản thân, do điều ấy [1] (cũng) trở thành có tuệ thấp kém. Còn nếu do (lời nói) của mình mà trở thành người thông hiểu, sáng trí, thì không có bất cứ người nào là kẻ ngu trong số các vị Sa-môn.
[1] Do việc kẻ khác cũng khinh chê lại người này như vậy (SnA. ii, 256).
Nếu người khác nói rằng:
Nó là hạng hạ liệt.
Như vậy đối tự mình,
Kẻ kia cũng liệt tuệ,
Nếu tự nó sáng suốt,
Bậc Hiền trí hiểu biết,
Không có ai ngu si,
Giữa các bậc Sa-môn.
(Kinh Tập, câu kệ 890)
Parassa ce hi vacasā nihīno ’ti – Parassa ce vācāya vacanena ninditakāraṇā garahitakāraṇā upavaditakāraṇā paro bālo hoti hīno nihīno omako lāmako chattako paritto ’ti – parassa ce hi vacasā nihīno.
Bởi vì, nếu do lời nói của kẻ khác mà trở thành thấp kém – Nếu do lời nói, do việc nói, bởi lý do bị chê bai, bởi lý do bị chê trách, bởi lý do bị gièm pha của kẻ khác, mà người khác trở thành ngu si, thấp hèn, hèn kém, thấp kém, thấp thỏi, tồi tệ, nhỏ nhoi; – ‘bởi vì, nếu do lời nói của kẻ khác mà trở thành thấp kém’ là như thế.
Tumo sahā hoti nihīnapañño ’ti – So pi teneva sahā hoti hīnapañño nihīnapañño omakapañño lāmakapañño chattakapañño parittapañño ’ti – tumo sahā hoti nihīnapañño.
Thì bản thân, do điều ấy (cũng) trở thành có tuệ thấp kém – Kẻ ấy, cũng do chính điều ấy, trở thành có tuệ ngu si, có tuệ thấp hèn, có tuệ hèn kém, có tuệ thấp kém, có tuệ thấp thỏi, có tuệ tồi tệ, có tuệ nhỏ nhoi; – ‘thì bản thân, do điều ấy (cũng) trở thành có tuệ thấp kém’ là như thế.
Atha ce sayaṃ vedagū hoti dhīro ’ti – Atha ce sayaṃ vedagū hoti dhīro paṇḍito paññavā buddhimā ñāṇī vibhāvī medhāvī ’ti – atha ce sayaṃ vedagū hoti dhīro.
Còn nếu do (lời nói) của mình mà trở thành người thông hiểu, sáng trí – Còn nếu d0 tự mình mà trở thành người thông hiểu, sáng trí, sáng suốt, có tuệ, có sự giác ngộ, có trí, có sự rành rẽ, có sự thông minh; – ‘còn nếu do (lời nói) của mình mà trở thành người thông hiểu, sáng trí’ là như thế.
Na koci bālo samaṇesu atthī ’ti – Samaṇesu na koci bālo hīno nihīno omako lāmako chattako paritto atthi, sabbeva seṭṭhapaññā visiṭṭhapaññā pāmokkhapaññā uttamapaññā pavarapaññā ’ti – na koci bālo samaṇesu atthi
Thì không có bất cứ người nào là kẻ ngu trong số các vị Sa-môn – thì trong số các vị Sa-môn, không có người nào là ngu si, thấp hèn, hèn kém, thấp kém, thấp thỏi, tồi tệ, nhỏ nhoi, toàn bộ tất cả (các vị ấy) đều có tuệ nhất hạng, có tuệ thù thắng, có tuệ dẫn đầu, có tuệ tối thượng, có tuệ cao quý; – ‘thì không có bất cứ người nào là kẻ ngu trong số các vị Sa-môn’ là như thế.
Tenāha bhagavā: “Parassa ce hi vacasā nihīno tumo sahā hoti nihīnapañño, atha ce sayaṃ vedagū hoti dhīro na koci bālo samaṇesu atthī ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Bởi vì, nếu do lời nói của kẻ khác mà trở thành thấp kém, thì bản thân, do điều ấy (cũng) trở thành có tuệ thấp kém. Còn nếu do (lời nói) của mình mà trở thành người thông hiểu, sáng trí, thì không có bất cứ người nào là kẻ ngu trong số các vị Sa-môn.”
12.14
Aññaṃ ito yābhivadanti dhammaṃ aparaddhā suddhimakevalī te, evampi titthyā puthuso vadanti sandiṭṭhirāgena hi tebhirattā.
Những kẻ nào thuyết về pháp nào khác so với điều này, những kẻ ấy bị thất bại về (đạo lộ) trong sạch, chúng không toàn hảo. Những kẻ ngoại đạo cũng nói như vậy theo nhiều cách khác nhau, bởi vì chúng bị nhiễm nặng do sự luyến ái với quan điểm của mình.
Những ai tuyên bố pháp,
Sai khác với pháp này,
Ði ngược lại thanh tịnh,
Không là người hoàn toàn,
Như vậy các ngoại đạo,
Tuyên bố thật rộng rãi,
Do lòng tham tri kiến,
Họ quá sức đam mê.
(Kinh Tập, câu kệ 891)
Aññaṃ ito yābhivadanti dhammaṃ aparaddhā suddhimakevalī te ’ti – Ito aññaṃ dhammaṃ diṭṭhiṃ paṭipadaṃ maggaṃ ye abhivadanti, te suddhimaggaṃ visuddhimaggaṃ parisuddhimaggaṃ vodātamaggaṃ pariyodātamaggaṃ viraddhā aparaddhā khalitā galitā aññāya aparaddhā. Akevalī te ’ti – asamattā te aparipuṇṇā te hīnā nihīnā omakā lāmakā chattakā parittā ’ti – aññaṃ ito yābhivadanti dhammaṃ aparaddhā suddhimakevalī te.
Evampi titthyā puthuso vadantī ’ti – Titthaṃ vuccati diṭṭhigataṃ. Titthiyā vuccanti diṭṭhigatikā. Puthu titthiyā puthu diṭṭhigatāni vadanti kathenti bhaṇanti dīpayanti voharantī ’ti – evampi titthyā puthuso vadanti.
Sandiṭṭhirāgena hi tebhirattā ’ti – Sakāya diṭṭhiyā diṭṭhirāgena rattā abhirattā ’ti – sandiṭṭhirāgena hi tebhirattā.
Tenāha bhagavā: “Aññaṃ ito yābhivadanti dhammaṃ aparaddhā suddhimakevalī te, evampi titthyā puthuso vadanti sandiṭṭhirāgena hi tebhirattā ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Những kẻ nào thuyết về pháp nào khác so với điều này, những kẻ ấy bị thất bại về (đạo lộ) trong sạch, chúng không toàn hảo. Những kẻ ngoại đạo cũng nói như vậy theo nhiều cách khác nhau, bởi vì chúng bị nhiễm nặng do sự luyến ái với quan điểm của mình.”
12.15
Idheva suddhiṃ iti vādayanti nāññesu dhammesu visuddhimāhu, evampi titthyā puthuso niviṭṭhā sakāyane tattha daḷhaṃ vadānā.
‘Chỉ nơi đây có sự trong sạch,’ chúng nói như thế ấy; chúng đã nói sự thanh tịnh không có ở các giáo pháp khác. Những kẻ ngoại đạo cũng đã gầy dựng như vậy theo kiểu cách riêng về đường lối của chúng, trong khi nói một cách chắc chắn về điều ấy.
Những ai tuyên bố rằng,
Chính đây là thanh tịnh,
Họ nói không thanh tịnh,
Trong các pháp sai khác.
Như vậy các ngoại đạo,
An trú thật rộng rãi,
Họ kiên trì tuyên bố,
Con đường riêng của mình.
(Kinh Tập, câu kệ 892)
Idheva suddhiṃ iti vādayantī ’ti – Idha suddhiṃ visuddhiṃ parisuddhiṃ muttiṃ vimuttiṃ parimuttiṃ vadanti kathenti bhaṇanti dīpayanti voharanti. ‘Sassato loko, idameva saccaṃ moghamaññan ’ti idha suddhiṃ visuddhiṃ parisuddhiṃ muttiṃ vimuttiṃ parimuttiṃ vadanti kathenti bhaṇanti dīpayanti voharanti. ‘Asassato loko –pe– Neva hoti na na hoti tathāgato parammaraṇā, idameva saccaṃ moghamaññan ’ti idha suddhiṃ visuddhiṃ parisuddhiṃ muttiṃ vimuttiṃ parimuttiṃ vadanti kathenti bhaṇanti dīpayanti voharantī ’ti – idheva suddhiṃ iti vādayanti.
Nāññesu dhammesu visuddhimāhū ’ti – Attano satthāraṃ dhammakkhānaṃ gaṇaṃ diṭṭhiṃ paṭipadaṃ maggaṃ ṭhapetvā sabbe paravāde khipanti ukkhipanti parikkhipanti: so satthā na sabbaññū, dhammo na svākkhāto, gaṇo na suppaṭipanno, diṭṭhi na bhaddikā, paṭipadā na supaññattā, maggo na niyyāṇiko, natthettha suddhi vā visuddhi vā parisuddhi vā mutti vā vimutti vā parimutti vā; natthettha sujjhanti vā visujjhanti vā parisujjhanti vā muccanti vā vimuccanti vā parimuccanti vā, hīnā nihīnā omakā lāmakā chattakā parittā ’ti evamāhaṃsu evaṃ kathenti evaṃ bhaṇanti evaṃ dīpayanti evaṃ voharantī ’ti – nāññesu dhammesu visuddhimāhu.
Evampi titthyā puthuso niviṭṭhā ’ti – Titthaṃ vuccati diṭṭhigataṃ. Titthiyā vuccanti diṭṭhigatikā. Puthu titthiyā puthu diṭṭhigatesu niviṭṭhā patiṭṭhitā allīnā upagatā ajjhositā adhimuttā ’ti – evampi titthyā puthuso niviṭṭhā.
Sakāyane tattha daḷhaṃ vadānā ’ti – Dhammo sakāyanaṃ, diṭṭhi sakāyanaṃ paṭipadā sakāyanaṃ, maggo sakāyanaṃ, sakāyane daḷhavādā thiravādā balikavādā avaṭṭhitavādā ’ti – sakāyane tattha daḷhaṃ vadānā.
Tenāha bhagavā: “Idheva suddhiṃ iti vādayanti nāññesu dhammesu visuddhimāhu, evampi titthyā puthuso niviṭṭhā sakāyane tattha daḷhaṃ vadānā ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“‘Chỉ nơi đây có sự trong sạch,’ chúng nói như thế ấy; chúng đã nói sự thanh tịnh không có ở các giáo pháp khác. Những kẻ ngoại đạo cũng đã gầy dựng như vậy theo kiểu cách riêng về đường lối của chúng, trong khi nói một cách chắc chắn về điều ấy.”
12.16
Sakāyane vāpi daḷhaṃ vadāno kaṃ tattha bāloti paraṃ daheyya, sayaṃ ’va so medhagamāvaheyya paraṃ vadaṃ bālamasuddhidhammaṃ.
Và trong khi nói một cách chắc chắn về đường lối của chúng, người nào khác ở đó mà kẻ ấy có thể đánh giá là ‘ngu si’? Kẻ ấy tự chính mình đem lại sự gây gổ, trong khi nói người khác là ngu si, (kẻ ấy) là có pháp không trong sạch.
Ai kiên trì tuyên bố,
Con đường riêng của mình,
Sao ở đây có thể,
Nói người khác là ngu?
Vị ấy tự chê mình,
Ðem lại tiếng liệt tuệ,
Người khác nói nói ngu,
Không được pháp thanh tịnh.
(Kinh Tập, câu kệ 893)
Sakāyane vāpi daḷhaṃ vadāno ’ti – Dhammo sakāyanaṃ, diṭṭhi sakāyanaṃ, paṭipadā sakāyanaṃ, maggo sakāyanaṃ, sakāyane daḷhavādo thiravādo balikavādo avaṭṭhitavādo ’ti – sakāyane vāpi daḷhaṃ vadāno.
Kaṃ tattha bāloti paraṃ daheyyā ’ti – Tatthā ’ti sakāya diṭṭhiyā, sakāya khantiyā, sakāya ruciyā, sakāya laddhiyā, paraṃ bālato hīnato nihīnato omakato lāmakato chattakato parittato kaṃ daheyya, kaṃ passeyya, kaṃ dakkheyya, kaṃ olokeyya, kaṃ nijjhāyeyya, kaṃ upaparikkheyyā ’ti – kaṃ tattha bāloti paraṃ daheyya.
Sayaṃva so medhagamāvaheyya paraṃ vadaṃ bālamasuddhidhamman ’ti – Paro bālo hīno nihīno omako lāmako chattako paritto asuddhidhammo avisuddhidhammo aparisuddhidhammo avodātadhammoti evaṃ vadanto evaṃ kathento evaṃ bhaṇanto eva dīpayanto evaṃ voharanto sayameva kalahaṃ bhaṇḍanaṃ viggahaṃ vivādaṃ medhagaṃ āvaheyya samāvaheyya āhareyya samāhareyya ākaḍḍheyya samākaḍḍheyya gaṇheyya parāmaseyya abhiniviseyyā ’ti – sayaṃva so medhagamāvaheyya paraṃ vadaṃ bālamasuddhidhammaṃ.
Tenāha bhagavā: “Sakāyane vāpi daḷhaṃ vadāno kaṃ kattha bāloti paraṃ daheyya, sayaṃ ’va so medhagamāvaheyya paraṃ vadaṃ bālamasuddhidhamman ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Và trong khi nói một cách chắc chắn về đường lối của chúng, người nào khác ở đó mà kẻ ấy có thể đánh giá là ‘ngu si’? Kẻ ấy tự chính mình đem lại sự gây gổ, trong khi nói người khác là ngu si, (kẻ ấy) là có pháp không trong sạch.”
12.17
Vinicchaye ṭhatvā sayaṃ pamāya uddhaṃ so lokasmiṃ vivādameti, hitvāna sabbāni vinicchayāni na medhagaṃ kurute jantu loke.
Sau khi đứng vững ở sự phán đoán, sau khi tự mình ước lượng, kẻ ấy đi đến sự tranh cãi còn ở phía trước ở thế gian. Sau khi từ bỏ tất cả các sự phán đoán, con người không tạo ra sự gây gổ ở thế gian.
An trú trên quyết định,
Tự mình lượng sức người
Vị ấy ở trên đời,
Chỉ tăng thêm tranh luận,
Ai từ bỏ tất cả,
Mọi quyết định, chủ trương,
Không bị người ở đời,
Chê là kẻ liệt tuệ.
(Kinh Tập, câu kệ 894)
Vinicchaye ṭhatvā sayaṃ pamāyā ’ti – Vinicchayā vuccanti dvāsaṭṭhi diṭṭhigatāni. Vinicchayadiṭṭhiyā ṭhatvā patiṭṭhahitvā gaṇhitvā parāmasitvā abhinivisitvā ’ti – vinicchaye ṭhatvā. Sayaṃ pāmāyā ’ti – Sayaṃ pamāya pamiṇitvā. ‘Ayaṃ satthā sabbaññū ’ti sayaṃ pamāya pamiṇitvā; ‘Ayaṃ dhammo svākkhāto, ayaṃ gaṇo supaṭipanno, ayaṃ diṭṭhi bhaddikā, ayaṃ paṭipadā supaññattā, ayaṃ maggo nīyāniko ’ti sayaṃ pamāya pamiṇitvā ’ti – vinicchaye ṭhatvā sayaṃ pamāya.
Uddhaṃ so lokasmiṃ vivādametī ’ti – Uddhaṃ vuccati anāgataṃ. Attano vādaṃ uddhaṃ ṭhapetvā sayameva kalahaṃ bhaṇḍanaṃ viggahaṃ vivādaṃ medhagaṃ eti upeti upagacchati gaṇhāti parāmasati abhinivisatī ’ti; ¬– evampi ‘uddhaṃ so lokasmiṃ vivādameti.’ Athavā aññena uddhaṃ vādena saddhiṃ kalahaṃ karoti, bhaṇḍanaṃ karoti, viggahaṃ karoti, vivādaṃ karoti, medhagaṃ karoti: ‘Na tvaṃ imaṃ dhammavinayaṃ ājānāsi –pe– nibbeṭhehi vā sace pahosī ’ti – evampi ‘uddhaṃ so lokasmiṃ vivādameti.’
Hitvāna sabbāni vinicchayānī ’ti – Vinicchayā vuccanti dvāsaṭṭhidiṭṭhigatāni; diṭṭhivinicchayā sabbe vinicchaye hitvā cajitvā pariccajitvā jahitvā pajahitvā vinodetvā byantīkaritvā anabhāvaṃ gametvā ’ti – hitvāna sabbāni vinicchayāni.
Na medhagaṃ kurute jantu loke ’ti – Na kalahaṃ karoti, na bhaṇḍanaṃ karoti, na viggahaṃ karoti, na vivādaṃ karoti, na medhagaṃ karoti. Vuttaṃ hetaṃ bhagavatā: ‘Evaṃ vimuttacitto kho Aggivessana bhikkhu na kenaci saṃvadati, na kenaci vivadati, yañca loke vuttaṃ, tena ca voharati aparāmasan ’ti.
Jantū ’ti satto naro mānavo poso puggalo jīvo jāgu jantu indagu manujo. Loke ’ti apāyaloke –pe– āyatanaloke ’ti – na medhagaṃ kurute jantu loketi.
Tenāha bhagavā: “Vinicchaye ṭhatvā sayaṃ pamāya uddhaṃ so lokasmiṃ vivādameti, hitvāna sabbāni vinicchayāni na medhagaṃ kurute jantu loke ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Sau khi đứng vững ở sự phán đoán, sau khi tự mình ước lượng, kẻ ấy đi đến sự tranh cãi còn ở phía trước ở thế gian. Sau khi từ bỏ tất cả các sự phán đoán, con người không tạo ra sự gây gổ ở thế gian.”
Cūlaviyūhasuttaniddeso samatto dvādasamo.
Diễn Giải Kinh Sự Dàn Trận Nhỏ được đầy đủ – phần thứ mười hai.
13. MAHĀVIYŪHASUTTANIDDESO – DIỄN GIẢI KINH SỰ DÀN TRẬN LỚN
13.1
Atha mahāviyūhasuttaniddeso vuccati:
Giờ phần Diễn Giải Kinh ‘Sự Dàn Trận Lớn’ được nói đến:
Ye kecime diṭṭhiparibbasānā idameva saccanti ca vādayanti, sabbeva te nindamanvānayanti
atho pasaṃsampi labhanti tattha.
Bất cứ những người nào, trong khi sống theo quan điểm (riêng của cá nhân), tranh cãi rằng: ‘Chỉ điều này là chân lý,’ có phải tất cả những người ấy đều mang lại sự chê bai, hay họ cũng đạt được sự khen ngợi về việc ấy?
(XIII) Những vấn đề to lớn (Sn 174)
Người hỏi:
Với những ai thiên vị,
Ðối với những tri kiến này,
Chỉ đây là sự thật,
Họ cãi cọ tranh luận,
Tất cả những người ấy,
Ðem lại sự chỉ trích,
Hay chính tại ở đây,
Họ được lời tán thán?
(Kinh Tập, câu kệ 895)
Ye kec’ ime diṭṭhiparibbasānā ’ti – Ye kecī ’ti sabbena sabbaṃ sabbathā sabbaṃ asesaṃ nissesaṃ pariyādiyana vacanametaṃ ‘ye kecī ’ti. Diṭṭhiparibbasānā ’ti – Santeke samaṇabrāhmaṇā diṭṭhigatikā. Te dvāsaṭṭhiyā diṭṭhigatānaṃ aññataraññataraṃ diṭṭhigataṃ gahetvā uggahetvā gaṇhitvā parāmasitvā abhinivisitvā sakāya sakāya diṭṭhiyā vasanti saṃvasanti āvasanti parivasanti. Yathā agārikā vā gharesu vasanti, sāpattikā vā āpattīsu vasanti, sakilesā vā kilesesu vasanti, evamevaṃ santeke –pe– parivasantī ’ti – ye kecime diṭṭhi paribbasānā.
Bất cứ những người nào, trong khi sống theo quan điểm (riêng của cá nhân) – Bất cứ những người nào: tất cả theo mọi hình thức, tất cả ở mọi nơi, một cách trọn vẹn, không còn dư sót, cụm từ ‘ye keci’ này là lối nói của sự bao gồm. Trong khi sống theo quan điểm (riêng của cá nhân): Có một số Sa-môn và Bà-la-môn là những người theo tà kiến. Các vị ấy chấp nhận, tiếp thu, nắm lấy, bám víu, cố chấp tà kiến này khác trong số 62 tà kiến, rồi sống, cộng trú, thường trú, cư trú theo tà kiến của riêng mình. Giống như những người tại gia sống trong các ngôi nhà, những người có tội lỗi sống trong các tội lỗi, những người có ô nhiễm sống trong các ô nhiễm, tương tợ y như thế, có một số –nt– cư trú theo tà kiến của riêng mình; – ‘bất cứ những người nào, trong khi sống theo quan điểm (riêng của cá nhân)’ là như thế.
Idameva saccanti ca vādayantī ’ti – ‘Sassato loko, idameva saccaṃ moghamaññan ’ti vadanti kathenti bhaṇanti dīpayanti voharanti. ‘Asassato loko –pe– Neva hoti na na hoti tathāgato parammaraṇā, idameva saccaṃ moghamaññan ’ti vadanti kathenti bhaṇanti dīpayanti voharantī ’ti – idameva saccanti ca vādayanti.
Tranh cãi rằng: ‘Chỉ điều này là chân lý’ – Họ nói, thuyết giảng, phát ngôn, diễn giải, diễn tả rằng: ‘Thế giới là thường còn; chỉ điều này là chân lý, điều khác là rồ dại.’ Họ nói, thuyết giảng, phát ngôn, diễn giải, diễn tả rằng: ‘Thế giới là không thường còn, —nt— Đức Như Lai không hiện hữu và không phải là không hiện hữu ở nơi khác sau khi chết; chỉ điều này là chân lý, điều khác là rồ dại;’ – ‘tranh cãi rằng: ‘Chỉ điều này là chân lý’ là như thế.
Sabbeva te nindamanvānayantī ’ti – Sabbeva te samaṇabrāhmaṇā nindameva anventi, garahameva anventi, akittimeva anventi, sabbe ninditā yeva honti, garahitā yeva honti, akittitā yeva hontī ’ti – sabbeva te nindamanvānayanti.
Có phải tất cả những người ấy đều mang lại sự chê bai – Có phải tất cả các Sa-môn và Bà-la-môn ấy đều đi đến sự chê bai, đều đi đến sự chê trách, đều đi đến sự không có tiếng tăm; có phải tất cả đều bị chê bai, tất cả đều bị chê trách, tất cả đều không được nổi tiếng– ‘có phải tất cả những người ấy đều mang lại sự chê bai’ là như thế.
Atho pasaṃsampi labhanti tatthā ’ti – Tattha sakāya diṭṭhiyā sakāya khantiyā sakāya ruciyā sakāya laddhiyā pasaṃsaṃ thomanaṃ kittiṃ vaṇṇahārikaṃ labhanti paṭilabhanti upagacchanti vindantī ’ti – atho pasaṃsampi labhanti tattha.
Hay họ cũng đạt được sự khen ngợi về việc ấy? – Về việc ấy, do quan điểm của mình, do sự chấp nhận của mình, do sự ưa thích của mình, do quan niệm của mình, họ đạt được, họ tiếp nhận, họ đạt đến, họ kiếm được sự ca ngợi, sự khen ngợi, sự tán dương, sự ca tụng; – ‘hay họ cũng đạt được sự khen ngợi về việc ấy?’ là như thế.
Tenāha so nimmito: “Ye kecime diṭṭhiparibbasānā idameva saccanti ca vādayanti, sabbeva te nindamanvānayanti
atho pasaṃsampi labhanti tatthā ”ti.
Vì thế, vị (Phật) do thần thông biến hóa ra đã hỏi rằng:
“Bất cứ những người nào, trong khi sống theo quan điểm (riêng của cá nhân), tranh cãi rằng: ‘Chỉ điều này là chân lý,’ có phải tất cả những người ấy đều mang lại sự chê bai, hay họ cũng đạt được sự khen ngợi về việc ấy?”
13.2
Appañhi etaṃ na alaṃ samāya duve vivādassa phalāni brūmi, etampi disvā na vivādayetha khemābhipassaṃ avivādabhūmiṃ.
Bởi vì việc (ca ngợi) này là ít ỏi, không đủ để đưa đến sự yên lặng. Ta nói đến hai kết quả của sự tranh cãi. Và sau khi nhìn thấy như vậy, thì không nên tạo ra sự tranh cãi, trong khi nhận thấy vùng đất không tranh cãi là an toàn (Niết Bàn).
Thế Tôn:
Ðây chỉ là nhỏ bé,
Không đủ đem an tịnh,
Ta nói về hai quả
Của các loại đấu tranh.
Sau khi thấy như vậy,
Chớ có nên tranh luận,
Nên thấy rằng an ổn,
Không phải đất tranh luận.
(Kinh Tập, câu kệ 896)
Appañhi etaṃ na alaṃ samāyā ’ti – Appañhi etan ’ti appakaṃ etaṃ, omakaṃ etaṃ, thokaṃ etaṃ, lāmakaṃ etaṃ, chattakaṃ etaṃ, parittakaṃ etan ’ti – appañhi etaṃ. Na alaṃ samāyā ’ti nālaṃ rāgassa samāya dosassa samāya mohassa samāya kodhassa upanāhassa makkhassa paḷāsassa issāya macchariyassa māyāya sāṭheyyassa thambhassa sārambhassa mānassa atimānassa madassa pamādassa sabbakilesānaṃ sabbaduccaritānaṃ [sabbadarathānaṃ] sabbapariḷāhānaṃ sabbasantāpānaṃ sabbākusalābhisaṅkhārānaṃ samāya upasamāya vūpasamāya nibbānāya paṭinissaggāya paṭippassaddhiyā ’ti – appañhi etaṃ na alaṃ samāya.
Duve vivādassa phalāni brūmī ’ti – Diṭṭhikalahassa diṭṭhibhaṇḍanassa diṭṭhiviggahassa diṭṭhivivādassa diṭṭhimedhagassa dve phalāni honti: Jayaparājayo hoti, lābhālābho hoti, yasāyaso hoti, nindāpasaṃsā hoti, sukhadukkhaṃ hoti, somanassadomanassaṃ hoti, iṭṭhāniṭṭhaṃ hoti, anunayapaṭighaṃ hoti, ugghātinigghāti hoti, anurodhavirodho hoti. Athavā taṃ kammaṃ nirayasaṃvattanikaṃ tiracchānayoni saṃvattanikaṃ pettivisaya saṃvattanikanti brūmi ācikkhāmi desemi paññapemi paṭṭhapemi vivarāmi vibhajāmi uttānīkaromi pakāsemī ’ti – duve vivādassa phalāni brūmi.
Etampi disvā na vivādayethā ’ti – Etampi disvā ’ti etaṃ ādīnavaṃ disvā passitvā tulayitvā tīrayitvā vibhāvayitvā vibhūtaṃ katvā diṭṭhikalahesu diṭṭhibhaṇḍanesu diṭṭhiviggahesu diṭṭhivivādesu diṭṭhimedhagesū ’ti – etampi disvā.
Na vivādayethā ’ti na kalahaṃ kareyya, na bhaṇḍanaṃ kareyya, na viggahaṃ kareyya, na vivādaṃ kareyya, na medhagaṃ kareyya, kalahaṃ bhaṇḍanaṃ viggahaṃ vivādaṃ medhagaṃ pajaheyya vinodeyya byantīkareyya anabhāvaṃ gameyya, kalahā bhaṇḍanā viggahā vivādā medhagā ārato assa, virato paṭivirato nikkhanto nissaṭo vippamutto visaṃyutto vimariyādīkatena cetasā vihareyyā ’ti – etampi disvā na vivādayetha.
Khemābhipassaṃ avivādabhūmin ’ti – Avivādabhūmiṃ vuccati amataṃ nibbānaṃ, yo so sabbasaṅkhārasamatho sabbūpadhipaṭinissaggo taṇhakkhayo virāgo nirodho nibbānaṃ. Etaṃ avivādabhūmiṃ khemato tāṇato lenato saraṇato abhayato accutato amatato nibbānato passanto dakkhanto olokento nijjhāyanto upaparikkhanto ’ti – khemābhipassaṃ avivādabhūmiṃ.
Bởi vì việc [ca ngợi] này là ít ỏi, không đủ để đưa đến sự yên lặng.
Bỏi vì việc [ca ngợi] này la ít ỏi: Việc này là ít ỏi, việc này là thấp kém, việc này là chút ít, việc này là thấp thỏi, việc này là tồi tệ, việc này là nhỏ nhoi. “Bởi vì việc [ca ngợi] này là ít ỏr là như thế.
Không đủ để đưa đến sự yên lặng: Là không đủ để đưa đến sự yên lặng của luyến ái, để đưa đến sự yên lặng của sân hận, để đưa đến sự yên lặng của si mê, để đưa đến sự yên lặng, sự an tịnh, sự vắng lặng, sự tịch diệt, sự buông bỏ, sự tịch tịnh của giận dữ, của thù hằn, của gièm pha, của ác ý? của ganh tỵ, của bon xẻn, của xảo trá, của lừa gạt, của bướng bỉnh, của hung hăng, của ngã mạn, của cao ngạo, của đam mê? của xao lãng, của tất cả ô nhiễm, của tất cả uế hạnh, của mọi sự lo lắng, của mọi sự bực bội, của mọi sự nóng nảy, của tất cả các pháp tạo tác bất thiện.
“Bởi vì việc [ca ngợi] này là ít ỏi, không đủ để đưa đến sự yên lặng” là như thế.
Ta nói đến hai kết quả của sự tranh cãi: Ta nói, Ta nêu ra, Ta chỉ bảo, Ta thông báo, Ta ấn định, Ta khai mở, Ta chia sẻ, Ta làm rõ, Ta bày tỏ rằng: “Đối với sự cãi cọ về quan điểm, đối với sự cãi lộn về quan điểm, đối với sự cãi vã về quan diêm, đoi vơi sự tranh cãi ve quan diêm, đoi vơi sự gay go ve quan diêm, có hai kết quả: Là chiến thắng và thất bại, là lợi lộc và không lợi lộc, là danh vọng và không danh vọng, là chê bai và ca ngợi, là hạnh phúc và khô đau, là hỷ tâm và ưu tâm, là ưa thích và không ưa thích, là ưa chuộng và bát binh, là hưng phấn và chán nản, là chiều chuộng và chống đối. Hoặc là, việc làm ấy dẫn đến địa ngục, dẫn đến loài thú, dẫn đến thân phận nga quy.”
“Ta nói đến hai kết quả của sự tranh câd” là như thế.
Và sau khi nhìn thấy như vậy thì không nên tạo ra sự tranh cãi.
Và sau khi nhìn thấy như vậy: Sau khi nhìn thấy, sau khi nhìn xem, sau khi cân nhắc, sau khi xác định, sau khi minh định, sau khi làm rõ rệt sự bất lợi này ở các sự cãi cọ vê quan diêm, ở các sự cãi lộn vê quan diêm, ở các sự cãi vã vê quan diêm, ở các sự tranh cãi vê quan diêm, ở các sự gây gô vê quan diêm. “Va sau khi nhìn thấy như v时 là như thế.
Thì không nên tạo ra sự tranh cãi: Là không nên tạo ra sự cãi cọ, không nên tạo ra sự cãi lộn, không nên tạo ra sự cãi vã, không nên tạo ra sự tranh cãi, không nên tạo ra sự gây go; nên dứt bỏ, nên xua di, nên làm cham dứt, nên làm cho không còn hiện hữu sự cãi cọ, sự cãi lộn, sự cãi vã, sự tranh cãi, sự gây gổ; nên tránh khỏi, xa lánh, tránh xa, đi ra ngoài, rời ra, thoát khỏi, không bị ràng buộc với sự cãi cọ, với sự cãi lộn, với sự cãi vã, với sự tranh cãi, với sự gây gổ; nên sống với tâm đã được làm trở thành không còn giới hạn.
“Và sau khi nhìn thấy như vậy thì không nên tạo ra sự tranh cãi,, là như thế.
Trong khỉ nhận thấy vùnẹ đất không tranh cãi là an toàn [Niết-ban]: Vùng đất không tranh cãi nói đen bất tử, Niết-bàn5 tức là sự yên lặng của tất cả các pháp tạo tác, sự buông bỏ tất cả các mầm tái sanh, sự diệt trừ tham ái, sự lìa khỏi luyến ái, sự diệt tận, Niết-bàn. Trong khi nhìn thấy, trong khi nhận thấy, trong khi quan sát, trong khi suy xét, trong khi khảo sát vùng đất không tranh cãi này là an toàn, là nơi nương tựa, là nơi trú ẩn, là nơi nương nhờ, là nơi không sợ hãi, là bất hoại, là bất tử, la Niết-bàn.
“Trong khi nhận thấy vùng đất không tranh cãi là an toàn [Niết-ban]” là như thế.
Tenāha bhagavā: “Appañhi etaṃ na alaṃ samāya duve vivādassa phalāni brūmi, etampi disvā na vivādayetha khemābhipassaṃ avivādabhūmin ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Bởi vì việc (ca ngợi) này là ít ỏi, không đủ để đưa đến sự yên lặng. Ta nói đến hai kết quả của sự tranh cãi. Và sau khi nhìn thấy như vậy, thì không nên tạo ra sự tranh cãi, trong khi nhận thấy vùng đất không tranh cãi là an toàn (Niết Bàn).”
13.3
Yā kācimā sammutiyo puthujjā sabbāva etā na upeti vidvā, anupayo so upayaṃ kimeyya diṭṭhe sute khantimakubbamāno.
Bất cứ những thỏa thuận chung nào được sanh lên từ số đông, bậc đã hiểu biết không tiếp cận tất cả những điều ấy. Trong khi không thể hiện sự chấp nhận ở điều đã được thấy, ở điều đã được nghe, vị ấy, không có sự vướng bận, tại sao lại đi đến với sự vướng bận?Phàm những thế tục này,
Ðược sanh giữa phàm phu,
Bậc trí không dựa vào,
Tất cả thế tục này,
Ðã không có quan tâm,
Sao nay tìm quan tâm,
Sao có thể kham nhẫn,
Với vật được thấy nghe.
(Kinh Tập, câu kệ 897)
Yā kācimā sammutiyo puthujjā ’ti – Yā kācī ’ti sabbena sabbaṃ sabbathā sabbaṃ asesaṃ nissesaṃ pariyādiyanavacanametaṃ yā kācī ’ti. Sammutiyo ’ti sammutiyo vuccanti dvāsaṭṭhi diṭṭhigatāni diṭṭhisammutiyo. Puthujjā ’ti puthujjanehi janitā sammutiyoti puthujjā; puthu nānājanehi janitā vā sammutiyoti puthujjā ’ti – yā kācimā sammutiyo puthujjā.
Sabbāva etā na upeti vidvā ’ti – Vidvā vijjāgato ñāṇī vibhāvī medhāvī; sabbāva etā diṭṭhisammutiyo n’ eti, na upeti, na upagacchati, na gaṇhāti, na parāmasati, nābhinivisatī ’ti – sabbāva etā na upeti vidvā.
Anupayo so upayaṃ kimeyyā ’ti – Upayo ’ti dve upayā: taṇhūpayo ca diṭṭhūpayo ca. –pe– ayaṃ taṇhūpayo –pe– ayaṃ diṭṭhūpayo. Tassa taṇhūpayo pahīno, diṭṭhūpayo paṭinissaṭṭho; taṇhūpayassa pahīnattā diṭṭhūpayassa paṭinissaṭṭhattā, anupayo puggalo kiṃ rūpaṃ upeyya upagaccheyya gaṇheyya parāmaseyya abhiniveseyya ‘attā me ’ti, kiṃ vedanaṃ – kiṃ saññaṃ – kiṃ saṅkhāre – kiṃ viññāṇaṃ – kiṃ gatiṃ – kiṃ uppattiṃ – kiṃ paṭisandhiṃ – kiṃ bhavaṃ – kiṃ saṃsāraṃ kiṃ vaṭṭaṃ upeyya upagaccheyya gaṇheyya parāmaseyya abhiniveseyyā ’ti – anupayo so upayaṃ kimeyya.
Diṭṭhe sute khantimakubbamāno ’ti – Diṭṭhe vā diṭṭhasuddhiyā vā, sute vā sutasuddhiyā vā, mute vā mutasuddhiyā vā, khantiṃ akubbamāno, chandaṃ akubbamāno, pemaṃ akubbamāno, rāgaṃ akubbamāno, ajanayamāno asañjanayamāno anibbattayamāno anabhinibbattayamāno ’ti – diṭṭhe sute khantimakubbamāno.
Bất cứ những quy ước nào được sanh ra từ số đông.
Bất cứ những [quy ước] nào: Là tất cả theo tổng thể, tất cả trong mọi trường hợp, một cách trọn vẹn, không còn dư sót, cụm từ “yā kãcT’ này là lối nói của sự bao gồm.
Những quy ước: Những quy ước nói đên sáu mươi hai tà kiên là những quy ước về quan điểm.
Được sanh ra từ số đông: “Các quy ước được tạo ra bởi các phàm nhân.^, “Được sanh ra bởi số đông,5 là như thế, hoặc ucác quy ước được tạo ra bởi số đông gồm nhiều người khác nhau.” “Được sanh ra bởi số d6ng” là như thế.
“Bất cứ những quy ước nào được sanh ra từ số d6ng” là như thế.
Bậc đã hiểu biết không tiếp cận tất cả những điều ấy: Bậc đã hiểu biết, người đã đạt đến kiến thức, có trí, có sự rành rẽ, có sự thông minh không đi đến, không tiếp cận, không đi đến gần, không nắm lấy, không bám víu, không chấp chặt toàn bộ tất cả những quy ước ve quan điểm ấy.
“Bậc đã hiểu biết không tiếp cận tất cả những điều ấy” là như thế.
Vi ấy không có sự vướng bận, tại sao lại đi đến với sự vướng bận?
Sự vướng bận: Có hai sự vướng bận: Sự vướng bận do tham ái và sự vướng bận do tà kiến. … (nt)… điều này là sự vướng bận do tham ái. … (nt)… điều này là sự vướng bận do tà kiến. Đôi với vi ấy, sự vướng bận do tham ái đã được dứt bỏ, sự vướng bận do tà kiến đã được buông bỏ. Do trạng thái đã được dứt bỏ đối với sự vướng bận do tham ái, do trạng thái đã được buông bỏ đối với sự vướnẹ bận do ta kiến, là người không có sự vướng bận; vị ấy có thể tiếp cận, đi đến gan, nắm lấy, bám víu, chấp chặt vào sắc gì, [nghĩ rằng]: “Tụ* ngã của ta” có thể tiếp cận, đi đến gần, nắm lấy, bám víu, chấp chặt vào thọ gì,… tưởng gi, … các hành gì, … thức gì, … cảnh giới tái sanh gì, … sự tái sanh gì? … sự nối liền tái sanh gì, … sự hiện hữu gì5 ..・ sự luân hồi gi,・.・ sự luân chuyển gì?
Vị ấy, không có sự vướng bận, tại sao lại đi đến với sự vướng ban?” là như thế.
Trong khi không thể hiện sự chấp nhân ờ điều đã được thấy, ờ điều đã được nghe: Trong khi không tạo nên sự châp nhận, trong khi không tạo nên sự mong muốn, trong khi không tạo nên sự yêu thương, trong khi không tạo nên sự luyến ái ở điều đã được thấy hoặc ở sự trong sạch do điều đã được thấy, ở điều đã được nghe hoặc ở sự trong sạch do điều đã được nghe, trong khi không làm sanh ra, trong khi không làm sanh khởi, trong khi không làm hạ sanh, trong khi không làm phát sanh.
“Trong khi không thể hiện sự chấp nhận ở điều đã được thấy, ở điều đã được nghe” là như thế.
Tenāha bhagavā “Yā kācimā sammutiyo puthujjā sabbāva etā na upeti vidvā, anupayo so upayaṃ kimeyya diṭṭhe sute khantimakubbamāno ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Bất cứ những thỏa thuận chung nào được sanh lên từ số đông, bậc đã hiểu biết không tiếp cận tất cả những điều ấy. Trong khi không thể hiện sự chấp nhận ở điều đã được thấy, ở điều đã được nghe, vị ấy, không có sự vướng bận, tại sao lại đi đến với sự vướng bận?”
13.4
Sīluttamā saññamenāhu suddhiṃ vataṃ samādāya upaṭṭhitā se, idheva sikkhema athassa suddhiṃ bhavūpanītā kusalāvadānā.
Những kẻ chủ trương giới là tối thượng đã nói sự trong sạch là do sự tự chế ngự. Sau khi thọ trì phận sự, họ duy trì (nghĩ rằng): ‘Chúng ta hãy học tập ở lãnh vực này thôi, rồi sẽ có sự trong sạch;’ họ bị dẫn đến hữu trong khi tuyên bố (mình) là thiện xảo.Bậc xem giới tối thượng,
Nói tịnh nhờ chế ngự,
Chấp thủ giới cấm xong,
Họ an trú như vậy.
Ở đây họ tu tập,
Do đây được thanh tịnh,
Họ chỉ khéo nói năng,
Họ bị hữu dắt dẫn.
(Kinh Tập, câu kệ 898)
Sīluttamā saññamenāhu suddhin ’ti – Santeke samaṇabrāhmaṇā sīluttamavādā. Te sīlamattena saññamamattena saṃvaramattena avītikkamamattena suddhiṃ visuddhiṃ parisuddhiṃ muttiṃ vimuttiṃ parimuttiṃ āhaṃsu vadanti kathenti bhaṇanti dīpayanti voharanti. Samaṇamaṇḍikāputto evamāha: “Catuhi kho ahaṃ thapati dhammehi samannāgataṃ purisapuggalaṃ paññapemi sampannakusalaṃ paramakusalaṃ uttamapattipattaṃ samaṇaṃ ayojjhaṃ. Katamehi catuhi?
Idha thapati na kāyena pāpakaṃ kammaṃ karoti, na pāpakaṃ vācaṃ bhāsati, na pāpakaṃ saṅkappaṃ saṅkappeti, na pāpakaṃ ājīvaṃ ājīvati. Imehi kho ahaṃ thapati1 catuhi dhammehi samannāgataṃ purisapuggalaṃ paññapemi sampannakusalaṃ paramakusalaṃ uttamapattipattaṃ samaṇaṃ ayojjhan”ti. Evamevaṃ santeke samaṇabrāhmaṇā sīluttamavādā. Te sīlamattena saññamamattena saṃvaramattena avītikkamamattena suddhiṃ visuddhi parisuddhiṃ muttiṃ vimuttiṃ parimuttiṃ āhaṃsu vadanti kathenti bhaṇanti dīpayanti voharantī ’ti – sīluttamā saññamenāhu suddhiṃ.
Vataṃ samādāya upaṭṭhitā se ’ti – Vatan ’ti hatthivataṃ vā assavataṃ vā govataṃ vā kukkuravataṃ vā kākavataṃ vā vāsudevavataṃ vā baladevavataṃ vā puṇṇabhaddavataṃ vā maṇibhaddavataṃ vā aggivataṃ vā nāgavataṃ vā supaṇṇavataṃ vā yakkhavataṃ vā asuravataṃ vā gandhabbavataṃ vā mahārājavataṃ vā candavataṃ vā suriyavataṃ vā indavataṃ vā brahmavataṃ vā devavataṃ vā disāvataṃ vā ādāya samādāya ādiyitvā samādiyitvā gaṇhitvā parāmasitvā abhinivisitvā upaṭṭhitā paccupaṭṭhitā allīnā upagatā ajjhositā adhimuttā ’ti – vataṃ samādāya upaṭṭhitā se.
Idheva sikkhema athassa suddhin ’ti – Idhā ’ti sakāya diṭṭhiyā sakāya khantiyā sakāya ruciyā sakāya laddhiyā. Sikkhemā ’ti sikkhema ācarema samācarema samādāya vattemā ’ti – idheva sikkhema. Athassa suddhin ’ti athassa suddhiṃ visuddhiṃ parisuddhiṃ muttiṃ vimuttiṃ parimuttin ’ti – idheva sikkhema athassa suddhiṃ.
Bhavūpanītā kusalāvadānā ’ti – Bhavūpanītā ’ti bhavūpanītā bhavūpagatā bhavajjhositā bhavādhimuttā ’ti – bhavūpanītā. Kusalāvadānā ’ti kusalavādā paṇḍitavādā thiravādā ñāyavādā hetuvādā lakkhaṇavādā kāraṇavādā ṭhānavādā sakāya laddhiyā ’ti – bhavūpanītā kusalāvadānā.
Những kẻ chủ trương giới ỉa tối thượng đã nói sự trong sạch là do sự tự chế ngự: Có một số Sa-môn và Bà-la-môn có học thuyết cho rằng giới là tối thượng. Các vị ấy đã nói, phát biểu, thuyết giảng, phát ngôn, giảng giải, diễn tả sự trong sạch, sự thanh tịnh, sự hoàn toàn trong sạch, sự thoát khỏi, sự giải thoát, sự hoàn toàn thoát khỏi là chỉ do giới, chỉ do sự thu thúc, chỉ do sự phòng hộ, chỉ do sự không vi phạm. Người con trai của Samanamundikā đã nói như vầy: “Này ông thợ mộc, ta tuyên bố rằng một người nam được thành tựu bốn pháp là người có thiện pháp đầy đủ, có thiện pháp tối thắng, là vi Sa-môn đã đạt được sự chứng đạt tối thượng, không bi đánh bại. Với bốn pháp nào?
Này ông thợ mộc, ở đây là không làm việc ác bằng thân, không nói lời nói ác, không tư duy ý nghĩ ác, không nuôi mạng theo lối nuôi mạng ác xấu. Này Ông thợ mộc, ta tuyên bô răng một người nam được thành tựu bôn pháp này là người có thiện pháp đây đủ, có thiện pháp tôi thăng, là vị Sa-môn đã đạt được sự chứng đạt tối thượng, không bị đánh bại.” Tương tự như vậy5 có một số Sa-môn và Bà-la-môn có học thuyết cho rằng giới là tối thượng. Các vị ấy đã nói, phát biểu, thuyết giảng, phát ngôn, giảng giải, diễn tả sự trong sạch, sự thanh tinh, sự hoàn toàn trong sạch, sự thoát khỏi, sự giải thoát, sự hoàn toàn thoát khỏi là chỉ do giới, chỉ do sự thu thúc, chỉ do sự phòng hộ, chỉ do sự không vi phạm.
“Những kẻ chủ trương giới là tối thượng đã nói sự trong sạch là do sự tự chếngự^lanhưthế.
Sau khi thọ trì phận sự, họ duy trì.
Phận sự: Sau khi nhận lấy, sau khi thọ trì, sau khi nhận lấy cho mình, sau khi thọ trì cho minh, sau khi nắm lấy, sau khi bám víu, sau khi chấp chặt hạnh loài voi, hoặc hạnh loài ngựa, hoặc hạnh loài bò, hoặc hạnh loài chó, hoặc hạnh loài quạ, hoặc hạnh thần tài, hoặc hạnh thần sức mạnh, hoặc hạnh thần Punnabhaddā, hoặc hạnh thần Manibhaddā, hoặc hạnh của lửa, hoặc hạnh loài rồng, hoặc hạnh linh điểu, hoặc hạnh dạ-xoa, hoặc hạnh a-tu-la, hoặc hạnh càn- thát-bà, hoặc hạnh đại vương, hoặc hạnh mặt trăng, hoặc hạnh mặt trời, hoặc hạnh Thiên vương, hoặc hạnh Phạm thiên, hoặc hạnh thiên nhân, hoặc hạnh [lễ bái theo] phương hướng, họ đã duy trì, đã thiết lập, đã bám vào, đã đến gần, đã bám chặt, đã hướng đen.
“Sau khi thọ trì phận sự, họ duy tri” là như thế.
Chúng ta hãy học tập ờ lãnh vực này thôi, rồi sẽ có sự trong sạch.
ở lãnh vực này: ở quan điểm của mình, ở sự chấp nhận của mình, ở sự ưa thích của mình, ở quan niệm của mình.
Chúng ta hãy học tập: Chúng ta hãy học tập, hãy hành xử, hãy hành theo, hãy thọ trì và vận dụng. “Chúng ta hãy học tập ở lãnh vực này th6i” là như thế.
Rồi sẽ có sự trong sạch: Rồi sẽ có sự trong sạch, sự thanh tịnh, sự hoàn toàn trong sạch, sự thoát khỏi, sự giải thoát, sự hoàn toàn thoát khỏi.
“Chúng ta hãy học tập ở lãnh vực này thôi, roi sẽ có sự trong sạch” là như thê.
Họ bi dẫn dắt đến hữu trong khi tuyên bố [mình] là thiện xảo.
Họ bị dẫn dắt đến hữu: Họ bị dẫn dắt đến hữu là họ đến gần hữu, bám chặt hữu, hương đến hữu. “Hẹ)bị dẩn dắt đến hữu” là như thế.
Trong khi tuyên bố [mình] là thiện xảo: Là có học thuyết thiện xảo, có học thuyêt sáng suôt, có học thuyêt vững chác, có học thuyết đúng đắn, có học thuyết thực tiễn, có học thuyết rõ rệt, có học thuyết gương mẫu, có học thuyết giá trị dựa theo quan niệm của mình.
“Hq bi dẫn dắt đến hữu trong khi tuyên bố [mình] là thiện x务o” là như thế.
Tenāha bhagavā: “Sīluttamā saññamenāhu suddhiṃ vataṃ samādāya upaṭṭhitā se, idheva sikkhema athassa suddhiṃ bhavūpanītā kusalāvadānā ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Những kẻ chủ trương giới là tối thượng đã nói sự trong sạch là do sự tự chế ngự. Sau khi thọ trì phận sự, họ duy trì (nghĩ rằng): ‘Chúng ta hãy học tập ở lãnh vực này thôi, rồi sẽ có sự trong sạch;’ họ bị dẫn đến hữu trong khi tuyên bố (mình) là thiện xảo.”
13.5
Sace cuto sīlabbatato hoti sa vedhatī kammaṃ virādhayitvā, sa jappatī patthayaticca suddhiṃ satthā va hīno pavasaṃ gharamhā.
Nếu đã lìa khỏi giới và phận sự, kẻ ấy run rẩy sau khi thất bại về hành động, kẻ ấy tham muốn và ước nguyện sự trong sạch, ví như người bị thất lạc với đoàn lữ hành trong khi sống xa nhà.
Nếu có ai vi phạm,
Giới hạnh và giới cấm,
Người ấy sẽ run sợ,
Vì sở hành khiếm khuyết.
Ở đây người ấy than,
Cố gắng được thanh tịnh,
Như lữ hành lạc đoàn,
Như kẻ bỏ gia đình.
(Kinh Tập, câu kệ 899)
Sace cuto sīlabbatato hotī ’ti – Dvīhi kāraṇehi sīlabbatato cavati: paravicchindanāya vā cavati, anabhisambhuṇanto vā cati. Kathaṃ paravicchindanāya1 cavati? Paro vicchindati: ‘So satthā na sabbaññū, dhammo na svākkhāto, gaṇo na supaṭippanno, diṭṭhi na bhaddikā, paṭipadā na suppaññattā, maggo na niyyāniko, natthettha suddhi vā visuddhi vā parisuddhi vā mutti vā vimutti vā parimutti vā, natthettha sujjhanti vā visujjhanti vā parisujjhanti vā, muccanti vā vimuccanti vā parimuccanti vā, hīnā nihīnā omakā lāmakā chattakā parittāti; evaṃ paro vicchindati. Evaṃ vicchindiyamāno satthārā cavati, dhammakkhānā cavati, gaṇā cavati, diṭṭhiyā cavati, paṭipadāya cavati, maggato cavati; evaṃ paravicchindanāya cavati. Kathaṃ anabhisambhuṇanto cavati? Sīlaṃ anabhisambhūṇanto sīlato cavati, vataṃ anabhisambhūṇanto vatato cavati, sīlabbataṃ anabhisambhuṇanto sīlabbatato cavati; evaṃ anabhisambhūṇanto cavatī ’ti – sace cuto sīlabbatato hoti.
Nếu đã lìa khỏi giới và phận sự – Lìa khỏi giới và phận sự bởi hai lý do: lìa khỏi do sự can ngăn của người khác, hoặc là trong khi không thành tựu rồi lìa khỏi. Lìa khỏi do sự can ngăn của người khác là thế nào? Người khác can ngăn rằng: ‘Vị đạo sư ấy không là đấng toàn tri, pháp không khéo được thuyết giảng, tập thể không khéo được huấn luyện, quan điểm không tốt lành, lối thực hành không khéo được quy định, đạo lộ không dẫn dắt ra khỏi; ở đây không có sự trong sạch, hay sự thanh tịnh, hay sự hoàn toàn trong sạch, hay sự thoát khỏi, hay sự giải thoát, hay sự hoàn toàn thoát khỏi; ở đây không có những người được trong sạch, hay được thanh tịnh, hay được hoàn toàn trong sạch, hay được thoát khỏi, hay được giải thoát, hay được hoàn toàn thoát khỏi; họ thấp hèn, hèn kém, hèn mọn, thấp kém, thấp thỏi, tồi tệ, nhỏ nhoi; người khác can ngăn là như vậy. Trong khi bị can ngăn như vậy rồi lìa khỏi vị đạo sư, lìa khỏi giáo lý, lìa khỏi tập thể, lìa khỏi quan điểm, lìa khỏi lối thực hành, lìa khỏi đạo lộ; – lìa khỏi do sự can ngăn của người khác là như vậy. Trong khi không thành tựu rồi lìa khỏi là thế nào? Trong khi không thành tựu giới rồi lìa khỏi giới, trong khi không thành tựu phận sự rồi lìa khỏi phận sự, trong khi không thành tựu giới và phận sự rồi lìa khỏi giới và phận sự; trong khi không thành tựu rồi lìa khỏi là như vậy; – ‘nếu đã lìa khỏi giới và phận sự’ là như thế.
Sa vedhati kammaṃ virādhayitvā ’ti – Sa vedhatī ’ti sīlaṃ vā vataṃ vā sīlabbataṃ vā viraddhaṃ mayā, aparaddhaṃ mayā, khalitaṃ mayā, galitaṃ mayā, aññāya aparaddho ahan ’ti vedhati pavedhati sampavedhatī ’ti – sa vedhati.
Kammaṃ virādhayitvā ’ti puññābhisaṅkhāraṃ vā apuññābhisaṅkhāraṃ vā āneñjābhisaṅkhāraṃ vā viraddhaṃ mayā, aparaddhaṃ mayā, khalitaṃ mayā, galitaṃ mayā, aññāya aparaddho ahan ’ti vedhati pavedhati sampavedhatī ’ti – sa vedhati kammaṃ virādhayitvā.
Kẻ ấy run rẩy sau khi thất bại về hành động – Kẻ ấy run rẩy: ‘Ta bị mất mát, ta bị thất bại, ta bị lầm lỡ, ta bị rơi khỏi giới, hoặc phận sự, hay giới và phận sự; ta bị thất bại do không hiểu biết,’ (nghĩ vậy) kẻ ấy run rẩy, run bắn lên, rúng động; – ‘kẻ ấy run rẩy’ là như thế.
Sau khi thất bại về hành động: ‘Ta bị mất mát, ta bị thất bại, ta bị lầm lỡ, ta bị rơi khỏi phúc hành, hoặc phi phúc hành, hoặc bất động hành; ta bị thất bại do không hiểu biết,’ (nghĩ vậy) kẻ ấy run rẩy, run bắn lên, rúng động; – ‘kẻ ấy run rẩy sau khi thất bại về hành động’ là như thế.
Sa jappati patthayaticca suddhin ’ti – Sa jappatī ’ti sīlaṃ vā jappati, vataṃ vā jappati, sīlabbataṃ vā jappati pajappati abhijappatī ’ti – sa jappati.
Patthayaticca suddhin ’ti sīlasuddhiṃ vā pattheti, vatasuddhiṃ vā pattheti, sīlabbatasuddhiṃ vā pattheti piheti abhijappatī ’ti – sa jappati patthayaticca suddhiṃ.
Kẻ ấy tham muốn và ước nguyện sự trong sạch – Kẻ ấy tham muốn: là tham muốn giới, hoặc tham muốn phận sự, hoặc tham muốn, khởi tham muốn, tham đắm giới và phận sự; – ‘kẻ ấy tham muốn’ là như thế.
Và ước nguyện sự trong sạch: là ước nguyện sự trong sạch về giới, hoặc ước nguyện sự trong sạch về phận sự, hoặc ước nguyện, mong cầu, tham đắm sự trong sạch về giới và phận sự; – ‘kẻ ấy tham muốn và ước nguyện sự trong sạch’ là như thế.
Satthā va hīno pavasaṃ gharamhā ’ti – Yathā puriso gharato nikkhanto satthena saha vasanto satthā ohīno taṃ vā satthaṃ anubandhati, sakaṃ vā gharaṃ paccāgacchati, evameva so diṭṭhigatiko taṃ vā satthāraṃ gaṇhāti, aññaṃ vā satthāraṃ gaṇhāti, taṃ vā dhammakkhānaṃ gaṇhāti, aññaṃ vā dhammakkhānaṃ gaṇhāti, taṃ vā gaṇaṃ gaṇhāti, aññaṃ vā gaṇaṃ gaṇhāti, taṃ vā diṭṭhiṃ gaṇhāti, aññaṃ vā diṭṭhiṃ gaṇhāti, taṃ vā paṭipadaṃ gaṇhāti, aññaṃ vā paṭipadaṃ gaṇhāti, taṃ vā maggaṃ gaṇhāti, aññaṃ vā maggaṃ gaṇhāti parāmasati abhinivisatī ’ti – satthā va hīno pavasaṃ gharamhā.
Ví như người bị thất lạc với đoàn lữ hành trong khi sống xa nhà – Giống như người nam, trong lúc rời khỏi nhà sống cùng đoàn lữ hành và bị rớt lại phía sau đoàn lữ hành, thì: hoặc là đuổi theo đoàn lữ hành ấy, hoặc là trở về lại nhà của mình; tương tự y như thế, kẻ theo tà kiến ấy nắm lấy vị đạo sư ấy hoặc là nắm lấy vị đạo sư khác, nắm lấy giáo lý ấy hoặc là nắm lấy giáo lý khác, nắm lấy tập thể ấy hoặc là nắm lấy tập thể khác, nắm lấy quan điểm ấy hoặc là nắm lấy quan điểm khác, nắm lấy lối thực hành ấy hoặc là nắm lấy lối thực hành khác, nắm lấy đạo lộ ấy hoặc là nắm lấy, bám víu, cố chấp đạo lộ khác; – ‘ví như người bị thất lạc với đoàn lữ hành trong khi sống xa nhà’ là như thế.
Tenāha bhagavā: “Sace cuto sīlabbatato hoti sa vedhatī kammaṃ virādhayitvā, sa jappatī patthayaticca suddhiṃ satthā va hīno pavasaṃ gharamhā ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Nếu đã lìa khỏi giới và phận sự, kẻ ấy run rẩy sau khi thất bại về hành động, kẻ ấy tham muốn và ước nguyện sự trong sạch, ví như người bị thất lạc với đoàn lữ hành trong khi sống xa nhà.”
13.6
Sīlabbataṃ cāpi pahāya sabbaṃ kammañca sāvajjanavajjametaṃ, suddhiṃ asuddhinti apatthayāno virato care santimanuggahāya.
Và sau khi đã dứt bỏ tất cả giới và phận sự, cùng hành động có tội hoặc không có tội ấy, trong khi không ước nguyện ‘sự trong sạch hay không trong sạch,’ đã lìa bỏ, vị ấy sống, không nắm bắt sự an tịnh (do tà kiến).
Ðối với giới cấm thủ,
Sau khi đoạn tất cả,
Cùng với các sở hành,
Có tội,không có tội,
Không còn có cố gắng,
Thanh tịnh, không thanh tịnh,
Hãy sống hạnh viễn ly,
Không chấp thủ an tịnh.
(Kinh Tập, câu kệ 900)
Sīlabbataṃ vāpi pahāya sabban ’ti – Sabbā sīlasuddhiyo pahāya pajahitvā vinodetvā byantīkaritvā anabhāvaṃ gametvā, sabbā vatasuddhiyo pahāya pajahitvā vinodetvā byantīkaritvā anabhāvaṃ gametvā, sabbā sīlabbatasuddhiyo pahāya pajahitvā vinodetvā vyantīkaritvā anabhāvaṃ gametvā ’ti – sīlabbataṃ vāpi pahāya sabbaṃ.
Kammañca sāvajjametan ’ti – Sāvajjakammaṃ vuccati kaṇhaṃ kaṇhavipākaṃ; anavajjakammaṃ vuccati sukkaṃ sukkavipākaṃ. Sāvajjañca kammaṃ anavajjañca kammaṃ pahāya pajahitvā vinodetvā byantīkaritvā anabhāvaṃ gametvā ’ti – kammañca sāvajjametaṃ.
Suddhiṃ asuddhinti apatthayāno ’ti – Asuddhin ’ti asuddhiṃ patthenti, akusale dhamme patthenti.
Suddhin ’ti suddhiṃ patthenti, pañca kāmaguṇe patthenti; asuddhiṃ patthenti – akusale dhamme patthenti, pañcakāmaguṇe patthenti; suddhiṃ patthenti – dvāsaṭṭhi diṭṭhigatāni patthenti, asuddhiṃ patthenti – akusale dhamme patthenti; pañcakāmaguṇe patthenti; dvāsaṭṭhi diṭṭhigatāni patthenti; suddhiṃ patthenti – tedhātuke kusale dhamme patthenti; asuddhiṃ patthenti – akusale dhamme patthenti, pañca kāmaguṇe patthenti, dvāsaṭṭhi diṭṭhigatāni patthenti; tedhātuke kusale dhamme patthenti, suddhiṃ patthenti puthujjanakalyāṇakā niyāmāvakkantiṃ patthenti; sekhā aggadhammaṃ arahattaṃ patthenti; arahatte patte arahaṃ neva akusale dhamme pattheti, napi pañca kāmaguṇe pattheti, napi dvāsaṭṭhi diṭṭhigatāni pattheti, napi tedhātuke kusale dhamme pattheti, napi niyāmāvakkantiṃ pattheti, napi aggadhammaṃ arahattaṃ pattheti. Patthanāsamatikkanto arahā vuddhiparihāniṃ vītivatto so vutthavāso ciṇṇacaraṇo uttiṇṇajātijarāmaraṇasaṃsāro natthi tassa punabbhavo ’ti – suddhiṃ asuddhinti apatthayāno.
Virato care santimanuggahāyā ’ti – Virato ’ti suddhi-asuddhiyā ārato assa virato paṭivirato nikkhanto nissaṭo vippamutto visaññutto vimariyādīkatena cetasā viharatī ’ti – virato.
Care ’ti careyya vihareyya irīyeyya vatteyya pāleyya yapeyya yāpeyyā ’ti – virato care.
Santimanuggahāyā ’ti santiyo vuccanti dvāsaṭṭhi diṭṭhigatāni; diṭṭhi santiyo agaṇhanto aparāmasanto anabhinivisanto ’ti – virato care santimanuggahāya.
Và sau khi đã dứt bỏ tất cả giới và phận sự: Sau khi dứt bỏ, sau khi dứt trừ, sau khi xua di, sau khi làm chấm dứt, sau khi làm cho không còn hiện hữu tất cả các sự trong sạch do giới; sau khi dứt bỏ, sau khi dứt trừ, sau khi xua di, sau khi làm chấm dứt, sau khi làm cho không còn hiện hữu tất cả các sự trong sạch do phận sự; sau khi dứt bỏ, sau khi dứt trừ, sau khi xua di, sau khi làm châm dứt, sau khi làm cho không còn hiện hữu tát cả các sự trong sạch do giới và phận sự.
“Và sau khi đã dứt bỏ tất cả giới và phận SỊT” là như thế.
Cùng hành động có tội hoặc không có tội ấy: Hành động có tội nói đến pháp đen với quả thành tựu đen; hành động không có tội nói đến pháp trắng với quả thành tựu trắng. Sau khi dứt bỏ, sau khi dứt trừ, sau khi xua di, sau khi làm chấm dứt, sau khi làm cho không còn hiện hữu hành động có tội và hành động không có tội.
“Cùng hành động có tội hoặc không có tội ấy” là như thế.
Trong khi không ước nguyện usự trong sạch hay không trong sạch.”
Sự không trong sạch: Ước nguyện sự không trong sạch là ước nguyện các pháp bất thiện. Sự trong sạch: Ước nguyện sự trong sạch là ước nguyện năm loại dục. Ước nguyện sự không trong sạch là ước nguyện các pháp bất thiện, ước nguyện năm loại dục; ước nguyện sự trong sạch là ước nguyện . .匕 *
sáu mươi hai tà kiên; ước nguyện sự không trong sạch là ước nguyện các pháp bất thiện, ước nguyện năm loại dục, ước nguyện sáu mươi hai tà kiến; ước nguyện sự trong sạch là ước nguyện các pháp thiện liên quan đến Tam giới; ước nguyện sự không trong sạch là ước nguyện các pháp bất thiện, ước nguyện năm loại dục, ước nguyện sáu mươi hai tà kiến, ước nguyện các pháp thiện liên quan đến Tam giới; ước nguyện sự trong sạch là các phàm phu tốt lành ước nguyện sự nhập vào dòng Thánh, các bậc Hữu học ước nguyện pháp tột đỉnh là phẩm vi A-la-hán; khi đã đạt được phẩm vị A-la-hán, bậc A-la-hán không còn ước nguyện các pháp bất thiện, cũng không ước nguyện năm loại dục, cũng không ước nguyện sáu mươi hai tà kiến, cũng không ước nguyện các pháp thiện liên quan đến Tam giới, cũng không ước nguyện sự nhập vào dòng Thánh, cũng không ước nguyện pháp tột đỉnh là phẩm vị A-la-hán. Trong khi vượt qua hẳn sự ước nguyện, bậc A-la-hán đã vượt qua khỏi sự tiến tu và thối thất, vi ấy đã trải qua cuộc sống [của bậc Thánh], đã hoàn tất việc thực hành, đã vượt khỏi việc sanh-lão-tử luân hồi, việc sanh ra lần nữa không có đôi với vị ây.
“Trong khi không ước nguyện 4 sự trong sạch hay không trong S0ch”‘ là như thế.
Đã xa lánh, vi ấy sống, không nắm bắt sự an tinh [do tà kiến].
Đã xa lánh: Đã xa lánh, đã tránh khỏi, đã tránh xa, đã đi ra ngoài, đã rời ra, đã thoát khỏi, không bị ràng buộc với sự trong sạch và không trong sạch, sống với tâm đã được làm trở thành không còn giới hạn.
Vị ấy sống: Vị ấy sống, tru ngụ, sinh hoạt, vận hành, bảo hộ, hộ trì, bảo dưỡng. “Đã xa lánh, vị ấy sống^ là như thế.
Không nắm bắt sự an tinh [do tà kiến]: Các sự an tịnh nói đến sáu mươi hai tà kiến; trong khi không nắm lấy, trong khi không bám víu, trong khi không chấp chặt các sự an tịnh do tà kiến.
uĐã xa lánh, vị ấy sống, không nắm bắt sự an tịnh [do tà kiến],, là như thế.
Tenāha bhagavā: “Sīlabbataṃ vāpi pahāya sabbaṃ kammañca sāvajjanavajjametaṃ, suddhiṃ asuddhinti apatthayāno virato care santimanuggahāyā ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Và sau khi đã dứt bỏ tất cả giới và phận sự, cùng hành động có tội hoặc không có tội ấy, trong khi không ước nguyện ‘sự trong sạch hay không trong sạch,’ đã lìa bỏ, vị ấy sống, không nắm bắt sự an tịnh (do tà kiến).”
13.7
Tamupanissāya jigucchitaṃ vā athavāpi diṭṭhaṃ va sutaṃ mutaṃ vā, uddhaṃsarā suddhimanutthunanti
avītataṇhā se bhavābhavesu.
Sau khi nương tựa vào điều đã bị chán ghét ấy (khổ hạnh), hoặc vào điều gì đã được thấy, đã được nghe, hoặc đã được cảm giác, những kẻ chủ trương luân hồi hướng thượng nói về sự trong sạch, chúng chưa xa lìa tham ái ở hữu và phi hữu.
Người y chỉ khổ hạnh,
Người y chỉ nhàm chán,
Kẻ dựa vào nghe thấy,
Hay dựa vào thọ tưởng,
Họ là hạng nói lớn,
Tán thán sự thanh tịnh,
Chưa đoạn được tham ái,
Ðối với hữu, phi hữu.
(Kinh Tập, câu kệ 901)
Tamupanissāya jigucchitaṃ vā ’ti – Santeke samaṇabrāhmaṇā tapojigucchāvādā tapojigucchāsārā tapojigucchānissitā ānissitā allīnā upagatā ajjhositā adhimuttā ’ti – tamupanissāya jigucchitaṃ vā.
Athavāpi diṭṭhaṃ va sutaṃ mutaṃ vā ’ti – Diṭṭhaṃ vā diṭṭhasuddhiṃ vā sutaṃ vā sutasuddhiṃ vā mutaṃ vā mutasuddhiṃ vā nissāya upanissāya gaṇhitvā parāmasitvā abhinivisitvā ’ti – athavāpi diṭṭhaṃ va sutaṃ mutaṃ vā.
Uddhaṃsarā suddhimanutthunantī ’ti – Santeke samaṇabrāhmaṇā uddhaṃsaravādā. Katame te samaṇabrāhmaṇā uddhaṃsaravādā? Ye te samaṇabrāhmaṇā accantasuddhikā saṃsārasuddhikā akiriyadiṭṭhikā sassatavādā, ime te samaṇabrāhmaṇā uddhaṃsaravādā, te saṃsārena suddhiṃ visuddhiṃ parisuddhiṃ muttiṃ vimuttiṃ parimuttiṃ thunanti vadanti kathenti bhaṇanti dīpayanti voharantī ’ti – uddhaṃsarā suddhimanutthunanti.
Avītataṇhā se bhavābhavesū ’ti – Taṇhā ’ti rūpataṇhā saddataṇhā gandhataṇhā rasataṇhā phoṭṭhabbataṇhā dhammataṇhā.
Bhavābhavesū ’ti – Bhavābhave kammabhave punabbhave, kāmabhave kammabhave, kāmabhave punabbhave, rūpabhave kammabhave, rūpabhave punabbhave, arūpabhave kammabhave, arūpabhave punabbhave, punappunabhave punappunagatiyā punappuna-uppattiyā punappunapaṭisandhiyā punappuna-attabhāvābhinibbattiyā avītataṇhā avigatataṇhā acattataṇhā avantataṇhā amuttataṇhā appahīnataṇhā appaṭinissaṭṭhataṇhā’ ti – avītataṇhā se bhavābhavesu.
Sau khi nương tựa vào điều đã bi chán ghét ấy [khổ hạnh]: Có một số Sa-môn và Bà-la-môn có học thuyết chán ghét khổ hạnh, có chủ trương chán ghét khổ hạnh, đã nương tựa, đã nương nhờ, đã bám vào, đã đến gần, đã bám chặt, đã hướng đến sự chán ghét khổ hạnh.
“Sau khi nương tựa vào điều đã bị chán ghét ấy [khổ hạnh]” là như thế.
Hoặc vào điều đã được thấy, vào điều đã được nghe, hoặc vào điều đã được cảm giác: Sau khi nương tựa, sau khi dựa vào, sau khi nắm lấy, sau khi bám víu, sau khi chấp chặt vào điều đã được thấy hoặc sự trong sạch do điều đã được thay, vào điều đã được nghe hoặc sự trong sạch do điều đã được nghe, vào điều đã được cảm giác hoặc sự trong sạch do điều đã được cảm giác.
“Hoặc vào điều đã được thấy, vào điều đã được nghe, hoặc vào điều đã được cảm giSc” là như thế.
Những kẻ chủ trương luân hồi hướng thượng kể lể về sự trong sạch: Có một số Sa-môn và Bà-la-môn có học thuyết luân hồi hướng thượng. Các Sa- môn và Bà-la-môn có học thuyết luân hồi hướng thượng ấy là các vi nào? Các Sa-môn và Bà-la-môn nào là các vi tin vào sự trong sạch tột cùng, các vị tin rằng sự trong sạch do luân hồi, các vi theo quan điểm không hành động, các vị có học thuyết thường còn, các vị này là các Sa-môn và Bà-la-môn có học thuyết luân hồi hướng thượng. Các vị ấy kể lể, nói, thuyết giảng, phát ngôn, giảng giải, diễn tả sự trong sạch, sự thanh tịnh, sự hoàn toàn trong sạch, sự thoát khỏi, sự giải thoát, sự hoàn toàn thoát khỏi là thông qua sự tái sanh luân hồi.
“Những kẻ chủ trương luân hồi hướng thượng kể lể về sự trong sách” là như thế.
Chúng chưa xa lìa tham ái ờ hữu và phi hữu.
Tham ái: Ái cảnh sắc, ái cảnh thinh, ái cảnh khí, ái cảnh vị, ái cảnh xúc, ái cảnh pháp.
ở hữu và phi hữu: ở dục giới, sắc giới, vô sắc giới, ở sự hiện hữu của nghiệp, ở sự hiện hữu lần nữa; ở sự hiện hữu của nghiệp là dục giới, ở sự hiện hữu lần nữa là dục giới, ở sự hiện hữu của nghiệp là sắc giới, ở sự hiện hữu lần nữa là sắc giới, ở sự hiện hữu của nghiệp là vô sắc giới, ở sự hiện hữu lần nữa là vô sắc giới; ở sự hiện hữu được lặp đi lặp lại, ở cảnh giới tái sanh được lặp đi lặp lại, ở sự tiếp nối tái sanh được lặp đi lặp lại, ở sự sanh ra của bản ngã được lặp đi lặp lại, [các vị ấy] có tham ái chưa được xa lìa, có tham ái chưa được tách lìa, có tham ái chưa được từ bỏ9 có tham ái chưa được tẩy trừ, có tham ái chưa được giải thoát, có tham ái chưa được dứt bỏ, có tham ái chưa được buông bỏ.
“Chúng chưa xa lìa tham ái ở hữu và phi hữu” là như thế.
Tenāha bhagavā: “Tamupanissāya jigucchitaṃ vā athavāpi diṭṭhaṃ va sutaṃ mutaṃ vā, uddhaṃsarā suddhimanutthunanti avītataṇhā se bhavābhavesū ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Sau khi nương tựa vào điều đã bị chán ghét ấy (khổ hạnh), hoặc vào điều gì đã được thấy, đã được nghe, hoặc đã được cảm giác, những kẻ chủ trương luân hồi hướng thượng nói về sự trong sạch, chúng chưa xa lìa tham ái ở hữu và phi hữu.”
13.8
Patthayamānassa hi jappitāni pavedhitaṃ vāpi pakappitesu, cutūpapāto idha yassa natthi sa kena vedheyya kuhiṃ va jappe.
Bởi vì người, trong khi ước nguyện, có các sự tham muốn thậm chí còn có sự run sợ về các điều đã được xếp đặt.
Ở đây, đối với vị nào tử và sanh là không có, vị ấy có thế run rẩy vì cái gì, có thể tham muốn về cái gì?
Với ai có nỗ lực,
Cầu mong và ham muốn,
Họ mới phải run sợ,
Với những kiến của mình,
Với những ai ở đời,
Không có sanh và chết,
Do gì, khiến họ sợ,
Họ tham vọng cái gì?
(Kinh Tập, câu kệ 902)
Patthayamānassa hi jappitānī ’ti – Patthanā vuccati taṇhā, yo rāgo sārāgo –pe– abhijjhā lobho akusalamūlaṃ. Patthayamānassā ’ti patthayamānassa icchamānassa sādiyamānassa pihayamānassa abhijappamānassā ’ti – patthayamānassa hi.
Jappitānī ’ti – Jappanā vuccati taṇhā, yo rāgo sārāgo –pe– abhijjhā lobho akusalamūlan ’ti – patthayamānassa hi jappitāni.
Pavedhitaṃ vāpi pakappitesū ’ti – Pakappanā ’ti dve pakappanā: taṇhāpakappanā ca diṭṭhipakappanā ca –pe– ayaṃ taṇhāpakappanā –pe– ayaṃ diṭṭhipakappanā.
Pavedhitaṃ vāpi pakappitesū ’ti – Pakappitaṃ vatthuṃ acchedasaṅkinopi vedhenti, acchindantepi vedhenti, acchinnepi vedhenti; pakappitaṃ vatthuṃ vipariṇāmasaṅkinopi vedhenti, vipariṇāmantepi vedhenti, vipariṇatepi vedhenti pavedhenti sampavedhentī ’ti – pavedhitaṃ vāpi pakappitesu.
Cutūpapato idha yassa natthī ’ti – Yassā ’ti arahato khīṇāsavassa; yassa gamanaṃ āgamanaṃ gamanāgamanaṃ kālaṃ gati bhavābhavo cuti ca upapatti ca nibbatti ca bhedo ca jātijarāmaraṇañca natthi na santi na saṃvijjanti nūpalabbhanti pahīnā samucchinnā vūpasantā paṭippassaddhā abhabbuppattikā ñāṇagginā daḍḍhā ’ti – cutūpapāto idha yassa natthi.
Sa kena vedheyya kuhiṃ va jappe ’ti – So kena rāgena vedheyya, kena dosena vedheyya, kena mohena vedheyya, kena mānena vedheyya, kāya diṭṭhiyā vedheyya, kena uddhaccena vedheyya, kāya vicikicchāya vedheyya, kehi anusayehi vedheyya, rattoti vā duṭṭhoti vā mūḷhoti vā vinibaddhoti vā parāmaṭṭhoti vā vikkhepagatoti vā aniṭṭhaṅgatoti vā thāmagatoti vā. Te abhisaṅkhārā pahīnā; abhisaṅkhārānaṃ pahīnattā gatiyā kena vedheyya, nerayikoti vā tiracchānayonikoti vā pettivisayikoti vā manussoti vā devoti vā rūpīti vā arūpīti vā saññīti vā asaññīti vā nevasaññīnāsaññīti vā. So hetu natthi, paccayo natthi, kāraṇaṃ natthi, yena vedheyya pavedheyya sampavedheyyā ’ti – sa kena vedheyya.
Kuhiṃ va jappe ’ti kuhiṃ vā jappeyya, kimhi jappeyya, kattha jappeyya pajappeyya abhijappeyyā ’ti – sa kena vedheyya kuhiṃ va jappe.
Bỏi vì, ngiròĩ trong khi ước nguyện thì có các sự tham muốn: Ước nẹuyện nói đen tham ái, tức là sự luyến ái, luyến ái mãnh liệt,… (nt)… tham đam, tham, cội nguồn của bất thiện.
Người trong khỉ ước nguyện: Đối với người đang ước nguyện, đối với n^ười đang ước muốn, đối với người đang ưng thuận, đối với người đang mong câu, đối với người đang nguyện câu. “Bỏd vì, người trong khi ước nguyện^ là như thế.
Các sự tham muốn: Tham muốn nói đến tham ải, tức là sự luyến ái, luyến ái mãnh liệt,… (nt)… tham đắm, tham, cội nguồn của bất thiện.
“Bỏi vì, người trong khi ước nguyện thì có các sự tham mu6n” là như thế.
Thâm chí còn có sự run sợ về các điều đã được xếp đặt.
Sự xếp đặt: Có hai sự xếp đặt: xếp đặt do tham ái và xếp đặt do tà kiến…. (nt)… điều này là xếp đặt do tham ái…. (nt)… điều này là xếp đặt do tà kiến.
Thậm chí còn có sự run sợ vê các điêu đã được xép đặt: Có sự lo âu 上.人..M A • ‘m a i, ■ M . í
vê việc chiêm đoạt vật đã được xép đặt nên chúng run rây, trong khi đang bị chiêm đoạt chúng run rây, khi đã bị chiêm đoạt chúng run rây; có sự lo âu vê việc biên đôi của vật đã được xép đặt nên chúng run rây, trong khi vật đang bị biến đổi chúng run rẩy, khi vật đã bi biến đổi chúng run rẩy, chúng run sợ, chúng rúng động.
“Tham chí còn có sự run sợ về các điều đã được xếp đặf? là như thế.
ở đây, đối với vi nào tử và sanh là không có.
Đoi với vị nào: Đôi với vị A-la-hán có lậu hoặc đã được cạn kiệt; đôi với vị ấy sự ra đi, sự đi đến, sự ra đi và đi đến, thời điểm [từ trần], cảnh giới tái sanh, hữu và phi hữu, sự tử vong, sự tái sanh, sự hạ sanh, sự tan rã, sự sanh-già-chết là không có, không hiện hữu, không tìm thấy, không tồn tại, đã được dứt bỏ, đã được trừ tuyệt, đã được vắng lặng, đã được tịch tịnh, không thể sanh khởi nữa, đã được thiêu đốt bởi ngọn lửa trí tuệ.
“d dây, đối với vị nào tử và sanh là không c6” là như thế.
Vị ấy có thể run rẩy vì cái gì9 có thể tham muốn về cái gì? Vị ấy có thể run rẩy bởi sự luyến ái gi, có thể run rẩy bởi sự san hận gi, có thể run rẩy bởi sự si mê gi, có thể run rẩy bởi sự ngã mạn g,có thê run rây bởi tà kiến gì, có thể run rẩy bởi sự phóng dật gì, có thể run rây bởi hoài nghi gì, có thể run rẩy bởi các pháp tiềm an gì, [nghĩ rằng]: “C6 phải ta là ‘kẻ bi luyến ái hoặc là ‘kẻ bi sân hận hoặc là ‘kẻ bị si mê hoặc là ‘kẻ bị trói buộc hoặc là ckẻ bị bám víu’, hoặc là ‘kẻ bi tán loạn9, hoặc là ‘kẻ không dứt khoát hoặc là ‘kẻ cứng coi9?59 Các pháp tạo tác ấy là đã được dứt bỏ. Do trạng thái đã được dứt bỏ đối với các pháp tạo tác, thì do điều gì vi ấy có thể run ray về cảnh giới tái sanh, [nghĩ rằng]: “Ta sẽ trở thành ‘người địa ngục’, hoặc là ‘loài thú hoặc là ‘thân phận nga quỷ hoặc là ‘loài người hoặc là ‘thiên nhân hoặc là ‘người hữu sắc’, hoặc là ‘người vô sắc hoặc là ‘người hữu tưởng’, hoặc là ‘người vô tưởng’, hoặc là ‘người phi tưởng phi phi tưởng9Không có nhân, không có duyên, khônẹ có lý do, mà bởi điêu ấy vi áy có thê run rây, run sợ, rúng động. ấy có the run rẩy vì cái gi?” là như thế.
Có thể tham muốn về cái gi: Hoặc là có thể tham muốn về chỗ nào, có thể tham muốn về điều gì, có thể tham muốn, có thể khởi tham muốn, có thể nguyện cầu về nơi nào.
“Vi ấy có thể run rẩy vì cái gì, có thể tham muốn về cái gi?” là như thế.
Tenāha bhagavā: “Patthayamānassa hi jappitāni pavedhitaṃ vāpi pakappitesu, cutūpapāto idha yassa natthi
sa kena vedheyya kuhiṃ va jappe ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Bởi vì người, trong khi ước nguyện, có các sự tham muốn
thậm chí còn có sự run sợ về các điều đã được xếp đặt.
Ở đây, đối với vị nào tử và sanh là không có,
vị ấy có thế run rẩy vì cái gì, có thể tham muốn về cái gì?”
13.9
Yamāhu dhammaṃ paramanti eke tameva hīnanti panāhu aññe, sacco nu vādo katamo imesaṃ sabbeva hime kusalāvadānā.
Pháp nào mà một số vị đã nói là ‘tối thắng,’ trái lại, những vị khác đã nói về pháp ấy là ‘thấp kém;’ vậy trong số những vị này, lời nói nào là sự thật, bởi vì tất cả các vị này đều tuyên bố (mình) là thiện xảo?
Người hỏi:
Có những người tuyên bố,
Pháp này là tối thượng,
Nhưng người khác lại nói,
Pháp ấy là hạ liệt.
Ai nói lời chân thật,
Giữa hai hạng người này,
Hay tất cả hạng này,
Ðều là hạng khéo nói?
(Kinh Tập, câu kệ 903)
Yamāhu dhammaṃ paramanti eke ’ti – Yaṃ dhammaṃ diṭṭhiṃ paṭipadaṃ maggaṃ eke samaṇabrāhmaṇā ‘idaṃ paramaṃ aggaṃ seṭṭhaṃ visiṭṭhaṃ pāmokkhaṃ uttamaṃ pavaran ’ti evamāhaṃsu, evaṃ kathenti, evaṃ bhaṇanti, evaṃ dīpayanti, evaṃ voharantī ’ti – yamāhu dhammaṃ paramanti eke.
Tameva hīnanti panāhu aññe ’ti – Tameva dhammaṃ diṭṭhiṃ paṭipadaṃ maggaṃ eke samaṇabrāhmaṇā ‘hīnaṃ etaṃ nihīnaṃ etaṃ omakaṃ etaṃ lāmakaṃ etaṃ chattakaṃ etaṃ parittakaṃ etan ’ti evamāhaṃsu, evaṃ kathenti, evaṃ bhaṇanti, evaṃ dīpayanti, evaṃ voharantī ’ti – tameva hīnanti panāhu aññe.
Sacco nu vādo katamo imesan ’ti – Imesaṃ samaṇabrāhmaṇānaṃ vādo katamo sacco taccho tathā bhūto yāthāvo aviparīto ’ti – sacco nu vādo katamo imesaṃ.
Sabbeva hime kusalāvadānā ’ti – Sabbevime samaṇabrāhmaṇā kusalavādā paṇḍitavādā thiravādā ñāyavādā hetuvādā lakkhaṇavādā kāraṇavādā ṭhānavādā sakāya laddhiyā ’ti – sabbeva hime kusalāvadānā.
Pháp nào mà một số vi đã nói là 6ítối thắng”: Giáo pháp, quan điểm, cách thực hành, đạo lộ nào mà một số Sa-môn và Bà-la-môn đã nói như vầy, thuyết như vây, phát ngôn như vây, giảng giải như vây, diên tả như vây: “Điêu này là tối thắng, cao cả, nhất hạng, thù thắng, dẫn đầu, tối thượng, cao quy.”
‘Tháp nào mà một số vi đã nói là ‘tối thắng'” là như thế.
Trái lại, những vi khác đã nói về pháp ấy là thấp hèn: Một số Sa-môn và Bà-la-môn đã nói như vầy, thuyết như vầy, phát ngôn như vầy, giảng giải như vầy, diễn tả như vầy về giáo pháp, về quan điểm, về cách thực hành, về đạo lộ ấy rằng: “Điều ấy là thấp hèn, điêu ấy là hèn kém, điều ấy là thấp kém, điều ấy là thấp thỏi, điều ấy là toi tệ, điều ấy là nhỏ nhoi.”
“Trái lại, những vị khác đã nói về pháp ấy là ‘thấp h©n”‘ là như thế.
Vậy trong số những vi này, lời nói nào ỉa sự thật: Trong số các Sa-môn và Bà-la-môn này, lời nói nào là sự thật, là đúng đắn, là thực thể, là đang xảy ra, là chính xác, là không bi sai lệch.
“Vậy trong số những vị này, lời nói nào là sự thát” là như thế.
Bỏi vì tất cả các vi này đều tuyên bố [mình] là thiện xảo: Toàn bộ tất cả các Sa-môn và Bà-la-môn này đều có học thuyết thiện xảo, có học thuyết sáng suốt, có học thuyết vững chắc, có học thuyết đúng đắn, có học thuyết thực tiễn, có học thuyết rõ rệt, có học thuyết gương mẫu, có học thuyết giá trị dựa theo quan niệm của mình.
“Bởi vì tất cả các vị này đều tuyên bố [mình] là thiện xảo” là như thế.
Tenāha so nimmito: “Yamāhu dhammaṃ paramanti eke tameva hīnanti panāhu aññe, sacco nu vādo katamo imesaṃ sabbeva hime kusalāvadānā ”ti.
Vì thế, vị (Phật) do thần thông biến hóa ra đã hỏi rằng: “Pháp nào mà một số vị đã nói là ‘tối thắng,’ trái lại, những vị khác đã nói về pháp ấy là ‘thấp kém;’ vậy trong số những vị này, lời nói nào là sự thật, bởi vì tất cả các vị này đều tuyên bố (mình) là thiện xảo?”
13.10
Sakaṃ hi dhammaṃ paripuṇṇamāhu aññassa dhammaṃ pana hīnamāhu, evampi viggayha vivādayanti
sakaṃ sakaṃ sammutim āhu saccaṃ.
Chúng đã tuyên bố pháp của chính mình là hoàn hảo, hơn nữa, chúng đã tuyên bố pháp của người khác là thấp kém. Sau khi giữ khư khư (quan điểm của mình) như vậy, chúng tranh cãi, và đã tuyên bố quan điểm riêng của từng cá nhân là sự thật.
Với pháp tự của mình,
Nói pháp này viên mãn
Chỉ trích pháp người khác,
Là thấp kém hạ liệt,
Do chấp thủ như vậy,
Họ luận tranh đấu tranh,
Mọi thế tục tự mình,
Họ nói là chân thật.
(Kinh Tập, câu kệ 904)
Sakaṃ hi dhammaṃ paripuṇṇamāhū ’ti – Sakaṃ hi dhammaṃ diṭṭhiṃ paṭipadaṃ maggaṃ eke samaṇabrāhmaṇā ‘idaṃ samattaṃ paripuṇṇaṃ anoman ’ti evamāhaṃsu, evaṃ kathenti, evaṃ bhaṇanti, evaṃ dīpayanti, evaṃ voharantī ’ti – sakaṃ hi dhammaṃ paripuṇṇamāhu.
Aññassa dhammaṃ pana hīnamāhū ’ti – Aññassa dhammaṃ diṭṭhiṃ paṭipadaṃ maggaṃ eke samaṇabrāhmaṇā ‘hīnaṃ etaṃ nihīnaṃ etaṃ omakaṃ etaṃ lāmakaṃ etaṃ chattakaṃ etaṃ parittakaṃ etan ’ti evamāhaṃsu, evaṃ kathenti, evaṃ bhaṇanti, evaṃ dīpayanti, evaṃ voharantī ’ti – aññassa dhammaṃ pana hīnamāhu.
Evampi viggayha vivādayantī ’ti – Evaṃ gahetvā uggahetvā gaṇhitvā parāmasitvā abhinivisitvā vivādayanti, kalahaṃ karonti, bhaṇḍanaṃ karonti, viggahaṃ karonti, vivādaṃ karonti, medhagaṃ karonti ‘na tvaṃ imaṃ dhammavinayaṃ ājānāsi –pe– nibbeṭhehi vā sace pahosī ’ti – evampi viggayha vivādayanti.
Sakaṃ sakaṃ sammutimāhu saccan ’ti – ‘Sassato loko idameva saccaṃ moghamaññan ’ti sakaṃ sakaṃ sammutimāhu saccaṃ. ‘Asassato loko –pe– Neva hoti na na hoti tathāgato parammaraṇā, idameva saccaṃ moghamaññan ’ti – sakaṃ sakaṃ sammutimāhu saccaṃ.
Chúng đã tuyên bố pháp của chính mình là hoàn hảo: Một số Sa-môn và Bà-la-môn đã nói như vây, thuyêt như vây, phát ngôn như vây, giảng giải như vầy, diễn tả như vầy về giáo pháp, về quan điểm, về cách thực hành, về đạo lộ của chính mình rằng: “Biều này là đầy đủ, hoàn hảo, không thiếu s6t.”
“Chúng đã tuyên bố pháp của chính mình là hoàn h角o” là như vậy.
Hơn nữa, chúng đã tuyên bố pháp của người khác là thấp hèn: Một số Sa-môn và Bà-la-môn đã nói như vầy, thuyết như vầy, phát ngôn như vầy, giảng giải như vầy, diễn tả như vầy về giáo pháp, về quan điểm, về cách thực hành, vê đạo lộ của người khác rằng: “Biều ấy là thấp hèn, điều ấy là hèn kém, điều ấy là thấp kém, điều ấy là thấp thỏi, điều ấy là tồi tệ, điều ấy là nhỏ nhoi.”
“Hơn nữa, chúng đã tuyên bố pháp của người khác là thấp hèn,9 là như thế.
Sau khi giữ khư khư [quan điểm của mình] như vậy, chúng tranh cãi: Sau khi chấp nhận, sau khi tiếp thu, sau khi nắm lấy, sau khi bám víu, sau khi chấp chặt như vậy, chúng tranh cãi, thực hiện sự cãi cọ, thực hiện sự cãi lộn, thực hiện sự cãi vã, thực hiện sự tranh cãi, thực hiện sự gây gổ rằng: “Nguôi không biết Pháp và Luật này… (nt)..・ hoặc ngươi hãy gỡ rối nếu ngươi có khả nang?5
“Sau khi giữ khư khư [quan điểm của mình] như vậy, chúng tranh c負i” là như thế.
Và đã tuyên bố quan điểm riêng của từng cá nhân là chân lý: Chúng đã tuyên bố quan điểm riêng của từng cá nhân là chân lý rằng: “Thế giới là thường còn; chỉ điều này là chân lý5 điều khác là rồ dại”; chúng đã tuyên bố quan điểm riêng của từng cá nhân là chân lý rằng: “Thế giới là không thường còn,… (nt)… chúng sanh không hiện hữu và không phải là không hiện hữu ở nơi khác sau khi chết; chỉ điều này là chân lý5 điều khác là rồ dại.”
uVà đã tuyên bố quan điểm riêng của từng cá nhân là chân ly” là như thế.
Tenāha bhagavā: “Sakaṃ hi dhammaṃ paripuṇṇamāhu aññassa dhammaṃ pana hīnamāhu, evampi viggayha vivādayanti sakaṃ sakaṃ sammutimāhu saccan ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Chúng đã tuyên bố pháp của chính mình là hoàn hảo, hơn nữa, chúng đã tuyên bố pháp của người khác là thấp kém. Sau khi giữ khư khư (quan điểm của mình) như vậy, chúng tranh cãi, và đã tuyên bố quan điểm riêng của từng cá nhân là sự thật.”
13.11
Parassa ce vambhayitena hīno na koci dhammesu visesi assa, puthū hi aññassa vadanti dhammaṃ
nihīnato samhi daḷhaṃ vadānā.
Nếu là thấp kém do việc bị khinh miệt của người khác, thì không có pháp nào là đặc biệt trong số các pháp, bởi vì số đông tuyên bố pháp của người khác là thấp hèn, trong khi nói một cách chắc chắn về (pháp) của mình.
Thế Tôn:
Nếu có bị người khác,
Khinh rẻ là hạ liệt,
Như vậy giữa các pháp,
Không gì thù thắng sao?
Kẻ phàm phu nói rằng
Pháp người khác hạ liệt,
Cương quyết tự đề cao,
Pháp mình không hạ liệt.
(Kinh Tập, câu kệ 905)
Parassa ce vambhayitena hīno ’ti – Parassa ce vambhayitakāraṇā ninditakāraṇā garahitakāraṇā upavaditakāraṇā paro bālo hoti hīno nihīno omako lāmako chattako paritto ’ti – parassa ce vambhayitena hīno.
Na koci dhammesu visesi assā ’ti – Dhammesu na koci aggo seṭṭho visiṭṭho pāmokkho uttamo pavaro assā ’ti – na koci dhammesu visesi assa.
Puthū hi aññassa vadanti dhammaṃ nihīnato ’ti – Bahukāpi bahūnaṃ dhammaṃ vadanti upavadanti nindanti garahanti hīnato nihīnato omakato lāmakato chattakato parittato; bahukāpi ekassa dhammaṃ vadanti upavadanti nindanti garahanti hīnato nihīnato omakato lāmakato chattakato parittato; ekopi bahunnaṃ dhammaṃ vadati upavadati nindati garahati hīnato nihīnato omakato lāmakato chattakato parittato; ekopi ekassa dhammaṃ vadati upavadati nindati garahati hīnato nihīnato omakato lāmakato chattakato parittato ’ti – puthū hi aññassa vadanti dhammaṃ nihīnato.
Samhi daḷhaṃ vadānā ’ti – Dhammo sakāyanaṃ, diṭṭhi sakāyanaṃ, paṭipadā sakāyanaṃ, maggo sakāyanaṃ, sakāyanena daḷhavādā thiravādā balikavādā avaṭṭhitavādā ’ti – samhi daḷhaṃ vadānā.
Nếu là thấp hèn do việc bi khinh miệt của người khác: Nếu bởi lý do bị khinh miệt, bởi lý do bị chê bai, bởi lý do bi chê trách, bởi lý do bi gièm pha của người khác, mà kẻ khác trở thành ngu si, thấp hèn, hèn kém, thấp kém, thấp thỏi, tồi te, nhỏ nhoi.
“Nếu là thấp hèn do việc bị khinh miệt của người khác” là như thế.
Thì không có pháp nào là đặc biệt trong sô các pháp: Thì trong sô các pháp, không có pháp nào là cao cả, nhát hạng, thù thăng, dân dâu, tối thượng, cao quý.
“Thi không có pháp nào là đặc biệt trong số các pháp” là như thế.
Bỏi vì số đông tuyên bổ pháp của người khác là thấp hèn: Nhiều người tuyên bố, gièm pha, chê bai, chê trách pháp của nhiều người là thấp hèn, là hèn kém, là thấp kém, là thấp thỏi, là toi te, là nhỏ nhoi; nhiều người tuyên bố, gièm pha, chê bai, chê trách pháp của một người là thấp hèn, là hèn kém, là thấp kém, là thấp thỏi, là tồi tệ, là nhỏ nhoi; một người tuyên bố, gièm pha, chê bai, chê trách pháp của nhiều người là thấp hèn, là hèn kém, là thấp kém, là thấp thỏi, là tồi tệ, là nhỏ nhoi; một người tuyên bố, gi©m pha, chê bai, chê trách pháp của một người là thấp hèn, là hèn kém, là tháp kém, là thấp thỏi, là tồi tệ, là nhỏ nhoi.
“Bởi vì số đông tuyên bố pháp của người khác là thấp hèn,, là như thế.
Trong khi nói một cách chắc chắn về [pháp] của chính mình: Pháp là đường lôi của mình, quan diêm là đường lôi của mình, lôi thực hành là đường lối của mình, đạo lộ là đường lối của mình; chúng có lời nói chắc chắn, có lời nói vững chắc, có lời nói vững mạnh, có lời nói kiên đinh về đường lối của mình.
“Trong khi nói một cách chắc chắn về [pháp] của chính minh” là như thế.
Tenāha bhagavā: “Parassa ce vambhayitena hīno na koci dhammesu visesi assa, puthū hi aññassa vadanti dhammaṃ nihīnato samhi daḷhaṃ vadānā ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Nếu là thấp kém do việc bị khinh miệt của người khác, thì không có pháp nào là đặc biệt trong số các pháp, bởi vì số đông tuyên bố pháp của người khác là thấp hèn, trong khi nói một cách chắc chắn về (pháp) của mình.”
13.12
Sadhammapūjā ca panā tatheva yathā pasaṃsanti sakāyanāni, sabbeva vādā tathiyā bhaveyyuṃ suddhī hi tesaṃ paccattameva.
Hơn nữa, việc cúng dường đến học thuyết của chúng sẽ là như thế ấy, giống như cách chúng ngợi khen đường lối ủa chính mình. Toàn bộ tất cả các học thuyết có thể là đúng đắn, bởi vì sự trong sạch của chúng chỉ liên quan đến cá nhân.
Như mọi người tôn thờ,
Chánh pháp của tự mình,
Giống như họ tán thán,
Mọi sở hành bản thân,
Tất cả những lời nói
Trở thành lời chân thật,
Sự thanh tịnh đối họ,
Tự mỗi người tác thành.
(Kinh Tập, câu kệ 906)
Sadhammapūjā ca panā tathevā ’ti – Katamā sadhammapūjā? Sakaṃ satthāraṃ sakkaroti garukaroti māneti pūjeti ‘ayaṃ satthā sabbaññū ’ti; ayaṃ sadhammapūjā. Sakaṃ dhammakkhānaṃ – sakaṃ gaṇaṃ – sakaṃ diṭṭhiṃ – sakaṃ paṭipadaṃ – sakaṃ maggaṃ sakkaroti garukaroti māneti pūjeti ‘ayaṃ maggo niyyāniko ’ti; ayaṃ sadhammapūjā. Sadhammapūjā ca panā tathevā ’ti sadhammapūjā tathā tacchā bhūtā yāthāvā aviparītā ’ti – sadhammapūjā ca panā tatheva.
Hơn nữa, việc cúng dường đến học thuyết của chúng sẽ là như thế ấy – Việc cúng dường đến học thuyết của chúng là việc nào? Họ trọng vọng, cung kính, sùng bái, cúng dường bậc đạo sư của mình rằng: ‘Bậc đạo sư này là đấng toàn tri;’ việc này là việc cúng dường đến học thuyết của chúng. Họ trọng vọng, cung kính, sùng bái, cúng dường giáo lý của mình – tập thể của mình – quan điểm của mình – lối thực hành của mình – đạo lộ của mình rằng: ‘Đạo lộ này dẫn dắt ra khỏi;’ việc này là việc cúng dường đến học thuyết của chúng. Hơn nữa, việc cúng dường đến học thuyết của chúng sẽ là như thế ấy: Việc cúng dường đến học thuyết của chúng là sự thật, là đúng đắn, là thực thể, là đang xảy ra, là chính xác, là không bị sai lệch; – ‘hơn nữa, việc cúng dường đến học thuyết của chúng sẽ là như thế ấy’ là như thế.
Yathā pasaṃsanti sakāyanānī ’ti – Dhammo sakāyanaṃ, diṭṭhi sakāyanaṃ, paṭipadā sakāyanaṃ, maggo sakāyanaṃ; sakāyanāni pasaṃsanti thomenti kittenti vaṇṇentī ’ti – yathā pasaṃsanti sakāyanāni.
Giống như cách chúng ngợi khen đường lối của chính mình – Pháp là đường lối của chúng, quan điểm là đường lối của chúng, lối thực hành là đường lối của chúng, đạo lộ là đường lối của chúng; chúng ca ngợi, khen ngợi, tán dương, ca tụng đường lối của chúng; – ‘giống như cách chúng ngợi khen đường lối của chính mình’ là như thế.
Sabbeva vādā tathiyā bhaveyyun ’ti – Sabbeva vādā tathā tacchā bhūtā yāthāvā aviparītā bhaveyyun ’ti – sabbeva vādā tathiyā bhaveyyuṃ.
Toàn bộ tất cả các học thuyết có thể là đúng đắn – Toàn bộ tất cả các học thuyết có thể là đúng đắn, là thực thể, là đang xảy ra, là chính xác, là không bị sai lệch; – ‘toàn bộ tất cả các học thuyết có thể là đúng đắn’ là như thế.
Suddhī hi nesaṃ paccattamevā ’ti – Paccattameva tesaṃ samaṇabrāhmaṇānaṃ suddhi visuddhi parisuddhi mutti vimutti parimuttī ’ti – suddhī hi nesaṃ paccattameva.
Bởi vì sự trong sạch của chúng chỉ liên quan đến cá nhân – Sự trong sạch, sự thanh tịnh, sự hoàn toàn trong sạch, sự thoát khỏi, sự giải thoát, sự hoàn toàn thoát khỏi của các Sa-môn và Bà-la-môn ấy chỉ liên quan đến cá nhân; – ‘bởi vì sự trong sạch của chúng chỉ liên quan đến cá nhân’ là như thế.
Tenāha bhagavā: “Sadhammapūjā ca panā tatheva yathā pasaṃsanti sakāyanāni, sabbeva vādā tathiyā bhaveyyuṃ suddhī hi nesaṃ paccattamevā ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Hơn nữa, việc cúng dường đến học thuyết của chúng sẽ là như thế ấy, giống như cách chúng ngợi khen đường lối của chính mình. Toàn bộ tất cả các học thuyết có thể là đúng đắn, bởi vì sự trong sạch của chúng chỉ liên quan đến cá nhân.”
13.13
Na brāhmaṇassa paraneyyamatthi dhammesu niccheyya samuggahītaṃ, tasmā vivādāni upātivatto na hi seṭṭhato passati dhammamaññaṃ.
Đối với vị Bà-la-môn, không có việc bị hướng dẫn bởi người khác; trong số các pháp (tà kiến), không có điều gì đã được nắm bắt sau khi đã suy xét. Do điều ấy, vị Bà-la-môn vượt lên trên các sự tranh cãi, bởi vì vị Bà-la-môn nhìn thấy học thuyết khác là không tối thắng.
Với người Bà-la-môn,
Không người khác lãnh đạo,
Sau khi đã nghiên cứu,
Chấp thủ trong các pháp,
Do vậy nên vị ấy
Vượt khỏi các tranh luận,
Không thấy pháp người khác,
Có thể thù thắng hơn.
(Kinh Tập, câu kệ 907)
Na brāhmaṇassa paraneyyamatthī ’ti – Nā ’ti paṭikkhepo. Brāhmaṇo ’ti sattannaṃ dhammānaṃ bāhitattā brāhmaṇo –pe– asito tādī pavuccate sa brahmā. Na brāhmaṇassa paraneyyamatthī ’ti – Brāhmaṇassa paraneyyatā natthi, brāhmaṇo na paraneyyo, na parappattiyo, na parappaccayo, na parapaṭibaddhagū jānāti passati asammūḷho sampajāno paṭissato. ‘Sabbe saṅkhārā aniccā ’ti brāhmaṇassa paraneyyatā natthi, brāhmaṇo na paraneyyo, na parappattiyo, na parappaccayo, na parapaṭibaddhagū jānāti passati asammūḷho sampajāno paṭissato. ‘Sabbe saṅkhārā dukkhā ’ti –pe– ‘Yaṃ kiñci samudayadhammaṃ sabbantaṃ nirodhadhamman ’ti brāhmaṇassa paraneyyatā natthi, brāhmaṇo na paraneyyo, na parappattiyo, na parappaccayo, na parapaṭibaddhagū jānāti passati asammūḷho sampajāno patissato ’ti – na brāhmaṇassa paraneyyamatthi.
Dhammesu niccheyya samuggahītan ’ti – Dhammesū ’ti dvāsaṭṭhi diṭṭhigatesu. Niccheyyā ’ti nicchinitvā vinicchinitvā vicinitvā pavicinitvā tulayitvā tīrayitvā vibhāvayitvā vibhūtaṃ katvā odhigāho bilaggāho varaggāho koṭṭhāsaggāho uccayaggāho samuccayaggāho ‘idaṃ saccaṃ tathaṃ tacchaṃ bhūtaṃ yāthāvaṃ aviparītan ’ti gahitaṃ parāmaṭṭhaṃ abhiniviṭṭhaṃ ajjhositaṃ adhimuttaṃ natthi na saṃvijjati nūpalabbhati, pahīnaṃ samucchinnaṃ vūpasantaṃ paṭippassaddhaṃ abhabbuppattikaṃ ñāṇagginā daḍḍhan ’ti – dhammesu niccheyya samuggahītaṃ.
Tasmā vivādāni upātivatto ’ti – Tasmā ’ti tasmā taṃkāraṇā taṃhetu tappaccayā tannidānā diṭṭhikalahāni diṭṭhibhaṇḍanāni diṭṭhiviggahāni diṭṭhivivādāni diṭṭhimedhagāni upātivatto atikkanto samatikkanto vītivatto ’ti – tasmā vivādāni upātivatto.
Na hi seṭṭhato passati dhammamaññan ’ti – Aññaṃ satthāraṃ dhammakkhānaṃ gaṇaṃ diṭṭhiṃ paṭipadaṃ maggaṃ, aññatra satipaṭṭhānehi, aññatra sammappadhānehi, aññatra iddhipādehi, aññatra indriyehi, aññatra balehi, aññatra bojjhaṅgehi, aññatra ariyā aṭṭhaṅgikā maggā, aggaṃ seṭṭhaṃ viseṭṭhaṃ pāmokkhaṃ uttamaṃ pavaraṃ dhammaṃ na passati na dakkhati na oloketi na nijjhāyati na upaparikkhatī ’ti – na hi seṭṭhato passati dhammamaññaṃ.
Đối với vi Bà-la-môii, không có việc bi dẫn dắt bởi người khác.
Không: Là sự phủ định.
Vi Bà-la-môn: Bà-la-môn do trạng thái đã loại trừ bảy pháp:… (nt)… Không nương nhờ, tự tại, vị ấy được gọi là Bà-la-môn.
Đối với vỉ Bà-la-môn, không có việc bi dẫn dắt bỏi người khác: Đối với vị Bà-la-môn? không có trạng thái bị dẫn dát bởi người khác; vi Bà-la-môn không bị dẫn dắt bởi người khác, không phụ thuộc người khác, không trông cậy ngưòd khác, không đi đến sự bị trói buộc với người khác, vị biết, vị thấy, không bị mê muội, có sự nhận biết rõ, có niệm. Đối với vị Bà-la-môn, không có trạng thái bị dẫn dắt bởi người khác [để hiểu] rằng: “Tất cả các hành là vô thuơng”; vi Bà-la-môn không bị dẫn dắt bởi người khác, không phụ thuộc người khác, không trông cậy người khác, không đi đến sự bị trói buộc với người khác, vi biết, vị thấy, không bị mê muội, có sự nhận biết rõ, có niệm. Đối với vị Bà- la-môn, không có trạng thái bi dẫn dắt bởi người khác [để hiểu] rằng: “Tất cả các hành là kh8″;… (nt)… “Điều gì có bản tánh được sanh lên, toàn bộ điều ấy đều có bản tánh hoại diet”; vị Bà-la-môn không bi dẫn dắt bởi người khác, không phụ thuộc người khác, không trông cậy người khác, không đi đến sự bi trói buộc với người khác, vi biêt, vi thấy, không bị mê muội, có sự nhận biết rõ, có niệm.
uĐối với vị Bà-la-môn, không có việc bi dẫn dắt bởi người khác,9 là như thế.
Sau khi suy xét điều đã được nắm bắt trong số các pháp.
Trong số các pháp: Là trong số sáu mươi hai tà kiến.
Sau khi suy xét: Sau khi đã suy xét, sau khi đã suy cứu, sau khi đã suy gẫm, sau khi đã suy nghiệm, sau khi đã cân nhắc, sau khi đã xác đinh, sau khi đã minh định, sau khi đã làm rõ rệt, sự nắm lấy có giới hạn, sự nắm lấy từng phần, sự nắm lấy phần quan trọng nhất, sự nắm lấy một khối, sự nắm lấy theo số lượng, sự nắm lấy tổng thể rằng: “Diều này là sự thật, là đúng đắn, là thực thể, là đang xảy ra, là xác đáng, là không bị sai lệch,5; điều đã được nắm lấy, đã được bám víu, đã được chấp chặt, đã được bám chặt, đã được hướng đến như thế là không có, không hiện diện, không tìm thấy, không tồn tại, đã được dứt bỏ? đã được trừ tuyệt, đã được vắng lặng, đã được tịch tinh, không thể sanh khởi nữa, đã được thiêu đốt bởi ngọn lửa trí tuệ.
“Sau khi suy xét điều đã được nắm bắt trong số các pháp [tà kiến]” là như thế.
Do điều ấy, vi Bà-ỉa-môn vượt lên trên các sự tranh cãi.
Do điều ấy: Do điều ấy là bởi lý do ấy, bởi nhân ấy, bởi duyên ấy, bởi căn nguyên ấy, vi Bà-la-môn vượt lên trên, vượt quá, vượt qua hẳn, vượt qua khỏi các sự cãi cọ về quan điểm, các sự cãi lộn về quan điểm, các sự cãi vã về quan diêm, các sự tranh cãi vê quan diêm, các sự gây gô vê quan diêm.
“Do điều ấy, vi Bà-la-môn vượt lên trên các sự tranh c負i” là như thế.
Bỏi vì vi Bà-la-môn không nhìn thấy học thuyết khác là tối thắng: Vị Bà-la-môn không nhìn thấy, không nhận thấy, không quan sát, không suy xét, không khảo sát bậc Đạo sư khác, giáo lý khác, táp thể khác, quan điểm khác, lối thực hành khác, đạo lộ khác là pháp cao cả, nhát hạng, thù thắng, dẫn dầu, tối thượng, cao quý; ngoại trừ các sự thiết lập niệm, ngoại trừ các chánh cần, ngoại trừ các nền tảng của thần thông, ngoại trừ các quyền, ngoại trừ các lực, ngoại trừ các yếu tố đưa đến giác ngộ, ngoại trừ đạo lộ Thánh thiện tám chi phần.
“Bởi vì vị Bà-la-môn không nhìn thấy học thuyết khác là tối thắng,, là như thế.
Tenāha bhagavā: “Na brāhmaṇassa paraneyyamatthi dhammesu niccheyya samuggahītaṃ, tasmā vivādāni upātivatto na hi seṭṭhato passati dhammamaññan ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Đối với vị Bà-la-môn, không có việc bị hướng dẫn bởi người khác; trong số các pháp (tà kiến), không có điều gì đã được nắm bắt sau khi đã suy xét. Do điều ấy, vị Bà-la-môn vượt lên trên các sự tranh cãi, bởi vì vị Bà-la-môn nhìn thấy học thuyết khác là không tối thắng.”
13.14
Jānāmi passāmi tatheva etaṃ diṭṭhiyā eke paccenti suddhiṃ, adakkhi ce kiṃ hi tumassa tena atisitvā aññena vadanti suddhiṃ.
(Nói rằng): ‘Tôi biết, tôi thấy điều ấy chắc chắn là như thế,’ một số tin rằng sự trong sạch là do việc thấy. Nếu đã nhìn thấy, điều gì có được cho bản thân với việc (thấy) ấy? Sau khi sai sót, chúng nói về sự trong sạch theo cách khác.
Họ nói: “Tôi thấy, biết,
Cái này là như vậy”.
Họ đi đến quan điểm,
Thanh tịnh nhờ tri kiến,
Vị ấy đã thấy vậy,
Cần gì kiến người khác,
Vượt qua được quan điểm,
Thanh tịnh nhờ pháp khác.
(Kinh Tập, câu kệ 908)
Jānāmi passāmi tatheva etan ’ti – Jānāmī ’ti paracittavijānanañāṇena jānāmi; pubbenivāsānussatiñāṇena vā jānāmi. Passāmī ’ti maṃsacakkhunā vā passāmi; dibbena cakkhunā vā passāmi. Tatheva etan ’ti etaṃ tacchaṃ bhūtaṃ yāthāvaṃ aviparītan’ti – jānāmi passāmi tatheva etaṃ.
Diṭṭhiyā eke paccenti suddhin ’ti – Diṭṭhiyā eke samaṇabrāhmaṇā suddhiṃ visuddhiṃ parisuddhiṃ muttiṃ vimuttiṃ parimuttiṃ paccenti. ‘Sassato loko idameva saccaṃ moghamaññan ’ti diṭṭhiyā eke samaṇabrāhmaṇā suddhiṃ visuddhiṃ parisuddhiṃ muttiṃ vimuttiṃ parimuttiṃ paccenti. ‘Asassato loko –pe– Neva hoti na na hoti tathāgato parammaraṇā, idameva saccaṃ moghamaññan ’ti diṭṭhiyā eke samaṇabrāhmaṇā suddhiṃ visuddhiṃ parisuddhiṃ muttiṃ vimuttiṃ parimuttiṃ paccentī ’ti – diṭṭhiyā eke paccenti suddhiṃ.
Adakkhi ce kiṃ hi tumassa tenā ’ti – Adakkhī ’ti paracittavijānanañāṇena vā adakkhi, pubbenivāsānussatiñāṇena vā adakkhi, maṃsacakkhunā va adakkhi, dibbena cakkhunā vā adakkhī ’ti – adakkhi ce.
Kiṃ hi tumassa tenā ’ti – Tassa tena dassanena kiṃ kataṃ? Na dukkhapariññā atthi, na samudayassa pahānaṃ atthi, na maggabhāvanā atthi, na rāgassa samucchedappahānaṃ atthi, na dosassa samucchedappahānaṃ atthi, na mohassa samucchedappahānaṃ atthi, na kilesānaṃ samucchedappahānaṃ atthi, na saṃsāravaṭṭassa upacchedo atthī ’ti – adakkhi ce kiṃ hi tumassa tena.
Atisitvā aññena denti suddhin ’ti – Te titthiyā suddhimaggaṃ visuddhimaggaṃ parisuddhimaggaṃ vodātamaggaṃ pariyodātamaggaṃ atikkamitvā samatikkamitvā vītivattitvā aññatra satipaṭṭhānehi, aññatra sammappadhānehi, aññatra iddhipādehi, aññatra indriyehi, aññatra balehi, aññatra bojjhaṅgehi, aññatra ariyā aṭṭhaṅgikā maggā suddhiṃ visuddhiṃ parisuddhiṃ muttiṃ vimuttiṃ parimuttiṃ vadanti kathenti bhaṇanti dīpayanti voharantī ’ti; evampi atisitvā aññena vadanti suddhiṃ.
Athavā buddhā ca buddhasāvakā ca paccekabuddhā ca tesaṃ titthiyānaṃ asuddhimaggaṃ avisuddhimaggaṃ aparisuddhimaggaṃ avodātamaggaṃ apariyodātamaggaṃ atikkamitvā samatikkamitvā vītivattitvā catuhi satipaṭṭhānehi catuhi sammappadhānehi catuhi iddhipādehi pañcahi indriyehi pañcahi balehi sattahi bojjhaṅgehi ariyena aṭṭhaṅgikena maggena suddhiṃ visuddhiṃ parisuddhiṃ muttiṃ vimuttiṃ parimuttiṃ vadanti kathenti bhaṇanti dīpayanti voharantī ’ti evampi atisitvā aññena vadanti suddhiṃ.
Tôi biết, tôi thấy điều ấy chắc chắn là như thế.
Tôi biết: Tôi biết bằng trí nhận biết tâm của người khác, hoặc tôi biết bằng trí nhớ lại các kiếp sống quá khứ.
Tôi thấy: Tôi thấy bằng nhục nhãn, hoặc tôi thấy bằng thiên nhãn.
Điều ấy chắc chắn là như thế: Điều ấy là đúng đắn, là đang xảy ra, là xác đáng, là không bi sai lệch.
“Tôi biết, tôi thấy điều ấy chắc chắn là như thế” là như thế.
Một số tin rằng sự trong sạch là do việc thấy: Một số Sa-môn và Bà- la-môn tin rằng sự trong sạch, sự thanh tịnh, sự hoàn toàn trong sạch, sự thoát khỏi, sự giải thoát, sự hoàn toàn thoát khỏi là do việc thấy. Một số Sa-môn và Bà-la-môn tin rằng sự trong sạch, sự thanh tịnh, sự hoàn toàn trong sạch, sự thoát khỏi, sự giải thoát, sự hoàn toàn thoát khỏi là do việc thấy rằng: “Thế giới là thường còn; chỉ điều này là chân lý, điều khác là rồ dại.,, Một số Sa-môn và Bà-la-môn tin rằng sự trong sạch, sự thanh tịnh, sự hoàn toàn trong sạch, sự thoát khỏi, sự giải thoát, sự hoàn toàn thoát khỏi là do việc thấy rang: “Thế giới là không thường còn5… (nt)… chúng sanh không hiện hữu và không phải là không hiện hữu ở nơi khác sau khi chết; chỉ điều này là chân lý, điều khác là rồ dại”
“Một số tin rằng sự trong sạch là do việc thấy” là như thế.
Nếu đã nhìn thấy, điều gì có được cho bản thân vơi việc [thấy] ấy?
Đã nhìn thấy: Đã nhìn thấy bằnẹ trí nhận biết tâm của người khác, hoặc đã nhìn thấy bằng trí nhớ lại các kiếp sống quá khứ, hoặc đã nhìn thấy bằng nhục nhãn, hoặc đã nhìn thấy bằng thiên nhãn. “Nếu đã nhìn thấy” là như thế.
Điều gì có được cho bản thân với việc [thấy] ấy? Với việc nhìn thấy ấy của vị ấy thì đã làm được gì? Không có sự biết toàn diện về khổ, không có sự dứt bỏ tập, không có sự tu tập đạo, không có sự dứt bỏ do đoạn trừ luyến ái, không có sự dứt bỏ do đoạn trừ sân hận, không có sự dứt bỏ do đoạn trừ si mê, không có sự dứt bỏ do đoạn trừ các ô nhiễm, không có sự bẻ gãy vòng quay luân hồi.
“Nếu đã nhìn thấy, điều gì có được cho bản thân với việc [thấy] ấy?” là như thế.
Sau khi bỏ qua, chúng nói về sự trong sạch theo cách khác: Những kẻ ngoại đạo ấy, sau khi đã vượt quá, sau khi đã vượt qua hẳn, sau khi đã vượt qua khỏi đạo lộ trong sạch, đạo lộ thanh tịnh, đạo lộ hoàn toàn trong sạch, đạo lộ trong trăng, đạo lộ thuẫn khiêt, chúng nói, thuyêt giảng, phát ngôn, giảng giải, diễn tả ve sự trong sạch, sự thanh tinh, sự hoàn toàn trong sạch, sự thoát khỏi, sự giải thoát, sự hoàn toàn thoát khỏi, ngoại trừ các sự thiết lập niệm, ngoại trừ các chánh cần, ngoại trừ các nền tảng của thần thông, ngoại trừ các quyên, ngoại trừ các lực, ngoại trừ các yêu tô đưa đên giác ngộ, ngoại trừ đạo lộ Thánh thiện tám chi phan. “Sau khi bỏ qua, chúng nói ve sự trong sạch theo cách khác^ là như vậy.
Hoặc là, chư Phật, chư Thinh văn của đức Phật và chư Phật Độc Giác, .• 9 o • 4 :
sau khi đã vượt quá, sau khi đã vượt qua han, sau khi đã vượt qua khỏi đạo lộ không trong sạch, đạo lộ không thanh tinh, đạo lộ không hoàn toàn trong sạch, đạo lộ không trong trắng, đạo lộ không thuần khiết của những kẻ ngoại đạo ấy, các Ngài nói, thuyết giảng, phát ngôn, giảng giải, diễn tả về sự trong sạch, sự thanh tịnh, sự hoàn toàn trong sạch, sự thoát khỏi, sự giải thoát, sự hoàn toàn thoát khỏi do bốn sự thiết lập niệm, do bốn chánh cần, do bốn nền tảng của thần thông, do năm quyền, do năm lực, do bảy yếu to đưa đến giác ngộ, do đạo lộ Thánh thiện tám chi phần.
“Sau khi bỏ qua, chúng nói về sự trong sạch theo cách khác,9 còn là như vậy.
Tenāha bhagavā: “Jānāmi passāmi tatheva etaṃ diṭṭhiyā eke paccenti suddhiṃ, adakkhi ce kiṃ hi tumassa tena atisitvā aññena vadanti suddhin ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng: “(Nói rằng): ‘Tôi biết, tôi thấy điều ấy chắc chắn là như thế,’ một số tin rằng sự trong sạch là do việc thấy. Nếu đã nhìn thấy, điều gì có được cho bản thân với việc (thấy) ấy? Sau khi sai sót, chúng nói về sự trong sạch theo cách khác.”
13.15
Passaṃ naro dakkhati nāmarūpaṃ disvāna vā ñassati tānimeva, kāmaṃ bahuṃ passatu appakaṃ vā na hi tena suddhiṃ kusalā vadanti.
Một người, trong khi nhìn, sẽ nhìn thấy danh và sắc, hoặc sau khi nhìn thấy thì sẽ biết được mỗi chúng mà thôi. Hãy để người ấy nhìn nhiều hay ít theo ý thích, các bậc thiện xảo hẳn nhiên không nói sự trong sạch là do điều ấy.
Người có mắt thấy được,
Cả danh và cả sắc,
Sau khi thấy được họ,
Sẽ biết họ là vậy,
Hãy để họ được thấy,
Các dục nhiều hay ít,
Bậc thiện xảo không nói,
Thanh tịnh là nhờ dục.
(Kinh Tập, câu kệ 909)
Passaṃ naro dakkhati nāmarūpan ’ti – Passaṃ naro paracittavijānanañāṇena vā passanto, pubbenivāsānussatiñāṇena vā passanto, maṃsacakkhunā vā passanto, dibbena cakkhunā vā passanto, nāmarūpaṃ yeva dakkhati niccato sukhato attato; na tesaṃ dhammānaṃ samudayaṃ vā atthaṅgamaṃ vā assādaṃ vā ādīnavaṃ vā nissaraṇaṃ vā dakkhatī ’ti – passaṃ naro dakkhati nāmarūpaṃ.
Disvāna vā ñassati tānimevā ’ti – Disvā ’ti paracittañāṇena vā disvā, pubbenivāsānussatiñāṇena vā disvā, maṃsacakkhunā vā disvā, dibbena cakkhunā vā disvā, nāmarūpaṃ yeva disvā ñassati niccato sukhato attato; na tesaṃ dhammānaṃ samudayaṃ vā atthaṅgamaṃ vā assādaṃ vā ādīnavaṃ vā nissaraṇaṃ vā ñassatī ’ti – disvāna vā ñassati tānimeva.
Kāmaṃ bahuṃ passatu appakaṃ vā ’ti – Kāmaṃ bahukaṃ vā passanto nāmarūpaṃ appakaṃ vā niccato sukhato attato ’ti – kāmaṃ bahuṃ passatu appakaṃ vā.
Na hi tena suddhiṃ kusalā vadantī ’ti – Kusalā ’ti ye te khandhakusalā dhātukusalā āyatanakusalā paṭiccasamuppādakusalā satipaṭṭhānakusalā sammappadhānakusalā iddhipādakusalā indriyakusalā balakusalā bojjhaṅgakusalā maggakusalā phalakusalā nibbānakusalā, te kusalā paracittañāṇena vā pubbenivāsānussatiñāṇena vā maṃsacakkhunā vā dibbena cakkhunā vā nāmarūpadassanena suddhiṃ visuddhiṃ parisuddhiṃ muttiṃ vimuttiṃ parimuttiṃ na vadanti na kathenti na bhaṇanti na dīpayanti na voharantī ’ti – na hi tena suddhiṃ kusalā vadanti.
Một người, trong khi nhìn, sẽ nhìn thấy danh và sắc: Một nẸười trong khi nhìn bằng trí nhận biết tâm của người khác, hoặc trong khi nhìn băng trí nhớ lại các kiếp sống quá khứ, hoặc trong khi nhìn bằng nhục nhãn, hoặc trong khi nhìn bằng thiên nhãn thì nhìn thấy danh và sắc là thường còn, là hạnh phúc, là tự ngã, không nhìn thấy nhân sanh khởi, hoặc sự biến hoại, hoặc sự hứng thú, hoặc sự bất lợi, hoặc sự thoát ra đối với các pháp ấy.
“Một người, trong khi nhìn, sẽ nhìn thấy danh và sắc” là như thế.
Hoặc sau khỉ nhìn thấy thì sẽ biết chỉ mỗi chúng mà thôi.
Sau khi nhìn thây: Sau khi nhìn bang trí nhận biêt tâm của người khác, hoặc sau khi nhìn bằng trí nhớ lại các kiếp song quá khứ, hoặc sau khi nhìn bằng nhục nhãn, hoặc sau khi nhìn bằng thiên nhãn, sau khi nhìn thấy danh và sắc thì sẽ được biết chúng là thường còn, là hạnh phúc, là tự ngã, sẽ không được biết nhân sanh khởi, sự tiêu hoại, sự hứng thú, sự bất lợi, hoặc sự thoát ra đoi với các pháp ấy.
“Hoặc sau khi nhìn thấy thì sẽ biết chỉ mỗi chúng mà th6i” là như thế.
Hãy để người ấy nhìn nhiều hay ít theo ý thích: Trong khi nhìn thấy danh và sắc nhiều hay ít tùy theo ý thích là thường còn, là hạnh phúc, là tự ngã.
“Hãy để người ấy nhìn nhiều hay ít theo ý thích” là như thế.
Các bậc thiện xảo hẳn nhiên không nói sự trong sạch là do điều ấy.
Các bậc thiện xảo: Là các bậc thiện xảo về uẩn, thiện xảo về giới, thiện xảo về xứ, thiện xảo về pháp tùy thuận sanh khởi, thiện xảo về sự thiết lập niệm, thiện xảo về chánh cần, thiện xảo về nền tảng của thần thông, thiện xảo về quyền, thiện xảo về lực, thiện xảo về giác chi, thiện xảo về Bạo, thiện xảo về Quả, thiện xảo về Niết-bàn; các bậc thiện xảo ấy không nói, không thuyết giảng, không phát ngôn, không giảng giải, không diễn tả về sự trong sạch, sự thanh tịnh, sự hoàn toàn trong sạch, sự thoát khỏi, sự giải thoát, sự hoàn toàn thoát khỏi là do việc thấy danh và sắc bằng trí nhận biết tâm của người khác, hoặc bằng trí nhớ lại các kiếp sống quá khứ, hoặc bằng nhục nhãn, hoặc bằng thiên nhãn.
“Các bậc thiện xảo hẳn nhiên không nói sự trong sạch là do điều ấy” là như thế.
Tenāha bhagavā: “Passaṃ naro dakkhati nāmarūpaṃ disvāna vā ñassati tānimeva, kāmaṃ bahuṃ passatu appakaṃ vā na hi tena suddhi kusalā vadantī ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Một người, trong khi nhìn, sẽ nhìn thấy danh và sắc, hoặc sau khi nhìn thấy thì sẽ biết được mỗi chúng mà thôi. Hãy để người ấy nhìn nhiều hay ít theo ý thích, các bậc thiện xảo hẳn nhiên không nói sự trong sạch là do điều ấy.”
13.16
Nivissavādī na hi subbināyo pakappitaṃ diṭṭhi purekkharāno, yaṃ nissito tattha subhaṃvadāno suddhiṃvado tattha tathaddasā so.
Kẻ có lời nói cố chấp quả thật không dễ hướng dẫn, kẻ đang sùng bái quan điểm đã được xếp đặt. Nương tựa vào cái gì thì nói điều tốt đẹp về cái ấy, với lời tuyên bố về sự trong sạch, kẻ ấy đã nhìn thấy sự thật ở nơi ấy.
Người đã gọi cuồng tín,
Không đưa đến thanh tịnh,
Vì đã có thiên vị,
Với tri kiến tác thành,
Y chỉ nơi cái gì,
Nơi đấy là tinh sạch,
Người tuyên bố thanh tịnh,
Thấy ở đấy như vậy.
(Kinh Tập, câu kệ 910)
Nivissavādī na hi subbināyo ’ti – ‘Sassato loko idameva saccaṃ moghamaññan ’ti nivissavādī; ‘Asassato loko –pe– Neva hoti na na hoti tathāgato parammaraṇā, idameva saccaṃ moghamaññan ’ti nivissavādī. Na hi subbināyo ’ti nivissavādī dubbinayo duppaññāpiyo dunnijjhāpiyo duppekkhāpiyo duppasādiyo ’ti – nivissavādī na hi subbināyo.
Pakappitaṃ diṭṭhi purekkharāno ’ti – Kappitaṃ pakappitaṃ abhisaṅkhataṃ saṇṭhapitaṃ diṭṭhiṃ purakkhataṃ katvā carati. Diṭṭhidhajo diṭṭhiketu diṭṭhādhipateyyo diṭṭhiyā parivārito caratī ’ti – pakappitaṃ diṭṭhi purekkharāno.
Yaṃ nissito tattha subhaṃvadāno ’ti – Yaṃ nissito ’ti yaṃ satthāraṃ dhammakkhānaṃ gaṇaṃ diṭṭhiṃ paṭipadaṃ maggaṃ nissito sannissito allīno upagato ajjhosito adhimutto ’ti – yaṃ nissito. Tatthā ’ti sakāya diṭṭhiyā sakāya khantiyā sakāya ruciyā sakāya laddhiyā. Subhaṃvadāno ’ti subhavādo sobhanavādo paṇḍitavādo thiravādo ñāyavādo hetuvādo lakkhaṇavādo kāraṇavādo ṭhānavādo sakāya laddhiyā ’ti – yaṃ nissito tattha subhaṃvadāno.
Suddhiṃvado tattha tathaddasā so ’ti – Suddhivādo visuddhivādo parisuddhivādo pariyodātavādo; athavā suddhidassano visuddhidassano parisuddhidassano vodātadassano pariyodātadassano ’ti – suddhiṃvado. Tatthā ’ti sakāya diṭṭhiyā sakāya khantiyā sakāya ruciyā sakāya laddhiyā tathaṃ tacchaṃ bhūtaṃ yāthāvaṃ aviparītanti addasa adakkhi apassi paṭivijjhī ’ti – suddhiṃvado tattha tathaddasā so.
Kẻ chấp chặt vào học thuyết quả thật không dễ hướng dẫn: Kẻ chấp chặt vào học thuyết rằng: “Thế giới là thường còn; chỉ điều này là chân lý, điều khác là rồ dại.” Kẻ chấp chặt vào học thuyết rằng: “Thế giới là không thường còn,… (nt)… chúng sanh không hiện hữu và không phải là không hiện hữu ở nơi khác sau khi chết; chỉ điều này là chân lý? điều khác là rồ d@i.”
Quả thật không dễ hướng dẫn: Kẻ chấp chặt vào học thuyết là khó hướng dẫn, khó làm cho hiểu được, khó làm cho lưu tâm, khó giúp cho thấy, khó tạo được niềm tin.
uKẻ chấp chặt vào học thuyết quả thật không dễ hướng dan,9 là như thế.
Kẻ đang chú trọng quan diêm đã được xép đặt: Kẻ ây sông, chú trọng quan điểm đã được sắp dặt, đã được xếp đặt, đã được tạo tác, đã được thành lập, có quan điểm là ngọn cờ, có quan điểm là biểu hiện, có quan điểm là chủ đạo, r r e 9
kẻ ây sông, được vây quanh bởi quan diêm.
uKẻ đang chú trọng quan diêm đã được xép dặt” là như thê.
Nương tựa vào cái gì thì nói điều tốt đẹp về cái ấy.
Nương tựa vào cái gì: Nương tựa, nương nhờ, bám vào, đến gần, bám chặt, hướng đến bậc Đạo sư nào, giáo lý nào, tập thể nào, quan điểm nào, lối thực hành nào, đạo lộ nào. “Nuông tựa vào cái gi” là như thế.
về cái ấy: về quan điểm của mình, về sự chấp nhận của mình, về sự ưa thích của mình, về quan niệm của mình.
Nói điều tốt đẹp: Nói lời tốt đẹp, nói lời lịch sự, nói lời sáng suốt, nói lời vững chắc, nói lời đúng đắn, nói lời thực tiễn, nói lời rõ rệt, nói lời gương mẫu, nói lời giá tri dựa theo quan niệm của mình.
“Nương tựa vào cái gì thì nói điều tốt đẹp về cái ấy” là như thế.
Với lời tuyên bố về sự trong sạch, kẻ ấy đã nhìn thấy thực thể ờ Iì(ri ấy: Với lời tuyên bố về sự trong sạch, với lời tuyên bố về sự thanh tịnh, với lời tuyên bô vê sự hoàn toàn trong sạch, với lời tuyên bô vê sự thuân khiêt; hoặc là với sự thấy trong sạch, với sự thấy thanh tịnh, với sự thấy hoàn toàn trong sạch, với sự thây trong trăng, với sự thây thuân khiêt. “Với lời tuyên bô vê sự trong sạch’ là như thế?
ở nơi ấy: ở quan điểm của mình, ở sự chấp nhận của mình, ở sự ưa thích của mình, ở quan niệm của mình, kẻ ấy đã nhìn thấy, đã nhận thấy, đã nhìn xem, đã thấu triệt thực thể, sự đúng đắn, việc đang xảy ra, sự xác dáng, sự không bị sai lệch.
uVới lời tuyên bố về sự trong sạch, kẻ ấy đã nhìn thấy thực thể ở nơi ấy” là như thế.
Tenāha bhagavā: “Nivissavādī na hi subbināyo pakappitaṃ diṭṭhipurekkharāno, yaṃ nissito tattha subhaṃvadāno suddhiṃvado tattha tathaddasā so ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Kẻ có lời nói cố chấp quả thật không dễ hướng dẫn, kẻ đang sùng bái quan điểm đã được xếp đặt. Nương tựa vào cái gì thì nói điều tốt đẹp về cái ấy, với lời tuyên bố về sự trong sạch, kẻ ấy đã nhìn thấy sự thật ở nơi ấy.”
13.17
Na brāhmaṇo kappamupeti saṅkhaṃ na diṭṭhisārī napi ñāṇabandhu, ñatvā ca so sammutiyo puthujjā upekkhatī uggaṇhanti maññe.
Sau khi cân nhắc, vị Bà-la-môn không tiếp cận sự sắp đặt (của tham ái và tà kiến), không có sự hùa theo tà kiến, cũng không có sự trói buộc (sanh ra) do các loại trí. Và vị ấy, sau khi biết các thỏa thuận chung được sanh lên từ số đông, hành xả (nói rằng): Hãy để những kẻ khác tiếp thu.Phạm chí không rơi vào,
Thời gian và ước lượng,
Không theo các tri kiến,
Không bà con với trí,
Biết được các thế tục,
Do phàm phu chấp thủ,
Các người khác học hỏi,
Vị ấy sống hỷ xả.
(Kinh Tập, câu kệ 911)
Na brāhmaṇo kappamupeti saṅkhan ’ti – Nā ’ti paṭikkhepo. Brāhmaṇo ’ti sattannaṃ dhammānaṃ bāhitattā brāhmaṇo –pe– asito tādī pavuccate sa brahmā. Kappā ’ti dve kappā: taṇhākappo ca diṭṭhikappo ca –pe– ayaṃ taṇhākappo –pe– ayaṃ diṭṭhikappo. Saṅkhā vuccati ñāṇaṃ, yā paññā pajānanā –pe– amoho dhammavicayo sammādiṭṭhi. Na brāhmaṇo kappamupeti saṅkhan ’ti brāhmaṇo saṅkhāya jānitvā tulayitvā tīrayitvā vibhāvayitvā vibhūtaṃ katvā ‘sabbe saṅkhārā aniccāti, sabbe saṅkhārā dukkhāti –pe– yaṃ kiñci samudayadhammaṃ sabbaṃ taṃ nirodhadhamman ’ti saṅkhāya jānitvā tulayitvā tīrayitvā vibhāvayitvā vibhūtaṃ katvā taṇhākappaṃ vā diṭṭhikappaṃ vā neti, na upeti, na upagacchati, na gaṇhāti, na parāmasati, nābhinivisatī ’ti – na brāhmaṇo kappamupeti saṅkhaṃ.
Sau khi cân nhắc, vị Bà-la-môn không tiếp cận sự sắp đặt (của tham ái và tà kiến) – Không: là sự chối bỏ. Vị Bà-la-môn: Bà-la-môn do trạng thái đã loại trừ bảy pháp: –nt– Không bị phụ thuộc, tự tại, vị ấy được gọi là Bà-la-môn. Sắp đặt: Có hai sự sắp đặt: sắp đặt do tham ái và sắp đặt do tà kiến. –nt– điều này là sắp đặt do tham ái. –nt– điều này là sắp đặt do tà kiến. Sự cân nhắc: nói đến trí, là sự nhận biết, kiến thức, —nt— sự không si mê, sự chọn lựa pháp, chánh kiến. Sau khi cân nhắc, vị Bà-la-môn không tiếp cận sự sắp đặt (của tham ái và tà kiến): Vị Bà-la-môn, sau khi cân nhắc, sau khi biết được, sau khi cân nhắc, sau khi xác định, sau khi minh định, sau khi làm rõ rệt rằng: ‘Tất cả các hành là vô thường,’ ‘Tất cả các hành là khổ,’ –nt– ‘Điều gì có bản tánh được sanh lên, toàn bộ điều ấy đều có bản tánh hoại diệt,’ sau khi cân nhắc, sau khi biết được, sau khi cân nhắc, sau khi xác định, sau khi minh định, sau khi làm rõ rệt, (vị ấy) không đi đến, không tiếp cận, không đi đến gần, không nắm lấy, không bám víu, không cố chấp sự sắp đặt do tham ái hoặc sự sắp đặt do tà kiến; – ‘sau khi cân nhắc, vị Bà-la-môn không tiếp cận sự sắp đặt (của tham ái và tà kiến)’ là như thế.
Na diṭṭhisārī napi ñāṇabandhū ’ti – Tassa dvāsaṭṭhi diṭṭhigatāni pahīnāni samucchinnāni vūpasantāni paṭippassaddhāni abhabbuppattikāni ñāṇagginā daḍḍhāni; so diṭṭhiyā na yāyati, na niyyati, na vuyhati, na saṃhariyyati; napi taṃ diṭṭhigataṃ sārato pacceti, na paccāgacchatī ’ti ¬- na diṭṭhisārī. Napi ñāṇabandhū ’ti aṭṭhasamāpattiñāṇena vā, pañcābhiññāñāṇena vā, micchāñāṇena vā, taṇhābandhaṃ vā, diṭṭhibandhaṃ vā na karoti, na janeti, na sañjaneti, na nibbatteti, nābhinibbattetī ’ti – na diṭṭhisārī napi ñāṇabandhu.
Không có sự hùa theo tà kiến, cũng không có sự trói buộc (sanh ra) do các loại trí – Đối với vị ấy, 62 tà kiến là đã được dứt bỏ, đã được trừ tuyệt, được vắng lặng, được tịch tịnh, không thể sanh khởi nữa, đã được thiêu đốt bởi ngọn lửa trí tuệ. Vị ấy không bị đưa đi, không bị dẫn đi, không bị lôi đi, không bị mang đi bởi tà kiến, cũng không tin tưởng tà kiến ấy từ trong cốt lõi, không trở lại; – ‘không có sự hùa theo tà kiến’ là như thế. Cũng không có sự trói buộc (sanh ra) do các loại trí: là không tạo lập, không làm sanh ra, không làm sanh khởi, không làm hạ sanh, không làm phát sanh ra sự trói buộc vào tham ái hoặc sự trói buộc vào tà kiến do trí của tám sự chứng đạt (về thiền), hoặc do trí của năm thắng trí, hoặc do trí sái quấy; – ‘không có sự hùa theo tà kiến, cũng không có sự trói buộc (sanh ra) do các loại trí’ là như thế.
Ñatvā ca so sammutiyo puthujjā ’ti – Ñatvā ’ti ñatvā jānitvā tulayitvā tīrayitvā vibhāvayitvā vibhūtaṃ katvā. ‘Sabbe saṅkhārā aniccāti ñatvā jānitvā tulayitvā tīrayitvā vibhāvayitvā vibhūtaṃ katvā; ‘Sabbe saṅkhārā dukkhāti –pe– Yaṃ kiñci samudayadhammaṃ sabbaṃ taṃ nirodhadhamman ’ti ñatvā jānitvā tulayitvā tīrayitvā vibhāvayitvā vibhūtaṃ katvā ’ti – ñatvā ca so. Sammutiyo vuccanti dvāsaṭṭhidiṭṭhigatāni diṭṭhisammutiyo. Puthujjā ’ti puthujjanehi janitā vā tā sammutiyoti puthujjā, puthu nānājanehi janitā vā tā sammutiyoti puthujjā ’ti – ñatvā ca so sammutiyo puthujjā.
Và vị ấy, sau khi biết các thỏa thuận chung được sanh lên từ số đông – Sau khi biết: sau khi nhận biết, sau khi biết được, sau khi cân nhắc, sau khi xác định, sau khi minh định, sau khi làm rõ rệt. Sau khi nhận biết, sau khi biết được, sau khi cân nhắc, sau khi xác định, sau khi minh định, sau khi làm rõ rệt rằng: ‘Tất cả các hành là vô thường.’ Sau khi nhận biết, sau khi biết được, sau khi cân nhắc, sau khi xác định, sau khi minh định, sau khi làm rõ rệt rằng: ‘Tất cả các hành là khổ,’ –nt– ‘Điều gì có bản tánh được sanh lên, toàn bộ điều ấy đều có bản tánh hoại diệt;’ – ‘và vị ấy, sau khi biết’ là như thế. Các thỏa thuận chung: nói đến 62 tà kiến, các thỏa thuận chung về quan điểm. Được sanh lên từ số đông: là được sanh ra bởi các phàm nhân, được sanh lên bởi số đông gọi là ‘các thỏa thuận chung;’ được sanh ra bởi số đông gồm nhiều người khác nhau, hoặc được sanh lên bởi số đông gọi là ‘các thỏa thuận chung;’ – ‘Và vị ấy, sau khi biết các thỏa thuận chung được sanh lên từ số đông’ là như thế.
Upekkhatī uggaṇhanti maññe ’ti – Aññe taṇhāvasena diṭṭhivasena gaṇhanti parāmasanti abhinivisanti, arahā upekkhati, na gaṇhāti, na parāmasati, nābhinivisatī ’ti – upekkhetī uggaṇhanti maññe.
Hành xả (nói rằng): Hãy để những kẻ khác tiếp thu – Những kẻ khác nắm lấy, bám víu, cố chấp do tác động của tham ái, do tác động của tà kiến; bậc A-la-hán hành xả, không nắm lấy, không bám víu, không cố chấp; – ‘hành xả (nói rằng): Hãy để những kẻ khác tiếp thu’ là như thế.
Tenāha bhagavā: “Na brāhmaṇo kappamupeti saṅkhaṃ na diṭṭhisārī napi ñāṇabandhu, ñatvā ca so sammutiyo puthujjā upekkhatī uggaṇhanti maññe ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Sau khi cân nhắc, vị Bà-la-môn không tiếp cận sự sắp đặt (của tham ái và tà kiến), không có sự hùa theo tà kiến, cũng không có sự trói buộc (sanh ra) do các loại trí. Và vị ấy, sau khi biết các thỏa thuận chung được sanh lên từ số đông, hành xả (nói rằng): Hãy để những kẻ khác tiếp thu.”
13.18
Visajja ganthāni munīdha loke vivādajātesu na vaggasārī, santo asantesu upekkhako so anuggaho uggaṇhanti maññe.
Sau khi tháo gỡ các sự trói buộc ở nơi thế gian này, bậc hiền trí không hùa theo phe nhóm ở các cuộc tranh cãi đã được sanh lên. Vị ấy hành xả, an tịnh giữa những người không an tịnh, không tiếp thu, (nói rằng): Hãy để những kẻ khác tiếp thu.
Không chấp thủ triền phược,
ẩn sĩ sống ở đời,
Giữa tranh luận khởi lên,
Không theo phe phái nào,
Sống an tịnh, hỷ xả,
Giữa những người không tịnh,
Các người khác học hỏi,
Vị ấy sống không học.
(Kinh Tập, câu kệ 912)
Visajja ganthāni munīdha loke ’ti – Ganthā ’ti cattāro ganthā: abhijjhā kāyagantho, byāpādo kāyagantho, sīlabbataparāmāso kāyagantho, idaṃsaccābhiniveso kāyagantho. Attano diṭṭhiyā rāgo abhijjhā kāyagantho, paravādesu āghāto appaccayo byāpādo kāyagantho, attano sīlaṃ vā vataṃ vā sīlabbataṃ vā parāmasati sīlabbataparāmāso kāyagantho, attano diṭṭhi idaṃsaccābhiniveso kāyagantho. Visajjā ’ti ganthe vossajitvā vā visajja; athavā ganthe gathite ganthite baddhe vibaddhe ābaddhe lagge laggite paḷibuddhe bandhane phoṭayitvā vā visajja. Yathā vayhaṃ vā rathaṃ vā sakaṭaṃ vā sandamānikaṃ vā sajjaṃ visajjaṃ karonti vikopenti, evamevaṃ ganthe vossajjitvā vā visajja; athavā ganthe gathite ganthite baddhe vibaddhe ābaddhe lagge laggite paḷibuddhe bandhane phoṭayitvā vā visajja. Munī ’ti monaṃ vuccati ñāṇaṃ –pe– saṅgajālamaticca so muni. –pe– Idhā ’ti – imissā diṭṭhiyā –pe– imasmiṃ manussaloke ’ti – visajja ganthāni munīdha loke.
Vivādajātesu na vaggasārī ’ti – Vivāde jāte sañjāte nibbatte abhinibbatte pātubhūte, chandāgatiṃ gacchantesu, dosāgatiṃ gacchantesu, bhayāgatiṃ gacchantesu, mohāgatiṃ gacchantesu, na chandāgatiṃ gacchati, na dosāgatiṃ gacchati, na bhayāgatiṃ gacchati, na mohāgatiṃ gacchati, na rāgavasena gacchati, na dosavasena gacchati, na mohavasena gacchati, na mānavasena gacchati, na diṭṭhivasena gacchati, na uddhaccavasena gacchati, na vicikicchāvasena gacchati, na anusayavasena gacchati, na vaggehi dhammehi yāyati nīyati vuyhati saṃharīyatī ’ti – vivādajātesu na vaggasārī.
Santo asantesu upekkhako so ’ti – Santo ’ti rāgassa santattā santo; dosassa santattā santo, mohassa santattā santo –pe– sabbākusalābhisaṅkhārānaṃ santattā samitattā vūpasamitattā vijjhātattā nibbutattā vigatattā paṭippassaddhattā santo upasanto vūpasanto nibbuto paṭippassaddho ’ti – santo. Asantesū ’ti asantesu anupasantesu avūpasantesu anibbutesu appaṭippassaddhesū ’ti – santo asantesu. Upekkhako so ’ti arahā chaḷaṅgupekkhāya samannāgato: cakkhunā rūpaṃ disvā neva sumano hoti, na dummano, upekkhako viharati sato sampajāno, sotena saddaṃ sutvā –pe– kālaṃ kaṅkhati bhāvitatto sudanto ’ti – santo asantesu upekkhako so.
Anuggaho uggaṇhanti maññe ’ti – Aññe taṇhāvasena diṭṭhivasena gaṇhanti parāmasanti abhinivisanti, arahā upekkhati na gaṇhāti na parāmasati nābhinivisatī ’ti – anuggaho uggaṇhanti maññe.
Sau khi tháo gở các sự trói buộc ờ nơi thế gian này, bậc Hiền trí.
Các sự trói buộc: Có bốn sự trói buộc: Tham đắm là sự trói buộc về thân, tức giận là sự trói buộc về thân, sự bám víu vào giới và phận sự là sự trói buộc về thân, sự chấp chặt “chỉ điều này là chân ly” là sự trói buộc về thân. Sự luyến ái, tham đắm vào quan điểm của mình là sự trói buộc về thân. Sự tức tối, không băng lòng, tức giận đôi với các học thuyêt của kẻ khác là sự trói buộc vê thân. Có kẻ bám víu vào giới, hoặc phận sự, hoặc giới và phận sự của bản thân; sự bám víu vào giới và phận sự là sự trói buộc về thân. Quan điểm của bản thân có sự chấp chặt “chi điêu này là chân ly” là sự trói buộc về thân.
Sau khi tháo gỡ: Sau khi cởi bỏ hoặc sau khi tháo gỡ các sự trói buộc; hoặc là sau khi tháo rời hay sau khi tháo gỡ các sự trói buộc, các vật bị buộc trói. các vật bi buộc ràng, các vật bi cột chặt, các vật bi cột kỹ, các vật bi cột chằng chịt, các vật bị máng vào, các vật bị vướng vào, các vật bi giữ lại, các sự trói chặt. Giống như những người thực hiện sự tháo gỡ5 phá vỡ cái kiệu khiêng, hoặc cỗ xe, hoặc xe tải, hoặc cỗ xe kéo liền lặn; tương tự như vậy, sau khi cởi bỏ hoặc sau khi tháo gỡ các sự trói buộc, hoặc là sau khi tháo rời, hay sau khi tháo gỡ các sự trói buộc, các vật bị buộc trói, các vật bi buộc ràng, các vật bị cột chặt, các vật bị cột kỹ, các vật bi cột chằng chịt, các vật bị máng vào, các vật bi vướng vào, các vật bị giữ lại, các sự trói chặt.
Bậc Hiên trí: Bản thê hiên trí nói đên trí,… (nt)..・ đã vượt qua sự quyên luyến và mạng lưới [tham ái và tà kiến], vị ấy là bậc Hiền trí.
ở nơi này: ở quan điểm này,… (nt)… ở thế giới loài người này.
“Sau khi tháo gỡ các sự trói buộc ở nơi thế gian này, bậc Hiền trí” là như thế.
Không hùa theo phe nhóm ờ các cuộc tranh cãi đã được sanh lên: Khi cuộc tranh cãi đã sanh lên, đã sanh khởi, đã hạ sanh, đã phát sanh, đã xuất hiện giữa những người thiên vị vì mong muốn, giữa những người thiên vi vì sân hận, giữa những người thiên vị vì sợ hãi, giữa những người thiên vị vì si mê, vị ấy không đi đến sự thiên vị vì ưa thích, không đi đến sự thiên vị vì sân hận, không đi đến sự thiên vị vì sợ hãi, không đi đến sự thiên vị vì si mê, không đi đến do tác động của luyến ái, không đi đến do tác động của sân hận, không đi đến do tác động của si mê, không đi đến do tác động của ngã mạn, không đi đến do tác động của tà kiên, không đi đên do tác động của phóng dật, không đi đên do tác động của hoài nghi, không đi đến do tác động của pháp tiềm ẩn, không bị đưa đi, không bị dẫn di, không bị lôi đi, không bị mang đi bởi các pháp có tính chất phe nhóm.
“Không hùa theo phe nhóm ở các cuộc tranh cãi đã được sanh lên” là như thế.
An tịnh giữa những người không an tinh, vi ấy hành xả.
An tịnh: Trạng thái được an tịnh của luyến ái là an tịnh, trạng thái được an tịnh của sân hận là an tịnh, trạng thái được an tịnh của si mê là an tinh,… (nt)… trạng thái được an tịnh, trạng thái được yên lặng, trạng thái được vắng lặng, trạng thái được thiêu hủy, trạng thái được tịch diệt, trạng thái được tách lìa, trạng thái được tịch tinh của tất cả các pháp tạo tác bất thiện là an tịnh, yên tịnh, vắng lặng, tịch diệt, tịch tịnh. “An tjnh” là như thế.
Giữa những người không an tinh: Giữa những người không an tịnh, giữa những người không yên tịnh, giữa những người không vắng lặng, giữa những người không tịch diệt, giữa những người không tịch tịnh. “An tịnh giữa những người không an tịnh,, là như thê.
Vi ấy hành xả: Bậc A-la-hán có pháp hành xả ở sáu tình huống: Sau khi thây cảnh sác băng măt, khống có ý ưa thích, không có ý ghét bỏ, hành xả, vị ây sông, có niệm, có sự nhận biêt rõ; sau khi nghe âm thanh băng tai,… (nt).・・ vị có bản thân đã được tu tập, đã được huân luyện chờ đợi thời diêm.
“An tịnh giữa những người không an tịnh, vị ấy hành x負“ là như thế.
Không tiếp thu, còn những kẻ khác tiếp thu: Những kẻ khác nắm lấy, bám víu, chấp chặt do tác động của tham ái, do tác độn^ của tà kiến; bậc A-la- hán hành xả, không nắm lấy, không bám víu, không châp chặt.
uKhông tiếp thu, còn những kẻ khác tiếp thu” là như thế.
Tenāha bhagavā: “Visajja ganthāni munīdha loke vivādajātesu na vaggasārī, santo asantesu upekkhako so anuggaho uggaṇhanti maññe ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Sau khi tháo gỡ các sự trói buộc ở nơi thế gian này, bậc hiền trí không hùa theo phe nhóm ở các cuộc tranh cãi đã được sanh lên. Vị ấy hành xả, an tịnh giữa những người không an tịnh, không tiếp thu, (nói rằng): Hãy để những kẻ khác tiếp thu.”
13.19
Pubbāsave hitvā nave akubbaṃ na chandagū nopi nivissavādī, sa vippamutto diṭṭhigatehi dhīro na lippati loke anattagarahī.
Sau khi từ bỏ các lậu hoặc trước đây, không tạo ra những lậu hoặc mới, không là người đi theo sự (tác động của) mong muốn, cũng không phải là kẻ có lời nói cố chấp, vị ấy đã được giải thoát khỏi các tà kiến, là bậc sáng trí, không bị nhơ bẩn ở thế gian, không có sự chê trách bản thân.
Từ bỏ lậu hoặc cũ,
Không tạo lậu hoặc mới,
Không đi đến ước muốn,
Không cuồng tín chấp thủ,
Vị Hiền trí như vậy,
Thoát khỏi các tà kiến,
Không tham dính ở đời,
Không bị ngã chỉ trích.
(Kinh Tập, câu kệ 913)
Pubbāsave hitvā nave akubban ’ti – Pubbāsavā vuccanti atītā rūpavedanāsaññāsaṅkhāraviññāṇā. Atīte saṅkhāre ārabbha ye kilesā upajjeyyuṃ, te kilese hitvā cajitvā pariccajitvā pajahitvā vinodetvā byantīkaritvā anabhāvaṃ gametvā ’ti – pubbāsave hitvā. Nave akubban ’ti – Navā vuccanti paccuppannā rūpavedanāsaññāsaṅkhāraviññāṇā. Paccuppanne saṅkhāre ārabbha chandaṃ akubbamāno pemaṃ akubbamāno rāgaṃ akubbamāno ajanayamāno asañjanayamāno anibbattayamāno anabhinibbattayamāno ’ti – pubbāsave hitvā nave akubbaṃ.
Na chandagū nopi nivissavādī ’ti – Na chandāgatiṃ gacchati, na dosāgatiṃ gacchati, na bhayāgatiṃ gacchati, na mohāgatiṃ gacchati, na rāgavasena gacchati, na dosavasena gacchati, na mohavasena gacchati, na mānavasena gacchati, na diṭṭhivasena gacchati, na uddhaccavasena gacchati, na vicikicchāvasena gacchati, na anusayavasena gacchati, na vaggehi dhammehi yāyati niyyati vuyhati na saṃhariyyatī ’ti – na chandagū.
Nopi nivissavādī ’ti – ‘Sassato loko idameva saccaṃ moghamaññan’ti na nivissavādī –pe– Neva hoti na na hoti tathāgato parammaraṇā, idameva saccaṃ moghamaññanti na nivissavādī ’ti – na chandagū nopi nivissavādī.
Sa vippamutto diṭṭhigatehi dhīro ’ti – Tassa dvāsaṭṭhidiṭṭhigatāni, pahīnāni samucchinnāni vūpasantāni paṭippassaddhāni abhabbuppattikāni ñāṇagginā daḍḍhāni; so diṭṭhigatehi vippamutto visaññutto vimariyādīkatena cetasā viharati. Dhīro ’ti dhīro paṇḍito paññavā buddhimā ñāṇī vibhāvī medhāvī ’ti – sa vippamutto diṭṭhigatehi dhīro.
Na lippati loke anattagarahī ’ti – Lepā ’ti dve lepā: taṇhālepo ca, diṭṭhilepo ca. –pe– ayaṃ taṇhālepo –pe– ayaṃ diṭṭhilepo. Tassa taṇhā lepo pahīno, diṭṭhilepo paṭinissaṭṭho; taṇhālepassa pahīnattā, diṭṭhilepassa paṭinissaṭṭhattā anupalitto apāyaloke na lippati, manussaloke na lippati, devaloke na lippati, khandhaloke na lippati, dhātuloke na lippati, āyatanaloke na lippati na saṃlippati na upalippati, alitto asaṃlitto anupalitto nikkhanto nissaṭo vippamutto visaññutto vimariyādīkatena cetasā viharatī ’ti – na lippati loke.
Anattagarahī ’ti dvīhi kāraṇehi attānaṃ garahati: katattā ca akatattā ca. Kathaṃ katattā ca akatattā ca attānaṃ garahati? Kataṃ me kāyaduccaritaṃ, akataṃ me kāyasucaritanti attānaṃ garahati. Kataṃ me vacīduccaritaṃ – kataṃ me manoduccaritaṃ, – kato me pāṇātipāto –pe– Katā me micchādiṭṭhi, akatā me sammādiṭṭhī ’ti attānaṃ garahati; evaṃ katattā ca akatattā ca attānaṃ garahati. Athavā sīlesumhi na paripūrakārīti attānaṃ garahati. Indriyesumhi aguttadvāroti – bhojanemhi amattaññūti – jāgariyamhi ananuyuttoti – na satisampajaññenamhi samannāgatoti – abhāvitā me cattāro satipaṭṭhānāti – abhāvitā me cattāro sammappadhānāti – abhāvitā me cattāro iddhipādāti – abhāvitāni me pañcindriyānīti – abhāvitāni me pañca balānīti – abhāvitā me satta bojjhaṅgāti – abhāvito me ariyo aṭṭhaṅgiko maggo ’ti – dukkhaṃ me apariññātanti – dukkhasamudayo me appahīnoti – maggo me abhāvitoti – nirodho me asacchikatoti attānaṃ garahati; evaṃ katattā ca akatattā ca attānaṃ garahati. Evaṃ attagarahī kataṃ kammaṃ akubbamāno ajanayamāno asañjanayamāno anibbattayamāno anabhinibbattayamāno anattagarahī ’ti – na lippati loke anattagarahī.
Sau khi từ bỏ các lậu hoặc trước đây, không tạo ra những lậu hoặc mới: Các lậu hoặc trước đây nói đến sắc-thọ-tưởng-hành-thức thuộc quá khứ. Những ô nhiễm nào sanh lên liên quan đến các hành thuộc quá khứ, sau khi từ bỏ, sau khi phế bỏ5 sau khi buông bỏ, sau khi dứt bỏ, sau khi xua đi, sau khi làm chấm dứt, sau khi làm cho không còn hiện hữu các ô nhiễm ấy. “Sau khi từ bỏ các lậu hoặc trước đây^ là như thế.
Không tạo ra những lậu hoặc mói: Những lậu hoặc mới nói đến sắc-thọ- tưởng-hành-thức thuộc vị lai. Trong khi không tạo nên sự mong muốn, trong khi không tạo nên sự yêu thương, trong khi không tạo nên, trong khi không làm sanh ra, trong khi không làm sanh khởi, trong khi không làm hạ sanh, trong khi không làm phát sanh ra sự luyến ái liên quan đến các hành thuộc vi lai.
“Sau khi từ bỏ các lậu hoặc trước đây, không tạo ra những lậu hoặc m&i” là như thế.
Không là người đi theo sự [tác động của] mong muốn, cũng không phải là kẻ chấp chặt vào học thuyết: Vị ấy không đi đến sự thiên vị vì ưa thích, không đi đến sự thiên vị vì sân hận, không đi đến sự thiên vị vì sợ hãi, không đi đến sự thiên vi vì si mê, không đi đến do tác động của luyến ái, không đi đến do tác động của sân hận, không đi đến do tác động của si mê, không đi đến do tác động của ngã mạn, không đi đến do tác động của tà kiến, không đi đến do tác động của phóng dật, không đi đến do tác động của hoài nghi, không đi đến do tác động của pháp tiềm ẩn, không bị đưa đi, không bị dẫn di, không bị lôi đi, không bị mang đi bởi các pháp có tính chất phe nhóm. ‘”Không là người đi theo sự [tác động của] mong muốn,, là như thế.
Cũng không phải là kẻ chấp chặt vào học thuyết: Kẻ chấp chặt vào học thuyết rằng: “Thế giới là thường còn; chỉ điều này là chân lý, điều khác là rồ dại.”…(nt)… Kẻ chấp chặt vào học thuyết rằng: “Chúng sanh không hiện hữu và không phải là không hiện hữu ở nơi khác sau khi chết; chỉ điều này là chân lý, điều khác là rồ dại.
“Không là người đi theo sự [tác động của] mong muốn, cũng không phải là kẻ chấp chạt vào học thuyết” là như thế.
Vi ấy đã được giải thoát khỏi các tà kiến, là bậc sáng trí: Đối với vị ấy, sáu mươi hai tà kiến là đã được dứt bỏ, đã được trừ tuyệt, đã được vắng lặng, đã được tịch tịnh, không thể sanh khởi nữa, đã được thiêu đốt bởi ngọn lửa trí tuệ; vị ấy đã được thoát khỏi các tà kiến, không bị ràng buộc, sống với tâm đã được làm trở thành không còn giới hạn.
Bậc sáng trí: Bậc sáng trí là người sáng suốt, có tuệ, có sự giác ngộ, có trí, có sự rành rẽ, có sự thông minh.
ấy đã được giải thoát khỏi các tà kiến, là bậc sáng trí” là như thế.
Không bi lấm nhơ ờ thế gian, không có sự chê trách bản thân.
Lấm nhơ: Có hai sự lấm nhơ: Lấm nhơ do tham ái và lấm nhơ do tà kiến…. (nt)… điêu này là lâm nhơ do tham ái…. (nt)… điêu này là lâm nhơ do tà kiên. Đối với vị ấy, sự lấm nhơ do tham ái đã được dứt bỏ, sự lấm nhơ do tà kiến đã được buông bỏ. Do trạng thái đã được dứt bỏ đối với sự lấm nhơ do tham ái, do trạng thái đã được buông bỏ đối với sự lấm nhơ do tà kiến, vị không bi vấy bẩn không bị lấm nhơ ở thế gian của khổ cảnh, không bị lấm nhơ ở thế gian của loài người, không bị lấm nhơ ở thế gian của chư thiên, không bị lấm nhơ ở thế gian của các uẩn, không bị lấm nhơ ở thế gian của các giới, không bị lấm nhơ ở thế gian của các xứ, không bi nhiễm bẩn, không vấy bẩn, [là người] đã không bi lấm nhơ, đã không bị nhiễm bẩn, đã không bi vấy bẩn, đã đi ra ngoài, đã được rời ra, đã được thoát khỏi, không bị ràng buộc, sống với tâm đã được làm trở thành không còn giới hạn. “Không bi lấm nhơ ở thế gian” là như thế.
Không có sự chê trách bản thân: Chê trách bản thân bởi hai lý do: Do trạng thái đã làm và do trạng thái đã không làm. Thế nào là chê trách bản thân do trạng thái đã làm và do trạng thái đã không làm? Chê trách bản thân rằng: “Ta đã làm uế hạnh về thân, ta đã không làm thiện hạnh về thân.” Chê trách bản thân rằng: “Ta đã làm uế hạnh về khẩu..・:’Ta đã làm uế hạnh về y.・・”Ta đã giết hại sinh mạng… “Ta đã thực hành tà kiến, ta đã không thực hành chánh kiến”; như vậy là chê trách bản thân do trạng thái đã làm và do trạng thái đã không làm. Hoặc là, chê trách bản thân rằng: “Ta không phải là người thực hành đầy đủ các giới.,, Chê trách bản thân rằng: “Ta là người có các giác quan không được gìn giữ.”…”Ta là người không biết chừng mực về vật thụrc.”・・・ “Ta không luyện tập về tỉnh thức.” ..・ “Ta không có niệm và sư nhận biết rõ/9 …”Bốn sự thiết lập niệm chưa được ta tu tāp?9… “Bốn chánh cần chưa được ta tu tap・”.・・”Bốn nen tảng của thần thông chưa được ta tu tap・” … ‘”Năm quyền chưa được ta tu tấp y … “Năm lực chưa được ta tu táp•”…”Bảy yếu tố đưa đến giác ngộ chưa được ta tu tập?9… “Đạo lộ Thánh thiện tám chi phần chưa được ta tu tập.”・.・”Kh6 chưa được ta biết toàn diên.” … “Tập chưa được ta dứt bỏ?9 … “Đạo chưa được ta tu tập.,, … “Diệt chưa được ta chứng ngO”; như vậy là chê trách bản thân do trạng thái đã làm và do trạng thái đã không làm. Trong khi không tạo nên, trong khi không làm sanh ra, trong khi không làm sanh khởi, trong khi không làm hạ sanh, trong khi không làm phát sanh ra nghiệp đã làm có sự chê trách bản thân như vậy, thì không có sự chê trách bản thân.
“Không bị lấm nhơ ở thế gian, không có sự chê trách bản thân^ là như thế.
Tenāha bhagavā: “Pubbāsave hitvā nave akubbaṃ na chandagū nopi nivissavādī, sa vippamutto diṭṭhigatehi dhīro na lippati1 loke anattagarahī ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Sau khi từ bỏ các lậu hoặc trước đây, không tạo ra những lậu hoặc mới, không là người đi theo sự (tác động của) mong muốn, cũng không phải là kẻ có lời nói cố chấp, vị ấy đã được giải thoát khỏi các tà kiến, là bậc sáng trí, không bị nhơ bẩn ở thế gian, không có sự chê trách bản thân.”
13.20
Sa sabbadhammesu visenibhūto yaṃ kiñci diṭṭhaṃ va sutaṃ mutaṃ vā, sa pannabhāro muni vippamutto na kappiyo nūparato na patthiyo (iti bhagavā).
Vị ấy là người diệt đạo binh ở tất cả các pháp (tà kiến), về bất cứ điều gì đã được thấy, đã được nghe, hoặc đã được cảm giác. Vị ấy, có gánh nặng đã được đặt xuống, là bậc hiền trí đã được thoát ra khỏi, không chịu sự sắp đặt, không phải kiêng chừa, không có ước nguyện (Đức Thế Tôn nói vậy).
Không có sự thù hằn
Ðối với tất cả pháp,
Phàm có thấy nghe gì,
Cùng với tưởng và thọ,
ẩn sĩ không hệ lụy,
Ðã đặt gánh nặng xuống
Không liên hệ thời gian,
Không chấm dứt, không cầu,
Thế Tôn nói như vậy.
(Kinh Tập, câu kệ 914)
Sa sabbadhammesu visenibhūto yaṃ kiñci diṭṭhaṃ va sutaṃ mutaṃ vā ’ti – Senā vuccati mārasenā, kāyaduccaritaṃ mārasenā, vacīduccaritaṃ mārasenā, manoduccaritaṃ mārasenā, rāgo doso moho kodho upanāho makkho paḷāso issā macchariyaṃ māyā sāṭheyyaṃ thambho sārambho māno atimāno mado pamādo sabbe kilesā sabbe duccaritā sabbe darathā sabbe pariḷāhā sabbe santāpā sabbākusalābhisaṅkhārā mārasenā.
Vuttaṃ hetaṃ bhagavatā: 1. “Kāmā te paṭhamā senā dutiyā-arati vuccati, tatiyā khuppipāsā te catutthī taṇhā pavuccati.
Vị ấy là ngưòĩ diệt đạo binh ờ tất cả các pháp, ờ bất cứ điều gì đã được thấy, đã được nghe, hoặc đã được cảm giác: Đạo binh nói đến đạo binh của Ma vương; uế hạnh về thân là đạo binh của Ma vương, uế hạnh về khẩu là đạo binh của Ma vương, uế hạnh về ý là đạo binh của Ma vương; sự luyến ái, sân hận, si mê, giận dữ, thù hằn, gièm pha, ác ý, ganh tỵ, bon xẻn, xảo trá, lừa gạt, bướng bỉnh, hung hăng, ngã mạn, cao ngạo, đam mê, xao lãng, tất cả ô nhiễm, tất cả uế hạnh, mọi sự lo lắng, mọi sự bực bội, mọi sự nóng nảy, tất cả các pháp tạo tác bất thiện là đạo binh của Ma vương.
Bởi vì, điều này đã được đức Thế Tôn nói đến:
1. “Các dục là đạo binh thứ nhất của ngươi, thứ nhì nói đến là sự không hứng thú, thứ ba của ngươi là đói và khát, thứ tư gọi là tham ái.
2. Pañcamī thīnamiddhaṃ te chaṭṭhā bhirū pavuccati, sattamī vicikicchā te makkho thambho te aṭṭhamā.
2. Thứ năm của ngươi là dã dượi và buồn ngủ, thứ sáu gọi là sự khiếp đảm, thứ bảy của ngươi là hoài nghi, thứ tám của ngươi là thâm hiểm, bướng bỉnh.
3. Lābho siloko sakkāro micchāladdho ca yo yaso, yo cattānaṃ samukkaṃse pare ca avajānati.
3. Lợi lộc, danh tiếng, tôn vinh, và danh vọng nào đã đạt được sai trái, kẻ nào đề cao bản thân và khi dễ những người khác, …
4. Esā namuci te senā kaṇhassābhippahāriṇī, na naṃ asūro jināti jitvā ca labhate sukhan ”ti.
4. Này Namuci, chúng là đạo binh của ngươi, là toán xung kích của Kaṇha. Kẻ khiếp nhược không chiến thắng nó, và sau khi chiến thắng thì đạt được sự an lạc.”
Yato catuhi ariyamaggehi sabbā ca mārasenā sabbe ca paṭisenikarā kilesā jitā ca parājitā ca bhaggā vippaluggā parammukhā, so vuccati visenibhūto. So diṭṭhe visenibhūto sute mute viññāte visenibhūto ’ti – sa sabbadhammesu visenibhūto yaṃ kiñci diṭṭhaṃ va sutaṃ mutaṃ vā.
Sa pannabhāro muni vippamutto ’ti – Bhāro ’ti tayo bhārā: khandhabhāro, kilesabhāro, abhisaṅkhārabhāro. Katamo khandhabhāro? Paṭisandhiyā rūpaṃ vedanā saññā saṅkhārā viññāṇaṃ; ayaṃ khandhabhāro. Katamo kilesabhāro? Rāgo doso moho –nt– sabbākusalābhisaṅkhārā; ayaṃ kilesabhāro. Katamo abhisaṅkhārabhāro? Puññābhisaṅkhāro apuññābhisaṅkhāro āneñjābhisaṅkhāro; ayaṃ abhisaṅkhārabhāro. Yato khandhabhāro ca kilesabhāro ca abhisaṅkhārabhāro ca pahīnā honti ucchinnamūlā tālāvatthukatā anabhāvakatā āyatiṃ anuppādadhammā; so vuccati pannabhāro patitabhāro oropitabhāro samoropitabhāro nikkhittabhāro paṭipassaddhabhāro.
Munī ’ti – Monaṃ vuccati ñāṇaṃ, ‘yā paññā pajānanā vicayo pavicayo dhammavicayo sallakkhaṇā upalakkhaṇā paccupalakkhaṇā paṇḍiccaṃ kosallaṃ nepuññaṃ vebhavyā cintā upaparikkhā bhūri medhā pariṇāyikā vipassanā sampajaññaṃ patodo paññā paññindriyaṃ paññābalaṃ paññāsatthaṃ paññāpāsādo paññā-āloko paññā-obhāso paññāpajjoto paññāratanaṃ amoho dhammavicayo sammādiṭṭhi;’ tena ñāṇena samannāgato muni monappatto.
Tīṇi moneyyāni: kāyamoneyyaṃ, vacīmoneyyaṃ, manomoneyyaṃ.
Katamaṃ kāyamoneyyaṃ? Tividhānaṃ kāyaduccaritānaṃ pahānaṃ kāyamoneyyaṃ, tividhaṃ kāyasucaritaṃ kāyamoneyyaṃ, kāyārammaṇe ñāṇaṃ kāyamoneyyaṃ, kāyapariññā kāyamoneyyaṃ, pariññāsahagato maggo kāyamoneyyaṃ, kāye chandarāgassa pahānaṃ kāyamoneyyaṃ, kāyasaṅkhārānirodho catutthajjhānasamāpatti kāyamoneyyaṃ. Idaṃ kāyamoneyyaṃ.
Katamaṃ vacīmoneyyaṃ? Catubbidhānaṃ vacīduccaritānaṃ pahānaṃ vacīmoneyyaṃ, catubbidhaṃ vacīsucaritaṃ vacīmoneyyaṃ, vācārammaṇe ñāṇaṃ vacīmoneyyaṃ, vācāpariññā vacīmoneyyaṃ, pariññāsahagato maggo vacīmoneyyaṃ, vācāya chandarāgassa pahānaṃ vacīmoneyyaṃ, vacīsaṅkhāranirodho dutiyajjhānasamāpatti vacīmoneyyaṃ. Idaṃ vacīmoneyyaṃ.
Katamaṃ manomoneyyaṃ? Tividhānaṃ manoduccaritānaṃ pahānaṃ manomoneyyaṃ, tividhaṃ manosucaritaṃ manomoneyyaṃ, cittārammaṇe ñāṇaṃ manomoneyyaṃ, cittapariññā manomoneyyaṃ, pariññāsahagato maggo manomoneyyaṃ, citte chandarāgassa pahānaṃ manomoneyyaṃ, cittasaṅkhāranirodho saññāvedayitanirodhasamāpatti manomoneyyaṃ. Idaṃ manomoneyyaṃ.
Khi nào tất cả các đạo binh của Ma vương và tất cả các ô nhiễm có hành động đoi kháng đã bị đánh bại ya đã bị khuất phục, đã bi đo vỡ, đã bị tan rã, không còn hiện diện, nhờ vào bốn Thánh đạo, vị ấy được gọi là người diệt đạo binh. Vị ấy là người diệt đạo binh ở điều đã được thấy, người diệt đạo binh ở điều đã được nghe, ở điều đã được cảm giác, ở điều đã được nhận thức.
ấy là người diệt đạo binh [ô nhiễm] ở tất cả các pháp, ở bất cứ điều gì đã được thay, đã được nghe, hoặc đã được cảm giác” là như thế.
Vi ấy, có gánh nặng đã được đặt xuống, là bậc Hiền trí đã được thoát ra khoi.
Gánh nặng: Có ba gánh nặng: Gánh nặng các uẩn, gánh nặng ô nhiễm, gánh nặng các hành. Gánh nặng các uẩn là cái nào? sắc, thọ, tưởng, các hành, thức ở sự nối liền tái sanh; cái này là gánh nặng các uẩn. Gánh năng ô nhiễm là cái nào? Luyên ái, sân hận, si mê,… (nt)… tát cả các pháp tạo tác bát thiện; cái này là gánh nặng ô nhiễm. Gánh nặng các hành là cái nào? Phúc hành, phi phúc hành, bất động hành;2 cái này là gánh nặng các hành. Khi nào gánh nặng các uẩn, gánh nặng ô nhiễm và gánh nặng các hành được dứt bỏ, có rễ đã được cắt lia, như cây thốt nốt đã bị cụt ngọn, đã bi làm cho không còn hiện hữu, không còn điều kiện sanh khởi trong tương lai; vị ấy được gọi là có gánh năng đã được đặt xuống, có gánh nặng đã được bỏ xuống, có gánh nặng đã được để xuống, có gánh nặng đã được buông xuồng, có gánh nặng đã được quăng xuồng, có gánh nặng đã được tịch tịnh. ánh sáng, tuệ là hào quang, tuệ là cây đèn, tuệ là báu vật, sự không si mê, sự chọn lựa pháp, chánh kiến; được thành tựu với trí ấy, bậc Hiền trí đạt đến bản thể hiền trí.
Ba hiền trí hạnh: Hiền trí hạnh về thân, hiền trí hạnh về khẩu, hiền trí hạnh ve y.
Hiền trí hạnh về thân là điều nào? Sự dứt bỏ ba loại uế hạnh về thân là hiền trí hạnh về thân, ba loại thiện hạnh về thân là hiền trí hạnh về thân, trí ở đối tượng thân là hiền trí hạnh về than, sự biết toàn diện về thân là hiền trí hạnh về thân, đạo đồng hành với sự biết toàn diện là hiền trí hạnh về thân, sự dứt bỏ mong muôn và luyên ái ở thân là hiên trí hạnh vê thân, sự chứng đạt tứ thiên có sự diệt của thân hành là hiền trí hạnh về thân; điều này là hiền trí hạnh về thân.
Hiền trí hạnh về khẩu là điều nào? Sự dứt bỏ bốn loại uế hạnh về khẩu là hiền trí hạnh về khẩu, bốn loại thiện hạrứi về khẩu là hiền trí hạnh về khẩii, trí ở đối tượng khẩu là hiền trí hạnh về khẩu, sự biết toàn diện về khẩu là hiền trí hạnh về khẩu, đạo đồng hành với sự biết toàn diện là hiền trí hạnh về khẩu, sự dứt bỏ mong muốn và luyến ái ở khẩu là hiền trí hạnh về khẩu, sự chứng đạt nhị thiền có sự diệt của khẩu hành là hiền trí hạnh về khẩu; điều này là hiên trí hạnh vê khâu.
Hiền trí hạnh về ý là điều nào? Sự dứt bỏ ba loại uế hạnh về ý là hiền trí hạnh về ý, ba loại thiện hạnh về ý là hiền trí hạnh về ý, trí ở đối tượng tâm là hiền trí hạnh về ý, sự biết toàn diện về tâm là hiền trí hạnh về ý, đạo đồnệ hành với sự biết toàn diện là hiền trí hạnh về ý, sự dứt bỏ mong muốn và luyến ái ở tâm là hiền trí hạnh về ý, sự chứng đạt Diệt thọ tưởng có sự diệt của tâm hành là hiền trí hạnh về ý; điêu này là hiền trí hạnh về ý.
Bậc Hiền trí: Bản thể hiền trí nói đến trí, tức là tuệ, là sự nhận biết, sự chọn lựa, sự khám phá, sự chọn lựa pháp, sự quan sát, sự suy xét, sự phân biệt, sự thông thái, sự thông thạo, sự khôn khéo, sự thông suốt, sự cân nhắc, sự khảo sát, sự hiểu biết rộng rãi, sự thông minh, pháp dẫn đầu, sự thấy rõ, sự nhận biết rõ, vật xuyên thủng, tuệ, tuệ quyền, tuệ lực, tuệ là vũ khí, tuệ là lâu đài, tuệ là
5. “Kāyamuniṃ vācāmuniṃ manomunimanāsavaṃ, muniṃ moneyyasampannaṃ āhu sabbappahāyinaṃ.
5. (Chư Phật) đã nói bậc hiền trí về thân, bậc hiền trí về khẩu, bậc hiền trí về ý, bậc không còn lậu hoặc, bậc hiền trí thành tựu hiền trí hạnh là bậc có sự dứt bỏ tất cả.
6. Kāyamuniṃ vācāmuniṃ manomunimanāsavaṃ muniṃ moneyyasampannaṃ āhu ninhātapāpakan ”ti.
6. (Chư Phật) đã nói bậc hiền trí về thân, bậc hiền trí về khẩu, bậc hiền trí về ý, bậc không còn lậu hoặc, bậc hiền trí thành tựu hiền trí hạnh là bậc có điều ác đã được rửa sạch.
Imehi tīhi moneyyehi dhammehi samannāgatā cha munino: agāramunino, anagāramunino, sekhamunino, asekhamunino, paccekamunino, munimunino.
Katame agāramunino? Ye te agārikā diṭṭhapadā viññātasāsanā, ime agāramunino. Katameanagāramunino? Ye te pabbajitā diṭṭhapadā viññātasāsanā, ime anagāramunino. Satta sekhā sekhamunino. Arahanto asekhamunino. Paccekabuddhā paccekamunino. Munimuninovuccanti tathāgatā arahanto sammāsambuddhā.
Được thành tựu ba pháp hiên trí hạnh này là sáu hạng hiên trí: Các bậc Hiên trí tại gia, các bậc Hiền trí xuất gia, các bậc Hiền trí Hữu học, các bậc Hiền trí Vô học, các bậc Hiền trí Độc Giác, các bậc Hiền trí của các bậc Hiền trí.
Các bậc Hiên trí tại gia là các hạng nào? Những người tại gia đã thây Niêt- bàn? đã nhận thức giáo pháp, là các bậc Hiền trí tại gia. Các bậc Hiền trí xuất gia là các hạng nào? Những người xuất gia đã thấy Niết-bàn, đã nhận thức giáo pháp, là các bậc Hiền trí xuất gia. Bảy hạng Hữu học là các bậc Hiền trí Hữu học. Các vi A-la-hán là các bậc Hiền trí Vô học. Các vi Phật Độc Giác là các bạc Hiền tri Độc Giác. Các đức Như Lai, A-la-hán Chánh Đang Giác là các bậc Hiền trí của các bậc Hiền trí.
7. Na monena muni hoti mūḷharūpo aviddasu, yo ca tulaṃva paggayha varamādāya paṇḍito.
7. Kẻ có dáng vẻ khờ khạo, ngu dốt, dầu với trạng thái im lặng cũng không trở thành bậc hiền trí. Nhưng người nào, tựa như người nắm lấy cái cân rồi chọn lấy vật quý giá, là người sáng suốt.
8. Pāpāni parivajjeti sa munī tena so muni, yo munāti ubho loke muni tena pavuccati.
8. Người lánh xa hẳn các điều ác, người ấy là bậc hiền trí, do việc ấy người ấy trở thành bậc hiền trí. Người nào hiểu rõ cả hai thế giới, do việc ấy được gọi là bậc hiền trí.
9. Asatañca satañca ñatvā dhammaṃ ajjhattaṃ bahiddhā ca sabbaloke, devamanussehi pūjito yo saṅgajālamaticca so muni.
9. Sau khi biết được pháp của những kẻ xấu và của những người tốt, nội phần và ngoại phần, ở tất cả thế giới, vị nào, được cúng dường bởi chư Thiên và nhân loại, đã vượt qua sự quyến luyến và mạng lưới (tham ái và tà kiến), vị ấy là hiền trí.”
Vippamutto ’ti – Munino rāgā cittaṃ muttaṃ vimuttaṃ suvimuttaṃ; dosā cittaṃ – mohā cittaṃ muttaṃ vimuttaṃ suvimuttaṃ –pe– sabbākusalābhisaṅkhārehi cittaṃ muttaṃ vimuttaṃ suvimuttan ’ti – sa pannabhāro muni vippamutto.
Na kappiyo nūparato na patthiyoti bhagavā ’ti – Kappā ’ti dve kappā: taṇhākappo ca diṭṭhikappo ca –pe– ayaṃ taṇhākappo –pe– ayaṃ diṭṭhikappo. Tassa taṇhākappo pahīno, diṭṭhikappo paṭinissaṭṭho. Taṇhākappassa pahīnattā diṭṭhikappassa paṭinissaṭṭhatā taṇhākappaṃ vā diṭṭhikappaṃ vā na kappeti na janeti na sañjaneti na nibbatteti nābhinibbattetī ’ti – na kappiyo.
Nūparato ’ti sabbe bālaputhujjanā rajjanti; kalyāṇaputhujjanaṃ upādāya sabbe sekhā appattassa pattiyā anadhigatassa adhigamāya asacchikatassa sacchikiriyāya āramanti viramanti paṭiviramanti; arahā ārato virato paṭivirato nikkhanto nissaṭo vippamutto visaññutto vimariyādīkatena cetasā viharatī ’ti – na kappiyo nūparato.
Na patthiyo ’ti – Patthanā vuccati taṇhā, yo rāgo sārāgo –pe– abhijjhā lobho akusalamūlaṃ. Yassesā patthanā taṇhā pahīnā samucchinnā vūpasantā paṭippassaddhā abhabbuppattikā ñāṇagginā daḍḍhā, so vuccati na patthiyo.
Bhagavā ’ti gāravādhivacanaṃ. Api ca, bhaggarāgoti bhagavā, bhaggadosoti bhagavā; bhaggamohoti bhagavā; bhaggamānoti bhagavā; bhaggadiṭṭhīti bhagavā; bhaggakaṇṭakoti bhagavā; bhaggakilesoti bhagavā; bhaji vibhaji paṭivibhaji dhammaratananti bhagavā; bhavānaṃ antakaroti bhagavā; bhāvitakāyo bhāvitasīlo bhāvitacitto bhāvitapaññoti bhagavā; bhaji vā bhagavā araññe vanapatthāni pantāni senāsanāni appasaddāni appanigghosāni vijanavātāni manussarāhaseyyakāni paṭisallānasāruppānīti bhagavā; bhāgī vā bhagavā cīvara-piṇḍapāta-senāsana-gilānappaccaya-bhesajjaparikkhārānanti bhagavā; bhāgī vā bhagavā attharasassa dhammarasassa vimuttirasassa adhisīlassa adhicittassa adhipaññāyāti bhagavā; bhāgī vā bhagavā catunnaṃ jhānānaṃ catunnaṃ appamaññānaṃ catunnaṃ arūpasamāpattīnanti bhagavā; bhāgī vā bhagavā aṭṭhannaṃ vimokkhānaṃ aṭṭhannaṃ abhibhāyatanānaṃ navannaṃ anupubbavihāra-samāpattīnanti bhagavā; bhāgī vā bhagavā dasannaṃ saññābhāvanānaṃ dasannaṃ kasiṇasamāpattīnaṃ ānāpānasatisamādhissa asubhasamāpattiyāti bhagavā; bhāgī vā bhagavā catunnaṃ satipaṭṭhānānaṃ catunnaṃ sammappadhānānaṃ catunnaṃ iddhipādānaṃ pañcannaṃ indriyānaṃ pañcannaṃ balānaṃ sattannaṃ bojjhaṅgānaṃ ariyassa aṭṭhaṅgikassa maggassāti bhagavā; bhāgī vā bhagavā dasannaṃ tathāgatabalānaṃ catunnaṃ vesārajjānaṃ catunnaṃ paṭisambhidānaṃ channaṃ abhiññāñāṇānaṃ channaṃ buddhadhammānanti bhagavā. Bhagavāti netaṃ nāmaṃ mātarā kataṃ, na pitarā kataṃ, na bhātarā kataṃ, na bhaginiyā kataṃ na mittāmaccehi kataṃ, na ñātisālohitehi kataṃ, na samaṇabrāhmaṇehi kataṃ, na devatāhi kataṃ, vimokkhantikametaṃ buddhānaṃ bhagavantānaṃ bodhiyā mūle saha sabbaññutañāṇassa paṭilābhā sacchikā paññatti yadidaṃ bhagavā ’ti – na kappiyo nūparato na patthiyoti bhagavā ”ti.
Đã được thoát khỏi: Bậc Hiền trí có tâm đã được thoát khỏi, đã được giải thoát, đã khéo được giải thoát khỏi sự luyến ái, có tâm khỏi sự sân hận, có tâm đã được thoát khỏi, đã được giải thoát, đã khéo được giải thoát khỏi sự si mê,… (nt)… có tâm đã được thoát khỏi, đã được giải thoát, đã khéo được giải thoát khỏi tất cả các pháp tạo tác bất thiện.
“Vi ây, có gánh nặng đã được đặt xuồng, là bậc Hiên trí đã được thoát ra kh6i” la như the.
Không chiu sự sắp đặt, không phải kiêng chừa, không có ước nguyện, [đức Thế Tôn nói y ấy].
Sắp đặt: Có hai sự sắp đặt: Sự sắp đặt do tham ái và sự sắp đặt do tà kiến. … (ní)..・ điều này là sự sắp đặt do tham ái…. (nt)… điều này là sự sắp đặt do tà kiến. Đối với vị ấy, sự sắp đặt do tham ái đã được dứt bỏ, sự sắp đặt do tà kiến đã được buông bỏ. Do trạng thái đã được dứt bỏ đối với sự sắp đặt do tham ái, do trạng thái đã được buông bỏ đối với sự sắp đặt do tà kiến, vị ấy không sắp đặt, không làm sanh ra, không làm sanh khởi, không làm hạ sanh, không làm phát sanh ra sự sắp đặt do tham ái hoặc sự sắp đặt do tà kiến. uKhông chịu sự sắp đặt^ là như the.
Không phải kiêng chừa: Tất cả phàm nhân ngu si bị luyến ái; tất cả các bậc Hữu học, tính luôn phàm nhân tót lành thì tránh khỏi, xa lánh, tránh xa [luyến ái] nhằm đạt đến pháp chưa đạt đến, nham chứng đắc pháp chưa chứng đắc, nhằm chứng ngộ pháp chưa chứng ngộ; vị A-la-hán là đã tránh khỏi, đã xa lánh, đã tránh xa, đã đi ra ngoài, đã được rời ra, đã được thoát khỏi, không bị ràng buộc, sống với tâm đã được làm trở thành không còn giới hạn. “Không chịu sự sắp đặt, không phải kiêng chừa” là nhu thế.
Không có ước nguyện.
Ước nguyện: Nói đến tham ái, tức là sự luyến ái, luyến ái mãnh liệt,… (nt)..・ tham đắm, tham, cội nguồn của bất thiện. Đối với vị nào, sự ước nguyện tham ái ấy là đã được dứt bỏ9 đã được trừ tuyệt, đã được vắng lặng, đã được tịch tịnh, không thể sanh khởi nữa, đã được thiêu đốt bởi ngọn lửa trí tuệ; vi ấy được gọi là không có ước nguyện.
Đức Thế Tôn: Là từ xưng hô với sự tôn kính. Thêm nữa, “vj có luyến ái đã được phá v&” là đức Thế Tôn; uvị có sân hận đã được phá là đức Thế Tôn;
có si mê đã được phá vỡ: là đức Thế Tôn; có ngã mạn đã được phá võr” là đức Thế Tôn; “vj có tà kiến đã được phá v。” là đức Thế Tôn; “vj có cây gai đã được phá v&” là đức Thế Tôn; có ô nhiễm đã được phá v。” là đức Thế Tôn; đã phân phát, đã phân chia, đã phân phối Pháp b以o” là đức Thế Tôn;
thực hiện sự chấm dứt các hữu” là đức Thế Tôn; “vị có thân đã được tu tập, có giới đã được tu táp, có tâm đã được tu tập? có tuệ đã được tu táp” là đức Thế Tôn; “vj đã thân cận các khu rừng, các nơi heo hút, các chỗ tru ngụ xa vắng có ít âm thanh, ít tiếng ồn, có bầu không gian vắng vẻ, tách biệt với dân chúng, thích hợp cho việc thiền tjnh” là đức Thế Tôn; “vj có dự phần hoặc sở hữu về y phục, đồ ăn khất thực, chỗ nằm ngồi, và vật dụng là thuốc men chữa bênh” là đức Thê Tôn; “vi có dự phân hoặc sở hữu vê vi của mục dích, vê vị của pháp, về vị của giải thoát, về thắng giới, về thắng tâm, về thắng tue” là đức Thế Tôn; “vị có dự phần hoặc sở hữu về bốn thiền, về bốn vô lượng [tâm], về bốn sự thể nhập vô sắc” là đức Thế Ton; “vj có dự phần hoặc sở hữu về tám giải thoát, về tám thắng xứ [của thiền], về chín sự thể nhập và an trú theo tuần tự” là đức Thế Tôn; có dự phần hoặc sở hữu về mười sự tu tập về tưởng, về mười sự thể nhập các đề mục kasiụa. về định niệm hơi thở vào hơi thở ra, về sự thể nhập các đề mục tử thi” là đức Thế Ton; có dự phần hoặc sở hữu về bốn sự thiết lập niệm, bốn chánh cần, bốn nền tảng của thần thông, năm quyền, năm lực, bảy yếu tố đưa đến giác ngộ, đạo lộ Thánh thiện tám chi phần” là đức Thế Tôn;
có dự phần hoặc sở hữu về mười Như Lai lực, về bốn pháp tự tin, về bốn tuệ phân tích, về sáu thắng trí, về sáu pháp của đức Phát” là đức Thế Tôn. Tên gọi “Thế T6n” này không do mẹ tạo ra, không do cha tạo ra, không do anh [em] trai tạo ra, không do chị [em] gái tạo ra, không do bạn bè hoặc thân hữu tạo ra, không do các thân quyến và những người cùng huyết thống tạo ra, không do các Sa-môn hoặc Bà-la-môn tạo ra, không do chư thiên tạo ra, sự tận cùng của giải thoát này là sự quy đinh thuộc vê chư Phật Thê Tôn do sự đạt được, do sự chứng ngộ trí Toàn tri ở cội cây Bồ-đề? tức là “dức Thế Tôn?9
“Không chịu sự sắp dặt, không phải kiêng chừa, không có ước nguyện, [đức Thế Tôn nói vay]” là như thế.
Tenāha bhagavā: “Sa sabbadhammesu visenibhūto yaṃ kiñci diṭṭhaṃ va sutaṃ mutaṃ vā, sa pannabhāro muni vippamutto na kappiyo nūparato na patthiyoti bhagavā ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Vị ấy là người diệt đạo binh ở tất cả các pháp (tà kiến), về bất cứ điều gì đã được thấy, đã được nghe, hoặc đã được cảm giác. Vị ấy, có gánh nặng đã được đặt xuống, là bậc hiền trí đã được thoát ra khỏi, không chịu sự sắp đặt, không phải kiêng chừa, không có ước nguyện” (Đức Thế Tôn nói vậy).
Mahāviyuhasuttaniddeso samatto terasamo.
Diễn Giải Kinh ‘Sự Dàn Trận Lớn’ được đầy đủ – phần thứ mười ba.
14. TUVAṬAKASUTTANIDDESO – DIỄN GIẢI KINH MỘT CÁCH NHANH CHÓNG
Atha tuvaṭakasuttaniddeso vuccati:
Giờ phần Diễn Giải Kinh Một Cách Nhanh Chóng được nói đến:
14.1
Pucchāmi taṃ ādiccabandhuṃ vivekaṃ santipadañca mahesiṃ, kathaṃ disvā nibbāti bhikkhu anupādiyāno lokasmiṃ kiñci.
“Tôi hỏi ngài, đấng quyến thuộc của mặt trời, bậc đại ẩn sĩ, về sự viễn ly và vị thế an tịnh. Sau khi nhìn thấy như thế nào, vị tỳ khưu được tịch diệt, không còn chấp thủ bất cứ cái gì ở thế gian?”
(XIV) Kinh Tuvataka (Con đường mau chóng) (Sn 179)
Người hỏi:
Con hỏi bậc Ðại tiên,
Bậc bà con mặt trời,
Con đường đến viễn ly,
Con đường đến an tịnh,
Tỷ-kheo sau khi thấy,
Làm thế nào mát lạnh,
Không có sự chấp thủ,
Một vật gì ở đời?
(Kinh Tập, câu kệ 915)
Pucchāmi taṃ ādiccabandhun ’ti – Pucchā ’ti tisso pucchā: adiṭṭhajotanā pucchā, diṭṭhasaṃsandanā pucchā, vimaticchedanā pucchā.
Tôi hỏi ngài, đấng quyến thuộc của mặt trời – Việc hỏi: Có ba loại việc hỏi: việc hỏi để làm sáng tỏ điều chưa thấy, việc hỏi để thông hiểu điều đã thấy, việc hỏi để cắt đứt sự phân vân.
Katamā adiṭṭhajotanā pucchā? Pakatiyā lakkhaṇaṃ aññātaṃ hoti adiṭṭhaṃ atulitaṃ atīritaṃ avibhūtaṃ avibhāvitaṃ, tassa ñāṇāya dassanāya tulanāya tīraṇāya vibhāvanāya pañhaṃ pucchati. Ayaṃ adiṭṭhajotanā pucchā.
Việc hỏi để làm sáng tỏ điều chưa thấy là việc nào? Thông thường, đối với tướng trạng chưa được biết, chưa được thấy, chưa được cân nhắc, chưa được xác định, chưa được rõ rệt,chưa được minh định, thì người ta hỏi câu hỏi để biết, để thấy, để cân nhắc, để xác định, để phân biệt về điều ấy. Đây là việc hỏi để làm sáng tỏ điều chưa thấy.
Katamā diṭṭhasaṃsandanā pucchā? Pakatiyā lakkhaṇaṃ ñātaṃ hoti diṭṭhaṃ tulitaṃ tīritaṃ vibhūtaṃ vibhāvitaṃ, aññehi paṇḍitehi saddhiṃ saṃsandanatthāya pañhaṃ pucchati. Ayaṃ diṭṭhasaṃsandanā pucchā.
Việc hỏi để thông hiểu điều đã thấy là việc nào? Thông thường, đối với tướng trạng đã được biết, đã được thấy, đã được cân nhắc, đã được xác định, đã được rõ rệt, đã được minh định, thì người ta hỏi câu hỏi nhằm mục đích thông hiểu cùng với các vị sáng suốt khác. Đây là việc hỏi để thông hiểu điều đã thấy.
Katamā vimaticchedanā pucchā? Pakatiyā saṃsayapakkhanno hoti vimatipakkhanno dveḷhakajāto ‘evaṃ nu kho, na nu kho, kiṃ nu kho, kathaṃ nu kho ’ti so vimaticchedanatthāya pañhaṃ pucchati. Ayaṃ vimaticchedanā pucchā. Imā tisso pucchā.
Việc hỏi để cắt đứt sự phân vân là việc nào? Thông thường, người bị rơi vào sự hoài nghi, bị rơi vào sự phân vân, bị sanh lên sự lưỡng lự rằng: “Phải chăng như vầy là đúng, phải chăng là không đúng, là cái gì đây, là thế nào đây?” người ấy hỏi câu hỏi nhằm mục đích cắt đứt sự phân vân. Đây là việc hỏi để cắt đứt sự phân vân. Đây là ba loại việc hỏi.
Aparāpi tisso pucchā: manussapucchā, amanussapucchā, nimmitapucchā.
Còn có ba loại việc hỏi khác nữa: việc hỏi của loài người, việc hỏi của phi nhân, việc hỏi của vị (Phật) đã được hóa hiện ra.
Katamā manussapucchā?
Manussā buddhaṃ bhagavantaṃ upasaṅkamitvā pañhaṃ pucchanti – bhikkhū pucchanti, bhikkhuniyo pucchanti, upāsakā pucchanti, upāsikāyo pucchanti, rājāno pucchanti, khattiyā pucchanti, brāhmaṇā pucchanti, vessā pucchanti, suddā pucchanti, gahaṭṭhā pucchanti, pabbajitā pucchanti. Ayaṃ manussapucchā.
Việc hỏi của loài người là việc nào? Loài người đi đến gặp đức Phật Thế Tôn và hỏi câu hỏi: các vị tỳ khưu hỏi, các vị tỳ khưu ni hỏi, các nam cư sĩ hỏi, các nữ cư sĩ hỏi, các vị vua hỏi, các vị Sát-đế-lỵ hỏi, các vị Bà-la-môn hỏi, các người thương buôn hỏi, các kẻ nô lệ hỏi, các người tại gia hỏi, các vị xuất gia hỏi. Đây là việc hỏi của loài người.
Katamā amanussapucchā? Amanussā buddhaṃ bhagavantaṃ upasaṅkamitvā pañhaṃ pucchanti – nāgā pucchanti, supaṇṇā pucchanti, yakkhā pucchanti, asurā pucchanti, gandhabbā pucchanti, mahārājāno pucchanti, indā pucchanti, brahmāṇo pucchanti, devatāyo pucchanti. Ayaṃ amanussapucchā.
Việc hỏi của phi nhân là việc nào? Các phi nhân đi đến gặp đức Phật Thế Tôn và hỏi câu hỏi: các loài rồng hỏi, các nhân điểu hỏi, các Dạ-xoa hỏi, các A-tu-la hỏi, các Càn-thát-bà hỏi, các đại vương hỏi, các Thiên chủ hỏi, các Phạm Thiên hỏi, các Thiên nhân hỏi. Đây là việc hỏi của phi nhân.
Katamā nimmitapucchā? Yaṃ bhagavā rūpaṃ abhinimmināti manomayaṃ sabbaṅgapaccaṅgaṃ ahīnindriyaṃ, taṃ so nimmito buddhaṃ bhagavantaṃ upasaṅkamitvā pañhaṃ pucchati, bhagavā vissajjeti. Ayaṃ nimmitapucchā. Imā tisso pucchā.
Việc hỏi của vị (Phật) đã được hóa hiện ra là việc nào? Đức Thế Tôn hóa hiện ra hình dáng (vị Phật) được tạo thành bởi ý, có tất cả các bộ phận thân thể lớn nhỏ, có giác quan không bị khiếm khuyết, vị (Phật) đã được hóa hiện ra ấy đi đến gặp đức Phật Thế Tôn và hỏi câu hỏi, đức Thế Tôn trả lời. Đây là việc hỏi của vị (Phật) đã được hóa hiện ra. Đây là ba loại việc hỏi.
Aparāpi tisso pucchā: attatthapucchā, paratthapucchā, ubhayatthapucchā. Aparāpi tisso pucchā: diṭṭhadhammikatthapucchā, samparāyikatthapucchā, paramatthapucchā. Aparāpi tisso pucchā: anavajjatthapucchā, nikkhepatthapucchā, vodānatthapucchā. Aparāpi tisso pucchā: atītapucchā, anāgatapucchā, paccuppannapucchā. Aparāpi tisso pucchā: ajjhattapucchā, bahiddhāpucchā, ajjhattabahiddhāpucchā. Aparāpi tisso pucchā: kusalapucchā, akusalapucchā, abyākatapucchā. Aparāpi tisso pucchā: khandhapucchā, dhātupucchā, āyatanapucchā. Aparāpi tisso pucchā: satipaṭṭhānapucchā, sammappadhānapucchā, iddhipādapucchā. Aparāpi tisso pucchā: indriyapucchā, balapucchā, bojjhaṅgapucchā. Aparāpi tisso pucchā: maggapucchā, phalapucchā, nibbānapucchā.
Còn có ba loại việc hỏi khác nữa: việc hỏi về lợi ích của bản thân, việc hỏi về lợi ích của người khác, việc hỏi về lợi ích của cả hai. Còn có ba loại việc hỏi khác nữa: việc hỏi về lợi ích trong đời này, việc hỏi về lợi ích trong đời sau, việc hỏi về lợi ích tối thượng. Còn có ba loại việc hỏi khác nữa: việc hỏi về lợi ích của sự không tội lỗi, việc hỏi về lợi ích của sự buông bỏ, việc hỏi về lợi ích của sự trong sạch. Còn có ba loại việc hỏi khác nữa: việc hỏi về quá khứ, việc hỏi về vị lai, việc hỏi về hiện tại. Còn có ba loại việc hỏi khác nữa: việc hỏi về nội phần, việc hỏi về ngoại phần, việc hỏi về nội phần và ngoại phần. Còn có ba loại việc hỏi khác nữa: việc hỏi về thiện, việc hỏi về bất thiện, việc hỏi về vô ký. Còn có ba loại việc hỏi khác nữa: việc hỏi về uẩn, việc hỏi về giới, việc hỏi về xứ. Còn có ba loại việc hỏi khác nữa: việc hỏi về thiết lập niệm, việc hỏi về chánh tinh tấn, việc hỏi về nền tảng của thần thông. Còn có ba loại việc hỏi khác nữa: việc hỏi về quyền, việc hỏi về lực, việc hỏi về giác chi. Còn có ba loại việc hỏi khác nữa: việc hỏi về Đạo, việc hỏi về Quả, việc hỏi về Niết Bàn.
Pucchāmi tan ’ti – pucchāmi taṃ, yācāmi taṃ, ajjhesāmi taṃ, pasādemi taṃ, kathayassu meti – pucchāmi taṃ. Ādiccabandhun ’ti ādicco vuccati suriyo; suriyo gotamo gottena; bhagavā pi gotamo gottena. Bhagavā suriyassa gottañātako gottabandhu, tasmā buddho ādiccabandhūti – pucchāmi taṃ ādiccabandhuṃ.
Tôi hỏi ngài: Tôi hỏi ngài, tôi yêu cầu ngài, vị tôi mời ngài, vị tôi thỉnh ngài, xin ngài hãy thuyết giảng cho tôi; – ‘tôi hỏi ngài’ là như thế. Đấng quyến thuộc của mặt trời: Mặt trời nói đến Thái Dương. Dòng tộc Thái Dương là dòng tộc Gotama; đức Thế Tôn cũng là dòng tộc Gotama. Đức Thế Tôn là bà con trong dòng tộc, là quyến thuộc trong dòng tộc của Thái Dương, vì thế đức Phật là quyến thuộc của mặt trời; – ‘tôi hỏi ngài, đấng quyến thuộc của mặt trời’ là như thế.
Vivekaṃ santipadañca mahesin ’ti – Viveko ’ti tayo vivekā: kāyaviveko, cittaviveko, upadhiviveko.
Bậc đại ẩn sĩ, về sự viễn ly và vị thế an tịnh – Sự viễn ly: Có ba sự viễn ly: thân viễn ly, tâm viễn ly, sanh y viễn ly.Katamo kāyaviveko? Idha bhikkhu vivittaṃ senāsanaṃ bhajati, araññaṃ rukkhamūlaṃ pabbataṃ kandaraṃ giriguhaṃ susānaṃ vanapatthaṃ abbhokāsaṃ palālapuñjaṃ kāyena ca vivitto viharati. So eko gacchati, eko tiṭṭhati, eko nisīdati, eko seyyaṃ kappeti, eko gāmaṃ piṇḍāya pavisati, eko paṭikkamati, eko raho nisīdati, eko caṅkamaṃ adhiṭṭhāti, eko carati viharati irīyati vattati pāleti yapeti yāpe ’ti – ayaṃ kāyaviveko.
Thế nào là thân viễn ly? Ở đây, vị tỳ khưu thân cận chỗ trú ngụ xa vắng, khu rừng rậm, gốc cây, sườn núi, thung lũng, khe núi, bãi tha ma, khu rừng thưa, đồng trống, đống rơm, và sống viễn ly về thân. Vị ấy đi một mình, đứng một mình, ngồi một mình, nằm một mình, đi vào làng để khất thực một mình, đi trở về một mình, ngồi cô độc một mình, quyết định kinh hành một mình, thực hành một mình, cư trú, cư xử, vận hành, bảo hộ, duy trì, nuôi dưỡng một mình. Đây là thân viễn ly.
Katamo cittaviveko? Paṭhamaṃ jhānaṃ samāpannassa nīvaraṇehi cittaṃ vivittaṃ hoti. Dutiyaṃ jhānaṃ samāpannassa vitakkavicārehi cittaṃ vivittaṃ hoti. Tatiyaṃ jhānaṃ samāpannassa pītiyā cittaṃ vivittaṃ hoti. Catutthaṃ jhānaṃ samāpannassa sukhadukkhehi cittaṃ vivittaṃ hoti. Ākāsānañcāyatanaṃ samāpannassa rūpasaññāya paṭighasaññāya nānattasaññāya cittaṃ vivittaṃ hoti. Viññāṇañcāyatanaṃ samāpannassa ākāsānañcāyatanasaññāya cittaṃ vivittaṃ hoti. Ākiñcaññāyatanaṃ samāpannassa viññāṇañcāyatanasaññāya cittaṃ vivittaṃ hoti. Nevasaññānānāsaññāyatanaṃ samāpannassa ākiñcaññāyatanasaññāya cittaṃ vivittaṃ hoti. Sotāpannassa sakkāyadiṭṭhiyā, vicikicchāya, sīlabbataparāmāsā, diṭṭhānusayā, vicikicchānusayā tadekaṭṭhehi ca kilesehi cittaṃ vivittaṃ hoti. Sakadāgāmissa oḷārikā kāmarāgasaññojanā, paṭighasaññojanā, oḷārikā kāmarāgānusayā, paṭighānusayā, tadekaṭṭhehi ca kilesehi cittaṃ vivittaṃ hoti. Anāgāmissa aṇusahagatā kāmarāgasaññojanā, paṭighasaññojanā, aṇusahagatā kāmarāgānusayā paṭighānusayā, tadekaṭṭhehi ca kilesehi cittaṃ vivittaṃ hoti. Arahato rūparāgā, arūparāgā, mānā, uddhaccā, avijjāya mānānusayā, bhavarāgānusayā, avijjānusayā, tadekaṭṭhehi ca kilesehi, bahiddhā ca sabbanimittehi cittaṃ vivittaṃ hoti. Ayaṃ cittaviveko.
Thế nào là tâm viễn ly? Đối với vị thể nhập sơ thiền, tâm được viễn ly các pháp che lấp. Đối với vị thể nhập nhị thiền, tâm được viễn ly tầm và tứ. Đối với vị thể nhập tam thiền, tâm được viễn ly hỷ. Đối với vị thể nhập tứ thiền, tâm được viễn ly lạc và khổ. Đối với vị thể nhập không vô biên xứ, tâm được viễn ly sắc tưởng, bất bình tưởng, dị biệt tưởng. Đối với vị thể nhập thức vô biên xứ, tâm được viễn ly không vô biên xứ tưởng. Đối với vị thể nhập vô sở hữu xứ, tâm được viễn ly thức vô biên xứ tưởng. Đối với vị thể nhập phi tưởng phi phi tưởng xứ, tâm được viễn ly vô sở hữu xứ tưởng. Đối với vị Nhập Lưu, tâm được viễn ly sự nhận thức sai trái về thân, sự hoài nghi, sự bám víu vào giới và phận sự, tà kiến tiềm ẩn, hoài nghi tiềm ẩn, và các phiền não cộng trú với mỗi pháp ấy. Đối với vị Nhất Lai, tâm được viễn ly sự ràng buộc của ái dục và sự ràng buộc của bất bình có tính chất thô thiển, ái dục tiềm ẩn và bất bình tiềm ẩn có tính chất thô thiển, và các phiền não cộng trú với mỗi pháp ấy. Đối với vị Bất Lai, tâm được viễn ly sự ràng buộc của ái dục và sự ràng buộc của bất bình có tính chất vi tế, ái dục tiềm ẩn và bất bình tiềm ẩn có tính chất vi tế, và các phiền não cộng trú với mỗi pháp ấy. Đối với vị A-la-hán, tâm được viễn ly ái sắc, ái vô sắc, ngã mạn, phóng dật, vô minh, ngã mạn tiềm ẩn, hữu ái tiềm ẩn, vô minh tiềm ẩn, các phiền não cộng trú với mỗi pháp ấy, và mọi hiện tướng ở bên ngoài. Đây là tâm viễn ly.
Katamo upadhiviveko? Upadhi vuccati kilesā ca khandhā ca abhisaṅkhārā ca. Upadhiviveko vuccati amataṃ nibbānaṃ, yo so sabbasaṅkhārasamatho sabbūpadhipaṭinissaggo, taṇhakkhayo, virāgo, nirodho, nibbānaṃ. Ayaṃ upadhiviveko.
Thế nào là sanh y viễn ly? Sanh y nói đến các ô nhiễm, các uẩn, và các hành. Sanh y viễn ly nói đến Bất Tử, Niết Bàn, là sự yên lặng của tất cả các hành, sự buông bỏ tất cả các mầm tái sanh, sự diệt trừ tham ái, sự lìa khỏi luyến ái, sự tịch diệt, Niết Bàn. Đây là sanh y viễn ly.
Kāyaviveko ca vūpakaṭṭhakāyānaṃ nekkhammābhiratānaṃ, cittaviveko ca parisuddhacittānaṃ paramavodānappattānaṃ, upadhiviveko ca nirupadhīnaṃ puggalānaṃ visaṅkhāragatānaṃ.
Thân viễn ly là đối với các vị có thân đã lui về nơi ẩn dật, đã thích thú trong việc xuất ly; tâm viễn ly là đối với các vị có tâm hoàn toàn trong sạch, đã đạt đến sự trong sạch tuyệt đối; và sanh y viễn ly là đối với các cá nhân không còn mầm mống tái sanh, đã đạt đến việc lìa khỏi các pháp tạo tác.
Santī ’ti ekena ākārena santipi santipadampi taṃ yeva amataṃ nibbānaṃ, yo so sabbasaṅkhārasamatho, sabbūpadhipaṭinissaggo, taṇhakkhayo, virāgo, nirodho, nibbānaṃ. Vuttaṃ hetaṃ bhagavatā: “Santametaṃ padaṃ paṇītametaṃ padaṃ, yadidaṃ sabbasaṅkhārasamatho, sabbūpadhipaṭinissaggo, taṇhakkhayo, virāgo, nirodho, nibbānan ”ti. Athavā aparena ākārena ye dhammā santādhigamāya, santiphusanāya, santisacchikiriyāya saṃvattanti seyyathīdaṃ: cattāro satipaṭṭhānā, cattāro sammappadhānā, cattāro iddhipādā, pañcindriyāni, pañca balāni, satta bojjhaṅgā, ariyo aṭṭhaṅgiko maggo. Ime vuccanti santipadaṃ, tāṇapadaṃ, lenapadaṃ, saraṇapadaṃ, abhayapadaṃ, accutapadaṃ, amatapadaṃ, nibbānapadaṃ.
An tịnh: theo một khía cạnh (nào đó), an tịnh cũng là vị thế an tịnh; điều ấy chính là Bất Tử, Niết Bàn, là sự yên lặng của tất cả các hành, sự buông bỏ tất cả các mầm tái sanh, sự diệt trừ tham ái, sự lìa khỏi luyến ái, sự tịch diệt, Niết Bàn. Bởi vì, điều này đã được đức Thế Tôn nói đến: “Vị thế này là an tịnh, vị thế này là hảo hạng, tức là sự yên lặng của tất cả các hành, sự buông bỏ tất cả các mầm tái sanh, sự diệt trừ tham ái, sự lìa khỏi luyến ái, sự tịch diệt, Niết Bàn.” Hoặc là, theo một khía cạnh khác, các pháp nào vận hành đưa đến việc chứng đắc sự an tịnh, đưa đến việc chạm đến sự an tịnh, đưa đến việc chứng ngộ sự an tịnh, như là: bốn sự thiết lập niệm, bốn chánh tinh tấn, bốn nền tảng của thần thông, năm quyền, năm lực, bảy yếu tố đưa đến giác ngộ, đạo lộ thánh thiện tám chi phần. Các pháp này gọi là vị thế an tịnh, vị thế nương tựa, vị thế trú ẩn, vị thế nương nhờ, vị thế không còn sợ hãi, vị thế Bất Hoại, vị thế Bất Tử, vị thế Niết Bàn.
Mahesī ’ti mahesī bhagavā; mahantaṃ sīlakkhandhaṃ esi, gavesi, pariyesīti mahesī. Mahantaṃ samādhikkhandhaṃ – mahantaṃ paññākkhandhaṃ – mahantaṃ vimuttikkhandhaṃ – mahantaṃ vimuttiñāṇadassanakkhandhaṃ esi gavesi pariyesīti – mahesī. Mahato tamokāyassa padālanaṃ, mahato vipallāsassa bhedaṃ, mahato taṇhāsallassa abbūhanaṃ, mahato diṭṭhisaṅghāṭassa viniveṭhanaṃ, mahato mānadhajassa papātanaṃ, mahato abhisaṅkhārassa vūpasamanaṃ, mahato oghassa nittharaṇaṃ, mahato bhārassa nikkhepanaṃ, mahato saṃsāravaṭṭassa upacchedaṃ, mahato santāpassa nibbāpanaṃ, mahato pariḷāhassa paṭippassaddhiṃ, mahato dhammadhajassa ussāpanaṃ esi gavesi pariyesīti – mahesī. Mahante satipaṭṭhāne – mahante sammappadhāne – mahante iddhipāde – mahantāni indriyāni – mahantāni balāni – mahante bojjhaṅge – mahantaṃ ariyaṃ aṭṭhaṅgikaṃ maggaṃ – mahantaṃ paramatthaṃ amataṃ nibbānaṃ esi gavesi pariyesīti – mahesī. Mahesakkhehi vā sattehi esito gavesito pariyesito ‘kahaṃ buddho, kahaṃ bhagavā, kahaṃ devadevo kahaṃ narāsabho ’ti mahesī ’ti – vivekaṃ santipadañca mahesiṃ.
Bậc đại ẩn sĩ: bậc đại ẩn sĩ là (nói đến) đức Thế Tôn. ‘Vị tầm cầu, tìm tòi, tìm kiếm giới uẩn lớn lao’ là bậc đại ẩn sĩ. ‘Vị tầm cầu, tìm tòi, tìm kiếm định uẩn lớn lao – tuệ uẩn lớn lao – giải thoát uẩn lớn lao – tri kiến giải thoát uẩn lớn lao’ là bậc đại ẩn sĩ. ‘Vị tầm cầu, tìm tòi, tìm kiếm sự phá tan khối tăm tối lớn lao, sự phá vỡ điều trái khuấy lớn lao, sự nhổ lên mũi tên tham ái lớn lao, sự tháo tung mối rối rắm tà kiến lớn lao, sự xô ngã ngọn cờ ngã mạn lớn lao, sự vắng lặng pháp tạo tác lớn lao, sự thoát khỏi dòng lũ lớn lao, sự quăng bỏ gánh nặng lớn lao, sự cắt đứt vòng quay luân hồi lớn lao, việc dập tắt sự nóng nảy lớn lao, việc tịch tịnh sự bực bội lớn lao, việc nâng lên ngọn cờ Giáo Pháp lớn lao’ là bậc đại ẩn sĩ. ‘Vị tầm cầu, tìm tòi, tìm kiếm các sự thiết lập niệm lớn lao – các chánh tinh tấn lớn lao – các nền tảng của thần thông lớn lao – các quyền lớn lao – các lực lớn lao – các yếu tố đưa đến giác ngộ lớn lao – đạo lộ thánh thiện tám chi phần lớn lao – chân lý tuyệt đối lớn lao, Bất Tử, Niết Bàn’ là bậc đại ẩn sĩ. Vị được tầm cầu, được tìm tòi, được tìm kiếm bởi các chúng sanh có uy lực lớn lao (hỏi rằng): ‘Đức Phật ngự ở đâu? Đức Thế Tôn ngự ở đâu? Chúa của chư Thiên ngự ở đâu? Đấng Nhân Ngưu ngự ở đâu?’ là bậc đại ẩn sĩ; – ‘bậc đại ẩn sĩ, về sự viễn ly và vị thế an tịnh’ là như thế.
Kathaṃ disvā nibbāti bhikkhū ’ti – Kathaṃ disvā passitvā tulayitvā tīrayitvā vibhāvayitvā vibhūtaṃ katvā attano rāgaṃ nibbāpeti, dosaṃ nibbāpeti, mohaṃ nibbāpeti, kodhaṃ, upanāhaṃ makkhaṃ, paḷāsaṃ, issaṃ, macchariyaṃ, māyaṃ, sāṭheyyaṃ, thambhaṃ, sārambhaṃ, mānaṃ, atimānaṃ, madaṃ, pamādaṃ, sabbe kilese, sabbe duccarite, sabbe darathe, sabbe pariḷāhe, sabbe santāpe, sabbākusalābhisaṅkhāre nibbāpeti sameti upasameti vūpasameti paṭippassambheti? Bhikkhū ’ti puthujjanakalyāṇako vā bhikkhu sekho vā bhikkhū ’ti – kathaṃ disvā nibbāti bhikkhu.
Sau khi nhìn thấy như thế nào, vị tỳ khưu được tịch diệt?: Sau khi nhìn thấy, sau khi nhìn xem, sau khi cân nhắc, sau khi xét đoán, sau khi phân biệt, sau khi làm rõ rệt như thế nào mà (vị tỳ khưu) dập tắt luyến ái, dập tắt sân hận, dập tắt si mê của bản thân, dập tắt, làm an tịnh, làm yên tịnh, làm vắng lặng, làm vắng lặng, làm tịch tịnh sự giận dữ, thù hằn, thâm hiểm, ác ý, ganh tỵ, bỏn xẻn, xảo trá, bội bạc, bướng bỉnh, hung hăng, ngã mạn, ngã mạn thái quá, đam mê, xao lãng, tất cả ô nhiễm, tất cả uế hạnh, mọi sự lo lắng, mọi sự bực bội, mọi sự nóng nảy, tất cả pháp tạo tác bất thiện? Vị tỳ khưu: là vị tỳ khưu phàm nhân tốt lành hoặc vị tỳ khưu là bậc Hữu Học; – ‘sau khi nhìn thấy như thế nào, vị tỳ khưu được tịch diệt?’ là như thế.
Anupādiyāno lokasmiṃ kiñcī ’ti – catuhi upādānehi anupādiyamāno agaṇhamāno aparāmasamāno anabhinivisamāno. Lokasmin ’ti apāyaloke manussaloke devaloke khandhaloke dhātuloke āyatanaloke. Kiñcī ’ti kiñci rūpagataṃ vedanāgataṃ saññāgataṃ saṅkhāragataṃ viññāṇagatan ’ti – anupādiyāno lokasmiṃ kiñci.
Không còn chấp thủ bất cứ cái gì ở thế gian: trong khi không chấp thủ, trong khi không nắm lấy, trong khi không bám víu, trong khi không cố chấp đối với bốn thủ. Ở thế gian: ở thế gian của khổ cảnh, ở thế gian của loài người, ở thế gian của chư Thiên, ở thế gian của các uẩn, ở thế gian của các giới, ở thế gian của các xứ. Bất cứ cái gì: bất cứ cái gì đề cập đến sắc, đề cập đến thọ, đề cập đến tưởng, đề cập đến các hành, đề cập đến thức; – ‘không còn chấp thủ bất cứ cái gì ở thế gian’ là như thế.
Tenāha bhagavā: “Pucchāmi taṃ ādiccabandhuṃ vivekaṃ santipadañca mahesiṃ, kathaṃ disvā nibbāti bhikkhu anupādiyāno lokasmiṃ kiñcī ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Tôi hỏi ngài, đấng quyến thuộc của mặt trời, bậc đại ẩn sĩ, về sự viễn ly và vị thế an tịnh. Sau khi nhìn thấy như thế nào, vị tỳ khưu được tịch diệt, không còn chấp thủ bất cứ cái gì ở thế gian?”
14.2
Mūlaṃ papañcasaṅkhāyāti bhagavā mantā asmīti sabbamuparundhe, yā kāci taṇhā ajjhattaṃ tāsaṃ vinayā sadā sato sikkhe.
Đức Thế Tôn nói: “Nên chặn đứng tất cả gốc rễ của cái được gọi là vọng tưởng: ‘Tôi là’ nhờ vào trí tuệ. Bất cứ những tham ái nào ở nội phần, sau khi dẹp bỏ chúng, nên học tập, luôn luôn có niệm.
Thế Tôn:
Thế Tôn đáp như sau:
Hãy chặt đứt hoàn toàn,
Gốc rễ các hý luận,
Mọi tư tưởng “tôi là “,
Tất cả phải chấm dứt,
Phàm có nội ái nào,
Sau khi nhiếp phục chúng,
Thường chánh niệm học tập.
(Kinh Tập, câu kệ 916)
Mūlaṃ papañcasaṅkhāyāti bhagavā mantā asmīti sabbamuparundhe ’ti – papañcā yeva papañcasaṅkhā; taṇhā papañcasaṅkhā, diṭṭhi papañcasaṅkhā. Katamaṃ taṇhāpapañcassa mūlaṃ? Avijjā mūlaṃ, ayoniso manasikāro mūlaṃ, asmimāno mūlaṃ, ahirikaṃ mūlaṃ, anottappaṃ mūlaṃ, uddhaccaṃ mūlaṃ; idaṃ taṇhāpapañcassa mūlaṃ. Katamaṃ diṭṭhipapañcassa mūlaṃ? Avijjā mūlaṃ, ayoniso manasikāro mūlaṃ, asmimāno mūlaṃ, ahirikaṃ mūlaṃ, anottappaṃ mūlaṃ, uddhaccaṃ mūlaṃ; idaṃ diṭṭhipapañcassa mūlaṃ.
Bhagavā ’ti gāravādhivacanaṃ. Api ca, bhaggarāgoti bhagavā; bhaggadosoti bhagavā; bhaggamohoti bhagavā; bhaggamānoti bhagavā; bhaggadiṭṭhīti bhagavā; bhaggakaṇṭakoti bhagavā; bhaggakilesoti bhagavā; bhaji vibhaji paṭivibhaji dhammaratananti bhagavā; bhavānaṃ antakaroti bhagavā; bhāvitakāyoti bhagavā, bhāvitasīlo bhāvitacitto bhāvitapaññoti bhagavā; bhaji vā bhagavā araññe vanapatthāni pantāni senāsanāni appasaddāni appanigghosāni vijanavātāni manussarāhaseyyakāni paṭisallānasāruppānīti bhagavā; bhāgī vā bhagavā cīvara-piṇḍapāta-senāsana-gilānappaccaya-bhesajjaparikkhārānanti bhagavā; bhāgī vā bhagavā attharasassa dhammarasassa vimuttirasassa adhisīlassa adhicittassa adhipaññāyāti bhagavā; bhāgī vā bhagavā catuṇṇaṃ jhānānaṃ catuṇṇaṃ appamaññānaṃ catuṇṇaṃ arūpasamāpattīnanti bhagavā; bhāgī vā bhagavā aṭṭhannaṃ vimokkhānaṃ aṭṭhannaṃ abhibhāyatanānaṃ navaṇṇaṃ anupubbavihāra-samāpattīnanti bhagavā; bhāgī vā bhagavā dasannaṃ saññābhāvanānaṃ dasannaṃ kasiṇasamāpattīnaṃ ānāpānasatisamādhissa asubhasamāpattiyāti bhagavā; bhāgī vā bhagavā catuṇṇaṃ satipaṭṭhānānaṃ catuṇṇaṃ sammappadhānānaṃ catuṇṇaṃ iddhipādānaṃ pañcannaṃ indriyānaṃ pañcannaṃ balānaṃ sattannaṃ bojjhaṅgānaṃ ariyassa aṭṭhaṅgikassa maggassāti bhagavā; bhāgī vā bhagavā dasannaṃ tathāgatabalānaṃ catunnaṃ vesārajjānaṃ catuṇṇaṃ paṭisambhidānaṃ channaṃ abhiññāñāṇānaṃ channaṃ buddhadhammānanti bhagavā. Bhagavāti netaṃ nāmaṃ mātarā kataṃ, na pitarā kataṃ, na bhātarā kataṃ, na bhaginiyā kataṃ, na mittāmaccehi kataṃ, na ñātisālohitehi kataṃ, na samaṇabrāhmaṇehi kataṃ, na devatāhi kataṃ, vimokkhantikametaṃ buddhānaṃ bhagavantānaṃ bodhiyā mūle saha sabbaññutañāṇassa paṭilābhā, sacchikā paññatti yadidaṃ bhagavāti – mūlaṃ papañcasaṅkhāyāti bhagavā.
Mantā asmīti sabbamuparundhe ’ti – Mantā vuccati paññā, yā paññā pajānanā –pe– amoho dhammavicayo sammādiṭṭhi. Asmī ’ti rūpe asmīti māno, asmīti chando, asmīti anusayo; vedanāya – saññāya – saṅkhāresu viññāṇe asmīti māno, asmīti chando, asmīti anusayoti – mūlaṃ papañcasaṅkhāyāti bhagavā.
Mantā asmīti sabbamuparundhe ’ti – papañcasaṅkhāya mūlañca asmimānañca mantāya sabbaṃ rundheyya uparundheyya nirodheyya vūpasameyya atthaṅgameyya paṭippassambheyyā ’ti – mūlaṃ papañcasaṅkhāyāti bhagavā mantā asmīti sabbamuparundhe.
Yā kāci taṇhā ajjhattan ’ti – Yā kācī ’ti sabbena sabbaṃ sabbathā sabbaṃ asesaṃ nissesaṃ pariyādiyanavacanametaṃ yā kācī ’ti. Taṇhā ’ti rūpataṇhā –pe– dhammataṇhā. Ajjhattan ’ti ajjhattasamuṭṭhānā vā sā taṇhā ’ti – ajjhattaṃ. Athavā ajjhattaṃ vuccati cittaṃ, yaṃ cittaṃ mano mānasaṃ hadayaṃ paṇḍaraṃ mano manāyatanaṃ manindriyaṃ viññāṇaṃ viññāṇakkhandho tajjā manoviññāṇadhātu. Cittena sā taṇhā sahagatā sahajātā saṃsaṭṭhā sampayuttā ekuppādā ekanirodhā ekavatthukā ekārammaṇāti pi ajjhattan ’ti – yā kāci taṇhā ajjhattaṃ.
Tāsaṃ vinayā sadā sato sikkheti – Sadā ’ti sadā sabbadā sabbakālaṃ niccakālaṃ dhuvakālaṃ satataṃ samitaṃ abbokiṇṇaṃ poṅkhānupoṅkhaṃ udakomikājātaṃ avīcisantatisahitaṃ phussitaṃ purebhattaṃ pacchābhattaṃ, purimaṃ yāmaṃ majjhimaṃ yāmaṃ pacchimaṃ yāmaṃ, kāle juṇhe, vasse hemante gimhe, purime vayokhandhe majjhime vayokhandhe pacchime vayokhandhe.
Sato ’ti catuhi kāraṇehi sato: kāye kāyānupassanāsatipaṭṭhānaṃ bhāvento sato, vedanāsu –pe– citte –pe– dhammesu dhammānupassanāsatipaṭṭhānaṃ bhāvento sato. Aparehipi catuhi kāraṇehi sato, asatiparivajjanāya sato, satikaraṇīyānaṃ dhammānaṃ katattā sato, satipaṭipakkhānaṃ dhammānaṃ katattā sato, satinimittānaṃ dhammānaṃ asammuṭṭhattā sato. Aparehipi catuhi kāraṇehi sato: satiyā samannāgatattā sato, satiyā vasitattā sato, satiyā pāguññatāya sato, satiyā apaccorohaṇatāya sato. Aparehi catuhi kāraṇehi sato: sattattā sato, samitattā sato, santattā sato, santi dhammasamannāgatattā sato, buddhānussatiyā sato, dhammānussatiyā sato, saṅghānussatiyā sato, sīlānussatiyā sato, cāgānussatiyā sato, devatānussatiyā sato, ānāpānasatiyā sato, maraṇasatiyā sato, kāyagatāsatiyā sato, upasamānussatiyā sato. Yā sati anussati paṭissati sati saraṇatā dhāraṇatā apilāpanatā apammussanatā sati satindriyaṃ satibalaṃ sammāsati satisambojjhaṅgo ekāyanamaggo, ayaṃ vuccati sati. Imāya satiyā upeto samupeto upagato samupagato upapanno samupapanno samannāgato. So vuccati sato.
Sikkhe ’ti – Tisso sikkhā: adhisīlasikkhā adhicittasikkhā adhipaññāsikkhā.
Katamā adhisīlasikkhā? Idha bhikkhu sīlavā hoti, pātimokkhasaṃvarasaṃvuto viharati ācāragocarasampanno, aṇumattesu vajjesu bhayadassāvī samādāya sikkhati sikkhāpadesu, khuddako sīlakkhandho, mahanto sīlakkhandho, sīlaṃ patiṭṭhā ādi caraṇaṃ saṃyamo saṃvaro, mukhaṃ pamukhaṃ kusalānaṃ dhammānaṃ samāpattiyā. Ayaṃ adhisīlasikkhā.
Katamā adhicittasikkhā? Idha bhikkhu vivicceva kāmehi vivicca akusalehi dhammehi savitakkaṃ savicāraṃ vivekajaṃ pītisukhaṃ paṭhamaṃ jhānaṃ upasampajja viharati. Vitakkavicārānaṃ vūpasamā ajjhattaṃ sampasādanaṃ cetaso ekodibhāvaṃ avitakkaṃ avicāraṃ samādhijaṃ pītisukhaṃ dutiyaṃ jhānaṃ upasampajja viharati. Pītiyā ca virāgā upekkhako ca viharati sato ca sampajāno sukhaṃ ca kāyena paṭisaṃvedeti, yaṃ taṃ ariyā ācikkhanti ‘upekkhako satimā sukhavihārī ’ti taṃ tatiyaṃ jhānaṃ upasampajja viharati. Sukhassa ca pahānā dukkhassa ca pahānā pubbeva somanassadomanassānaṃ atthaṅgamā adukkham asukhaṃ upekkhāsatipārisuddhiṃ catutthaṃ jhānaṃ upasampajja viharati. Ayaṃ adhicittasikkhā.
Katamā adhipaññāsikkhā? Idha bhikkhu paññavā hoti udayatthagāminiyā paññāya samannāgato ariyāya nibbedhikāya sammādukkhakkhayagāminiyā. So idaṃ dukkhanti yathābhūtaṃ pajānāti, ayaṃ dukkhasamudayoti yathābhūtaṃ pajānāti, ayaṃ dukkhanirodhoti yathābhūtaṃ pajānāti, ayaṃ dukkhanirodhagāminīpaṭipadāti yathābhūtaṃ pajānāti; ime āsavāti yathābhūtaṃ pajānāti, ayaṃ āsavasamudayoti yathābhūtaṃ pajānāti, ayaṃ āsavanirodhoti yathābhūtaṃ pajānāti, ayaṃ āsavanirodhagāminī paṭipadāti yathābhūtaṃ pajānāti. Ayaṃ adhipaññāsikkhā.
Tāsaṃ vinayā sadā sato sikkhe ’ti – tāsaṃ taṇhānaṃ vinayāya paṭivinayāya pahānāya vūpasamāya paṭinissaggāya paṭippassaddhiyā adhisīlampi sikkheyya, adhicittampi sikkheyya, adhipaññampi sikkheyya. Imā tisso sikkhāyo āvajjanto sikkheyya, jānanto sikkheyya, passanto sikkheyya, paccavekkhanto sikkheyya, cittaṃ adhiṭṭhahanto sikkheyya, saddhāya adhimuccanto sikkheyya, viriyaṃ paggaṇhanto sikkheyya, satiṃ upaṭṭhapento sikkheyya, cittaṃ samādahanto sikkheyya, paññāya pajānanto sikkheyya, abhiññeyyaṃ abhijānanto sikkheyya, pariññeyyaṃ parijānanto sikkheyya, pahātabbaṃ pajahanto sikkheyya, bhāvetabbaṃ bhāvento sikkheyya, sacchikātabbaṃ sacchikaronto sikkheyya ācareyya samācareyya samādāya vatteyyā ’ti – tāsaṃ vinayā sadā sato sikkhe.
Tenāha bhagavā: “Mūlaṃ papañcasaṅkhāyāti bhagavā mantā asmīti sabbamuparundhe, yā kāci taṇhā ajjhattaṃ tāsaṃ vinayā sadā sato sikkhe ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:Đức Thế Tôn nói: “Nên chặn đứng tất cả gốc rễ của cái được gọi là vọng tưởng: ‘Tôi là’ nhờ vào trí tuệ. Bất cứ những tham ái nào ở nội phần, sau khi dẹp bỏ chúng, nên học tập, luôn luôn có niệm.”
14.3
Yaṃ kiñci dhammamabhijaññā ajjhattaṃ athavāpi bahiddhā, na tena thāmaṃ kubbetha na hi sā nibbuti sataṃ vuttā.
Bất cứ pháp (đức tính tốt) nào có thể biết rõ ở nội phần (nơi bản thân) hay là ở ngoại phần (nơi người khác), không vì điều ấy mà tạo ra sự ngã mạn, bởi vì điều ấy không được các bậc thiện nhân gọi là sự tịch diệt.
Phàm có loại pháp gì,
Ðược thắng tri hoàn toàn,
Hoặc thuộc về nội pháp,
Hay thuộc về ngoại pháp,
Chớ có làm kiên trì,
Bất cứ một pháp nào,
Trạng thái ấy không gọi,
Sự mát lạnh của tịnh.
(Kinh Tập, câu kệ 917)
Yaṃ kiñci dhammamabhijaññā ajjhattan ’ti – Yaṃ kiñci attano guṇaṃ jāneyya kusale vā dhamme abyākate vā dhamme. Katame attano guṇā? Uccākulā pabbajito vā assaṃ, mahābhogakulā pabbajito vā assaṃ, uḷārabhogakulā pabbajito vā assaṃ, ñāto yasassī sagahaṭṭhapabbajitānanti vā assaṃ, lābhīmhi cīvara-piṇḍapāta-senāsana-gilānapaccayabhesajja-parikkhārānanti vā assaṃ, suttantiko vā assaṃ, vinayadharo vā assaṃ, dhammakathiko vā assaṃ, āraññako vā assaṃ, piṇḍapātiko vā assaṃ, paṃsukūliko vā assaṃ, tecīvariko vā assaṃ, sapadānacāriko vā assaṃ, khalupacchābhattiko vā assaṃ, nesajjiko vā assaṃ, yathāsanthatiko vā assaṃ, paṭhamassa jhānassa lābhīti vā assaṃ, dutiyassa jhānassa lābhīti vā assaṃ, tatiyassa jhānassa lābhīti vā assaṃ, catutthassa jhānassa lābhīti vā assaṃ, ākāsānañcāyatanasamāpattiyā lābhīti vā assaṃ; viññāṇañcāyatanasamāpattiyā – ākiñcaññāyatanasamāpattiyā nevasaññānāsaññāyatanasamāpattiyā lābhīti vā assaṃ; ime vuccanti attano guṇā. Yaṃ kiñci attano guṇaṃ jāneyya ājāneyya vijāneyya paṭivijāneyya paṭivijjheyyā ’ti – yaṃ kiñci dhammamabhijaññā ajjhattaṃ.
Athavāpi bahiddhā ’ti – upajjhāyassa vā ācariyassa vā te guṇā assū ’ti – ajjhattaṃ athavāpi bahiddhā.
Na tena thāmaṃ kubbethā ’ti – Attano vā guṇena paresaṃ vā guṇena thāmaṃ na kareyya, thambhaṃ na kareyya, mānaṃ na kareyya, unnatiṃ na kareyya, unnāmaṃ na kareyya, na tena mānaṃ janeyya, na tena thaddho assa patthaddho paggahitasiro ’ti – na tena thāmaṃ kubbetha.
Na hi sā nibbuti sataṃ vuttā ’ti – Satānaṃ santānaṃ sappurisānaṃ buddhānaṃ buddhasāvakānaṃ paccekabuddhānaṃ sā nibbutīti na vuttā; na pavuttā, na ācikkhitā, na desitā, na paññāpitā na paṭṭhapitā, na vivaṭā, na vibhattā, na uttānīkatā, nappakāsitā ’ti – na hi sā nibbuti sataṃ vuttā.
Tenāha bhagavā: “Yaṃ kiñci dhammamabhijaññā ajjhattaṃ athavāpi bahiddhā, na tena thāmaṃ1 kubbetha na hi sā nibbuti sataṃ vuttā.”
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Bất cứ pháp (đức tính tốt) nào có thể biết rõ ở nội phần (nơi bản thân) hay là ở ngoại phần (nơi người khác), không vì điều ấy mà tạo ra sự ngã mạn, bởi vì điều ấy không được các bậc thiện nhân gọi là sự tịch diệt.”
14.4
Seyyo na tena maññeyya nīceyyo athavāpi sarikkho, phuṭṭho anekarūpehi nātumānaṃ vikappayaṃ tiṭṭhe.
Không nên vì việc (ngã mạn) ấy mà nghĩ rằng (bản thân) là tốt hơn, kém thua, hoặc thậm chí là tương đương. Bị tác động bởi nhiều hình thức, trong khi sắp đặt về bản thân, không nên dừng lại ở điều ấy.
Chớ có nghĩ như sau:
Cái kia là tốt hơn,
Ðây là hạ liệt hơn,
Hay đây là ngang bằng,
Do phải bị xúc chạm,
Với các sắc sai biệt,
Hãy chớ để tự mình,
An trú trên vọng tưởng.
(Kinh Tập, câu kệ 918)
Seyyo na tena maññeyyā ’ti – Seyyo’hamasmīti atimānaṃ na janeyya jātiyā vā gottena vā kolaputtiyena vā vaṇṇapokkharatāya vā dhanena vā ajjhenena vā kammāyatanena vā sippāyatanena vā vijjāṭṭhānena vā sutena vā paṭibhānena vā aññataraññatarena vā vatthunā ’ti – seyyo na tena maññeyya.
Nīceyyo athavāpi sarikkho ’ti – Hīno’hasmīti omānaṃ na janeyya jātiyā vā gottena vā –pe– aññataraññatarena vā vatthunā. Sadiso’hamasmīti mānaṃ na janeyya jātiyā vā gottena vā kolaputtiyena vā vaṇṇapokkharatāya vā dhanena vā ajjhenena vā kammāyatanena vā sippāyatanena vā vijjāṭṭhānena vā sutena vā paṭibhānena vā aññataraññatarena vā vatthunā ’ti – nīceyyo athavāpi sarikkho.
Phuṭṭho anekarūpehī ’ti – anekavidhehi ākārehi phuṭṭho pareto samohito samannāgato ’ti – phuṭṭho anekarūpehi.
Nātumānaṃ vikappayaṃ tiṭṭhe ’ti – Ātumā vuccati attā. Attānaṃ kappento vikappento vikappaṃ āpajjanto na tiṭṭheyyā ’ti – nātumānaṃ vikappayaṃ tiṭṭhe.
Tenāha bhagavā: “Seyyo na tena maññeyya nīceyyo athavāpi sarikkho, phuṭṭho anekarūpehi nātumānaṃ vikappayaṃ tiṭṭhe ”ti
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Không nên vì việc (ngã mạn) ấy mà nghĩ rằng (bản thân) là tốt hơn, kém thua, hoặc thậm chí là tương đương. Bị tác động bởi nhiều hình thức, trong khi sắp đặt về bản thân, không nên dừng lại ở điều ấy.”
14.5
Ajjhattameva upasame nāññato bhikkhu santimeseyya, ajjhattaṃ upasantassa natthi attā kuto nirattā vā.
Nên làm yên tịnh ngay ở nội tâm, vị tỳ khưu không nên tìm kiếm sự an tịnh bằng (đạo lộ) khác. Đối với vị đã được an tịnh ở nội tâm, điều được nắm bắt là không có, từ đâu có điều được buông lơi?
Hãy giữ được an tịnh,
Về phía tự nội tâm,
Tỷ-kheo không cầu tìm,
An tịnh từ chỗ khác,
Với người được an tịnh,
Từ phía tự nội tâm,
Ðã không có tự ngã,
Từ đâu có vô ngã.
(Kinh Tập, câu kệ 919)
Ajjhattameva upasame ’ti – Ajjhattaṃ rāgaṃ sameyya, dosaṃ sameyya, mohaṃ sameyya, kodhaṃ upanāhaṃ makkhaṃ paḷāsaṃ issaṃ macchariyaṃ māyaṃ sāṭheyyaṃ thambhaṃ sārambhaṃ mānaṃ atimānaṃ madaṃ pamādaṃ sabbe kilese sabbe duccarite sabbe darathe sabbe pariḷāhe sabbe santāpe sabbākusalābhisaṅkhāre sameyya upasameyya vūpasameyya nibbāpeyya paṭippassambheyyā ’ti – ajjhattameva upasame.
Nāññato bhikkhu santimeseyyā ’ti – Aññato asuddhimaggena micchāpaṭipadāya aniyyānapathena aññatra satipaṭṭhānehi, aññatra sammappadhānehi, aññatra iddhipādehi, aññatra indriyehi, aññatra balehi, aññatra bojjhaṅgehi, aññatra ariyā aṭṭhaṅgikā maggā santiṃ upasantiṃ vūpasantiṃ nibbutiṃ paṭippassaddhiṃ na eseyya na gaveseyya na pariyeseyyā ’ti – nāññato bhikkhu santimeseyya.
Ajjhattaṃ upasantassā ’ti – Ajjhattaṃ rāgaṃ santassa dosaṃ santassa mohaṃ santassa –pe– sabbākusalābhisaṅkhāre santassa upasantassa vūpasantassa nibbutassa paṭippassaddhassā ’ti – ajjhattaṃ upasantassa.
Natthi attā kuto nirattā vā ’ti – Natthī ’ti paṭikkhepo. Attā ’ti attadiṭṭhi natthi. Nirattā ’ti uccheddiṭṭhi natthi. Attā ’ti gahitaṃ natthi. Nirattā ’ti muñcitabbaṃ natthi. Yassatthi gahitaṃ tassatthi muñcitabbaṃ, yassa natthi muñcitabbaṃ tassa natthi gahitaṃ, gāhamuñcana-samatikkanto arahā vuddhiparihāniṃ vītivatto. So vutthavāso ciṇṇacaraṇo ―pe― jātimaraṇasaṃsāro natthi tassa punabbhavo ’ti – natthi attā kuto nirattā vā.
Tenāha bhagavā: “Ajjhattameva upasame nāññato bhikkhu santimeseyya, ajjhattaṃ upasantassa natthi attā kuto nirattā vā ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Nên làm yên tịnh ngay ở nội tâm, vị tỳ khưu không nên tìm kiếm sự an tịnh bằng (đạo lộ) khác. Đối với vị đã được an tịnh ở nội tâm, điều được nắm bắt là không có, từ đâu có điều được buông lơi?”
14.6
Majjhe yathā samuddassa ūmi no jāyati ṭhito hoti, evaṃ ṭhito anejassa ussadaṃ bhikkhu na kareyya kuhiñci.
Giống như ở giữa biển cả là đứng yên, sóng biển không được sanh ra, tương tự như vậy, nên trầm tĩnh, không dục vọng, vị tỳ khưu không nên tạo ra (thái độ) kiêu ngạo ở bất cứ đâu.
Như chính giữa trung ương,
Của biển cả đại dương,
Sóng biển không có sanh,
Biển hoàn toàn đứng lặng,
Cũng vậy, này Tỷ-kheo
Hãy đứng lặng không động,
Không tạo nên bồng bột,
Ðối sự gì ở đời.
(Kinh Tập, câu kệ 920)
Majjhe yathā samuddassa ūmi no jāyati ṭhito hotī ’ti – Samuddo caturāsītiyojanasahassāni ubbedhena gambhīro; heṭṭhā cattārīsayojanasahassāni udakaṃ macchakacchapehi kampati, upari catārīsayojanasahassāni udakaṃ vātehi kampati, majjhe cattāri yojanasahassāni udakaṃ na kampati na vikampati na calati na vedhati nappavedhati na sampavedhati, anerito aghaṭṭito acalito alulito abhanto vūpasanto, tatra ūmi no jāyati ṭhito hoti samuddoti, evampi yathā samuddassa ūmi no jāyati ṭhito hoti. Athavā sattannaṃ pabbatānaṃ antarikāsu satta sīdantarā mahāsamuddā, tatra udakaṃ na kampati na vikampati na calati na vedhati nappavedhati na sampavedhati anerito aghaṭṭito acalito alulito16 abhanto vūpasanto, tatra ūmi no jāyati ṭhito hoti samuddoti, evampi majjhe yathā samuddassa ūmi no jāyati ṭhito hoti.
Evaṃ ṭhito anejassā ’ti – Evan ’ti opammasampaṭipādanaṃ. Ṭhito ’ti lābhepi na kampati, alābhepi na kampati, yasepi na kampati, ayasepi na kampati, pasaṃsāyapi na kampati, nindāyapi na kampati, sukhepi na kampati, dukkhepi na kampati na vikampati na calati na vedhati nappavedhati na sampavedhatī ’ti – evaṃ ṭhito. Anejassā ’ti – Ejā vuccati taṇhā, yo rāgo sārāgo –pe– abhijjhā lobho akusalamūlaṃ. Yassesā ejā taṇhā pahīnā ucchinnā samucchinnā vūpasantā paṭippassaddhā abhabbuppattikā ñāṇagginā daḍḍhā, so vuccati anejo. Ejāya pahīnattā anejo. So lābhepi na iñjati, alābhepi na iñjati, yasepi na iñjati, ayasepi na iñjati, pasaṃsāyapi na iñjati, nindāyapi na iñjati, sukhepi na iñjati, dukkhepi na iñjati na calati na vedhati nappavedhati na sampavedhatī ’ti – evaṃ ṭhito anejassa.
Ussadaṃ bhikkhu na kareyya kuhiñcī ’ti – Ussadā ’ti sattussadā: rāgussadaṃ dosussadaṃ mohussadaṃ mānussadaṃ diṭṭhussadaṃ kilesussadaṃ kammussadaṃ na kareyya na janeyya na sañjaneyya na nibbatteyya nābhinibbatteyya. Kuhiñcī ’ti kuhiñci kismiñci katthaci ajjhattaṃ vā, bahiddhā vā, ajjhattabahiddhā vā ’ti – ussadaṃ bhikkhu na kareyya kuhiñci.
Tenāha bhagavā: “Majjhe yathā samuddassa ūmi no jāyati ṭhito hoti, evaṃ ṭhito anejassa ussadaṃ bhikkhu na kareyya kuhiñcī ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Giống như ở giữa biển cả là đứng yên, sóng biển không được sanh ra, tương tự như vậy, nên trầm tĩnh, không dục vọng, vị tỳ khưu không nên tạo ra (thái độ) kiêu ngạo ở bất cứ đâu.”
14.7
Akittayī vivaṭacakkhu, sakkhidhammaṃ parissayavinayaṃ, paṭipadaṃ vadehi bhaddante, pātimokkhamathavāpi samādhiṃ.
Bậc có mắt được mở ra đã nói về pháp thực chứng, có sự xua đi các hiểm họa. Thưa ngài đại đức, xin ngài hãy nói về đường lối thực hành, về giới giải thoát, và luôn cả về định nữa.
Người hỏi:
Vị có mắt rộng mở
Ðã tuyên bố rõ ràng,
Pháp có thể chế ngự,
Mọi nguy hiểm khó khăn,
Bậc Hiền thiện mong Ngài,
Tuyên bố rõ con đường,
Hay về biệt giải thoát,
Hoặc về pháp thiền định?
(Kinh Tập, câu kệ 921)
Akittayī vivaṭacakkhū ’ti – Akittayī ’ti kittitaṃ ācikkhitaṃ desitaṃ paññapitaṃ paṭṭhapitaṃ vivaṭaṃ vibhattaṃ uttānīkataṃ pakāsitan ’ti – akittayī. Vivaṭacakkhū ’ti bhagavā pañcahi cakkhūhi vivaṭacakkhu, maṃsacakkhunāpi vivaṭacakkhu, dibbacakkhunāpi vivaṭacakkhu, paññācakkhunāpi vivaṭacakkhu, buddhacakkhunāpi vivaṭacakkhu, samantacakkhunāpi vivaṭacakkhu.
Kathaṃ bhagavā maṃsacakkhunāpi vivaṭacakkhu? Maṃsacakkhumhi bhagavato pañcavaṇṇā saṃvijjanti: nīlo ca vaṇṇo, pītako ca vaṇṇo, lohitako ca vaṇṇo, kaṇho ca vaṇṇo, odāto ca vaṇṇo. Akkhilomāni ca bhagavato – yattha ca akkhilomāni patiṭṭhitāni, taṃ nīlaṃ hoti sunīlaṃ pāsādikaṃ dassaneyyaṃ, ummāpupphasamānaṃ. Tassa parato pītaṃ hoti supītakaṃ suvaṇṇavaṇṇaṃ pāsādikaṃ dassaneyyaṃ kaṇikārapupphasamānaṃ – Ubhayato ca akkhikūṭāni bhagavato lohitakāni honti sulohitakāni pāsādikāni dassaneyyāni indagopakasamānāni. Majjhe kaṇhaṃ hoti sukaṇhaṃ alūkhaṃ siniddhaṃ pāsādikaṃ dassaneyyaṃ addāriṭṭhaka-samānaṃ. Tassa parato odātaṃ hoti su-odātaṃ setaṃ paṇḍaraṃ pāsādikaṃ dassaneyyaṃ osadhītārakāsamānaṃ. Tena bhagavā pākatikena maṃsacakkhunā attabhāvapariyāpannena purimasucaritakammābhinibbattena samantā yojanaṃ passati divā ceva rattiñca. Yadā hi caturaṅgasamannāgato andhakāro hoti: suriyo ca atthaṅgato hoti, kāḷapakkho ca uposatho hoti, tibbo ca vanasaṇḍo hoti, mahā ca kāḷamegho abbhuṭṭhito hoti, evarūpepi caturaṅgasamannāgate andhakāre samantā yojanaṃ passati. Yattha so kuḍḍo vā kavāṭaṃ vā pākāro vā pabbato vā gacchaṃ vā latā vā āvaraṇaṃ rūpānaṃ dassanāya. Ekañce tilaphalaṃ nimittaṃ katvā tilavāhe pakkhipeyya, taññeva tilaphalaṃ uddhareyya. Evaṃ parisuddhaṃ bhagavato pākatikaṃ maṃsacakkhu. Evaṃ bhagavā maṃsacakkhunāpi vivaṭacakkhu.
Kathaṃ bhagavā dibbena cakkhunāpi vivaṭacakkhu? Bhagavā dibbena cakkhunā visuddhena atikkantamānusakena satte passati cavamāne uppajjamāne hīne paṇīte suvaṇṇe dubbaṇṇe sugate duggate, yathākammūpage satte pajānāti: ‘Ime vata bhonto sattā kāyaduccaritena samannāgatā vacīduccaritena samannāgatā manoduccaritena samannāgatā ariyānaṃ upavādakā micchādiṭṭhikā micchādiṭṭhikammasamādānā, te kāyassa bhedā parammaraṇā apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ nirayaṃ upapannā, ime vā pana bhonto sattā kāyasucaritena samannāgatā vacīsucaritena samannāgatā manosucaritena samannāgatā ariyānaṃ anupavādakā sammādiṭṭhikā sammādiṭṭhikammasamādānā, te kāyassa bhedā parammaraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapannā ’ti. Iti dibbena cakkhunā visuddhena atikkantamānusakena satte passati cavamāne uppajjamāne hīne paṇīte suvaṇṇe dubbaṇṇe sugate duggate, yathākammūpage satte pajānāti. Ākaṅkhamāno ca bhagavā ekampi lokadhātuṃ passeyya, dve pi lokadhātuyo passeyya, tisso pi lokadhātuyo passeyya, catasso pi lokadhātuyo passeyya, pañcapi lokadhātuyo passeyya, dasa pi lokadhātuyo passeyya, vīsampi lokadhātuyo passeyya, tiṃsampi lokadhātuyo passeyya, cattāḷīsampi lokadhātuyo passeyya, paññāsampi lokadhātuyo passeyya, satampi lokadhātuyo passeyya, sahassimpi cūlanikaṃ lokadhātuṃ passeyya, dvisahassimpi majjhimikaṃ lokadhātuṃ passeyya, tisahassiṃ mahāsahassimpi lokadhātuṃ passeyya. Yāvatā vā pana ākaṅkheyya tāvatakaṃ passeyya. Evaṃ parisuddhaṃ bhagavato dibbaṃ cakkhu . Evaṃ bhagavā dibbena cakkhunāpi vivaṭacakkhū.
Kathaṃ bhagavā paññācakkhunāpi vivaṭacakkhu? Bhagavā mahāpañño puthupañño hāsupañño javanapañño tikkhapañño nibbedhikapañño paññāpabhedakusalo pabhinnañāṇo adhigatapaṭisambhido, catuvesārajjappatto dasabaladhārī purisāsabho purisasīho purisanāgo purisājañño purisadhorayho anantañāṇo anantatejo anantayaso, aḍḍho mahaddhano dhanavā, netā vinetā anunetā paññāpetā nijjhāpetā pekkhetā pasādetā. So hi bhagavā anuppannassa maggassa uppādetā asañjātassa maggassa sañjanetā, anakkhātassa maggassa akkhātā, maggaññū maggavidū maggakovido. Maggānugā ca pana etarahi sāvakā viharanti pacchāsamannāgatā.
So hi bhagavā jānaṃ jānāti, passaṃ passati. Cakkhubhūto ñāṇabhūto dhammabhūto brahmabhūto vattā pavattā atthassa ninnetā amatassa dātā, dhammassāmī tathāgato. Natthi tassa bhagavato aññātaṃ adiṭṭhaṃ aviditaṃ asacchikataṃ aphassitaṃ paññāya, atītaṃ anāgataṃ paccuppannaṃ upādāya sabbe dhammā sabbākārena buddhassa bhagavato ñāṇamukhe āpāthaṃ āgacchanti. Yaṃ kiñci ñeyyaṃ nāma atthi dhammaṃ jānitabbaṃ, attattho vā parattho vā ubhayattho vā diṭṭhadhammiko vā attho samparāyiko vā attho uttāno vā attho gambhīro vā attho gūḷho vā attho paṭicchanno vā attho neyyo vā attho nīto vā attho anavajjo vā attho nikkileso vā attho vodāno vā attho paramattho vā attho, sabbaṃ taṃ antobuddhañāṇe parivattati.
Sabbaṃ kāyakammaṃ buddhassa bhagavato ñāṇānuparivatti. Sabbaṃ vacīkammaṃ – sabbaṃ manokammaṃ buddhassa bhagavato ñāṇānuparivatti. Atīte buddhassa bhagavato appaṭihataṃ ñāṇaṃ anāgate – paccuppanne appaṭihataṃ ñāṇaṃ. Yāvatakaṃ ñeyyaṃ tāvatakaṃ ñāṇaṃ, yāvatakaṃ ñāṇaṃ tāvatakaṃ ñeyyaṃ, ñeyyapariyantikaṃ ñāṇaṃ, ñāṇapariyantikaṃ ñeyyaṃ, ñeyyaṃ atikkamitvā ñāṇaṃ nappavattati, ñāṇaṃ atikkamitvā ñeyyapatho natthi, aññamaññapariyantaṭṭhāyino te dhammā. Yathā dvinnaṃ samuggapaṭalānaṃ sammā phassitānaṃ heṭṭhimaṃ samuggapaṭalaṃ uparimaṃ nātivattati, uparimaṃ samuggapaṭalaṃ heṭṭhimaṃ nātivattati, aññamaññapariyantaṭṭhāyino te, evamevaṃ buddhassa bhagavato ñeyyañca ñāṇañca aññamaññapariyantaṭṭhāyino. Yāvatakaṃ ñeyyaṃ tāvatakaṃ ñāṇaṃ, yāvatakaṃ ñāṇaṃ tāvatakaṃ ñeyyaṃ, ñeyyapariyantikaṃ ñāṇaṃ, ñāṇapariyantikaṃ ñeyyaṃ, ñeyyaṃ atikkamitvā ñāṇaṃ nappavattati, ñāṇaṃ atikkamitvā ñeyyapatho natthi, aññamaññapariyantaṭṭhāyino te dhammā.
Sabbadhammesu buddhassa bhagavato ñāṇaṃ parivattati. Sabbe dhammā buddhassa bhagavato āvajjanapaṭibaddhā ākaṅkhāpaṭibaddhā manasikārapaṭibaddhā cittuppādapaṭibaddhā. Sabbasattesu buddhassa bhagavato ñāṇaṃ parivattati. Sabbesaṃ sattānaṃ bhagavā āsayaṃ jānāti, anusayaṃ jānāti, caritaṃ jānāti, adhimuttiṃ jānāti. Apparajakkhe mahārajakkhe tikkhindriye mudindriye svākāre dvākāre suviññāpaye duviññāpaye bhabbābhabbe satte pajānāti. Sadevako loko samārako sabrahmako sassamaṇabrāhmaṇī pajā sadevamanussā anto buddhañāṇe parivattati.
Yathā ye keci macchakacchapā antamaso timitimiṅgalaṃ upādāya antomahāsamudde parivattanti, evamevaṃ sadevako loko samārako sabrahmako sassamaṇabrāhmaṇī pajā sadevamanussā antobuddhañāṇe parivattati. Yathā ye keci pakkhī antamaso garuḷaṃ venateyyaṃ upādāya ākāsassa padese parivattanti, evamevaṃ yepi te sāriputtasamā paññāya, tepi buddhañāṇassa padese parivattanti. Buddhañāṇaṃ devamanussānaṃ paññaṃ pharitvā abhibhavitvā tiṭṭhati. Ye ca te khattiyapaṇḍitā brāhmaṇapaṇḍitā gahapatipaṇḍitā samaṇapaṇḍitā nipuṇā kataparappavādā vālavedhirūpā vobhindantā maññe caranti paññāgatena diṭṭhigatāni, te pañhaṃ abhisaṅkharitvā abhisaṅkharitvā tathāgataṃ upasaṅkamitvā pucchanti gūḷhāni ca paṭicchannāni ca. Kathitā vissajjitā ca te pañhā bhagavatā honti niddiṭṭhakāraṇā. Upakkhittakāva te bhagavato sampajjanti. Atha kho bhagavā va tattha atirocati, yadidaṃ paññāyāti. Evaṃ bhagavā paññācakkhunāpi vivaṭacakkhu.
Kathaṃ bhagavā buddhacakkhunāpi vivaṭacakkhu? Bhagavā buddhacakkhunā lokaṃ olokento addasa satte apparajakkhe mahārajakkhe tikkhindriye mudindriye svākāre dvākāre suviññāpaye duviññāpaye, appekacce paralokavajjabhayadassāvino viharante, appekacce ca na paralokavajjabhayadassāvino viharante. Seyyathāpi nāma uppaliniyaṃ vā paduminiyaṃ vā puṇḍarīkiniyaṃ vā appekaccāni uppalāni vā padumāni vā puṇḍarīkāni vā udake jātāni udake saṃvaddhāni udakā anuggatāni antonimuggaposīni, appekaccāni uppalāni vā padumāni vā puṇḍarīkāni vā udake jātāni udake saṃvaddhāni samodakaṃ ṭhitāni, appekaccāni uppalāni vā padumāni vā puṇḍarīkāni vā udake jātāni udake saṃvaddhāni udakā accuggamma tiṭṭhanti anupalittāni udakena, evamevaṃ bhagavā buddhacakkhunā lokaṃ olokento addasa satte apparajakkhe mahārajakkhe tikkhindriye mudindriye svākāre dvākāre suviññāpaye duviññāpaye, appekacce paralokavajjabhayadassāvino viharante, appekacce na paralokavajjabhayadassāvino viharante.
Jānāti bhagavā ‘ayaṃ puggalo rāgacarito, ayaṃ dosacarito, ayaṃ mohacarito, ayaṃ vitakkacarito, ayaṃ saddhācarito, ayaṃ ñāṇacarito ’ti. Rāgacaritassa bhagavā puggalassa asubhakathaṃ katheti. Dosacaritassa bhagavā puggalassa mettābhāvanaṃ ācikkhati. Mohacaritaṃ bhagavā puggalaṃ uddese paripucchāya kālena dhammasavane kālena dhammasākacchāya garusaṃvāse niveseti. Vitakkacaritassa bhagavā puggalassa ānāpānasatiṃ ācikkhati. Saddhācaritassa bhagavā puggalassa pasādaniyaṃ nimittaṃ ācikkhati buddhasubodhiṃ dhammasudhammataṃ saṅghasuppaṭipattiṃ sīlāni ca attano. Ñāṇacaritassa bhagavā puggalassa ācikkhati vipassanānimittaṃ aniccākāraṃ dukkhākāraṃ anattākāraṃ.
1. “Sele yathā pabbatamuddhaniṭṭhito yathāpi passe janataṃ samantato. tathūpamaṃ dhammamayaṃ sumedha, pāsādamāruyha samantacakkhu, sokāvatiṇṇaṃ janatamapetasoko avekkhassu jātijarābhibhūtan ”ti. Evaṃ bhagavā buddhacakkhunāpi vivaṭacakkhu.
Kathaṃ bhagavā samantacakkhunāpi vivaṭacakkhu? Samantacakkhu vuccati sabbaññutañāṇaṃ. Bhagavā sabbaññutañāṇena upeto samupeto upagato samupagato upapanno sampanno samannāgato.
2. “Na tassa addiṭṭhamidhatthi kiñci atho aviññātamajānitabbaṃ, sabbaṃ abhiññāsi yadatthi ñeyyaṃ tathāgato tena samantacakkhū ”ti. Evaṃ bhagavā samantacakkhunāpi vivaṭacakkhū ’ti – akittayī vivaṭacakkhu.
Sakkhidhammaṃ parissayavinayan ’ti – Sakkhidhamman ’ti na itihitihaṃ, na itikirāya, na paramparāya, na piṭakasampadāya, na takkahetu, na nayahetu, na ākāraparivitakkena, na diṭṭhinijjhānakkhantiyā sāmaṃ sayamabhiññātaṃ attapaccakkhaṃ dhamman ’ti – sakkhidhammaṃ.
Parissayavinayan ’ti – Parissayā ’ti dve parissayā: pākaṭaparissayā ca, paṭicchannaparissayā ca.
Katame pākaṭaparissayā? Sīhā vyagghā dīpī acchā taracchā kokā mahisā hatthī ahī vicchikā satapadī corā vā assu mānavā vā katakammā vā akatakammā vā, cakkhurogo sotarogo ghānarogo jivhārogo kāyarogo sīsarogo kaṇṇarogo mukharogo dantarogo kāso sāso pināso ḍaho jaro kucchirogo mucchā pakkhandikā sūlā visūcikā kuṭṭhaṃ gaṇḍo kilāso soso apamāro, daddu kaṇḍu kacchu hakhasā vitacchikā lohitapittaṃ madhumeho aṃsā piḷakā bhagandalā, pittasamuṭṭhānā ābādhā, semhasamuṭṭhānā ābādhā, vātasamuṭṭhānā ābādhā, sannipātikā ābādhā, utupariṇāmajā ābādhā, visamaparihārajā ābādhā, opakkamikā ābādhā, kammavipākajā ābādhā, sītaṃ uṇhaṃ jighacchā pipāsā uccāro passāvo, ḍaṃsamakasavātātapasiriṃsapasamphassā iti vā, ime vuccanti pākaṭaparissayā.
Katame paṭicchannaparissayā? Kāyaduccaritaṃ vacīduccaritaṃ manoduccaritaṃ, kāmacchandanīvaraṇaṃ vyāpādanīvaraṇaṃ thīnamiddhanīvaraṇaṃ uddhaccakukkuccanīvaraṇaṃ vicikicchānīvaraṇaṃ, rāgo doso moho kodho upanāho makkho paḷāso issā macchariyaṃ māyā sāṭheyyaṃ thambho sārambho māno atimāno mado pamādo sabbe kilesā sabbāni duccaritāni sabbe darathā sabbe pariḷāhā sabbe santāpā sabbākusalābhisaṅkhārā. Ime vuccanti paṭicchannaparissayā.
Parissayā ’ti – Kenaṭṭhena parissayā? Parisahantīti parissayā, parihānāya saṃvattantīti parissayā, tatrāsayāti parissayā. Kathaṃ parisahantīti parissayā? Te parissayā taṃ puggalaṃ sahanti parisahanti abhibhavanti ajjhottharanti pariyādiyanti maddanti. Evaṃ parisahantīti parissayā. Kathaṃ parihānāya saṃvattantīti parissayā? Te parissayā kusalānaṃ dhammānaṃ antarāyāya parihānāya saṃvattanti. Katamesaṃ kusalānaṃ dhammānaṃ? Sammāpaṭipadāya anulomapaṭipadāya appaccanīkapaṭipadāya anvatthapaṭipadāya dhammānudhammapaṭipadāya sīlesu paripūrakāritāya indriyesu guttadvāratāya bhojanesu mattaññutāya jāgariyānuyogassa satisampajaññassa, catunnaṃ satipaṭṭhānānaṃ bhāvanānuyogassa, catunnaṃ sammappadhānānaṃ – catunnaṃ iddhipādānaṃ – pañcannaṃ indriyānaṃ – pañcannaṃ balānaṃ – sattannaṃ bojjhaṅgānaṃ – ariyassa aṭṭhaṅgikassa maggassa bhāvanānuyogassa. Imesaṃ kusalānaṃ dhammānaṃ antarāyāya parihānāya9 saṃvattanti. Evampi parihānāya saṃvattantīti parissayā.
Kathaṃ tatrāsayāti parissayā? Tatthete pāpakā akusalā dhammā uppajjanti attabhāvasannissayā. Yathā bile bilāsayā pāṇā sayanti, dake dakāsayā pāṇā sayanti, vane vanāsayā pāṇā sayanti, rukkhe rukkhāsayā pāṇā sayanti, evamevaṃ tatthete pāpakā akusalā dhammā uppajjanti attabhāvasannissayāti. Evampi tatrāsayāti parissayā.
Vuttañhetaṃ bhagavatā: “Sāntevāsiko bhikkhave, bhikkhu sācariyako dukkhaṃ na phāsu viharati. Kathañca bhikkhave, bhikkhu sāntevāsiko sācariyako dukkhaṃ na phāsu viharati? Idha bhikkhave, bhikkhuno cakkhunā rūpaṃ disvā uppajjanti pāpakā akusalā dhammā sarasaṅkappā saññojanīyā, tyāssa anto vasanti anvāssavasanti pāpakā akusalā dhammāti, tasmā sāntevāsikoti vuccati. Te naṃ samudācaranti, samudācaranti naṃ pāpakā akusalā dhammāti, tasmā sācariyakoti vuccati. Puna ca paraṃ bhikkhave bhikkhuno sotena saddaṃ sutvā – ghānena gandhaṃ ghāyitvā – jivhāya rasaṃ sāyitvā – kāyena phoṭṭhabbaṃ phusitvā – manasā dhammaṃ viññāya uppajjanti pāpakā akusalā dhammā sarasaṅkappā saññojanīyā. Tyāssa anto vasanti, anvāssavasanti pāpakā akusalā dhammāti, tasmā sāntevāsikoti vuccati. Te naṃ samudācaranti, samudācaranti naṃ pāpakā akusalā dhammāti, tasmā sācariyakoti vuccati. Evaṃ kho bhikkhave, bhikkhu sāntevāsiko sācariyako dukkhaṃ na phāsu viharatī”ti. Evampi tatrāsayāti parissayā.
Vuttañhetaṃ bhagavatā: “Tayo’me bhikkhave antarā malā antarā amittā antarā sapattā antarā vadhakā antarā paccatthikā. Katame tayo? Lobho bhikkhave, antarāmalaṃ antarāmitto antarāsapatto antarāvadhako antarāpaccatthiko. Doso bhikkhave – Moho bhikkhave antarāmalaṃ antarāmitto antarāsapatto antarāvadhako antarāpaccatthiko. Ime kho bhikkhave, tayo antarā malā antarā mittā antarā sapattā antarā vadhakā antarā paccatthikāti.
3. Anatthajanano lobho lobho cittappakopano, bhayamantarato jātaṃ taṃ no nāvabujjhati.
4. Luddho atthaṃ na jānāti luddho dhammaṃ na passati, andhantamaṃ tadā hoti yaṃ lobho sahate naraṃ.
5. Anatthajanano doso doso cittappakopano, bhayamantarato jātaṃ taṃ jano nāvabujjhati.
6. Kuddho atthaṃ na jānāti kuddho dhammaṃ na passati, andhantamaṃ tadā hoti yaṃ kodho sahate naraṃ.
7. Anatthajanano moho moho cittappakopano, bhayamantarato jātaṃ taṃ jano nāvabujjhati.
8. Mūḷho atthaṃ na jānāti mūḷho dhammaṃ na passati, andhantamaṃ tadā hoti yaṃ moho sahate naran ”ti.
Evampi tatrāsayāti parissayā. Vuttaṃ hetaṃ bhagavatā: “Tayo kho ’me mahārāja, purisassa dhammā ajjhattaṃ uppajjamānā uppajjanti ahitāya dukkhāya aphāsuvihārāya. Katame tayo? Lobho kho mahārāja, purisassa dhammo ajjhattaṃ uppajjamāno uppajjati ahitāya dukkhāya aphāsuvihārāya. Doso kho mahārāja – Moho kho mahārāja, purisassa dhammo ajjhattaṃ uppajjamāno uppajjati ahitāya dukkhāya aphāsuvihārāya. Ime kho mahārāja tayo purisassa dhammā ajjhattaṃ uppajjamānā uppajjanti ahitāya dukkhāya aphāsuvihārāya.
9. “Lobho doso ca moho ca purisaṃ pāpacetasaṃ, hiṃsanti attasambhūtā tacasāraṃ ‘va samphalan ”ti. Evampi tatrāsayāti parissayā.
Vuttañhetaṃ bhagavatā:
10. “Rāgo ca doso ca itonidānā aratī ratī lomahaṃsā itojā, ito samuṭṭhāya manovitakkā kumārakā dhaṅkamivossajantī ”ti.
Evampi tatrāsayāti parissayā.
Parissayavinayan ti – Parissayavinayaṃ parissayapahānaṃ parissayavūpasamaṃ parissayapaṭinissaggaṃ parissayapaṭippassaddhiṃ amataṃ nibbānan ’ti – sakkhidhammaṃ parissayavinayaṃ.
Paṭipadaṃ vadehi bhaddante ’ti – Paṭipadaṃ vadehi sammāpaṭipadaṃ anulomapaṭipadaṃ apaccanīkapaṭipadaṃ anvatthapaṭipadaṃ dhammānudhammapaṭipadaṃ sīlesu paripūrakāritaṃ indriyesu guttadvārataṃ, bhojane mattaññutaṃ, jāgariyānuyogaṃ, satisampajaññaṃ, cattāro satipaṭṭhāne, cattāro sammappadhāne, cattāro iddhipāde, pañcindriyāni, pañca balāni, sattabojjhaṅge, ariyaṃ aṭṭhaṅgikaṃ maggaṃ, nibbānañca, nibbānagāminiñca paṭipadaṃ vadehi ācikkha desehi paññapehi paṭṭhapehi vivara vibhaja uttānīkarohi pakāsehī ’ti – paṭipadaṃ vadehi. Bhaddante ’ti so nimmito buddhaṃ bhagavantaṃ ālapati. Athavā, yaṃ tvaṃ dhammaṃ ācikkhi desesi paññapesi paṭṭhapesi vivari vibhaji uttānī-akāsi pakāsesi, sabbaṃ taṃ sundaraṃ bhaddakaṃ kalyāṇaṃ anavajjaṃ sevitabban ’ti – paṭipadaṃ vadehi bhaddante.
Pātimokkhamathavā pi samādhin ’ti – Pātimokkhan ’ti sīlaṃ patiṭṭhā ādi caraṇaṃ saṃyamo saṃvaro mukhaṃ pamukhaṃ kusalānaṃ dhammānaṃ samāpattiyā. Athavāpi samādhin ’ti yā cittassa ṭhiti saṇṭhiti avaṭṭhiti avisāhāro avikkhepo avisāhaṭamānasatā samatho samādhindriyaṃ samādhibalaṃ sammāsamādhī ’ti – pātimokkhamathavā pi samādhiṃ. Tenāha so nimmito:
“Akittayī vivaṭacakkhu, sakkhidhammaṃ parissayavinayaṃ, paṭipadaṃ vadehi bhaddante, pātimokkhamathavā pi samādhin ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Bậc có mắt được mở ra đã nói về pháp thực chứng, có sự xua đi các hiểm họa. Thưa ngài đại đức, xin ngài hãy nói về đường lối thực hành, về giới giải thoát, và luôn cả về định nữa.”
14.8
Cakkhūhi neva lolassa gāmakathāya āvaraye sotaṃ, rase ca nānugijjheyya na ca mamāyetha kiñci lokasmiṃ.
Không nên buông thả với đôi mắt,
nên che đậy lỗ tai đối với chuyện làng xóm,
không nên thèm muốn ở các vị nếm,
và không nên chấp là của tôi về bất cứ thứ gì ở thế gian
Thế Tôn:
Chớ có những con mắt,
Ðầy dẫy những tham đắm!
Hãy chận đứng lỗ tai,
Nghe câu chuyện của làng.
Lại chớ nên đắm say,
Các mùi vị ngon lành,
Chớ xem là của ta,
Mọi sự vật ở đời!
(Kinh Tập, câu kệ 922)
Cakkhūhi neva lolassā ’ti – Kathaṃ cakkhulolo hoti? Idhekacco bhikkhu cakkhulolo cakkhuloliyena samannāgato hoti: adiṭṭhaṃ dakkhitabbaṃ, diṭṭhaṃ samatikkamitabbanti ārāmena ārāmaṃ, uyyānena uyyānaṃ, gāmena gāmaṃ, nigamena nigamaṃ, nagarena nagaraṃ, raṭṭhena raṭṭhaṃ, janapadena janapadaṃ, dīghacārikaṃ anavatthitacārikaṃ anuyutto hoti rūpadassanāya. Evampi cakkhulolo hoti.
Athavā, bhikkhu antaragharaṃ paviṭṭho vīthiṃ paṭipanno asaṃvuto gacchati hatthiṃ olokento, assaṃ olokento, rathaṃ olokento, pattiṃ olokento, itthiyo olokento, purise olokento, kumārake olokento, kumārikāyo olokento, antarāpaṇaṃ olokento, gharamukhāni olokento, uddhaṃ olokento, adho olokento, disāvidisaṃ vipekkhamāno gacchati. Evampi cakkhulolo hoti.
Athavā, bhikkhu cakkhunā rūpaṃ disvā nimittaggāhī hoti anubyañjanaggāhī yatvādhikaraṇamenaṃ cakkhundriyaṃ asaṃvutaṃ viharantaṃ abhijjhā domanassā pāpakā akusalā dhammā anvāssaveyyuṃ, tassa saṃvarāya na paṭipajjati, na rakkhati cakkhundriyaṃ, cakkhundriye na saṃvaraṃ āpajjati. Evampi cakkhulolo hoti.
Yathā vā paneke bhonto samaṇabrāhmaṇā saddhādeyyāni bhojanāni bhuñjitvā te evarūpaṃ visūkadassanaṃ anuyuttā viharanti, seyyathīdaṃ: naccaṃ gītaṃ vāditaṃ pekkhaṃ akkhānaṃ pāṇissaraṃ vetāḷaṃ kumbhathūnaṃ sobhanagarakaṃ caṇḍālaṃ vaṃsaṃ dhovanaṃ hatthiyuddhaṃ assayuddhaṃ mahisayuddhaṃ usabhayuddhaṃ goyuddhaṃ ajayuddhaṃ meṇḍayuddhaṃ kukkuṭayuddhaṃ vaṭṭakayuddhaṃ daṇḍayuddhaṃ muṭṭhiyuddhaṃ nibbuddhaṃ uyyodhikaṃ balaggaṃ senābyūhaṃ aṇīkadassanaṃ iti vā. Evampi cakkhulolo hoti.
Kathaṃ na cakkhulolo hoti? Idhekacco bhikkhu na cakkhulolo na cakkhuloliyena samannāgato hoti: adiṭṭhaṃ dakkhitabbaṃ, diṭṭhaṃ samatikkamitabbanti na ārāmena ārāmaṃ na, uyyānena uyyānaṃ, na gāmena gāmaṃ, na nigamena nigamaṃ, na nagarena nagaraṃ, na raṭṭhena raṭṭhaṃ, na janapadena janapadaṃ, dīghacārikaṃ anavatthitacārikaṃ anuyutto hoti rūpadassanāya. Evampi na cakkhulolo hoti.
Athavā, bhikkhu antaragharaṃ paviṭṭho vīthiṃ paṭipanno saṃvuto gacchati, na hatthiṃ olokento, na assaṃ olokento, na rathaṃ olokento, na pattiṃ olokento, na itthiyo olokento na, na purise olokento, na kumārake olokento, na kumārikāyo olokento, na antarāpaṇaṃ olokento, na gharamukhāni olokento, na uddhaṃ olokento, na adho olokento, na disāvidisaṃ pekkhamāno gacchati. Evampi na cakkhulolo hoti.
Athavā, bhikkhu cakkhunā rūpaṃ disvā na nimittaggāhī hoti nānubyañjanaggāhī. Yatvādhikaraṇamenaṃ cakkhundriyaṃ asaṃvutaṃ viharantaṃ abhijjhā domanassā pāpakā akusalā dhammā anvāssaveyyuṃ, tassa saṃvarāya paṭipajjati, rakkhati cakkhundriyaṃ, cakkhundriye saṃvaraṃ āpajjati. Evampi na cakkhulolo hoti. Yathā vā paneke bhonto samaṇabrāhmaṇā saddhādeyyāni bhojanāni bhuñjitvā te evarūpaṃ visūkadassanaṃ anuyuttā viharanti, seyyathīdaṃ: naccaṃ gītaṃ vāditaṃ pekkhaṃ akkhānaṃ –pe– aṇīkadassanaṃ iti vā. Evarūpā visūkadassanā paṭivirato hoti. Evampi na cakkhulolo hoti.
Cakkhūhi neva lolassā ’ti – Cakkhuloliyaṃ pajaheyya vinodeyya byantīkareyya anabhāvaṃ gameyya. Cakkhuloliyā ārato assa virato paṭivirato nikkhanto nissaṭo vippamutto visaññutto vimariyādīkatena cetasā vihareyyā ’ti – cakkhūhi neva lolassa.
Gāmakathāya āvaraye sotan ’ti – Gāmakathā vuccati battiṃsa tiracchānakathā, seyyathīdaṃ: rājakathā, corakathā, mahāmattakathā, senākathā, bhayakathā, yuddhakathā, annakathā, pānakathā, vatthakathā, yānakathā, sayanakathā, mālākathā, gandhakathā, ñātikathā, gāmakathā, nigamakathā, nagarakathā, janapadakathā, itthikathā, purisakathā, sūrakathā, visikhākathā, kumbhaṭṭhānakathā, pubbapetakathā, nānattakathā lokakkhāyikā samuddakkhāyikā itibhavābhavakathā iti vā.
Gāmakathāya āvaraye sotan ’ti – Gāmakathāya sotaṃ āvareyya nivāreyya sannivāreyya rakkheyya gopeyya pidaheyya pacchindeyyā ’ti – gāmakathāya āvaraye sotaṃ.
Rase ca nānugijjheyyā ’ti – Raso ’ti mūlaraso khandharaso tacaraso pattaraso puppharaso phalaraso ambilaṃ madhuraṃ tittakaṃ kaṭukaṃ loṇakaṃ khārikaṃ lapilaṃ kasāvo sāduṃ asāduṃ sītaṃ uṇhaṃ. Santeke samaṇabrāhmaṇā rasagiddhā. Te jivhaggena rasaggāni pariyesantā āhiṇḍanti. Te ambilaṃ labhitvā anambilaṃ pariyesanti, anambilaṃ labhitvā ambilaṃ pariyesanti ―pe― sītaṃ labhitvā uṇhaṃ pariyesanti, uṇhaṃ labhitvā sītaṃ pariyesanti. Te yaṃ yaṃ labhitvā tena tena na tussanti, aparāparaṃ pariyesanti; manāpikesu rasesu rattā giddhā gathitā mucchitā ajjhopannā laggā laggitā palibuddhā. Yassesā rasataṇhā pahīnā samucchinnā –pe– ñāṇagginā daḍḍhā, so paṭisaṅkhā yoniso āhāraṃ āhāreti: neva davāya ―pe― anavajjatā ca phāsuvihāro cāti.
Yathā vaṇaṃ ālimpeyya yāvadeva āruhaṇatthāya, yathā vā pana akkhaṃ abbhañjeyya yāvadeva bhārassa nittharaṇatthāya, yathā vā puttamaṃsaṃ āhāraṃ āhāreyya yāvadeva kantārassa nittharaṇatthāya; evameva bhikkhu paṭisaṅkhā yoniso āhāraṃ āhāreti: neva davāya –pe– anavajjatā ca phāsuvihāro cāti, rasataṇhaṃ pajaheyya vinodeyya byantīkareyya anabhāvaṃ gameyya, rasataṇhāya ārato assa virato paṭivirato nikkhanto nissaṭo1 vippamutto visaññutto vimariyādīkatena cetasā vihareyyā ’ti – rase ca nānugijjheyya.
Na ca mamāyetha kiñci lokasmin ’ti – Mamattā ’ti dve mamattā: taṇhāmamattañca diṭṭhimamattañca –pe– idaṃ taṇhāmamattaṃ –pe– idaṃ diṭṭhimamattaṃ.
Taṇhāmamattaṃ pahāya diṭṭhimamattaṃ paṭinissajitvā cakkhuṃ na mamāyeyya, na gaṇheyya, na parāmaseyya, nābhiniviseyya; sotaṃ ghānaṃ jivhaṃ kāyaṃ rūpe sadde gandhe rase phoṭṭhabbe kulaṃ gaṇaṃ āvāsaṃ lābhaṃ yasaṃ pasaṃsaṃ sukhaṃ cīvaraṃ piṇḍapātaṃ senāsanaṃ gilānapaccayabhesajjaparikkhāraṃ kāmadhātuṃ rūpadhātuṃ arūpadhātuṃ kāmabhavaṃ rūpabhavaṃ arūpabhavaṃ saññābhavaṃ asaññābhavaṃ nevasaññānāsaññābhavaṃ ekavokārabhavaṃ catuvokārabhavaṃ pañcavokārabhavaṃ atītaṃ anāgataṃ paccuppannaṃ diṭṭhasutamutaviññātabbe dhamme na mamāyeyya, na gaṇheyya, na parāmaseyya, nābhiniviseyya. Kiñcī ’ti kiñci rūpagataṃ vedanāgataṃ saññāgataṃ saṅkhāragataṃ viññāṇagataṃ. Lokasmin ’ti apāyaloke –pe– āyatanaloke ’ti – na ca mamāyetha kiñci lokasmiṃ.
Tenāha bhagavā: “Cakkhūhi neva lolassa gāmakathāya āvaraye sotaṃ, rase ca nānugijjheyya na ca mamāyetha kiñci lokasmin ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Không nên buông thả với đôi mắt, nên che đậy lỗ tai đối với chuyện làng xóm,
không nên thèm muốn ở các vị nếm, và không nên chấp là của tôi về bất cứ thứ gì ở thế gian.”
14.9
Phassena yadā phuṭṭhassa paridevaṃ bhikkhu na kareyya kuhiñci, bhavañca nābhijappeyya bheravesu ca na sampavedheyya.
Khi nào bị xúc chạm bởi xúc (bất hạnh), vị tỳ khưu không nên thể hiện sự than vãn về bất cứ điều gì, không nên tham đắm sự hiện hữu, và không nên rúng động vì các sự khiếp đảm.
Trong khi được cảm giác,
Với các loại cảm xúc,
Tỷ-kheo không than van,
Bất cứ một điều gì.
Vị ấy không cầu mong,
Dầu lại sanh hữu nào,
Và không có run sợ,
Rơi vào các kinh hoàng.
(Kinh Tập, câu kệ 923)
Phassena yadā phuṭṭhassā ’ti – Phasso ’ti rogaphasso. Rogaphassena phuṭṭho pareto samohito samannāgato assa; cakkhurogena puṭṭho pareto samohito samannāgato assa; sotarogena, ghānarogena, jivhārogena, kāyarogena, sīsarogena, kaṇṇarogena, mukharogena, dantarogena, kāsena, sāsena, pināsena, ḍahena, jarena, kucchirogena, mucchāya, pakkhandikāya, sūlāya visūcikāya kuṭṭhena gaṇḍena kilāsena sosena, apamārena, dadduyā kaṇḍuyā kacchuyā rakhasāya vitacchikāya, lohitena pittena madhumehena, aṃsāya piḷakāya bhagandalena, pittasamuṭṭhānena ābādhena semhasamuṭṭhānena ābādhena vātasamuṭṭhānena ābādhena sannipātikena ābādhena utupariṇāmajena ābādhena visamaparihārajena ābādhena opakkamikena ābādhena kammavipākajena ābādhena, sītena uṇhena jighacchāya pipāsāya uccārena passāvena, ḍaṃsamakasavātātapasiriṃsapasamphassehi phuṭṭho pareto samohito samannāgato assā ’ti – phassena yadā phuṭṭhassa.
Khi nào bị xúc chạm bởi xúc (bất hạnh) – Xúc: xúc do bệnh. (Vị tỳ khưu) có thể bị xúc chạm, bị chế ngự, bị xâm nhập, bị tiếp cận bởi xúc do bệnh ở mắt; bị xúc chạm, bị chế ngự, bị xâm nhập, bị tiếp cận bởi xúc do bệnh ở tai trong, do bệnh ở mũi, do bệnh ở lưỡi, do bệnh ở thân, do bệnh ở đầu, do bệnh ở lỗ tai, do bệnh ở miệng, do bệnh ở răng, do ho, do suyễn, do sổ mũi, do nhiệt, do cảm sốt, do đau bụng, do xây xẩm, do kiết lỵ, do đau bụng bão, do dịch tả, do phong cùi, do mụt nhọt, do bệnh chàm, do lao phổi, do động kinh, do mụt, do nhọt, do ghẻ ngứa, do sảy, do loét tay chân, do máu, do mật, do bệnh tiểu đường, do bệnh trĩ, do ghẻ lở, do loét hậu môn, do bệnh phát khởi từ mật, do bệnh phát khởi từ đàm, do bệnh phát khởi từ gió, do bệnh tổng hợp từ mật-đàm-gió, do bệnh sanh lên vì thay đổi thời tiết, do bệnh sanh lên vì bốn oai nghi không đồng đều, do bệnh vì sự cố gắng quá sức, do bệnh sanh lên vì quả của nghiệp, do lạnh, do nóng, do đói, do khát, do tiêu, do tiểu, do các xúc chạm với ruồi muỗi gió nắng và các loài bò sát; – ‘khi nào bị xúc chạm bởi xúc (bất hạnh)’ là như thế.
Paridevaṃ bhikkhu na kareyya kuhiñcī ’ti – Ādevaṃ, paridevaṃ, ādevanaṃ, paridevanaṃ, ādevitattaṃ, paridevitattaṃ, vācā palapaṃ, vippalāpaṃ, lālappaṃ, lālappāyanaṃ, lālappāyitattaṃ na kareyya, na janeyya, na sañjaneyya, na nibbatteyya, nābhinibbatteyya. Kuhiñcī ’ti kuhiñci, kimhici, katthaci ajjhattaṃ vā, bahiddhā vā, ajjhattabahiddhā vā ’ti – paridevaṃ bhikkhu na kareyya kuhiñci.
Vị tỳ khưu không nên thể hiện sự than vãn về bất cứ điều gì – không nên tạo ra, không nên làm sanh ra, không nên làm sanh khởi, không nên làm hạ sanh, không nên làm phát sanh ra sự than van, sự than trách, sự than thở, sự than vãn, trạng thái than van, trạng thái than trách, lời nói, nói lảm nhảm, nói huyên thuyên, nói kể lể, lối nói kể lể, trạng thái nói kể lể. Bất cứ điều gì: là ở bất cứ đâu, về bất cứ điều gì, ở bất cứ chỗ nào, nội phần, hoặc ngoại phần, hoặc nội phần và ngoại phần; – ‘vị tỳ khưu không nên thể hiện sự than vãn về bất cứ điều gì’ là như thế.
Bhavañca nābhijappeyyā ’ti – Kāmabhavaṃ na jappeyya, rūpabhavaṃ na jappeyya, arūpabhavaṃ na jappeyya na pajappeyya nābhijappeyyā ’ti – bhavañca nābhijappeyya.
Không nên tham đắm sự hiện hữu: không nên tham muốn dục hữu, không nên tham muốn sắc hữu, không nên tham muốn vô sắc hữu, không nên khởi tham muốn, không nên tham đắm; – ‘không nên tham đắm sự hiện hữu’ là như thế.
Bheravesu ca na sampavedheyyā ’ti – Bheravā ’ti ekenākārena bhayampi, bheravampi taññeva. Vuttaṃ hetaṃ bhagavatā: “Etaṃ nūna taṃ bhayabheravaṃ āgacchatī”ti. Bahiddhārammaṇaṃ vuttaṃ: sīhā, byagghā, dīpī, acchā, taracchā, kokā mahisā, assā, hatthī, ahivicchikā, satapadī, corā vā assu, māṇavā katakammā vā, akatakammā vā. Athāparena ākārena bhayaṃ vuccati ajjhattikaṃ cittasamuṭṭhānaṃ bhayaṃ bhayānakattaṃ chambhitattaṃ lomahaṃso cetaso ubbego utrāso, jātibhayaṃ, jarābhayaṃ, vyādhibhayaṃ, maraṇabhayaṃ, rājabhayaṃ, corabhayaṃ, aggibhayaṃ, udakabhayaṃ, attānuvādabhayaṃ, parānuvādabhayaṃ, daṇḍabhayaṃ, duggatibhayaṃ, ūmibhayaṃ, kumbhilabhayaṃ, āvaṭṭabhayaṃ, susukābhayaṃ, ājīvikabhayaṃ, asilokabhayaṃ, parisāya sārajjabhayaṃ, madanabhayaṃ, duggatibhayaṃ bhayānakattaṃ chambhitattaṃ lomahaṃso cetaso ubbego utrāso.
Bheravesu ca na sampavedheyyā ’ti – Bherave passitvā vā, suṇitvā vā na vedheyya, nappavedheyya, na sampavedheyya, na taseyya, na uttaseyya, na parittaseyya, na bhāyeyya, na santāsaṃ āpajjeyya; abhīru assa acchambhī anutrāsī apalāyī pahīnabhayabheravo vigatalomahaṃso vihareyyā ’ti – bheravesu ca na sampavedheyya.
Và không nên rúng động vì các sự khiếp đảm – Sự khiếp đảm: sợ hãi và sự khiếp đảm cũng y như nhau, với cùng một biểu hiện. Bởi vì, điều này đã được đức Thế Tôn đề cập đến: “Phải chăng là điều này, là sự sợ hãi khiếp đảm ấy đang đi đến?” Đối tượng bên ngoài đã được nói đến là: các con sư tử, hổ, báo, gấu, chó rừng, chó sói, trâu rừng, ngựa, voi, rắn, bò cạp, rết, hoặc có thể là các kẻ cướp hay những kẻ tàn bạo có hành động gây sự hoặc chưa có hành động gây sự. Theo một kiểu cách khác, sự sợ hãi được nói đến là sự sợ hãi, trạng thái sợ hãi, trạng thái kinh hoàng, sự rởn lông, sự hốt hoảng, sự kinh sợ có nguồn sanh khởi ở tâm, thuộc nội phần; sợ hãi sự sanh, sợ hãi sự già, sợ hãi sự bệnh, sợ hãi sự chết, sợ hãi vua chúa, sợ hãi kẻ trộm, sợ hãi lữa, sợ hãi nước, sợ hãi sự chỉ trích của bản thân, sợ hãi sự chỉ trích của người khác, sợ hãi hình phạt, sợ hãi khổ cảnh, sợ hãi sóng nước, sợ hãi cá sấu, sợ hãi xoáy nước, sợ hãi cá dữ, sợ hãi về sinh kế, sợ hãi sự quở trách, sợ hãi do sự hổ thẹn ở tập thể, sợ hãi do sự say mê, sợ hãi do khổ cảnh, trạng thái sợ hãi, trạng thái kinh hoàng, sự rởn lông, sự hốt hoảng, sự kinh sợ.
Và không nên rúng động vì các sự khiếp đảm – Sau khi nhìn thấy, hoặc sau khi nghe nhiều điều khiếp đảm, thì không nên run rẩy, không nên run bắn lên, không nên rúng động, không nên run sợ, không nên hoảng sợ, không nên kinh sợ, không nên khiếp sợ, không nên sợ hãi, không nên rơi vào sự hoảng sợ, nên có tánh không nhút nhát, không kinh hoàng, không sợ sệt, không trốn chạy, (vị tỳ khưu) nên sống, có sự sợ hãi và khiếp đảm đã được dứt bỏ, có sự rởn lông đã được xa lìa; – ‘và không nên rúng động vì các sự khiếp đảm’ là như thế.
Tenāha bhagavā: “Phassena yadā phuṭṭhassa paridevaṃ bhikkhu na kareyya kuhiñci, bhavañca nābhijappeyya bheravesu ca na sampavedheyyā ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Khi nào bị xúc chạm bởi xúc (bất hạnh), vị tỳ khưu không nên thể hiện sự than vãn về bất cứ điều gì, không nên tham đắm sự hiện hữu, và không nên rúng động vì các sự khiếp đảm.”
14.10
Annānamatho pānānaṃ khādanīyānamathopi vatthānaṃ, laddhā na sannidhiṃ kayirā na ca parittase tāni alabhamāno.
Đối với các thức ăn, rồi đối với các thức uống, đối với các vật thực cứng, rồi đối với các loại vải vóc, sau khi nhận được, không nên tạo ra sự cất giữ, và không nên hoảng sợ trong khi không nhận được chúng.
Các đồ ăn thâu được,
Cùng với các đồ uống,
Các món ăn nhai được,
Các đồ vải mặc được,
Chớ có cất chứa chúng,
Những đồ vật nhận được,
Chớ có quá lo âu,
Nếu không thâu được chúng.
(Kinh Tập, câu kệ 924)
Annānamatho pānānaṃ khādanīyānamathopi vatthānan ’ti – Annānan ’ti odano kummāso sattu maccho maṃsaṃ. Pānānan ’ti aṭṭha pānāni: ambapānaṃ jambupānaṃ cocapānaṃ mocapānaṃ madhupānaṃ muddikāpānaṃ sālukapānaṃ phārusakapānaṃ. Aparāni pi aṭṭha pānāni: kosambapānaṃ kolapānaṃ badarapānaṃ ghatapānaṃ telapānaṃ payopānaṃ yāgupānaṃ rasapānaṃ. Khādanīyānan ’ti piṭṭhakhajjakaṃ pūvakhajjakaṃ mūlakhajjakaṃ tacakhajjakaṃ pattakhajjakaṃ pupphakhajjakaṃ phalakhajjakaṃ. Vatthānan ’ti cha cīvarāni: khomaṃ kappāsikaṃ koseyyaṃ kambalaṃ sāṇaṃ bhaṅgan ’ti – annānamatho pānānaṃ khādanīyānamathopi vatthānaṃ.
Laddhā na sannidhiṃ kayirā ’ti – Laddhā ’ti laddhā labhitvā adhigantvā vinditvā paṭilabhitvā na kuhanāya na lapanāya na nemittikatāya na nippesikatāya na lābhena lābhaṃ nijigiṃsanatāya na kaṭṭhadānena na veḷudānena na pattadānena na pupphadānena na phaladānena na sinānadānena na cuṇṇadānena na mattikādānena na dantakaṭṭhadānena na mukhodakadānena na cāṭukamyatāya na muggasuppatāya na pāribhaṭṭatāya na piṭṭhimaṃsikatāya na vatthuvijjāya na tiracchānavijjāya na aṅgavijjāya na nakkhattavijjāya na dūtagamanena na pahiṇagamanena na jaṅghapesaniyena na vejjakammena na navakammena na piṇḍapatipiṇḍakena na dānānuppadānena dhammena samena laddhā labhitvā adhigantvā vinditvā paṭilabhitvā ’ti – laddhā. Na sannidhiṃ kayirā ’ti annasannidhiṃ pānasannidhiṃ vatthasannidhiṃ yānasannidhiṃ sayanasannidhiṃ gandhasannidhiṃ āmisasannidhiṃ na kareyya na janeyya na sañjaneyya na nibbatteyya nābhinibbatteyyā ’ti – laddhā na sannidhiṃ kayirā.
Na ca parittase tāni alabhamāno ’ti – Annaṃ vā na labhāmi, pānaṃ vā na labhāmi, vatthaṃ vā na labhāmi, kulaṃ vā na labhāmi, gaṇaṃ vā na labhāmi, āvāsaṃ vā na labhāmi, lābhaṃ vā na labhāmi, yasaṃ vā na labhāmi, pasaṃsaṃ vā na labhāmi, sukhaṃ vā na labhāmi, cīvaraṃ vā na labhāmi, piṇḍapātaṃ vā na labhāmi, senāsanaṃ vā na labhāmi, gilānapaccayabhesajjaparikkhāraṃ vā na labhāmi, gilānūpaṭṭhākaṃ vā na labhāmi, ‘appaññātomhī ’ti na taseyya, na uttaseyya, na parittaseyya, na bhāyeyya, na santāsaṃ āpajjeyya; abhīrū assa acchambhī anutrāsī apalāyī pahīnabhayabheravo vigatalomahaṃso vihareyyā ’ti – na ca parittase tāni alabhamāno.
Tenāha bhagavā: “Annānamatho pānānaṃ khādanīyānamathopi vatthānaṃ, laddhā na sannidhiṃ kayirā na ca parittase tāni alabhamāno ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Đối với các thức ăn, rồi đối với các thức uống, đối với các vật thực cứng, rồi đối với các loại vải vóc, sau khi nhận được, không nên tạo ra sự cất giữ,và không nên hoảng sợ trong khi không nhận được chúng.”
14.11
Jhāyī na pādalolassa virame kukkuccā nappamajjeyya, athāsanesu sayanesu appasaddesu bhikkhu vihareyya
Nên là vị có thiền, không nên buông thả bàn chân (đi đó đây), nên xa lánh trạng thái hối hận, không nên xao lãng, và ở những chỗ ngồi, ở những chỗ nằm, những nơi có ít tiếng động, vị tỳ khưu nên cư trú.
Hãy tu tập thiền định
Chớ làm kẻ lang thang,
Chớ ưa thích trạo cử,
Ðừng rơi vào phóng dật,
Ðối với các chỗ ngồi,
Cùng với các chỗ nằm,
Tỷ-kheo hãy an trú,
Những chỗ không tiếng động.
(Kinh Tập, câu kệ 925)
Jhāyī na pādalolassā ’ti – Jhāyī ’ti paṭhamenapi jhānena jhāyī, dutiyenapi jhānena jhāyī, tatiyenapi jhānena jhāyī, catutthenapi jhānena jhāyī, savitakkasavicārenāpi jhānena jhāyī, avitakkavicāramattenāpi jhānena jhāyī, avitakka-avicārenāpi jhānena jhāyī, sappītikenāpi jhānena jhāyī, nippītikenāpi jhānena jhāyī, pītisahagatenāpi jhānena jhāyī, sātasahagatenāpi jhānena jhāyī, sukhasahagatenāpi jhānena jhāyī, upekkhāsahagatenāpi jhānena jhāyī, suññatenāpi jhānena jhāyī, animittenāpi jhānena jhāyī, appaṇihitenāpi jhānena jhāyī, lokiyenāpi jhānena jhāyī, lokuttarenāpi jhānena jhāyī, jhānarato ekattamanuyutto sadatthagaruko ’ti – jhāyī.
Nên là vị có thiền, không nên buông thả bàn chân (đi đó đây) – Có thiền: là có thiền với sơ thiền, là có thiền với nhị thiền, có thiền với tam thiền, có thiền với tứ thiền, có thiền với thiền có tầm có tứ, có thiền với thiền không có tầm chỉ có tứ, có thiền với thiền không có tầm không có tứ, có thiền với thiền có hỷ, có thiền với thiền không có hỷ, có thiền với thiền đồng hành với hỷ, có thiền với thiền đồng hành với hân hoan, có thiền với thiền đồng hành với lạc, có thiền với thiền đồng hành với xả, có thiền với thiền không tánh, có thiền với thiền vô tướng, có thiền với thiền vô nguyện, có thiền với thiền hợp thế, có thiền với thiền xuất thế, có thiền với thiền, thích thú với thiền, gắn bó với trạng thái đơn độc, chú trọng mục đích của mình; – ‘có thiền’ là như thế.
Na pādalolassā ’ti – Kathaṃ pādalolo hoti? Idhekacco bhikkhu pādalolo pādaloliyena samannāgato hoti:
Ārāmena ārāmaṃ uyyānena uyyānaṃ gāmena gāmaṃ nigamena nigamaṃ nagarena nagaraṃ raṭṭhena raṭṭhaṃ janapadena janapadaṃ dīghacārikaṃ anavatthita cārikaṃ anuyutto viharati; evampi pādalolo hoti. Athavā bhikkhu antopi saṅghārāme pādalolo pādaloliyena samannāgato hoti, na atthahetu na kāraṇahetu uddhato avūpasantacitto pariveṇato pariveṇaṃ gacchati, vihārato vihāraṃ gacchati, aḍḍhayogato aḍḍhayogaṃ gacchati, pāsādato pāsādaṃ gacchati, hammiyato hammiyaṃ gacchati, guhāya guhaṃ gacchati, lenato lenaṃ gacchati, kuṭito kuṭiṃ gacchati, kūṭāgārato kūṭāgāraṃ gacchati, aṭṭato aṭṭaṃ gacchati, mālato mālaṃ gacchati, uddaṇḍato uddaṇḍaṃ gacchati, uddosinato uddosinaṃ gacchati, upaṭṭhānasālato upaṭṭhānasālaṃ gacchati, maṇḍalamālato maṇḍalamālaṃ gacchati, rukkhamūlato rukkhamūlaṃ gacchati. Yattha vā pana bhikkhū nisīdanti tahiṃ gacchati, tattha ekassa vā dutiyo hoti, dvinnaṃ vā tatiyo hoti, tiṇṇaṃ vā catuttho hoti, tattha bahuṃ samphappalāpaṃ palapati, seyyathīdaṃ: rājakathaṃ corakathaṃ mahāmattakathaṃ senākathaṃ bhayakathaṃ yuddhakathaṃ annakathaṃ pānakathaṃ vatthakathaṃ yānakathaṃ sayanakathaṃ mālākathaṃ gandhakathaṃ ñātikathaṃ gāmakathaṃ nigamakathaṃ nagarakathaṃ janapadakathaṃ itthikathaṃ purisakathaṃ sūrakathaṃ visikhākathaṃ kumbhaṭṭhānakathaṃ pubbapetakathaṃ nānattakathaṃ lokakkhāyikaṃ samuddakkhāyikaṃ itibhavābhavakathaṃ iti vā; evampi pādalolo hoti.
Na pādalolassā ’ti pādaloliyaṃ pajaheyya vinodeyya byantīkareyya anabhāvaṃ gameyya, pādaloliyā ārato assa virato paṭivirato nikkhanto nissaṭo vippamutto visaññutto vimariyādīkatena cetasā vihareyya careyya vicareyya irīyeyya vatteyya pāleyya yapeyya yāpeyya, paṭisallānārāmo assa paṭisallānarato ajjhattaṃ cetosamathamanuyutto anirākatajjhāno vipassanāya samannāgato brūhetā suññāgārānaṃ jhāyī jhānarato ekattam anuyutto sadattha garuko ’ti – jhāyī na pādalolassa.
Virame kukkuccā nappamajjeyyā ’ti – Kukkuccan ’ti hatthakukkuccampi kukkuccaṃ, pādakukkuccampi kukkuccaṃ; hatthapādakukkuccampi kukkuccaṃ; akappiye kappiyasaññitā kappiye akappiyasaññitā, avajje vajjasaññitā vajje avajjasaññitā, yaṃ evarūpaṃ kukkuccaṃ kukkuccāyanā kukkuccāyitattaṃ cetaso vippaṭisāro manovilekho, idaṃ vuccati kukkuccaṃ. Api ca dvīhi kāraṇehi uppajjati kukkuccaṃ cetaso vippaṭisāro manovilekho: katattā ca, akatattā ca.
Kathaṃ katattā ca akatattā ca uppajjati kukkuccaṃ cetaso vippaṭisāro manovilekho? Kataṃ me kāyaduccaritaṃ, akataṃ me kāyasucaritan ’ti uppajjati kukkuccaṃ cetaso vippaṭisāro manovilekho. ‘Kataṃ me vacīduccaritaṃ, akataṃ me vacīsucaritan ’ti uppajjati kukkuccaṃ cetaso vippaṭisāro manovilekho. ‘Kataṃ me manoduccaritaṃ akataṃ me manosucaritan ’ti –pe– Kato me pāṇātipāto akatā me pāṇātipātā veramaṇī ’ti uppajjati kukkuccaṃ –pe– manovilekho. ‘Kataṃ me adinnādānaṃ – Kato me kāmesu micchācāro – Kato me musāvādo – Katā me pisuṇāvācā – Katā me pharusāvācā – Kato me samphappalāpo – Katā me abhijjhā – Kato me byāpādo – Katā me micchādiṭṭhi akatā me sammādiṭṭhī ’ti uppajjati kukkuccaṃ cetaso vippaṭisāro manovilekho. Evaṃ katattā ca akatattā ca uppajjati kukkuccaṃ cetaso vippaṭisāro manovilekho.
Athavā, sīlesumhi na paripūrakārī ’ti uppajjati kukkuccaṃ cetaso vippaṭisāro manovilekho. Indriyesumhi aguttadvāro ’ti – bhojane amattaññūmhī ’ti – jāgariyaṃ ananuyuttomhī ’ti – na satisampajaññena samannāgatomhī ’ti – abhāvitā me cattāro satipaṭṭhānā ’ti – abhāvitā me cattāro sammappadhānā ’ti – abhāvitā me cattāro iddhipādā ’ti abhāvitāni me pañcindriyānī ’ti – abhāvitāni me pañcabalānī ’ti – abhāvitā me satta bojjhaṅgā ’ti – abhāvito me ariyo aṭṭhaṅgiko maggo ’ti – dukkhaṃ me apariññātan ’ti – samudayo me appahīṇo ’ti – maggo me abhāvito ’ti – nirodho me asacchikato ’ti uppajjati kukkuccaṃ cetaso vippaṭisāro manovilekho.
Virame kukkuccā ’ti – Kukkuccā ārameyya virameyya paṭivirameyya, kukkuccaṃ pajaheyya vinodeyya byantīkareyya anabhāvaṃ gameyya, kukkuccā ārato assa virato paṭivirato nikkhanto nissaṭo vippamutto visaññutto vimariyādīkatena cetasā vihareyyā ’ti – virame kukkuccā.
Nappamajjeyyā ’ti sakkaccakārī assa sātaccakārī aṭṭhitakārī anolīnavuttiko anikkhittachando anikkhittadhuro appamatto kusalesu dhammesu; ‘kadāhaṃ aparipūraṃ vā sīlakkhandhaṃ paripūreyyaṃ, paripūraṃ vā sīlakkhandhaṃ tattha tattha paññāya anuggaṇheyyan ’ti; yo tattha chando ca vāyāmo ca ussāho ca ussoḷhī ca thāmo ca appaṭivāṇī ca sati ca sampajaññañca, ātappaṃ padhānaṃ adhiṭṭhānaṃ anuyogo appamādo kusalesu dhammesu; ‘kadāhaṃ aparipūraṃ vā samādhikkhandhaṃ paññākhandhaṃ vimuttikkhandhaṃ vimuttiñāṇadassanakkhandhaṃ; kadāhaṃ apariññātaṃ vā dukkhaṃ parijāneyyaṃ, appahīne vā kilese pajaheyyaṃ, abhāvitaṃ vā maggaṃ bhāveyyaṃ, asacchikataṃ nirodhaṃ sacchikareyyan ’ti yo tattha chando ca vāyāmo ca ussāho ca ussoḷhī ca thāmo ca appaṭivāṇī ca sati ca sampajaññañca3 ātappaṃ padhānaṃ adhiṭṭhānaṃ anuyogo appamādo kusalesu dhammesū ’ti – virame kukkuccā nappamajjeyya.
Không nên xao lãng: Nên là người có sự thực hành nghiêm trang, có sự thực hành liên tục, có sự thực hành không ngừng nghỉ, có thói quen không biếng nhác, không buông bỏ mong muốn, không buông bỏ bổn phận trong các thiện pháp. (Nghĩ rằng): ‘Khi nào ta có thể làm đầy đủ giới uẩn chưa được đầy đủ, hoặc có thể bảo vệ giới uẩn đã được đầy đủ tại chỗ này chỗ này bằng trí tuệ?’ Điều này, trong trường hợp ấy, là sự mong muốn, tinh tấn, nỗ lực, gắng sức, dõng mãnh, không thối chí, niệm, sự nhận biết rõ, sự năng nỗ, cần mẫn, quyết tâm, chuyên cần, không xao lãng trong các thiện pháp. (Nghĩ rằng): ‘Khi nào ta có thể làm đầy đủ định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, tri kiến giải thoát uẩn chưa được đầy đủ? –nt– ‘Khi nào ta có thể biết toàn diện về Khổ chưa được biết toàn diện, hoặc có thể dứt bỏ Tập chưa được dứt bỏ, hoặc tu tập Đạo chưa được tu tập, hoặc chứng ngộ Diệt chưa được chứng ngộ?’ Điều này, trong trường hợp ấy, là sự mong muốn, tinh tấn, nỗ lực, gắng sức, dõng mãnh, không thối chí, niệm, sự nhận biết rõ, sự năng nỗ, cần mẫn, quyết tâm, chuyên cần, không xao lãng trong các thiện pháp; – ‘nên xa lánh trạng thái hối hận, không nên xao lãng’ là như thế.
Athāsanesu sayanesu appasaddesu bhikkhu vihareyyā ’ti – Athā ’ti padasandhi –pe– Āsanaṃvuccati yattha na sīdati mañco pīṭhaṃ bhisi taṭṭikā cammakhaṇḍo tiṇasanthāro paṇṇasanthāro palālasanthāro. Sayanaṃ vuccati senāsanaṃ vihāro aḍḍhayogo pāsādo hammiyaṃ guhā ’ti – athāsanesu sayanesu.
Appasaddesu bhikkhu vihareyyā ’ti appasaddesu appanigghosesu vijanavātesu manussarāhaseyyakesu paṭisallānasāruppesu senāsanesu careyya vicareyya vihareyya irīyeyya vatteyya pāleyya yapeyya yāpeyyā ’ti – athāsanesu sayanesu appasaddesu bhikkhu vihareyya.
Tenāha bhagavā: “Jhāyī na pādalolassa virame kukkuccā nappamajjeyya, athāsanesu sayanesuappasaddesu bhikkhu vihareyyā ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Nên là vị có thiền, không nên buông thả bàn chân (đi đó đây), nên xa lánh trạng thái hối hận, không nên xao lãng, và ở những chỗ ngồi, ở những chỗ nằm, ở những nơi có ít tiếng động, vị tỳ khưu nên cư trú.”
14.12
Niddaṃ na bahulīkareyya jāgariyaṃ bhajeyya ātāpī, tandiṃ māyaṃ hassaṃ khiḍḍaṃ methunaṃ vippajahe savibhūsaṃ.
Không nên thực hiện nhiều việc ngủ nghỉ. Nên thân cận sự tỉnh thức, có sự tinh cần. Nên dứt bỏ hẳn sự uể oải, xảo trá, cười cợt, đùa giỡn, việc đôi lứa, cùng với việc trang điểm.
Ngủ nghỉ có chừng mực,
Chớ có ngủ quá nhiều,
Hãy luôn luôn tỉnh thức,
Nỗ lực và nhiệt tâm,
Hãy từ bỏ biếng nhác,
Man trá, cười, chơi đùa,
Hãy từ bỏ dâm dục,
Bỏ ưa thích trang điểm.
(Kinh Tập, câu kệ 926)
Niddaṃ na bahulīkareyyā ’ti rattindivaṃ cha koṭṭhāse karitvā pañca koṭṭhāse paṭijaggeyya ekaṃ koṭṭhāsaṃ nipajjeyyā ’ti – niddaṃ na bahulīkareyya.
Không nên thực hiện nhiều việc ngủ nghỉ: Sau khi phân chia đêm và ngày thành sáu phần, nên thức năm phần, nên nằm xuống một phần; – ‘không nên thực hiện nhiều việc ngủ nghỉ’ là như thế.
Jāgariyaṃ bhajeyya ātāpī ’ti – Idha bhikkhu divasaṃ caṅkamena nisajjāya āvaraṇīyehi dhammehi cittaṃ parisodheyya, rattiyā paṭhamaṃ yāmaṃ caṅkamena nisajjāya āvaraṇīyehi dhammehi cittaṃ parisodheyya, rattiyā majjhimaṃ yāmaṃ dakkhiṇena passena sīhaseyyaṃ kappeyya pāde pādaṃ accādhāya sato sampajāno uṭṭhānasaññaṃ manasikaritvā, rattiyā pacchimaṃ yāmaṃ paccuṭṭhāya caṅkamena nisajjāya āvaraṇīyehi dhammehi cittaṃ parisodheyya.
Jāgariyaṃ bhajeyyā ’ti jāgariyaṃ bhajeyya sambhajeyya seveyya niseveyya saṃseveyya paṭiseveyyā ’ti – jāgariyaṃ bhajeyya.
Ātāpī ’ti ātappaṃ vuccati viriyaṃ, yo cetasiko viriyārambho nikkamo parakkamo uyyāmo vāyāmo ussāho ussoḷhī thāmo dhiti asithilaparakkamatā anikkhittachandatā anikkhittadhuratā dhurasampaggāho viriyaṃ viriyindriyaṃ viriyabalaṃ sammāvāyāmo. Iminā ātāpena upeto samupeto upagato samupagato upapanno sampanno samannāgato, so vuccati ātāpī ’ti – jāgariyaṃ bhajeyya ātāpī.
Tandiṃ māyaṃ hassaṃ khiḍḍaṃ methunaṃ vippajahe savibhūsan ’ti – Tandin ’ti yā tandi tandiyanā tandimanakatā ālasyaṃ ālasyayanā ālasyāyitattaṃ, ayaṃ vuccati tandi. Māyā ’ti māyā vuccati vañcanikā cariyā. ‘Idhekacco kāyena duccaritaṃ caritvā vācāya – manasā duccaritaṃ caritvā tassa paṭicchādanahetu pāpikaṃ icchaṃ panidahati, mā maṃ jaññāti icchati, mā maṃ jaññāti saṅkappeti, mā maṃ jaññāti vācaṃ bhāsati, mā maṃ jaññāti kāyena parakkamati, yā evarūpā māyā māyāvitā accāsarā vañcanā nikati vikiraṇā guhanā pariguhanā chādanā paṭicchādanā anuttānīkammaṃ anāvikammaṃ vocchādanā pāpakiriyā, ayaṃ vuccati māyā.
Hassan ’ti idhekacco ativelaṃ dantavidaṃsakaṃ hasati. Vuttaṃ hetaṃ bhagavatā: “Komārakam idaṃ bhikkhave ariyassa vinaye, yadidaṃ ativelaṃ dantavidaṃsakaṃ hasitan ”ti.
Khiḍḍā ’ti dve khiḍḍā, kāyikā ca khiḍḍā, vācasikā ca khiḍḍā. Katamā kāyikā khiḍḍā? Hatthīhipi kīḷanti, assehipi kīḷanti, rathehipi kīḷanti, dhanūhipi kīḷanti, aṭṭhapadepi kīḷanti, dasapadepi kiḷanti, ākāsepi kīḷanti, parihārapathepi kīḷanti, santikāyapi kīḷanti, khalikāyapi kīḷanti, ghaṭikāyapi kīḷanti, –– salākahatthenapi kīḷanti, akkhenapi kīḷanti, paṅgacīrenapi kīḷanti, vaṅkakenapi kīḷanti, mokkhacikāyapi kīḷanti, ciṅgulakenapi kīḷanti, pattāḷhakenapi kīḷanti, rathakenapi kīḷanti, dhanukenapi kīḷanti akkharikāyapi kīḷanti, manesikāyapi kīḷanti, yathāvajjenapi kīḷanti; ayaṃ kāyikakhiḍḍā. Katamā vācasikā khiḍḍā? Mukhabherikaṃ mukhālambaraṃ mukhadeṇḍimakaṃ mukhavalimakaṃ mukhabherulakaṃ mukhadaddarikaṃ nāṭakaṃ lāsaṃ gītaṃ davakammaṃ; ayaṃ vācasikā khiḍḍā.
Methunadhammo nāma: yo so asaddhammo gāmadhammo vasaladhammo duṭṭhullo odakantiko rahasso dvayaṃdvayasamāpatti. Kiṃkāraṇā vuccati methunadhammo? Ubhinnaṃ rattānaṃ sārattānaṃ avassutānaṃ pariyuṭṭhitānaṃ pariyādinnacittānaṃ ubhinnaṃ sadisānaṃ dhammoti, taṃkāraṇā vuccati methunadhammo. Yathā ubho kalahakārakā methunakāti vuccanti ubho bhaṇḍanakārakā – ubho bhassakārakā – ubho adhikaraṇakārakā – ubho vivādakārakā – ubho vādino – ubho sallāpakā methunakāti vuccanti, evamevaṃ ubhinnaṃ rattānaṃ sārattānaṃ avassutānaṃ pariyuṭṭhitānaṃ pariyādinnacittānaṃ ubhinnaṃ sadisānaṃ dhammoti taṃkāraṇā vuccati methunadhammo.
Vibhūsā ’ti dve vibhūsā: atthi agāriyassa vibhūsā, atthi pabbajitassa vibhūsā. Katamā agāriyassa vibhūsā? Kesā ca massu ca mālā ca gandhā ca vilepanā ca ābharaṇā ca piḷandhanā ca vatthañca sārasāṭanañca veṭhanañca ucchādanaṃ parimaddanaṃ nahāpanaṃ sambāhanaṃ ādāsaṃ añjanaṃ mālāvilepanaṃ mukhacuṇṇakaṃ mukhalepaṃ hatthabandhanaṃ sikhābandhanaṃ daṇḍanālikaṃ khaggaṃ chattaṃ citrā upāhanā uṇhīsaṃ maṇiṃ vāḷavījanī odātāni vatthāni dīghadasāni iti vā, ayaṃ agāriyassa vibhūsā. Katamā pabbajitassa vibhūsā? Cīvaramaṇḍanā pattamaṇḍanā senāsanamaṇḍanā imassa vā pūtikāyassa bāhirānaṃ vā parikkhārānaṃ maṇḍanā vibhūsanā keḷanā parikeḷanā gedhitatā gedhitattaṃ capalatā cāpalyaṃ, ayaṃ pabbajitassa vibhūsā.
Việc trang điểm: Có hai sự trang điểm: có sự trang điểm của người tại gia, có sự trang điểm của bậc xuất gia. Việc trang điểm của người tại gia là các việc nào? Cắt tóc, tỉa râu, cài hoa, thoa vật thơm, thoa dầu, vật trang sức, chưng diện, vải vóc, vật đeo ở tay, khăn đội đầu, việc kỳ cọ, đấm bóp, tắm rửa, đập vỗ, soi gương, tô mắt, tẩm hoa thơm, thoa phấn ở mặt, bôi dầu ở mặt, buộc cánh tay, thắt nơ ở đầu, việc sử dụng gậy, ống cây, thanh gươm, dù che, giày dép đẹp, khăn bịt đầu, ngọc ma-ni, phất trần, quấn vải trắng có đường biên rộng, hoặc là như vậy; điều này là việc trang điểm của người tại gia. Việc trang điểm của bậc xuất gia là các việc nào? Việc trang hoàng y phục, việc trang hoàng bình bát, việc trang hoàng chỗ nằm ngồi, việc trang hoàng, trang điểm, tiêu khiển, giải trí, trạng thái mong muốn, bản tính mong muốn, hành động tô điểm, trạng thái tô điểm đối với các phần bên ngoài của cơ thể hôi thối này hoặc các vật dụng; điều này là việc trang điểm của người xuất gia.
Tandiṃ māyaṃ hassaṃ khiḍḍaṃ methunaṃ vippajahe savibhūsan ’ti – tandiṃ ca māyaṃ ca hassaṃ ca khiḍḍaṃ ca methunadhammaṃ ca savibhūsaṃ saparivāraṃ saparibhaṇḍaṃ saparikkhāraṃ pajaheyya vinodeyya byantīkareyya anabhāvaṃ gameyyā ’ti – tandiṃ māyaṃ hassaṃ khiḍḍaṃ methunaṃ vippajahe savibhūsaṃ.
Tenāha bhagavā: “Niddaṃ na bahulīkareyya jāgariyaṃ bhajeyya ātāpī,tandiṃ māyaṃ hassaṃ khiḍḍaṃ methunaṃ vippajahe savibhūsaṃ.”
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Không nên thực hiện nhiều việc ngủ nghỉ. Nên thân cận sự tỉnh thức, có sự tinh cần. Nên dứt bỏ hẳn sự uể oải, xảo trá, cười cợt, đùa giỡn, việc đôi lứa, cùng với việc trang điểm.”
14.13
Āthabbaṇaṃ supinaṃ lakkhaṇaṃ no vidahe athopi nakkhattaṃ, virutañca gabbhakaraṇaṃ tikicchaṃ māmako na seveyya.
Không nên luyện tập chú thuật, giải mộng, xem tướng, và luôn cả chiêm tinh. Người đệ tử thành tín không nên chuyên chú về việc giải đoán tiếng thú kêu, việc thụ thai, và việc chữa bệnh.
Chớ có dùng bùa chú,
A-thar-va Vệ-đà,
Chớ tổ chức đoán mộng,
Coi tướng và xem sao,
Mong rằng đệ tử Ta,
Không đoán tiếng thú kêu,
Không chữa bệnh không sanh,
Không hành nghề lang băm.
(Kinh Tập, câu kệ 927)
Āthabbaṇaṃ supinaṃ lakkhaṇaṃ no vidahe athopi nakkhattan ’ti āthabbaṇikā āthabbaṇaṃ payojenti nagare vā ruddhe saṅgāme vā paccupaṭṭhite parasenāya paccatthikesu paccāmittesu ītiṃ uppādenti, upaddavaṃ uppādenti, rogaṃ uppādenti, pajjarakaṃ karonti, sūlaṃ karonti, visūcikaṃ karonti, pakkhandikaṃ karonti; evaṃ āthabbaṇikā āthabbaṇaṃ payojenti.
Supinapāṭhakā supinaṃ ādisanti: ‘yo pubbanhasamayaṃ supinaṃ passati, evaṃ vipāko hoti. Yo majjhantikasamayaṃ supinaṃ passati, evaṃ vipāko hoti. Yo sāyanhasamayaṃ supinaṃ passati, evaṃ vipāko hoti. Yo purime yāme – Yo majjhime yāme – Yo pacchime yāme – Yo dakkhiṇena passena nipanno – Yo vāmena passena nipanno – Yo uttānaṃ nipanno – Yo avakujjanipanno – Yo candaṃ passati, yo suriyaṃ passati, yo mahāsamuddaṃ passati, yo sineruṃ pabbatarājānaṃ passati, yo hatthiṃ passati, yo assaṃ passati, yo rathaṃ passati, yo pattiṃ passati, yo senābyūhaṃ passati, yo ārāmarāmaṇeyyakaṃ passati, yo vanarāmaṇeyyakaṃ passati, yo bhūmirāmaṇeyyakaṃ passati, yo pokkharaṇī rāmaṇeyyakaṃ passati, evaṃ vipāko hotī ’ti; evaṃ supinapāṭhakā supinaṃ ādisanti.
Lakkhaṇapāṭhakā lakkhaṇaṃ ādisanti, maṇilakkhaṇaṃ daṇḍalakkhaṇaṃ vatthalakkhaṇaṃ asilakkhaṇaṃ usulakkhaṇaṃ dhanulakkhaṇaṃ āvudhalakkhaṇaṃ itthilakkhaṇaṃ purisalakkhaṇaṃ kumārikālakkhaṇaṃ kumāralakkhaṇaṃ dāsīlakkhaṇaṃ dāsalakkhaṇaṃ hatthilakkhaṇaṃ assalakkhaṇaṃ mahisalakkhaṇaṃ usabhalakkhaṇaṃ goṇalakkhaṇaṃ ajalakkhaṇaṃ meṇḍalakkhaṇaṃ kukkuṭalakkhaṇaṃ vaṭṭalakkhaṇaṃ godhālakkhaṇaṃ kaṇṇikālakkhaṇaṃ kacchapalakkhaṇaṃ migalakkhaṇaṃ iti vā ’ti; evaṃ lakkhaṇapāṭhakā lakkhaṇaṃ ādisanti.
Nakkhattapāṭhakā nakkhattaṃ ādisanti: aṭṭhavīsati nakkhattāni. Iminā nakkhattena gharappaveso kattabbo, iminā nakkhattena makuṭaṃ bandhitabbaṃ, iminā nakkhattena vāreyyaṃ kāretabbaṃ, iminā nakkhattena bījanīhāro kattabbo, iminā nakkhattena saṃvāso gantabbo ’ti; evaṃ nakkhattapāṭhakā nakkhattaṃ ādisanti.
Āthabbaṇaṃ supinaṃ lakkhaṇaṃ no vidahe athopi nakkhattan ’ti āthabbaṇañca supinañca lakkhaṇañca nakkhattañca no vidaheyya, na careyya na samācareyya na samādāya vatteyya. Athavā na gaṇheyya [na uggaṇheyya] na dhāreyya, na upadhāreyya [na upalakkheyya] nappayojeyyā ’ti – āthabbaṇaṃ supinaṃ lakkhaṇaṃ no vidahe athopi nakkhattaṃ.
Virutañca gabbhakaraṇaṃ tikicchaṃ māmako na seveyyā ’ti Virutaṃ vuccati migavākyaṃ. Migavākyapāṭhakā migavākyaṃ ādisanti: sakuntānaṃ vā catuppadānaṃ vā rutaṃ vassitaṃ jānanti; evaṃ migavākyapāṭhakā migavākyaṃ ādisanti. Gabbhakaraṇīyā gabbhaṃ saṇṭhāpenti. Dvīhi kāraṇehi gabbho na saṇṭhāti: pāṇakehi vā vātakuppehi vā. Pāṇakānaṃ vātakuppānaṃ vā paṭighātāya osadhaṃ dentī ’ti; evaṃ gabbhakaraṇīyā gabbhaṃ saṇṭhāpenti.
Tikicchā ’ti pañca tikicchā: sālākiyaṃ sallakattiyaṃ kāyatikicchaṃ bhūtiyaṃ komārabhaccaṃ.
Māmako ’ti buddhamāmako dhammamāmako saṅghamāmako; so vā bhagavantaṃ māmayati, bhagavā vā taṃ puggalaṃ parigaṇhāti. Vuttaṃ hetaṃ bhagavatā: “Ye te bhikkhave bhikkhū kuhā thaddhā lapā siṅgī unnaḷā asamāhitā, na me te bhikkhave bhikkhū māmakā apagatā ca te bhikkhave bhikkhū imasmā dhammavinayā. Na ca te bhikkhū imasmiṃ dhammavinaye vuddhiṃ virūḷhiṃ vepullaṃ āpajjanti. Ye ca kho bhikkhave bhikkhū nikkuhā nillapā dhīrā atthaddhā susamāhitā, te kho me bhikkhave bhikkhū māmakā. Anapagatā ca te bhikkhave bhikkhū imasmā dhammavinayā. Te ca bhikkhū imasmiṃ dhammavinaye vuddhiṃ virūḷhiṃ vepullaṃ āpajjanti.
1. “Kuhā thaddhā lapā siṅgī unnaḷā asamāhitā, na te dhamme virūhanti sammāsambuddhadesite.
1. “Những người dối trá, ương ngạnh, nói nhiều, lừa đảo, khoác lác, không định tĩnh, những người ấy không tiến triển trong Giáo Pháp đã được đấng Chánh Đẳng Giác thuyết giảng.
2. Nikkuhā nillapā dhīrā atthaddhā susamāhitā, te ve dhamme virūhanti sammāsambuddhadesite ”ti.
2. Các vị không dối trá, không nói nhiều, sáng trí, không ương ngạnh, khéo định tĩnh, thật vậy các vị ấy tiến triển trong Giáo Pháp đã được đấng Chánh Đẳng Giác thuyết giảng.”
Virutañca gabbhakaraṇaṃ tikicchaṃ māmako na seveyyā ’ti Virutañca gabbhakaraṇañca tikicchañca māmako na seveyya, na niseveyya na saṃseveyya nappaṭiseveyya na careyya na samācareyya na samādāya vatteyya, athavā na gaṇheyya na uggaṇheyya [na dhāreyya] na upadhāreyya na upalakkheyya na payojeyyā ’ti – virutañca gabbhakaraṇaṃ tikicchaṃ māmako na seveyya.
Tenāha bhagavā: “Āthabbaṇaṃ supinaṃ lakkhaṇaṃ no vidahe athopi nakkhattaṃ, virutañca gabbhakaraṇaṃ tikicchaṃ māmako na seveyyā ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Không nên luyện tập chú thuật, giải mộng, xem tướng, và luôn cả chiêm tinh. Người đệ tử thành tín không nên chuyên chú về việc giải đoán tiếng thú kêu, việc thụ thai, và việc chữa bệnh.”
14.14
Nindāya nappavedheyya na unnameyya pasaṃsito bhikkhu, lobhaṃ saha macchariyena kodhaṃ pesuniyañca panudeyya.
Không nên run sợ vì sự chê bai, vị tỳ khưu khi được ca ngợi không nên kiêu hãnh, nên xua đi sự tham lam cùng với sự bỏn xẻn, sự giận dữ và việc nói đâm thọc.
Tỷ-kheo không run sợ,
Khi bị người chỉ trích,
Cũng không có cống cao,
Khi được khen tán thán,
Hãy từ bỏ tham ái,
Cùng với tánh xan tham,
Kể luôn cả phẫn nộ,
Cùng với nói hai lưỡi.
(Kinh Tập, câu kệ 928)
Nindāya nappavedheyyā ’ti – Idhekacce bhikkhuṃ nindanti: jātiyā vā gottena vā kolaputtiyena vā vaṇṇapokkharatāya vā dhanena vā ajjhenena vā kammāyatanena vā sippāyatanena vā vijjāṭṭhānena vā sutena vā paṭibhānena vā aññataraññatarena vā vatthunā nindanti garahanti upavadanti. Nindito garahito upavadito nindāya garahāya upavādena akittiyā avaṇṇahārikāya na vedheyya nappavedheyya na sampavedheyya na taseyya na uttaseyya na parittaseyya na bhāyeyya na santāsaṃ āpajjeyya. Abhīru assa acchambhī anutrāsī apalāyī pahīnabhayabheravo vigatalomahaṃso vihareyyā ’ti – nindāya nappavedheyya.
Na unnameyya pasaṃsito bhikkhū ’ti – Idhekacce bhikkhuṃ pasaṃsanti: jātiyā vā gottena vā kolaputtiyena vā vaṇṇapokkharatāya vā dhanena vā ajjhenena vā kammāyatanena vā sippāyatanena vā vijjāṭṭhānena vā sutena vā paṭibhānena vā aññataraññatarena vā vatthunā pasaṃsanti thomenti kittenti vaṇṇenti. Pasaṃsito thomito kittito vaṇṇito pasaṃsāya thomanena kittiyā vaṇṇahārikāya unnatiṃ na kareyya, unnāmaṃ na kareyya, mānaṃ na kareyya, thambhaṃ na kareyya, na tena mānaṃ janeyya, na tena thaddho assa patthaddho paggahitasiro ’ti – na unnameyya1 pasaṃsito bhikkhu.
Lobhaṃ saha macchariyena kodhaṃ pesuniyañca panudeyyā ’ti – Lobho ’ti “yo lobho lubbhanā lubbhitattaṃ sārāgo sārajjanā sārajjitattaṃ abhijjhā lobho akusalamūlaṃ.” Macchariyan ’ti pañca macchariyāni: āvāsamacchariyaṃ –pe–gāho vuccati macchariyaṃ. Kodho ’ti “yo cittassa āghāto paṭighāto paṭighaṃ paṭivirodho kopo pakopo sampakopo, doso padoso sampadoso cittassa byāpatti manopadoso, kodho kujjhanā kujjhitattaṃ, doso dussanā dussitattaṃ, byāpatti byāpajjanā byāpajjitattaṃ, virodho paṭivirodho caṇḍikkaṃ asuropo anattamanatā cittassa.”
Pesuniyan ’ti Idhekacco pisunavāco hoti: ito sutvā amutra akkhātā imesaṃ bhedāya, amutra vā sutvā imesaṃ akkhātā amusaṃ bhedāya. Iti samaggānaṃ vā bhettā bhinnānaṃ vā anuppadātā vaggarāmo vaggarato vagganandī vaggakaraṇiṃ vācaṃ bhāsitā hoti. Iti vuccati pesuññaṃ. Api ca dvīhi kāraṇehi pesuññaṃ upasaṃharati: piyakamyatāya vā bhedādhippāyena vā.
Kathaṃ piyakamyatāya pesuññaṃ upasaṃharati? ‘Imassa piyo bhavissāmi, manāpo bhavissāmi, vissāsiko bhavissāmi, abbhantariko bhavissāmi, suhadayo bhavissāmī ’ti evaṃ piyakamyatāya pesuññaṃ upasaṃharati.
Kathaṃ bhedādhippāyena pesuññaṃ upasaṃharati? ‘Kathaṃ ime nānā assu, vinā assu, vaggā assu, dvidhā assu, dvejjhā assu, dve pakkhā assu, bhijjeyyuṃ na samāgaccheyyuṃ, dukkhaṃ na phāsu vihareyyun ’ti; evaṃ bhedādhippāyena pesuññaṃ upasaṃharati. Lobhaṃ saha macchariyena kodhaṃ pesuniyañca panudeyyā ’ti lobhañca macchariyañca kodhañca pesuññañca nudeyya panudeyya pajaheyya vinodeyya byantīkareyya anabhāvaṃ gameyyā ’ti – lobhaṃ saha macchariyena kodhaṃ pesuniyañca panudeyya.
Tenāha bhagavā: “Nindāya nappavedheyya na unnameyya pasaṃsito bhikkhu, lobhaṃ saha macchariyena kodhaṃ pesuniyañca panudeyyā ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Không nên run sợ vì sự chê bai, vị tỳ khưu khi được ca ngợi không nên kiêu hãnh, nên xua đi sự tham lam cùng với sự bỏn xẻn, sự giận dữ và việc nói đâm thọc.
14.15
Kayavikkaye na tiṭṭheyya upavādaṃ bhikkhu na kareyya kuhiñci, gāme ca nābhisajjeyya lābhakamyā janaṃ na lapayeyya.
Không nên dự vào việc mua bán, vị tỳ khưu không nên tạo sự chê trách ở bất cứ nơi nào, và không nên ràng buộc vào làng xóm, không nên tỉ tê với người (thế tục) vì mong muốn lợi lộc.
Tỷ-kheo không an trú,
Trong nghề nghiệp bán buôn,
Lại không có chỉ trích,
Bất cứ tại chỗ nào,
Khi ở tại thôn làng,
Không tức giận một ai,
Chớ có vì lợi dưỡng,
Nói chuyện với quần chúng.
(Kinh Tập, câu kệ 929)
Kayavikkaye na tiṭṭheyyā ’ti – Ye kayavikkayā vinaye paṭikkhittā, na te imasmiṃ atthe adhippetā. Kathaṃ kayavikkaye tiṭṭhati? Pañcannaṃ saddhiṃ pattaṃ vā cīvaraṃ vā aññaṃ vā kañci parikkhāraṃ vañcaniyaṃ vā karonto udayaṃ vā patthayanto parivatteti; evaṃ kayavikkaye tiṭṭhati. Kathaṃ kayavikkaye na tiṭṭhati? Pañcannaṃ saddhiṃ pattaṃ vā cīvaraṃ vā aññaṃ vā kañci parikkhāraṃ na vañcaniyaṃ vā karonto na udayaṃ vā patthayanto parivatteti; evaṃ kayavikkaye na tiṭṭhati.
Kayavikkaye na tiṭṭheyyā ’ti kayavikkaye na tiṭṭheyya, na santiṭṭheyya, kayavikkayaṃ pajaheyya, vinodeyya, byantīkareyya, anabhāvaṃ gameyya, kayavikkayā ārato assa virato paṭivirato nikkhanto nissaṭo vippamutto visaññutto vimariyādīkatena cetasā vihareyyā ’ti – kayavikkaye na tiṭṭheyya.
Upavādaṃ bhikkhu na kareyya kuhiñcī ’ti – Katame upavādakarā kilesā? Santeke samaṇabrāhmaṇā iddhimanto dibbacakkhukā paracittaviduno, te dūratopi passanti, āsannāpi na dissanti, cetasāpi cittaṃ pajānanti. Devatāpi kho santi iddhimantiniyo dibbacakkhukā paracittaviduniyo. Tā dūratopi passanti, āsannāpi na dissanti, cetasāpi cittaṃ pajānanti. Te oḷārikehi vā kilesehi majjhimehi vā kilesehi sukhumehi vā kilesehi upavadeyyuṃ. Katame oḷārikā kilesā? Kāyaduccaritaṃ vacīduccaritaṃ manoduccaritaṃ. Ime vuccanti oḷārikā kilesā. Katame majjhimā kilesā? Kāmavitakko vyāpādavitakko vihiṃsāvitakko. Ime vuccanti majjhimā kilesā. Katame sukhumā kilesā? Ñātivitakko janapadavitakko amaravitakko parānuddayatāpaṭisaññutto vitakko lābhasakkārasilokapaṭisaññutto vitakko anavaññattipaṭisaññutto vitakko. Ime vuccanti sukhumā kilesā. Tehi oḷārikehi vā kilesehi majjhimehi vā kilesehi sukhumehi vā kilesehi na upavadeyya, upavādaṃ na kareyya, upavādakare kilese na kareyya, na janeyya, na sañjaneyya, na nibbatteyya nābhinibbatteyya. Upavādakare kilese pajaheyya vinodeyya byantīkareyya anabhāvaṃ gameyya; upavādakarehi kilesehi ārato assa virato paṭivirato nikkhanto nissaṭo vippamutto visaññutto vimariyādīkatena cetasā vihareyya.
Kuhiñcī ’ti kuhiñci kimhici katthaci ajjhattaṃ vā bahiddhā vā ajjhattabahiddhā vā ’ti – upavādaṃ bhikkhu na kareyya kuhiñci.’
Gāme ca nābhisajjeyyā ’ti – Kathaṃ gāme sajjati? Idha bhikkhu gāme gihīhi saṃsaṭṭho viharati sahanandī sahasokī sukhitesu sukhito dukkhitesu dukkhito, uppannesu kiccakaraṇīyesu attanā voyogaṃ āpajjati. Evampi gāme sajjati. Athavā bhikkhu pubbanha samayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya gāmaṃ vā nigamaṃ vā piṇḍāya pavisati arakkhiteneva kāyena arakkhitāya vācāya arakkhitena cittena anupaṭṭhitāya satiyā asaṃvutehi indriyehi. So tatra tatra sajjati, tatra tatra gaṇhāti, tatra tatra bajjhati, tatra tatra anayabyasanaṃ āpajjati. Evampi gāme sajjati. Kathaṃ gāme na sajjati? Idha bhikkhu gāme gihīhi asaṃsaṭṭho viharati: na sahanandī na sahasokī na sukhitesu sukhito, na dukkhitesu dukkhito, uppannesu kiccakaraṇīyesu na attanā voyogaṃ āpajjati. Evampi gāme na sajjati. Athavā bhikkhu pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya gāmaṃ vā nigamaṃ vā piṇḍāya pavisati rakkhiteneva kāyena rakkhitāya vācāya rakkhitena cittena upaṭṭhitāya satiyā saṃvutehi indriyehi. So tatra tatra na sajjati, tatra tatra na gaṇhāti, tatra tatra na bajjhati, tatra tatra na anayabyasanaṃ āpajjati. Evampi gāme na sajjati.
Gāme ca nābhisajjeyyā ’ti gāme na sajjeyya na gaṇheyya na bajjheyya na palibajjheyya, agiddho assa agathito amucchito anajjhopanno vītagedho vigatagedho vantagedho –nt–brahmabhūtena attanā vihareyyā ’ti – gāme ca nābhisajjeyya.
Lābhakamyā janaṃ na lapayeyyā ’ti – Katamā lapanā? Lābhasakkārasilokasannissitassa pāpicchassa icchāpakatassa āmisacakkhukassa lokadhammagarukassa yā paresaṃ ālapanā lapanā sallapanā ullapanā samullapanā unnahanā samunnahanā ukkācanā samukkācanā anuppiyabhāṇitā cāṭukamyatā muggasupyatā pāribhaṭṭatā parapiṭṭhimaṃsikatā, yā tattha saṇhavācatā sakhilavācatā sithilavācatā apharusavācatā; ayaṃ vuccati lapanā. Api ca dvīhi kāraṇehi janaṃ lapati: attānaṃ vā nīcaṃ ṭhapento paraṃ uccaṃ ṭhapento janaṃ lapati, attānaṃ vā uccaṃ ṭhapento paraṃ nīcaṃ ṭhapento janaṃ lapati.
Kathaṃ attānaṃ nīcaṃ ṭhapento paraṃ uccaṃ ṭhapento janaṃ lapati? ‘Tumhe me bahūpakārā, ahaṃ tumhe nissāya labhāmi cīvara-piṇḍapāta-senāsana-gilānapaccayabhesajjaparikkhāraṃ, ye pime aññe dātuṃ vā kātuṃ vā maññanti, tumhe nissāya tumhe sampassantā; yampi me purāṇaṃ mātāpettikaṃ nāmadheyaṃ, tampi me antarahitaṃ. Tumhehi ahaṃ ñāyāmi asukassa kulūpako asukāya kulūpako ’ti. Evaṃ attānaṃ nīcaṃ ṭhapento paraṃ uccaṃ ṭhapento janaṃ lapati.
Kathaṃ attānaṃ uccaṃ ṭhapento paraṃ nīcaṃ ṭhapento janaṃ lapati? ‘Ahaṃ tumhākaṃ bahūpakāro, tumhe maṃ āgamma buddhaṃ saraṇaṃ gatā, dhammaṃ saraṇaṃ gatā, saṅghaṃ saraṇaṃ gatā, pāṇātipātā paṭiviratā, adinnādānā paṭiviratā, kāmesu micchācārā paṭiviratā, musāvādā paṭiviratā, surāmerayamajjapamādaṭṭhānā paṭiviratā. Ahaṃ tumhākaṃ uddesaṃ demi, paripucchaṃ demi, uposathaṃ ācikkhāmi, navakammaṃ adhiṭṭhāmi. –– Atha ca pana tumhe maṃ ujjhitvā aññe sakkarotha garukarotha mānetha pūjethā ’ti, evampi attānaṃ uccaṃ ṭhapento paraṃ nīcaṃ ṭhapento janaṃ lapati. Lābhakamyā janaṃ na lapayeyyā ’ti lābhahetu lābhapaccayā lābhakāraṇā lābhābhinibbattiyā lābhaṃ paripācento janaṃ na lapeyya lapanaṃ pajaheyya vinodeyya byantīkareyya anabhāvaṃ gameyya, lapanā ārato assa virato paṭivirato nikkhanto nissaṭo vippamutto visaññutto vimariyādīkatena cetasā vihareyyā ’ti – lābhakamyā janaṃ na lapayeyya.
Tenāha bhagavā;
“Kayavikkaye na tiṭṭheyya upavādaṃ bhikkhu na kareyya kuhiñci, game ca nābhisajjeyya lābhakamyā janaṃ na lapayeyyā ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Không nên dự vào việc mua bán, vị tỳ khưu không nên tạo sự chê trách ở bất cứ nơi nào, và không nên ràng buộc vào làng xóm, không nên tỉ tê với người (thế tục) vì mong muốn lợi lộc.”
14.16
Na ca katthiko siyā bhikkhu na ca vācaṃ payuttaṃ bhāseyya, pāgabbhiyaṃ na sikkheyya kathaṃ viggāhikaṃ na kathayeyya.
Và vị tỳ khưu không nên là kẻ nói khoe khoang, và không nên nói lời nói ám chỉ (liên quan bốn món vật dụng), không nên học tập lối cư xử xấc xược, không nên nói ra ngôn từ đưa đến sự cãi vã.
Tỷ-kheo không nên nói,
Khoa trương quá mức độ,
Và cũng không nói lời
Có dụng ý lợi dưỡng.
Chớ có học tập theo,
Lối sỗ sàng trâng tráo,
Chớ có thốt ra lời
Khiêu khích xung đột ai!
(Kinh Tập, câu kệ 930)
Na ca katthiko siyā bhikkhū ’ti – Idhekaccokatthī hoti vikatthī. So katthati vikatthati “ahamasmi sīlasampanno ’ti vā, vatasampanno ’ti vā, sīlabbatasampanno ’ti vā, jātiyā vā gottena vā kolaputtiyena vā vaṇṇapokkharatāya vā dhanena vā ajjhenena vā kammāyatanena vā sippāyatanena vā vijjāṭṭhānena vā sutena vā paṭibhānena vā aññataraññatarena vā vatthunā, uccā kulā pabbajitoti vā mahābhogakulā pabbajitoti vā uḷārabhogakulā pabbajitoti vā, suttantikoti vā vinayadharoti vā dhammakathikoti vā āraññikoti vā –pe– nevasaññānāsaññāyatanasamāpattiyā lābhīti vā katthati vikatthati. Evaṃ na kattheyya na vikattheyya, katthanaṃ pajaheyya vinodeyya byantīkareyya anabhāvaṃ gameyya. Katthanā ārato assa virato paṭivirato nikkhanto nissaṭo vippamutto visaññutto, vimariyādīkatena cetasā vihareyyā ’ti – na ca katthiko siyā bhikkhu.
Na ca vācaṃ payuttaṃ bhāseyyā ’ti – Katamā payuttavācā? Idhekacco cīvarapayuttaṃ vācaṃ bhāsati, piṇḍapātapayuttaṃ vācaṃ bhāsati, senāsanapayuttaṃ vācaṃ bhāsati, gilānapaccayabhesajjaparikkhārapayuttaṃ vācaṃ bhāsati; ayampi vuccati payuttavācā. Athavā cīvarahetu piṇḍapātahetu senāsanahetu gilānapaccayabhesajjaparikkhārahetu saccampi bhaṇati, musāpi bhaṇati, pisunampi bhaṇati, apisunampi bhaṇati, pharusampi bhaṇati, apharusampi bhaṇati, samphappalāpampi bhaṇati, asamphappalāpampi bhaṇati, mantāpi vācaṃ bhāsati; ayampi vuccati payuttavācā. Athavā, pasannacitto paresaṃ dhammaṃ deseti: ‘Aho, vata me dhammaṃ suṇeyyuṃ, sutvā ca dhamme pasīdeyyuṃ, pasannā ca me pasannākāraṃ kareyyun ’ti; ayampi vuccati payuttavācā.
Na ca vācaṃ payuttaṃ bhāseyyā ’ti – Antamaso dhammadesanaṃ vācaṃ upādāya payuttavācaṃ na bhāseyya na katheyya na bhaṇeyya na dīpayeyya na vohareyya, payuttaṃ vācaṃ pajaheyya vinodeyya byantīkareyya anabhāvaṃ gameyya, payuttavācāya ārato assa virato paṭivirato nikkhanto nissaṭo vippamutto visaññutto vimariyādīkatena cetasā vihareyyā ’ti – na ca vācaṃ payuttaṃ bhāseyya.
Pāgabbhiyaṃ na sikkheyyā ’ti – Pāgabbhiyan ’ti tīṇi pāgabbhiyāni: kāyikaṃ pāgabbhiyaṃ, vācasikaṃ pāgabbhiyaṃ, cetasikaṃ pāgabbhiyaṃ. Katamaṃ kāyikaṃ pāgabbhiyaṃ? Idhekacco saṅghagatopi kāyikaṃ pāgabbhiyaṃ dasseti, gaṇagatopi kāyikaṃ pāgabbhiyaṃ dasseti, bhojanasālāyapi kāyikaṃ pāgabbhiyaṃ dasseti, jantāghare pi kāyikaṃ pāgabbhiyaṃ dasseti, udakatitthe pi kāyikaṃ pāgabbhiyaṃ dasseti, antaragharaṃ pavisantopi kāyikaṃ pāgabbhiyaṃ dasseti, antaragharaṃ paviṭṭhopi kāyikaṃ pāgabbhiyaṃ dasseti.
Kathaṃ saṅghagato kāyikaṃ pāgabbhiyaṃ dasseti? Idhekacco saṅghagato acittīkārakato there bhikkhū ghaṭṭayantopi tiṭṭhati, ghaṭṭayantopi nisīdati, puratopi tiṭṭhati, puratopi nisīdati, uccepi āsane nisīdati, sasīsaṃ pārupitvāpi nisīdati, ṭhitakopi bhaṇati, bāhāvikkhepakopi bhaṇati. Evaṃ saṅghagato kāyikaṃ pāgabbhiyaṃ dasseti.
Kathaṃ gaṇagato kāyikaṃ pāgabbhiyaṃ dasseti? Idhekacco gaṇagato acittīkārakato therānaṃ bhikkhūnaṃ anupāhanānaṃ caṅkamantānaṃ saupāhano caṅkamati, nīce caṅkame caṅkamantānaṃ ucce caṅkame caṅkamati, chamāya caṅkamantānaṃ caṅkame caṅkamati, ghaṭṭayantopi tiṭṭhati, ghaṭṭayantopi nisīdati, puratopi tiṭṭhati, puratopi nisīdati, uccepi āsane nisīdati, sasīsaṃ pārupitvāpi nisīdati, ṭhitakopi bhaṇati, bāhāvikkhepakopi bhaṇati. Evaṃ gaṇagato kāyikaṃ pāgabbhiyaṃ dasseti.
Kathaṃ bhojanasālāya kāyikaṃ pāgabbhiyaṃ dasseti? Idhekacco bhojanasālāya acittīkārakato there bhikkhū anupakhajja nisīdati, navepi bhikkhū āsanena paṭibāhati, ghaṭṭayantopi tiṭṭhati, ghaṭṭayantopi nisīdati, puratopi tiṭṭhati, puratopi nisīdati, uccepi āsane nisīdati, sasīsaṃ pārupitvāpi nisīdati, ṭhitakopi bhaṇati, bāhāvikkhepakopi bhaṇati. Evaṃ bhojanasālāya kāyikaṃ pāgabbhiyaṃ dasseti.
Kathaṃ jantāghare kāyikaṃ pāgabbhiyaṃ dasseti? Idhekacco jantāghare acittīkārakato there bhikkhū ghaṭṭayantopi tiṭṭhati, ghaṭṭayantopi nisīdati, puratopi tiṭṭhati, puratopi nisīdati, uccepi āsane nisīdati, anāpucchāpi kaṭṭhaṃ pakkhipati, anāpucchāpi dvāraṃ pidahati. Evaṃ jantāghare kāyikaṃ pāgabbhiyaṃ dasseti.
Kathaṃ udakatitthe kāyikaṃ pāgabbhiyaṃ dasseti? Idhekacco udakatitthe acittīkārakato there bhikkhū ghaṭṭayantopi otarati, puratopi otarati, ghaṭṭayantopi nahāyati puratopi nahāyati, uparitopi nahāyati, ghaṭṭayantopi uttarati, puratopi uttarati, uparipi uttarati. Evaṃ udakatitthe kāyikaṃ pāgabbhiyaṃ dasseti.
Kathaṃ antaragharaṃ pavisanto kāyikaṃ pāgabbhiyaṃ dasseti? Idhekacco antaragharaṃ pavisanto acittīkārakato there bhikkhū ghaṭṭayantopi gacchati, puratopi gacchati, vokkammapi therānaṃ bhikkhūnaṃ purato purato gacchati. Evaṃ antaragharaṃ pavisanto kāyikaṃ pāgabbhiyaṃ dasseti.
Kathaṃ antaragharaṃ paviṭṭho kāyikaṃ pāgabbhiyaṃ dasseti? Idhekacco antaragharaṃ paviṭṭho ‘na pavisatha bhante ’ti vuccamāno pavisati, ‘na tiṭṭhatha bhante’ti vuccamāno tiṭṭhati, ‘na nisīdatha bhante’ti vuccamāno nisīdati, anokāsampi pavisati, anokāsepi tiṭṭhati, anokāsepi nisīdati, yānipi tāni honti kulānaṃ ovarakāni gūḷhāni ca paṭicchannāni ca, yattha kulitthiyo kuladhītaro kulasuṇhāyo kulakumāriyo nisīdanti, tatthapi sahasā pavisati, kumārakassapi sīsaṃ parāmasati. Evaṃ antaragharaṃ paviṭṭho kāyikaṃ pāgabbhiyaṃ dasseti. Idaṃ kāyikaṃ pāgabbhiyaṃ.
Katamaṃ vācasikaṃ pāgabbhiyaṃ? Idhekacco saṅghagatopi vācasikaṃ pāgabbhiyaṃ dasseti, gaṇagatopi vācasikaṃ pāgabbhiyaṃ dasseti, antaragharaṃ paviṭṭhopi vācasikaṃ pāgabbhiyaṃ dasseti.
Kathaṃ saṅghagato vācasikaṃ pāgabbhiyaṃ dasseti? Idhekacco saṅghagato acittīkārakato there bhikkhū anāpucchā vā anajjhiṭṭho vā ārāmagatānaṃ bhikkhūnaṃ dhammaṃ bhaṇati, pañhaṃ vissajjeti, pātimokkhaṃ uddisati, ṭhitakopi bhaṇati, bāhāvikkhepakopi bhaṇati. Evaṃ saṅghagato vācasikaṃ pāgabbhiyaṃ dasseti.
Kathaṃ gaṇagato vācasikaṃ pāgabbhiyaṃ dasseti? Idhekacco gaṇagato acittīkārakato there bhikkhū anāpucchā vā anajjhiṭṭho vā ārāmagatānaṃ bhikkhūnaṃ dhammaṃ bhaṇati, pañhaṃ vissajjeti, ṭhitakopi bhaṇati, bāhāvikkhepakopi bhaṇati, ārāmagatānaṃ bhikkhunīnaṃ upāsakānaṃ upāsikānaṃ dhammaṃ bhaṇati, pañhaṃ vissajjeti, ṭhitakopi bhaṇati, bāhāvikkhepakopi bhaṇati. Evaṃ gaṇagato vācasikaṃ pāgabbhiyaṃ dasseti.
Kathaṃ antaragharaṃ paviṭṭho vācasikaṃ pāgabbhiyaṃ dasseti? Idhekacco antaragharaṃ paviṭṭho itthiṃ vā kumāriṃ vā evamāha: ‘Itthannāme itthaṃgotte kiṃ atthi? Yāgu atthi, bhattaṃ atthi, khādanīyaṃ atthi? Kiṃ pivissāma, kiṃ bhuñjissāma, kiṃ khādissāma, kiṃ vā atthi, kiṃ vā me dassathā ’ti vippalapati. Evaṃ antaragharaṃ paviṭṭho vācasikaṃ pāgabbhiyaṃ dasseti idaṃ vācasikaṃ pāgabbhiyaṃ.
Katamaṃ cetasikaṃ pāgabbhiyaṃ? Idhekacco na uccākulā pabbajito samāno uccākulā pabbajitena saddhiṃ sadisaṃ attānaṃ karoti cittena, na mahābhogakulā pabbajito samāno mahābhogakulā pabbajitena saddhiṃ sadisaṃ attānaṃ karoti cittena, na uḷārabhogakulā pabbajito samāno uḷārabhogakulā pabbajitena saddhiṃ sadisaṃ attānaṃ karoti cittena, na suttantiko samāno suttantikena saddhiṃ sadisaṃ attānaṃ karoti cittena, na vinayadharo samāno, na dhammakathiko samāno, na āraññiko samāno, na piṇḍapātiko samāno, na paṃsukūliko samāno, na tecīvariko samāno. na sapadānacāriko samāno, na khalupacchābhattiko samāno, na nesajjiko samāno, na yathāsanthatikaṅgo samāno yathāsanthatikena saddhiṃ sadisaṃ attānaṃ karoti cittena, na paṭhamassa jhānassa lābhī samāno paṭhamassa jhānassa lābhinā saddhiṃ sadisaṃ attānaṃ karoti cittena, na dutiyassa jhānassa – na tatiyassa jhānassa – na catutthassa jhānassa lābhī samāno – na ākāsānañcāyatanasamāpattiyā lābhī samāno – na viññāṇañcāyatanasamāpattiyā – na ākiñcaññāyatanasamāpattiyā – na nevasaññānāsaññāyatanasamāpattiyā lābhī samāno nevasaññānāsaññāyatanasamāpattiyā lābhinā saddhiṃ sadisaṃ attānaṃ karoti cittena. Idaṃ cetasikaṃ pāgabbhiyaṃ.
Pāgabbhiyaṃ na sikkheyyā ’ti – Pāgabbhiyaṃ na sikkheyya na careyya na ācareyya na samācareyya na samādāya vatteyya, pāgabbhiyaṃ pajaheyya vinodeyya byantīkareyya anabhāvaṃ gameyya, pāgabbhiyā ārato assa virato paṭivirato nikkhanto nissaṭo vippamutto visaññutto vimariyādīkatena cetasā vihareyyā ’ti – pāgabbhiyaṃ na sikkheyya.
Kathaṃ viggāhikaṃ na kathayeyyā ’ti – Katamā viggāhikā kathā? Idhekacco evarūpiṃ kathaṃ kattā hoti: ‘Na tvaṃ imaṃ dhammavinayaṃ ājānāsi, –pe– nibbeṭhehi vā sace pahosī ’ti. Vuttaṃ hetaṃ bhagavatā: “Viggāhikāya kho moggallāna kathāya sati kathābāhullaṃ paṭikaṅkhaṃ, kathābāhulle sati uddhaccaṃ, uddhatassa asaṃvaro, asaṃvutassa ārā cittaṃ samādhimhā ”ti.
Kathaṃ viggāhikaṃ na kathayeyyā ’ti Viggāhikaṃ kathaṃ na katheyya na bhaṇeyya na dīpeyya na vohareyya; viggāhikaṃ kathaṃ pajaheyya vinodeyya byantīkareyya anabhāvaṃ gameyya; viggāhikakathāya ārato assa virato paṭivirato nikkhanto nissaṭo vippamutto visaññutto vimariyādīkatena cetasā vihareyyā ’ti – kathaṃ viggāhikaṃ na kathayeyya.
Tenāha bhagavā: “Na ca katthiko siyā bhikkhu na ca vācaṃ payuttaṃ bhāseyya, pāgabbhiyaṃ na sikkheyya kathaṃ viggāhikaṃ na kathayeyyā ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Và vị tỳ khưu không nên là kẻ nói khoe khoang, và không nên nói lời nói ám chỉ (liên quan bốn món vật dụng), không nên học tập lối cư xử xấc xược, không nên nói ra ngôn từ đưa đến sự cãi vã.”
14.17
Mosavajje na niyyetha sampajāno saṭhāni na kayirā, atha jīvitena paññāya sīlabbatena nāññamatimaññe.
Không nên bị lôi kéo vào việc nói lời dối trá, không nên cố tình thực hiện các điều xảo trá, và không nên khinh khi người khác về sự sinh sống, về sự nhận thức, về giới và phận sự.
Chớ có bị dắt dẫn,
Rơi vào lời nói láo,
Không cố ý làm nên,
Ðiều man trá giả dối,
Chớ có khinh người khác,
Về vấn đề sinh mạng,
Về vấn đề trí tuệ,
Và vấn đề giới hạnh.
(Kinh Tập, câu kệ 931)
Mosavajje na niyyethā ’ti – Mosavajjaṃ vuccati musāvādo. Idhekacco sabhāgato vā parisagato vā –pe– āmisakiñcikkhahetu vā sampajānamusā bhāsitā hoti; idaṃ vuccati mosavajjaṃ. Api ca tīhākārehi musāvādo hoti: Pubbevassa hoti ‘musā bhaṇissan ’ti, bhaṇantassa hoti ‘musā bhaṇāmī ’ti, bhaṇitassa hoti ‘musā mayā bhaṇitan ’ti; imehi tīhākārehi musāvādo hoti. Api ca, catuhākārehi – pañcahākārehi – chahākārehi – sattahākārehi – aṭṭhahākārehi musāvādo hoti: Pubbevassa hoti ‘musā bhaṇissan ’ti, bhaṇantassa hoti ‘musā bhaṇāmī ’ti, bhaṇitassa hoti ‘musā mayā bhaṇitan ’ti, vinidhāya diṭṭhiṃ, vinidhāya khantiṃ, vinidhāya ruciṃ, vinidhāya saññaṃ, vinidhāya bhāvaṃ; imehi aṭṭhahākārehi musāvādo hoti.
Mosavajje na niyyethā ’ti – Mosavajje na yāyeyya na niyyāyeyya na vuyheyya na saṃhareyya, mosavajjaṃ pajaheyya vinodeyya byantīkareyya anabhāvaṃ gameyya; mosavajjā ārato assa virato paṭivirato nikkhanto nissaṭo vippamutto visaññutto vimariyādīkatena cetasā vihareyyā ’ti – mosavajje na niyyetha.
Sampajāno saṭhāni na kayirā ’ti – Katamaṃ sāṭheyyaṃ? Idhekacco saṭho hoti parisaṭho. Yaṃ tattha saṭhaṃ saṭhatā sāṭheyyaṃ kakkharatā kakkhariyaṃ parikkhattatā pārikkhattiyaṃ; idaṃ vuccati sāṭheyyaṃ. Sampajāno saṭhāni na kayirā ’ti – Sampajāno hutvā sāṭheyyaṃ na kareyya na janeyya na sañjaneyya na nibbatteyya nābhinibbatteyya; sāṭheyyaṃ pajaheyya vinodeyya byantīkareyya anabhāvaṃ gameyya; sāṭheyyā ārato assa virato paṭivirato nikkhanto nissaṭo vippamutto visaññutto vimariyādīkatena cetasā vihareyyā ’ti – sampajāno saṭhāni na kayirā.
Atha jīvitena paññāya sīlabbatena nāññamatimaññe ’ti – Athā ’ti padasandhi –pe– padānupubbatā etaṃ athāti. Idhekacco lūkhajīvikaṃ jīvanto paraṃ paṇītajīvikaṃ jīvantaṃ atimaññati: Kiṃ panāyaṃ bahulājīvo sabbaṃ sambhakkheti, seyyathīdaṃ: mūlabījaṃ khandhabījaṃ phaḷubījaṃ aggabījaṃ bījabījameva pañcamaṃ, asanivicakkaṃ dantakuṭaṃ samaṇappavādenāti. So tāya lūkhajīvikāya paraṃ paṇītajīvikaṃ jīvantaṃ atimaññati. Idhekacco paṇītajīvikaṃ jīvanto paraṃ lūkhajīvikaṃ jīvantaṃ atimaññati: ‘Kiṃ panāyaṃ appapuñño appesakkho na lābhī cīvarapiṇḍapātasenāsanagilānappaccayabhesajjaparikkhārānan ’ti. So tāya paṇītajīvikāya paraṃ lūkhajīvikaṃ jīvantaṃ atimaññati. Idhekacco paññāsampanno hoti, so puṭṭho pañhaṃ vissajjeti. Tassa evaṃ hoti: ‘Ahamasmi paññāsampanno, ime panaññe na paññasampannā ’ti. So tāya paññāsampadāya paraṃ atimaññati. Idhekacco sīlasampanno hoti, pātimokkhasaṃvarasaṃvuto viharati, ācāragocarasampanno aṇumattesu vajjesu bhayadassāvī samādāya sikkhati sikkhāpadesu. Tassa evaṃ hoti: ‘Ahamasmi sīlasampanno, ime panaññe bhikkhū dussīlā pāpadhammā ’ti. So tāya sīlasampadāya paraṃ atimaññati. Idhekacco vatasampanno hoti: āraññiko vā piṇḍapātiko vā paṃsukūliko vā tecīvariko vā sapadānacāriko vā khalupacchābhattiko vā nesajjiko vā yathāsanthatiko vā. Tassa evaṃ hoti: ‘Ahamasmi vatasampanno, ime panaññe na vatasampannā ’ti. So tāya vatasampadāya paraṃ atimaññati.
Atha jīvitena paññāya sīlabbatena nāññamatimaññe ’ti – lūkhajīvikāya vā paṇītajīvikāya vā paññāsampadāya vā sīlasampadāya vā vata sampadāya vā paraṃ nātimaññeyya nāvajāneyya, na tena mānaṃ janeyya, na tena thaddho assa patthaddho paggahitasiro ’ti – atha jīvitena paññāya sīlabbatena nāññamatimaññe.
Tenāha bhagavā: “Mosavajje na niyyetha sampajāno saṭhāni na kayirā, atha jīvitena paññāya sīlabbatena nāññamatimaññe ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Không nên bị lôi kéo vào việc nói lời dối trá, không nên cố tình thực hiện các điều xảo trá, và không nên khinh khi người khác về sự sinh sống, về sự nhận thức, về giới và phận sự.”
14.18
Sutvā dūsito bahuṃ vācaṃ samaṇānaṃ vā puthuvacanānaṃ, pharusena ne na paṭivajjā na hi santo paṭiseniṃ karonti.
Bị bôi nhọ sau khi nghe nhiều lời nói của các vị Sa-môn, của những kẻ phàm phu, không nên đáp trả lại những kẻ ấy một cách thô lỗ, bởi vì các bậc an tịnh không thể hiện sự phản kháng.
Sau khi phẫn uất nghe
Nhiều ngôn từ lời lẽ
Của các vị Sa-môn,
Hay những kẻ phàm phu,
Chớ có phản ứng họ,
Với những lời thô ác,
Bậc hiền lành an tịnh,
Không phản pháo một ai.
(Kinh Tập, câu kệ 932)
Sutvā dūsito bahuṃ vācaṃ samaṇānaṃ vā puthuvacanānan ’ti – Dūsito ’ti dūsito khuṃsito ghaṭṭito vambhito garahito upavadito. Samaṇā ’ti ye keci ito bahiddhā paribbājūpagatā paribbājasamāpannā. Puthuvacanānan ’ti khattiyā ca brāhmaṇā ca vessā ca suddā ca gahaṭṭhā ca pabbajitā ca devā ca manussā ca te bahukāhi vācāhi aniṭṭhāhi akantāhi amanāpāhi akkoseyyuṃ paribhāseyyuṃ roseyyuṃ viroseyyuṃ hiṃseyyuṃ vihiṃseyyuṃ heṭheyyuṃ viheṭheyyuṃ ghāteyyuṃ upaghāteyyuṃ upaghātaṃ kareyyuṃ; tesaṃ bahuvācaṃ aniṭṭhaṃ akantaṃ amanāpaṃ sutvā suṇitvā uggahitvā upadhārayitvā upalakkhayitvā ’ti – sutvā dūsito4 bahuṃ vācaṃ samaṇānaṃ vā puthuvacanānaṃ.
Pharusena ne na paṭivajjā ’ti – Pharusenā ’ti pharusena kakkhalena. Na paṭivajjā na paṭibhaṇeyya, akkosantaṃ na paccakkoseyya, rosantaṃ nappaṭiroseyya, bhaṇḍantaṃ na paṭibhaṇḍeyya, na kalahaṃ kareyya, na bhaṇḍanaṃ kareyya, na viggahaṃ kareyya, na vivādaṃ kareyya, na medhagaṃ kareyya, kalahabhaṇḍanaviggahavivādamedhagaṃ pajaheyya vinodeyya byantīkareyya anabhāvaṃ gameyya, kalahabhaṇḍanaviggahavivādamedhagā ārato assa virato paṭivirato nikkhanto nissaṭo vippamutto visaññutto vimariyādīkatena cetasā vihareyyā ’ti – pharusena ne na paṭivajjā.
Na hi santo paṭiseniṃ karontī ’ti – Santo ’ti rāgassa santattā santo, dosassa – mohassa – kodhassa – upanāhassa –pe–sabbākusalābhisaṅkhārānaṃ santattā samitattā vūpasamitattā vijjhātattā nibbutattā vigatattā paṭippassaddhattā santo upasanto vūpasanto nibbuto paṭippassaddho ’ti – santo.
Na hi santo paṭiseniṃ karontī ’ti santo paṭiseniṃ paṭimallaṃ paṭibhaṇḍanaṃ paṭipakkhaṃ na karonti na janenti na sañjanenti na nibbattenti nābhinibbattentī ’ti – na hi santo paṭiseniṃ karonti.
Tenāha bhagavā: “Sutvā dūsito bahuṃ vācaṃ samaṇānaṃ vā puthuvacanānaṃ, pharusena ne na paṭivajjā na hi santo paṭiseniṃ karontī ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Bị bôi nhọ sau khi nghe nhiều lời nói của các vị Sa-môn, của những kẻ phàm phu, không nên đáp trả lại những kẻ ấy một cách thô lỗ, bởi vì các bậc an tịnh không thể hiện sự phản kháng.”
14.19
Etañca dhammamaññāya vicinaṃ bhikkhu sadā sato sikkhe, santīti nibbutiṃ ñatvā sāsane gotamassa nappamajjeyya.
Và sau khi hiểu thông Giáo Pháp này, trong khi suy gẫm, vị tỳ khưu nên học tập, luôn luôn có niệm, sau khi biết được sự diệt tắt là ‘an tịnh,’ không nên xao lãng về lời giáo huấn của đức Gotama.
Sau khi rõ biết được
Pháp này là như vậy,
Tỷ-kheo hãy học tập,
Sáng suốt và chánh niệm,
Rõ biết sự mát lạnh,
Ðược gọi bậc “an tịnh “,
Chớ có sống phóng dật,
Trong lời dạy Cù-đàm.
(Kinh Tập, câu kệ 933)
Etañca dhammamaññāyā ’ti – Etan ’ti ācikkhitaṃ desitaṃ paññāpitaṃ paṭṭhapitaṃ vivaṭaṃ vibhattaṃ uttānīkataṃ pakāsitaṃ. Dhammamaññāyā ’ti jānitvā tulayitvā tīrayitvā vibhāvayitvā vibhūtaṃ katvāti, evampi etañca dhammamaññāya. Athavā, samañca visamañca pathañca vipathañca sāvajjañca anavajjañca hīnañca paṇītañca kaṇhañca sukkañca viññūgarahitañca viññuppasatthañca dhammaṃ aññāya jānitvā tulayitvā tīrayitvā vibhāvayitvā vibhūtaṃ katvāti, evampi etañca dhammamaññāya. Athavā sammāpaṭipadaṃ anulomapaṭipadaṃ apaccanīkapaṭipadaṃ anvatthapaṭipadaṃ dhammānudhammapaṭipadaṃ sīlesu paripūrakāritaṃ indriyesu guttadvārataṃ bhojane mattaññutaṃ jāgariyānuyogaṃ satisampajaññaṃ cattāro satipaṭṭhāne cattāro sammappadhāne cattāro iddhipāde pañcindriyāni pañca balāni satta bojjhaṅge ariyaṃ aṭṭhaṅgikaṃ maggaṃ nibbānañca nibbānagāminiñca paṭipadaṃ dhammaṃ aññāya jānitvā tulayitvā tīrayitvā vibhāvayitvā vibhūtaṃ katvāti, evampi etañca dhammamaññāya.
Vicinaṃ bhikkhu sadā sato sikkhe ’ti – Vicinan ’ti vicinanto pavicinanto tulayanto tīrayanto vibhāvayanto vibhūtaṃ karonto. ‘Sabbe saṅkhārā aniccā ’ti –pe– ‘Yaṃ kiñci samudayadhammaṃ sabbaṃ taṃ nirodhadhamman ’ti vicinanto pavicinanto tulayanto tīrayanto vibhāvayanto vibhūtaṃ karonto ’ti – vicinaṃ bhikkhu. Sadā ’ti sadā sabbadā sabbakālaṃ –pe– pacchime vayokhandhe. Sato ’ti catuhi kāraṇehi sato: kāye kāyānupassanāsatipaṭṭhānaṃ bhāvento sato –pe– so vuccati sato.
Sikkhe ’ti – tisso sikkhā: adhisīlasikkhā adhicittasikkhā adhipaññāsikkhā –pe– ayaṃ adhipaññāsikkhā. Imā tisso sikkhāyo āvajjanto sikkheyya –pe– sikkheyya ācareyya samācareyya samādāya vatteyyā ’ti – vicinaṃ bhikkhu sadā sato sikkhe.
Santīti nibbutiṃ ñatvā ’ti – rāgassa nibbutiṃ santīti ñatvā, dosassa – mohassa –pe– sabbākusalābhisaṅkhārānaṃ nibbutiṃ santīti ñatvā jānitvā tulayitvā tīrayitvā vibhāvayitvā vibhūtaṃ katvā ’ti – santīti nibbutiṃ ñatvā.
Sāsane gotamassa nappamajjeyyā ’ti – Gotamassa sāsane buddhasāsane jinasāsane tathāgatasāsane devadevasāsane arahantasāsane.
Nappamajjeyyā ’ti sakkaccakārī assa sātaccakārī aṭṭhitakārī anolīnavuttiko anikkhittachando anikkhittadhuro kusalesu dhammesu. ‘Kadāhaṃ aparipūraṃ vā sīlakkhandhaṃ paripūreyyaṃ –pe– aparipūraṃ vā samādhikkhandhaṃ – paññākkhandhaṃ – vimuttikkhandhaṃ – vimuttiñāṇadassanakkhandhaṃ? Kadāhaṃ apariññātaṃ vā dukkhaṃ parijāneyyaṃ, appahīne vā kilese pajaheyyaṃ, abhāvitaṃ vā maggaṃ bhāveyyaṃ, asacchikataṃ vā nirodhaṃ sacchikareyyan ’ti? Yo tattha chando ca vāyāmo ca ussāho ca ussoḷhī ca thāmo ca appaṭivānī ca sati ca sampajaññañca ātappaṃ padhānaṃ adhiṭṭhānaṃ anuyogo appamādo kusalesu dhammesū ’ti – sāsane gotamassa nappamajjeyya.
Tenāha bhagavā: “Etañca dhammamaññāya vicinaṃ bhikkhu sadā sato sikkhe, santīti nibbutiṃ ñatvā sāsane gotamassa nappamajjeyyā ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Và sau khi hiểu thông Giáo Pháp này, trong khi suy gẫm, vị tỳ khưu nên học tập, luôn luôn có niệm, sau khi biết được sự diệt tắt là ‘an tịnh,’không nên xao lãng về lời giáo huấn của đức Gotama.”
14.20
Abhibhū hi so anabhibhūto sakkhidhammamanitīhamadassī, tasmā hi tassa bhagavato sāsane appamatto sadā namassamanusikkheti. (bhagavā)
Bởi vì, vị ấy là người chiến thắng, bậc không bị chế ngự, vị đã nhìn thấy pháp thực chứng, không do nghe nói lại theo truyền thống. Chính vì thế, luôn luôn không xao lãng, trong lúc kính lễ, nên học tập theo ở lời giáo huấn của đức Thế Tôn ấy” (Đức Thế Tôn nói vậy).
Bậc đã được chiến thắng,
Không ai chiến thắng nổi
Tự mình thấy được pháp,
Không nghe theo tin đồn,
Do vậy hãy học tập
Luôn luôn không phóng dật,
Với tâm tư cung kính,
Lời dạy đức Thế Tôn,
Thế Tôn nói như vậy.
(Kinh Tập, câu kệ 934)
Abhibhū hi so anabhibhūto ’ti – Abhibhū ’ti rūpābhibhū saddābhibhū gandhābhibhū rasābhibhū phoṭṭhabbābhibhū dhammābhibhū, anabhibhūto kehici kilesehi; abhibhosi ne hīne pāpake akusale dhamme saṃkilesike ponobhavike sadare dukkhavipāke āyatiṃ jātijarāmaraṇiye ’ti – abhibhū hi so anabhibhūto.
Sakkhidhammamanitīhamadassī ’ti – Sakkhidhamman ’ti na itihītihaṃ na itikirāya na paramparāya na piṭakasampadāya na takkahetu na nayahetu na ākāraparivitakkena na diṭṭhinijjhānakkhantiyā sāmaṃ sayamabhiññātaṃ attapaccakkhadhammaṃ addasi addakkhi apassi paṭivijjhī ’ti – sakkhidhammamanitīhamadassī.
Tasmā hi tassa bhagavato sāsane ’ti – Tasmā ’ti tasmā taṃkāraṇā taṃhetu tappaccayā tannidānaṃ. Tassa bhagavato sāsane ’ti tassa bhagavato sāsane gotamasāsane buddhasāsane jinasāsane tathāgatasāsane devadevasāsane arahantasāsane ’ti – tasmā hi tassa bhagavato sāsane.
Appamatto sadā namassamanusikkheti bhagavā ’ti – Appamatto ’ti sakkaccakārī –pe– appamādo kusalesu dhammesu. Sadā ’ti sadā sabbadā sabbakālaṃ –pe– pacchime vayokhandhe. Namassan ’ti kāyena vā namassamāno vācāya vā namassamāno cittena vā namassamāno anvatthapaṭipattiyā vā namassamāno dhammānudhammapaṭipattiyā vā namassamāno sakkurumāno garuṃ kurumāno mānayamāno pūjayamāno apacayamāno. Anusikkhe ’ti tisso sikkhāyo: adhisīlasikkhā adhicittasikkhā adhipaññāsikkhā –pe– ayaṃ adhipaññāsikkhā. Imā tisso sikkhāyo āvajjanto sikkheyya –pe– sacchikātabbaṃ sacchikaronto sikkheyya careyya ācareyya samācareyya samādāya vatteyya. Bhagavā ’ti gāravādhivacanaṃ –pe– sacchikāpaññatti yadidaṃ bhagavā ’ti – appamatto sadā namassamanusikkheti bhagavā.
Tenāha bhagavā: “Abhibhū hi so anabhibhūto sakkhidhammamanitīhamadassī, tasmā hi tassa bhagavato sāsane appamatto sadā namassamanusikkheti (bhagavā ”ti).
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Bởi vì, vị ấy là người chiến thắng, bậc không bị chế ngự, vị đã nhìn thấy pháp thực chứng, không do nghe nói lại theo truyền thống. Chính vì thế, luôn luôn không xao lãng, trong lúc kính lễ, nên học tập theo ở lời giáo huấn của đức Thế Tôn ấy” (Đức Thế Tôn nói vậy).
Tuvaṭakasuttaniddeso samatto cuddasamo.
–ooOoo–
Diễn Giải Kinh ‘Một Cách Nhanh Chóng’ – Phần thứ mười bốn được đầy đủ.
15. ATTADAṆḌASUTTANIDDESO – DIỄN GIẢI KINH UẾ HẠNH CỦA BẢN THÂN
15.1
Atha attadaṇḍasuttaniddeso vuccate:
Giờ phần Diễn Giải Kinh ‘Uế Hạnh của Bản Thân’ được nói đến:
Attadaṇḍā bhayaṃ jātaṃ janaṃ passatha medhagaṃ, saṃvegaṃ kittayissāmi yathā saṃvijitaṃ mayā.
Sự sợ hãi sanh lên do uế hạnh của bản thân. Các ngươi hãy nhìn xem loài người đang gây gổ. Ta sẽ thuật lại rạng thái chấn động đúng theo sự việc đã làm cho Ta bị chấn động.
(XV) Kinh Chấp trượng (Sn 182)
Thế Tôn:
Từ người cầm các trượng,
Sợ hãi được sanh ra,
Hãy xem các loài người,
Trong khi đấu tranh nhau,
Ta sẽ nói sợ hãi,
Như Ta đã được biết.
(Kinh Tập, câu kệ 935)
Attadaṇḍā bhayaṃ jātan ’ti – Daṇḍā ’ti tayo daṇḍā: kāyadaṇḍo vacīdaṇḍo manodaṇḍo. Tividhaṃ kāyaduccaritaṃ kāyadaṇḍo, catubbidhaṃ vacīduccaritaṃ vacīdaṇḍo, tividhaṃ manoduccaritaṃ manodaṇḍo. Bhayan ’ti dve bhayāni: diṭṭhadhammikañca bhayaṃ samparāyikañca bhayaṃ.
Sự sợ hãi sanh lên do uế hạnh của bản thân – Uế hạnh: Có ba uế hạnh: uế hạnh về thân, uế hạnh về khẩu, uế hạnh về ý. Ba loại hành động xấu xa của thân là uế hạnh về thân, bốn loại hành động xấu xa của khẩu là uế hạnh về khẩu, ba loại hành động xấu xa của ý là uế hạnh về ý. Sự sợ hãi: Có hai sự sợ hãi: sợ hãi liên quan đời này và sợ hãi liên quan đời sau.
Katamaṃ diṭṭhadhammikaṃ bhayaṃ? Idhekacco kāyena duccaritaṃ carati, vācāya duccaritaṃ carati, manasā duccaritaṃ carati, pāṇampi hanti, adinnampi ādiyati, sandhimpi chindati, nillopampi harati, ekāgārikampi karoti, paripanthepi tiṭṭhati, paradārampi gacchati, musāpi bhaṇati. Tamenaṃ gahetvā rañño dassenti: ‘Ayaṃ deva coro āgucārī. Imassa yaṃ icchati, taṃ daṇḍaṃ paṇehī ’ti. Tamenaṃ rājā paribhāsati. So paribhāsapaccayā bhayaṃ uppādeti, dukkhaṃ domanassaṃ paṭisaṃvedeti. Etaṃ bhayaṃ dukkhaṃ domanassaṃ kuto tassa? Attadaṇḍato jātaṃ sañjātaṃ nibbattaṃ abhinibbattaṃ pātubhūtaṃ
Sợ hãi liên quan đời này là việc nào? Ở đây, một người nào đó làm hành động xấu xa bằng thân, làm hành động xấu xa bằng khẩu, làm hành động xấu xa bằng ý, giết hại mạng sống, lấy vật chưa được cho, đột nhập gia cư, mang đi vật cướp được, làm kẻ đạo tặc, đứng cướp đường, đi đến với vợ người khác, nói lời dối trá. Dân chúng sau khi bắt lấy kẻ ấy rồi trình lên đức vua: ‘Tâu bệ hạ, gã trộm cướp này là kẻ phạm tội. Đối với kẻ này, xin ngài hãy giáng hình phạt theo ý muốn. Đức vua mắng nhiếc kẻ ấy. Kẻ ấy, do duyên mắng nhiếc, khởi lên sự sợ hãi, cảm thọ khổ ưu. Sự sợ hãi, khổ, ưu này do đâu mà sanh lên cho kẻ ấy? Do uế hạnh của bản thân mà việc ấy đã sanh ra, đã sanh khởi, đã hạ sanh, đã phát sanh, đã xuất hiện.
Ettakenapi rājā na tussati. Tamenaṃ rājā bandhāpeti andubandhanena vā rajjubandhanena vā saṅkhalikabandhanena vā vettabandhanena vā latābandhanena vā pakkhepa bandhanena vā parikkhepabandhanena vā gāmabandhanena vā nigamabandhanena vā nagarabandhanena vā raṭṭhabandhanena vā janapadabandhanena vā antamaso savacanīyampi karoti ‘na te labbhā ito pakkamitun ’ti. So bandhanapaccayāpi dukkhaṃ domanassaṃ paṭisaṃvedeti. Etaṃ bhayaṃ dukkhaṃ domanassaṃ kuto tassa? Attadaṇḍato jātaṃ sañjātaṃ nibbattaṃ abhinibbattaṃ pātubhūtaṃ.
Chỉ với chừng ấy, đức vua không được vui. Đức vua ra lệnh giam cầm kẻ ấy với việc trói bằng xiềng, hoặc trói bằng dây thừng, hoặc trói bằng dây xích, hoặc trói bằng dây mây, hoặc trói bằng dây leo, hoặc với việc giam trong hố, hoặc giam trong hào, hoặc giam trong làng, hoặc giam trong thị trấn, hoặc giam trong thành phố, hoặc giam trong quốc độ, hoặc giam trong xứ sở, thậm chí còn khuyên bảo rằng: ‘Ngươi không được phép ra khỏi nơi này.’ Kẻ ấy, do duyên giam cầm, cảm thọ khổ ưu. Sự sợ hãi, khổ, ưu này do đâu mà sanh lên cho kẻ ấy? Do uế hạnh của bản thân mà việc ấy đã sanh ra, đã sanh khởi, đã hạ sanh, đã phát sanh, đã xuất hiện.
Ettakenapi rājā na tussati. Rājā tassa dhanaṃ āharāpeti: sataṃ vā sahassaṃ vā satasahassaṃ vā. So dhanajānipaccayāpi dukkhaṃ domanassaṃ paṭisaṃvedeti. Etaṃ bhayaṃ dukkhaṃ domanassaṃ kuto tassa? Attadaṇḍato jātaṃ sañjātaṃ nibbattaṃ abhinibbattaṃ pātubhūtaṃ
Chỉ với chừng ấy, đức vua không được vui. Đức vua ra lệnh lấy đi tài sản của kẻ ấy: một trăm, một ngàn, hoặc một trăm ngàn. Kẻ ấy, do duyên mất mát tài sản, cảm thọ khổ ưu. Sự sợ hãi, khổ, ưu này do đâu mà sanh lên cho kẻ ấy? Do uế hạnh của bản thân mà việc ấy đã sanh ra, đã sanh khởi, đã hạ sanh, đã phát sanh, đã xuất hiện.
Ettakenapi rājā na tussati. Tamenaṃ rājā vividhā kammakaraṇā kārāpeti: kasāhipi tāḷeti, vettehipi tāḷeti, addha daṇḍakehipi tāḷeti, hatthampi chindati, pādampi chindati, hatthapādampi chindati, kaṇṇampi chindati, nāsampi chindati, kaṇṇanāsampi chindati, bilaṅgathālikampi karoti, saṅkhamuṇḍikampi karoti, rāhumukhampi karoti, jotimālikampi karoti, hatthapajjotikampi karoti, erakavattikampi karoti, cīrakavāsikampi karoti, eṇeyyakampi karoti, balisamaṃsikampi karoti, kahāpaṇikampi karoti, khārāpatacchikampi karoti, palighaparivattikampi karoti, palālapiṭṭhikampi karoti, tattenapi telena osiñcati, sunakhehipi khādāpeti, jīvantampi sūle uttāseti, asināpi sīsaṃ chindati. So kammakāraṇapaccayāpi dukkhaṃ domanassaṃ paṭisaṃvedeti. Etaṃ bhayaṃ dukkhaṃ domanassaṃ kuto tassa? Attadaṇḍato jātaṃ sañjātaṃ nibbattaṃ abhinibbattaṃ pātubhūtaṃ. Rājā imesaṃ catuṇṇaṃ daṇḍānaṃ issaro.
Chỉ với chừng ấy, đức vua không được vui. Đức vua ra lệnh nhiều loại hình phạt ở thân: đánh bằng các cây roi, đánh bằng các dây mây, đánh bằng các gậy ngắn, chặt bàn tay, chặt bàn chân, chặt bàn tay và bàn chân, cắt tai, xẻo mũi, cắt tai và xẻo mũi, đốt nóng đầu, lột da đầu bôi vôi, đốt lửa ở miệng, thiêu sống, đốt cháy ở bàn tay, lột da thành sợi, mặc y phục vỏ cây, kéo căng thân người ở trên đất, xiên da thịt bằng lưỡi câu, khoét thịt thành đồng tiền, chà xát với chất kiềm, quay tròn ở trên thập tự giá, ngồi ở ghế rơm, rưới bằng dầu sôi, cho những con chó gặm, đặt trên giáo nhọn, chặt đầu bằng gươm. Kẻ ấy, do duyên các hình phạt ở thân, cảm thọ khổ ưu. Sự sợ hãi, khổ, ưu này do đâu mà sanh lên cho kẻ ấy? Do uế hạnh của bản thân mà việc ấy đã sanh ra, đã sanh khởi, đã hạ sanh, đã phát sanh, đã xuất hiện. Đức vua là chúa tể của bốn hình phạt này.
So sakena kammena kāyassa bhedā parammaraṇā apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ nirayaṃ upapajjati. Tamenaṃ nirayapālā pañcavidhabandhanaṃ nāma kāraṇaṃ kārenti, tattaṃ ayokhīlaṃ hatthe gamenti, tattaṃ ayokhīlaṃ8 dutiye hatthe gamenti, tattaṃ ayokhīlaṃ pāde gamenti, tattaṃ ayokhīlaṃ8 dutiye pāde gamenti, tattaṃ ayokhīlaṃ8 majjhe urasmiṃ gamenti. So tattha dukkhā kaṭukā tippā vedanā vedeti; na ca tāva kālaṃ karoti yāva na taṃ pāpaṃ kammaṃ byantīhoti. Etaṃ bhayaṃ dukkhaṃ domanassaṃ kuto tassa? Attadaṇḍato jātaṃ sañjātaṃ nibbattaṃ abinibbattaṃ pātubhūtaṃ.
Kẻ ấy, với nghiệp của mình, do sự hoại rã của thân, do sự chết đi, bị sanh vào chốn bất hạnh, cõi khổ, nơi trừng phạt, địa ngục. Những người giữ địa ngục cho thực hiện hình phạt ‘trói buộc năm cách’ đối với kẻ ấy: Họ dùng cọc sắt đã được đốt nóng đóng vào ở bàn tay, họ dùng cọc sắt đã được đốt nóng đóng vào ở bàn tay thứ hai, họ dùng cọc sắt đã được đốt nóng đóng vào ở bàn chân, họ dùng cọc sắt đã được đốt nóng đóng vào ở bàn chân thứ hai, họ dùng cọc sắt đã được đốt nóng đóng vào ở giữa ngực. Kẻ ấy, ở tại nơi ấy, cảm nhận các thọ khổ, sắc bén, nhức nhối; nhưng kẻ ấy không thể chết đi chừng nào ác nghiệp ấy còn chưa chấm dứt. Sự sợ hãi, khổ, ưu này do đâu mà sanh lên cho kẻ ấy? Do uế hạnh của bản thân mà việc ấy đã sanh ra, đã sanh khởi, đã hạ sanh, đã phát sanh, đã xuất hiện.
Tamenaṃ nirayapālā saṃvesetvā kuṭhārīhi tacchenti. So tattha dukkhā tippā kaṭukā vedanā vedeti; na ca tāva kālaṃ karoti yāva na taṃ pāpaṃ kammaṃ byantīhoti. Tamenaṃ nirayapālā uddhapādaṃ adhosiraṃ gahetvā vāsīhi tacchenti. Tamenaṃ nirayapālā rathe yojetvā ādittāya paṭhaviyā sampajjalitāya sajotibhūtāya sārentipi paccāsārentipi ―pe― Tamenaṃ nirayapālā mahantaṃ aṅgārapabbataṃ ādittaṃ sampajjalitaṃ sajotibhūtaṃ āropentipi oropentipi –pe– Tamenaṃ nirayapālā uddhapādaṃ adhosiraṃ gahetvā tattāya lohakumbhiyā pakkhipanti ādittāya sampajjalitāya sajotibhūtāya. So tattha pheṇuddehakaṃ paccati. So tattha pheṇuddehakaṃ paccamāno sakimpi uddhaṃ gacchati, sakimpi adho gacchati, sakimpi tiriyaṃ gacchati. So tattha dukkhā tippā kaṭukā vedanā vedeti; na ca tāva kālaṃ karoti yāva na taṃ pāpaṃ kammaṃ byantīhoti. Etaṃ bhayaṃ dukkhaṃ domanassaṃ kuto tassa? Attadaṇḍato jātaṃ sañjātaṃ nibbattaṃ abhinibbattaṃ pātubhūtaṃ. Tamenaṃ nirayapālā mahāniraye pakkhipanti. So kho pana mahānirayo
Những người giữ địa ngục bắt kẻ ấy nằm xuống và dùng những cái rìu thái mỏng. Kẻ ấy, ở tại nơi ấy, cảm nhận các thọ khổ, sắc bén, nhức nhối; nhưng kẻ ấy không thể chết đi chừng nào ác nghiệp ấy còn chưa chấm dứt. Những người giữ địa ngục nắm lấy kẻ ấy, chân phía trên đầu phía dưới, và dùng những cái búa thái mỏng. Những người giữ địa ngục cột kẻ ấy vào cỗ xe rồi cho kéo tới kéo lui ở trên đất đã được đốt cháy, sáng rực, đỏ rực. –nt– Những người giữ địa ngục bắt kẻ ấy trèo lên, trèo xuống ở ngọn núi than hừng to lớn đã được đốt cháy, sáng rực, đỏ rực. –nt– Những người giữ địa ngục nắm lấy kẻ ấy, chân phía trên đầu phía dưới, rồi ném vào chảo đồng đã được đốt nóng, đốt cháy, sáng rực, đỏ rực. Kẻ ấy, ở tại nơi ấy, bị nung nấu ở bọt nước sôi sục. Kẻ ấy, ở tại nơi ấy, trong khi bị nung nấu ở bọt nước sôi sục, lúc thì nổi lên trên, lúc thì chìm xuống dưới, lúc thì trôi ngang. Kẻ ấy, ở tại nơi ấy, cảm nhận các thọ khổ, sắc bén, nhức nhối; nhưng kẻ ấy không thể chết đi chừng nào ác nghiệp ấy còn chưa chấm dứt. Sự sợ hãi, khổ, ưu này do đâu mà sanh lên cho kẻ ấy? Do uế hạnh của bản thân mà việc ấy đã sanh ra, đã sanh khởi, đã hạ sanh, đã phát sanh, đã xuất hiện. Những người giữ địa ngục ném kẻ ấy vào đại địa ngục. Quả vậy, đại địa ngục ấy là:
1. Catukkaṇṇo catudvāro vibhatto bhāgaso mito, ayopākārapariyanto ayasā paṭikujjito.
1. (Đại địa ngục) có bốn góc, có bốn cửa lớn, được chia thành các phần cân đối, được bao quanh bằng tường sắt, được đậy lại bằng mái sắt.
2. Tassa ayomayā bhūmi jalitā tejasā yutā, samantā yojanasataṃ pharitvā tiṭṭhati sabbadā.
2. Nền của (đại địa ngục) làm bằng sắt, được thiêu đốt, cháy với lửa ngọn, luôn luôn tỏa khắp và tồn tại xung quanh một trăm do-tuần.
3. Kadariyā tapanā ghorā accimanto durāsadā, lomahaṃsanarūpā ca bhismā paṭibhayā dukhā.
3. (Các đại địa ngục) có sự đốt nóng khổ sở, ghê rợn, có ngọn lửa khó lại gần, có hình dạng làm rởn lông, ghê rợn, gây ra sự sợ hãi, khó chịu.
4. Puratthimāya ca bhittiyā accikkhandho samuṭṭhito, dahanto pāpakammante pacchimāya paṭihaññati.
4. Khối lửa được phát khởi ở bức tường hướng đông, trong khi thiêu đốt những kẻ có ác nghiệp, đi đến chạm vào (khối lửa) ở hướng tây.
5. Pacchimāya ca bhittiyā accikkhandho samuṭṭhito, dahanto pāpakammante puratthimāya paṭihaññati.
5. Khối lửa được phát khởi ở bức tường hướng tây, trong khi thiêu đốt những kẻ có ác nghiệp, đi đến chạm vào (khối lửa) ở hướng đông.
6. Uttarāya ca bhittiyā accikkhandho samuṭṭhito, dahanto pāpakammante dakkhiṇāya paṭihaññati.
6. Khối lửa được phát khởi ở bức tường hướng bắc, trong khi thiêu đốt những kẻ có ác nghiệp, đi đến chạm vào (khối lửa) ở hướng nam.
7. Dakkhiṇāya ca bhittiyā accikkhandho samuṭṭhito. dahanto pāpakammante uttarāya paṭihaññati.
7. Khối lửa được phát khởi ở bức tường hướng nam, trong khi thiêu đốt những kẻ có ác nghiệp, đi đến chạm vào (khối lửa) ở hướng bắc.
8. Heṭṭhato ca samuṭṭhāya accikkhandho bhayānako, dahanto pāpakammante chadanasmiṃ paṭihaññati.
8. Khối lửa khủng khiếp phát xuất từ bên dưới, trong khi thiêu đốt những kẻ có ác nghiệp, đi đến chạm vào (khối lửa) ở mái che (bên trên).
9. Chadanamhā samuṭṭhāya accikkhandho bhayānako, dahanto pāpakammante bhūmiyaṃ paṭihaññati.
9. Khối lửa khủng khiếp phát xuất từ mái che, trong khi thiêu đốt những kẻ có ác nghiệp, đi đến chạm vào (khối lửa) ở mặt đất (bên dưới).
10. Ayokapālamādittaṃ santattaṃ jalitaṃ yathā, evaṃ avīcinirayo heṭṭhā upari passato.
10. Cái chảo sắt đã được đốt cháy, nóng đỏ, sáng chói như thế nào thì địa ngục Avīci, ở bên dưới, bên trên, và bên hông là như vậy.
11. Tattha sattā mahāluddā mahākibbisakārino, accantapāpakammantā paccanti na ca miyyare.
11. Ở nơi ấy, những chúng sanh vô cùng hung dữ, đã gây ra trọng tội, có hành động cực kỳ ác độc, bị nung nấu và không thể chết đi.
12. Jātavedasamo kāyo tesaṃ nirayavāsinaṃ. passa kammānaṃ daḷhattaṃ na bhasmā hoti na masi.
12. Thân thể của họ, những cư dân ở địa ngục, giống như ngọn lửa. Hãy nhìn xem tính chất vững bền của nghiệp, không như tro, không như bụi.
13. Puratthimenapi dhāvanti tato dhāvanti pacchimaṃ, uttarenapi dhāvanti tato dhāvanti dakkhiṇaṃ.
13. Họ chạy về hướng đông, rồi từ đó chạy về hướng tây. Họ chạy về hướng bắc, rồi từ đó họ chạy về hướng nam.
14. Yaṃ yaṃ disaṃ padhāvanti taṃ taṃ dvāraṃ pithīyati, abhinikkhamitāsā te sattā mokkhagavesino.
14. Họ chạy đến bất cứ hướng nào, cánh cửa hướng ấy đều được đóng lại. Với niềm mong mỏi được thoát ra, các chúng sanh ấy có sự tìm kiếm lối thoát.
15. Na te tato nikkhamituṃ labhanti kammapaccayā, tesaṃ ca pāpakammantaṃ avipakkaṃ kataṃ bahun ”ti.
15. Họ không thể đi ra khỏi nơi ấy bởi vì nghiệp duyên, khi ác nghiệp của họ đã tạo có nhiều và còn chưa trả xong.
Etaṃ bhayaṃ dukkhaṃ domanassaṃ kuto tassa? Attadaṇḍato jātaṃ sañjātaṃ nibbattaṃ abhinibbattaṃ pātubhūtaṃ. Yāni ca nerayikāni dukkhāni yāni ca tiracchānayonikāni dukkhāni yāni ca pettivisayikāni dukkhāni yāni ca mānusikāni dukkhāni, tāni kuto jātāni, kuto sañjātāni, kuto nibbattāni, kuto abhinibbattāni, kuto pātubhūtāni? Attadaṇḍato jātāni sañjātāni nibbattāni abhinibbattāni pātubhūtānī ’ti – attadaṇḍā bhayaṃ jātaṃ.
Sự sợ hãi, khổ, ưu này do đâu mà sanh lên cho kẻ ấy? Do uế hạnh của bản thân mà việc ấy đã sanh ra, đã sanh khởi, đã hạ sanh, đã phát sanh, đã xuất hiện. Những khổ đau ở địa ngục, những khổ đau ở thai bào của loài thú, những khổ đau ở cảnh giới ngạ quỷ, những khổ đau của loài người, những khổ đau ấy do đâu sanh ra, do đâu sanh khởi, do đâu hạ sanh, do đâu phát sanh, do đâu xuất hiện? Do uế hạnh của bản thân mà chúng đã sanh ra, đã sanh khởi, đã hạ sanh, đã phát sanh, đã xuất hiện; – ‘Sự sợ hãi sanh lên do uế hạnh của bản thân’ là như thế.
Janaṃ passatha medhagan ’ti – khattiyā ca brāhmaṇā ca vessā ca suddā ca gahaṭṭhā ca pabbajitā ca devatā ca manussā ca medhagaṃ janaṃ kalahaṃ janaṃ viruddhaṃ janaṃ paṭiviruddhaṃ janaṃ āhataṃ janaṃ paccāhataṃ janaṃ āghātitaṃ janaṃ paccāghātitaṃ janaṃ passatha dakkhatha oloketha nijjhāyetha upaparikkhathā ’ti – janaṃ passatha medhagaṃ.
Các ngươi hãy nhìn xem loài người đang gây gổ – Các Sát-đế-lỵ, các Bà-la-môn, các thương buôn, các nô lệ, các người tại gia, các vị xuất gia, chư Thiên, và nhân loại, các ngươi hãy nhìn xem, hãy nhìn ngắm, hãy quan sát, hãy suy xét, hãy xem xét loài người đang gây gỗ, loài người đang cãi cọ, loài người đang chống đối, loài người đang đối chọi, loài người đang hằn học, loài người đang thù hằn, loài người đang căm hờn, loài người đang thù hận; – ‘các ngươi hãy nhìn xem loài người đang gây gổ’ là như thế.
Saṃvegaṃ kittayissāmī ’ti – Saṃvegaṃ ubbegaṃ utrāsaṃ bhayaṃ pīḷanaṃ ghaṭṭanaṃ upaddavaṃ upassaggaṃ. Kittayissāmī ’ti pakittayissāmi ācikkhissāmi desissāmi paññapissāmi paṭṭhapissāmi vicarissāmi vibhajissāmi uttānīkarissāmi pakāsissamī ’ti – saṃvegaṃ kittayissāmi.
Ta sẽ thuật lại trạng thái chấn động – Trạng thái chấn động là sự hốt hoảng, sự khiếp sợ, sự sợ hãi, sự hành hạ, sự va chạm, sự bất hạnh, sự nguy hiểm. Ta sẽ thuật lại: Ta sẽ bộc lộ, Ta sẽ nêu ra, Ta sẽ thuyết giảng, Ta sẽ thông báo, Ta sẽ ấn định, Ta sẽ khai mở, Ta sẽ chia sẻ, Ta sẽ làm rõ, Ta sẽ bày tỏ; – ‘Ta sẽ thuật lại trạng thái chấn động’ là như thế.
Yathā saṃvijitaṃ mayā ’ti – Yathā mayā attanāyeva attā saṃvejito ubbejito saṃvegamāpādito ’ti – yathā saṃvijitaṃ mayā.
Đúng theo sự việc đã làm cho Ta bị chấn động – Đúng theo sự việc đã làm cho chính bản thân Ta bị chấn động, bị hốt hoảng, bị đưa đến trạng thái chấn động; – ‘đúng theo sự việc đã làm cho Ta bị chấn động’ là như thế.
Tenāha bhagavā: “Attadaṇḍā bhayaṃ jātaṃ janaṃ passatha medhagaṃ, saṃvegaṃ kittayissāmi yathā saṃvijitaṃ mayā ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Sự sợ hãi sanh lên do uế hạnh của bản thân. Các ngươi hãy nhìn xem loài người đang gây gổ. Ta sẽ thuật lại trạng thái chấn động đúng theo sự việc đã làm cho Ta bị chấn động.”
15.2
Phandamānaṃ pajaṃ disvā macche appodake yathā, aññamaññehi byāruddhe disvā maṃ bhayamāvisi.
Sau khi nhìn thấy nhân loại đang chao động tựa như những con cá ở chỗ ít nước, sau khi nhìn thấy chúng chống đối lẫn nhau, sự sợ hãi đã xâm nhập Ta.
Thấy loài, người vùng vẫy,
Như cá trong nước cạn,
Thấy họ chống đối nhau,
Ta rơi vào sợ hãi.
(Kinh Tập, câu kệ 936)
Phandamānaṃ pajaṃ disvā ’ti – Pajā ’ti sattādhivacanaṃ. Pajaṃ taṇhāphandanāya phandamānaṃ, diṭṭhiphandanāya phandamānaṃ, kilesaphandanāya phandamānaṃ, duccaritaphandanāya phandamānaṃ, payogaphandanāya phandamānaṃ, vipākaphandanāya phandamānaṃ, rattaṃ rāgena phandamānaṃ, duṭṭhaṃ dosena phandamānaṃ, mūḷhaṃ mohena phandamānaṃ, vinibaddhaṃ mānena phandamānaṃ, parāmaṭṭhaṃ diṭṭhiyā phandamānaṃ, vikkhepagataṃ uddhaccena phandamānaṃ, aniṭṭhāgataṃ vicikicchāya phandamānaṃ, thāmagataṃ anusayehi phandamānaṃ, lābhena phandamānaṃ, alābhena phandamānaṃ, yasena phandamānaṃ, ayasena phandamānaṃ, pasaṃsāya phandamānaṃ, nindāya phandamānaṃ, sukhena phandamānaṃ, dukkhena phandamānaṃ, jātiyā phandamānaṃ, jarāya phandamānaṃ, byādhinā phandamānaṃ, maraṇena phandamānaṃ, soka-parideva-dukkha-domanassūpāyāsehi phandamānaṃ, nerayikena dukkhena phandamānaṃ, tiracchānayonikena dukkhena phandamānaṃ, pettivisayikena dukkhena phandamānaṃ, –– mānusikena dukkhena phandamānaṃ, gabbhokkantimūlakena dukkhena – gabbhaṭṭhitimūlakena dukkhena – gabbhavuṭṭhānamūlakena dukkhena – jātassūpanibandhakena dukkhena – jātassa parādheyyakena dukkhena attūpakkamena dukkhena – parūpakkamena dukkhena – dukkhadukkhena saṅkhāradukkhena – vipariṇāmadukkhena – cakkhurogena dukkhena sotarogena – ghānarogena – jivhārogena – kāyarogena – sīsarogena – kaṇṇarogena – mukharogena – dantarogena – kāsena – pināsena – ḍahena – jarena – kucchirogena – mucchāya – pakkhandikāya – sūlāya – visūcikāya – kuṭṭhena – gaṇḍena – kilāsena – sosena – apamārena – dadduyā – kaṇḍuyā – kacchuyā – nakhasāya – vitacchikāya – lohitapittena – madhumehena – aṃsāya – piḷakāya – bhagandalena – pittasamuṭṭhānena ābādhena – semhasamuṭṭhānena ābādhena – vātasamuṭṭhānena ābādhena – sannipātikena ābādhena – utupariṇāmajena ābādhena – visamaparihārajena ābādhena – opakkamikena ābādhena – kammavipākajena ābādhena – sītena – uṇhena – jighacchāya – pipāsāya – uccārena – passāvena – ḍaṃsamakasavātātapasiriṃsapa -samphassena dukkhena – mātumaraṇena dukkhena – pitumaraṇena dukkhena – bhātumaraṇena dukkhena – bhaginimaraṇena dukkhena – puttamaraṇena dukkhena – dhītumaraṇena dukkhena – ñātimaraṇena dukkhena – bhogavyasanena dukkhena – rogavyasanena dukkhena – sīlavyasanena dukkhena – diṭṭhivyasanena dukkhena phandamānaṃ samphandamānaṃ viphandamānaṃ vedhamānaṃ pavedhamānaṃ sampavedhamānaṃ. Disvā ’ti disvā passitvā tulayitvā tīrayitvā vibhāvayitvā vibhūtaṃ katvā ’ti – phandamānaṃ pajaṃ disvā.
Macche appodake yathā ’ti – Yathā macchā appodake udakapariyādāne kākehi vā kulalehi vā balākāhi vā paripātiyamāni ukkhipiyamānā khajjamānā phandanti samphandanti vipphandanti vedhanti pavedhanti sampavedhanti; evamevaṃ pajā taṇhāphandanāya phandanti ―pe― diṭṭhivyasanena dukkhena phandanti samphandanti vipphandanti vedhanti pavedhanti sampavedhantī14 ’ti – macche appodake yathā.
Aññamaññehi byāruddhe ’ti – Aññamaññaṃ sattā viruddhā paṭiviruddhā āhatā paccāhatā āghātitā paccāghātitā rājānopi rājūhi vivadanti, khattiyāpi khattiyehi vivadanti, brāhmaṇāpi brāhmaṇehi vivadanti, gahapatīpi gahapatīhi vivadanti, mātāpi puttena vivadati, puttopi mātarā vivadati, pitāpi puttena vivadati, puttopi pitarā vivadati, bhātāpi bhātarā vivadati, bhaginīpi bhaginiyā vivadati, bhātāpi bhaginiyā vivadati –– bhaginīpi bhātarā vivadati, sahāyopi sahāyena vivadati. Te tattha kalahaviggahavivādāpannā aññamaññaṃ pāṇīhipi upakkamanti, leḍḍūhipi upakkamanti, daṇḍehipi upakkamanti, satthehipi upakkamanti. Te tattha maraṇampi nigacchanti, maraṇamattampi dukkhan ’ti – aññamaññehi byāruddhe.
Disvā maṃ bhayamāvisī ’ti – Disvā ’ti disvā passitvā tulayitvā tīrayitvā vibhāvayitvā vibhūtaṃ katvā bhayaṃ pīḷanaṃ ghaṭṭanaṃ upaddavo upassaggo āvisī ’ti – disvā maṃ bhayamāvisi.
Sau khi nhìn thấy nhân loại đang chao động.
Nhân loại: Là từ gọi chúng sanh. Nhân loại đang chao động với sự chao động bởi tham ái, đang chao động với sự chao động bởi tà kiến, đang chao động với sự chao động bởi ô nhiễm, đang chao động với sự chao động bởi uế hạnh, đang chao động với sự chao động bởi sự ra sức, đang chao động với sự chao động bởi nghiệp quả; kẻ bị luyến ái đang chao động bởi luyến ái, kẻ bi sân hận đang chao động bởi sân hận, kẻ bị si mê đang chao động bởi si mê, kẻ bị trói buộc đang chao động bởi ngã mạn, kẻ bi tán loạn đang chao động bởi sự phóng dật, kẻ không dứt khoát đang chao động bởi hoài nghi, kẻ cứng cỏi đang chao động bởi các pháp tiềm ẩn, đang chao động bởi lợi lộc, đang chao động bởi không lợi lộc, đang chao động bởi danh vọng, đang chao động bởi không danh vọng, đang chao động bởi lời khen, đang chao động bởi tiếng chê, đang chao động bởi hạnh phúc, đang chao động bởi khô đau, đang chao động bởi sanh, đang chao động bởi già, dang chao động bởi bệnh, đang chao động bởi chết, đang chao động bởi sầu-bi-khô-iru-não9 đang chao động bởi khô ở địa ngục, đang chao động bởi khổ ở loài thú9 đang chao động bởi khổ ở thân phận nga quỷ, đang chao động bởi khổ của loài người,… bởi khổ bắt nệuồn từ việc nhập thai,… bởi khô băt nguôn từ việc trụ thai,… bởi khô bát nguôn từ việc ra khỏi thai,… bởi kho gắn liền sau khi sanh ra,… bởi khổ do kẻ khác áp đặt sau khi sanh ra5… bởi khổ do sự ra sức của bản thân,… bởi khổ do sự ra sức của kẻ khác,… bởi khổ do [thọ] khổ,… bởi khổ do pháp tạo tác,… bởi khổ do sự biến đổi?… bởi khổ do bệnh ở mắt,..・ do bệnh ở tai trong,… do bệnh ở mũi,… do bệnh ở lưỡi,… do bệnh ở thân,… do bệnh ở đầu,… do bệnh ở lỗ tai,… do bệnh ở miệng,… do bệnh ở răng,… bởi ho,… bởi suyễn,… bởi sổ mũi,… bởi nhiệt,… bởi cảm sốt,… bởi đau bụng,..・ bởi xây xẩm,… bởi kiết lỵ,… bởi đau bụng bão,… bởi dịch tả,… bởi phong cùi,… bởi khối u,… bởi bệnh chàm,… bởi lao phổi,… bởi động kinh,… bởi mụt,… bởi nhọt,… bởi ghẻ ngứa,… bởi sảy,… bởi loét tay chân,..・ bởi máu,… bởi mật,… bởi bệnh tiểu đường,… bởi bệnh trĩ?… bởi ghẻ lở5… bởi loét hậu mônv.. bởi bệnh phát khởi từ mật,… bởi bệnh phát khởi từ dàm,・.・ bởi bệnh phát khởi từ gió,… bởi bệnh tổng hợp do mật-đàm-gió,… bởi bệnh sanh lên vì thay đổi thời tiết,… bởi bệnh sanh lên vì bôn oai nghi không đông đêu,… bởi bệnh thuộc dạng cáp tính,… bởi bệnh sanh lên vì quả của nghiệp,… bởi lạnh,… bởi nóng,… bởi đói,… bởi khát,… bởi đại tiện,… bởi tiểu tiện,… bởi khổ do sự xúc chạm với ruồi, muỗi, gió, nắng và các loài bò sát,..・ bởi khổ do cái chết của mẹ,..・ bởi khổ do cái chết của cha,… bởi kho do cái chết của anh [em] trai,… bởi kho do cái chết của chị [em] gái,… bởi khổ do cái chết của con trai,… bởi khổ do cái chết của con gái,..・ bởi khổ do cái chết của thân quyến,… bởi khổ do sự tổn hại về của cải,… bởi khổ do sự tôn hại vì bệnh tật,… bởi khô do sự tôn hại vê giới, đang chao động bởi khô do sự tổn hại về kiến thức, đang lay động, đang xáo động, đang run rẩy, đang chấn động, đang rúng động.
Sau khi nhìn thây: Sau khi nhìn thây, sau khi nhìn xem, sau khi cân nhác, sau khi xác định, sau khi minh đinh, sau khi làm rõ rệt.
“Sau khi nhìn thấy nhân loại đang chao động” là như thế.
Tựa như những con cá ờ chỗ ít nước: Giống như những con cá ở chỗ ít nước, ở chỗ kiệt nước, trong khi bi những con quạ, những con diều hâu, những con cò tấn công, tha di, rỉa rói, chúng chao động, lay động, xáo động, run rẩy, chấn động, rúng động; tương tự như vậy, nhân loại chao độnẹ do sự chao động bởi tham ái… (nt)..・ chao động bởi khổ do sự tổn hại về kiên thức, lay động, xáo động, run rẩy, chấn động, rúng động.
“Tựa như những con cá ở chỗ ít nuGc” là như thế.
Chúng chống đối lẫn nhau: Chúng sanh chống đối, đối chọi, hằn học, thù hằn, căm hờn, thù hận lẫn nhau: Các vị vua tranh cãi với các vị vua, các Sát-đế- lỵ tranh cãi với các Sát-đê-lỵ, các Bà-la-môn tranh cãi với các Bà-la-môn, các gia chủ tranh cãi với các gia chủ, mẹ tranh cãi với con trai, con trai tranh cãi với mẹ, cha tranh cãi với con trai, con trai tranh cãi với cha, anh [em] trai tranh cãi với anh [em] trai, chị [em] gái tranh cãi với chi [em] gái, anh [em] trai tranh cãi với chi em] ệấi9 chi [em] gái tranh cãi với anh [em] trai, bạn bè tranh cãi với bạn bè. Tại nơi ây, chúng đạt đến sự cãi cọ, sự cãi vã? sự tranh cãi, rồi công kích lẫn nhau bằng những bàn tay, công kích lẫn nhau bằng những cục đất, công kích lẫn nhau bằng những gậy gộc, công kích lẫn nhau băng những ẹươm dao. Tại nơi ấy, chúng đi đến cái chết, thậm chí sự khổ đau kề cận cái chét.
“Chúng chống đối lẫn nhau” là như thế.
Sau khi nhìn thấy, sự sự hãi đã tiến đến Ta.
Sau khi nhìn thấy: Sau khi nhìn thấy, sau khi nhìn xem, sau khi cân nhắc, sau khi xác định, sau khi minh định, sau khi làm rõ rệt, sự sợ hãi, sự hành hạ? sự đụng chạm, sự bất hạnh, sự nguy cơ đã tiến đến.
“Sau khi nhìn thấy, sự sợ hãi đã tiến đến Ta” là như thế.
Tenāha bhagavā: “Phandamānaṃ pajaṃ disvā macche appodake yathā, aññamaññehi byāruddhe disvā maṃ bhayamāvisī ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Sau khi nhìn thấy nhân loại đang chao động tựa như những con cá ở chỗ ít nước, sau khi nhìn thấy chúng chống đối lẫn nhau, sự sợ hãi đã xâm nhập Ta.”
15.3
Samantamasāro loko disā sabbā sameritā, icchaṃ bhavanamattano nāddasāsiṃ anositaṃ.
Toàn bộ thế giới là không có cốt lõi, tất cả các phương đều bị chuyển động. Trong khi ước muốn chỗ trú ngụ cho bản thân, Ta đã không nhìn thấy (một nơi nào là) không bị áp chế.
Ðời toàn không lõi cây,
Mọi phương đều dao động
Muốn cho mình ngôi nhà,
Ta không thấy nhà ở.
(Kinh Tập, câu kệ 937)
Samantamasāro loko ’ti – Loko ’ti nirayaloko tiracchānayoniloko pettivisayaloko manussaloko devaloko khandhaloko dhātuloko āyatanaloko ayaṃ loko paro loko brahmaloko devaloko; ayaṃ vuccati loko. Nirayaloko asāro nissāro sārāpagato niccasārasārena vā sukhasārasārena vā attasārasārena vā niccena vā dhuvena vā sassatena vā avipariṇāmadhammena vā. Tiracchānāyoniloko – pettivisayaloko6 – manussaloko – devaloko – khandhaloko – dhātuloko – āyatanaloko – ayaṃ loko paro loko brahmaloko – devaloko asāro nissāro sārāpagato niccasārasārena vā sukhasārasārena vā attasārasārena vā niccena vā dhuvena vā sassatena vā avipariṇāmadhammena vā.
Yathā pana naḷo asāro nissāro sārāpagato, yathā eraṇḍo asāro nissāro sārāpagato, yathā udumbaro asāro nissāro sārāpagato, yathā setakaccho asāro nissāro sārāpagato, yathā pāribhaddako asāro nissāro sārāpagato, yathā pheṇapiṇḍo asāro nissāro sārāpagato, yathā udakabubbuḷakaṃ asāraṃ nissāraṃ sārāpagataṃ, yathā marīci asāro nissāro sārāpagato, yathā kadalikkhandho asāro nissāro sārāpagato, yathā māyā asārā nissārā sārāpagatā, evameva nirayaloko asāro nissāro sārāpagato niccasārasārena vā sukhasārasārena vā attasārasārena vā niccena vā dhuvena vā sassatena vā avipariṇāmadhammena vā; –– tiracchānayoniloko – pettivisayaloko manussaloko – devaloko asāro nissāro sārāpagato niccasārasārena vā sukhasārasārena vā attasārasārena vā niccena vā dhuvena vā sassatena vā avipariṇāmadhammena vā. Khandhaloko – dhātuloko – āyatanaloko – ayaṃ loko – paro loko – brahmaloko – devaloko asāro nissāro sārāpagato niccasārasārena vā sukhasārasārena vā attasārasārena vā niccena vā dhuvena vā sassatena vā avipariṇāmadhammena vā ’ti – samantamasāro loko.
Disā sabbā sameritā ’ti – Ye puratthimāya disāya saṅkhārā, tepi eritā sameritā calitā ghaṭṭitā aniccatāya, jātiyā anugatā, jarāya anusaṭā, byādhinā abhibhūtā, maraṇena abbhāhatā, dukkhe patiṭṭhitā, atāṇā alenā asaraṇā asaraṇībhūtā. Ye pacchimāya disāya saṅkhārā – Ye uttarāya disāya saṅkhārā – Ye dakkhiṇāya disāya saṅkhārā – Ye puratthimāya anudisāya saṅkhārā – Ye pacchimāya anudisāya saṅkhārā – Ye uttarāya anudisāya saṅkhārā – Ye dakkhiṇāya anudisāya saṅkhārā – Ye heṭṭhimāya disāya saṅkhārā – Ye uparimāya disāya saṅkhārā – Ye dasasu disāsu saṅkhārā, tepi eritā sameritā calitā ghaṭṭitā aniccatāya, jātiyā anugatā, jarāya anusaṭā, byādhinā abhibhūtā, maraṇena abbhāhatā dukkhe patiṭṭhitā, atāṇā alenā asaraṇā asaraṇībhūtā.
Toàn bộ thế giới là không có cốt lõi.
Thế giới: Thế giới địa ngục, thế giới loài thú, thế giới nga quỷ, thế giới loài người, thế giới chư thiên, thế giới của các uẩn, thế giới của các giới, thế giới của các xứ, thế giới này, thế giới khác, thế giới Phạm thiên, thế giới chư thiên; đây gọi là thế giới. The giới địa ngục là khônệ có cốt lõi, là thiếu mất cốt lõi, là rời xa cốt lõi so với cái cốt lõi được gọi là cót lõi thường còn, hoặc so với cái cốt lõi được gọi là cốt lõi an lạc, hoặc so với cái cốt lõi được gọi là cốt lõi tự ngã, hoặc theo nghĩa thường còn, hoặc theo nệhĩa bền vững, hoặc theo nghĩa trường tồn, hoặc so với tình trạng không bị biên đổi. Thế giới loài thú… Thế giới nga quỷ… Thế giới loài người… Thế giới chư thiên… Thế giới của các Uẩn… Thế gi&i của các giới… Thế giới của các xứ… Thế giới này… Thế giới khác… Thế giới Phạm thiên..・ Thế giới chư thiên là không có cốt lõi, là thiếu mát cót lõi, là rời xa cót lõi so với cái cót lõi được gọi là cót lõi thường còn, hoặc so với cái cốt lõi được gọi là cốt lõi an lạc, hoặc so với cái cốt lõi được gọi là cốt lõi tự ngã, hoặc theo nghĩa thường còn, hoặc theo nghía bền vững, hoặc theo nghĩa trường tồn, hoặc so với tình trạng không bị biên đổi.
Giống như cây sậy là không có cốt lõi, là thiếu mất cốt lõi, là rời xa cốt lõi; giống như cây đu đủ là không có cốt lõi, là thiếu mất cốt lõi, là rời xa cốt lõi; giống như cây sung là không có cốt lõi, là thiếu mất cốt lõi, là rời xa cốt lõi; giống như cây san hô là không có cốt lõi, là thiếu mất cốt lõi, là rời xa cốt lõi; giống như cây pâribhaddaka là không có cốt lõi, là thiếu mất cốt lõi, là rời xa cốt lõi; giống như bọt nước là không có cốt lõi, là thiếu mất cốt lối, là rời xa cốt lõi; giống như bong bóng nước là không có cốt lõi, là thiếu mất cốt lõi, là rời xa cót lõi; gi6ng như ảo ảnh là không có cốt lõi, là thiếu mất cốt lõi, là rời xa cốt lõi; giong như thân cây chuối là không có cốt lõi, là thiếu mất cốt lõi, là rời xa cốt lõi; giống như xảo thuật là không có cốt lõi, là thiếu mất cốt lối, là rời xa cốt lõi; tương tự như vậy, thế giới địa ngục là không có cốt lõi5 là thiếu mất cốt lõi, là rời xa cốt lõi so với cái cốt lõi được gọi là cốt lõi thường còn, hoặc so với cái cót lõi được gọi là cót lõi an lạc, hoặc so với cái cót lõi được gọi là cốt lõi tự ngã, hoặc theo nghĩa thường còn, hoặc theo nghĩa vững chắc, hoặc theo nghĩa trường tồn, hoặc so với tình trạng không bị biến đổi. Thế giới loài thú… Thế giới nga quỷ… Thế giới loài người… Thế giới chư thiên là không có cốt lõi, là thiếu mất cốt lõi, là rời xa cốt lõi so với cái cốt lõi được gọi là cốt lõi thường còn, hoặc so với cái cốt lõi được gọi là cốt lõi an lạc, hoặc so với cái cốt lõi được gọi là cốt lõi tự ngã, hoặc theo nghĩa thường còn, hoặc theo nghĩa vững chắc, hoặc theo nghĩa trường tồn, hoặc so với tình trạng không bị biến đổi. Thế giới của các uẩn… Thế giới của các giới… Thế giới của các xứ… Thế giới này… Thế giới khác… Thế giới Phạm thiên… Thế giới chư thiên là không có cốt lõi, là thiếu mất cốt lõi, là rời xa cốt lõi so với cái cót lõi được gọi là cót lõi thường còn, hoặc so với cái cót lõi được gọi là cốt lõi an lạc, hoặc so với cái cốt lõi được gọi là cốt lõi tự ngã, hoặc theo nghĩa thường còn, hoặc theo nghĩa vững chắc, hoặc theo nghĩa trường tồn, hoặc so với tình trạng không bị biến đổi.
“Toàn bộ thế giới là không có cốt Iõi” là như thế.
Tất cả các phương đều bỉ chuyển động: Các pháp tạo tác nào ở phương Đông, chúng đều bị di động, bị chuyển động, bị dao động, bị đụng chạm bởi tính chất vô thường, bị theo sau bởi sanh, bị đeo đuổi bởi già, bi ngự tri bởi bệnh, bị hành hạ bởi chết, được thiết lập ở khổ, là không nơi nương náu, không nơi trú ẩn, không nơi nương nhờ, có trạng thái không nơi nương nhờ. Các pháp tạo tác nào ở phương Tây… Các pháp tạo tác nào ở phương Bắc… Các pháp tạo tác nào ở phương Nam… Các pháp tạo tác nào ở phương Đông Nam… Các pháp tạo tác nào ở phương Tây Bắc… Các pháp tạo tác nào ở phương Đông Băc… Các pháp tạo tác nào ở phương Tây Nam… Các pháp tạo tác nào ở phương dưới… Các pháp tạo tác nào ở phương trên… Các pháp tạo tác nào ở mười phương, chúng đều bị di động, bi chuyển động, bị dao động, bi đụng chạm bởi tính chất vô thường, bị theo sau bởi sanh, bị đeo đuổi bởi già, bị ngự trị bởi bệnh, bi hành hạ bởi chết, được thiết lập ở khổ, là không nơi nương náu, là không nơi trú ẩn, là không nơi nương nhờ, có trạng thái không nơi nương nhờ.
Bhāsitampi cetaṃ: 1. “Kiñcāpi tetaṃ jalate vimānaṃ obhāsayaṃ uttarassaṃ disāyaṃ, rūpe raṇaṃ disvā sadā pavedhitaṃ tasmā na rūpe ramatī sumedho.”
Và điều này cũng đã được nói đến: 1. “Mặc dầu cung điện ấy của ngài rực sáng, trong khi đang chiếu sáng ở phương bắc. Sau khi nhìn thấy khuyết tật ở sắc, luôn luôn biến đổi, vì thế, bậc Thiện Trí không vui thích ở sắc.”
2. “Maccunābbhāhato loko jarāya parivārito, taṇhāsallena otiṇṇo icchādhūmāyito sadā.”
2. “Thế gian bị hành hạ bởi sự chết, bị bao trùm bởi sự già, bị đâm vào bởi mũi tên tham ái, luôn luôn cháy âm ỉ bởi ước muốn.”
3. “Sabbo ādīpito loko sabbo loko padhūpito, sabbo pajjalito loko sabbo loko pakampito ”ti; – disā sabbā sameritā
3. Toàn bộ thế giới bị đốt cháy, toàn bộ thế giới bị bốc khói, toàn bộ thế giới bị phát cháy, toàn bộ thế giới bị lay động.” – ‘tất cả các phương đều bị chuyển động’ là như thế.
Icchaṃ bhavanamattano ’ti – Attano bhavanaṃ tāṇaṃ lenaṃ saraṇaṃ gatiṃ parāyanaṃ icchanto sādiyanto patthayanto pihayanto abhijappanto ’ti – icchaṃ bhavanamattano.
Nāddasāsiṃ anositan ’ti – Ajjhositaṃ yeva addasaṃ, anajjhositaṃ nāddasaṃ. Sabbaṃ yobbaññaṃ jarāya ositaṃ, sabbaṃ ārogyaṃ byādhinā ositaṃ, sabbaṃ jīvitaṃ maraṇena ositaṃ, sabbaṃ lābhaṃ alābhena ositaṃ, sabbaṃ yasaṃ ayasena ositaṃ, sabbaṃ pasaṃsaṃ nindāya ositaṃ, sabbaṃ sukhaṃ dukkhena ositaṃ.
4. “Lābho alābho ayaso yaso ca nindā pasaṃsā ca sukhaṃ dukhañca, ete aniccā manujesu dhammā asassatā vipariṇāmadhammā ”ti; – nāddasāsiṃ anositaṃ.
4. “Lợi lộc và không lợi lộc, không danh tiếng và danh tiếng, khen ngợi và chê bai, hạnh phúc và khổ đau,các pháp này ở nơi loài người là vô thường, không trường tồn, có tánh chất biến đổi;”
– ‘Ta đã không nhìn thấy (một nơi nào là) không bị áp chế’ là như thế.
Tenāha bhagavā: “Samantamasāro loko disā sabbā sameritā, icchaṃ bhavanamattano nāddasāsiṃ anositan ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Toàn bộ thế giới là không có cốt lõi, tất cả các phương đều bị chuyển động.Trong khi ước muốn chỗ trú ngụ cho bản thân, Ta đã không nhìn thấy (một nơi nào là) không bị áp chế.”
15.4
Osāne tveva byāruddhe disvā me aratī ahu, athettha sallamaddakkhiṃ duddasaṃ hadayassitaṃ.
“Nhưng sau khi nhìn thấy chúng chống chõi ở giai đoạn kết thúc, sự chán ngán đã khởi lên ở Ta. Và ở đây, Ta đã nhìn thấy mũi tên khó thể nhìn thấy đã được cắm vào trái tim (tâm thức).
Cuối cùng là xung đột,
Thấy vậy Ta chán ngắt,
Ðây Ta thấy mũi tên,
Khó thấy, gắn vào tim.
(Kinh Tập, câu kệ 938)
Osāne tveva byāruddhe ’ti – Osāne tvevā ’ti sabbaṃ yobbaññaṃ jarā osāpeti; sabbaṃ ārogyaṃ byādhi osāpeti; sabbaṃ jīvitaṃ maraṇaṃ osāpeti; sabbaṃ lābhaṃ alābho osāpeti; sabbaṃ yasaṃ ayaso osāpeti; sabbaṃ pasaṃsaṃ nindā osāpeti; sabbaṃ sukhaṃ dukkhaṃ osāpetī ’ti – osāne tveva. Byāruddhe ’ti yobbaññakāmā sattā jarāya paṭiviruddhā; ārogyakāmā sattā byādhinā paṭiviruddhā; jīvitukāmā sattā maraṇena paṭiviruddhā; lābhakāmā sattā alābhena paṭiviruddhā; yasakāmā sattā ayasena paṭiviruddhā; pasaṃsākāmā sattā nindāya paṭiviruddhā; sukhakāmā sattā dukkhena paṭiviruddhā āhatā paccāhatā āghātitā paccāghātitā ’ti – osāne tveva byāruddhe.
Disvā me aratī ahū ’ti – Disvā ’ti disvā passitvā tulayitvā tīrayitvā vibhāvayitvā vibhūtaṃ katvā ’ti – disvā. Me aratī ’ti yā arati yā anabhirati yā anabhiramaṇā yā ukkaṇṭhitatā yā paritasitā ahū ’ti – disvā me aratī ahu.
Athettha sallamaddakkhin ’ti – Athā ’ti padasandhi –pe– padānupubbatā metaṃ athāti. Etthā ’ti sattesu. Sallan ’ti satta sallāni: rāgasallaṃ dosasallaṃ mohasallaṃ mānasallaṃ diṭṭhisallaṃ sokasallaṃ kathaṅkathāsallaṃ. Addakkhin ’ti addasaṃ adakkhiṃ apassiṃ paṭivijjhin ’ti – athettha sallamaddakkhiṃ.
Duddasaṃ hadayassitan ’ti – Duddasan ’ti duddasaṃ duddakkhaṃ duppassaṃ dubbujjhaṃ duranubujjhaṃ duppaṭivijjhan ’ti – duddasaṃ. Hadayassitan ’ti hadayaṃ vuccati cittaṃ; yaṃ cittaṃ mano mānasaṃ hadayaṃ paṇḍaraṃ mano manāyatanaṃ manindriyaṃ viññāṇaṃ viññāṇakkhandho tajjā manoviññāṇadhātu; hadayassitaṃ hadayanissitaṃ cittasitaṃ cittanissitaṃ cittena sahajātaṃ sahagataṃ saṃsaṭṭhaṃ sampayuttaṃ ekuppādaṃ ekanirodhaṃ ekavatthukaṃ ekārammaṇan ’ti – duddasaṃ hadayassitaṃ.
Chúng chống chọi ờ giai đoạn kết thúc.
ở giai đoạn kết thúc: Sự già kết thúc mọi trạng thái trẻ trung, bệnh hoạn két thúc mọi trạng thái khỏe mạnh, cái chét két thúc mọi sự sông, không lợi lộc kết thúc mọi lợi lộc, kh6ng danh vọng kết thúc mọi danh vọng, sự chê bai kết thúc mọi sự khen ngợi, khô đau két thúc mọi hạnh phúc. “ơ giai đoạn két thúc” là như thế.
Chúng chông chọi: Các chúng sanh có sự ham muôn trạng thái trẻ trung đối chọi với sự già, các chúng sanh có sự ham muốn trạng thái khỏe mạnh đối chọi với bệnh hoạn, các chúng sanh có sự ham muốn sự sống đối chọi với cái chết, các chúng sanh có sự ham muốn lợi lộc đối chọi với không lợi lộc, các chúng sanh có sự ham muốn danh vọng đoi chọi với không danh vọng, các chúng sanh có sự ham muốn sự khen ngợi đối chọi với sự chê bai, các chúng sanh có sự ham muốn hạnh phúc đối chọi với khổ đau; chúng hằn học, thù hằn, căm hờn, thù hận.
“Chúng chống chọi ở giai đoạn kết thúc” là như thế.
Sau khi nhìn thấy, sự không ưa thích đã khối lên ở Ta.
Sau khi nhìn thấy: Sau khi nhìn thấy, sau khi nhìn xem, sau khi cân nhắc, sau khi xác định, sau khi minh định, sau khi làm rõ rệt. “Sau khi nhìn thấy” là như thế.
Sư không ưa thích [đã khởi lên] ờ Ta: Sự không ưa thích, sự không thích thú, biểu hiện không thích thú, trạng thái ngao ngán, sự chán ngấy đã khởi lên.
“Sau khi nhìn thấy, sự không ưa thích đã khởi lên ở Ta” là như thế.
Và ờ dây, Ta đã nhìn thấy mũi tên.
r 9 y 匚 y
Và: Từ “athd’ này là sự nôi liên các câu văn… (nt)… tính chát tuân tự của các câu văn.
ở đây: ở các chúng sanh.
Mũi tên: Có bảy mũi tên: Mũi tên luyến ái, mũi tên sân hận, mũi tên si mê, mũi tên ngã mạn, mũi tên tà kiến, mũi tên sầu muộn, mũi tên nghi hoặc.
Ta đã nhìn thấy: Ta đã nhìn xem, Ta đã nhìn thấy, Ta đã nhận thấy, Ta đã thấu triệt.
“Và ở đây, Ta đã nhìn thấy mũi tên,, là như thế.
Khó có thể nhìn thấy đã được cắm vào trái tim (tâm thức).
Khó có thể nhìn thấy: Khó nhìn thấy, khó nhận thấy, khó nhìn xem, khó hiểu biết, khó thấu hiểu, khó thấu triệt. “Khó có thể nhìn thấy” là như thế.
Đã được cắm vào trái tim: Trái tim nói đến tâm; tâm tức là ý, ý thức, trói tim, chất xám; ý9 ý xứ, ý quyền, thức, thức uẩn; từ đó ý thức giới sanh lên; đã được cắm vào trái tim, đã được nương vào trái tim, đã được cắm vào tâm, đã được nương vào tâm, là đồng hành, đồng sanh, được gắn bó, được gắn liền, cùng sanh, cùng diệt, chung một nên tảng, chung một đôi tượng với tâm.
uKhó có thể nhìn thấy đã được cắm vào trái tim (tâm thiìc)” là như thế.
Tenāha bhagavā: “Osāne tveva byāruddhe disvā me aratī ahu, athettha sallamaddakkhiṃ duddasaṃ hadayassitan ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Nhưng sau khi nhìn thấy chúng chống chõi ở giai đoạn kết thúc, sự chán ngán đã khởi lên ở Ta. Và ở đây, Ta đã nhìn thấy mũi tên khó thể nhìn thấy đã được cắm vào trái tim (tâm thức).”
15.5
Yena sallena otiṇṇo disā sabbā vidhāvati, tameva sallamabbuyha na dhāvati na sīdati.
Ai bị mũi tên đâm,
Chạy khắp mọi phương hướng,
Ai rút mũi tên ra,
Không chạy, liền ngồi xuống.
(Kinh Tập, câu kệ 939)
Yena sallena otiṇṇo disā sabbā vidhāvatī ’ti – Sallan ’ti satta sallāni: rāgasallaṃ dosasallaṃ mohasallaṃ mānasallaṃ diṭṭhisallaṃ sokasallaṃ kathaṅkathāsallaṃ.
Katamā rāgasallaṃ? Yo rāgo sārāgo anunayo anurodho nandirāgo cittassa sārāgo –pe– abhijjhā lobho akusalamūlaṃ; idaṃ rāgasallaṃ.
Katamaṃ dosasallaṃ? Anatthaṃ me acarīti āghāto jāyati, anatthaṃ me caratīti āghāto jāyati, anatthaṃ me carissatī ’ti āghāto jāyati –pe– caṇḍikkaṃ asuropo anattamanatā cittassa; idaṃ dosasallaṃ.
Katamaṃ mohasallaṃ? Dukkhe aññāṇaṃ –pe– dukkhanirodhagāminiyā paṭipadāya aññāṇaṃ, pubbante aññāṇaṃ, aparante aññāṇaṃ, pubbantāparante aññāṇaṃ, idappaccayatāpaṭiccasamuppannesu dhammesu aññāṇaṃ, yaṃ evarūpaṃ adassanaṃ anabhisamayo ananubodho asambodho appaṭivedho asaṅgāhanā apariyogāhanā asamapekkhanā apaccavekkhanā apaccakkhakammaṃ dummejjhaṃ bālyaṃ moho pamoho sammoho avijjā avijjogho avijjāyogo avijjānusayo avijjāpariyuṭṭhānaṃ avijjālaṅgī moho akusalamūlaṃ; idaṃ mohasallaṃ.
Katamaṃ mānasallaṃ? Seyyohamasmīti māno, sadisohamasmīti māno, hīnohamasmīti māno; yo evarūpo māno maññanā maññitattaṃ unnati unnamo dhajo sampaggāho ketukamyatā cittassa; idaṃ mānasallaṃ
Katamaṃ diṭṭhisallaṃ? Vīsativatthukā sakkāyadiṭṭhi, dasavatthukā micchādiṭṭhi, dasavatthukā antaggāhikā diṭṭhi; yā evarūpā diṭṭhi diṭṭhigataṃ diṭṭhigahanaṃ diṭṭhikantāro diṭṭhivisūkāyikaṃ diṭṭhivipphanditaṃ diṭṭhisaññojanaṃ gāho patiṭṭhāho abhiniveso parāmāso kummaggo micchāpatho micchattaṃ titthāyatanaṃ vipariyesagāho viparītagāho vipallāsagāho micchāgāho ayāthāvatasmiṃ yāthāvatanti gāho yāvatā dvāsaṭṭhi diṭṭhigatāni; idaṃ diṭṭhisallaṃ.
Katamaṃ sokasallaṃ? Ñātivyasanena vā phuṭṭhassa bhogavyasanena vā phuṭṭhassa rogavyasanena vā phuṭṭhassa sīlavyasanena vā phuṭṭhassa diṭṭhivyasanena vā phuṭṭhassa aññataraññatarena vyasanena samannāgatassa aññataraññatarena dukkhadhammena phuṭṭhassa soko socanā socitattaṃ antosoko antoparisoko antodāho antoparidāho cetaso parijjhāyanā domanassaṃ ; idaṃ sokasallaṃ.
Katamaṃ kathaṅkathāsallaṃ? Dukkhe kaṅkhā dukkhasamudaye kaṅkhā dukkhanirodhe kaṅkhā dukkhanirodhagāminiyā paṭipadāya kaṅkhā pubbante kaṅkhā aparante kaṅkhā pubbantāparante kaṅkhā idappaccayatāpaṭiccasamuppannesu dhammesu kaṅkhā, yā evarūpā kaṅkhā kaṅkhāyanā kaṅkhāyitattaṃ vimati vicikicchā dveḷhakaṃ dvedhāpatho saṃsayo anekaṃsagāho āsappanā parisappanā apariyogāhanā chambhitattaṃ cittassa manovilekho; idaṃ kathaṅkathāsallaṃ.
Yena sallena otiṇṇo disā sabbā vidhāvatī ’ti – Rāgasallena otiṇṇo viddho phuṭṭho pareto samohito samannāgato kāyena duccaritaṃ carati, vācāya duccaritaṃ carati, manasā duccaritaṃ carati, pāṇampi hanti, adinnampi ādiyati, sandhimpi chindati, nillopampi harati, ekāgārikampi karoti, paripanthepi tiṭṭhati, paradārampi gacchati, musāpi bhaṇati. Evampi rāgasallena otiṇṇo viddho phuṭṭho pareto samohito samannāgato dhāvati vidhāvati saṃdhāvati saṃsarati. Athavā rāgasallena otiṇṇo viddho puṭṭho pareto samohito samannāgato bhoge pariyesanto nāvāya mahāsamuddaṃ pakkhandati: sītassa purakkhato uṇhassa purakkhato ḍaṃsamakasavātātapasiriṃsapasamphassehi rissamāno khuppipāsāhi mīyamāno tigumbaṃ gacchati, takkolaṃ gacchati, takkasilaṃ gacchati, kālamukhaṃ gacchati, parammukhaṃ gacchati, vesuṅgaṃ gacchati, verāpathaṃ gacchati, javaṃ gacchati, tāmaliṃ gacchati, vaṅgaṃ gacchati, eḷavaddhanaṃ gacchati, suvaṇṇakūṭaṃ gacchati, suvaṇṇabhūmiṃ gacchati, tambapaṇṇiṃ gacchati, suppārakaṃ gacchati, bharukacchaṃ gacchati, suraṭṭhaṃ gacchati, aṅgalokaṃ gacchati, gaṅgaṇaṃ gacchaṃ, paramagaṅgaṇaṃ gacchati, yonaṃ gacchati, paramayonaṃ gacchati, navakaṃ gacchati, mūlapadaṃ gacchati, marukantāraṃ gacchati, jaṇṇupathaṃ gacchati, ajapathaṃ gacchati, meṇḍapathaṃ gacchati, saṅkupathaṃ gacchati, chattapathaṃ gacchati, vaṃsapathaṃ gacchati, sakuṇapathaṃ gacchati, mūsikapathaṃ gacchati, darīpathaṃ gacchati, vettādhāraṃ gacchati. Pariyesanto na labhati, alābhamūlakampi dukkhaṃ domanassaṃ paṭisaṃvedeti. Pariyesanto labhati, laddhā ārakkhamūlakampi dukkhaṃ domanassaṃ paṭisaṃvedeti: ‘Kinti me bhoge neva rājāno hareyyuṃ, na corā hareyyuṃ, na aggi daheyya, na udakaṃ vaheyya, na appiyā dāyādā hareyyun ’ti? Tassa evaṃ ārakkhato gopayato te bhogā vippalujjanti. So vippayogamūlakampi dukkhaṃ domanassaṃ paṭisaṃvedeti. Evampi rāgasallena otiṇṇo viddho phuṭṭho pareto samohito samannāgato dhāvati vidhāvati saṃdhāvati saṃsarati.
Dosasallena – mohasallena – mānasallena otiṇṇo viddho phuṭṭho pareto samohito samannāgato kāyena duccaritaṃ carati, vācāya duccaritaṃ carati, manasā duccaritaṃ carati, pāṇampi hanti, adinnampi ādiyati, sandhimpi chindati, nillopampi harati, ekāgārikampi karoti, paripanthepi tiṭṭhati, paradārampi gacchati, musāpi bhaṇati. Evaṃ mānasallena otiṇṇo viddho phuṭṭho pareto samohito samannāgato dhāvati vidhāvati sandhāvati saṃsarati.
Diṭṭhisallena otiṇṇo viddho phuṭṭho pareto samohito samannāgato acelako hoti muttācāro hatthāpalekhano, na ehibhadantiko, na tiṭṭhabhadantiko, nābhihaṭaṃ na uddissa kataṃ na nimantanaṃ sādiyati. So na kumbhimukhā patigaṇhāti, na khaḷopimukhā patigaṇhāti, na eḷakamantaraṃ na daṇḍamantaraṃ na musalamantaraṃ na dvinnaṃ bhuñjamānānaṃ na gabbhiniyā na pāyamānāya na purisantaragatāya na saṅkittīsu, na yattha sā upaṭṭhito hoti, na yattha makkhikā saṇḍasaṇḍacārinī, na macchaṃ, na maṃsaṃ, na suraṃ, na merayaṃ, na thusodakaṃ pivati. So ekāgāriko vā hoti ekālopiko, dvāgāriko vā hoti dvālopiko –pe– sattāgāriko vā hoti sattālopiko. Ekissāpi dattiyā yāpeti, dvīhipi dattīhi yāpeti –pe– sattahipi dattīhi yāpeti. Ekāhikampi āhāraṃ āhāreti, dvāhikampi āhāraṃ āhāreti –pe– sattāhikampi āhāraṃ āhāreti. Iti evarūpaṃ aḍḍhamākikampi pariyāyabhattabhojanānuyogamanuyutto viharati. Evampi diṭṭhisallena otiṇṇo viddho phuṭṭho pareto samohito samannāgato dhāvati vidhāvati sandhāvati saṃsarati.
Athavā diṭṭhisallena otiṇṇo viddho phuṭṭho pareto samohito samannāgato so sākabhakkho vā hoti, sāmākabhakkho vā hoti, nīvārabhakkho vā hoti, daddulabhakkho vā hoti, haṭabhakkho vā hoti, kaṇabhakkho vā hoti, ācāmabhakkho vā hoti, piññākabhakkho vā hoti, tilabhakkho vā hoti, tiṇabhakkho vā hoti, gomayabhakkho vā hoti, vanamūlaphalāhāro vā yāpeti pavattaphalabhojano. So sāṇānipi dhāreti, masāṇānipi dhāreti, chavadussānipi dhāreti, paṃsukūlānipi dhāreti, –– tirīṭānipi dhāreti, ajinānipi dhāreti, ajinakkhipampi dhāreti, kusacīrampi dhāreti, vākacīrampi dhāreti, phalakacīrampi dhāreti, kesakambalampi dhāreti, vālakambalampi dhāreti, ulūkapakkhampi dhāreti, kesamassulocakopi hoti, kesamassulocanānuyogamanuyutto viharati. Ubbhaṭṭhakopi hoti āsanapaṭikkhitto, ukkuṭikopi hoti ukkuṭikappadhānamanuyutto, kaṇṭakāpassayikopi hoti, kaṇṭakāpassaye seyyaṃ kappeti, phalakaseyyampi kappeti, thaṇḍilaseyyampi kappeti, ekāpassayiko hoti rajojalladharo, abbhokāsiko hoti yathāsanthatiko, vekaṭikopi hoti vikaṭabhojanānuyogamanuyutto, apānakopi hoti apānabhattam anuyutto, sāyatatiyakampi udakorohanānuyogamanuyutto viharati. Iti evarūpaṃ anekavihitaṃ kāyassa ātāpanaparitāpanānuyogamanuyutto viharati. Evampi diṭṭhisallena otiṇṇo viddho phuṭṭho pareto samohito samannāgato dhāvati vidhāvati sandhāvati saṃsarati.
Sokasallena otiṇṇo viddho phuṭṭho pareto samohito samannāgato socati kilamati paridevati urattāḷiṃ kandati sammohaṃ āpajjati. Vuttaṃ hetaṃ bhagavatā:
“Bhūtapubbaṃ brāhmaṇa, imissāyeva sāvatthiyā aññatarissā itthiyā mātā kālamakāsi. Sā tassā kālakiriyāya ummattikā khittacittā rathiyāya rathiyaṃ siṅghāṭakena siṅghāṭakaṃ upasaṅkamitvā evamāha: ‘Api me mātaraṃ addasatha? Api me mātaraṃ addasathā ’ti.
Bhūtapubbaṃ brāhmaṇa, imissāyeva sāvatthiyā aññatarissā itthiyā pitā kālamakāsi – bhātā kālamakāsi – bhaginī kālamakāsi – putto kālamakāsi – dhītā kālamakāsi – sāmiko kālamakāsi. Sā tassa kālakiriyāya ummattikā khittacittā rathiyāya rathiyaṃ siṅghāṭakena siṅghāṭakaṃ upasaṅkamitvā evamāha: ‘Api me sāmikaṃ addasatha? Api me sāmikaṃ addasathā ’ti.
Bhūtapubbaṃ brāhmaṇa, imissāyeva sāvatthiyā aññatarassa purisassa mātā kālamakāsi. So tassā kālakiriyāya ummattako khittacitto rathiyāya rathiyaṃ siṅghāṭakena siṅghāṭakaṃ upasaṅkamitvā evamāha: ‘Api me mātaraṃ addasatha? Api me mātaraṃ addasathā ’ti.
Bhūtapubbaṃ brāhmaṇa, imissāyeva sāvatthiyā aññatarassa purisassa pitā kālamakāsi – bhātā kālamakāsi – bhaginī kālamakāsi – putto kālamakāsi – dhītā kālamakāsi – pajāpatī kālamakāsi. So tassā kālakiriyāya ummattako khittacitto rathiyāya rathiyaṃ siṅghāṭakena siṅghāṭakaṃ upasaṅkamitvā evamāha: ‘Api me pajāpatiṃ addasatha? Api me pajāpatiṃ addasathā ’ti.
Bhūtapubbaṃ brāhmaṇa, imissāyeva sāvatthiyā aññatarā itthī ñātikulaṃ agamāsi. Tassā te ñātakā sāmikaṃ acchinditvā aññassa dātukāmā. Sā ca naṃ na icchati. Atha kho sā itthī sāmikaṃ etadavoca: ‘Ime maṃ ayyaputta, ñātakā tava acchinditvā aññassa dātukāmā. Ubho mayaṃ marissāmā ’ti. Atha kho so puriso taṃ itthiṃ dvidhā chetvā attānaṃ opātesi, ‘Ubho pecca bhavissāmā ’ti. Evaṃ sokasallena otiṇṇo viddho puṭṭho pareto samohito samannāgato dhāvati vidhāvati sandhāvati saṃsarati.
Kathaṅkathāsallena otiṇṇo viddho phuṭṭho pareto samohito samannāgato saṃsayapakkhanno hoti vimatipakkhanno dveḷhakajāto: ‘Ahosiṃ nu kho ahaṃ atītamaddhānaṃ? Na nu kho ahosiṃ atītamaddhānaṃ? Kiṃ nu kho ahosiṃ atītamaddhānaṃ? Kathaṃ nu kho ahosiṃ atītamaddhānaṃ? Kiṃ hutvā kiṃ ahosiṃ nu kho atītamaddhānaṃ? Bhavissāmi nu kho ahaṃ anāgatamaddhānaṃ? Na nu kho bhavissāmi anāgatamaddhānaṃ? Kiṃ nu kho bhavissāmi anāgatamaddhānaṃ? Kathaṃ nu kho bhavissāmi anāgatamaddhānaṃ? Kiṃ hutvā kiṃ bhavissāmi nu kho anāgatamaddhānaṃ? Etarahi vā paccuppannaṃ addhānaṃ ārabbha kathaṅkathī hoti: Ahaṃ nu khosmi? No nu khosmi? Kiṃ nu khosmi? Kathaṃ nu khosmi? Ayaṃ nu kho satto kuto āgato? So kuhiṃ gāmī bhavissatī ’ti. Evaṃ kathaṅkathāsallena otiṇṇo viddho phuṭṭho pareto samohito samannāgato dhāvati vidhāvati sandhāvati saṃsarati.
Te salle abhisaṅkharoti; te salle abhisaṅkharonto sallābhisaṅkhāravasena puratthimaṃ disaṃ dhāvati, pacchimaṃ disaṃ dhāvati, uttaraṃ disaṃ dhāvati, dakkhiṇaṃ disaṃ dhāvati. Te sallābhisaṅkhārā appahīnā; sallābhisaṅkhārānaṃ appahīnattā gatiyā dhāvati, niraye dhāvati, tiracchānayoniyā dhāvati, pettivisaye dhāvati, manussaloke dhāvati, devaloke dhāvati, gatiyā gatiṃ uppattiyā upapattiṃ paṭisandhiyā paṭisandhiṃ bhavena bhavaṃ saṃsārena saṃsāraṃ vaṭṭena vaṭṭaṃ dhāvati vidhāvati sandhāvati saṃsaratī ’ti – yena sallena otiṇṇo disā sabbā vidhāvati.
Tameva sallamabbuyha na dhāvati na sīdatī ’ti – Tameva rāgasallaṃ dosasallaṃ mohasallaṃ mānasallaṃ diṭṭhisallaṃ sokasallaṃ kathaṅkathāsallaṃ abbuyha abbuhitvā uddharitvā samuddharitvā uppāṭayitvā samuppāṭayitvā pajahitvā vinodetvā byantīkaritvā anabhāvaṃ gametvā neva puratthimaṃ disaṃ dhāvati, na pacchimaṃ disaṃ dhāvati, na uttaraṃ disaṃ dhāvati, na dakkhiṇaṃ disaṃ dhāvati. Te sallābhisaṅkhārā pahīnā; sallābhisaṅkhārānaṃ pahīnattā gatiyā na dhāvati, niraye na dhāvati, tiracchānayoniyā na dhāvati, pettivisaye na dhāvati, manussaloke na dhāvati, devaloke na dhāvati, na gatiyā gatiṃ – na upapattiyā upapattiṃ – na paṭisandhiyā paṭisandhiṃ – na bhavena bhavaṃ – na saṃsārena saṃsāraṃ – na vaṭṭena vaṭṭaṃ dhāvati vidhāvati saṃdhāvati saṃsaratī ’ti – tamevasallamabbuyha na dhāvati. Na sīdatī ’ti kāmoghe na sīdati, bhavoghe na sīdati, diṭṭhoghe na sīdati, avijjoghe na sīdati na saṃsīdati na avasīdati na gacchati na avagacchatī ’ti – tameva sallamabbuyha na dhāvati na sīdati.
Kẻ đã bi mũi tên đâm vào chạy khắp tất cả các phương.
Mũi tên: Có bảy mũi tên: Mũi tên luyến ái, mũi tên sân hận, mũi tên si mê, mũi tên ngã mạn, mũi tên tà kiến, mũi tên sầu muộn, mũi tên nghi hoặc.
Mũi tên luyên ái là cái nào? Sự luyên ái, luyên ái mãnh liệt, sự say đăm, sự chiều chuộng, niềm vui, niềm vui và luyến ái, sự luyến ái mãnh liệt của tâm… (nt)… tham đắm, tham, eội nguồn của bất thiện; cái này là mũi tên luyến ái.
Mũi tên sân hận là cái nào? [Nghĩ rằng:] CÍNo đã làm điều bất lợi cho ta”, tức tối sanh khởi; [nghĩ rằng:] “Nó đang làm điều bất lợi cho ta”, tức tối sanh khởi; [nghĩ rằng:] UNÓ sẽ làm điều bất lợi cho ta”, tức tối sanh khởi… (nt)… sự tàn nhẫn, sự lỗ mãng, trạng thái không hoan hỷ của tâm; cái này là mũi tên sân hận.
Mũi tên si mê la cái nào? Sự không biết về khổ… (nt)… sự không biết về sự thực hành đưa đến sự diệt tận khổ, sự không biết về điểm khởi đầu, sự không biết về điểm kết thúc, sự không biết về điểm khởi đầu và điểm kết thúc, sự không biết về các pháp tùy thuận duyên khởi này; sự không nhìn thấy nào có hình thức như vậy là sự không chứng ngộ, không thấu hiểu, không giác ngộ, không thấu triệt, không thu thập, không thâm nhập, không xem xét, không quán xét, không làm cho thấy rõ, không trong sáng, trạng thái ngu si, sự si mê, sự mê ám, sự mê muội, vô minh, sự lôi cuốn vào vô minh, sự gắn bó với vô minh, sự tiềm ẩn của vô minh, sự ngự trị của vô minh, sự ngăn trở của vô minh, si mê là gốc rễ của bất thiện; cái này là mũi tên si mê.
Mũi tên ngã mạn la cái nào? [Nghĩ rằng:] uIa là tốt hơn,, là ngã mạn, [nghĩ rằng:] “Ta là ngang bằng,9 là ngã mạn, [nghĩ rằng:] “Ta là thua kém,9 là ngã mạn; ngã mạn nào có hình thức như vậy là biểu hiện của ngã mạn, trạng thái của ngã mạn, sự kiêu hãnh, sự hãnh diện, sự giương lên [như ngọn cờ], sự tự nâng lên, sự mong muốn nổi bật của tâm; cái này là mũi tên ngã mạn.
Mũi tên tà kiến là cái nào? Thân kiến có hai mươi nền tảng, tà kiến có mười nên tảng, hữu biên kiên có mười nên tảng, quan diêm nào có hình thức như vậy là sự đi đến tà kiến, có sự nắm giữ của tà kiên, có sự hiêm trở của tà kiến, có sự bóp méo của tà kiến, có sự xáo động của tà kiến, có sự ràng buộc của tà kiến, là sự nắm lấy, sự chấp nhận, sự chấp chặt, sự bám víu, con đường xấu, con đường sai trái, bản thể sai trái, ngoại giáo, sự nắm lấy đường lối trái nghịch, sự nắm lấy điều sai lệch, sự nắm lấy điều trái khuấy, sự nắm lấy điều sai trái, sự nắm lấy điều không xác đáng cho là xác đáng, cho đến sáu mươi hai tà kiến; cái này là mũi tên tà kiến.
Mũi tên sâu muộn là cái nào? Sự sâu muộn, sự buôn râu, trạng thái buôn phiền, sự sầu muộn ở nội tâm, sự buồn thảm ở nội tâm, sự nóng nảy ở nội tâm, sự bực tức ở nội tâm, sự bực bội của tâm, nỗi ưu phiền của người bị tác động bởi sự tổn hại về thân quyến, bị tác động bởi sự tổn hại về của cải, bị tác động bởi sự tổn hại vì bệnh tật, bị tác động bởi sự suy giảm về giới hạnh, bị tác động bởi Sự suy giảm vê kiên thức, bị gặp phải sự rủi ro nay hoặc sự rủi ro khác, hoặc bị tác động bởi sự khổ này hoặc sự khổ khác; cái này là mũi tên sầu muộn.
Mũi tên nghi hoặc là cái nào? Nghi ngờ về khổ, nghi ngờ về nhân sanh khổ, nghi ngờ về sự diệt tận khổ, nghi ngờ về sự thực hành đưa đến sự diệt tận khổ, nghi ngờ vê diêm khởi đâu? nghi ngờ vê diêm két thúc, nghi ngờ vê diêm khởi đâu và điểm kết thúc, nghi ngờ về các pháp tùy thuận duyên khởi này; sự nghi ngờ nào có hình thức như vậy là biểu hiện nghi ngờ, trạng thái nghi ngờ, sự nhầm lẫn, sự hoài nghi, sự lưỡng lự, sự phân vân, sự ngờ vực, sự không nắm chắc, sự không quyết đinh, sự không quả quyết, sự không thể xác quyết, trạng thái sửng sốt, sự bối rối của tâm; cái này là mũi tên nghi hoặc.
Kẻ đã bi mũi tên đâm vào chạy kháp tát cả các phương: Kẻ bị đâm vào, bị xuyên thủng, bi xúc chạm, bị chế ngự, bị xâm nhập, bi sở hữu bởi mũi tên luyến ái [sẽ] làm hành động xấu xa bằng thân, làm hành động xấu xa bằng khẩu, làm hành động xấu xa bằng ý, giết hại mạng sống, lấy vật không được cho, đột nhập gia cư, mang đi vật cướp được, làm kẻ đạo tặc, đứng cướp dọc đường, đi đen với vợ người khác, nói lời doi trá. Kẻ bị đâm vào, bị xuyên thủng, bị xúc chạm, bị chế ngự, bi xâm nhập, bị sở hữu bởi mũi tên luyến ái [sẽ] chạy, chạy khắp, chạy vội, di chuyển đó đây là như vậy.
Hoặc là, kẻ bị đâm vào, bị xuyên thủng, bị xúc chạm, bị chế ngự, bi xâm nhập, bị sở hữu bởi mũi tên luyến ái, trong khi tầm cầu của cải, [sẽ] dùng thuyền lao vào đại dương, đương đầu với lạnh, đương đầu với nóng, bi khổ sở bởi các xúc chạm với ruồi, muỗi, gió, nắng và các loài bò sát, bị chết bởi các cơn đói khát, đi đến Tigumba, đi đến Takkola, đi đến Takkasilâ, đi đến Kãlamukha, đi đên Parammukha, đi đên Vesuñga, đi đên Verāpatha, đi đên Java, đi đên Tāmalī, đi đên Vañga, đi đên EỊavaddhana, đi đên Suvannakūta, đi đên Suvannabhūmi, đi đến Tambapannī, đi đến Suppāraka, đi đến Bharukaccha, đi đến Surattha, đi đên Añgaloka, đi đên Gañgana, đi đên Paramagañgana, đi đên Yona, đi đên Paramayona, đi đến Navaka, đi đến Mūlapada, đi đến sa mạc cát, đi đến lối đi phải bò gối, đi đến lối đi của de, đi đến lối đi của cừu, đi đến lối đi phải chống gậy, đi đến lối đi bằng dù, đi đến lối đi phía trên lùm tre, đi đến lối đi của loài chim, đi đến lối đi của loài chuột, đi đến lối đi khe núi? đi đến lối đi vịn vào lau sậy. Trong khi tầm cầu mà không đạt được thì cảm thọ khổ ưu phát xuất từ việc không có lợi lộc. Trong khi tầm cầu mà đạt được, do đã đạt được mà cảm thọ khổ ưu phát xuất từ việc bảo vệ [nghĩ rằng]: “Làm cách nào để các vị vua không có thể lấy đi, các kẻ trộm cướp không thể mang đi, lửa không thể thiêu cháy, nước không thể cuốn đi, những kẻ thừa tự không được yêu mến không thể lấy đi các của cải của ta?” Trong khi được kẻ ây bảo vệ, gìn giữ như vậy, các của cải ấy bi hư hoại. Kẻ ấy cảm thọ khổ ưu phát xuất từ việc xa lìa. Kẻ bị đâm vào, bị xuyên thủng, bị xúc chạm, bị chế ngự, bi xâm nhập, bị sở hữu bởi mũi tên luyến ái [sẽ] chạy, chạy khắp, chạy vội, di chuyển đó đây còn là như vậy.
Kẻ bị đâm vào, bị xuyên thủng, bị xúc chạm, bị chế ngự, bi xâm nhập, bị sở hữu bởi mũi tên sân hận, bởi mũi tên si mê, bởi mũi tên ngã mạn [sẽ] làm hành động xấu xa bằng thân, làm hành động xấu xa bằng khẩu, làm hành động xấu xa bằng ý, giết hại mạng sống, lấy vật không được cho, đột nhập gia cư, mang đi vật cướp được, làm kẻ đạo tặc, đứng cướp dọc đường, đi đến với vợ người khác, nói lời doi trá. Kẻ bị đâm vào, bị xuyên thủng, bị xúc chạm, bi chế ngự, bi xâm nhập, bị sở hữu bởi mũi tên ngã mạn [sẽ] chạy, chạy khắp, chạy vội? di chuyển đó đây là như vậy.
Kẻ bị đâm vào, bi xuyên thủng, bi xúc chạm, bị chê ngự, bi xâm nhập, bị sở hữu bởi mũi tên tà kiến [sẽ] trở thành người tu lõa thể, có hành vi phóng túng, liếm tay cho sạch, [khi đi khất thực] không đi đến khi được mời đi đến, không dừng lại khi được mời dừng lại, không nhận vật thực được mang đến, hoặc được chỉ đinh, không ưng thuận sự mời thỉnh. Kẻ ấy không thọ nhận [vật thực] lây từ miệng nôi, không thọ nhận từ miệng thau chậu, không thọ nhận [vật thực] đưa qua ngưỡng cửa, hoặc đưa qua cây gậy, hoặc đưa qua cái chày, không nhận [vật thực] từ hai người đang ăn, từ người nữ mang thai, từ người nữ đang cho con bú, từ người nữ ở trong lòng người nam, hoặc từ những sự quyên góp, không nhận [vật thực] ở nơi có con chó châu chực, ở nơi có nhiêu ruồi bu, không thọ nhận thịt, cá, không uống rượu, chất say, chất lên men. Kẻ ấy nhận vật thực ở một nhà và ăn chỉ một vắt, nhận vật thực ở hai nhà và ăn chỉ hai vát,… (nt)… nhận vật thực ở bảy nhà và ăn chỉ bảy vát. Kẻ ây nuôi sống chỉ với một chén, nuôi sống chỉ với hai chén,…(nt)..・ nuôi sống chỉ với bảy chén. Kẻ ấy thọ thực một ngày một bữa, thọ thực hai ngày một bữa, thọ thực bảy ngày một bữa. Với hình thức như vậy, kẻ ấy sống gắn bó và đeo đuổi việc thọ dụng thức ăn theo phương thức nửa tháng một lần. Kẻ bi đâm vào, bị xuyên thủng, bi xúc chạm, bị chế ngu, bị xâm nhập, bị sở hữu bởi mũi tên tà kiến [sẽ] chạy, chạy khắp, chạy vội, di chuyển đó đây là như vậy.
Hoặc là, bi đâm vào, bị xuyên thủng, bị xúc chạm, bị chế ngự, bi xâm nhập, bị sở hữu bởi mũi tên tà kiến, kẻ ấy trở thành người ăn rau, hoặc trở thành người ăn hạt kê, hoặc trở thành người ăn lúa dại, hoặc trở thành người ăn da vụn, hoặc trở thành người ăn rêu, hoặc trở thành người ăn cám, hoặc frở thành người ăn bọt nước cơm, hoặc trở thành người ăn bột vừng, hoặc trở thành người ăn hạt mè, hoặc trở thành người ăn cỏ, hoặc trở thành người ăn phân bò, hoặc nuôi song với thức ăn là rễ và trái cây ở trong rừng, với thực phẩm là trái cây rụng xuống. Kẻ ấy mặc các loại vải sợi gai, mặc các loại vải sợi gai pha tạp, mặc các tấm vải quấn tử thi, mặc các tấm vải bi quăng bỏ, mặc các loại vỏ cây, mặc các tấm da sơn dương, mặc các tấm da báo, mặc y phục sợi cỏ kusa, mặc y phục sợi vỏ cây, mặc y phục vỏ bào của gỗ, mặc mền kết bằng sợi tóc, mặc mền kết bằng lông đuôi thú, mặc y phục kết bàng lông chim cú, là người theo hạnh nhổ râu tóc, s6ng gắn bó và đeo đuổi việc nhổ râu tóc. Kẻ ấy trở thành người theo hạnh đứng thang, chối từ chỗ ngồi, trở thành người theo hạnh ngồi chò hỏ5 gắn bó và đeo đuổi việc tinh tấn ngồi chò hỏ9 trở thành người đi đứng ở thảm cắm chông, sáp xép việc năm ơ tham căm chông, săp xép việc năm ơ van go, săp xép việc nằm ở mô đất cứng, trở thành người nằm một bên hông, có thân thể đầy bụi bám và chất dơ, trở thành người theo hạnh sống ngoài trời, ngụ ở chỗ đã nhận được, trở thành người theo hạnh ăn phân, găn bó và đeo đuôi việc thọ dụng phân, trở thành người theo hạnh không uống nước lạnh, gắn bó và đeo đuổi việc không uống nước lạnh, sống gắn bó và đeo đuổi việc lội xuống nước tắm một đêm ba lần. Với hình thức như vậy theo nhiều cách, kẻ ấy sống gắn bó và đeo đuổi việc khổ hạnh và hành hạ thân the. Kẻ bị đâm vào, bị xuyên thủng, bị xúc chạm, bị chế ngự, bị xâm nhập, bị sở hữu bởi mũi tên tà kiến [sẽ] chạy, chạy khắp, chạy vội, di chuyển đó đây là như vậy.
Kẻ bị đâm vào, bị xuyên thủnệ, bị xúc chạm, bị chế ngự, bị xâm nhập, bị sở hữu bởi mũi tên sâu muộn [sẽ] sâu muộn, mệt mỏi, than vãn, đấm ngực khóc lóc, đi đến sự mê muội. Bởi vì điều này đã được đức Thế Tôn nói đến:
“Này Bà-la-môn, vào thời quá khứ, ở ngay tại Sāvatthi này, một người đàn bà nọ có mẹ đã qua đời. Do việc qua đời của mẹ9 người đàn bà này bi điên, có tâm bị tán loạn, đã đi từ đường pho này đen đuờng phố khác, từ ngã tư này đến ngã tư khác, và đã nói như vầy: ‘ông có nhìn thây mẹ của tôi không? Ông có nhìn thấy mẹ của tôi không?9
Này Bà-la-môn, vào thời quá khứ, ở ngay tại Sāvatthi này, một người đàn bà nọ có cha đã qua đời, có anh [em] trai đã qua đời, có chị 伊m] gái đã qua đời, có con trai đã qua đời, có con gái đã qua dời, có người chông đã qua đời. Do việc qua đời của chồng, người đàn bà này bị điên, có tâm bị tán loạn, đã đi từ đuờng phố này đến đuờng phố khác, từ ngã tư này đến ngã tư khác, và đã nói như vay: ‘ông có nhìn thay chồng của tôi không? Ong có nhìn thấy chồng của t6i khống?,
Này Bà-la-môn, vào thời quá khứ, ở ngay tại Sāvatthi này, một người đàn ông nọ có mẹ đã qua đời. Do việc qua đời của mẹ, người đàn ông này bị điên, có tâm bị tán loạn, đã đi từ đường phô này đên đường phố khác, từ ngã tư này đến ngã tư khác, và đã nói như vây: ‘ông có nhìn thấy mẹ của tôi không? Ông có nhìn thấy mẹ của tôi không?9
Này Bà-la-môn, vào thời quá khứ, ở ngay tại Sāvatthi này, một người đàn ông nọ có cha đã qua dời, có anh [em] trai đã qua đời, có chị [em] gái đã qua đời, có con trai đã qua đời, có con gái đã qua đời, có người vợ đã qua đời. Do việc qua đời của vợ? người đàn ông này bị điên, có tâm bị tán loạn, đã đi tò đường phố này đến đường phố khác, từ ngã tư này đến ngã tư khác, và đã nói như vầy: ‘Ông có nhìn thấy vợ của tôi không? Ông có nhìn thấy vợ của tôi không?5
Này Bà-la-môn, vào thời quá khứ, ở ngay tại Sāvatthi này, một người đàn bà nọ đã đi đến thăm nhà bà con. Những người bà con ấy có ý muốn chia cắt người chồng với cô ấy rồi gả cô ấy cho một người khác. Nhưng cô ấy không muốn gã đàn ông kia. Khi ấy, người đàn bà ấy đã nói với chồng điều này: ‘Này phu quân, những người bà con này có ý muốn chia cắt chàng với thiếp rồi gả thiếp cho một người khác. Cả hai chúng ta hãy chết đi/ Khi áy, người đàn ông ấy đã chặt người đàn bà ấy làm hai rồi tự vẫn, [nghĩ rằng:] ‘Cả hai chúng ta sẽ chung sống sau khi chết/” Kẻ bị đâm vào, bị xuyên thủng, bị xúc chạm, bị chế ngự, bị xâm nhập, bị sở hữu bởi mũi tên sầu muộn [sẽ] chạy, chạy khắp, chạy vội, di chuyển đó đây là như vậy.
Kẻ bị đâm vào, bị xuyên thủng, bị xúc chạm, bị chế ngự, bị xâm nhập, bị sở hữu bởi mũi tên nghi hoặc [sẽ] bị rơi vào ngờ vực, bị rơi vào nhầm lẫn, bị sanh lên sự lưỡng lự rằng: ‘Thải chăng ta đã hiện hữu trong thời quá khứ? Phải chăng ta đã không hiện hữu trong thời quá khứ? Ta đã là cái gì trong thời quá khứ? Ta đã hiện hữu trong thời quá khứ như thế nào? Ta đã trở thành cái gì và đã trở thành cái gì trong thời quá khứ? Phải chăng ta sẽ hiện hữu trong thời vị lai? Phải chăng ta sẽ không hiện hữu trong thời vi lai? Ta sẽ là cái gì trong thời vị lai? Ta sẽ hiện hữu trong thời vị lai như thế nào? Ta sẽ trở thành cái gì, rồi sẽ trở thành cái gì trong thời vi lai?” Hoặc bây giờ, có sự nghi hoặc liên quan đến thời hiện tại rằng: ‘Thải chăng ta hiện hữu? Phải chăng ta không hiện hữu? Ta là cái gì? Ta hiện hữu như thế nào? Ta là chúng sanh từ đâu đến? Ta đây sẽ đi dâu?” Kẻ bị đâm vào, bị xuyên thủng, bị xúc chạm, bị che ngự, bị xâm nhập, bị sở hữu bởi mũi tên nghi hoặc [sẽ] chạy, chạy khắp, chạy vội, di chuyển đó đây là như vậy.
Trong khi tạo tác ra những mũi tên ấy, kẻ tạo tác ra những mũi tên ấy chạy đến hướng Đông, chạy đến hướng Tây, chạy đến hướng Bắc, chạy đến hướng Nam do tác động của việc tạo tác ra mũi tên. Các việc tạo tác ra mũi tên ấy là chưa được dứt bỏ; do trạng thái chưa được dứt bỏ của các việc tạo tác ra mũi tên, mà [sẽ] chạy đến cảnh giới tái sanh, chạy đến địa ngục, chạy đến loài thú, chạy đến thân phận nga quỷ, chạy đến thế giới loài người, chạy đến thế giới chư thiên, chạy, chạy khắp, chạy vội, di chuyển đó đây từ cảnh giới tái sanh này đen cảnh giới tái sanh khác, từ sự tái sanh này đến sự tái sanh khác, từ sự noi liền tái sanh này đến sự nối liền tái sanh khác, từ sự hiện hữu này đến sự hiện hữu khác, từ sự luân hồi này đến sự luân hồi khác, từ sự luân chuyển này đến sự luân chuyển khác.
ÍCKẻ đã bị mũi tên đâm vào chạy khắp tất cả các phuơng” là như vậy.
Sau khi đã nhổ chính mũi tên ấy lên thì không chạy, [và] không chìm xuống: Sau khi nhổ lên, sau khi kéo ra, sau khi lấy lên, sau khi lấy ra, sau khi rút lên, sau khi rút ra, sau khi dứt bỏ, sau khi xua đi, sau khi làm chấm dứt, sau khi làm cho không còn hiện hữu chính mũi tên luyến ái, mũi tên sân hận, mũi tên si mê5 mũi tên ngã mạn, mũi tên tà kiến, mũi tên sầu muộn, mũi tên nghi hoặc ấy thì chẳng những không chạy đến hướng Đông, mà còn không chạy đến hướng Tây, không chạy đến hướng Bắc, không chạy đến hướng Nam. Các việc tạo tác ra mũi tên ấy là đã được dứt bỏ; do trạng thái đã được dứt bỏ đối với các việc tạo tác ra mũi tên, mà không chạy đến cảnh giới tái sanh, không chạy đến địa ngục, không chạy đến loài thú, không chạy đến thân phận nga quỷ, không chạy đến thế giới loài người, không chạy đến thế giới chư thiên, không chạy, không chạy khắp, không chạy vội, không di chuyển đó đây từ cảnh giới tái sanh này đến cảnh giới tái sanh khác,… từ sự tái sanh này đến sự tái sanh khác,.・. từ sự nôi liên tái sanh này đên sự nôi liên tái sanh khác,… từ sự hiện hữu này đến sự hiện hữu khác,… từ sự luân hồi này đến sự luân hồi khác,… từ sự luân chuyển này đến sự luân chuyển khác. “Sau khi đã nhổ chính mũi tên ấy lên thì không chạ》là như thế.
Không chìm xuống: Không chìm xuống dòng lũ [ngũ] dục, không chìm xuống dòng lũ của hữu, không chìm xuống dòng lũ tà kiến, không chìm xuống dòng lũ vô minh, không chìm hẳn xuống, không chìm đắm, không đi đến, không đi xuống.
“Sau khi đã nhổ chính mũi tên ấy lên thì không chạy, [và] không chìm xu6ng” là như thế.
Tenāha bhagavā: “Yena sallena otiṇṇo disā sabbā vidhāvati, tameva sallamabbuyha na dhāvati na sīdatī ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Kẻ đã bị mũi tên đăm vào chạy khắp tất cả các phương [luân hồi khắp các cõi], sau khi đã nhổ chính mũi tên ấy lên thì không chạy, [và] không chìm xuống.
15.6
Tattha sikkhānugīyanti yāni loke gathitāni, na tesu pasuto siyā nibbijjha sabbaso kāme, sikkhe nibbānamattano.
Ở nơi ấy, các môn học tập được truyền tụng. Những gì bị trói buộc ở thế gian, không nên quan tâm đến chúng. Sau khi thấu suốt các dục về mọi phương diện, nên học tập về sự tịch diệt cho bản thân.
Ở đây sự học tập,
Ðã được nói rõ lên,
Phàm triền phược ở đời,
Chớ liên hệ với chúng,
Ðâm thủng dục hoàn toàn,
Tự học tập Niết-bàn.
(Kinh Tập, câu kệ 940)
Tattha sikkhānugīyanti yāni loko gathitānī ’ti – Sikkhā ’ti hatthisikkhā assasikkhā rathasikkhā sālākiyaṃ sallakattiyaṃ kāyatikicchaṃ bhūtiyaṃ komārabhaccaṃ. Gīyantī ’ti niggīyanti kathīyanti bhaṇīyanti dīpīyanti voharīyanti. Athavā gīyanti – gaṇhīyanti uggaṇhīyanti dhārīyanti upadhārīyanti upalakkhīyanti gathitapaṭilābhāya. Gathitā vuccanti pañca kāmaguṇā: cakkhuviññeyyā rūpā iṭṭhā kantā manāpā piyarūpā kāmūpasaṃhitā rajanīyā. Kiṃ kāraṇā gathitā vuccanti pañca kāmaguṇā? Yebhuyyena devamanussā pañca kāmaguṇe icchanti sādiyanti patthayanti pihayanti abhijappanti; taṅkāraṇā gathitā vuccanti pañca kāmaguṇā. Loke ’ti manussaloke ’ti – tattha sikkhānugīyanti yāni loke gathitāni.
Na tesu pasuto siyā ’ti – Tāsu vā sikkhāsu tesu vā pañcasu kāmaguṇesu na pasuto siyā, na tanninno assa, na tappoṇo na tappabbhāro na tadadhimutto na tadādhipateyyo ’ti – na tesu pasuto siyā.
Nibbijjha sabbaso kāme ’ti – Nibbijjhā ’ti paṭivijjhitvā; sabbe saṅkhārā aniccā ’ti paṭivijjhitvā, sabbe saṅkhārā dukkhā ’ti paṭivijjhitvā –pe– ‘yaṃ kiñci samudayadhammaṃ sabbaṃ taṃ nirodhadhamman ’ti paṭivijjhitvā. Sabbaso ’ti sabbena sabbaṃ sabbathā sabbaṃ asesaṃ nissesaṃ pariyādiyanavacanametaṃ sabbaso ’ti. Kāmā ’ti uddānato dve kāmā: vatthukāmā ca kilesakāmā ca –pe– Ime vuccanti vatthukāmā. –pe– Ime vuccanti kilesakāmā ’ti – nibbijjha sabbaso kāme.
Sikkhe nibbānamattano ’ti – Sikkhā ’ti tisso sikkhā: adhisīlasikkhā adhicittasikkhā adhipaññāsikkhā –pe– ayaṃ adhipaññāsikkhā. Nibbānamattano ’ti attano rāgassa nibbāpanāya dosassa nibbāpanāya mohassa nibbāpanāya –pe– sabbākusalābhisaṅkhārānaṃ samāya upasamāya vūpasamāya nibbāpanāya paṭinissaggāya paṭippassaddhiyā adhisīlampi sikkheyya, adhicittampi sikkheyya, adhipaññampi sikkheyya.
Imā tisso sikkhāyo āvajjanto sikkheyya jānanto sikkheyya, –pe– sacchikātabbaṃ sacchikaronto sikkheyya ācareyya samācareyya samādāya vatteyyā ’ti – sikkhe nibbānamattano.
ở noi ấy, các môn học tập được truyền tụng, những sự trói buộc nào ờ thế gian.
Các môn học tập: Môn học tập vê voi, môn học tập vê ngựa, môn học tập về cỗ xe, thuật châm kim, thuật mo xẻ, thuật chữa bệnh về cơ thể, thuật trừ tà, thuật chữa bệnh trẻ em.
Được đọc tụng: Được trì tụng, được thuyêt giảng, được phát ngôn, được giảng giải, được diễn tả. Hoặc là, được đọc tụng: Được nắm lấy, được tiếp thu, được duy trì, được tiếp nhận, được suy xét nhằm việc đạt được các sự trói buộc. Các sự trói buộc nói đến năm loại dục: Các sắc được nhận thức bởi mắt là đáng mong, đáng muốn, đáng mến, đáng yêu, liên hệ đến dục, gợi tình.3 Vì lý do gì năm loại dục được gọi là các sự trói buộc? Phần lớn chư thiên và nhân loại ước muốn, ưng thuận, ước nguyện, mong cầu, nguyện cầu năm loại dục; vì lý do đó, năm loại dục được gọi là các sự trói buộc ở thế gian: ở thế gian của loài người.
“ơ nơi ây, các môn học tập được truyên tụng, những sự trói buộc nào ở thê gian” là như the.
Thì không nên quan tâm đến chúng: Không nên quan tâm đến các môn học tập ây hoặc năm loại dục ây, không nên nghiêng theo chúng, không nên chiều theo chúng, không nên xuôi theo chúng, không nên hướng đến chúng, không nên xem chúng là chủ đạo.
“Thi không nên quan tâm đến chiìng” là như thế.
Sau khi thấu suốt các dục về mọi phương diện.
Sau khi thấu suốt: Sau khi thấu triệt; sau khi thấu triệt rằng: “Tất cả các hành là vô thuơng”,sau khi thấu triệt rằng: “Tất cả các hành là kh6”,…(nt)… sau khi thấu triệt rằng: “Điều gì có bản tánh được sanh lên, toàn bộ điều ấy đều có bản tánh hoại diet^
về mọi phương diện: Là tất cả theo tổng thể, tất cả trong mọi trường hợp, một cách trọn vẹn, không còn dư sót, từ “sabbaso” này là lối nói của sự bao gồm.
Các dục: Theo sự phân loại thì có hai loại dục: Vật dục và ô nhiễm dục….(nt)… Các điêu này được gọi là vật dục. … (nt)… Các điêu này được gọi là ô nhiễm dục.
“Sau khi thấu suốt các dục về mọi phương diện,, là như thế.
Nên học tập về sự diệt tắt cho bản thân.
Học tập: Có ba sự học tập: Học tập vê thăng giới, học tập vê thăng tâm, học tập vê thăng tuệ…. (nt)… việc này là sự học tập vê thăng tuệ.
Sự diệt tắt cho băn thân; Nhằm làm diệt tắt sự luyến ái? nhằm làm diệt tắt Sự sân hận, nhăm làm diệt tát sự si mê,… (nt)… nhăm yên lặng, nhăm yên tịnh, nhăm văng lặng, nhăm làm diệt tát, nhăm buông bỏ, nhăm tịch tịnh tát cả các pháp tạo tác bất thiện của bản thân, nên học tập về thắng giới, nên học tập về thăng tâm, nên học tập vê thăng tuệ.
Trong khi hướng tâm đên ba sự học tập này thì nên học tập; trong khi biêt thì nên học tập;… (nt)… trong khi chứng ngộ pháp cần được chứng ngộ thì nên học tập, nên hành xử5 nên hành theo, nên thọ trì và vận dụng.
“Nên học tập về sự diệt tắt cho bản thân59 là như thế.
Tenāha bhagavā: “Tattha sikkhānugīyanti yāni loke gathitāni, na tesu pasuto siyā nibbijjha sabbaso kāme, sikkhe nibbānamattano ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Ở nơi ấy, các môn học tập được truyền tụng. Những gì bị trói buộc ở thế gian, không nên quan tâm đến chúng. Sau khi thấu suốt các dục về mọi phương diện, nên học tập về sự tịch diệt cho bản thân.”
15.7
Sacco siyā appagabbho amāyo rittapesuno, akkodhano lobhapāpaṃ vevicchaṃ vitare muni.
Nên chân thật, không xấc xược, không xảo trá, việc nói đâm thọc không còn nữa, không giận dữ, bậc hiền trí có thể vượt qua sự xấu xa của tham (và) sự keo kiệt.
941. Chân thật không xông xáo,
Không man trá, hai lưỡi,
Không phẫn nộ, ẩn sĩ,
Vượt tham ác, xan tham.
(Kinh Tập, câu kệ 941)
Sacco siyā appagabbho ’ti – Sacco siyā ’ti saccavācāya samannāgato siyā, sammādiṭṭhiyā samannāgato siyā, ariyena aṭṭhaṅgikena maggena samannāgato siyā ’ti – sacco siyā. Appagabbho’ti tīṇi pāgabbhiyāni: kāyikaṃ pāgabbhiyaṃ vācasikaṃ pāgabbhiyaṃ cetasikaṃ pāgabbhiyaṃ –pe– Idaṃ cetasikaṃ pāgabbhiyaṃ. Yassimāni tīṇi pāgabbhiyāni pahīnāni samucchinnāni vūpasantāni paṭippassaddhāni abhabbuppattikāni ñāṇagginā daḍḍhāni, so vuccati appagabbho ’ti – appagabbho.
Amāyo rittapesuno ’ti – Māyā vuccati vañcanikā cariyā. Idhekacco kāyena duccaritaṃ caritvā vācāya duccaritaṃ caritvā manasā duccaritaṃ caritvā tassa paṭicchādanahetu pāpikaṃ icchaṃ paṇidahati: ‘Mā maṃ jaññā ’ti icchati, ‘Mā maṃ jaññā ’ti saṅkappeti, ‘Mā maṃ jaññā ’ti vācaṃ bhāsati, ‘Mā maṃ jaññā ’ti kāyena parakkamati. Yā evarūpā māyā māyāvitā accasarā vañcanā nikati nikaraṇā pariharaṇā gūhanā parigūhanā chādanā paṭicchādanā anuttānīkammaṃ anāvīkammaṃ vocchadanā pāpakiriyā; ayaṃ vuccati māyā. Yassesā māyā pahīnā samucchinnā vūpasannā paṭippassaddhā abhabbuppattikā ñāṇagginā daḍḍhā. So vuccati amāyo. Rittapesuno ’ti pesuññan ’ti: Idhekacco pisunavāco hoti –pe– Evaṃ bhedādhippāyo pesuññaṃ upasaṃharati; yassetaṃ pesuññaṃ pahīnaṃ samucchinnaṃ vūpasantaṃ paṭippassaddhaṃ abhabbuppattikaṃ ñāṇagginā daḍḍhaṃ, so vuccati rittapesuno vivittapesuno pavivittapesuno ’ti – amāyo rittapesuno.
Akkodhano lobhapāpaṃ vevicchaṃ vitare munī ’ti – Akkodhano ’ti hi vuttaṃ. Api ca kodho tāva vattabbo. Dasahākārehi kodho jāyati: Anatthaṃ me acarī ’ti kodho jāyati –pe– yasseso kodho pahīno samucchinno vūpasanto paṭippassaddho abhabbuppattiko ñāṇagginā daḍḍho, so vuccati akkodhano. Kodhassa pahīnattā akkodhano. Kodhavatthussa pariññātattā akkodhano. Kodhahetussa upacchinnattā akkodhano. Lobho ’ti yo lobho lubbhatā lubbhitattaṃ –pe– abhijjhā lobho akusalamūlaṃ. Vevicchaṃ vuccati pañca macchariyāni āvāsamacchariyaṃ –pe– gāho vuccati macchariyaṃ. Munī ’ti monaṃ vuccati ñāṇaṃ –pe– saṅgajālamaticca so muni.Akkodhano lobhapāpaṃ vevicchaṃ vitare munī ’ti – Muni lobhapāpañca vevicchañca atari uttari patari samatikkami vītikkami vītivattayī ’ti – akkodhano lobhapāpaṃ vevicchaṃ vitare muni.
Nên chân thật, không xấc xược.
Nên chân thật: Nên là người thành tựu lời nói chân thật, nên là người thành tựu chánh kiến, nên là người thành tựu đạo lộ Thánh thiện tám chi phần. uNên chân thát” là như thế.
Không xác xược: Có ba sự xác xược: Xác xược băng thân, xác xược băng khẩu, xấc xược bằng ý…. (nt)… Đây là sự xấc xược bằng ý. Đối với người nào, ba sự xấc xược này đã được dứt bỏ, đã được trừ tuyệt, đã được vắng lặng, đã được tịch tinh, không thể sanh khởi nữa, đã được thiêu đốt bởi ngọn lửa trí tuệ, người ấy được gọi là không xấc xược. “Không xấc xược,, là như thế.
“Nên chân thật, không xấc xược” là như thể.
Không xảo trá, việc nói đâm thọc không còn nữa.
Xảo trá: Nói đến hành vi tráo trở. ở đây một người nào đó sau khi làm uế hạnh bằng thân, sau khi làm uế hạnh bằng lời nói, sau khi làm uế hạnh bằng ý, vì nguyên nhân che đậy việc ây, định liệu ước muôn xâu xa. [Người áy] ước muốn rằng: “Chớ ai biết về t6i”, tư duy rằng: “Chớ ai biết về t6i”, nói lời rằng: “Chớ ai biết về tôr nỗ lực bằng thân rằng: uChớ ai biết về tôi?5 Việc xảo trá nào có hình thức như vậy là trạng thái xảo trá, sự cố tình không nhớ, sự tráo trở, gian lận, thay đôi, tránh né, cát giâu, che giâu, che đậy, che lâp, không phơi bày, không làm rõ? khéo che đậy? việc làm ác; điêu này được gọi là xảo trá. Đôi với người nào, sự xảo trá này đã được dứt bỏ, đã được trừ tuyệt, đã được vắng lặng, đã được tịch tịnh, không thể sanh khởi nữa, đã được thiêu đốt bởi ngọn lửa trí tuệ, người ấy được gọi là không xảo trá.
Việc nói đâm thọc không còn nữa.
Việc nói đâm thọc: ở đây, một người nào đó có lời nói đâm thọc:… (nt)… đem lại việc nói đâm thọc vì ý đinh chia rẽ nghĩa là như vậy. Đối với người nào, việc nói đâm thọc này đã được dứt bỏ, đã được trừ tuyệt, đã được vắng lặng, đã được tịch tịnh, không thể sanh khởi nữa, đã được thiêu đốt bởi ngọn lửa trí tuệ; người ấy được gọi là người có việc nói đâm thọc đã được trống vắng, có việc nói đâm thọc đã được tách biệt, có việc nói đâm thọc đã được tách rời.
“Không xảo trá, việc nói đâm thọc không còn nữa” là như thế.
Không giận dữ, bậc Hiên trí có thê vượt khỏi hãn sự xâu xa của tham [và] sự keo kiệt: Bởi vì “không giận dữ” đã được nói đến thì sự giận dữ cũng nên được nói đến. Sự giận dữ sanh lên theo mười biểu hiện, [nghĩ rằng:] “N6 đã làm điều bất lợi cho ta”,giận dữ sanh khởi;… (nt)… Đối với người nào, sự giận dữ ấy đã được dứt bỏ, đã được trừ tuyệt, đã được vắng lặng, đã được tịch tinh, không thể sanh khởi nữa, đã được thiêu đốt bởi ngọn lửa trí tuệ; người ấy được gọi là có sự “không giận dữ.” Do trạng thái đã được dứt bỏ đối với sự giận dữ thì có sự “không giận dữ.” Do trạng thái đã biết toàn diện về nền tảng của sự giận dữ thì có sự “không giận dữ.^, Do trạng thái đã chặt đứt nhân của sự giận dư thì có sự “khòng giận dư.,,
Tham: Sự tham lam? biêu hiên tham lam, trạng thái tham lam,… (nt)… tham đắm, tham, cội nguồn của bất thiện.
Sự keo kiệt: Nói đên năm loại bon xẻn: Bon xẻn vê chô .(nt) …sự năm lấy được gọi là bon xẻn.
Bậc Hiền trí: Bản thể hiền trí nói đến trí,… (nt)… đã vượt qua sự quyến luyến và mạng lưới [tham ái và tà kiến], vi ấy là hiền trí.
Không giận dữ, bậc Hiền trí có thể vượt khỏi hẳn sự xấu xa của tham [và] sự keo kiệt: Bậc Hiền trí đã vượt qua, đã vượt lên, đã vượt khỏi, đã vượt quá, đã vượt qua hẳn, đã vượt qua khỏi sự xấu xa của tham và sự keo kiệt.
“Không giận dữ, bậc Hiền trí có thể vượt khỏi hẳn sự xấu xa của tham [và] sự keo kiệt9 là như thế*
Tenāha bhagavā: “Sacco siyā appagabbho amāyo rittapesuno, akkodhano lobhapāpaṃ vevicchaṃ vitare munī ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Nên chân thật, không xấc xược, không xảo trá, việc nói đâm thọc không còn nữa, không giận dữ, bậc hiền trí có thể vượt qua sự xấu xa của tham (và) sự keo kiệt.”
15.8
Niddaṃ tandiṃ sahe thīnaṃ pamādena na saṃvase, atimāne na tiṭṭheyya nibbānamānaso naro.
Người có tâm ý hướng Niết Bàn nên khắc phục trạng thái ngủ gà ngủ gật, sự uể oải, sự dã dượi, không nên cộng trú với sự xao lãng, không nên trụ lại ở sự ngã mạn thái quá.
Người nghĩ đến Niết-bàn,
Bỏ ngủ, nhác, thụy miên,
Không sống với phóng dật,
Không an trú, quá mạn.
(Kinh Tập, câu kệ 942)
Niddaṃ tandiṃ sahe thīnan ’ti – Niddā ’ti yā kāyassa akalyatā akammaññatā onāho pariyonāho antosamorodho middhaṃ soppaṃ pacalāyikā soppanā supanā supitattaṃ. Tandin ’ti yā tandi tandiyanā tandimanakatā ālassaṃ ālasiyaṃ ālasyāyanā ālasāyitattaṃ. Thīnan ’ti yā cittassa akalyatā akammaññatā olīyanā sallīyanā līnaṃ līyanā līyitattaṃ thīnaṃ thīyanā thīyitattaṃ cittassa. Niddaṃ tandiṃ sahe thīnan ’ti niddañca tandiñca thīnañca sahe saheyya parisaheyya abhibhaveyya ajjhotthareyya pariyādiyeyya maddeyyā ’ti – niddaṃ tandiṃ sahe thīnaṃ.
Pamādena na saṃvase ’ti – Pamādo vattabbo: kāyaduccarite vā vacīduccarite vā manoduccarite vā pañcasu vā kāmaguṇesu cittassa vossaggo vossaggānuppadānaṃ vā, kusalānaṃ vā dhammānaṃ bhāvanāya asakkaccakiriyatā asātaccakiriyatā anaṭṭhitakiriyatā olīnavuttitā nikkhittachandatā nikkhittadhuratā anāsevanā abhāvanā abahulīkammaṃ anadhiṭṭhānaṃ ananuyogo pamādo, yo evarūpo pamādo pamaññanā pamaññitattaṃ; ayaṃ vuccati pamādo. Pamādena na saṃvase ’ti pamādena na vaseyya na saṃvaseyya na āvaseyya na parivaseyya, pamādaṃ pajaheyya vinodeyya byantīkareyya anabhāvaṃ gameyya, pamādā ārato assa virato paṭivirato nikkhanto nissaṭo vippamutto visaññutto vimariyādīkatena cetasā vihareyyā ’ti – pamādena na saṃvase.
Atimāne na tiṭṭheyyā ’ti – Atimāno ’ti Idhekacco paraṃ atimaññati jātiyā vā gottena vā – pe– aññataraññatarena vā vatthunā. Yo evarūpo māno maññanā maññitattaṃ unnati unnamo dhajo sampaggāho ketukamyatā cittassa; ayaṃ vuccati atimāno. Atimāne na tiṭṭheyyā ’ti – Atimāne na tiṭṭheyya na santiṭṭheyya, atimānaṃ pajaheyya vinodeyya byantīkareyya, anabhāvaṃ gameyya, atimānā ārato assa virato paṭivirato nikkhanto nissaṭo vippamutto visaññutto vimariyādīkatena cetasā vihareyyā ’ti – atimāne na tiṭṭheyya.
Nibbānamānaso naro ’ti – Idhekacco dānaṃ dento sīlaṃ samādiyanto uposathakammaṃ karonto pānīyaṃ paribhojanīyaṃ upaṭṭhapento pariveṇaṃ sammajjanto cetiyaṃ vandanto cetiye gandhamālaṃ āropento cetiyaṃ padakkhiṇaṃ karonto yaṃ kiñci tedhātukaṃ kusalābhisaṅkhāraṃ abhisaṅkharonto na gatihetu na upapattihetu na paṭisandhihetu na bhavahetu na saṃsārahetu na vaṭṭahetu sabbaṃ taṃ visaṃyogādhippāyo nibbānaninno nibbānapoṇo nibbānapabbhāro abhisaṅkharotī ’ti; evampi nibbānamānaso naro. Athavā sabbasaṅkhāradhātuyā cittaṃ paṭivāpetvā amatāya dhātuyā cittaṃ upasaṃharati: ‘Etaṃ santaṃ etaṃ paṇītaṃ yadidaṃ sabbasaṅkhārasamatho sabbūpadhipaṭinissaggo taṇhakkhayo virāgo nirodho nibbānan ’ti; evampi nibbānamānaso naro.
1. “Na paṇḍitā upadhisukhassa hetu dadanti dānāni punabbhavāya, kāmañca te upadhiparikkhayāya dadanti dānaṃ apunabbhavāya.
2. Na paṇḍitā upadhisukhassa hetu bhāventi jhānāni punabbhavāya, kāmañca te upadhiparikkhayāya bhāventi jhānaṃ apunabbhavāya.
3. Te nibbutiṃ āsiṃsamānā dadanti tanninnacittā tadādhimuttā, najjo yathā sāgaramajjhupetā bhavanti nibbānaparāyaṇā te ”ti. – nibbānamānaso naro.
Nên khắc phục trạng thái ngủ gà ngủ gật9 sự uể oải, sự dã dượi.
Trạng thái ngủ gà ngủ gật: Là trạng thái không sẵn sàng của thân, trạng thái không thích ứng, sự ngừng lại, sự trì trệ, sự bế tắc ở bên trong, sự buồn ngủ, sự ngủ gục, sự mơ màng, sự ngủ, biểu hiện ngủ, trạng thái ngủ.
Sự ue oai: La sự ue oai, biêu hiên ue oai, sự mẹt mỏi, sự thụ động, sự lờ đờ, biểu hiện lờ đờ, trạng thái lờ đờ.
Sự dã dượi: Là trạng thái không sẵn sàng của tâm, trạng thái không thích ứng, sự chây lười, sự biếng nhác, sự lười biếng, biểu hiện lười biếng, trạng thái lười biếng, sự dã dượi, biểu hiện dã dượi, trạng thái dã dượi của tâm.
Nên khắc phục trạng thái ngủ gà ngủ gật, sự uể oải, sự dã dượi: Nên khắc phục, nên khắc chế, nên áp chế, nên ngự tri, nên đè bẹp, nên trấn áp, nên chà đạp trạng thái ngủ gà ngủ gật, sự uể oải và sự dã dượi.
uNên khác phục trạng thái ngủ gà ngủ gật, sự uê oải, sự dã dượi,, là như thê.
Không nên cộng trú với sự xao lãng.
Sự xao lãng cần được nói đến: Là sự buông thả hoặc sự buôiìệ xuôi trong việc buông thả của tâm ở uế hạnh vê thân, ở uê hạnh vê khâu, ở uê hạnh vê ý, hoặc ở năm loại dục, hoặc là trạng thái thực hành không nghiêm trang, trạng thái thực hành không liên tục, trạng thái thực hành không ổn định, có thói quen biếng nhác, trạng thái buông bỏ mong muốn, trạng thái buông bỏ bổn phận, sự không tập luyện, sự không tu tập, sự không làm thường xuyên, sự không quyết tâm, sự không chuyên cần, sự xao lãng trong việc tu tập các thiện pháp; sự xao lãng nào có hình thức như vậy là biểu hiện xao lãng, trạng thái xao lãng; việc này được gọi là sự xao lãng.
Không nên cộng trú với sự xao lãng: Không nên trú, không nên cộng trú, không nên cư trú, không nên lưu trú với sự xao lãng; nên dứt bỏ, nên xua đi, nên làm chấm dứt, nên làm cho không còn hiện hữu sự xao lãng; nên tránh khỏi, xa lánh, tránh xa, đi ra ngoài, rời ra, thoát khỏi, không bị ràng buộc với sự xao lãng, nên sống với tâm đã được làm trở thành không còn giới hạn.
“Không nên cộng tru với sự xao l角ng” là như thế.
Không nên trụ lại ờ sự cao ngạo.
Sự cao ngạo: ở đây, một người nào đó khinh khi người khác theo sự sanh ra, hoặc theo dòng họ,… (nt)… hoặc theo sự việc này khác. Ngã mạn nào có hình thức như vậy là biểu hiện của ngã mạn, trạng thái của ngã mạn, sự kiêu hãnh, sự hãnh diện, sự giương lên [như ngọn cờ], sự tự nâng lên, sự mong muốn nổi bật của tâm; điều này được gọi là cao ngạo.
Không nên trụ lại ờ sự cao ngạo: Không nên trụ lại, không nên trụ vững trong sự cao ngạo; nên dứt bỏ, nên xua đi, nên làm cham dứt, nên làm cho không còn hiện hữu sự cao ngạo; nên tránh khỏi, xa lánh, tránh xa, đi ra ngoài, rời ra5 thoát khỏi, không bị ràng buộc với sự cao ngạo, nên sống với tâm đã được làm trở thành không còn giới hạn.
“Không nên trụ lại ở sự cao ngạo” là như thế.
Người có tâm ý hướng Niết-bàn: ở đây, một người nào đó trong khi bố thí vật thí, trong khi thọ trì giới, trong khi thực hành trai giới, trong khi xếp đặt nước uống nước rửa, trong khi quét dọn phòng ốc, trong khi đảnh lễ bảo tháp, trong khi treo hương thơm và vòng hoa ở bảo điện, trong khi nhiễu quanh bảo điện, trong khi tạo tác bất cứ pháp tạo tác thiện nào liên quan đến tam giới, không vì nguyên nhân là cảnh giới tái sanh, không vì nguyên nhân là sự tái sanh, không vì nguyên nhân là sự nối liền tái sanh, không vì nguyên nhân là sự hiện hữu, không vì nguyên nhân là sự luân hồi, không vì nguyên nhân là sự xoay vần, tạo tác mọi việc ấy với ý nghĩa lìa khỏi sự ràng buộc, nghiêng về Niết-bàn, chiều theo Niết-bàn, xuôi về Niết-bàn; ngươi có tâm ý hướng Niết- bàn là như vậy. Hoặc là, sau khi đưa tâm ra khỏi nhân tố của tất cả các pháp tạo tác, [vị ấy] đem tâm vào nhân tố bất tử [biết rằng]: uCái này là an tinh, cái này là hảo hạng, tức là sự yên lặng của tất cả các pháp tạo tác, sự buông bỏ tất cả các mầm tái sanh, sự diệt trừ tham ái, sự lìa khỏi luyến ái, sự diệt tận, Niết-bàĩi.” Người có tâm ý hướng Niết-bàn còn là như vậy.
1.
“Cdc bậc sảng suốt không bổ thỉ các vật thỉ Vỉ nguyên nhân an lạc ở sự tiếp noi tải sanh đe sanh ra lan nữa, nhưng các vi ấy tự nguyện bo thỉ các vật thỉ vì sự cạn kiệt hoàn toàn các mầm tái sanh để không sanh ra lần nữa.
2.
Các bậc sáng suôt không tu tập các tâng thiên vì nguyên nhân an lạc ở sự tiếp nổi tái sanh để sanh ra lần nữa, rứiưng các vị ấy tự nguyện tu tập các tầng thiền vì sự cạn kiệt hoàn toàn các mầm tái sanh để không sanh ra lần nữa.
3.
Trong khỉ mong mỏi sự tịch diệt, các vỉ ấy bổ thỉ với tâm nghiêng theo điều ấy, hướng đến điều ấy. Giống như các con sông tiến đến gần biển cả, các vị ấy có Niểt-bàn là mục tiêu chỉnh yếu.”
“Người có tâm ý hướng Niết-bAn” là như thế.
Tenāha bhagavā: “Niddaṃ tandiṃ sahe thīnaṃ pamādena na saṃvase, atimāne na tiṭṭheyya nibbānamānaso naro ”ti
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Người có tâm ý hướng Niết Bàn nên khắc phục trạng thái ngủ gà ngủ gật, sự uể oải, sự dã dượi, không nên cộng trú với sự xao lãng, không nên trụ lại ở sự ngã mạn thái quá.”
15.9
Mosavajje na niyyetha rūpe snehaṃ na kubbaye, mānañca parijāneyya sāhasā virato care.
Không nên bị lôi kéo vào việc nói lời dối trá, không nên tạo ra sự yêu mến ở sắc, và nên biết toàn diện về ngã mạn, nên hành xử tránh xa sự vội vàng.
Không rơi vào nói láo,
Không tham ái các sắc,
Cần liễu tri quá mạn,
Sống từ bỏ bạo ác.
(Kinh Tập, câu kệ 943)
Mosavajje na niyyethā ’ti – Mosavajjaṃ vuccati musāvādo. Idhekacco sabhaggato vā parisaggato vā ñātimajjhagato vā pūgamajjhagato vā rājakulamajjhagato vā abhinīto sakkhipuṭṭho: ‘Ehambho purisa, yaṃ jānāsi taṃ vadehī ’ti. So ajānaṃ vā āha: ‘Jānāmī ’ti, jānaṃ vā āha: ‘Na jānāmī ’ti; apassaṃ vā āha: ‘Passāmī ’ti, passaṃ vā āha: ‘Na passāmī ’ti. Iti attahetu vā parahetu vā āmisakiñcikkhahetu vā sampajānamusā bhāsati; idaṃ vuccati mosavajjaṃ. Api ca tihākārehi – catuhākārehi – pañcahākārehi – chahākārehi – sattahākārehi – aṭṭhahākārehi –pe– imehi aṭṭhahākārehi musāvādo hoti.
Mosavajje na niyyethā ’ti – mosavajje na yāyeyya na niyyāyeyya na vuyheyya na saṃhareyya, mosavajjaṃ pajaheyya vinodeyya byantīkareyya anabhāvaṃ gameyya, mosavajjā ārato assa virato paṭivirato nikkhanto nissaṭo vippamutto visaññutto vimariyādīkatena cetasā vihareyyā ’ti – mosavajje na niyyetha.
Rūpe snehaṃ na kubbaye ’ti – Rūpan ’ti cattāro ca mahābhūtā catunnañca mahābhūtānaṃ upādāyarūpaṃ. Rūpe snehaṃ na kubbaye ’ti rūpe snehaṃ na kareyya, chandaṃ na kareyya, pemaṃ na kareyya, rāgaṃ na kareyya na janeyya na sañjaneyya na nibbatteyya nābhinibbatteyyā ’ti – rūpe snehaṃ na kubbaye.
Mānañca parijāneyyā ’ti – Māno ti ekavidhena māno: yā cittassa unnati. Duvidhena māno: attukkaṃsanamāno paravambhanamāno. Tividhena māno: seyyohamasmīti māno sadisohamasmīti māno hīnohamasmīti māno. Catubbidhena māno: lābhena mānaṃ janeti, yasena mānaṃ janeti, pasaṃsāya mānaṃ janeti, sukhena mānaṃ janeti. Pañcavidhena māno: lābhī’mhi manāpikānaṃ rūpānanti mānaṃ janeti, lābhī’mhi manāpikānaṃ saddānaṃ – gandhānaṃ – rasānaṃ phoṭṭhabbānanti mānaṃ janeti. Chabbidhena māno: cakkhusampadāya mānaṃ janeti, sotasampadāya – ghānasampadāya – jivhāsampadāya kāyasampadāya – manosampadāya mānaṃ janeti. Sattavidhena māno: māno atimāno mānātimāno omāno adhimāno asmimāno micchāmāno. Aṭṭhavidhena māno: lābhena mānaṃ janeti, alābhena omānaṃ janeti, yasena mānaṃ janeti, ayasena omānaṃ janeti, pasaṃsāya mānaṃ janeti, nindāya omānaṃ janeti, sukhena mānaṃ janeti, dukkhena omānaṃ janeti. Navavidhena māno: seyyassa seyyohamasmīti māno, seyyassa sadisohamasmīti māno, seyyassa hīnohamasmīti māno, sadisassa seyyohamasmīti māno, sadisassa sadisohamasmīti māno, sadisassa hīnohamasmīti māno, hīnassa seyyohamasmīti māno, hīnassa sadisohamasmīti māno, hīnassa hīnohamasmīti māno. Dasavidhena māno: Idhekacco mānaṃ janeti jātiyā vā gottena vā –pe– aññataraññatarena vā vatthunā. Yo evarūpo māno maññanā maññitattaṃ unnati unnāmo dhajo sampaggāho ketukamyatā cittassa; ayaṃ vuccati māno.
Mānañca parijāneyyā ’ti – Mānaṃ tīhi pariññāhi parijāneyya: ñātapariññāya tīraṇapariññāya pahānapariññāya.
Katamā ñātapariññā? Mānaṃ jānāti: ayaṃ ekavidhena māno: yā cittassa unnati; ayaṃ duvidhena māno: attukkaṃsanamāno paravambhanamāno –pe– ayaṃ dasavidhena māno: Idhekacco mānaṃ janeti jātiyā vā gottena vā –pe– aññataraññatarena vā vatthunāti jānāti passati; ayaṃ ñātapariññā.
Katamā tīraṇapariññā? Etaṃ ñātaṃ katvā mānaṃ tīreti: aniccato dukkhato –pe– anissaraṇato tīreti; ayaṃ tīraṇapariññā.
Katamā pahānapariññā? Evaṃ tīrayitvā mānaṃ pajahati vinodeti byantīkaroti anabhāvaṃ gameti; ayaṃ pahānapariññā. Mānañca parijāneyyā ’ti mānaṃ imāhi tīhi pariññāhi parijāneyyā ’ti – mānañca parijāneyya.
Sāhasā virato care ’ti – Katamā sāhasā cariyā? Rattassa rāgacariyā sāhasā cariyā, duṭṭhassa dosacariyā sāhasā cariyā, mūḷhassa mohacariyā sāhasā cariyā; vinibaddhassa mānacariyā sāhasā cariyā, parāmaṭṭhassa diṭṭhicariyā sāhasā cariyā, vikkhepagatassa uddhaccacariyā sāhasā cariyā, aniṭṭhāgatassa vicikicchācariyā sāhasā cariyā, thāmagatassa anusayacariyā sāhasā cariyā; ayaṃ sāhasā cariyā. Sāhasā virato care ’ti sāhasācariyā ārato assa, virato paṭivirato nikkhanto nissaṭo vippamutto visaññutto vimariyādīkatena cetasā vihareyya careyya vicareyya irīyeyya vatteyya pāleyya yapeyya yāpeyyā ’ti – sāhasā virato care.
Không nên bi lôi kéo vào việc nói IM dối trá: Việc nói lời dối trá đề cập đến việc nói dối. ở đây, một người nào đó đi đến hiệp hội, hoặc đi đến tập the, hoặc đi đến giữa thân quyến, hoặc đi đến giữa đoàn thể, hoặc đi đến giữa các vương tộc, roi bi mời đen, bị hỏi cung rằng: “Thua ông, hãy đến. Ông biết điều nào thì ong hãy nói điều ấy.” Kẻ ấy trong khi không biết đã nói là: “T6i biết”, hoặc biết đã nói là: “Tôi không biếf hoặc không thấy đã nói là: “T6i thấy”, hoặc thấy đã nói là: “Tôi không thấy.” Như thế, vì nguyên nhân bản thân, hoặc vì nguyên nhân người khác, hoặc vì nguyên nhân tài sản, hoặc vì nguyên nhân vật chát nhỏ nhen roi cố tình nói dối; việc này được gọi là việc nói lời dối trá. Thêm nữa, việc nói dối là với ba yếu tố, với bốn yếu tố, với năm yếu tố? vơi sáu yếu tố? với bảy yếu tố, với tám yếu tố… (nt)… việc nói dối là với tám yếu tố này.
Không nên bi lôi kéo vào việc nói lòi dối trá: Không nên bị đưa di, không nên bị dẫn đi, không nên bị lôi đi, không nên bị mang đi trong việc nói lời dối trá; nên dứt bỏ, nên xua đi, nên làm chấm dứt, nên làm cho không còn hiện hữu việc nói lời dối trá; nên tránh khỏi, xa lánh, tránh xa, đi ra ngoài, rời ra, thoát khỏi, không bị ràng buộc với việc nói lời dối trá, nên sống với tâm đã được làm trở thành không còn giới hạn.
“Không nên bị lôi kéo vào việc nói lời dối trá” là như thế.
Không nên tạo ra sự yêu mến ờ sắc.
Sắc: Là bốn yếu tố chính [đất, nước, lửa, gió], và sắc liên quan đến bốn yếu tố chính.
Không nên tạo ra sự yêu mên ờ săc: Không nên tạo ra sự yêu mên ở săc, không nên tạo ra sự mong muốn ở sắc, không nên tạo ra sự yêu thương ở sắc, không nên tạo ra sự luyến ái ở sắc, không nên làm sanh ra, không nên làm sanh khởi, không nên làm hạ sanh, không nên làm phát sanh.
“Không nên tạo ra sự yêu mên ở s負c” là như thê.
Và nên biết toàn diện về ngã mạn.
Ngã mạn: Ngã mạn theo một loại: Là sự kiêu hãnh của tâm. Ngã mạn theo hai loại: Ngã mạn do tâng bốc bản thân và ngã mạn do khinh bỉ người khác. Ngã mạn theo ba loại, [nghĩ rằng:] “Ta là tốt hơn” là ngã mạn, [nghĩ rằng:] “Ta là ngang bằng” là ngã mạn, [nghĩ rằng:] “Ta là thua k6m” là ngã mạn. Ngã mạn theo bốn loại: Do lợi lộc rồi sanh khởi ngã mạn, do danh vọng rồi sanh khởi ngã mạn, do khen ngợi rồi sanh khởi ngã mạn, do sung sướng rồi sanh khởi ngã mạn. Ngã mạn theo năm loại, [nghĩ rằng:] “Ta đạt được các sắc hợp y” rồi sanh khởi ngã mạn, [nghĩ rằng:] “Ta đạt được các thinh, các hương, các vi, các xúc hợp y” rồi sanh khởi ngã mạn. Ngã mạn theo sáu loại: Do sự thành tựu của mắt roi sanh khởi ngã mạn, do sự thành tựu của tai… do sự thành tựu của mũi… do sự thành tựu của lưỡi… do sự thành tựu của thân… do sự thành tựu của ý rồi sanh khởi ngã mạn. Ngã mạn theo bảy loại: Ngã mạn, cao ngạo, cao ngạo dựa trên ngã mạn, tự ti, tăng thượng mạn, ngã mạn về bản thân, ngã mạn do hiểu biết sai trái. Ngã mạn theo tám loại: Do lợi lộc rồi sanh khởi ngã mạn, do không có lợi lộc rồi sanh khởi tự ti; do danh vọng rồi sanh khởi ngã mạn, do không có danh vọng roi sanh khởi tự ti; do lời khen roi sanh khởi ngã mạn, do lời chê rồi sanh khởi tự ti; do sung sướng rồi sanh khởi ngã mạn, do đau khổ rồi sanh khởi tự ti. Ngã mạn theo chín loại, [nghĩ rằng:] “Ta là tốt hơn so với người tốt hơn,, là ngã mạn, “ta là ngang bằng so với người tốt hơn,, là ngã mạn, “ta là thua kém so với người tốt hơn,, là ngã mạn, “ta là tốt hơn so với người ngang bằng,9 là ngã mạn, “ta là ngang bằng so với người ngang bằpg” là ngã mạn, “ta là thua kém so với người ngang b3ng” là ngã mạn, “ta là tốt hơn so với người thua kEm” là ngã mạn, “ta là ngang bằng so với người thua kém^, là ngã mạn, “ta là thua kém so với người thua kém,, là ngã mạn. Ngã mạn theo mười loại: ở đây một người nào đó sanh khởi ngã mạn về xuất thân, hoặc về dòng dõi,..・(nt)… hoặc về sự việc này khác. Ngã mạn nào có hình thức như vậy là biểu hiện của ngã mạn, trạng thái của ngã mạn, sự kiêu hãnh, sự hãnh diện, sự giương lên [như ngọn cờ], sự tự nâng lên, sự mong muốn nổi bật của tâm, điều này được gọi là ngã mạn.
Và nên biêt toàn diện vê ngã mạn: Nên biêt toàn diện vê ngã mạn với ba trường hợp biết toàn diện: Biết toàn diện về điều đã được biết, biêt toàn diện về sự xét đoán, biết toàn diện về sự dứt bỏ.
Biết toàn diện về điều đã được biết là những gì? Biết về ngã mạn: Biết rằng, thấy rằng: “Cái này là ngã mạn theo một loại: Là sự kiêu hãnh của tâm. Cái này là ngã mạn theo hai loại: Ngã mạn do tâng bóc bản thân và ngã mạn do khinh bỉ người khác. … (nt)… Cái này là ngã mạn theo mười loại: ơ đây, một n^ười nào đó sanh khởi ngã mạn về xuất thân, hoặc vê dòng dõi,… (nt)..・ hoặc vê sự việc này khác,,; điều này là sự biết toàn diện về điều đã được biết.
Biết toàn diện về sự xét đoán là những gì? Sau khi thực hiện điều đã được biết như thế thì xét đoán về ngã mạn: Xét đoán là vô thường, là khổ,… (nt)… là không phải sự thoát ra;4 điều này là sự biết toàn diện về sự xét đoán.
Biết toàn diện về sự dứt bỏ là những gì? Sau khi xét đoán như vậy thì dứt bỏ; xua đi, làm chấm dứt, làm cho không còn hiện hữu ngã mạn; điều này là sự biêt toàn diện về sự dứt bỏ.
Và nên biết toàn diện về ngã mạn: Nên biết toàn diện về ngã mạn với ba trường hợp biết toàn diện này.
uVà nên biết toàn diện về ngã mạn” là như thế.
Nên hành xử tránh xa sự vội vàng: Hành vi vội vàng là việc nào? Hành vi luyến ái của kẻ bi luyến ái là hành vi vội vàng, hành vi sân hận của kẻ bị sân hận là hành vi vội vàng, hành vi si mê của kẻ bị si mê là hành vi vội vàng, hành vi ngã mạn của kẻ bị trói buộc là hành vi vội vàng, hành vi tà kiến của kẻ bi bám víu là hành vi vội vàng, hành vi phóng dật của kẻ bị tán loạn là hành vi vội vàng, hành vi hoài nghi của kẻ không dứt khoát là hành vi vội vàng, hành vi tiềm an của kẻ cứng cỏi là hành vi vội vàng; việc này là hành vi vội vàng.
Nên hành xử tránh xa sự vội vàng: Nên tránh khỏi, xa lánh, tránh xa, đi ra ngoài, rời ra, thoát khỏi, không bi ràng buộc với hành vi vội vàng, nên an trú, nên thực hành, nên cư xử, nên sinh hoạt, nên vận hành, nên bảo hộ, nên hộ trì, nên bảo dưỡng với tâm đã được làm trở thành không còn giới hạn.
Nên hành xử tránh xa sự vội vàng” là như thế.
Tenāha bhagavā: “Mosavajje na niyyetha rūpe snehaṃ na kubbaye, mānañca parijāneyya sāhasā virato care ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Không nên bị lôi kéo vào việc nói lời dối trá, không nên tạo ra sự yêu mến ở sắc, và nên biết toàn diện về ngã mạn, nên hành xử tránh xa sự vội vàng.”
15.10
Purāṇaṃ nābhinandeyya nave khantiṃ na kubbaye, hīyamāne na soceyya ākāsaṃ na sito siyā.
Không nên thích thú cái cũ (ngũ uẩn quá khứ), không nên tạo ra sự ưa chuộng cái mới (ngũ uẩn vị lai), trong khi (cái gì) đang bị tiêu hoại, không nên sầu muộn, không nên nương tựa hư không (tham ái).
Không hoan hỷ việc cũ,
Không nhẫn chịu sự mới,
Trong tổn giảm không sầu,
Không liên hệ tham ái,
(Kinh Tập, câu kệ 944)
Purāṇaṃ nābhinandeyyā ’ti – Purāṇaṃ vuccati atītā rūpā vedanā saññā saṅkhārā viññāṇaṃ. Atīte saṅkhāre taṇhāvasena diṭṭhivasena nābhinandeyya nābhivadeyya na ajjhoseyya, abhinandanaṃ abhivadanaṃ ajjhosānaṃ gāhaṃ parāmāsaṃ abhinivesaṃ pajaheyya vinodeyya byantīkareyya anabhāvaṃ gameyyā ’ti – purāṇaṃ nābhinandeyya.
Trang 600: Trang 601: Nave khantiṃ na kubbaye ’ti – Navā vuccanti paccuppannā rūpā vedanā saññā saṅkhārā viññāṇaṃ. Paccuppanne saṅkhāre taṇhāvasena diṭṭhivasena khantiṃ na kareyya, chandaṃ na kareyya, pemaṃ na kareyya, rāgaṃ na kareyya na janeyya na sañjaneyya na nibbatteyya nābhinibbatteyyā ’ti – nave khantiṃ na kubbaye.
Hīyamāne na soceyyā ’ti – Hīyamāne hāyamāne parihāyamāne vemāne vigacchamāne antaradhāyamāne na soceyya na kilameyya na parāmaseyya na parideveyya na urattāḷiṃ kandeyya na sammohaṃ āpajjeyya. Cakkhusmiṃ hīyamāne hāyamāne parihāyamāne vemāne vigacchamāne antaradhāyamāne – sotasmiṃ – ghānasmiṃ – jivhāya – kāyasmiṃ – rūpasmiṃ – saddasmiṃ – gandhasmiṃ – rasasmiṃ – phoṭṭhabbasmiṃ – kulasmiṃ – gaṇasmiṃ – āvāsasmiṃ – lābhasmiṃ – yasasmiṃ – pasaṃsāya – sukhasmiṃ – cīvarasmiṃ – piṇḍapātasmiṃ – senāsanasmiṃ – gilānapaccayabhesajjaparikkhārasmiṃ hīyamāne hāyamāne parihāyamāne vemāne vigacchamāne antaradhāyamāne na soceyya na kilameyya na parāmaseyya na parideveyya na urattāḷiṃ kandeyya na sammohaṃ āpajjeyyā ’ti – hīyamāne na soceyya.
Ākāsaṃ na sito siyā ’ti – Ākāsaṃ vuccati taṇhā: yo rāgo sārāgo –pe– abhijjhā lobho akusalamūlaṃ. Kiṃkāraṇā ākāsaṃ vuccati taṇhā? Yāya taṇhāya rūpaṃ ākassati samākassati gaṇhāti parāmasati abhinivisati, vedanaṃ – saññaṃ – saṅkhāre – viññāṇaṃ – gatiṃ – upapattiṃ – paṭisandhiṃ – bhavaṃ – saṃsāraṃ – vaṭṭaṃ ākassati samākassati gaṇhāti parāmasati abhinivisati, taṃkāraṇā ākāsaṃ vuccati taṇhā.
Ākāsaṃ na sito siyā ’ti – Taṇhānissito na siyā, taṇhaṃ pajaheyya vinodeyya byantīkareyya anabhāvaṃ gameyya, taṇhāya ārato assa virato paṭivirato nikkhanto nissaṭo vippamutto visaññutto vimariyādīkatena cetasā vihareyyā ’ti – ākāsaṃ na sito siyā.
Không nên thích thú cái cũ [ngũ uẩn quá khứ].
Cái cũ: Nói đến các sắc-thọ-tưởng-hành-thức thuộc quá khứ. Không nên thích thú, không nên tán thưởng, không nên bám chặt các hành thuộc quá khứ do tác động của tham ái5 do tác động của tà kiên; nên dứt bỏ? nên xua di, nên làm chấm dứt, nên làm cho không còn hiện hữu sự thích thú? sự tán thưởng, sự bám chặt, sự nắm lấy, sự bám víu, sự chấp chặt.
“Không nên thích thú cái cũ [ngũ uẩn quá khứ],, là như thế.
Không nên tạo ra sự châp nhận cái mói [ngũ uân hiện tại].
Cái mới: Nói đến các sắc-thọ-tưởng-hành-thức thuộc hiện tại. Không nên tạo ra sự chấp nhận, không nên tạo ra sự mong muốn, không nên tạo ra sự yêu thương, không nên tạo ra sự luyến ái5 không nên làm sanh ra, không nên làm sanh khởi, không nên làm hạ sanh, không nên làm phát sanh các hành thuộc hiện tại do tác động của tham ái, do tác động của tà kiên.
“Không nên tạo ra sự châp nhận cái mới [ngũ uân hiện t@i]” là như thê.
Trong khỉ [cái gì] đang bi tiêu hoại, không nên sầu muộn: Trong khi [cái gì] đang bị tiêu hoại, đang bị giảm thiêu, đang bị suy giảm, không còn hiện hữu, đang bị đi mất, đang bị biến mất, thì không nên sâu muộn, không nên mệt mỏi, không nên bám víu, không nên than vãn5 không nên đấm ngực khóc lóc, không nên đi đến sự mê muội. Trong khi mắt đang bị tiêu hoại, đang bi giảm thiểu, đang bị suy giảm, không còn hiện hữu, đang bị đi mất, đang bị biến mất,… trong khi tai… mũi… lưỡi… thân… sác… thinh… hương… vị… xúc… gia tộc… đồ chúng… chỗ ngụ… lợi lộc… danh vọng… lời khen… hạnh phúc… y phục… đồ ăn khất thực… chỗ nằm ngồi… vật dụng là thuốc men chữa bệnh đang bị tiêu hoại, đang bi giảm thiểu, đang bị suy giảm, không còn hiện hữu, đang bị đi mất, đang bi biến mát thì không nên sâu muộn, không nên mệt mỏi, không nên bám víu, không nên than vãn, không nên đâm ngực khóc lóc, không nên đi đến sự mê muội.
“Trong khi [cái gì] đang bị tiêu hoại, không nên sầu muộn^, là như thế.
Không nên phụ thuộc vào sự lôi cuốn.
Sự lôi cuôn: Nói đên tham ái, tức là sự luyên ái, luyên ái mãnh liệt,… (nt)… tham đắm, tham, cội nguồn của bát thiện. Vì lý do gì mà lôi cuốn được gọi là tham ái? Do tham ái, [chúng sanh] lôi kéo, lôi theo, năm lấy, bám víu, chấp chặt vào sắc, [chúng sanh] lôi kéo, lôi theo, nắm lấy, bám víu, chấp chặt vào thọ… tưởng… các hành… thức… cảnh giới tái sanh… sự tái sanh… sự nối liền tái sanh… sự hiện hữu… sự luân hồi… sự luân chuyển; vì lý do ấy mà lôi cuốn được gọi là tham ái.
Không nên phụ thuộc vào sự lôi cuốn: Không nên nương tựa tham ái, nên dứt bỏ, nên xua đi, nên làm chấm dứt, nên làm cho không còn hiện hữu tham ái; nên tránh khỏi, xa lánh, tránh xa, đi ra ngoài, rời ra, thoát khỏi, không bị ràng buộc với tham ái, nên sống với tâm đã được làm trở thành không còn giới hạn.
“Không nên phụ thuộc vào sự lôi cuốn95 là như thế.
Tenāha bhagavā: “Purāṇaṃ nābhinandeyya nave khantiṃ na kubbaye, hīyamāne na soceyya ākāsaṃ na sito siyā ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Không nên thích thú cái cũ (ngũ uẩn quá khứ), không nên tạo ra sự ưa chuộng cái mới (ngũ uẩn hiện tại), trong khi (cái gì) đang bị tiêu hoại, không nên sầu muộn, không nên nương tựa hư không (tham ái).”
15.11
Gedhaṃ brūmi mahoghoti, ājavaṃ brūmi jappanaṃ, ārammaṇaṃ pakampanaṃ, kāmapaṅko duraccayo
Ta gọi thèm khát là ‘dòng lũ lớn,’ Ta gọi tham muốn là dòng nước mạnh, (sự bám vào) đối tượng là rung động, dục là bãi lầy khó vượt qua được.
Ái, Ta gọi bộc lưu,
Mong cầu gọi bọt nước,
Sở duyên gọi biến kể,
Bùn dục khó vượt qua.
(Kinh Tập, câu kệ 945)
Gedhaṃ brūmi mahoghotī ’ti – Gedho vuccati taṇhā, yo rāgo sārāgo –pe– abhijjhā lobho akusalamūlaṃ. Mahogho vuccati taṇhā, yo rāgo sārāgo –pe– abhijjhā lobho akusalamūlaṃ. Gedhaṃ brūmi mahoghotī ’ti gedhaṃ mahoghoti brūmi ācikkhāmi desemi paññapemi paṭṭhapemi vivarāmi vibhajāmi uttānīkaromi pakāsemī ’ti – gedhaṃ brūmi mahoghoti.
Ājavaṃ brūmi jappanan ’ti – Ājavā vuccati taṇhā, yo rāgo sārāgo –pe– abhijjhā lobho akusalamūlaṃ. Jappanāpi vuccati taṇhā, yo rāgo sārāgo –pe– abhijjhā lobho akusalamūlaṃ. Ājavaṃ brūmi jappanan ’ti ājavaṃ jappanāti brūmi ācikkhāmi –pe– uttānīkaromi pakāsemī ’ti – ājavaṃ brūmi jappanaṃ.
Ārammaṇaṃ pakampanan ’ti – Ārammaṇampi vuccati taṇhā, yo rāgo sārāgo –pe– abhijjhā lobho akusalamūlaṃ. Pakampanampi vuccati taṇhā, yo rāgo sārāgo –pe– abhijjhā lobho akusalamūlan ’ti – ārammaṇaṃ pakampanaṃ.
Kāmapaṅko duraccayo ’ti – Kāmapaṅko kāmakaddamo kāmakileso kāmapalipo kāmapaḷirodho duraccayo durativatto duttaro duppataro dussamatikkamo dubbītivatto ’ti – kāmapaṅko duraccayo.
Ta nói thèm khát là í6dòng lũ lớn”: Thèm khát nói đến tham ái, tức là sự luyến ái, luyến ái mãnh liệt,… (nt)… tham đắm, tham, cội nguồn của bất thiện. Dòng lũ lớn nói đến tham ái, tức là sự luyến ái, luyến ái mãnh liệt,… (nt)… tham đắm, tham, cội nguồn của bất thiện.
Ta nói thèm khát là 6ídòng lũ lớn”: Ta nói về, Ta nêu ra, Ta chỉ bảo, Ta thông báo, Ta ấn định, Ta khai mở, Ta chia sẻ9 Ta làm rõ, Ta bày tỏ rằng: “Thèm khát là ‘dòng lũ lớn.3
“Ta nói thèm khát là Mòng lũ lớn'” là như thế.
Ta nói tham muốn là dòng nước mạnh: Dòng nước mạnh nói đến tham ái, tức là sự luyên ái, luyên ái mãnh liệt,… (nt)… tham đăm9 tham, cội nguôn của bất thiện. Tham muốn nói đến tham ái, tức là sự luyến ái, luyến ái mãnh liệt,…(nt)… tham đăm, tham, cội nguôn của bát thiện.
Ta nói tham muốn là dòng nước mạnh: Ta nói về, Ta nêu ra5… (nt)… Ta làm rõ, Ta bày tỏ rằng: “Tham muốn là dòng nước mạnh.,,
“Ta nói tham muốn là dòng nước mạnh,, là như thế.
[Sự bám vào] đối tượng là sự chấn động: [Sự bám vào] đối tượng nói đến tham ái, tức là sự luyến ái, luyến ái mãnh liệt,… (nt)… tham đắm, tham, cội nguồn của bát thiện. Sự chân động nói đên tham ái, tức là sự luyên ái, luyên ái mãnh liệt,… (nt)..・ tham đắm, tham, cội nguồn của bất thiện.
“[Sự bám vào] đối tượng là sự chấn động,9 là như thế.
Dục là bãi lây khó vượt qua được: Dục là bãi lây, dục là vũng bùn, dục là ô nhiễm, dục là đầm lầy, dục là sự vướng bận khó vượt qua, khó vượt trội, khó vượt lên, khó vượt khỏi, khó vượt qua hẳn, khó vượt qua khỏi.
“Dục là bãi lầy khó vượt qua được” là như thế.
Tenāha bhagavā: “Gedhaṃ brūmi mahoghoti ājavaṃ brūmi jappanaṃ, ārammaṇaṃ pakampanaṃ kāmapaṅko duraccayo ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Ta gọi thèm khát là ‘dòng lũ lớn,’ Ta gọi tham muốn là dòng nước mạnh, (sự bám vào) đối tượng là rung động, dục là bãi lầy khó vượt qua được.”
15.12
Saccā avokkamaṃ muni thale tiṭṭhati brāhmaṇo, sabbaṃ so paṭinissajja sa ve santo ’ti vuccati.
Không chệch khỏi sự thật (gọi là) bậc hiền trí, đứng ở đất liền (gọi là) vị Bà-la-môn. Vị ấy sau khi xả bỏ tất cả, vị ấy quả thật được gọi là ‘bậc an tịnh.’
Ẩn sĩ không rời chân,
Phạm chí trú đất liền,
Vị từ bỏ tất cả,
Thật được gọi an tịnh.
(Kinh Tập, câu kệ 946)
Saccā avokkamaṃ munī ’ti – Saccavācāya avokkamanto, sammādiṭṭhiyā avokkamanto, ariyā aṭṭhaṅgikā maggā avokkamanto. Munī ’ti monaṃ vuccati ñāṇaṃ –pe– saṅgajālamaticca so munī ’ti – saccā avokkamaṃ muni.
Thale tiṭṭhati brāhmaṇo ’ti – Thalaṃ vuccati amataṃ nibbānaṃ, yo so sabbasaṅkhārasamatho sabbūpadhipaṭinissaggo taṇhakkhayo virāgo nirodho nibbānaṃ. Brāhmaṇo ’ti sattannaṃ dhammānaṃ bāhitattā brāhmaṇo –pe– asito tādi pavuccate sa brahmā. Thale tiṭṭhati brāhmaṇo’ti thale tiṭṭhati, dīpe tiṭṭhati, tāṇe tiṭṭhati, leṇe tiṭṭhati, saraṇe tiṭṭhati, abhaye tiṭṭhati, accute tiṭṭhati, amate tiṭṭhati, nibbāne tiṭṭhatī ’ti – thale tiṭṭhati brāhmaṇo.
Sabbaṃ so paṭinissajjā ’ti – Sabbaṃ vuccati dvādasāyatanāni: cakkhuñceva rūpā ca –pe– mano ceva dhammā ca. Yato ajjhattikabāhiresu āyatanesu chandarāgo pahīno hoti ucchinnamūlo tālāvatthukato anabhāvakato āyatiṃ anuppādadhammo, ettāvatāpi sabbaṃ cattaṃ hoti vantaṃ muttaṃ pahīnaṃ paṭinissaṭṭhaṃ. Yato taṇhā ca diṭṭhi ca māno ca pahīnā honti acchinnamūlā tālāvatthukatā anabhāvakatā āyatiṃ anuppādadhammā, ettāvatāpi sabbaṃ cattaṃ hoti vantaṃ muttaṃ pahīnaṃ paṭinissaṭṭhaṃ. Yato puññābhisaṅkhāro ca apuññābhisaṅkhāro ca āneñjābhisaṅkhāro ca pahīnā honti, ucchinnamūlā tālāvatthukatā anabhāvakatā āyatiṃ anuppādadhammā, ettāvatāpi sabbaṃ cattaṃ hoti vantaṃ muttaṃ pahīnaṃ paṭinissaṭṭhan ’ti – sabbaṃ so paṭinissajja.
Sa ve santoti vuccatī ’ti – So santo upasanto vūpasanto nibbuto paṭippassaddhoti vuccati kathīyati bhaṇīyati dīpīyati voharīyatī ’ti – sa ve santoti vuccati.
Trong khi không chệch khỏi sự thật, bậc Hiền trí: Trong khi không chệch khỏi lời nói chân thật, trong khi không chệch khỏi chánh kiên, trong khi không chệch khỏi đạo lộ Thanh thiện tám chi phẩn.
Bậc Hiền trí: Bản thể hiền trí nói đến trí,..・(ní)… đã vượt qua sự quyến luyến và mạng lưới [tham ái và tà kiến], vị ấy là hiền trí.
“Trong khi không chệch khỏi sự thật, bậc Hiền trí” là như thế.
Vi Bà-la-môn, đứng ờ đất liền: Đất liền nói đến bất tử, Niết-bàn, là sự yên lặng của tất cả các pháp tạo tác, sự buông bỏ tất cả các mầm tái sanh, sự diệt trừ tham ái, sự lìa khỏi luyến ái, sự diệt tận, Niết-bàn.
Vị Bà-la-môn: Bà-la-môn do trạng thái đã loại trừ bảy pháp:… (nt)… Không nương nhờ, tự tại, vi ấy được gọi là Bà-la-môn.
Vi Bà-la-môn, đứng ờ đất liền: Đứng ở đất liền là đứng ở hòn đảo, đứng ở nơi nương náu, đứng ở nơi trú ẩn, đứng ở nơi nương nhờ, đứng ở nơi không sợ hãi, đứng ở bát hoại, đứng ở bất tử, điíig ở Niết-bầưi.
Vị Bà-la-môn, đứng ở đất liền^, là như thế.
Vi ây sau khi buông bỏ tát cả: Tát cả nói đên mười hai xứ: Măt và các sác, tai và các thinh,…(nt)..・ y và các pháp. Khi nào sự mong muốn và luyến ái ở các xứ thuộc nội phân và ngoại phần được dứt bỏ, có rễ đã được cắt lìa, như cây thốt nốt đã bị cụt ngọn, đã bị làm cho không còn hiện hữu, không còn điều kiện sanh khởi trong tương lai, cho đến như thế thì tất cả là đã được từ bỏ, đã được tẩy trừ, đã được giải thoát, đã được dứt bỏ, đã được buông bỏ. Khi nào tham ái, tà kiến và ngã mạn được dứt bỏ, có rễ đã được cắt lìa, như cây thốt nốt đã bị cụt ngọn, đã bi làm cho kh6ng còn hiện hữu, không còn điều kiện sanh khởi trong tương lai, cho đến như the thì tất cả là đã được từ bỏ, đã được tẩy trừ, đã được giải thoát, đã được dứt bỏ, đã được buông bỏ. Khi nào phúc hành, phi phúc hành và bất động hành được dứt bỏ, có rễ đã được cắt lìa, như cây thốt nót đã bi cụt ngọn, đã bi làm cho khôn^ còn hiện hữu, không còn điều kiện sanh khởi trong tương lai, cho đến như the thì tất cả là đã được từ bỏ, đã được tẩy trừ, đã được giải thoát, đã được dứt bỏ, đã được buông bỏ.
ấy sau khi buông bỏ tất c以”là như thế.
Vỉ ấy quả thật được gọi ỉa 6íbậc An tinh95: Vi ấy được gọi, được thuyết, được phát ngôn. được giảng giải, được diễn tả là ubậc An tinh, bậc Yên tinh, bậc Vắng lặng, bậc Tịch diệt, bậc Tịch tjnh.”
“Vj ấy quả thật được gọi là bậc ‘An tjnh'” là như thế.
Tenāha bhagavā: “Saccā avokkamaṃ muni thale tiṭṭhati brāhmaṇo, sabbaṃ so paṭinissajja sa ve santoti vuccatī ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Không chệch khỏi sự thật (gọi là) bậc hiền trí, đứng ở đất liền (gọi là) vị Bà-la-môn. Vị ấy sau khi xả bỏ tất cả, vị ấy quả thật được gọi là ‘bậc an tịnh.’”
15.13
Sa ve vidvā sa vedagū ñatvā dhammaṃ anissito, sammā so loke irīyāno na pihetīdha kassaci.
Quả thật, vị ấy là bậc đã hiểu biết, vị ấy là bậc đã đạt được sự thông hiểu, sau khi biết được pháp, vị ấy không nương tựa (vào tham ái và tà kiến). Vị ấy, trong khi cư xử chân chánh ở thế gian, không mong cầu đối với bất cứ người nào ở nơi đây.
Biết vậy, gọi người biết,
Biết rồi không y pháp,
Chơn chánh sống ở đời,
Không tham ái một ai.
(Kinh Tập, câu kệ 947)
Sa ve vidvā sa vedagū ’ti – Vidvā ’ti vidvā vijjāgato ñāṇī vibhāvī medhāvī. Vedagū ’ti vedā vuccanti catusu maggesu ñāṇaṃ –pe– sabbavedanāsu vītarāgo sabbaṃ vedam aticca vedagū so ’ti; – sa ve vidvā sa vedagū.
Ñatvā dhammaṃ anissito ’ti – Ñatvā ’ti ñatvā jānitvā tulayitvā tīrayitvā vibhāvayitvā vibhūtaṃ katvā: ‘sabbe saṅkhārā aniccā ’ti ñatvā jānitvā tulayitvā tīrayitvā vibhāvayitvā vibhūtaṃ katvā, ‘sabbe saṅkhārā dukkhā ’ti –pe– ‘yaṃ kiñci samudayadhammaṃ, sabbaṃ taṃ nirodhadhamman ’ti ñatvā jānitvā tulayitvā tīrayitvā vibhāvayitvā vibhūtaṃ katvā. Anissito ’ti dve nissayā: taṇhānissayo ca diṭṭhinissayo ca. –pe– ayaṃ taṇhānissayo –pe– ayaṃ diṭṭhinissayo. Taṇhānissayaṃ pahāya diṭṭhinissayaṃ paṭinissajitvā cakkhuṃ anissito – sotaṃ anissito – ghānaṃ anissito –pe– diṭṭha-suta-muta-viññātabbe dhamme anissito anallīno anupagato anajjhosito anadhimutto nikkhanto nissaṭo vippamutto visaññutto vimariyādīkatena cetasā viharatī ’ti – ñatvā dhammaṃ anissito.
Sammā so loke irīyāno ’ti – Yato ajjhattikabāhiresu āyatanesu chandarāgo pahīno hoti ucchinnamūlo tālāvatthukato anabhāvakato āyatiṃ anuppādadhammo, ettāvatāpi sammā loke carati viharati irīyati vattati pāleti yapeti yāpeti. Yato puññābhisaṅkhāro ca apuññābhisaṅkhāro ca āneñjābhisaṅkhāro ca pahīnā honti acchinnamūlā tālāvatthukatā anabhāvakatā āyatiṃ anuppādadhammā, ettāvatāpi sammā loke carati viharati irīyati vattati pāleti yapeti yāpetī ’ti – sammā so loke irīyāno.
Na pihetīdha kassacī ’ti – Pihā vuccati taṇhā, yo rāgo sārāgo –pe– abhijjhā lobho akusalamūlaṃ. Yassesā pihā taṇhā pahīnā samucchinnā vūpasantā paṭippassaddhā abhabbuppattikā ñāṇagginā daḍḍhā, so kassaci na piheti khattiyassa vā brāhmaṇassa vā vessassa vā suddassa vā gahaṭṭhassa vā pabbajitassa vā devassa vā manussassa vāti – na pihetīdha kassaci.
Quả thật, vi ấy là bậc đã hiểu biết, vi ấy là bậc đã đạt được sự thông hiểu.
Bậc đã hiểu biết: Bậc đã hiểu biết là vị đã đạt đến kiến thức, có trí, có sự rành rẽ, có sự thông minh.
Bậc đã đạt được sự thông hiểu: Sự thông hiểu nói đến trí ở bốn đạo,… (nt)… đã xa lìa sự luyến ái đối với tất cả các cảm thọ, sau khi đã vượt qua mọi hiếu biết, vị ấy là bậc đã đạt được sự thông hiểu.
“Quả thát, vị ấy là bậc đã hiểu biết, vị ấy là bậc đã đạt được sự thông hiểu” là như thế.
Sau khỉ biết được giáo pháp, vị ấy không nương tựa [vào tham ái và tà kiến].
Sau khi biết: Là sau khi nhận biết, sau khi biết được, sau khi cân nhắc, sau khi xác đinh, sau khi minh định, sau khi làm rõ rệt. Sau khi nhận biết, sau khi biết được, sau khi cân nhắc, sau khi xác định, sau khi minh đinh, sau khi làm rõ rệt rằng: “Tất cả các hành là vô thuơng”; sau khi nhận biết, sau khi biết được, sau khi cân nhắc, sau khi xác định, sau khi minh định, sau khi làm rõ rệt rang: “Tất cả các hành là kh8″;…(nt)… “Biều gì có bản tánh được sanh lên, toàn bộ điều ấy đều có bản tánh hoại diet.”
Không nương tựa: Có hai sự nương tựa: Sự nương tựa vào tham ái và sự nương tựa vào tà kiến…. (nt)… điều này là sự nương tựa vào tham ái…. (nt)… điều này là sự nương tựa vào tà kiến. Sau khi dứt bỏ sự nương tựa vào tham ái, sau khi buông bỏ sự nương tựa vào tà kiến, không nương tựa vào mắt,… không nương tựa vào tai,… không nương tựa vào mũi,… (nt)… không nương tựa vào các pháp đã được thấy, đã được nghe, đã được cảm giác, đã được nhận thức, không bám vào, không đến gần, không bám chặt, không hướng đến, đã đi ra ngoài, đã được rời ra, đã được thoát khỏi, không bị ràng buộc, sống với tâm đã được làm trở thành không còn giới hạn.
“Sau khi biết được giáo pháp, vị ấy không nương tựa [vào tham ái và tà kiến]” là như thế.
Vi ấy, trong khi cư xử chân chánh ờ thế gian: Khi nào sự mong muốn và luyến ái ở các xứ thuộc nội phần và ngoại phần được dứt bỏ, có rễ đã được cắt lìa, như cây thốt nốt đã bị cụt ngọn, đã bị làm cho không còn hiện hữu, không còn điều kiện sanh khởi trong tương lai; cho đến như thế [vi ấy] sống, tru ngụ, sinh hoạt, vận hành, bảo hộ, hộ trì, bảo dưỡng chân chánh ở thế gian. Khi nào phúc hành, phi phúc hành và bất động hành5 được dứt bỏ, có rễ đã được cắt lìa, như cây thốt nốt đã bị cụt ngọn, đã bi làm cho không còn hiện hữu, không còn điêu kiện sanh khởi trong tương lai; cho đên như thê [vị áy] sông, trú ngụ, sinh hoạt, vận hành, bảo hộ, hộ trì, bảo dưỡng chân chánh ở thế gian.
Vị ấy, trong khi cư xử chân chánh ở thế gian” là như thế.
Không mong cầu đối với bất cứ người nào ờ noi đây: Mong cầu nói đến tham ái, tức là sự luyến ái, luyến ái mãnh liệt,… (nt)… tham đắm, tham, cội nguồn của bất thiện. Đối với vị nào, sự mong cầu tham ái này là đã được dứt bỏ, đã được trừ tuyệt, đã được vang lặng, đã được tịch tịnh, không thể sanh khởi nữa, đã được thiêu đốt bởi ngọn lửa trí tuệ, vị ấy không mong cầu đoi với bất cứ vị Sát-đê-lỵ, hoặc vị Bà-la-môn, hoặc thương buôn, hoặc kẻ nô lệ, hoặc người tại gia, hoặc vị xuất gia, hoặc vị trời, hoặc người nhân loại nào ở nơi đây.
“Không mong cầu đối với bất cứ người nào ở nơi đây59 là như thế.
Tenāha bhagavā: “Sa ce vidvā sa vedagū ñatvā dhammaṃ anissito, sammā so loke irīyāno na pihetīdha kassacī ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Quả thật, vị ấy là bậc đã hiểu biết, vị ấy là bậc đã đạt được sự thông hiểu, sau khi biết được pháp, vị ấy không nương tựa (vào tham ái và tà kiến). Vị ấy, trong khi cư xử chân chánh ở thế gian, không mong cầu đối với bất cứ người nào ở nơi đây.”
15.14
Yodha kāme accatari saṅgaṃ loke duraccayaṃ, na so socati nājjheti chinnasoto abandhano.
Ở đây, vị nào vượt qua các dục, sự quyến luyến ở thế gian khó vượt qua được, vị ấy không sầu muộn, không ưu tư, có dòng chảy đã được cắt đứt, không còn sự trói buộc.
Ai ở đây vượt dục,
Ái khó vượt ở đời,
Không sầu, không tham muốn,
Cắt dòng không trói buộc.
(Kinh Tập, câu kệ 948)
Yodha kāme accatari saṅgaṃ loke duraccayan ’ti – Yo ’ti yo sādiso yathā yutto yathā vihito yathāpakāro yaṃṭhānaṃpatto yaṃdhammasamannāgato khattiyo vā brāhmaṇo vā vesso vā suddo vā gahaṭṭho vā pabbajito vā devo vā manusso vā. Kāmā ’ti uddānato dve kāmā vatthukāmā ca kilesakāmā ca –pe– ime vuccanti vatthukāmā. –pe– ime vuccanti kilesakāmā.
Saṅgā ’ti satta saṅgā: rāgasaṅgo dosasaṅgo mohasaṅgo mānasaṅgo diṭṭhisaṅgo kilesasaṅgo duccaritasaṅgo. Loke ’ti apāyaloke manussaloke devaloke khandhaloke dhātuloke āyatanaloke. Saṅgaṃ loke duraccayan ’ti yo kāme ca saṅge ca loke duraccaye durativatte duttare duppatare dussamatikkame dubbinivatte atari uttari patari samatikkami vinivattayī ’ti – yodha kāme accatari saṅgaṃ loke duraccayaṃ.
Na so socati nājjhetī ’ti – vipariṇataṃ vatthuṃ na socati; vipariṇatasmiṃ vā vatthusmiṃ na socati; ‘cakkhuṃ me viparaṇatan ’ti na socati; sotaṃ me – ghānaṃ me – jivhā me – kāyo me – rūpā me – saddā me – gandhā me – rasā me – phoṭṭhabbā me – kulaṃ me – gaṇo me – āvāso me – lābho me – yaso me – pasaṃsā me – sukhaṃ me – cīvaraṃ me – piṇḍapāto me – senāsanaṃ me – gilānapaccayabhesajjaparikkhārā me – mātā me – pitā me – bhātā me – bhaginī me – putto me – dhītā me – mittā me – amaccā me – ñātī me – sālohitā me vipariṇatā ’ti na socati na kilamati na paridevati na urattāḷiṃ kandati na sammohaṃ āpajjatī ’ti – na socati. Nājjhetī ’ti – nājjheti na ajjheti na upanijjhāyati na nijjhāyati na pajjhāyati; athavā na jāyati na jīyati na mīyati na cavati na upapajjatī ’ti nājjhetī ’ti – na so socati nājjheti.
Chinnasoto abandhano ’ti – Sotā vuccati taṇhā, yo rāgo sārāgo –pe– abhijjhā lobho akusalamūlaṃ. Yassesā sotā taṇhā pahīnā samucchinnā –pe– ñāṇagginā daḍḍhā; so vuccati chinnasoto. Abandhanāni ’ti rāgabandhanaṃ dosabandhanaṃ mohabandhanaṃ mānabandhanaṃ diṭṭhibandhanaṃ kilesabandhanaṃ duccaritabandhanaṃ. Yassetāni bandhanāni pahīnāni samucchinnāni –pe– ñāṇagginā daḍḍhāni; so vuccati abandhano ’ti – chinnasoto abandhano.
ở đây, vi nào vượt qua các dục, sự quyến luyến ờ thế gian khó vượt qua được.
Vị nào: Vi nào là nệười như thê, được găn bó như thê, được định đặt như thế, có biểu hiện như the, đã đạt đến địa vi ấy, đã thành tựu phẩm chất ấy, hoặc là vi Sát-đế-lỵ, hoặc là vi Bà-la-môn, hoặc là thương nhân, hoặc là kẻ nô lệ, hoặc là người tại gia, hoặc là vị xuất gia, hoặc là vị thiên nhân, hoặc là người nhân loại.
Các dục: Theo sự phân loại thì có hai loại dục: Vật dục và ô nhiễm dục…. (nt)… Các điều này được gọi là vật dục. … (nt)… Các điều này được gọi là ô nhiễm dục.
Sự quyến luyến: Có bảy sự quyến luyến: Quyến luyến do luyến ái, quyến luyến do sân hận, quyến luyến do si mê, quyến luyến do ngã mạn, quyến luyến do tà kiến, quyến luyến do ô nhiễm, quyến luyến do uế hạnh.
Ở thế gian: ở thế gian của khổ cảnh, ở thế gian của loài người, ở thế gian của chư thiên, ở thê gian của các uân, ở thê gian của các giới, ở thế gian của các xứ.
Sự quyến luyến ờ thế gian khó vượt qua được: Vi nào đã vượt qua, đã vượt lên, đã vượt khỏi, đã vượt qua hãn, đã vượt qua khỏi các dục và các sự quyến luyến ở thế gian [là các pháp] khó vượt qua, khó vượt trội, khó vượt lên, khó vượt khỏi, khó vượt qua han, khó vượt qua khỏi.
“O đây, vi nào vượt qua các dục, sự quyên luyên ở thê gian khó vượt qua được” là như thế.
Vị ấy không sầu muộn, không mi tư: [Vị ấy] không sầu muộn về vật đã bị biến đổi; không sầu muộn khi vật bị biến đổi; [nghĩ rằng:] “Mắt của ta bị biến đổr5 mà không sầu muộn; [nghirằng:] “Tai của ta… “Mũi của ta… “Lưỡi của ta…”Thân của ta… “Các săc của ta… uCác thinh của ta… “Các hương của ta… uCác vị của ta… “Các xúc của ta…”Gia tộc của ta… 66ĐỒ chúng của ta… “Chỗ ngụ của ta… “Lọi lộc của ta…”Danh vọng của ta… “Lời khen của ta… “Hạnh phúc của ta… “Y phục của ta… “Đồ ăn khất thực của ta… uChỗ nằm ngồi của ta… “Vật dụng là thuốc men chữa bệnh của ta… “Mẹ của ta… “Cha của ta… “Anh [em] trai của ta… “Chị [em] gái của ta… “Con trai của ta… “Con gái của ta… “Bạn bè của ta… “Thân hữu của ta..・”Thân quyến của ta… “Những người cùng huyết thống của ta bị biến d6i” mà không sầu muộn, không mệt mỏi, không than vãn, không đâm ngực khóc lóc, không đi đên sự mê muội, “không sầu muộn,, là như thế.
Không ưu tư: Không tru tư là không có ưu tư, không nhận xét, không suy xét, không suy gẫm; hoặc là không bị sanh, không bị già, không bị chết, không từ trần, không sanh ra; ”không ưu tư” là như thế.
“Vị ấy không sầu muộn, không ưu tư” là như thế.
Có dòng chảy đã được cắt dứt, không còn sự trói buộc: Dòng chảy nói đến tham ái, tức là sự luyến ái, luyến ái mãnh liệt,… (nt)… tham đắm, tham, cội nguồn của bất thiện. Đối với vị nào, dònệ chảy tham ái ấy đã được dứt bỏ, đã được trừ tuyệt,… (nt)… đã được thiêu đót bởi ngọn lửa trí tuệ, vị ấy được gọi là có dòng chảy đã được căt đứt.
r
Không còn sự trói buộc: Là sự trói buộc của luyên ái. sự trói buộc của sân hận, sự trói buộc của si mê, sự trói buộc của ngã mạn, sự trói buộc của tà kiến, sự trói buộc của ô nhiễm, sự trói buộc của uế hạnh. Đối với vị nào, các sự trói buộc này đã được dứt bỏ, đã được trừ tuyệt,… (nt)… đã được thiêu đốt bởi ngọn lửa trí tuệ; vị ấy được gọi là không còn sự trói buộc.
“Có dòng chảy đã được cắt đứt, không còn sự trói buộc” là như thế.
Tenāha bhagavā: “Yo ’dha kāme accatari saṅgaṃ loke duraccayaṃ, na so socati nājjheti chinnasoto abandhano ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Ở đây, vị nào vượt qua các dục, sự quyến luyến ở thế gian khó vượt qua được, vị ấy không sầu muộn, không ưu tư, có dòng chảy đã được cắt đứt, không còn sự trói buộc.”
15.15
Yaṃ pubbe taṃ visosehi pacchā te māhu kiñcanaṃ, majjhe ce no gahessasi upasanto carissasi.
Điều gì trước đây (quá khứ), ngươi hãy làm khô héo điều ấy. Chớ có bất cứ điều gì sanh khởi đến ngươi sau này (vị lai). Nếu ngươi không nắm lấy (điều gì) ở khoảng giữa (hiện tại), ngươi sẽ sống, được an tịnh.
Trước Ông làm khô cạn
Sau Ông không vật gì,
Ở giữa không nắm giữ,
Ông sẽ sống an tịnh.
(Kinh Tập, câu kệ 949)
Yaṃ pubbe taṃ visosehī ’ti – Atīte saṅkhāre ārabbha ye kilesā uppajjeyyuṃ, te kilese sosehi visosehi sukkhāpehi visukkhāpehi abījaṃ karohi pajaha vinodehi byantīkarohi anabhāvaṃ gamehī ’ti; evampi yaṃ pubbe taṃ visosehi. Athavā ye atītā kammābhisaṅkhārā avipakkavipākā, te kammābhisaṅkhāre sosehi visosehi sukkhāpehi visukkhāpehi abījaṃ karohi pajaha vinodehi byantīkarohi anabhāvaṃ gamehī ’ti; evampi yaṃ pubbe taṃ visosehi.
Pacchā te māhu kiñcanan ’ti – Pacchā vuccati anāgataṃ. Anāgate saṅkhāre ārabbha yāni uppajjeyyuṃ rāgakiñcanaṃ dosakiñcanaṃ mohakiñcanaṃ mānakiñcanaṃ diṭṭhikiñcanaṃ kilesakiñcanaṃ duccaritakiñcanaṃ, imāni kiñcanāni tuyhaṃ mā ahu, mā pāturakāsi, mā janehi, mā sañjanehi, mā nibbattehi, mā abhinibbattehi, pajaha, vinodehi, byantī karohi, anabhāvaṃ gamehī ’ti – pacchā te māhu kiñcanaṃ.
Majjhe ce no gahessasī ’ti – Majjhaṃ vuccati paccuppannā rūpā vedanā saññā saṅkhārā viññāṇaṃ, paccuppanne saṅkhāre taṇhāvasena diṭṭhivasena na gahessasi, na uggahessasi, na gaṇhissasi, na parāmasissasi, nābhivadissasi, na ajjhessasi, abhinandanaṃ abhivadanaṃ ajjhosānaṃ gāhaṃ parāmāsaṃ abhinivesaṃ pajahissasi, vinodessasi, byantī4karissasi, anabhāvaṃ gamessasī ’ti – majjhe ce no gahessasi.
Upasanto carissasī ’ti – Rāgassa santattā samitattā upasamitattā dosassa santattā samitattā upasamitattā –pe– sabbākusalābhisaṅkhārānaṃ santattā samitattā upasamitattā vūpasamitattā vijjhātattā nibbutattā vigatattā paṭippassaddhattā santo upasanto vūpasanto nibbuto paṭippassaddho carissasi viharissasi irīyissasi vattissasi pālessasi yapissasi yāpessasī ’ti – upasanto carissasi.
Điều nào trước đây [quá khứ], ngươi hãy làm khô héo điều ấy: “Những ô nhiễm nào sanh lên liên quan đến các pháp tạo tác thuộc quá khứ, ngươi hãy làm khô cạn, hãy làm khô héo, hãy làm khô ráo, hãy làm khô queo, hãy làm không còn mầm giống, hãy dứt bỏ, hãy xua đi, hãy làm chấm dứt, hãy làm cho không còn hiện hữu các ô nhiễm ấy.” “Biều nào trước đây [quá khứ], ngươi hãy làm khô héo điều ấy” là như vậy. Hoặc là, “các pháp tạo tác là các nghiệp thuộc quá khứ chưa chín muồi, hoặc đã trổ quả, ngươi hãy làm khô cạn, hãy làm khô héo, hãy làm khô ráo, hãy làm khô queo, hãy làm không còn mâm giống, hãy dứt bỏ, hãy xua di, hãy làm chấm dứt, hãy làm cho không còn hiện hữu các pháp tạo tác là các nghiệp ấy.”
“Biều nào trước đây [quá khứ], ngươi hãy làm khô héo điều ấy” còn là như vậy.
Chớ có điều vướng bận sanh khỏi đến ngươi sau này [vi lai]: “Sau này là nói đến thời vị lai. Những điều [vướng bận] nào sanh lên liên quan đến các pháp tạo tác thuộc vi lai: Luyến ái là vướng bận, sân hận là vướng bận, si mê là vướng bận, ngã mạn là vướng bận, tà kiến là vướng bận, ô nhiễm là vướng bận, uế hạnh là vướng bận, mong rằng những điều vướng bận này chớ sanh khởi, chớ xuất hiện đến ngươi; ngươi chớ làm sanh ra, chớ làm sanh khởi, chớ làm hạ sanh, chớ làm phát sanh, ngươi hãy dứt bỏ, hãy xua di, hãy làm chấm dứt, hãy làm cho không còn hiện hữu những điều vướng bận này.”
“Chớ có điều vướng bận sanh khởi đến ngươi sau này [vị lai]99 là như thế.
Nếu lìgiroĩ không nắm lấy [điều gì] ờ khoảng giữa [hiện tại]: “Khoảng giữa nói đến các sắc, thọ, tưởng, hành, thức thuộc hiện tại. Ngươi sẽ không chấp nhận, ngươi sẽ không tiếp thu, ngươi sẽ không nắm lấy, ngươi sẽ không bám víu, ngươi sẽ không tán thưởng, ngươi sẽ không bám chặt các pháp tạo tác thuộc hiện tại do tác động của tham ái, do tác động của tà kiến; ngươi sẽ dứt bỏ, sẽ xua di, sẽ làm chấm dứt, sẽ làm cho không còn hiện hữu sự thích thú, sự tán thưởng, sự bám chặt, sự nắm lấy, sự bám víu, sự chấp chặt.”
“Nếu ngươi không nắm lấy [điều gì] ở khoảng giữa [hiện tại]” là như thế.
Ngươi sẽ sống, được yên tịnh: “Do trạng thái đã được an tịnh, do trạng thái đã được yên lặng, do trạng thái đã được yên tịnh đối với luyến ái, do trạng thái đã được an tịnh, do trạng thái đã được yên lặng, do trạng thái đã được yên tịnh đối với sân hận?… (nt)… do trạng thái đã được an tịnh, do trạng thái đã được yên lặng, do trạng thái đã được yên tịnh, do trạng thái đã được văng lặng, do trạng thái đã được thiêu hủy, do trạng thái đã được tịch diệt, đo trạng thái đã được tách lia, do trạng thái đã được tịch tịnh đối với tất cả các pháp tạo tác bất thiện, được an tịnh, được yên tịnh, được vắng lặng, được tịch diệt, được tịch tịnh; ngươi sẽ sông, sẽ trú ngụ, sẽ sinh hoạt, sẽ vận hành, sẽ bảo hộ, sẽ hộ trì, sề bao dưỡng?9
“Nguôi sẽ sống, được yên tinh” là như thế.
Tenāha bhagavā: “Yaṃ pubbe taṃ visosehi pacchā te māhu kiñcanaṃ, majjhe ce no gahessasi upasanto carissasī ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Điều gì trước đây (quá khứ), ngươi hãy làm khô héo điều ấy. Chớ có bất cứ điều gì sanh khởi đến ngươi sau này (vị lai). Nếu ngươi không nắm lấy (điều gì) ở khoảng giữa (hiện tại), ngươi sẽ sống, được an tịnh.”
15.16
Sabbaso nāmarūpasmiṃ yassa natthi mamāyitaṃ, asatā ca na socati sa ve loke na jīyati.
Đối với vị nào không có vật đã được chấp là của tôi liên quan đến danh và sắc về mọi phương diện, và (là vị) không sầu muộn do tình trạng không có, vị ấy quả thật không bị thua thiệt ở thế gian.
Toàn diện đối danh sắc,
Không gì nghĩ “của ta”
Không có gì không sầu,
Không có già ở đời.
(Kinh Tập, câu kệ 950)
Sabbaso nāmarūpasmiṃ yassa natthi mamāyitan ’ti – Sabbaso ’ti sabbena sabbaṃ sabbathā sabbaṃ asesaṃ nissesaṃ pariyādiyana-vacanam etaṃ sabbaso ’ti. Nāman ’ti cattāro arūpino khandhā. Rūpan ’ti cattāro ca mahābhūtā catunnañca mahābhūtānaṃ upādāya rūpaṃ. Yassā ’ti arahato khīṇāsavassa. Mamāyitan ’ti dve mamattā: taṇhāmamattañca diṭṭhimamattañca. –pe– idaṃ taṇhāmamattaṃ. –pe– idaṃ diṭṭhimamattaṃ. Sabbaso nāmarūpasmiṃ yassa natthi mamāyitan ’ti – Sabbaso nāmarūpasmiṃ mamattā yassa natthi na santi na saṃvijjanti nūpalabbhanti pahīnā samucchinnā vūpasantā paṭippassaddhā abhabbuppattikā ñāṇagginā daḍḍhā ’ti – sabbaso nāmarūpasmiṃ yassa natthi mamāyitaṃ.
Asatā ca na socatī ’ti – Vipariṇataṃ vā vatthuṃ na socati, vipariṇatasmiṃ vā vatthusmiṃ na socati: ‘cakkhuṃ me vipariṇatan ’ti na socati, sotaṃ me – ghānaṃ me – jivhā me – kāyo me – rūpā me – saddā me – gandhā me – rasā me – phoṭṭhabbā me – kulaṃ me – gaṇo me – āvāso me – lābho me –pe– ñātisālohitā me vipariṇatā ’ti na socati na kilamati na paridevati na urattāḷiṃ kandati na sammohaṃ āpajjatī ’ti; evampi asatā ca na socati. Athavā asatāya dukkhāya vedanāya phuṭṭho pareto samohito samannāgato na socati na kilamati na paridevati na urattāḷiṃ kandati na sammohaṃ āpajjatī ’ti; evampi asatā ca na socati. Athavā cakkhurogena phuṭṭho pareto –pe– ḍaṃsamakasavātātapasiriṃsapa samphassena phuṭṭho pareto samohito samannāgato na socati na kilamati na paridevati na urattāḷiṃ kandati na sammohaṃ āpajjatī ’ti; evampi asatā ca na socati. Athavā, asante asaṃvijjamāne anupalabbhamāne ‘ahu vata me, taṃ vata me natthi, siyā vata me, taṃ vatāhaṃ na labhāmī ’ti na socati na kilamati na paridevati na urattāḷiṃ kandati na sammohaṃ āpajjatī ’ti; evampi asatā ca na socati.
Đối vói vi nào không có vật đã được chấp là của ta liên quan đến danh và sắc về mọi phương diện.
về mọi phương diện: Là tất cả theo tổng thể, tất cả trong mọi trường hợp, một cách trọn vẹn, không còn dư sót, từ “sabbaso^ này là lối nói của sự bao gồm.
Danh: Bốn nhóm không có sắc.6
Sắc: Là bốn yếu tố chính [đất, nước, lửa, gió] và sắc liên quan đến bốn yếu tố chính.
Đổi với vi nào: Đối với vị A-la-hán có lậu hoặc đã được cạn kiệt.
Vật đã được chấp là của ta: Có hai trạng thái chấp là của ta: Trạng thái chấp là của ta do tham ái và trạng thái châp là của ta do tà kiến. … (nt)… điều này là trạng thái chấp là của ta do tham ái…. (nt)… điều này là trạng thái chấp là của ta do tà kiến.
Đối với vỉ nào không có vật đã được chấp là của ta liên quan đến danh và sắc về mọi phương diện: Trạng thái chấp là của ta liên quan đến danh và sắc về mọi phương diện đối với vị nào là không c6, không hiện hữu, không tìm thấy, không tồn tại, đã được dứt bỏ, đã được trừ tuyệt, đã được vắng lặng, đã được tịch tịnh, không thể sanh khởi nữa, đã được thiêu đốt bởi ngọn lửa trí tuệ.
“Đối với vị nào không có vật đã được chấp là của ta liên quan đến danh và sắc về mọi phương diện,, là như thế.
Và [là vi] không sầu muộn do tình trạng không có: [Vị ấy] khôĩiệ sầu muộn về vật đã bị biến đổi; không sầu muộn khi vật bị biến đổi; [nghĩ rang:] “Mắt của ta bi biến đổi,5 mà không sầu muộn; [nghĩ rằng:] “Tai của ta… “Mũi của ta… “Lưỡi của ta…”Thân của ta… “Các sắc của ta…”Các thinh của ta.・・ “Các hương của ta… “Các vị của ta… uCác xúc của ta… “Gia tộc của ta… “Đồ chúng của ta..・”Chỗ ngụ eủa ta… uLợi lộc của ta…(nt)… “Những người cùng huyết thống của ta bị biến d6i” mà không sầu muộn, không mệt mỏi, không than vãn, không đấm ngực khóc 16c, không đi đến sự mê muội. “Và [là vị] không sầu muộn do tình trạng không c6” là như vậy. Hoặc là, bị xúc chạm, bị chế ngự, bị xâm nhập, bị sở hữu bởi tình trạng không có, bởi cảm thọ khổ, mà không sầu muộn, không mệt mỏi, không than vãn, không đấm ngực khóc lóc, không đi đến sự mê muội. “Và [là vi] không sầu muộn do tình trạng không c6” còn là như vậy. Hoặc là, bi xúc chạm, bi chế ngự, bị xâm nhập, bi sở hữu bởi xúc do bệnh ở mắt… (nt)..・ bị xúc chạm, bị chế ngự, bị xâm nhập, bị sở hữu bởi xúc chạm với ruồi, muỗi, gió, nắng và các loài bò sát, mà không sầu muộn, không mệt mỏi, không than vãn, không đấm ngực khóc lóc, không đi đến sự mê muội. “Và [là vị] không sầu muộn do tình trạng không c6” còn là như vậy. Hoặc là, trong khi không hiện hữu, không tìm thấy, không tồn tại [nghĩ rằng]: 6íQuả thật đã có cho ta chăng? Cái ấy quả thật không có cho ta! Quả thật sẽ có cho ta chăng? Quả thật ta không đạt được cái ấy!”, mà không sầu muộn, không mệt mỏi, không than vãn, không đấm ngực khóc lóc, không đi đến sự mê muội.
“Và [là vi] không sầu muộn do tình trạng không c6” còn là như vậy.
Sa ve loke na jīyatī ’ti – Yassa ‘mayhaṃ vā idaṃ, paresaṃ vā idan ’ti kiñci rūpagataṃ vedanāgataṃ saññāgataṃ saṅkhāragataṃ viññāṇagataṃ gahitaṃ parāmaṭṭhaṃ abhiniviṭṭhaṃ ajjhositaṃ adhimuttaṃ atthi, tassa jāni atthi. Bhāsitampi hetaṃ:
Vị ấy quả thật không bi thua thiệt ờ thế gian: Đối với vị nào, có bất cứ điều gì liên quan đến sắc, liên quan đến thọ5 liên quan đến tưởng, liên quan đến hành, liên quan đến thức đã được nắm lấy, đã được bám víu, đã được chấp chặt, đã được bám chặt, đã được hướng đến [rằng]: “Hoặc là cái này thuộc về tôi, hoặc là cái này thuộc vê những người khác”, đôi với vi ây, có sự mát mát. Bởi vì, điều này cũng đã được nói đến:
1. “Jiṇṇe rathasse maṇikuṇḍale ca putte ca dāre ca tatheva jiṇṇe, sabbesu bhogesu asevitesu kasmā na santappasi sokakāle?
1. Khi cỗ xe và ngựa, ngọc ma-ni và bông tai bị mất mát, khi con và vợ bị mất mát tương tự y như thế, khi tất cả của cải không còn được sử dụng, tại sao ngài không buồn bực ở thời điểm của sầu muộn?
2. Pubb’ eva maccaṃ vijahanti bhogā macco va ne pubbataraṃ jahāti, asassatā bhogino kāmakāmī tasmā na socāmahaṃ sokakāle.
2. Các của cải rời bỏ con người trước (của cải bị mất mát lúc còn sống), hoặc con người lìa bỏ các của cải trước (chết không đem theo của cải). Này kẻ mong muốn ngũ dục, các của cải không được trường tồn,vì thế, Ta không sầu muộn ở thời điểm của sầu muộn.
3. Udeti āpūrati veti cando atthaṃ gamitvāna paleti sūriyo, viditā mayā sattuka lokadhammā tasmā na socāmahaṃ sokakāle ”ti
3. Mặt trăng mọc lên, tròn dần rồi lại khuyết. Mặt trời sau khi lặn xuống thì biến mất. Này Sattuka, các pháp thế gian đã được Ta nhận biết; vì thế, Ta không sầu muộn ở thời điểm của sầu muộn.
Yassa ‘mayhaṃ vā idaṃ, paresaṃ vā idan ’ti kiñci rūpagataṃ vedanāgataṃ saññāgataṃ saṅkhāragataṃ viññāṇagataṃ gahitaṃ parāmaṭṭhaṃ abhiniviṭṭhaṃ ajjhositaṃ adhimuttaṃ natthi, tassa jāni natthi. Bhāsitampi hetaṃ: “’Nandasi samaṇā ’ti? ‘Kiṃ laddhā āvuso ’ti? ‘Tena hi samaṇa socasī ’ti? ‘Kiṃ jīyittha āvuso ’ti? ‘Tena hi samaṇa neva nandasi na socasī ’ti? ‘Evamāvuso’” ti.
Đối với vị nào, không có bất cứ điều gì liên quan đến sắc, liên quan đến thọ, liên quan đến tưởng, liên quan đến hành, liên quan đến thức đã được nắm lấy, đã được bám víu, đã được chấp chặt, đã được bám chặt, đã được hướng đến [rằng]: “Hoặc là cái này thuộc về tôi, hoặc là cái này thuộc về những người khác9 đối với vi ấy, khòng có sự mất mát. Bởi vì, điều này cũng đã được nói đến: “Thua Sa-môn? Ngài có vui thích kh6ng?” “Này Thiên tử, đã đạt được cái gì [mà vui thích]?” :Thua Sa-môn, vậy thì Ngài có sầu muộn không?’9 “Này Thiên tử, cái gì bị mất mát [mà phải sầu muộn]?,, “Thua Sa-môn, vậy thì Ngài không vui thích và không sầu muOn?” “Này Thiên tử, đúng vậy.,,
4. “Cirassaṃ vata passāma brāhmaṇaṃ parinibbutaṃ, anandiṃ anīghaṃ bhikkhuṃ tiṇṇaṃ loke visattikan ”ti – sa ve loke na jīyati.
4. “Quả thật, sau một thời gian dài, chúng ta nhìn thấy vị Bà-la-môn đã được diệt tắt hoàn toàn, là vị tỳ khưu không có vui thích, không có phiền muộn, đã vượt qua sự vướng mắc này ở thế gian.” – ‘vị ấy quả thật không bị thua thiệt ở thế gian’ là như thế.
Tenāha bhagavā: “Sabbaso nāmarūpasmiṃ yassa natthi mamāyitaṃ, asatā ca na socati sa ve loke na jīyatī ”ti
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Đối với vị nào không có vật đã được chấp là của tôi liên quan đến danh và sắc về mọi phương diện, và (là vị) không sầu muộn do tình trạng không có, vị ấy quả thật không bị thua thiệt ở thế gian.”
15.17
Yassa natthi idaṃ meti paresaṃ vāpi kiñcanaṃ, mamattaṃ so asaṃvindaṃ natthi meti na socati,
Đối với vị nào, không có (ý nghĩ): ‘Cái này là của tôi,’ hoặc ‘(Cái này) là của những người khác’ về bất cứ điều gì, vị ấy, trong lúc không tìm kiếm trạng thái chấp là của tôi, (biết rằng): ‘Không có gì là của ta,’ nhờ thế không sầu muộn.
Không nghĩ “đây của tôi “,
Không nghĩ “đây của người “,
Người không có tự ngã,
Không sầu vì không ngã.
(Kinh Tập, câu kệ 951)
Yassa natthi idaṃ meti paresaṃ vāpi kiñcanan ’ti – Yassā ’ti arahato khīṇāsavassa. Yassa ‘mayhaṃ vā idaṃ paresaṃ vā idan ’ti kiñci rūpagataṃ vedanāgataṃ saññāgataṃ saṅkhāragataṃ viññāṇagataṃ gahitaṃ parāmaṭṭhaṃ abhiniviṭṭhaṃ ajjhositaṃ adhimuttaṃ natthi na santi na saṃvijjati nūpalabbhati, pahīnaṃ samucchinnaṃ vūpasantaṃ paṭippassaddhaṃ abhabbuppattikaṃ ñāṇagginā daḍḍhanti; –evampi yassa natthi idaṃ meti paresaṃ vāpi kiñcanaṃ.
Đối với vị nào, không có (ý nghĩ): ‘Cái này là của tôi,’ hoặc ‘(Cái này) là của những người khác’ về bất cứ điều gì – Đối với vị nào: đối với vị A-la-hán có lậu hoặc đã được cạn kiệt. Đối với vị nào, bất cứ điều gì hướng đến sắc, hướng đến thọ, hướng đến tưởng, hướng đến các hành, hướng đến thức đã được nắm lấy, đã được bám víu, đã được cố chấp, đã được bám chặt, đã được hướng đến (rằng): ‘Cái này là của tôi, cái này là của những người khác’ là không có, không hiện diện, không tìm thấy, không tồn tại, được dứt bỏ, được trừ tuyệt, được vắng lặng, được tịch tịnh, không thể sanh khởi nữa, đã được thiêu đốt bởi ngọn lửa trí tuệ; –đối với vị nào, không có (ý nghĩ): ‘Cái này là của tôi,’ hoặc ‘(Cái này) là của những người khác’ về bất cứ điều gì– là như vậy.
Vuttaṃ hetaṃ bhagavatā: “Nāyaṃ bhikkhave kāyo tumhākaṃ, napi aññesaṃ. Purāṇamidaṃ bhikkhave kammaṃ abhisaṅkhataṃ abhisañcetayitaṃ vedanīyaṃ daṭṭhabbaṃ. Tatra bhikkhave sutavā ariyasāvako paṭiccasamuppādaṃ yeva sādhukaṃ yoniso manasikaroti: Iti imasmiṃ sati idaṃ hoti, imassuppādā idaṃ uppajjati. Imasmiṃ asati idaṃ na hoti, imassa nirodhā idaṃ nirujjhati. Yadidaṃ avijjāpaccayā saṅkhārā; saṅkhārapaccayā viññāṇaṃ ―pe― evametassa kevalassa dukkhakkhandhassa samudayo hoti. Avijjāya tveva asesavirāganirodhā saṅkhāranirodho ―pe― evametassa kevalassa dukkhakkhandhassa nirodho hotī ”ti; evampi yassa natthi idaṃ meti paresaṃ vāpi kiñcanaṃ
Bởi vì, điều này đã được đức Thế Tôn nói đến: “Này các tỳ khưu, thân này không phải của các ngươi, cũng không phải của những người khác. Này các tỳ khưu, thân này nên được xem là nghiệp cũ đã được tạo tác, đã được cố ý, (và) được cảm thọ. Này các tỳ khưu, về điều ấy, vị đệ tử của các bậc Thánh, có sự nghe nhiều, khéo léo tác ý đúng đường lối về pháp tùy thuận duyên khởi như vầy: ‘Khi cái này có mặt, cái kia có mặt; do sự sanh khởi của cái này, cái kia sanh khởi. Khi cái này không có mặt, cái kia không có mặt; d0 sự diệt tận của cái này, cái kia diệt tận. Tức là, do duyên vô minh, các hành (sanh khởi); do duyên các hành, thức (sanh khởi); –nt– Như thế là sự sanh lên của toàn bộ khổ uẩn này. Nhưng chính do sự diệt tận hoàn toàn không còn luyến ái đối với vô minh, có sự diệt tận của các hành –nt– Như thế là sự diệt tận của toàn bộ khổ uẩn này;’ –đối với vị nào, không có (ý nghĩ): ‘Cái này là của tôi,’ hoặc ‘(Cái này) là của những người khác’ về bất cứ điều gì– còn là như vậy.
Vuttampi hetaṃ bhagavatā: 1. “Suññato lokaṃ avekkhassu mogharāja sadā sato, attānudiṭṭhiṃ ūhacca evaṃ maccutaro siyā. Evaṃ lokaṃ avekkhantaṃ maccurājā na passatī ”ti. – evampi ‘yassa natthi idaṃ meti paresaṃ vāpi kiñcanaṃ.’
Bởi vì, điều này cũng đã được đức Thế Tôn nói đến:
1. “Ngươi hãy xem xét thế giới là trống không, này Mogharāja, hãy luôn luôn có niệm. Sau khi nhổ lên tà kiến về bản ngã, như vậy có thể vượt qua sự chết. Người đang xem xét thế gian như vậy, Thần Chết không nhìn thấy (người ấy).” –Đối với vị nào, không có (ý nghĩ): ‘Cái này là của tôi,’ hoặc ‘(Cái này) là của những người khác’ về bất cứ điều gì– còn là như vậy.
Vuttampi hetaṃ bhagavatā: “Yaṃ bhikkhave na tumhākaṃ, taṃ pajahatha. Taṃ vo pahīnaṃ dīgharattaṃ hitāya sukhāya bhavissati. Kiñca bhikkhave na tumhākaṃ? Rūpaṃ bhikkhave na tumhākaṃ, taṃ pajahatha. Taṃ vo pahīnaṃ dīgharattaṃ hitāya sukhāya bhavissati. Vedanā – Saññā – Saṅkhārā – Viññāṇaṃ na tumhākaṃ, taṃ pajahatha. Taṃ vo pahīnaṃ dīgharattaṃ hitāya sukhāya bhavissati. Taṃ kiṃ maññatha bhikkhave yaṃ imasmiṃ jetavane tiṇakaṭṭhasākhāpalāsaṃ, taṃ jano hareyya vā daheyya vā yathā paccayaṃ vā kareyya; api nu tumhākaṃ evamassa: ‘Amhe jano harati vā dahati vā yathā paccayaṃ vā karotī ’ti? No hetaṃ bhante. Taṃ kissa hetu? Na hi no etaṃ bhante attā vā attaniyaṃ vā ’ti. Evameva kho bhikkhave yaṃ na tumhākaṃ, taṃ pajahatha. Taṃ vo pahīnaṃ dīgharattaṃ hitāya sukhāya bhavissati.2 Kiñca bhikkhave na tumhākaṃ? Rūpaṃ bhikkhave na tumhākaṃ, taṃ pajahatha. Taṃ vo pahīnaṃ dīgharattaṃ hitāya sukhāya bhavissati. Vedanā – Saññā – Saṅkhārā – Viññāṇaṃ na tumhākaṃ, taṃ pajahatha. Taṃ vo pahīnaṃ dīgharattaṃ hitāya sukhāya bhavissatī ”ti. – evampi ‘yassa natthi idaṃ meti paresaṃ vāpi kiñcanaṃ.’
Bởi vì, điều này cũng đã được đức Thế Tôn nói đến: “Này các tỳ khưu, cái gì không phải là của các ngươi, các ngươi hãy dứt bỏ nó. Cái ấy, khi được các ngươi dứt bỏ, sẽ đưa đến sự lợi ích, sự hạnh phúc lâu dài cho các ngươi. Và này các tỳ khưu, cái gì không phải là của các ngươi? Này các tỳ khưu, sắc không phải là của các ngươi, các ngươi hãy dứt bỏ nó. Cái ấy, khi được các ngươi dứt bỏ, sẽ đưa đến sự lợi ích, sự hạnh phúc lâu dài cho các ngươi. Thọ – Tưởng – Các hành – Thức không phải là của các ngươi, các ngươi hãy dứt bỏ nó. Cái ấy, khi được các ngươi dứt bỏ, sẽ đưa đến sự lợi ích, sự hạnh phúc lâu dài cho các ngươi. Này các tỳ khưu, các ngươi nghĩ gì về điều ấy, là việc người ta có thể mang đi cỏ, củi, cành, lá ở khu rừng Jeta này, hoặc có thể đốt cháy chúng, hoặc có thể hành xử chúng tùy theo nhu cầu? Thậm chí ý nghĩ như vầy có thể khởi lên ở các ngươi rằng: ‘Có phải người ta mang chúng ta đi, hoặc đốt cháy chúng ta, hoặc hành xử chúng ta tùy theo nhu cầu không’?” “Bạch ngài, điều này không đúng.” “Điều ấy có nguyên nhân là gì?” “Bạch Ngài, bởi vì cái ấy (cỏ, củi, cành, lá) không phải là tự ngã của chúng con hoặc thuộc về tự ngã của chúng con.” “Này các tỳ khưu, tương tự y như thế, cái gì không phải là của các ngươi, các ngươi hãy dứt bỏ nó. Cái ấy, khi được các ngươi dứt bỏ, sẽ đưa đến sự lợi ích, sự hạnh phúc lâu dài cho các ngươi. Và này các tỳ khưu, cái gì không phải là của các ngươi? Này các tỳ khưu, sắc không phải là của các ngươi, các ngươi hãy dứt bỏ nó. Cái ấy, khi được các ngươi dứt bỏ, sẽ đưa đến sự lợi ích, sự hạnh phúc lâu dài cho các ngươi. Thọ – Tưởng – Các hành – Thức không phải là của các ngươi, các ngươi hãy dứt bỏ nó. Cái ấy, khi được các ngươi dứt bỏ, sẽ đưa đến sự lợi ích, sự hạnh phúc lâu dài cho các ngươi.” –đối với vị nào, không có (ý nghĩ): ‘Cái này là của tôi,’ hoặc ‘(Cái này) là của những người khác’ về bất cứ điều gì– còn là như vậy.
Bhāsitampi hetaṃ: 2. “Suddhadhamma samuppādaṃ suddhasaṅkhārasantatiṃ, passantassa yathābhūtaṃ na bhayaṃ hoti gāmaṇi.
Bởi vì, điều này cũng đã được nói đến: 2. “Này trưởng làng, đối với người đang nhìn thấy đúng theo bản thể sự sanh lên của các pháp một cách rõ rệt, sự liên tục của các hành một cách rõ rệt thì không có sự sợ hãi.
3.Tiṇakaṭṭhasamaṃ lokaṃ yadā paññāya passati, nāññaṃ patthayate kiñci aññatra paṭisandhiyā ”ti. – evampi ‘yassa natthi idaṃ meti paresaṃ vāpi kiñcanaṃ.’
3. Khi nào bằng trí tuệ nhìn thấy thế gian giống như cỏ và củi, trong khi không tìm thấy trạng thái chấp là của tôi: ‘Không có gì thuộc về tôi,’ vị ấy không sầu muộn.” –Đối với vị nào, không có (ý nghĩ): ‘Cái này là của tôi,’ hoặc ‘(Cái này) là của những người khác’ về bất cứ điều gì– còn là như vậy.
Vajirā bhikkhunī māraṃ pāpimantaṃ etadavoca: 4. “Kinnu satto ’ti paccesi māra diṭṭhigataṃ nu te, suddhasaṅkhārapuñjoyaṃ nayidha sattopalabbhati.
Tỳ khưu ni Vajirā đã nói với Ma Vương ác độc điều này:
4. “Này Ma Vương, sao ngươi khẳng định là ‘chúng sanh?’ Phải chăng đó là tà kiến của ngươi? Cái này thuần túy là sự chồng chất của các hành. Ở đây, chúng sanh không được tìm thấy.
5. Yathāpi aṅgasambhārā hoti saddo ratho iti, evaṃ khandhesu santesu hoti sattoti sammuti
5. Giống y như việc ráp chung lại các bộ phận thì có tiếng gọi là ‘cỗ xe,’ tương tợ như vậy, khi các uẩn hiện diện thì có sự công nhận là ‘con người’.
6. Dukkhameva hi sambhoti dukkhaṃ tiṭṭhati vetti ca, nāññatra dukkhā sambhoti nāññaṃ dukkhā nirujjhatī ”ti. – evampi ‘yassa natthi idaṃ meti paresaṃ vāpi kiñcanaṃ.’
6. Bởi vì chỉ có khổ được hình thành, khổ tồn tại và tiêu hoại không gì khác ngoại trừ khổ được hình thành không cái gì khác ngoài khổ được diệt tận.” –Đối với vị nào, không có (ý nghĩ): ‘Cái này là của tôi,’ hoặc ‘(Cái này) là của những người khác’ về bất cứ điều gì– còn là như vậy.
“Evameva kho bhikkhave bhikkhu rūpaṃ samannesati yāvatā rūpassa gati. Vedanaṃ – Saññaṃ – Saṅkhāre – Viññāṇaṃ samannesati yāvatā viññāṇassa gati. Tassa rūpaṃ samannesato yāvatā rūpassa gati, vedanaṃ – saññaṃ – saṅkhāre – viññāṇaṃ samannesato yāvatā viññāṇassa gati, yampissa hoti ahanti vā mamanti vā asmīti vā, tampi tassa na hotī ”ti; – evampi yassa natthi idaṃ meti paresaṃ vāpi kiñcanaṃ.
“Này các tỳ khưu, tương tự y như thế, vị tỳ khưu quán sát sắc đến luôn cả tiến trình của sắc, quán sát thọ – tưởng – các hành – thức đến luôn cả tiến trình của thức. Trong khi vị ấy đang quán sát sắc đến luôn cả tiến trình của sắc, trong khi đang quán sát thọ – tưởng – các hành – thức đến luôn cả tiến trình của thức, ý niệm về ‘tôi’ hay ‘của tôi’ hay ‘tôi là’ đều không khởi lên ở vị ấy; –đối với vị nào, không có (ý nghĩ): ‘Cái này là của tôi,’ hoặc ‘(Cái này) là của những người khác’ về bất cứ điều gì– còn là như vậy.
Āyasmā ānando bhagavantaṃ etadavoca: “Suñño loko suñño lokoti bhante vuccati. Kittāvatā nu kho bhante suñño lokoti vuccatī ’ti? Yasmā kho ānanda, suññaṃ attena vā attaniyena vā, tasmā suñño lokoti vuccati. Kiñcānanda suññaṃ attena vā attaniyena vā? Cakkhuṃ kho ānanda suññaṃ attena vā attaniyena vā. Rūpā suññā – cakkhuviññāṇaṃ suññaṃ – cakkhusamphasso suñño – yadidaṃ cakkhusamphassapaccayā uppajjati vedayitaṃ sukhaṃ vā dukkhaṃ vā adukkhamasukhaṃ vā, tampi suññaṃ. Sotaṃ suññaṃ – Saddā suññā – Ghānaṃ suññaṃ – Gandhā suññā – Jivhā suññā – Rasā suññā – Kāyo suñño – Phoṭṭhabbā suññā – Mano suñño – Dhammā suññā – Manoviññāṇaṃ suññaṃ – Manosamphasso suñño – yadidaṃ manosamphassapaccayā uppajjati vedayitaṃ sukhaṃ vā dukkhaṃ vā adukkhamasukhaṃ vā, tampi suññaṃ attena vā attaniyena vā. Yasmā kho ānanda, suññaṃ attena vā attaniyena vā, tasmā suñño loko ’ti vuccatī ”ti; – evampi yassa natthi idaṃ meti paresaṃ vāpi kiñcanaṃ.
Đại đức Ānanda đã nói với đức Thế Tôn điều này: “Bạch Ngài, ‘thế giới là trống không, thế giới là trống không’ là điều được nói đến. Bạch Ngài, cho đến như thế nào thì được gọi là: ‘Thế giới là trống không’?” “Này Ānanda, bởi vì quả thật là trống không với tự ngã hoặc với cái thuộc về tự ngã; vì thế, được gọi là: ‘Thế giới là trống không.’ Và này Ānanda, cái gì là trống không với tự ngã hoặc với cái thuộc về tự ngã? Này Ānanda, Mắt là trống không với tự ngã hoặc với cái thuộc về tự ngã. Các sắc là trống không – Nhãn thức là trống không – Nhãn xúc là trống không – Cảm thọ nào sanh lên do duyên nhãn xúc, dầu là lạc, hay là khổ, hay là không khổ không lạc; cảm thọ ấy cũng là trống không. Tai là trống không – Các thinh là trống không – Mũi là trống không – Các hương là trống không – Lưỡi là trống không – Các vị là trống không – Thân là trống không – Các xúc là trống không – Ý là trống không – Các pháp là trống không – Ý thức là trống không – Ý xúc là trống không – Cảm thọ nào sanh lên do duyên ý xúc, dầu là lạc, hay là khổ, hay là không khổ không lạc, cảm thọ ấy cũng là trống không với tự ngã hoặc với cái thuộc về tự ngã. Này Ānanda, bởi vì quả thật là trống không với tự ngã hoặc với cái thuộc về tự ngã; vì thế, được gọi là: ‘Thế giới là trống không.’ –Đối với vị nào, không có (ý nghĩ): ‘Cái này là của tôi,’ hoặc ‘(Cái này) là của những người khác’ về bất cứ điều gì– còn là như vậy.
Mamattaṃ so asaṃvindan ’ti – Mamattā ’ti dve mamattā: taṇhāmamattañca diṭṭhimamattañca –pe– idaṃ taṇhāmamattaṃ –pe– idaṃ diṭṭhimamattaṃ. Taṇhāmamattaṃ pahāya diṭṭhimamattaṃ paṭinissajitvā mamattaṃ avindanto asaṃvindanto anadhigacchanto appaṭilabhanto ’ti – mamattaṃ so asaṃvindaṃ.
Vị ấy, trong lúc không tìm kiếm trạng thái chấp là của tôi: Trạng thái chấp là của tôi – có hai trạng thái chấp là của tôi: trạng thái chấp là của tôi do tham ái và trạng thái chấp là của tôi do tà kiến. —nt— điều này là trạng thái chấp là của tôi do tham ái. —nt— điều này là trạng thái chấp là của tôi do tà kiến. Sau khi dứt bỏ trạng thái chấp là của tôi do tham ái, sau khi xả bỏ trạng thái chấp là của tôi do tà kiến, trong khi không kiếm được, trong khi không tìm kiếm, trong khi không đạt đến, trong khi không đạt được; – ‘vị ấy, trong lúc không tìm kiếm trạng thái chấp là của tôi’ là như thế.
Natthi meti na socatī ’ti – Vipariṇataṃ vā vatthuṃ na socati, vipariṇatasmiṃ vā vatthusmiṃ na socati. Cakkhu me vipariṇatanti na socati. Sotaṃ me –pe– Sālohitā me vipariṇatā ’ti na socati na kilamati na paridevati na urattāḷiṃ kandati sammohaṃ āpajjatī ’ti – natthi meti na socati.
(Biết rằng): ‘Không có gì là của ta,’ nhờ thế không sầu muộn: (Vị ấy) không sầu muộn về vật đã bị biến đổi, không sầu muộn trong khi vật đang bị biến đổi. (Nghĩ rằng): ‘Mắt của ta đã bị biến đổi,’ vị ấy không sầu muộn. (Nghĩ rằng): ‘Tai của tôi —nt— ‘Những người cùng huyết thống của tôi đã bị biến đổi,’ vị ấy không sầu muộn, không mệt mỏi, không than vãn, không khóc nức nở, không đi đến sự mê muội; – ‘(biết rằng): ‘Không có gì là của ta,’ nhờ thế không sầu muộn’ là như thế.
Tenāha bhagavā: “Yassa natthi idaṃ meti paresaṃ vāpi kiñcanaṃ, mamattaṃ so asaṃvindaṃ natthi meti na socatī ”ti
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Đối với vị nào, không có (ý nghĩ): ‘Cái này là của tôi,’ hoặc ‘(Cái này) là của những người khác’ về bất cứ điều gì, vị ấy, trong lúc không tìm kiếm trạng thái chấp là của tôi, (biết rằng): ‘Không có gì là của ta,’ nhờ thế không sầu muộn.”
15.18
Aniṭṭhurī ananugiddho anejo sabbadhī samo, tamānisaṃsaṃ pabrūmi pucchito avikampinaṃ.
Không ganh ghét, không thèm khát, không dục vọng, bình đẳng ở mọi nơi, điều ấy là sự lợi ích mà Ta nói, khi được hỏi về vị không dao động.
Không tàn bạo, không tham,
Không dục, thường đồng đẳng,
Ðược hỏi Ta nói lên,
Lợi ích bậc bất động.
(Kinh Tập, câu kệ 952)
Aniṭṭhurī ananugiddho anejo sabbadhī samo ’ti – Katamaṃ niṭṭhuriyaṃ? Idhekacco niṭṭhuriyo hoti paralābhasakkāragarukāramānanavandanapūjanāsu issati usūyati issaṃ bandhati; yaṃ evarūpaṃ niṭṭhuriyaṃ niṭṭhuriyakammaṃ issā issāyanā issāyitattaṃ usūyā usūyanā usūyāyitattaṃ, idaṃ vuccati niṭṭhuriyaṃ. Yassetaṃ niṭṭhuriyaṃ pahīnaṃ samucchinnaṃ –pe– ñāṇagginā daḍḍhaṃ; so vuccati aniṭṭhurīti. Ananugiddho ’ti – Gedho vuccati taṇhā, yo rāgo sārāgo –pe– abhijjhā lobho akusalamūlaṃ. Yasseso gedho pahīno samucchinno –pe– ñāṇagginā daḍḍho; so vuccati ananugiddho. So rūpe agiddho sadde –pe– diṭṭhasutamutaviññātabbesu dhammesu agiddho agathito amucchito anajjhopanno vītagedho vigatagedho cattagedho vantagedho muttagedho pahīnagedho paṭinissaṭṭhagedho vītarāgo vigatarāgo cattarāgo vantarāgo muttarāgo pahīnarāgo paṭinissaṭṭharāgo nicchāto nibbuto sītibhūto sukhapaṭisaṃvedī brahmabhūtena attanā viharatī ’ti – aniṭṭhurī ananugiddho.
Anejo sabbadhī samo ’ti – Ejā vuccati taṇhā, yo rāgo sārāgo –pe– abhijjhā lobho akusalamūlaṃ. Yassesā ejā taṇhā pahīnā samucchinnā –pe–ñāṇagginā daḍḍhā, so vuccati anejo. Ejāya pahīnattā anejo. So lābhe’pi na iñjati, alābhepi na iñjati yasepi na iñjati, ayasepi na iñjati, pasaṃsāyapi na iñjati, nindāyapi na iñjati, sukhepi na iñjati, dukkhepi na iñjati, na calati na vedhati nappavedhati na sampavedhatī ’ti – anejo. Sabbadhi samo ’ti – Sabbaṃ vuccati dvādasāyatanāni: cakkhu ceva rūpā ca –pe– mano ceva dhammā ca. Yato ajjhattikabāhiresu āyatanesu chandarāgo pahīno hoti ucchinnamūlo tālāvatthukato anabhāvaṃ kato āyatiṃ anuppādadhammo, so vuccati sabbadhi samo. So sabbattha tādi sabbattha majjhatto sabbattha upekkhako ’ti – anejo sabbadhī samo.
Tamānisaṃsaṃ pabrūmi pucchito avikampinan ’ti – Avikampinaṃ puggalaṃ puṭṭho pucchito yācito ajjhesito pasādito ime cattāro ānisaṃse pabrūmi: so aniṭṭhurī ananugiddho anejo sabbadhi samoti brūmi ācikkhāmi –pe– pakāsemī ’ti – tamānisaṃsaṃ pabrūmi pucchito avikampinaṃ.
Không ganh ghét, không thèm khát, không dục vọng, bình đẳng ờ mọi nơi: Điều nào là sự ganh ghét? ở đây, một vị [Tỳ-khưu] nào đó là có sự ganh ghét, rồi ganh tỵ, khó chịu, trói buộc lòng ganh tỵ với sự lợi lộc, trọng vọng, cung kính, sùng bái, kính lễ, cúng dường của vị khác; sự ganh ghét nào có hình thức như vậy là hành động ganh ghét, sự ganh tỵ, biểu hiện ganh tỵ, trạng thái ganh tỵ, sự khó chiu, biểu hiện khó chịu, trạng thái khó chịu; điều này được gọi là sự ganh ghét. Đoi với vị nào, sự ganh ghét này đã được dứt bỏ, đã được trừ tuyệt,… (nt)… đã được thiêu đốt bởi ngọn lửa trí tuệ; vị ấy được gọi là không ganh ghét.
Không thèm khát: Thèm khát nói đến tham ái5 tức là sự luỵến ái, luyến ái mãnh liệt,… (nt)… tham đắm, tham, cội nguồn của bất thiện. Đoi với vị nào, sự thèm khát ấy đã được dứt bỏ, đã được trừ tuyệt,… (nt)… đã được thiêu đốt bởi ngọn lửa trí tuệ, vị ấy được gọi là không thèm khát. Vị ấy không thèm khát ở Sắc, ở thinh,… (nt)… không thèm khát ở các pháp đã được thấy, đã được nghe, đã được cảm giác, đã được nhận thức, không bị buộc trói, không bị mê mẩn, không bị gần gũi, có sự thèm khát đã được xa lìa, có sự thèm khát đã được tách lia, có sự thèm khát đã được từ bỏ, có sự thèm khát đã được tẩy trừ, có sự thèm khát đã được giải thoát, có sự thèm khát đã được dứt bỏ, có sự thèm khát đã được buông bỏ, có sự luyến ái đã được xa lìa, có sự luyến ái đã được tách lìa, có sự luyến ái đã được từ bỏ, có sự luyến ái đã được tẩy trừ, có sự luyến ái đã được giải thoát, có sự luyến ái đã được dứt bỏ, có sự luyến ái đã được buông bỏ, không còn khao khát, được tịch diệt, có trạng thái mát mẻ, có sự cảm thọ lạc, sống với trạng thái cao thượng tự thân. “Không ganh ghét, không thèm khát” là như thế.
Không dục vọng, bình đẳng ờ mọi noi.
Dục vọng: Nói đến tham ái, tức là sự luyến ái, luyến ái mãnh liệt,… (nt)..・ tham đắm, tham, cội nguồn của bất thiện. Đối với vị nào, dục vọng tham ái ấy đã được dứt bỏ, đã được trừ tuyệt,… (nt)… đã được thiêu đốt bởi ngọn lửa trí tuệ, vị ấy được gọi là không dục vọng. Do trạng thái đã được dứt bỏ đối với dục vọng mà trở thành không dục vọng. Vị ấy không xao động vì lợi lộc, không xao động vì không lợi lộc, không xao động vì danh vọng, không xao động vì không danh vọng, không xao động vì lời khen, không xao động vì lời chê, không xao động vì hạnh phúc, không xao động vì kho đau, không dao động, không run rẩy, không chấn động, không rúng động. “Không dục vQĩig” là như thế.
Bình đẳng ờ mọi nơi: Mọi nơi nói đến mười hai xứ: Mắt và các sắc,… (nt)… ý và các pháp. Khi nào sự mong muốn và luyến ái ở các xứ thuộc nội phân và ngoại phân được dứt bỏ, có rê đã được căt lìa, như cây thót nót đã bị cụt ngọn, đã bị làm cho không còn hiện hữu, không còn điều kiện sanh khởi trong tương lai; vi ấy được gọi là bình đẳng ở mọi nơi. Vị ấy tự tại ở tất cả các nơi, trung dung ở tất cả các nơi, hành xả ở tất cả các nơi. “Không dục vọng, bình đẳng ở mọi ĩiod” là như thế.
uKhông ganh ghét, không thèm khát, không dục vọng, bình đẳng ở mọi nơi,^ là như thế.
Điều ấy là sự lợi ích mà Ta nói, khi được hỏi về vị không lay động: Khi được hỏi về người không lay động, khi được vấn, được yêu cầu, được thỉnh cầu, được đặt niềm tin, Ta nói về bốn điều lợi ích này; Ta nói, Ta nêu ra,・..(nt)… Ta bày tỏ rằng: ấy không ganh ghét, không thèm khát, không dục vọng, bình đẳng ở mọi nai?9
“Điều ấy là sự lợi ích mà Ta nói, khi được hỏi về vị không lay động95 là như thế.
Tenāha bhagavā: “Aniṭṭhurī ananugiddho anejo sabbadhī samo, tamānisaṃsaṃ pabrūmi pucchito avikampinan ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Không ganh ghét, không thèm khát, không dục vọng, bình đẳng ở mọi nơi, điều ấy là sự lợi ích mà Ta nói, khi được hỏi về vị không dao động.”
15.19
Anejassa vijānato natthi kāci nisaṅkhiti, virato so viyārambhā khemaṃ passati sabbadhi.
Đối với vị không dục vọng, đang nhận thức,
thì không có bất cứ sự tạo tác nào.
Vị ấy, đã tránh xa khỏi sự tạo tác,
nhìn thấy an toàn ở mọi nơi
. Bậc ly dục rõ biết,
Vị ấy không sở hành,
Thoát ly, không tinh cần,
Thấy an ổn khắp nơi.
(Kinh Tập, câu kệ 953)
Anejassa vijānato ’ti – Ejā vuccati taṇhā, yo rāgo sārāgo –pe– abhijjhā lobho akusalamūlaṃ. Yassesā evaṃ taṇhā pahīnā samucchinnā –pe– ñāṇagginā daḍḍhā; so vuccati anejo. Ejāya pahīnattā anejo. So lābhepi na iñjati, alābhepi na iñjati, yasepi na iñjati, ayasepi na iñjati, pasaṃsāyapi na iñjati, nindāyapi na iñjati, sukhepi na iñjati, dukkhepi na iñjati, na calati na vedhati na sampavedhati. Anejassa vijānato ’ti – jānato ājānato vijānato paṭivijānato paṭivijjhato, ‘sabbe saṅkhārā aniccā ’ti jānato ājānato vijānato paṭivijānato paṭivijjhatoti, ‘sabbe saṅkhārā dukkhā ’ti –pe– ‘yaṃ kiñci samudayadhammaṃ, sabbaṃ taṃ nirodhadhamman ’ti jānato ājānato vijānato paṭivijānato paṭivijjhato ’ti – anejassa vijānato.
Natthi kāci nisaṅkhitī ’ti – Nisaṅkhitiyo vuccanti puññābhisaṅkhāro apuññābhisaṅkhāro āneñjābhisaṅkhāro. Yato puññābhisaṅkhāro ca apuññābhisaṅkhāro ca āneñjābhisaṅkhāro ca pahīnā honti, ucchinnamūlā tālāvatthukatā anabhāvaṃkatā āyatiṃ anuppādadhammā, ettāvatā nisaṅkhitiyo natthi na santi na saṃvijjanti nūpalabbhanti, pahīnā samucchinnā vūpasantā paṭippassaddhā abhabbuppattikā ñāṇagginā daḍḍhā ’ti – natthi kāci nisaṅkhiti.
Virato so viyārambhā ’ti – Viyārambho vuccati puññābhisaṅkhāro apuññābhisaṅkhāro āneñjābhisaṅkhāro. Yato puññābhisaṅkhāro ca apuññābhisaṅkhāro ca āneñjābhisaṅkhāro ca pahīnā honti, ucchinnamūlā tālāvatthukatā anabhāvaṃkatā āyatiṃ anuppādadhammā; ettāvatā ārabbhā viyārambhā ārato assa virato paṭivirato nikkhanto nissaṭo vippamutto visaññutto vimariyādīkatena cetasā viharatī ’ti – virato so viyārambhā.
Khemaṃ passati sabbadhī ’ti – Rāgo bhayakaro, doso bhayakaro, moho bhayakaro –pe– bhayakarā kilesā. Bhayakarassa rāgassa pahīnattā –pe– bhayakarānaṃ kilesānaṃ pahīnattā sabbattha khemaṃ passati, sabbattha abhayaṃ passati, sabbattha anītikaṃ passati, sabbattha anupaddavaṃ passati, sabbattha anupassaggataṃ passatī ’ti – khemaṃ passati sabbadhi.
Đối với vi không dục vọng, đang nhận thức: Dục vọng nói đến tham ái, tức là sự luyến ái, luyến ái mãnh liệt,… (nt)… tham đắm, tham, cội nguồn của bất thiện. Đối với vi nào, dục vọng tham ái ấy đã được dứt bỏ, đã được trừ tuyệt,… (nt)… đã được thiêu đốt bởi ngọn lửa trí tuệ, vị ấy được gọi là không dục vọng. Do trạng thái đã được dứt bỏ đôi với dục vọng mà trở thành không dục vọng. Vị ấy không xao động vì lợi lộc, không xao động vì không lợi lộc, không xao động vì danh vọng, không xao động vì không danh vọng, không xao động vì lời khen, không xao động vì lời chê, không xao động vì hạnh phúc, không xao động vì khổ đau, không dao động, không run rẩy, không chấn động, không rúng động. uĐối với vi không dục vQĩig” là như thế.8
Đang nhận thức: Đang hiêu biêt, đang nhận biêt, đang nhận thức, đang thừa nhận, đang thấu triệt. Đối với vị đang hiểu biết, đang nhận biết, đang nhận thức, đang thừa nhận, đang thấu triệt rằng: “Tất cả các hành là vô thường,,; đối với vị đanẹ hiểu biết, đang nhận biết, đang nhận thức, đang thừa nhận, đang thấu triệt rang: “Tất cả các hành là kh6″;…(lít)… “Biều gì có bản tánh được sanh lên, toàn bộ điều ấy đều có bản tánh hoại diệt.^,
“Đối với vị không dục vọng, đang nhận thúrc” là như thế.
Thì không có bất cứ sự tích lũy nghiệp nào: Các sự tích lũy nghiệp nói đến phúc hành, phi phúc hành và bất động hành.9 Khi nào phúc hành, phi phúc hành và bất động hành được dứt bỏ, có rễ đã được cắt lìa, như cây thót nót đã bị cụt ngọn, đã bị làm cho kh6ng còn hiện hữu, không còn điều kiện sanh khởi trong tương lai; cho đến như the thì các sự tích lũy nghiệp là không có, không hiện hữu, không tìm thấy, không tồn tại, đã được dứt bỏ, đã được trừ tuyệt, đã được vắng lặng, đã được tịch tinh, không thể sanh khởi nữa, đã được thiêu đốt bởi ngọn lửa trí tuệ.
“Thi không có bất cứ sự tích lũy nghiệp n以o” là như thế.
Vi ấy đã tránh xa khỏi sự tạo nghiệp: Sự tạo nghiệp nói đến phúc hành, phi phúc hành và bất động hành. Khi nào phúc hành, phi phúc hành và bất động hành được dứt bỏ, có rễ đã được cắt lìa, như cây thốt nốt đã bị cụt ngọn, đã bị làm cho không còn hiện hữu, không còn điều kiện sanh khởi trong tương lai, cho đến như thế nên tránh khỏi, xa lánh, tránh xa, đi ra ngoài, rời ra, thoát khỏi, không bị ràng buộc với khởi đầu, với sự tạo nghiệp, nên sống với tâm đã được làm trở thành không còn giới hạn.
ấy đã tránh xa khỏi sự tạo nghiep” là như thế.
Nhìn thấy an toàn ờ mọi noi: Luyến ái là nhân tố gây ra sợ hãi, sân hận là nhân tố ệẵỵ ra sợ hãi, si mê là nhân tố gây ra sợ hãi,… (nt)… các ô nhiễm là các nhân tô ệây ra sợ hãi. Do trạng thái đã được dứt bỏ đôi với nhân tố gây ra sợ hãi là luyên ái… (nt)… Do trạng thái đã được dứt bỏ đối với các nhân tố gây ra sợ hãi là các ô nhiễm, vị ấy nhìn thấy an toàn ở mọi nơi, nhìn thấy không sợ hãi ở mọi nơi, nhìn thấy không tai họa ở mọi nơi, nhìn thấy không bất hạnh ở mọi nơi, nhìn thấy không nguy hiêm ở mọi nơi.
“Nhiu thấy an toàn ở mọi noi” là như thế.
Tenāha bhagavā: “Anejassa vijānato natthi kāci nisaṅkhiti, virato so viyārambhā khemaṃ passati sabbadhī ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Đối với vị không dục vọng, đang nhận thức, thì không có bất cứ sự tạo tác nào.
Vị ấy, đã tránh xa khỏi sự tạo tác, nhìn thấy an toàn ở mọi nơi.”
15.20
Na samesu na omesu na ussesu vadate muni, santo so vītamacchero, nādeti na nirassatī ’ti (bhagavā).
“Bậc hiền trí không mô tả (bản thân) là trong số những người ngang bằng, (hay là) trong số những người thấp kém, (hay là) trong số những người ưu việt. Được an tịnh, đã xa lìa sự bỏn xẻn, vị ấy không nắm giữ, không buông lơi” (Đức Thế Tôn nói vậy).
Bậc ẩn sĩ, không nói,
Bằng nhau, thua, hơn nhau,
An tịnh, ly xan tham,
Không nhận, không bác bỏ.
Thế Tôn giảng như vậy.
(Kinh Tập, câu kệ 954)
Na samesu na omesu na ussesu vadate munī ’ti – Monaṃ vuccati ñāṇaṃ, yā paññā pajānanā –pe– saṅgajālamaticca so munī ’ti. Muni seyyohamasmīti vā, sadisohamasmīti vā, hīnohamasmīti vā na vadati na katheti na bhaṇati na dīpayati na voharatī ’ti – na samesu na omesu na ussesu vadate muni.
Bậc hiền trí không mô tả (bản thân) là trong số những người ngang bằng, (hay là) trong số những người thấp kém, (hay là) trong số những người ưu việt – Bản thể hiền trí nói đến trí, –nt– đã vượt qua sự quyến luyến và mạng lưới (tham ái và tà kiến), vị ấy là hiền trí. Bậc hiền trí không mô tả, không thuyết, không phát ngôn, không diễn giải, không diễn tả rằng: ‘Tôi là ngang bằng,’ hoặc ‘Tôi là tốt hơn,’ hoặc ‘Tôi là thấp hèn;’ – ‘bậc hiền trí không mô tả (bản thân) là trong số những người ngang bằng, (hay là) trong số những người thấp kém, (hay là) trong số những người ưu việt’ là như thế.
Santo so vītamacchero ’ti – Santo ’ti rāgassa santattā samitattā santo, dosassa – mohassa –pe– sabbākusalābhisaṅkhārānaṃ santattā samitattā vūpasamitattā vijjhātattā nibbutattā vigatattā paṭipassaddhattā santo upasanto vūpasanto nibbuto paṭippassaddho ’ti santo so. Vītamacchero ’ti pañca macchariyāni: āvāsamacchariyaṃ –pe– gāho; idaṃ vuccati macchariyaṃ. Yassetaṃ macchariyaṃ pahīnaṃ samucchinnaṃ –pe– ñāṇagginā daḍḍhaṃ; so vuccati vītamaccharo vigatamaccharo cattamaccharo vantamaccharo muttamaccharo pahīnamaccharo paṭinissaṭṭhamaccharo ’ti – santo so vītamacchero
Được an tịnh, vị ấy đã xa lìa sự bỏn xẻn,– An tịnh: Trạng thái được an tịnh, trạng thái được yên lặng đối với luyến ái là an tịnh; trạng thái được an tịnh, trạng thái được yên lặng, trạng thái được vắng lặng, trạng thái được thiêu hủy, trạng thái được tịch diệt, trạng thái được tách lìa, trạng thái được tịch tịnh đối với sân hận – đối với si mê –nt– đối với tất cả các pháp tạo tác bất thiện là an tịnh, yên tịnh, vắng lặng, tịch diệt, tịch tịnh; – ‘vị ấy được an tịnh’ là như thế. Đã xa lìa sự bỏn xẻn – Có năm loại bỏn xẻn: bỏn xẻn về chỗ ở –nt– sự nắm lấy, điều này được gọi là bỏn xẻn. Đối với vị nào, sự bỏn xẻn này được dứt bỏ, được trừ tuyệt, –nt– đã được thiêu đốt bởi ngọn lửa trí tuệ, vị ấy được gọi là có sự bỏn xẻn đã được xa lìa, có sự bỏn xẻn đã được tách lìa, có sự bỏn xẻn đã được từ bỏ, có sự bỏn xẻn đã được tẩy trừ, có sự bỏn xẻn đã được giải thoát, có sự bỏn xẻn đã được dứt bỏ, có sự bỏn xẻn đã được xả bỏ; – ‘được an tịnh, vị ấy đã xa lìa sự bỏn xẻn’ là như thế.
Nādeti na nirassatīti bhagavā ’ti – Nādetī ’ti rūpaṃ nādiyati na upādiyati na gaṇhāti na parāmasati nābhinivisati. Vedanaṃ – saññaṃ – saṅkhāre – viññāṇaṃ – gatiṃ – uppattiṃ – paṭisandhiṃ – bhavaṃ – saṃsāraṃ – vaṭṭaṃ nādiyati na upādiyati na gaṇhāti na parāmasati nābhinivisatī ’ti – nādeti. Na nirassatī ’ti rūpaṃ na pajahati na vinodeti na byantīkaroti na anabhāvaṃ gameti. Vedanaṃ – saññaṃ – saṅkhāre – viññāṇaṃ – gatiṃ uppattiṃ – paṭisandhiṃ – bhavaṃ – saṃsāraṃ – vaṭṭaṃ na pajahati na vinodeti na byantīkaroti anabhāvaṃ gameti. Bhagavā’ti gāravādhivacanaṃ; –pe– sacchikā paññatti yadidaṃ bhagavā ’ti – nādeti na nirassatīti bhagavā ’ti.
Vị ấy không nắm giữ, không buông lơi – Không nắm giữ: Vị ấy không nắm giữ, không chấp thủ, không nắm lấy, không bám víu, không cố chấp sắc. Vị ấy không nắm giữ, không chấp thủ, không nắm lấy, không bám víu, không cố chấp thọ – tưởng – các hành – thức – cảnh giới tái sinh – sự tái sinh – sự nối liền tái sanh – sự hiện hữu – sự luân hồi –sự xoay vòng; – ‘không nắm giữ’ là như thế. Không buông lơi: Vị ấy không dứt bỏ, không xua đi, không làm chấm dứt, không làm cho không còn hiện hữu sắc. Vị ấy không dứt bỏ, không xua đi, không làm chấm dứt, không làm cho không còn hiện hữu thọ – tưởng – các hành – thức – cảnh giới tái sinh – sự tái sinh – sự nối liền tái sanh – sự hiện hữu – sự luân hồi –sự xoay vòng. Đức Thế Tôn: là từ xưng hô với sự tôn kính. –nt– sự quy định do sự chứng ngộ, tức là ‘đức Thế Tôn; – ‘vị ấy không nắm giữ, không buông lơi’ là như thế.
Tenāha bhagavā: “Na samesu na omesu na ussesu vadate muni, santo so vītamacchero nādeti na nirassatī ’ti bhagavā ”ti
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Bậc hiền trí không mô tả (bản thân) là trong số những người ngang bằng, (hay là) trong số những người thấp kém, (hay là) trong số những người ưu việt. Được an tịnh, đã xa lìa sự bỏn xẻn, vị ấy không nắm giữ, không buông lơi” (Đức Thế Tôn nói vậy).
Attadaṇḍasuttaniddeso samatto paṇṇarasamo.
Diễn Giải Kinh ‘Uế Hạnh của Bản Thân’ – Phần thứ mười lăm được đầy đủ.
16. SĀRIPUTTASUTTANIDDESO – DIỄN GIẢI KINH SĀRIPUTTA
16.1
Atha sāriputtasuttaniddeso vuccati:
Giờ phần diễn giải Kinh Sāriputta được nói đến:
Na me diṭṭho ito pubbe (iccāyasmā sāriputto) na suto uda kassaci, evaṃ vagguvado satthā tusitā gaṇimāgato
Từ đây trở về trước, con chưa từng được thấy, (Đại đức Sāriputta đã nói thế ấy), hoặc chưa từng được nghe của bất cứ người nào. Bậc Đạo Sư, vị có giọng nói êm dịu như thế, bậc có đồ chúng, đã đi đến từ cõi trời Tusitā.
(XVI) Kinh Sàriputta (Xá-lợi-phất) (Sn 185)
Trước con chưa từng thấy,
Chưa ai từng được nghe,
Tiếng nói thật ngọt ngào,
Như tiếng bậc Ðạo Sư,
Từ cõi Ðâu-suất đến,
Xá-lợi-phất nói vậy.
(Kinh Tập, câu kệ 955)
Na me diṭṭho ito pubbe ti ito pubbe me mayā na diṭṭhapubbo so bhagavā iminā cakkhunā iminā attabhāvena; yadā bhagavā tāvatiṃsabhavane pāricchattakamūle paṇḍukambalasilāyaṃ vassaṃ vuttho devagaṇaparivuto majjhe maṇimayena sopānena saṅkassanagaraṃ otiṇṇo, imaṃ dassanaṃ pubbe na diṭṭho ’ti – ‘na me diṭṭho ito pubbe.’
Từ đây trở về trước, con chưa từng được thấy: Từ đây trở về trước, đức Thế Tôn ấy chưa được thấy trước đây bởi chính tôi bằng con mắt này, bởi bản ngã này; vào lúc đức Thế Tôn, sau khi trải qua mùa (an cư) mưa ở cung trời Tam Thập, tại gốc cây san hô, nơi bảo tọa của đức Trời Sakka, được tháp tùng bởi hội chúng chư Thiên, đã ngự xuống thành Saṅkassa bằng cầu thang làm bằng ngọc ma-ni (đặt) ở chính giữa,; cảnh tượng này trước đây chưa được nhìn thấy; – ‘từ đây trở về trước, con chưa từng được thấy’ là như thế.
Iccāyasmā sāriputto ti – Iccā ti padasandhi padasaṃsaggo padapāripūri akkharasamavāyo byañjanasiliṭṭhatā padānupubbatāmetaṃ ‘iccā ’ti. Āyasmā ti piyavacanaṃ garuvacanaṃ sagāravasappatissavacanametaṃ ‘āyasmā ’ti. Sāriputto ti tassa therassa nāmaṃ saṅkhā samaññā paññatti vohāro nāmaṃ nāmakammaṃ nāmadheyyaṃ nirutti byañjanaṃ abhilāpo ’ti – ‘iccāyasmā sāriputto.’
Đại đức Sāriputta đã nói thế ấy – Thế ấy: Từ ‘thế ấy’ này gọi là sự nối liền các câu văn, sự kết hợp các câu văn, sự làm đầy đủ các câu văn, sự gặp gỡ của các âm, trạng thái trau chuốt từ ngữ, tính chất tuần tự của các câu văn. Đại đức: Từ ‘đại đức’ này là lời nói yêu mến, lời nói kính trọng, lời nói có sự tôn kính, lời nói của sự phục tùng. Sāriputta: là tên của vị trưởng lão ấy, là sự ấn định, sự chỉ định, sự quy định, sự diễn tả, tên gọi, sự đặt tên, sự định danh, từ mô tả, tên hiệu, từ kêu gọi; – ‘đại đức Sāriputta đã nói thế ấy’ là như thế.
Na suto uda kassacī ti – Nā ti paṭikkhepo. Udā ti padasandhi padasaṃsaggo padapāripūri akkharasamavāyo byañjanasiliṭṭhatā padānupubbatāmetaṃ udāti. Kassacī ti kassaci khattiyassa vā brāhmaṇassa vā vessassa vā suddassa vā gahaṭṭhassa vā pabbajitassa vā devassa vā manussassa vā ’ti – ‘na suto uda kassaci.’
Hoặc chưa từng được nghe của bất cứ người nào – Chưa từng: là sự chối bỏ. Hoặc: Từ ‘hoặc’ này gọi là sự nối liền các câu văn, sự kết hợp các câu văn, sự làm đầy đủ các câu văn, sự gặp gỡ của các âm, trạng thái trau chuốt từ ngữ, tính chất tuần tự của các câu văn. Của bất cứ người nào: của bất cứ ai, của vị Sát-đế-lỵ, hoặc của vị Bà-la-môn, hoặc của người thương buôn, hoặc của kẻ nô lệ, hoặc của người gia chủ, hoặc của vị xuất gia, hoặc của vị Trời, hoặc của người nhân loại; – ‘hoặc chưa từng được nghe của bất cứ người nào’ là như thế.
Evaṃ vagguvado satthā ti – Evaṃ vagguvado madhuravado pemanīyavado hadayaṅgamavado karavīkarutamañjughoso. Aṭṭhaṅgasamannāgato kho pana tassa bhagavato mukhato ghoso niccharati: vissaṭṭho ca viññeyyo ca mañju ca savanīyo ca bindu ca avisārī ca gambhīro ca ninnādī ca. Yathāparisaṃ kho pana so bhagavā sarena viññāpeti; na assa bahiddhā parisāya ghoso niccharati. Brahmassaro kho pana so bhagavā karavīkabhāṇī ’ti – ‘evaṃ vagguvado.’
Bậc Đạo Sư, vị có giọng nói êm dịu như thế: Giọng nói êm dịu như thế là giọng nói ngọt ngào, giọng nói đáng yêu, giọng nói đi vào tim, có âm thanh dịu dàng như tiếng hót của loài chim karavīka. Hơn nữa, âm thanh phát ra từ miệng của đức Thế Tôn ấy có tám yếu tố: không bị lắp bắp, có thể hiểu được, dịu dàng, nghe êm tai, chắc nịch, không bị loãng, sâu sắc, và có âm vang. Hơn nữa, đức Thế Tôn ấy giảng giải với giọng nói phù hợp với hội chúng; tiếng nói của Ngài không thoát ra bên ngoài của hội chúng. Hơn nữa, đức Thế Tôn ấy có âm thanh của Phạm Thiên, có giọng nói của loài chim karavīka; – ‘vị có giọng nói êm dịu’ là như thế.
Satthā ti satthā bhagavā satthavāho. Yathā satthavāho satte kantāraṃ tāreti, corakantāraṃ tāreti, vāḷakantāraṃ tāreti, dubhikkhakantāraṃ tāreti, nirudakakantāraṃ tāreti, uttāreti, nittāreti, patāreti, khemantabhūmiṃ sampāpeti, evamevaṃ bhagavā satthavāho satte kantāraṃ tāreti; jātikantāraṃ tāreti, jarākantāraṃ tāreti, byādhikantāraṃ tāreti, maraṇakantāraṃ tāreti, sokakantāraṃ tāreti, paridevakantāraṃ tāreti, dukkhakantāraṃ tāreti, domanassūpāyāsakantāraṃ tāreti, rāgakantāraṃ tāreti, dosakantāraṃ tāreti, mohakantāraṃ tāreti, mānakantāraṃ tāreti, diṭṭhikantāraṃ tāreti, kilesakantāraṃ tāreti, duccaritakantāraṃ tāreti, rāgagahanaṃ tāreti, dosagahanaṃ tāreti, mohagahanaṃ tāreti, mānagahanaṃ tāreti, diṭṭhigahanaṃ tāreti, kilesagahanaṃ tāreti, duccaritagahanaṃ tāreti, uttāreti, nittāreti, patāreti, khemantaṃ amataṃ nibbānaṃ sampāpetī ’ti – evampi bhagavā satthavāho.
Bậc Đạo Sư: Bậc Đạo Sư là đức Thế Tôn, người chỉ đạo đoàn xe. Giống như người chỉ đạo đoàn xe giúp chúng sanh vượt qua hiểm lộ, giúp vượt qua hiểm lộ có trộm cướp, giúp vượt qua hiểm lộ có thú dữ, giúp vượt qua hiểm lộ có khó khăn về vật thực, giúp vượt qua hiểm lộ không có nước, giúp cho vượt lên, giúp cho vượt ra, giúp cho vượt khỏi, giúp cho đạt đến vùng đất hoàn toàn an ổn, tương tự như thế, đức Thế Tôn là người chỉ đạo đoàn xe giúp chúng sanh vượt qua hiểm lộ, giúp vượt qua hiểm lộ của sự sanh, giúp vượt qua hiểm lộ của sự già, giúp vượt qua hiểm lộ của sự bệnh, giúp vượt qua hiểm lộ của sự chết, giúp vượt qua hiểm lộ của sầu muộn, giúp vượt qua hiểm lộ của sự than vãn, giúp vượt qua hiểm lộ của sự khổ, giúp vượt qua hiểm lộ của ưu phiền và lo âu, giúp vượt qua hiểm lộ của luyến ái, giúp vượt qua hiểm lộ của sân hận, giúp vượt qua hiểm lộ của si mê, giúp vượt qua hiểm lộ của ngã mạn, giúp vượt qua hiểm lộ của tà kiến, giúp vượt qua hiểm lộ của ô nhiễm, giúp vượt qua hiểm lộ của uế hạnh, giúp vượt qua sự nắm giữ của luyến ái, giúp vượt qua sự nắm giữ của sân hận, giúp vượt qua sự nắm giữ của si mê, giúp vượt qua sự nắm giữ của ngã mạn, giúp vượt qua sự nắm giữ của tà kiến, giúp vượt qua sự nắm giữ của ô nhiễm, giúp vượt qua sự nắm giữ của uế hạnh, giúp cho vượt lên, giúp cho vượt ra, giúp cho vượt khỏi, giúp cho đạt đến vùng đất hoàn toàn an ổn, Bất Tử, Niết Bàn; ‘đức Thế Tôn, người chỉ đạo đoàn xe’ là như vậy.
Athavā bhagavā netā vinetā anunetā paññāpetā nijjhāpetā pekkhetā pasādetā ’ti – evampi bhagavā satthavāho.
Hơn nữa, đức Thế Tôn là bậc Hướng Đạo, bậc Hướng Dẫn, bậc Đoạn Nghi, bậc Truyền Đạt, bậc Truyền Thụ, bậc Khơi Mở, bậc Khởi Tín; – ‘đức Thế Tôn, người chỉ đạo đoàn xe’ còn là như vậy.
Athavā bhagavā anuppannassa maggassa uppādetā asañjātassa maggassa sañjanetā anakkhātassa maggassa akkhātā maggaññū maggavidū maggakovido. Maggānugā ca panassa etarahi sāvakā viharanti pacchā samannāgatā ’ti evampi bhagavā satthavāho ’ti – evaṃ vagguvado satthā.
Hơn nữa, đức Thế Tôn là vị làm sanh khởi Đạo Lộ chưa được sanh khởi, là vị làm sanh ra Đạo Lộ chưa được sanh ra, là vị tuyên thuyết Đạo Lộ chưa được tuyên thuyết, là vị biết về Đạo Lộ, là vị hiểu rõ về Đạo Lộ, là vị rành rẽ về Đạo Lộ. Và hơn nữa, những người đi theo Đạo Lộ là các đệ tử của Ngài hiện nay đang an trú và sau này sẽ thành tựu (Đạo Lộ ấy); – ‘đức Thế Tôn, người chỉ đạo đoàn xe’ còn là như vậy; – ‘Bậc Đạo Sư, vị có giọng nói êm dịu như thế’ là như vậy.
Tusitā gaṇimāgato ti – Bhagavā tusitā kāyā cavitvā sato sampajāno mātukucchiṃ okkanto ’ti – evampi tusitā gaṇimāgato. Athavā devā vuccanti tusitā. Te tuṭṭhā santuṭṭhā attamanā pamuditā pītisomanassajātā; devalokato gaṇiṃ āgatoti evampi tusitā gaṇimāgato. Athavā arahanto vuccanti tusitā. Te tuṭṭhā santuṭṭhā attamanā paripuṇṇasaṅkappā. Arahantānaṃ gaṇiṃ āgato ’ti – evampi tusitā gaṇimāgato. Gaṇī ti gaṇī bhagavā; gaṇācariyoti gaṇī; gaṇassa satthāti gaṇī; gaṇaṃ pariharatīti gaṇī; gaṇaṃ ovadatīti gaṇī; gaṇamanusāsatīti gaṇī; visārado gaṇaṃ upasaṅkamatīti gaṇī; gaṇossa sussūsati sotaṃ odahati aññā cittaṃ upaṭṭhapetīti gaṇī; gaṇaṃ akusalā uṭṭhāpetvā kusale patiṭṭhāpetīti gaṇī; bhikkhugaṇassa gaṇī, bhikkhunīgaṇassa gaṇī, upāsakagaṇassa gaṇī, upāsikāgaṇassa gaṇī, rājagaṇassa gaṇī, khattiyagaṇassa — brāhmaṇagaṇassa — vessagaṇassa — suddagaṇassa — devagaṇassa — brahmagaṇassa gaṇī, saṅghī, gaṇī, gaṇācariyo. Āgato ti āgato upāgato samupāgato sampatto saṅkassanagaran ’ti – ‘tusitā gaṇimāgato.’
Bậc có đồ chúng, đã đi đến từ cõi trời Tusitā: Đức Thế Tôn, sau khi lìa khỏi hội chúng Tusitā, có niệm, có sự nhận biết rõ, đang ngự xuống vào thai bào của người mẹ; – ‘bậc có đồ chúng, đã đi đến từ cõi trời Tusitā’ là như vậy. Hoặc là, nói đến chư Thiên được hoan hỷ. Các vị ấy vui thích, vui sướng, hoan hỷ, vui mừng, sanh tâm phỉ lạc; từ thế giới chư Thiên Ngài đã đi đến vị thế của bậc có đồ chúng; – ‘bậc có đồ chúng, đã đi đến từ cõi trời Tusitā’ còn là như vậy. Hoặc là, nói đến các vị A-la-hán được hoan hỷ. Các vị ấy vui thích, vui sướng, hoan hỷ, có tâm tư hoàn mãn; đối với các vị A-la-hán Ngài đã đi đến vị thế của bậc có đồ chúng; – ‘bậc có đồ chúng, đã đi đến từ cõi trời Tusitā’ còn là như vậy. Bậc có đồ chúng: Đức Thế Tôn là bậc có đồ chúng; ‘vị thầy của đồ chúng’ là bậc có đồ chúng; ‘bậc đạo sư của đồ chúng’ là bậc có đồ chúng; ‘vị chăm nom đồ chúng’ là bậc có đồ chúng; ‘vị giáo huấn đồ chúng’ là bậc có đồ chúng; ‘vị chỉ dạy đồ chúng’ là bậc có đồ chúng; ‘vị tự tin tiếp cận đồ chúng’ là bậc có đồ chúng; ‘vị thường lắng nghe, lóng tai nghe, nâng đỡ tâm mong muốn hiểu biết’ là bậc có đồ chúng; ‘vị đưa đồ chúng ra khỏi bất thiện pháp và sách tấn thiện pháp’ là bậc có đồ chúng; vị có đồ chúng thuộc chúng tỳ khưu; vị có đồ chúng thuộc chúng tỳ khưu ni; vị có đồ chúng thuộc chúng nam cư sĩ; vị có đồ chúng thuộc chúng nữ cư sĩ; vị có đồ chúng thuộc chúng vua chúa; — thuộc chúng Sát-đế-lỵ; — thuộc chúng Bà-la-môn; — thuộc chúng thương buôn; — thuộc chúng nô lệ; — thuộc chúng chư Thiên; vị có đồ chúng thuộc chúng Phạm Thiên; vị có hội chúng, vị có đồ chúng, vị thầy của đồ chúng. Đã đi đến: đã đi đến, đã đi đến gần, đã tiến đến gần, đã đạt đến thành Saṅkassa; – ‘bậc có đồ chúng, đã đi đến từ cõi trời Tusitā’ là như thế.
Tenāha thero sāriputto: “Na me diṭṭho ito pubbe (iccāyasmā sāriputto) na suto uda kassaci, evaṃ vagguvado satthā tusitā gaṇimāgato ”ti
Vì thế, trưởng lão Sāriputta đã nói rằng: “Từ đây trở về trước, con chưa từng được thấy, (Đại đức Sāriputta đã nói thế ấy), hoặc chưa từng được nghe của bất cứ người nào, Bậc Đạo Sư, vị có giọng nói êm dịu như thế, bậc có đồ chúng, đã đi đến từ cõi trời Tusitā.”
16.2
Sadevakassa lokassa yathā dissati cakkhumā, sabbaṃ tamaṃ vinodetvā ekova ratimajjhagā.
Đối với thế gian có cả chư Thiên, bậc Hữu Nhãn được nhìn thấy là như thế. Sau khi xua đi tất cả tăm tối, độc nhất Ngài đã đạt đến sự khoái cảm.
Bậc có mắt xuất hiện,
Ðời này và thiên giới,
Quét sạch mọi u ám,
Ðộc cư, chứng an lạc.
(Kinh Tập, câu kệ 956)
Sadevakassa lokassā ti – sadevakassa lokassa samārakassa sabrahmakassa sassamaṇabrāhmaṇiyā pajāya sadevamanussāyā ’ti – ‘sadevakassa lokassa.’
Yathā dissati cakkhumā ti – Yathā bhagavantaṃ tāvatiṃsabhavane pāricchattakamūle paṇḍukambalasilāyaṃ nisinnaṃ dhammaṃ desentaṃ devatā passanti, tathā manussā passanti; yathā manussā passanti, tathā devatā passanti; yathā devānaṃ dissati, tathā manussānaṃ dissati; yathā manussānaṃ dissati, tathā devānaṃ dissatī ’ti – evampi ‘yathā dissati cakkhumā.’ Yathā vā pan’ eke bhonto samaṇabrāhmaṇā adantā dantavaṇṇena dissanti, asantā santavaṇṇena dissanti, anupasantā upasantavaṇṇena dissanti, anibbutā nibbutavaṇṇena dissanti.
1. “Patirūpako mattikākuṇḍalova lohaḍḍhamāsova suvaṇṇachanno, caranti loke parivārachannā anto asuddhā bahi sobhamānā ”ti. Na bhagavā evaṃ dissati.
Bhagavā bhūtena tacchena tathena yāthāvena aviparītena sabhāvena danto dantavaṇṇena dissati, santo santavaṇṇena dissati, upasanto upasantavaṇṇena dissati, nibbuto nibbutavaṇṇena dissati; akappita -iriyāpathā ca buddhā bhagavanto paṇidhisampaṇṇā ’ti – evampi ‘yathā dissati cakkhumā.’ Athavā bhagavā visuddhasaddo gatakittisaddasiloko nāgabhavane ca supaṇṇabhavane ce yakkhabhavane ca asurabhavane ca gandhabbabhavane ca mahārājabhavane ca indabhavane ca brahmabhavane ca devabhavane ca ediso ca tādiso ca tato ca bhiyyo ’ti – evampi ‘yathā dissati cakkhumā.’ Athavā bhagavā dasahi balehi samannāgato catuhi vesārajjehi catuhi paṭisambhidāhi chahi abhiññāhi chahi buddhadhammehi tejena ca balena ca guṇena ca viriyena ca paññāya ca dissati ñāyati paññāyati.
2. “Dūre santo pakāsenti himavantova pabbato, asantettha na dissanti ratti khittā yathā sarā ”ti. Evampi ‘yathā dissati cakkhumā.’
Cakkhumā ti bhagavā pañcahi cakkhūhi cakkhumā: maṃsacakkhunāpi cakkhumā, dibbacakkhunāpi cakkhumā, paññācakkhunāpi cakkhumā, buddhacakkhunāpi cakkhumā, samantacakkhunāpi cakkhumā.
Kathaṃ bhagavā maṃsacakkhunāpi cakkhumā? Maṃsacakkhumhi bhagavato pañca vaṇṇā saṃvijjanti: nīlo ca vaṇṇo pītako ca vaṇṇo lohitako ca vaṇṇo kaṇho ca vaṇṇo odāto ca vaṇṇo. Akkhilomāni ca bhagavato. Yattha ca akkhilomāni patiṭṭhitāni taṃ nīlaṃ hoti sunīlaṃ pāsādikaṃ dassaneyyaṃ ummāpupphasamānaṃ. Tassa parato pītakaṃ hoti supītakaṃ suvaṇṇavaṇṇaṃ pāsādikaṃ dassaneyyaṃ kaṇikārapupphasamānaṃ. Ubhato akkhikūṭāni bhagavato lohitakāni honti sulohitakāni, pāsādikāni dassaneyyāni indagopakasamānāni. Majjhe kaṇhaṃ hoti sukaṇhaṃ alūkhaṃ siniddhaṃ pāsādikaṃ dassaneyyaṃ addāriṭṭhakasamānaṃ. Tassa parato odātaṃ hoti su-odātaṃ setaṃ paṇḍaraṃ pāsādikaṃ dassaneyyaṃ osadhītārakāsamānaṃ. Tena bhagavā pākatikena maṃsacakkhunā attabhāvapariyāpannena purimasucaritakammābhinibbattena samantā yojanaṃ passati divā ceva rattiñca.
Yadā hi caturaṅgasamannāgato andhakāro hoti: suriyo ca atthaṅgato hoti, kāḷapakkho ca uposatho hoti, tibbo ca vanasaṇḍo hoti, mahā ca kāḷamegho abbhuṭṭhito hoti, evarūpepi caturaṅgasamannāgate andhakāre samantā yojanaṃ passati. Natthi so kuḍḍo vā kavāṭaṃ vā pākāro vā pabbato vā gaccho vā latā vā āvaraṇaṃ rūpānaṃ dassanāya, ekañce tilaphalaṃ nimittaṃ katvā tilavāhe pakkhipeyya, taññeva tilaphalaṃ uddhareyya. Evaṃ parisuddhaṃ bhagavato pākatikaṃ maṃsacakkhu. Evaṃ bhagavā maṃsacakkhunāpi cakkhumā.
Kathaṃ bhagavā dibbena cakkhunāpi cakkhumā? Bhagavā dibbena cakkhunā visuddhena atikkantamānusakena satte passati cavamāne uppajjamāne hīne paṇīte suvaṇṇe dubbaṇṇe sugate duggate yathākammūpage satte pajānāti: ‘Ime vata bhonto sattā kāyaduccaritena samannāgatā, vacīduccaritena samannāgatā, manoduccaritena samannāgatā ariyānaṃ upavādakā, micchādiṭṭhikā, micchādiṭṭhikammasamādānā; te kāyassa bhedā parammaraṇā apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ nirayaṃ upapannā. Ime vā pana bhonto sattā kāyasucaritena samannāgatā, vacīsucaritena samannāgatā, manosucaritena samannāgatā, ariyānaṃ anupavādakā, sammādiṭṭhikā, sammādiṭṭhikammasamādānā; te kāyassa bhedā parammaraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapannā ’ti. Iti dibbena cakkhunā visuddhena atikkantamānusakena satte passati cavamāne uppajjamāne hīne paṇīte suvaṇṇe dubbaṇṇe sugate duggate yathākammūpage satte pajānāti. Ākaṅkhamāno ca bhagavā ekampi lokadhātuṃ passeyya, dvepi lokadhātuyo passeyya, tissopi lokadhātuyo passeyya, catassopi lokadhātuyo passeyya, pañcapi lokadhātuyo passeyya, dasapi lokadhātuyo passeyya, vīsatimpi lokadhātuyo passeyya, tiṃsampi lokadhātuyo passeyya, cattāḷīsampi lokadhātuyo passeyya, paññāsampi lokadhātuyo passeyya, sahassimpi cūlanikaṃ lokadhātuṃ passeyya, dvisahassimpi majjhimikaṃ lokadhātuṃ passeyya, tisahassimpi mahāsahassiṃ lokadhātuṃ passeyya. Yāvatakaṃ pana ākaṅkheyya, tāvatakaṃ passeyya. Evaṃ parisuddhaṃ bhagavato dibbacakkhu. Evaṃ bhagavā dibbena cakkhunāpi cakkhumā.
Kathaṃ bhagavā paññācakkhunāpi cakkhumā? Bhagavā mahāpañño puthupañño hāsupañño javanapañño tikkhapañño nibbedhikapañño paññāpabhedakusalo pabhinnañāṇo adhigatapaṭisambhido catuvesārajjappatto dasabaladhārī purisāsabho purisasīho purisanāgo purisājañño purisadhorayho anantañāṇo anantatejo anantayaso aḍḍho mahaddhano dhanavā netā vinetā anunetā paññāpetā nijjhāpetā pekkhetā pasādetā.
So hi bhagavā anuppannassa maggassa uppādetā, asañjātassa maggassa sañjanetā, anakkhātassa maggassa akkhātā, maggaññū maggavidū maggakovido. Maggānugā ca pana etarahi sāvakā viharanti pacchā samannāgatā. So hi bhagavā jānaṃ jānāti, passaṃ passati, cakkhubhūto ñāṇabhūto dhammabhūto brahmabhūto, vattā pavattā atthassa ninnetā amatassa dātā dhammassāmī tathāgato.
Natthi tassa bhagavato aññātaṃ adiṭṭhaṃ aviditaṃ asacchikataṃ aphassitaṃ paññāya. Atītaṃ anāgataṃ paccuppannaṃ upādāya sabbe dhammā sabbākārena buddhassa bhagavato ñāṇamukhe āpāthaṃ āgacchanti. Yaṃ kiñci ñeyyaṃ nāma atthi jānitabbaṃ attattho vā parattho vā ubhayattho vā diṭṭhadhammiko vā attho samparāyiko vā attho uttāno vā attho gambhīro vā attho gūḷho vā attho paṭicchanno vā attho neyyo vā attho nīto vā attho anavajjo vā attho nikkileso vā attho vodāno vā attho paramattho vā attho, sabbaṃ taṃ anto buddhañāṇe parivattati. Sabbaṃ kāyakammaṃ buddhassa bhagavato ñāṇānuparivatti, sabbaṃ vacīkammaṃ buddhassa bhagavato ñāṇānuparivatti, sabbaṃ manokammaṃ buddhassa bhagavato ñāṇānuparivatti. Atīte buddhassa bhagavato appaṭihataṃ ñāṇaṃ, anāgate appaṭihataṃ ñāṇaṃ, paccuppanne appaṭihataṃ ñāṇaṃ. Yāvatakaṃ ñeyyaṃ tāvatakaṃ ñāṇaṃ, yāvatakaṃ ñāṇaṃ tāvatakaṃ ñeyyaṃ. Ñeyyapariyantikaṃ ñāṇaṃ, ñāṇapariyantikaṃ ñeyyaṃ. Ñeyyaṃ atikkamitvā ñāṇaṃ nappavattati, ñāṇaṃ atikkamitvā ñeyyapatho natthi. Aññamaññapariyantaṭṭhāyino te dhammā. Yathā dvinnaṃ samuggapaṭalānaṃ sammā phussitānaṃ heṭṭhimaṃ samuggapaṭalaṃ uparimaṃ nātivattati, uparimaṃ samuggapaṭalaṃ heṭṭhimaṃ nātivattati, aññamaññapariyantaṭṭhāyino honti; evamevaṃ buddhassa bhagavato ñeyyañca ñāṇañca aññamaññapariyantaṭṭhāyino. Yāvatakaṃ ñeyyaṃ tāvatakaṃ ñāṇaṃ, yāvatakaṃ ñāṇaṃ tāvatakaṃ ñeyyaṃ. Ñeyyapariyantikaṃ ñāṇaṃ, ñāṇapariyantikaṃ ñeyyaṃ. Ñeyyaṃ atikkamitvā ñāṇaṃ nappavattati, ñāṇaṃ atikkamitvā ñeyyapatho natthi. Aññamaññapariyantaṭṭhāyino te dhammā.
Sabbadhammesu buddhassa bhagavato ñāṇaṃ pavattati. Sabbe dhammā buddhassa bhagavato āvajjanapaṭibaddhā, ākaṅkhāpaṭibaddhā, manasikārapaṭibaddhā, cittuppādapaṭibaddhā.
Sabbasattesu buddhassa bhagavato ñāṇaṃ pavattati. Sabbesaṃ sattānaṃ bhagavā āsayaṃ jānāti anusayaṃ jānāti, caritaṃ jānāti adhimuttiṃ jānāti. Apparajakkhe mahārajakkhe tikkhindriye mudindriye svākāre dvākāre suviññāpaye duviññāpaye bhabbābhabbe satte jānāti. Sadevako loko samārako sabrahmako sassamaṇabrāhmaṇī pajā sadevamanussā anto buddhañāṇe parivattati. Yathā ye keci macchakacchapā antamaso timitimiṅgalaṃ upādāya anto mahāsamudde parivattanti, evameva sadevako loko samārako sabrahmako sassamaṇabrāhmaṇī pajā sadevamanussā antobuddhañāṇe parivattati. Yathā ye keci pakkhī antamaso garuḷaṃ venateyyaṃ upādāya ākāsassa padese parivattanti, evameva yepi te sāriputtasamā paññāya, tepi buddhañāṇassa padese parivattanti; buddhaññāṇaṃ devamanussānaṃ paññaṃ pharitvā abhibhavitvā tiṭṭhati. Yepi te khattiyapaṇḍitā brāhmaṇapaṇḍitā gahapatipaṇḍitā samaṇapaṇḍitā nipuṇā kataparappavādā vālavedhirūpā vobhindantā maññe caranti paññāgatena diṭṭhigatāni, te pañhe abhisaṅkharitvā tathāgataṃ upasaṅkamitvā pucchanti: gūḷhāni ca paṭicchannāni ca. Kathitā vissajjitāva te pañhā bhagavatā honti niddiṭṭhakāraṇā. Upakkhittakāva te bhagavato sampajjanti. Atha kho bhagavā ’va tattha atirocati yadidaṃ paññāyāti. Evaṃ bhagavā paññācakkhunāpi cakkhumā.
Kathaṃ bhagavā buddhacakkhunāpi cakkhumā? Bhagavā buddhacakkhunā lokaṃ olokento addasa satte apparajakkhe mahārajakkhe tikkhindriye mudindriye svākāre dvākāre suviññāpaye duviññāpaye appekacce paralokavajjabhayadassāvino viharante, appekacce na paralokavajjabhayadassāvino viharante. Seyyathāpi nāma uppaliniyaṃ vā paduminiyaṃ vā puṇḍarīkiniyaṃ vā appekacce uppalāni vā padumāni vā puṇḍarīkāni vā udake jātāni udake saṃvaddhāni udakānuggatāni anto nimuggaposīni, appekaccāni uppalāni vā padumāni vā puṇḍarīkāni vā udake jātāni udake saṃvaddhāni samodakaṃ ṭhitāni, appekaccāni uppalāni vā padumāni vā puṇḍarīkāni vā udake jātāni udake saṃvaddhāni udakā accuggamma tiṭṭhanti anupalittāni udakena, evamevaṃ bhagavā buddhacakkhunā lokaṃ olokento addasa satte apparajakkhe mahārajakkhe tikkhindriye mudindriye svākāre dvākāre suviññāpaye duviññāpaye appekacce paralokavajjabhayadassāvino viharante, appekacce na paralokavajjabhayadassāvino viharante.
Jānāti bhagavā: ‘Ayaṃ puggalo rāgacarito, ayaṃ dosacarito, ayaṃ mohacarito ayaṃ vitakkacarito, ayaṃ saddhācarito, ayaṃ ñāṇacarito ’ti. Rāgacaritassa bhagavā puggalassa asubhakathaṃ katheti. Dosacaritassa bhagavā puggalassa mettābhāvanaṃ ācikkhati. Mohacaritaṃ bhagavā puggalaṃ uddese paripucchāya kālena dhammasavane kālena dhammasākacchāya garusaṃvāse niveseti. Vitakkacaritassa bhagavā puggalassa ānāpānasatiṃ ācikkhati. Saddhācaritassa bhagavā puggalassa pasādanīyaṃ nimittaṃ ācikkhati: buddhasubodhiṃ dhammasudhammataṃ saṅghasuppaṭipattiṃ sīlāni ca attano. Ñāṇacaritassa bhagavā puggalassa vipassanānimittaṃ ācikkhati: aniccākāraṃ dukkhākāraṃ anattākāraṃ.
3. “Sele yathā pabbatamuddhaniṭṭhito yathāpi passe janataṃ samantato. tathūpamaṃ dhammamayaṃ sumedha pāsādamāruyha samantacakkhu. sokāvatiṇṇaṃ janatamapetasoko, avekkhassu jātijarābhibhūtan ”ti. Evaṃ bhagavā buddhacakkhunāpi cakkhumā.
Kathaṃ bhagavā samantacakkhunāpi cakkhumā? Samantacakkhu vuccati sabbaññutañāṇaṃ. Bhagavā sabbaññutañāṇena upeto samupeto upagato samupagato upapanno sampanno samannāgato.
4. “Na tassa addiṭṭhamidhatthi kiñci atho aviññātamajānitabbaṃ, sabbaṃ abhiññāsi yadatthi ñeyyaṃ tathāgato tena samantacakkhū ”ti. Evaṃ bhagavā samantacakkhunāpi cakkhumā ’ti – ‘yathā dissati cakkhumā.’
Sabbaṃ tamaṃ vinodetvā ti – sabbaṃ rāgatamaṃ dosatamaṃ mohatamaṃ mānatamaṃ diṭṭhitamaṃ kilesatamaṃ duccaritatamaṃ andhakaraṇaṃ acakkhukaraṇaṃ aññāṇakaraṇaṃ paññānirodhikaṃ vighātapakkhikaṃ anibbānasaṃvattanikaṃ nuditvā panuditvā jahitvā pajahitvā vinodetvā byantīkaritvā anabhāvaṃ gametvā ’ti – ‘sabbaṃ tamaṃ vinodetvā.’
Ekova ratimajjhagā ti – Eko bhagavā: pabbajjāsaṅkhātena eko, adutiyaṭṭhena eko, taṇhāya pahānaṭṭhena eko, ekantavītarāgoti eko, ekantavītadosoti eko, ekantavītamohoti eko, ekantanikkilesoti eko, ekāyanamaggaṃ gatoti eko, anuttaraṃ sammāsambodhiṃ abhisambuddho ’ti eko.
Kathaṃ bhagavā pabbajjāsaṅkhātena eko? Bhagavā daharova samāno susukāḷakeso bhadrena yobbanena samannāgato paṭhamena vayasā akāmakānaṃ mātāpitunnaṃ assumukhānaṃ rudantānaṃ vilapantānaṃ ñātisaṅghaṃ pahāya sabbaṃ gharāvāsapaḷibodhaṃ chinditvā puttadārapaḷibodhaṃ chinditvā ñātipaḷibodhaṃ chinditvā [mittāmaccapalibodhaṃ chinditvā] sannidhipaḷibodhaṃ chinditvā kesamassuṃ ohāretvā kāsāyāni vatthāni acchādetvā agārasmā anagāriyaṃ pabbajitvā akiñcanabhāvaṃ upagantvā eko carati viharati irīyati vattati pāleti yapeti yāpeti. Evaṃ bhagavā pabbajjāsaṅkhātena eko.
Kathaṃ bhagavā adutiyaṭṭhena eko? So evaṃ pabbajito samāno eko araññe vanapatthāni pantāni senāsanāni paṭisevati appasaddāni appanigghosāni vijanavātāni manussarāhaseyyakāni paṭisallānasāruppāni. So eko carati, eko gacchati, eko tiṭṭhati, eko seyyaṃ kappeti, eko gāmaṃ piṇḍāya pavisati, eko paṭikkamati, eko raho nisīdati, eko caṅkamaṃ adhiṭṭhāti, eko carati viharati irīyati vattati pāleti yapeti yāpeti. Evaṃ bhagavā adutiyaṭṭhena eko.
Kathaṃ bhagavā taṇhāya pahānaṭṭhena eko? So evaṃ eko adutiyo appamatto ātāpī pahitatto viharanto najjā nerañjarāya tīre bodhirukkhamūle mahāpadhānaṃ padahanto māraṃ sasenaṃ kaṇhaṃ namuciṃ pamattabandhuṃ vidhamitvā taṇhājāliniṃ visattikaṃ pajahi, vinodesi, byantī akāsi, anabhāvaṃ gamesīti.
5. “Taṇhādutiyo puriso dīghamaddhānasaṃsaraṃ, itthabhāvaññathābhāvaṃ saṃsāraṃ nātivattati.
6. Evamādinavaṃ ñatvā taṇhā dukkhassa sambhavaṃ, vītataṇho anādāno sato bhikkhu paribbaje ”ti.
Evaṃ bhagavā taṇhāya pahānaṭṭhena eko.
Kathaṃ bhagavā ekantavītarāgoti eko? Rāgassa pahīnattā ekantavītarāgoti eko, dosassa pahīnattā ekantavītadosoti eko, mohassa pahīnattā ekantavītamohoti eko, kilesānaṃ pahīnattā ekantanikkilesoti eko.
Kathaṃ bhagavā ekāyanamaggaṃ gatoti eko? Ekāyanamaggo vuccati cattāro satipaṭṭhānā, cattāro sammappadhānā, cattāro iddhipādā, pañcindriyāni, pañca balāni, satta bojjhaṅgā, ariyo aṭṭhaṅgiko maggo.
7. “Ekāyanaṃ jātikhayantadassī maggaṃ pajānāti hitānukampī, etena maggena tariṃsu pubbe tarissanti ye ca taranti oghan ”ti. Evaṃ bhagavā ekāyanamaggaṃ gato ’ti eko.
Kathaṃ bhagavā eko anuttaraṃ sammāsambodhiṃ abhisambuddho ’ti eko? Bodhi vuccati catusu maggesu ñāṇaṃ paññā paññindriyaṃ paññābalaṃ dhammavicayasambojjhaṅgo vīmaṃsā vipassanā sammādiṭṭhi. Bhagavā tena bodhiñāṇena sabbe saṅkhārā aniccāti bujjhi, sabbe saṅkhārā dukkhāti bujjhi, sabbe dhammā anattāti bujjhi, avijjāpaccayā saṅkhārāti bujjhi –pe– jātipaccayā jarāmaraṇanti bujjhi, avijjānirodhā saṅkhāranirodhoti bujjhi, –pe– jātinirodhā jarāmaraṇanirodhoti bujjhi, idaṃ dukkhanti bujjhi, ayaṃ dukkhasamudayoti bujjhi, ayaṃ dukkhanirodhoti bujjhi, ayaṃ dukkhanirodhagāminī paṭipadāti bujjhi, ime āsavāti bujjhi –pe– ayaṃ āsavanirodhagāminī paṭipadāti bujjhi, ime dhammā pariññeyyāti bujjhi, pahātabbāti — bhāvetabbāti — sacchikātabbāti bujjhi, channaṃ phassāyatanānaṃ samudayañca atthaṅgamañca assādañca ādīnavañca nissaraṇañca bujjhi, pañcannaṃ upādānakkhandhānaṃ samudayañca atthaṅgamañca assādañca ādīnavañca nissaraṇañca bujjhi, catunnaṃ mahābhūtānaṃ samudayañca atthaṅgamañca assādañca ādīnavañca nissaraṇañca bujjhi, yaṃ kiñci samudayadhammaṃ sabbaṃ taṃ nirodhadhammanti bujjhi. Athavā yaṃ kiñci bujjhitabbaṃ anubujjhitabbaṃ paṭibujjhitabbaṃ sambujjhitabbaṃ adhigantabbaṃ phassitabbaṃ sacchikātabbaṃ, sabbaṃ taṃ tena bodhiñāṇena bujjhi, anubujjhi, paṭibujjhi, sambujjhi, sammābujjhi, adhigacchi, phassesi, sacchikāsi. Evaṃ bhagavā eko anuttaraṃ sammāsambodhiṃ abhisambuddhoti eko.
Ratimajjhagā ti – Ratin ti nekkhammaratiṃ vivekaratiṃ upasamaratiṃ sambodhiratiṃ. Ajjhagāadhigacchi phassesi sacchākāsī ’ti – ekova ratimajjhagā.
Tenāha thero sāriputto: “Sadevakassa lokassa yathā dissati cakkhumā, sabbaṃ tamaṃ vinodetvā ekova ratimajjhagā ”ti.
Vì thế, trưởng lão Sāriputta đã nói rằng: “Đối với thế gian có cả chư Thiên, bậc Hữu Nhãn được nhìn thấy là như thế. Sau khi xua đi tất cả tăm tối, độc nhất Ngài đã đạt đến sự khoái cảm.”
16.3
Taṃ buddhaṃ asitaṃ tādiṃ akuhaṃ gaṇimāgataṃ, bahunnamidha baddhānaṃ atthi pañhena āgamaṃ
Với ý định (hỏi) câu hỏi cho số đông đã được gắn bó ở đây, con đã đi đến gặp Ngài, – đức Phật, bậc không nương tựa, đấng tự tại, vị không lừa gạt, bậc có đồ chúng, – đã đi đến.
Bậc Giác ngộ, độc lập,
Như thật, không man trá,
Ngài đến ở đời này,
Lãnh đạo các đồ chúng,
Từ nhiều người trói buộc,
Con đến với câu hỏi.
(Kinh Tập, câu kệ 957)
Taṃ buddhaṃ asitaṃ tādin ti – Buddho ti yo so bhagavā sayambhū anācariyako pubbe ananussutesu dhammesu sāmaṃ saccāni abhisambujjhi. Tattha ca sabbaññutaṃ pāpuṇi, balesu ca vasībhāvaṃ pāpuṇi. Buddho ti kenaṭṭhena buddho? Bujjhitā saccānīti buddho. Bodhetā pajāyāti buddho. Sabbaññutāya buddho. Sabbadassāvitāya buddho. Anaññaneyyatāya buddho. Visavitāya buddho. Khīṇāsavasaṅkhātena buddho. Nirupakkilesasaṅkhātena buddho. Ekantavītarāgoti buddho. Ekantavītadosoti buddho. Ekantavītamohoti buddho. Ekantanikkilesoti buddho. Ekāyanamaggaṃ gatoti buddho. Eko anuttaraṃ sammāsambodhiṃ abhisambuddhoti buddho. Abuddhivihatattā buddhipaṭilābhā buddho. Buddho ti netaṃ nāmaṃ mātarā kataṃ, na pitarā kataṃ, na bhātarā kataṃ, na bhaginiyā kataṃ, na mittāmaccehi kataṃ, na ñātisālohitehi kataṃ, na samaṇabrāhmaṇehi kataṃ, na devatāhi kataṃ. Vimokkhantikametaṃ buddhānaṃ bhagavantānaṃ bodhiyā mūle saha sabbaññutañāṇassa paṭilābhā sacchikā paññatti yadidaṃ buddho ’ti – taṃ buddhaṃ.
Asitan ti – Dve nissayā: taṇhānissayo ca diṭṭhinissayo ca.
Katamo taṇhānissayo? Yāvatā taṇhāsaṅkhātena sīmākataṃ odhikataṃ pariyantakataṃ pariggahitaṃ mamāyitaṃ: Idaṃ mama, etaṃ mama, ettakaṃ mama, ettāvatā mama, mama rūpā saddā gandhā rasā phoṭṭhabbā attharaṇā pāpuraṇā dāsidāsā ajeḷakā kukkuṭasūkarā hatthigavāssavaḷavā khettaṃ vatthuṃ hiraññaṃ suvaṇṇaṃ gāmanigamarājadhāniyo raṭṭhañca janapado ca koso ca koṭṭhāgārañca – kevalampi mahāpaṭhaviṃ taṇhāvasena mamāyati, yāvatā aṭṭhasatataṇhāvicaritaṃ, ayaṃ taṇhānissayo.
Katamo diṭṭhinissayo? Vīsativatthukā sakkāyadiṭṭhi, dasavatthukā micchādiṭṭhi, dasavatthukā antaggāhikā diṭṭhi; yā evarūpā diṭṭhi diṭṭhigataṃ diṭṭhigahanaṃ diṭṭhikantāro diṭṭhivisūkāyikaṃ diṭṭhivipphanditaṃ diṭṭhisaññojanaṃ gāho paṭiggāho abhiniveso parāmāso kummaggo micchāpatho micchattaṃ titthāyatanaṃ vipariyesagāho viparītagāho vipallāsagāho micchāgāho ayāthāvatasmiṃ yāthāvatanti gāho, yāvatā dvāsaṭṭhidiṭṭhigatāni, ayaṃ diṭṭhinissayo.
Buddhassa bhagavato taṇhānissayo pahīno; diṭṭhinissayo paṭinissaṭṭho; taṇhānissayassa pahīnattā diṭṭhinissayassa paṭinissaṭṭhattā bhagavā cakkhuṃ asito, sotaṃ ghānaṃ jivhaṃ kāyaṃ manaṃ asito, rūpe sadde gandhe rase phoṭṭhabbe kulaṃ gaṇaṃ āvāsaṃ lābhaṃ yasaṃ pasaṃsaṃ sukhaṃ cīvaraṃ piṇḍapātaṃ senāsanaṃ gilānapaccayabhesajjaparikkhāraṃ kāmadhātuṃ rūpadhātuṃ arūpadhātuṃ kāmabhavaṃ rūpabhavaṃ arūpabhavaṃ saññābhavaṃ asaññābhavaṃ nevasaññānāsaññābhavaṃ ekavokārabhavaṃ catuvokārabhavaṃ pañcavokārabhavaṃ atītaṃ anāgataṃ paccuppannaṃ diṭṭhasutamutaviññātabbe dhamme asito anissito anallīno anupagato anajjhosito anadhimutto nikkhanto nissaṭo vippamutto visaññutto vimariyādīkatena cetasā viharatī ’ti – taṃ buddhaṃ asitaṃ.
Tādin ti – Bhagavā pañcahākārehi tādī: iṭṭhāniṭṭhe tādī, cattāvīti tādī, tiṇṇāvī ti tādī, muttāvīti tādī, taṃniddesā tādī.
Kathaṃ bhagavā iṭṭhāniṭṭhe tādī? Bhagavā lābhepi tādī, alābhepi tādī, yasepi tādī, ayasepi tādī, pasaṃsāyapi tādī, nindāyapi tādī, sukhepi tādī dukkhepi tādī, ekaṃ ce bāhaṃ gandhena limpeyyuṃ, ekaṃ ce bāhaṃ vāsiyā taccheyyuṃ, amusmiṃ natthi rāgo, amusmiṃ natthi paṭighaṃ. Anunayapaṭighavippahīno ugghātinighātivītivatto anurodhavirodhaṃ samatikkanto; evaṃ bhagavā iṭṭhāniṭṭhe tādī.
Kathaṃ bhagavā cattāvīti tādī? Bhagavato rāgo catto vanto mutto pahīno paṭinissaṭṭho, doso moho kodho upanāho makkho paḷāso issā macchariyaṃ māyā sāṭheyyaṃ thambho sārambho māno atimāno mado pamādo sabbe kilesā sabbe duccaritā sabbe darathā sabbe pariḷāhā sabbe santāpā sabbākusalābhisaṅkhārā cattā vantā muttā pahīnā paṭinissaṭṭhā, evaṃ bhagavā cattāvīti tādī.
Kathaṃ bhagavā tiṇṇāvīti tādī? Bhagavā kāmoghaṃ tiṇṇo bhavoghaṃ tiṇṇo diṭṭhoghaṃ tiṇṇo avijjoghaṃ tiṇṇo sabbaṃ saṃsārapathaṃ tiṇṇo uttiṇṇo nittiṇṇo atikkanto samatikkanto vītivatto, so vutthavāso ciṇṇacaraṇo gataddho gatadiso gatakoṭiko pālitabrahmacariyo uttamadiṭṭhippatto bhāvitamaggo pahīnakileso paṭividdhākuppo sacchikatanirodho.
Dukkhaṃ tassa pariññātaṃ, samudayo pahīno, maggo bhāvito, nirodho sacchikato. Abhiññeyyaṃ abhiññātaṃ, pariññeyyaṃ pariññātaṃ, pahātabbaṃ pahīnaṃ, bhāvetabbaṃ bhāvitaṃ, sacchikātabbaṃ sacchikataṃ. So ukkhittapaḷigho saṃkiṇṇaparikho abbūḷhesiko niraggalo ariyo pannaddhajo pannabhāro visaññutto pañcaṅgavippahīno chaḷaṅgasamannāgato ekārakkho caturapasseno panuṇṇapaccekasacco samavayasaṭṭhesano anāvilasaṅkappo passaddhakāyasaṅkhāro suvimuttacitto suvimuttapañño kevalī vusitavā uttamapuriso paramapuriso paramappattipatto.
So nevācināti na apacināti, apacinitvā ṭhito; neva pajahati na upādiyati, pajahitvā ṭhito; neva saṃsibbati na visineti, visinetvā ṭhito; neva vidhūpeti na sandhūpeti, vidhūpetvā ṭhito; asekhena sīlakkhandhena samannāgatattā ṭhito, asekhena samādhikkhandhena samannāgatattā ṭhito, asekhena paññākkhandhena samannāgatattā ṭhito, asekhena vimuttikkhandhena samannāgatattā ṭhito, asekhena vimuttiñāṇadassanakkhandhena samannāgatattā ṭhito; saccaṃ sampaṭipādiyitvā ṭhito, ejaṃ samatikkamitvā ṭhito, kilesaggiṃ pariyādiyitvā ṭhito, aparigamanatāya ṭhito, kathaṃ samādāya ṭhito, muttapaṭisevanatāya ṭhito, mettāya pārisuddhiyā ṭhito, karuṇāya pārisuddhiyā ṭhito, muditāya pārisuddhiyā ṭhito, upekkhāya pārisuddhiyā ṭhito, accantapārisuddhiyā ṭhito, atammayatāya pārisuddhiyā ṭhito, vimuttattā ṭhito, santusitattā ṭhito, khandhapariyante ṭhito, dhātupariyante ṭhito, āyatanapariyante ṭhito, gatipariyante ṭhito, upapattipariyante ṭhito, paṭisandhipariyante ṭhito, bhavapariyante ṭhito, saṃsārapariyante ṭhito, vaṭṭapariyante ṭhito, antime bhave ṭhito, antime samussaye ṭhito. Antimadehadharo bhagavā.
1. “Tassāyaṃ pacchimakoṭi carimo ’yaṃ samussayo, jātimaraṇasaṃsāro natthi tassa punabbhavo ”ti. Evaṃ bhagavā tiṇṇāvīti tādī.
Kathaṃ bhagavā muttāvīti tādī? Bhagavato rāgā cittaṃ muttaṃ vimuttaṃ suvimuttaṃ; dosā cittaṃ — mohā cittaṃ — kodhā — upanāhā — makkhā — paḷāsā — issāya — macchariyā — māyāya — sāṭheyyā — thambhā — sārambhā — mānā — atimānā — madā — pamādā — sabbakilesehi — sabbaduccaritehi — sabbadarathehi — sabbapariḷāhehi — sabbasantāpehi — sabbākusalābhisaṅkhārehi cittaṃ muttaṃ vimuttaṃ suvimuttaṃ. Evaṃ bhagavā muttāvīti tādī.
Kathaṃ bhagavā taṃniddesā tādī? Bhagavā sīle sati sīlavāti taṃniddesā tādī, saddhāya sati saddhoti taṃniddesā tādī, viriye sati viriyavāti taṃniddesā tādī, satiyā sati satimāti taṃniddesā tādī, samādhismiṃ sati samāhitoti taṃniddesā tādī, paññāya sati paññavāti taṃniddesā tādī, vijjāya sati tevijjoti taṃniddesā tādī, abhiññāya sati chaḷabhiññoti taṃniddesā tādī, dasabale sati dasabaloti taṃniddesā tādī. Evaṃ bhagavā taṃniddesā tādī ’ti – taṃ buddhaṃ asitaṃ tādiṃ.
Akuhaṃ gaṇimāgatan ti – Akuho ti tīṇi kuhanavatthūni: paccayapaṭisedhana saṅkhātaṃ kuhanavatthu, iriyāpathasaṅkhātaṃ kuhanavatthu, sāmantajappanasaṅkhātaṃ kuhanavatthu.
Katamaṃ paccayapaṭisedhanasaṅkhātaṃ kuhanavatthu? Idha gahapatikā bhikkhuṃ nimantenti cīvara-piṇḍapāta-senāsana-gilānapaccayabhesajjaparikkhārehi. So pāpiccho icchāpakato atthiko cīvara-piṇḍapāta-senāsana-gilānapaccayabhesajja-parikkhārānaṃ bhiyyokamyataṃ upādāya cīvaraṃ paccakkhāti, piṇḍapātaṃ paccakkhāti, senāsanaṃ paccakkhāti, gilānapaccayabhesajjaparikkhāraṃ paccakkhāti. So evamāha: ‘Kiṃ samaṇassa mahagghena cīvarena? Etaṃ sāruppaṃ: yaṃ samaṇo susānā vā saṅkārakūṭā vā pāpaṇikā vā nantakāni uccinitvā saṅghāṭiṃ karitvā dhāreyya. Kiṃ samaṇassa mahagghena piṇḍapātena? Etaṃ sāruppaṃ: yaṃ samaṇo uñchācariyāya piṇḍiyālopena jīvikaṃ kappeyya. Kiṃ samaṇassa mahagghena senāsanena? Etaṃ sāruppaṃ: yaṃ samaṇo rukkhamūliko vā assa abbhokāsiko vā. Kiṃ samaṇassa mahagghena gilānapaccayabhesajjaparikkhārena? Etaṃ sāruppaṃ: yaṃ samaṇo pūtimuttena haritakīkhaṇḍena osadhaṃ kareyyā ’ti. Tadupādāya lūkhaṃ cīvaraṃ dhāreti, lūkhaṃ piṇḍapātaṃ paribhuñjati, lūkhaṃ senāsanaṃ paṭisevati, lūkhaṃ gilānapaccayabhesajjaparikkhāraṃ paṭisevati. Tamenaṃ gahapatikā evaṃ jānanti:
Ayaṃ samaṇo appiccho santuṭṭho pavivitto asaṃsaṭṭho āraddhaviriyo dhutavādoti bhiyyo nimantenti cīvara-piṇḍapāta-senāsana-gilānapaccayabhesajja-parikkhārehi. So evamāha: “Tiṇṇaṃ sammukhībhāvā saddho kulaputto bahuṃ puññaṃ pasavati; saddhāya sammukhībhāvā saddho kulaputto bahuṃ puññaṃ pasavati; deyyadhammassa sammukhībhāvā saddho kulaputto bahuṃ puññaṃ pasavati; dakkhiṇeyyānaṃ sammukhībhāvā saddho kulaputto bahuṃ puññaṃ pasavati. Tumhākañcevāyaṃ saddhā atthi. deyyadhammo ca saṃvijjati. Ahañca paṭiggāhako. Sace ahaṃ na paṭiggahessāmi, evaṃ tumhe puññena paribāhirā bhavissatha. Na mayhaṃ iminā attho. Api ca tumhākaṃ yeva anukampāya paṭigaṇhāmī ”ti. Tadupādāya bahumpi cīvaraṃ paṭigaṇhāti, bahumpi piṇḍapātaṃ paṭigaṇhāti, bahumpi senāsanaṃ paṭigaṇhāti, bahumpi gilānapaccayabhesajjaparikkhāraṃ paṭigaṇhāti. Yā evarūpā bhākuṭitā bhākuṭiyaṃ kuhanā kuhāyanā kuhitattaṃ; idaṃ paccayapaṭisedhana saṅkhātaṃ kuhanavatthu.
Katamaṃ iriyāpathasaṅkhātaṃ kuhanavatthu? Idhekacco pāpiccho icchāpakato sambhāvanādhippāyo ‘evaṃ maṃ jano sambhāvessatī ’ti gamanaṃ saṇṭhapeti, ṭhānaṃ saṇṭhapeti, nisajjaṃ saṇṭhapeti, sayanaṃ saṇṭhapeti, paṇidhāya gacchati, paṇidhāya tiṭṭhati, paṇidhāya nisīdati, paṇidhāya seyyaṃ kappeti, samāhito viya gacchati, samāhito viya tiṭṭhati, samāhito viya nisīdati, samāhito viya seyyaṃ kappeti, āpāthakajjhāyīva hoti. Yā evarūpā iriyāpathassa aṭṭhapanā ṭhapanā saṇṭhapanā bhākuṭitā bhākuṭiyaṃ kuhanā kuhāyanā kuhitattaṃ; idaṃ2 iriyāpathasaṅkhātaṃ kuhanavatthu.
Katamaṃ sāmantajappanasaṅkhātaṃ kuhanavatthu? Idhekacco pāpiccho icchāpakato sambhāvanādhippāyo: ‘evaṃ maṃ jano sambhāvessatī ’ti ariyadhammasannissitaṃ vācaṃ bhāsati. Yo evarūpaṃ cīvaraṃ dhāreti, so samaṇo mahesakkhoti bhaṇati. Yo evarūpaṃ pattaṃ dhāreti, lohathālakaṃ dhāreti, dhammakarakaṃ dhāreti, parissāvanaṃ dhāreti, kuñcikaṃ dhāreti, upāhanaṃ dhāreti, kāyabandhanaṃ dhāreti, āyogaṃ dhāreti, so samaṇo mahesakkhoti bhaṇati. Yassa evarūpo upajjhāyo, so samaṇo mahesakkhoti bhaṇati. Yassa evarūpo ācariyo – samānupajjhāyakā – samānācariyakā – mittā – sandiṭṭhā – sambhattā – sahāyā, so samaṇo mahesakkhoti bhaṇati. Yo evarūpe vihāre vasati, so samaṇo mahesakkhoti bhaṇati. Yo evarūpe aḍḍhayoge vasati – pāsāde vasati – hammiye vasati – guhāya vasati – leṇe vasati – kuṭiyā vasati – kūṭāgāre vasati – aṭṭe vasati – māḷe vasati – uddaṇḍe vasati – upaṭṭhānasālāya vasati – maṇḍape vasati – rukkhamūle vasati – so samaṇo mahesakkhoti bhaṇati.
Athavā korañjikakorañjiko bhākuṭikabhākuṭiko kuhakakuhako lapakalapako mukhasambhāvito – Ayaṃ samaṇo imāsaṃ evarūpānaṃ santānaṃ vihārasamāpattīnaṃ lābhī ’ti tādisaṃ gambhīraṃ gūḷhaṃ nipuṇaṃ paṭicchannaṃ lokuttaraṃ suññatāpaṭisaññuttaṃ kathaṃ katheti. Yā evarūpā bhākuṭitā bhākuṭiyaṃ kuhanā kuhāyanā kuhitattaṃ; idaṃ sāmantajappanasaṅkhātaṃ kuhanavatthu.
Buddhassa bhagavato imāni tīṇi kuhanavatthūni pahīnāni samucchinnāni vūpasantāni paṭippassaddhāni abhabbuppattikāni ñāṇagginā daḍḍhāni; tasmā buddho akuhoti – akuhaṃ.
Gaṇimāgatan ti – Gaṇī ti gaṇī bhagavā; gaṇācariyoti gaṇī, gaṇassa satthāti gaṇī; gaṇaṃ pariharatīti gaṇī, gaṇaṃ ovadatīti gaṇī, gaṇaṃ anusāsatīti gaṇī, visārado gaṇaṃ upasaṅkamatīti gaṇī, gaṇo ’ssa sussūsati sotaṃ odahati aññācittaṃ upaṭṭhapetīti gaṇī, gaṇaṃ akusalā vuṭṭhāpetvā kusale patiṭṭhāpetīti gaṇī, bhikkhugaṇassa gaṇī, bhikkhunīgaṇassa gaṇī, upāsakagaṇassa gaṇī, upāsikāgaṇassa gaṇī, rājagaṇassa gaṇī, khattiyagaṇassa gaṇī, brāhmaṇagaṇassa gaṇī, vessagaṇassa gaṇī, suddagaṇassa gaṇī, devagaṇassa gaṇī, brahmagaṇassa gaṇī, saṅghī, gaṇī, gaṇācariyo. Āgatan ti āgataṃ upāgataṃ samupāgataṃ sampattaṃ saṅkassanagaran ’ti – akuhaṃ gaṇimāgataṃ.
Bahunnamidha baddhānan ti – Bahunnan ti bahunnaṃ khattiyānaṃ brāhmaṇānaṃ vessānaṃ suddānaṃ gahaṭṭhānaṃ pabbajitānaṃ devānaṃ manussānaṃ. Baddhānan ti baddhānaṃ baddhacarānaṃ paricārakānaṃ sissānan ’ti – bahunnamidha baddhānaṃ.
Atthi pañhena āgaman ti – pañhena atthikāmha āgatā; pañhaṃ pucchitukāmamha āgatā; pañhaṃ sotukāmā āgatamhāti; – evampi atthi pañhena āgamaṃ. Athavā pañhatthikānaṃ pañhaṃ pucchitukāmānaṃ pañhaṃ sotukāmānaṃ āgamanaṃ abhikkamanaṃ upasaṅkamanaṃ payirupāsanaṃ atthīti; – evampi atthi pañhena āgamaṃ. Athavā pañhāgamo tuyhaṃ atthi, tvampi pahū, tvamasi alamattho mayā pucchitaṃ kathetuṃ vissajjetuṃ; vahassetaṃ bhāranti; – evampi atthi pañhena āgamaṃ.
Tenāha thero sāriputto: “Taṃ buddhaṃ asitaṃ tādiṃ akuhaṃ gaṇimāgataṃ, bahunnamidha baddhānaṃ atthi pañhena āgaman ”ti.
Vì thế, trưởng lão Sāriputta đã nói rằng:
“Với ý định (hỏi) câu hỏi cho số đông đã được gắn bó ở đây, con đã đi đến gặp Ngài, – đức Phật, bậc không nương tựa, đấng tự tại, vị không lừa gạt, bậc có đồ chúng, – đã đi đến.”
16.4
Bhikkhuno vijigucchato bhajato rittamāsanaṃ, rukkhamūlaṃ susānaṃ vā pabbatānaṃ guhāsu vā.
Đối với vị tỳ khưu đang nhờm gớm (sanh, già, bệnh, chết, v.v…) đang thân cận chỗ ngồi trống vắng, gốc cây, hoặc mộ địa, hoặc ở các hang động của những ngọn núi.
Vị Tỷ kheo nhàm chán,
Sống an tọa, trống không,
Tại gốc cây, nghĩa địa,
Hay núi rừng hang sâu.
(Kinh Tập, câu kệ 958)
Bhikkhuno vijigucchato ti – Bhikkhuno ti puthujjanakalyāṇakassa vā bhikkhuno, sekhassa vā bhikkhuno. Vijigucchato ti jātiyā vijigucchato, jarāya – byādhinā – maraṇena – sokehi – paridevehi – dukkhehi – domanassehi – upāyāsehi vijigucchato, nerayikena dukkhena tiracchānayonikena dukkhena pettivisayikena dukkhena mānusakena dukkhena gabbhokkantimūlakena dukkhena gabbhaṭṭhitimūlakena dukkhena gabbhavuṭṭhānamūlakena dukkhena jātassupanibandhakena dukkhena jātassa parādheyyakena dukkhena attūpakkamena dukkhena parūpakkamena dukkhena dukkhadukkhena saṅkhāradukkhena vipariṇāmadukkhena cakkhurogena dukkhena sotarogena dukkhena ghānarogena dukkhena jivhārogena dukkhena kāyarogena dukkhena sīsarogena dukkhena kaṇṇarogena dukkhena mukharogena dukkhena dantarogena dukkhena kāsena sāsena pināsena ḍahena jarena kucchirogena mucchāya pakkhandikāya sūlāya visūcikāya kuṭṭhena gaṇḍena kilāsena sosena apamārena dadduyā kaṇḍuyā kacchuyā rakhasāya vitacchikāya lohitena pittena madhumehena aṃsāya piḷakāya bhagandalena pittasamuṭṭhānena ābādhena semhasamuṭṭhānena ābādhena vātasamuṭṭhānena ābādhena sannipātikena ābādhena utupariṇāmajena ābādhena visamaparihārajena ābādhena opakkamikena ābādhena kammavipākajena ābādhena sītena uṇhena jighacchāya pipāsāya uccārena passāvena ḍaṃsamakasavātātapasiriṃsapasamphassena dukkhena – mātumaraṇena dukkhena pitumaraṇena dukkhena bhātumaraṇena – bhaginimaraṇena – puttamaraṇena – dhītumaraṇena – ñātimaraṇena – bhogavyasanena – rogavyasanena – sīlavyasanena – diṭṭhivyasanena dukkhena vijigucchato aṭṭīyato harāyato jigucchato ’ti – ‘bhikkhuno vijigucchato.’
Bhajato rittamāsanan ti – Āsanaṃ vuccati yattha nisīdati, mañco pīṭhaṃ bhisi taṭṭikā cammakhaṇḍo tiṇasanthāro paṇṇasanthāro palāsasanthāro. Taṃ āsaṃ asappāyarūpadassanena rittaṃ vivittaṃ pavivittaṃ; asappāyasaddasavaṇena rittaṃ vivittaṃ pavivittaṃ; asappāyehi pañcahi kāmaguṇehi rittaṃ vivittaṃ pavivittaṃ. Taṃ pavivittaṃ āsanaṃ bhajato sambhajato sevato nisevato saṃsevato paṭisevato ’ti – ‘bhajato rittamāsanaṃ.’
Rukkhamūlaṃ susānaṃ vā ti – rukkhamūlaṃ yeva rukkhamūlaṃ; susānaṃ yeva susānan ’ti – ‘rukkhamūlaṃ susānaṃ vā.’
Pabbatānaṃ guhāsu vā ti – Pabbatā yeva pabbatā; kandarā yeva kandarā; giriguhā yeva giriguhā; pabbatantarikāyo vuccanti pabbatapabbhārā ’ti – ‘pabbatānaṃ guhāsu vā.’
Tenāha thero sāriputto: “Bhikkhuno vijigucchato bhajato rittamāsanaṃ, rukkhamūlaṃ susānaṃ vā pabbatānaṃ guhāsu vā ”ti.
Vì thế, trưởng lão Sāriputta đã nói rằng:
“Đối với vị tỳ khưu đang nhờm gớm (sanh, già, bệnh, chết, v.v…) đang thân cận chỗ ngồi trống vắng, gốc cây, hoặc mộ địa, hoặc ở các hang động của những ngọn núi.”
16.5
Uccāvacesu sayanesu kuvanto tattha bheravā, yehi bhikkhu na vedheyya nigghose sayanāsane.
Ở những chỗ trú ngụ cao thấp, có bao nhiêu sự khiếp đảm ở nơi ấy mà vị tỳ khưu không nên run sợ ở chỗ nằm ngồi không tiếng động?
Tại chỗ cao thấp ấy,
Có bao nhiêu sợ hãi,
Khiến Tỷ kheo không run,
Tại trú xứ vắng lặng?
(Kinh Tập, câu kệ 959)
Uccāvacesu sayanesū ti – Uccāvacesū ti uccāvacesu hīnappaṇītesu chekapāpakesu. Sayanaṃ vuccati vihāro aḍḍhayogo pāsādo hammiyaṃ guhā ’ti – ‘uccāvacesu sayanesu.’
Kuvanto tattha bheravā ti – Kuvanto ti kuvanto kūjanto nadanto saddaṃ karonto. Athavā kīvanto ti kati kittakā kīvatakā kīvabahukā te bheravā ti? Sīhā byagghā dīpī acchā taracchā kokā mahisā hatthī ahī vicchikā satapadī corā vā assu māṇavā vā katakammā vā akatakammā vā ’ti – ‘kuvanto tattha bheravā.’
Yehi bhikkhu na vedheyyā ti – Yehī ti yehi bheravehi; bherave passitvā vā suṇitvā vā na vedheyya nappavedheyya na sampavedheyya na taseyya na uttaseyya na parittaseyya na bhāyeyya na santāsaṃ āpajjeyya, abhīru assa acchambhī anutrāsī apalāyī pahīnabhayabheravo vigatalomahaṃso vihareyyā ’ti – ‘yehi bhikkhu na vedheyya.’
Nigghose sayanāsane ti – appasadde appanigghose vijanavāte manussarāhaseyyake paṭisallānasāruppe senāsane ’ti – ‘nigghose sayanāsane.’
Tenāha thero sāriputto: “Uccāvacesu sayanesu kuvanto tattha bheravā, yehi bhikkhu na vedheyya nigghose sayanāsane ”ti.
Vì thế, trưởng lão Sāriputta đã nói rằng:
“Ở những chỗ trú ngụ cao thấp, có bao nhiêu sự khiếp đảm ở nơi ấy mà vị tỳ khưu không nên run sợ ở chỗ nằm ngồi không tiếng động?”
16.6
Kati parissayā loke gacchato agataṃ disaṃ, ye bhikkhu abhisambhave pantamhi sayanāsane.
Đối với vị đang đi đến khu vực chưa từng đi đến, có bao nhiêu hiểm họa ở thế gian mà vị tỳ khưu cần khắc phục ở các chỗ nằm ngồi xa vắng?
Bao nguy hiểm ở đời,
Tỷ Kheo cần chinh phục,
Trong hướng đi bất tử,
Tại trú xứ xa vắng?
(Kinh Tập, câu kệ 960)
Kati parissayā loke ti – Katī ti kati kittakā kīvatakā kīvabahukā te parissayāti? Dve parissayā: pākaṭaparissayā ca paṭicchannaparissayā ca.
Katame pākaṭaparissayā? Sīhā byagghā dīpī acchā taracchā kokā mahisā hatthī ahī vicchikā satapadī corā vā assu mānavā vā katakammā vā akatakammā [PTS Page 468] [q 468/] vā, cakkhurogo sotarogo ghānarogo jivhārogo kāyarogo sīsarogo kaṇṇarogo mukharogo dantarogo kāso sāso pināso ḍaho jaro kucchirogo mucchā pakkhandikā sūlā visūcikā kuṭṭhaṃ gaṇḍo kilāso soso apamāro daddu kaṇḍu kacchu rakhasā vitacchikā lohitapittaṃ madhumeho aṃsā piḷakā bhagandalā pittasamuṭṭhānā ābādhā –nt– sītaṃ uṇhaṃ jighacchā pipāsā uccāro passāvo ḍaṃsamakasa-vātātapa-siriṃsapasamphassā. Ime vuccanti pākaṭaparissayā.
Katame paṭicchannaparissayā? Kāyaduccaritaṃ vacīduccaritaṃ manoduccaritaṃ kāmachandanīvaraṇaṃ byāpādanīvaraṇaṃ thīnamiddhanīvaraṇaṃ uddhaccakukkuccanīvaraṇaṃ vicikicchānīvaraṇaṃ, rāgo doso moho kodho upanāho makkho paḷāso issā macchariyaṃ māyā sāṭheyyaṃ thambho sārambho māno atimāno mado pamādo, sabbe kilesā sabbe duccaritā sabbe darathā sabbe pariḷāhā sabbe santāpā sabbākusalābhisaṅkhārā. Ime vuccanti paṭicchannaparissayā.
Parissayā ti – Kenaṭṭhena parissayā? Parisahantīti parissayā, parihānāya saṃvattantīti parissayā, tatrāsayāti parissayā.
Kathaṃ parisahantīti parissayā? Te parissayā taṃ puggalaṃ sahanti parisahanti abhibhavanti ajjhottharanti pariyādiyanti maddanti. Evaṃ parisahantīti parissayā.
Kathaṃ parihānāya saṃvattantīti parissayā? Te parissayā kusalānaṃ dhammānaṃ antarāyāya parihānāya saṃvattanti. Katamesaṃ kusalānaṃ dhammānaṃ? Sammāpaṭipadāya anulomapaṭipadāya appaccanīkapaṭipadāya anvatthapaṭipadāya dhammānudhammapaṭipadāya sīlesu paripūrakāritāya indriyesu guttadvāratāya bhojanesu mattaññutāya jāgariyānuyogassa satisampajaññassa, catunnaṃ satipaṭṭhānānaṃ bhāvanānuyogassa, catunnaṃ sammappadhānānaṃ – catunnaṃ iddhipādānaṃ – pañcannaṃ indriyānaṃ – pañcannaṃ balānaṃ – sattannaṃ bojjhaṅgānaṃ – ariyassa aṭṭhaṅgikassa maggassa bhāvanānuyogassa. Imesaṃ kusalānaṃ dhammānaṃ antarāyāya parihānāya saṃvattanti. Evaṃ parihānāya saṃvattantīti parissayā.
Kathaṃ tatrāsayāti parissayā? Tatthete pāpakā akusalā dhammā uppajjanti attabhāvasannissayā. Yathā bile bilāsayā pāṇā sayanti, dake dakāsayā pāṇā sayanti, vane vanāsayā pāṇā sayanti, rukkhe rukkhāsayā pāṇā sayanti, evamevaṃ tatthete pāpakā akusalā dhammā uppajjanti attabhāvasannissayāti. Evampi tatrāsayāti parissayā.
Vuttaṃ hetaṃ bhagavatā: “Sāntevāsiko bhikkhave bhikkhu sācariyako dukkhaṃ na phāsu viharati. Kathañca bhikkhave bhikkhu sāntevāsiko sācariyako dukkhaṃ na phāsu viharati?
Idha bhikkhave bhikkhuno cakkhunā rūpaṃ disvā uppajjanti pāpakā akusalā dhammā sarasaṅkappā saññojanīyā, tyāssa anto vasanti, anvāssa vasanti pāpakā akusalā dhammāti, tasmā sāntevāsikoti vuccati. Te naṃ samudācaranti, samudācaranti naṃ pāpakā akusalā dhammāti, tasmā sācariyakoti vuccati. Puna ca paraṃ bhikkhave bhikkhuno sotena saddaṃ sutvā – ghānena gandhaṃ ghāyitvā – jivhāya rasaṃ sāyitvā – kāyena phoṭṭhabbaṃ phusitvā – manasā dhammaṃ viññāya uppajjanti pāpakā akusalā dhammā sarasaṅkappā saññojaniyā tyāssa anto vasanti anvāssa vasanti pāpakā akusalā dhammāti, tasmā sāntevāsikoti vuccati. Te naṃ samudācaranti, samudācaranti naṃ pāpakā akusalā dhammāti, tasmā sācariyakoti vuccati. Evaṃ kho bhikkhave bhikkhu sāntevāsiko sācariyako dukkhaṃ na phāsu viharatī”ti. Evampi tatrāsayāti parissayā.
Vuttaṃ hetaṃ bhagavatā: “Tayo’me bhikkhave antarā malā antarā amittā antarā sapattā antarā vadhakā antarā paccatthikā. Katame tayo? Lobho bhikkhave antarā malaṃ antarā amitto antarā sapatto antarā vadhako antarā paccatthiko. Doso bhikkhave –pe– Moho bhikkhave antarā malaṃ6 antarā amitto antarā sapatto antarā vadhako antarā paccatthiko. Ime kho bhikkhave, tayo antarā malā antarā amittā antarā sapattā antarā vadhakā antarā paccatthikā ”ti.
1. Anatthajanano lobho lobho cittappakopano,bhayamantarato jātaṃ taṃ jano nāvabujjhati.
1. Tham là sự sanh ra điều tai hại, tham là sự kích động của tâm. Người đời không thấu hiểu sự nguy hiểm ấy đã được sanh ra từ bên trong.
2. Luddho atthaṃ na jānāti luddho dhammaṃ na passati, andhantamaṃ tadā hoti yaṃ lobho sahate naraṃ
2. Người bị khởi tham không biết được sự tấn hóa, người bị khởi tham không nhìn thấy lý lẽ. Tham ngự trị người nào, lúc ấy người bị mù quáng tối tăm.
3. Anatthajanano doso doso cittappakopano, bhayamantarato jātaṃ taṃ jano nāvabujjhati
3. Sân là sự sanh ra điều tai hại, sân là sự dao động của tâm.
Người đời không thấu hiểu sự nguy hiểm ấy đã được sanh ra từ bên trong.
4. Kuddho atthaṃ na jānāti kuddho dhammaṃ na passati, andhantamaṃ tadā hoti yaṃ kodho sahate naraṃ
4. Người bị nóng giận không biết được sự tấn hóa, người bị nóng giận không nhìn thấy lý lẽ. Sự nóng giận ngự trị người nào, lúc ấy người bị mù quáng tối tăm.
5. Anatthajanano moho moho cittappakopano, bhayamantarato jātaṃ taṃ jano nāvabujjhati.
5. Si là sự sanh ra điều tai hại, si là sự dao động của tâm. Người đời không thấu hiểu sự nguy hiểm ấy đã được sanh ra từ bên trong.
6. Mūḷho atthaṃ na jānāti mūḷho dhammaṃ na passati, andhantamaṃ tadā hoti yaṃ moho sahate naran ”ti. Evampi tatrāsayāti parissayā.
6. Người bị si mê không biết được sự tấn hóa, người bị si mê không nhìn thấy lý lẽ. Si ngự trị người nào, lúc ấy người bị mù quáng tối tăm. Các hiểm họa là vì ‘nơi ấy là chỗ trú’ còn là như vậy.
Vuttaṃ hetaṃ bhagavatā:
“Tayo kho mahārāja, purisassa dhammā ajjhattaṃ uppajjamānā uppajjanti ahitāya dukkhāya aphāsuvihārāya. Katame tayo? Lobho kho mahārāja, purisassa dhammo ajjhattaṃ uppajjamāno uppajjati ahitāya dukkhāya aphāsuvihārāya. Doso kho mahārāja –pe– Moho kho mahārāja, purisassa dhammo ajjhattaṃ uppajjamāno uppajjati ahitāya dukkhāya aphāsuvihārāya. Ime kho mahārāja, tayo purisassa dhammā ajjhattaṃ uppajjamānā uppajjanti ahitāya dukkhāya aphāsuvihārāyā ”ti.
7. “Lobho doso ca moho ca purisaṃ pāpacetasaṃ, hiṃsanti attasambhūtā tacasāraṃ ’va samphalan ”ti.
Evampi tatrāsayāti parissayā.
7. “Tham sân và si, hiện hữu ở bản thân, hãm hại người có tâm ý xấu xa, tựa như việc kết trái hãm hại cây tre.” Các hiểm họa là vì ‘nơi ấy là chỗ trú’ còn là như vậy.
Vuttaṃ hetaṃ bhagavatā: 8. “Rāgo ca doso ca itonidānā aratī ratī lomahaṃsā itojā, ito samuṭṭhāya manovitakkā kumārakā dhaṅkamivossajantī ”ti. Evampi tatrāsayāti parissayā.
Bởi vì, điều này đã được đức Thế Tôn nói đến: 8. “Luyến ái, sân hận, và si mê có căn nguyên từ nơi (bản ngã) này. Ghét, thương, sự rởn lông sanh lên từ nơi (bản ngã) này. Sự suy tầm của tâm có nguồn sanh khởi từ nơi (bản ngã) này, tựa như những bé trai buông lơi con quạ (bị cột chân bởi sợi chỉ dài).” Các hiểm họa là vì ‘nơi ấy là chỗ trú’ còn là như vậy.
Loke ti manussaloke –pe– āyatanaloke ’ti – ‘kati parissayā loke?’ Gacchato agataṃ disan ti – ‘Agatā disā’ vuccati amataṃ nibbānaṃ, yo so sabbasaṅkhārasamatho sabbūpadhipaṭinissaggo taṇhakkhayo virāgo nirodho nibbānaṃ. Agatapubbā sā disā, na sā disā gatapubbā iminā dīghena addhunā.
9. “Samatittikaṃ anavasesakaṃ telapattaṃ yathā parihareyya, evaṃ sacittamanurakkhe patthayāno disaṃ agatapubban ”ti. Agatapubbaṃ disaṃ vajato gacchato abhikkamato ’ti – ‘gacchato agataṃ disaṃ.’
9. “Giống như người mang đi cái bát dầu được chứa đầy ngang tới miệng, người đang ước nguyện khu vực trước đây chưa đi đến (Niết Bàn) nên hộ trì tâm của mình như vậy.”
Đối với vị đang tiến đến, đang đi đến, đang tiến về khu vực trước đây chưa đi đến; – ‘đối với vị đang đi đến khu vực chưa từng đi đến’ là như thế.
Ye bhikkhu abhisambhave ti – Ye ti ye parissaye abhisambhaveyya abhibhaveyya ajjhotthareyya pariyādiyeyya maddeyyā ’ti – ‘ye bhikkhu abhisambhave.’
Pantamhi sayanāsane ti – Ante pante pariyante selante vā vanante vā nadante vā udakante vā yattha na kasīyati na vapīyati, vanantaṃ atikkamitvā manussānaṃ anupacāre senāsane ’ti – ‘pantamhi sayanāsane.’
Tenāha thero sāriputto: “Kati parissayā loke gacchato agataṃ disaṃ, ye bhikkhu abhisambhave pantamhi sayanāsane ”ti.
Vì thế, trưởng lão Sāriputta đã nói rằng:
“Đối với vị đang đi đến khu vực chưa từng đi đến, có bao nhiêu hiểm họa ở thế gian mà vị tỳ khưu cần khắc phục ở các chỗ nằm ngồi xa vắng?”
16.7
Kyāssa byappathayo assu kyāssassu idha gocarā, kāni sīlabbatān’ assu pahitattassa bhikkhuno.
Đối với vị này, cách thức nói năng nên là như thế nào? Đối với vị này, hành xứ ở đây nên là như thế nào? Đối với vị tỳ khưu có bản tánh cương quyết, giới và phận sự (của vị này) nên là như thế nào?
Ngôn ngữ và hành xứ
Của vị ấy là gì?
Có bao nhiêu giới cấm,
Tỷ Kheo cần tinh tấn?
(Kinh Tập, câu kệ 961)
Kyāssa byappathayo assū ti – Kīdisena byappathena samannāgato assa, kiṃsaṇṭhitena kiṃpakārena kiṃpaṭibhāgenāti vacīpārisuddhiṃ pucchati. Katamā vacīpārisuddhi? Idha bhikkhu musāvādaṃ pahāya musāvādā paṭivirato hoti, saccavādī saccasandho theto paccayiko avisaṃvādako lokassa. Pisunaṃ vācaṃ pahāya pisunāya vācāya paṭivirato hoti, ito sutvā na amutra akkhātā imesaṃ bhedāya, amutra vā sutvā na imesaṃ akkhātā amūsaṃ bhedāya; iti bhinnānaṃ vā sandhātā sahitānaṃ vā anuppadātā samaggārāmo samaggarato samagganandī samaggakaraṇiṃ vācaṃ bhāsitā hoti. Pharusaṃ vācaṃ pahāya pharusāya vācāya paṭivirato hoti, yā sā vācā nelā kaṇṇasukhā pemanīyā hadayaṅgamā porī bahujanakantā bahujanamanāpā, tathārūpiṃ vācaṃ bhāsitā hoti. Samphappalāpaṃ pahāya samphappalāpā paṭivirato hoti, –– kālavādī bhūtavādī atthavādī dhammavādī vinayavādī nidhānavatiṃ vācaṃ bhāsitā hoti kālena sāpadesaṃ pariyantavatiṃ atthasaṃhitaṃ. Catūhi vacīsucaritehi samannāgato catudosāpagataṃ vācaṃ bhāsati. Battiṃsāya tiracchānakathāya ārato assa virato paṭivirato nikkhanto nissaṭo vippamutto visaññutto vimariyādīkatena cetasā viharati. Dasa kathāvatthūni katheti. Seyyathīdaṃ: appicchakathaṃ santuṭṭhikathaṃ pavivekakathaṃ asaṃsaggakathaṃ viriyārambhakathaṃ sīlakathaṃ samādhikathaṃ paññākathaṃ vimuttikathaṃ vimuttiñāṇadassanakathaṃ, satipaṭṭhānakathaṃ sammappadhānakathaṃ iddhipādakathaṃ indriyakathaṃ balakathaṃ bojjhaṅgakathaṃ maggakathaṃ phalakathaṃ nibbānakathaṃ katheti. Vācāya yato yatto paṭiyatto gutto gopito rakkhito saṃvuto. Ayaṃ vacīpārisuddhi. Edisāya vacīpārisuddhiyā samannāgato assā ’ti – ‘kyāssa byappathayo assu.’
Kyāssassu idha gocarā ti – Kīdisena gocarena samannāgato assa, kiṃsaṇṭhitena kiṃpakārena kiṃpaṭibhāgenāti gocaraṃ pucchati. Atthi gocaro, atthi agocaro.
Katamo agocaro? Idhekacco vesiyagocaro vā hoti, vidhavāgocaro vā hoti, thullakumārīgocaro vā hoti, paṇḍakagocaro vā hoti, bhikkhunīgocaro vā hoti, pānāgāragocaro vā hoti, saṃsaṭṭho viharati rājūhi rājamahāmattehi titthiyehi titthiyasāvakehi ananulomikena saṃsaggena. Yāni vā pana tāni kulāni assaddhāni appasannāni anopānabhūtāni akkosakaparibhāsakāni anatthakāmāni ahitakāmāni aphāsukāmāni ayogakkhemakāmāni bhikkhūnaṃ bhikkhunīnaṃ upāsakānaṃ upāsikānaṃ, tathārūpāni kulāni sevati bhajati payirupāsati. Ayaṃ vuccati agocaro.
Athavā antaragharaṃ paviṭṭho vīthiṃ paṭipanno asaṃvuto gacchati: hatthiṃ olokento assaṃ olokento rathaṃ olokento pattiṃ olokento itthiyo olokento purise olokento kumārikāyo olokento kumārake olokento antarāpaṇaṃ olokento gharamukhāni olokento uddhaṃ olokento adho olokento disāvidisaṃ pekkhamāno gacchati. Ayampi vuccati agocaro.
Athavā cakkhunā rūpaṃ disvā nimittaggāhī hoti anubyañjanaggāhī yatvādhikaraṇamenaṃ ―pe― manindriyaṃ asaṃvutaṃ viharantaṃ abhijjhā domanassā pāpakā akusalā dhammā anvāssaveyyuṃ; tassa asaṃvarāya paṭipajjati, na rakkhati manindriyaṃ, manindriye asaṃvaraṃ āpajjati. Ayampi vuccati agocaro.
Yathā vā paneke bhonto samaṇabrāhmaṇā saddhādeyyāni bhojanāni bhuñjitvā te evarūpaṃ visūkadassanaṃ anuyuttā viharanti. Seyyathīdaṃ naccaṃ gītaṃ vāditaṃ pekkhaṃ akkhānaṃ pāṇissaraṃ vetāḷaṃ kumbhathūnaṃ sobhanagaraṃ caṇḍālaṃ vaṃsaṃ dhovanaṃ hatthiyuddhaṃ assayuddhaṃ mahisayuddhaṃ usabhayuddhaṃ goyuddhaṃ ajayuddhaṃ meṇḍayuddhaṃ kukkuṭayuddhaṃ vaṭṭayuddhaṃ daṇḍayuddhaṃ muṭṭhiyuddhaṃ nibbuddhaṃ uyyodhikaṃ balaggaṃ senābyūhaṃ aṇīkadassanaṃ iti vā. Iti evarūpaṃ visūkadassanaṃ anuyutto hoti. Ayampi vuccati agocaro. Pañcapi kāmaguṇā agocarā.
Vuttaṃ hetaṃ bhagavatā:
“Mā bhikkhave agocare caratha paravisaye. Agocare bhikkhave carataṃ paravisaye lacchati māro otāraṃ, lacchati māro ārammaṇaṃ. Ko ca bhikkhave bhikkhuno agocaro paravisayo? Yadidaṃ pañca kāmaguṇā. Katame pañca? Cakkhuviññeyyā rūpā iṭṭhā kantā manāpā piyarūpā kāmūpasaṃhitā rajanīyā; sotaviññeyyā saddā – ghānaviññeyyā gandhā – jivhāviññeyyā rasā – kāyaviññeyyā phoṭṭhabbā iṭṭhā kantā manāpā piyarūpā kāmūpasaṃhitā rajanīyā. Ayaṃ vuccati bhikkhave bhikkhuno agocaro paravisayo.” Ayampi vuccati agocaro.
Katamo gocaro? Idhekacco na vesiyagocaro vā hoti, na vidhavāgocaro vā hoti, na thullakumārīgocaro vā hoti, na paṇḍakagocaro vā hoti, na bhikkhunīgocaro vā hoti, na pānāgāragocaro vā hoti, asaṃsaṭṭho viharati rājūhi rājamahāmattehi titthiyehi titthiyasāvakehi ananulomikena saṃsaggena. Yāni vā pana tāni kulāni saddhāni pasannāni opānabhūtāni kāsāvapajjotāni isivātapaṭivātāni atthakāmāni hitakāmāni phāsukāmāni yogakkhemakāmāni bhikkhūnaṃ bhikkhūnīnaṃ upāsakānaṃ upāsikānaṃ, tathārūpāni kulāni sevati bhajati payirupāsati. Ayaṃ vuccati gocaro.
Athavā bhikkhu antaragharaṃ paviṭṭho vīthiṃ paṭipanno saṃvuto gacchati: na hatthiṃ olokento na assaṃ olokento na rathaṃ olokento na pattiṃ olokento –pe– na disāvidisaṃ vipekkhamāno gacchati, ayampi vuccati gocaro. Athavā bhikkhu cakkhunā rūpaṃ disvā na nimittaggāhī hoti –pe– manindriye saṃvaraṃ āpajjati; ayampi vuccati gocaro. Yathā vā paneke bhonto samaṇabrāhmaṇā saddhādeyyāni bhojanāni bhuñjitvā te evarūpaṃ visūkadassanaṃ anuyuttā viharanti. Seyyathīdaṃ? Naccaṃ gītaṃ vāditaṃ –pe– aṇīkadassanaṃ iti vā; iti evarūpā visūkadassanā paṭivirato hoti. Ayampi vuccati gocaro. Cattāropi satipaṭṭhānā gocaro.
Vuttaṃ hetaṃ bhagavatā:
“Gocare bhikkhave caratha sake pettike visaye. Gocare bhikkhave carataṃ sake pettike visaye na lacchati māro otāraṃ, na lacchati māro ārammaṇaṃ. Ko ca bhikkhave bhikkhuno gocaro sako pettiko visayo? Yadidaṃ cattāro satipaṭṭhānā. Katame cattāro? Idha bhikkhave bhikkhu kāye kāyānupassī viharati, vedanāsu –pe– citte –pe– dhammesu dhammānupassī viharati ātāpī sampajāno satimā vineyya loke abhijjhā domanassaṃ. Ayaṃ vuccati bhikkhave bhikkhuno gocaro sako pettiko visayo. Ayampi vuccati gocaro. Edisena gocarena samannāgato assā ’ti – ‘kyāssassu idha gocarā.’
Kāni sīlabbatānassū ti – Kīdisena sīlabbatena samannāgato assa, kiṃsaṇṭhitena kiṃpakārena kiṃpaṭibhagenāti sīlabbatapārisuddhiṃ pucchati. Katamā sīlabbatapārisuddhi? Atthi sīlañceva vatañca, atthi vataṃ na sīlaṃ. Katamaṃ sīlañceva vatañca? Idha bhikkhu sīlavā hoti pātimokkhasaṃvarasaṃvuto viharati ācāragocarasampanno aṇumattesu vajjesu bhayadassāvī samādāya sikkhati sikkhāpadesu, yo tattha saññamo saṃvaro avītikkamo, idaṃ sīlaṃ. Yaṃ samādānaṃ, taṃ vataṃ. saṃvaraṭṭhena sīlaṃ, samādānaṭṭhena vataṃ. Idaṃ vuccati sīlaṃ ceva vataṃ ca. Katamaṃ vataṃ na sīlaṃ? Aṭṭhadhutaṅgāni: āraññikaṅgaṃ piṇḍapātikaṅgaṃ paṃsukūlikaṅgaṃ tecīvarikaṅgaṃ sapadānacārikaṅgaṃ khalupacchābhattikaṅgaṃ nesajjikaṅgaṃ yathāsanthatikaṅgaṃ, idaṃ vuccati vataṃ na sīlaṃ. Viriyasamādānampi vuccati vataṃ na sīlaṃ. “Kāmaṃ taco ca nahāru ca aṭṭhi ca avasissatu upasussatu sarīre maṃsalohitaṃ, yaṃ taṃ purisathāmena purisabalena purisaviriyena purisaparakkamena pattabbaṃ, na taṃ apāpuṇitvā viriyassa santhānaṃ bhavissatī ”ti cittaṃ paggaṇhāti padahati. Evarūpaṃ viriyasamādānaṃ vuccati vataṃ na sīlaṃ.
1. “Nāsissaṃ na pivissāmi vihārato na nikkhame, napi passaṃ nipātessaṃ taṇhāsalle anūhate ”ti.
Cittaṃ paggaṇhāti padahati, evarūpampi viriyasamādānaṃ vuccati vataṃ na sīlaṃ. ‘Na tāvāhaṃ imaṃ pallaṅkaṃ bhindissāmi, yāva me na anupādāya āsavehi cittaṃ vimuccissatī ’ti cittaṃ paggaṇhāti padahati. Evarūpampi viriyasamādānaṃ vuccati vataṃ na sīlaṃ. ‘Na tāvāhaṃ imamhā āsanā vuṭṭhahissāmi, caṅkamā orohissāmi, vihārā nikkhamissāmi, aḍḍhayogā nikkhamissāmi, pāsādā nikkhamissāmi, hammiyā nikkhamissāmi, guhāya nikkhamissāmi, leṇā nikkhamissāmi, kuṭiyā nikkhamissāmi, kūṭāgārā nikkhamissāmi, aṭṭā nikkhamissāmi, māḷā nikkhamissāmi, uddaṇḍā nikkhamissāmi, upaṭṭhānasālāya nikkhamissāmi, maṇḍapā nikkhamissāmi, rukkhamūlā nikkhamissāmi yāva me na anupādāya āsavehi cittaṃ vimuccissatī ’ti cittaṃ paggaṇhāti padahati. Evarūpaṃ viriyasamādānaṃ vuccati vataṃ na sīlaṃ. ‘Imasmiṃ yeva pubbaṇhasamayaṃ ariyadhammaṃ āharissāmi samāharissāmi adhigacchissāmi phassayissāmi sacchikarissāmī ’ti cittaṃ paggaṇhāti padahati. Evarūpampi viriyasamādānaṃ vuccati vataṃ na sīlaṃ. ‘Imasmiññeva majjhantikasamayaṃ – sāyanhasamayaṃ – purebhattaṃ pacchābhattaṃ – purimayāmaṃ – majjhimayāmaṃ – pacchimayāmaṃ – kāḷe – juṇhe – vasse – hemante – gimhe – purime vayokhandhe – majjhime vayokhandhe – pacchime vayokhandhe ariyadhammaṃ āharissāmi samāharissāmi adhigacchissāmi sacchikarissāmi phassayissāmī ’ti cittaṃ paggaṇhāti padahati. Evarūpampi viriyasamādānaṃ vuccati vataṃ na sīlaṃ. Ayaṃ sīlabbatapārisuddhi; edisāya sīlabbatapārisuddhiyā samannāgato assā ’ti – kāni sīlabbatānassu.
Pahitattassa bhikkhuno ti – Pahitattassā ti āraddhaviriyassa thāmavato daḷhaparakkamassa anikkhittachandassa anikkhittadhurassa kusalesu dhammesu. Athavā pesitattassa, yassatthāya pesito attatthe ca ñāye ca lakkhaṇe ca kāraṇe ca ṭhānāṭhāne ca. Sabbe saṅkhārā aniccāti pesitattassa; sabbe saṅkhārā dukkhāti pesitattassa; sabbe dhammā anattāti pesitattassa; avijjāpaccayā saṅkhārāti pesitattassa; –pe– jātipaccayā jarāmaraṇanti pesitattassa; avijjānirodhā saṅkhāranirodhoti pesitattassa –pe– jātinirodhā jarāmaraṇanirodhoti pesitattassa; idaṃ dukkhanti pesitattassa –pe– ayaṃ dukkhanirodhagāminī paṭipadāti pesitattassa; ime āsavāti pesitattassa –pe– ayaṃ āsavanirodhagāminī paṭipadāti pesitattassa; ime dhammā abhiññeyyāti pesitattassa –pe– ime dhammā sacchikātabbāti pesitattassa; channaṃ phassāyatanānaṃ samudayañca atthaṅgamañca assādañca ādīnavañca nissaraṇañca pesitattassa; –– pañcannaṃ upādānakkhandhānaṃ – catuṇṇaṃ mahābhūtānaṃ samudayañca atthaṅgamañca assādañca ādīnavañca nissaraṇañca pesitattassa; yaṃ kiñci samudayadhammaṃ sabbaṃ taṃ nirodhadhammanti pesitattassa. Bhikkhuno ti puthujjanakalyāṇakassa vā bhikkhuno sekhassa vā bhikkhuno ’ti – ‘pahitattassa bhikkhuno.’
Tenāha thero sāriputto: “Kyāssa byappathayo assu kyāssassu idha gocarā, kāni sīlabbatānassu pahitattassa bhikkhuno ”ti
Vì thế, trưởng lão Sāriputta đã nói rằng:
“Đối với vị này, cách thức nói năng nên là như thế nào? Đối với vị này, hành xứ ở đây nên là như thế nào? Đối với vị tỳ khưu có bản tánh cương quyết, giới và phận sự (của vị này) nên là như thế nào?”
16.8
Kaṃ so sikkhaṃ samādāya, ekodi nipako sato, kammāro rajatasseva, niddhame malamattano
Vị ấy, sau khi thọ trì việc học tập gì, mới có sự chuyên nhất (của tâm), chín chắn, có niệm, có thể loại bỏ bụi bặm (ô nhiễm) của bản thân, ví như người thợ kim hoàn có thể loại bỏ cáu bẩn của bạc?”
962. Chấp nhận học tập gì,
Vị Tỷ Kheo nhất tâm,
Thông minh, giữ chánh niệm,
Tẩy sạch các cấu uế,
Trên tự ngã của mình,
Như thợ lọc vàng bạc?
(Kinh Tập, câu kệ 962)
Kaṃ so sikkhaṃ samādāyā ti – Kaṃ so sikkhaṃ ādāya samādāya ādiyitvā samādiyitvā gaṇhitvā parāmasitvā abhinivisitvā ’ti – kaṃ so sikkhaṃ samādāya.
Ekodi nipako sato ti – Ekodī ti ekaggacitto avikkhittacitto avisāhaṭamānaso, samatho samādhindriyaṃ samādhibalaṃ ―pe― sammāsamādhi. Nipako ti nipako paṇḍito paññavā buddhimā ñāṇī vibhāvī medhāvī. Sato ti catuhi kāraṇehi sato: kāye kāyānupassanāsatipaṭṭhānaṃ bhāvento sato, vedanāsu – citte – dhammesu dhammānupassanā-satipaṭṭhānaṃ bhāvento sato; so vuccati sato ’ti – sato.
Kaṃ so sikkhaṃ samādāyā ti – adhisīlasikkhaṃ pucchati. Ekodī ti adhicittasikkhaṃ pucchati. Nipako ti adhipaññāsikkhaṃ pucchati. Sato ti pārisuddhiṃ pucchatī ’ti – kaṃ so sikkhaṃ samādāya ekodi nipako sato.
Kammāro rajatasseva niddhame malamattano ti – Kammāro vuccati suvaṇṇakāro; rajataṃ vuccati jātarūpaṃ. Yathā suvaṇṇakāro jātarūpassa oḷārikampi malaṃ dhamati sandhamati niddhamati; majjhimakampi malaṃ dhamati sandhamati niddhamati; sukhumakampi malaṃ dhamati sandhamati niddhamati; evamevaṃ bhikkhu attano oḷārikepi kilese dhamati sandhamati niddhamati pajahati vinodeti byantīkaroti anabhāvaṃ gameti; majjhimakepi kilese – sukhumakepi kilese dhamati sandhamati niddhamati pajahati vinodeti byantīkaroti anabhāvaṃ gameti.
Athavā bhikkhu attano rāgamalaṃ dosamalaṃ mohamalaṃ mānamalaṃ diṭṭhimalaṃ kilesamalaṃ duccaritamalaṃ andhakaraṇaṃ acakkhukaraṇaṃ aññāṇakaraṇaṃ paññānirodhikaṃ vighātapakkhikaṃ anibbānasaṃvattanikaṃ dhamati sandhamati niddhamati pajahati vinodeti byantīkaroti anabhāvaṃ gameti.
Athavā sammādiṭṭhiyā micchādiṭṭhiṃ dhamati sandhamati niddhamati pajahati vinodeti byantīkaroti anabhāvaṃ gameti; sammāsaṅkappena micchāsaṅkappaṃ – sammāvācāya micchāvācaṃ – sammākammantena micchākammantaṃ – sammā-ājīvena micchā-ājīvaṃ – sammāvāyāmena micchāvāyāmaṃ – sammāsatiyā micchāsatiṃ – sammāsamādhinā micchāsamādhiṃ – sammāñāṇena micchāñāṇaṃ – sammāvimuttiyā micchāvimuttiṃ dhamati sandhamati niddhamati pajahati vinodeti byantīkaroti anabhāvaṃ gameti.
Athavā ariyena aṭṭhaṅgikena maggena sabbe kilese sabbe duccarite sabbe darathe sabbe pariḷāhe sabbe santāpe sabbākusalābhisaṅkhāre dhamati sandhamati niddhamati pajahati vinodeti byantīkaroti anabhāvaṃ gametī ’ti – kammāro rajatasseva niddhame malamattano.
Tenāha thero sāriputto:
“Kaṃ so sikkhaṃ samādāya, ekodi nipako sato, kammāro rajatasseva, niddhame malamattano ”ti.
Vì thế, trưởng lão Sāriputta đã nói rằng: “Vị ấy, sau khi thọ trì việc học tập gì, mới có sự chuyên nhất (của tâm), chín chắn, có niệm, có thể loại bỏ bụi bặm (ô nhiễm) của bản thân, ví như người thợ kim hoàn có thể loại bỏ cáu bẩn của bạc?”
16.9
Vijigucchamānassa yadidaṃ phāsu (Sāriputtāti bhagavā) rittāsanaṃ sayanaṃ sevato ve, sambodhikāmassa yathānudhammaṃ taṃ te pavakkhāmi yathā pajānaṃ.
(Đức Phật nói: “Này Sāriputta,)
Ta sẽ tuyên thuyết cho ngươi về điều ấy theo như Ta nhận biết, tức là sự thoải mái (an trú) dành cho vị nhờm gớm (sanh, già, bệnh, chết, v.v…), cho vị thật sự đang thân cận chỗ ngồi nằm trống vắng, có sự mong muốn quả vị giác ngộ thuận theo Giáo Pháp.”
963. Này Sàriputta,
Thế Tôn bèn trả lời:
Với người biết nhàm chán,
Có gì là khoan khoái!
Khi sử dụng sàng tọa,
Tại chỗ tịnh trống không,
Với ai muốn giác ngộ,
Sống đúng với tùy pháp,
Ta sẽ nói người ấy,
Như Ta đã quán tri.
(Kinh Tập, câu kệ 963)
Vijigucchamānassa yadidaṃ phāsū ti – Vijigucchamānassā ti jātiyā vijigucchamānassa, jarāya – byādhinā – maraṇena – sokehi – paridevehi –dukkhehi – domanassehi – upāyāsehi ―pe― diṭṭhivyasanena dukkhena vijigucchamānassa aṭṭīyamānassa harāyamānassā ’ti – vijigucchamānassa. Yadidaṃ phāsū ti yaṃ phāsu phāsuvihāraṃ taṃ kathayissāmi. Katamo phāsuvihāro? Sammāpaṭipadā anulomapaṭipadā apaccanīkapaṭipadā anvatthapaṭipadā dhammānudhammapaṭipadā sīlesu paripūrakāritā indriyesu guttadvāratā bhojanesu mattaññutā jāgariyānuyogo satisampajaññaṃ cattāro satipaṭṭhānā cattāro sammappadhānā cattāro iddhipādā pañcindriyāni pañca balāni satta bojjhaṅgā ariyo aṭṭhaṅgiko maggo nibbānañca nibbānagāminī ca paṭipadā; ayaṃ phāsuvihāro ’ti – vijigucchamānassa yadidaṃ phāsu.
Sāriputtā ti – bhagavā taṃ theraṃ nāmenālapati. Bhagavā ti gāravādhivacanaṃ. Api ca, bhaggarāgoti bhagavā, bhaggadosoti bhagavā, bhaggamohoti bhagavā, bhaggamānoti bhagavā, bhaggadiṭṭhīti bhagavā, bhaggakaṇṭakoti bhagavā, bhaggakilesoti bhagavā, bhaji vibhaji paṭivibhaji dhammaratananti bhagavā, bhavānaṃ antakaroti bhagavā, bhāvitakāyo bhāvitasīlo bhāvitacitto bhāvitapaññoti bhagavā, bhaji vā bhagavā araññe vanapatthāni pantāni senāsanāni appasaddāni appanigghosāni vijanavātāni manussarāhaseyyakāni paṭisallānasāruppānīti bhagavā, bhāgī vā bhagavā cīvarapiṇḍapātasenāsanagilānapaccayabhesajjaparikkhārānanti bhagavā, bhāgī vā bhagavā attharasassa dhammarasassa vimuttirasassa adhisīlassa adhicittassa adhipaññāyāti bhagavā. Bhāgī vā bhagavā catunnaṃ jhānānaṃ catunnaṃ appamaññānaṃ catunnaṃ arūpasamāpattīnanti bhagavā, bhāgī vā bhagavā aṭṭhannaṃ vimokkhānaṃ aṭṭhannaṃ abhibhāyatanānaṃ navannaṃ anupubbavihārasamāpattīnanti bhagavā, bhāgī vā bhagavā dasannaṃ saññābhāvanānaṃ dasannaṃ kasiṇasamāpattīnaṃ, ānāpānasatisamādhissa asubhasamāpattiyāti bhagavā, bhāgī vā bhagavā catunnaṃ satipaṭṭhānānaṃ catunnaṃ sammappadhānānaṃ catunnaṃ iddhipādānaṃ pañcannaṃ indriyānaṃ pañcannaṃ balānaṃ sattannaṃ bojjhaṅgānaṃ ariyassa aṭṭhaṅgikassa maggassāti bhagavā, bhāgī vā bhagavā dasannaṃ tathāgatabalānaṃ catunnaṃ vesārajjānaṃ catunnaṃ paṭisambhidānaṃ channaṃ abhiññānaṃ channaṃ buddhadhammānanti bhagavā; bhagavāti netaṃ nāmaṃ mātarā kataṃ, na pitarā kataṃ, na bhātarā kataṃ, na bhaginiyā kataṃ, na mittāmaccehi kataṃ, na ñātisālohitehi kataṃ, na samaṇabrāhmaṇehi kataṃ, na devatāhi kataṃ, vimokkhantikametaṃ buddhānaṃ bhagavantānaṃ bodhiyā mūle saha sabbaññutañāṇassa paṭilābhā sacchikā paññatti yadidaṃ bhagavā ’ti – sāriputtāti bhagavā.
Rittāsanaṃ sayanaṃ sevato ve ti – Āsanaṃ vuccati yattha nisīdati mañco pīṭhaṃ bhisi taṭṭikā cammakhaṇḍo tiṇasanthāro paṇṇasanthāro palālasanthāro. Sayanaṃ vuccati senāsanaṃ: vihāro aḍḍhayogo pāsādo hammiyaṃ guhā. Taṃ sayanāsanaṃ asappāyarūpadassanena rittaṃ vivittaṃ pavivittaṃ, asappāyasaddasavaṇena ―pe― asappāyehi pañcahi kāmaguṇehi rittaṃ vivittaṃ pavivittaṃ; rittaṃ sayanāsanaṃ sevato nisevato saṃsevato paṭisevato ’ti – rittāsanaṃ sayanaṃ sevato ve.
Sambodhikāmassa yathānudhamman ti – Sambodhi vuccati catūsu maggesu ñāṇaṃ paññā paññindriyaṃ paññābalaṃ –nt– dhammavicayasambojjhaṅgo vīmaṃsā vipassanā sammādiṭṭhi. Taṃ sambodhiṃ bujjhitukāmassa anubujjhitukāmassa paṭivijjhitukāmassa sambujjhitukāmassa adhigantukāmassa phassitukāmassa sacchikātukāmassā ’ti – sambodhikāmassa. Yathānudhamman ti katame bodhiyā anudhammā? Sammāpaṭipadā anulomapaṭipadā apaccanīkapaṭipadā anvatthapaṭipadā dhammānudhammapaṭipadā sīlesu paripūrakāritā indriyesu guttadvāratā bhojanesu mattaññutā jāgariyānuyogo satisampajaññaṃ; ime vuccanti bodhiyā anudhammā. Athavā catunnaṃ maggānaṃ pubbabhāge vipassanā; ime vuccanti bodhiyā anudhammā ’ti – sambodhikāmassa yathānudhammaṃ.
Taṃ te pavakkhāmi yathā pajānan ti – Tan ti bodhiyā anudhammaṃ. Pavakkhāmī ti pavakkhāmi ācikkhissāmi desessāmi paññapessāmi paṭṭhapessāmi vivarissāmi vibhajissāmi uttānīkarissāmi pakāsissāmi. Yathā pajānan ti yathā pajānaṃ yathā pajānanto ājānanto vijānanto paṭivijānanto paṭivijjhanto, na itihitihaṃ na itikirāya na paramparāya na piṭakasampadāya na takkahetu na nayahetu na ākāraparivitakkena na diṭṭhinijjhānakkhantiyā sāmaṃ sayaṃ abhiññātaṃ attapaccakkhaṃ dhammaṃ taṃ kathayissāmī ’ti – taṃ te pavakkhāmi yathā pajānaṃ.
Tenāha bhagavā:
“Vijigucchamānassa yadidaṃ phāsu
(Sāriputtāti bhagavā)
rittāsanaṃ sayanaṃ sevato ve,
sambodhikāmassa yathānudhammaṃ
taṃ te pavakkhāmi yathā pajānan ”ti
(Đức Phật nói: “Này Sāriputta,)
Ta sẽ tuyên thuyết cho ngươi về điều ấy theo như Ta nhận biết, tức là sự thoải mái (an trú) dành cho vị nhờm gớm (sanh, già, bệnh, chết, v.v…), cho vị thật sự đang thân cận chỗ ngồi nằm trống vắng, có sự mong muốn quả vị giác ngộ thuận theo Giáo Pháp.”
16.10
Pañcanna dhīro bhayānaṃ na bhāye bhikkhu sato sappariyantacārī, ḍaṃsādhipātāna siriṃsapānaṃ manussaphassāna catuppadānaṃ.
Vị tỳ khưu, sáng trí, có niệm, sống trong khuôn khổ, không nên sợ hãi đối với năm điều sợ hãi: đối với các loài nhặng và loài mòng, đối với các loài bò trườn, đối với các sự va chạm với con người, đối với các loài bốn chân. Vị Tỷ kheo có trí,
Chánh niệm sống biên địa,
Không có sợ năm điều,
Ðáng sợ hãi ở đời.
Các loại ruồi, mối bay
Cùng các loài bò sát,
Xúc chạm của loài người,
Cùng các loại bốn chân.
(Kinh Tập, câu kệ 964)
Pañcanna dhīro bhayānaṃ na bhāye ti – Dhīro ti dhīro paṇḍito paññavā buddhimā ñāṇī vibhāvī medhāvī vīro pañcannaṃ bhayānaṃ na bhāyeyya na taseyya na santaseyya na uttaseyya na parittaseyya na santāsaṃ āpajjeyya, abhīrū assa acchambhī anutrāsī apalāyī pahīnabhayabheravo vigatalomahaṃso vihareyyā ’ti – pañcanna dhīro bhayānaṃ na bhāye.
Bhikkhu sato sappariyantacārī ti – Bhikkhū ti puthujjanakalyāṇako vā bhikkhu, sekho vā bhikkhu. Sato ti catuhi kāraṇehi sato: kāye kāyānupassanāsatipaṭṭhānaṃ bhāvento sato, vedanāsu – citte – dhammesu dhammānupassanāsatipaṭṭhānaṃ bhāvento sato; so vuccati sato. Sappariyantacārī ti cattāro pariyantā: sīlasaṃvarapariyanto, indriyasaṃvarapariyanto, bhojane mattaññutāpariyanto, jāgariyānuyogapariyanto.
Katamo sīlasaṃvarapariyanto? Idha bhikkhu sīlavā hoti, pātimokkhasaṃvarasaṃvuto viharati, ācāragocarasampanno aṇumattesu vajjesu bhayadassāvī, samādāya sikkhati sikkhāpadesu, antopūtibhāvaṃ paccavekkhamāno, anto sīlasaṃvarapariyante carati, mariyādaṃ na bhindati; ayaṃ sīlasaṃvarapariyanto.
Katamo indriyasaṃvarapariyanto? Idha bhikkhu cakkhunā rūpaṃ disvā na nimittaggāhī hoti nānubyañjanaggāhī; yatvādhikaraṇamenaṃ –pe– cakkhundriye saṃvaraṃ āpajjati. Sotena saddaṃ sutvā –pe– ghānena gandhaṃ ghāyitvā –pe– jivhāya rasaṃ sāyitvā –pe– kāyena phoṭṭhabbaṃ phusitvā –pe– manasā dhammaṃ viññāya na nimittaggāhī hoti nānubyañjanaggāhī yatvādhikaraṇamenaṃ manindriyaṃ asaṃvutaṃ viharantaṃ abhijjhā domanassā pāpakā akusalā dhammā anvāssaveyyuṃ, tassa saṃvarāya paṭipajjati, rakkhati manindriyaṃ, manindriye saṃvaraṃ āpajjati. Ādittapariyāyaṃ paccavekkhamāno anto indriyasaṃvarapariyante carati, mariyādaṃ na bhindati; ayaṃ indriyasaṃvarapariyanto.
Katamo bhojane mattaññutāpariyanto? Idha bhikkhu paṭisaṅkhā yoniso āhāraṃ āhāreti, neva davāya, na madāya, na maṇḍanāya, na vibhūsaṇāya; yāvadeva imassa kāyassa ṭhitiyā yāpanāya, vihiṃsūparatiyā brahmacariyānuggahāya, iti purāṇañca vedanaṃ paṭihaṅkhāmi, navañca vedanaṃ na uppādessāmi, yātrā ca me bhavissati anavajjatā ca phāsuvihāro cāti. Akkhabbhañjana-vaṇapaṭicchādana-puttamaṃsūpamaṃ paccavekkhamāno anto bhojane mattaññutāpariyante carati, mariyādaṃ na bhindati; ayaṃ bhojane mattaññutāpariyanto.
Katamo jāgariyānuyogapariyanto? Idha bhikkhu divasaṃ caṅkamena nisajjāya āvaraṇīyehi dhammehi cittaṃ parisodheti, rattiyā paṭhamaṃ yāmaṃ caṅkamena nisajjāya āvaraṇīyehi dhammehi cittaṃ parisodheti, rattiyā majjhimaṃ yāmaṃ dakkhiṇena passena sīhaseyyaṃ kappeti pāde pādaṃ accādhāya sato sampajāno uṭṭhānasaññaṃ manasikaritvā, rattiyā pacchimaṃ yāmaṃ paccuṭṭhāya caṅkamena nisajjāya āvaraṇīyehi dhammehi cittaṃ parisodheti. Bhaddekarattavihāraṃ paccavekkhamāno antojāgariyānuyogapariyante carati, mariyādaṃ na bhindati; ayaṃ jāgariyānuyogapariyanto ’ti – bhikkhu sato sappariyantacārī.
Ḍaṃsādhipātāna siriṃsapānan ti – Ḍaṃsā vuccanti piṅgalamakkhikāyo. Adhipātakā vuccanti sabbāpi makkhikāyo. Kiṃ kāraṇā adhipātakā vuccanti sabbāpi makkhikāyo? Tā uppatitvā uppatitvā khādanti; taṃkāraṇā adhipātakā vuccanti sabbāpi makkhikāyo. Siriṃsapā vuccanti ahī ti – ḍaṃsādhipātāna siriṃsapānaṃ.
Manussaphassāna catuppadānan ti – Manussaphassā vuccanti corā vā assu mānavā vā katakammā vā akatakammā vā; te bhikkhuṃ pañhaṃ vā puccheyyuṃ, vādaṃ vā āropeyyuṃ akkoseyyuṃ paribhāseyyuṃ roseyyuṃ viroseyyuṃ hiṃseyyuṃ vihiṃseyyuṃ heṭheyyuṃ viheṭheyyuṃ ghāteyyuṃ upaghāteyyuṃ upaghātaṃ vā kareyyuṃ. Yo koci manussato upaghāto manussaphasso. Catuppadānan ti sīhā byagghā dīpī acchā taracchā kokā mahisā hatthī; te bhikkhuṃ maddeyyuṃ khādeyyuṃ hiṃseyyuṃ vihiṃseyyuṃ heṭheyyuṃ viheṭheyyuṃ ghāteyyuṃ upaghāteyyuṃ upaghātaṃ vā kareyyuṃ, catuppadato upaghāto yaṃ kiñci catuppadabhayan ’ti – manussaphassāna catuppadānaṃ.
Tenāha bhagavā:
“Pañcanna dhīro bhayānaṃ na bhāye,
bhikkhu sato sappariyantacārī,
ḍaṃsādhipātāna siriṃsapānaṃ,
manussaphassāna catuppadānan ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Vị tỳ khưu, sáng trí, có niệm, sống trong khuôn khổ, không nên sợ hãi đối với năm điều sợ hãi: đối với các loài nhặng và loài mòng, đối với các loài bò trườn, đối với các sự va chạm với con người, đối với các loài bốn chân.”
16.11
Paradhammikānampi na santaseyya, disvāpi tesaṃ bahubheravāni, athāparāni abhisambhaveyya,
parissayāni kusalānuesī.
Cũng không nên hoảng sợ đối với những kẻ theo các giáo phái khác, ngay cả sau khi nhìn thấy nhiều điều khiếp đảm của họ. Và vị tầm cầu điều tốt đẹp còn phải khắc phục những hiểm họa khác nữaVị ấy không nên sợ,
Tri kiến của người khác,
Khi đã được thấy biết,
Nhiều sợ hãi của chúng,
Bậc tìm đến chí thiện,
Thấy được các nguy hiểm
Cần phải lo khắc phục
Tất cả nguy hiểm khác.
(Kinh Tập, câu kệ 965)
Paradhammikānampi na santaseyya disvāpi tesaṃ bahubheravānī ti – Paradhammikā vuccanti satta sahadhammike ṭhapetvā ye keci buddhe dhamme saṅghe appasannā. Te bhikkhuṃ pañhaṃ vā puccheyyuṃ vādaṃ vā āropeyyuṃ akkoseyyuṃ paribhāseyyuṃ roseyyuṃ viroseyyuṃ hiṃseyyuṃ vihiṃseyyuṃ heṭheyyuṃ viheṭheyyuṃ ghāteyyuṃ upaghāteyyuṃ upaghātaṃ vā kareyyuṃ. Tesaṃ bahubherave passitvā vā suṇitvā vā na vedheyya na pavedheyya na sampavedheyya na taseyya na santaseyya na uttaseyya na parittaseyya na bhāyeyya na santāsaṃ āpajjeyya; abhīrū assa acchambhī anutrāsī apalāyī, pahīnabhayabheravo vigatalomahaṃso vihareyyā ’ti – paradhammikānampi na santaseyya disvāpi tesaṃ bahubheravāni.
Cũng không nên hoảng sợ đối với những kẻ theo các giáo phái khác, ngay cả sau khi nhìn thấy nhiều điều khiếp đảm của họ – Những kẻ theo các giáo phái khác nói đến những người nào không tịnh tín với đức Phật, Giáo Pháp, và Tăng Chúng, trừ ra bảy hạng người đồng đạo. Họ có thể hỏi vị tỳ khưu câu hỏi, hoặc có thể lên án học thuyết, có thể sỉ vả, có thể chê bai, có thể gây khó chịu, có thể gây bực mình, có thể gây tổn hại, có thể hãm hại, có thể quấy rối, có thể ức hiếp, có thể giết hại, có thể phá hại, hoặc có thể gây nên sự phá hại. Sau khi nhìn thấy, hoặc sau khi nghe nhiều điều khiếp đảm của họ, thì không nên run rẩy, không nên run bắn lên, không nên rúng động, không nên run sợ, không nên hoảng sợ, không nên kinh sợ, không nên khiếp sợ, không nên sợ hãi, không nên rơi vào sự hoảng sợ, nên có tánh không nhút nhát, không kinh hoàng, không sợ sệt, không trốn chạy, nên sống, có sự sợ hãi và khiếp đảm đã được dứt bỏ, có sự rởn lông đã được xa lìa; – ‘cũng không nên hoảng sợ đối với những kẻ theo các giáo phái khác, ngay cả sau khi nhìn thấy nhiều điều khiếp đảm của họ’ là như thế.
Athāparāni abhisambhaveyya parissayāni kusalānuesī ti – Athāparānipi atthi abhisambhotabbāni abhibhavitabbāni ajjhottharitabbāni pariyādiyitabbāni madditabbāni. Parissayā ti dve parissayā: pākaṭaparissayā ca paṭicchannaparissayā ca –pe– Evampi tatrāsayāti parissayā. Kusalānuesī ti sammāpaṭipadaṃ anulomapaṭipadaṃ apaccanīkapaṭipadaṃ anvatthapaṭipadaṃ –pe– ariyaṃ aṭṭhaṅgikaṃ maggaṃ nibbānañca nibbānagāminiñca paṭipadaṃ esantena gavesantena pariyesantena parissayā abhisambhotabbā abhibhavitabbā ajjhottharitabbā pariyādiyitabbā madditabbā ’ti – athāparāni abhisambhaveyya parissayāni kusalānuesī.
Và vị tầm cầu điều tốt đẹp còn phải khắc phục những hiểm họa khác nữa – Và còn có những việc khác nữa cần phải được kiềm chế, cần phải được chế ngự, cần phải được đè bẹp, cần phải được trấn áp, cần phải được chà đạp. Những hiểm họa: có hai loại hiểm họa: hiểm họa hiển hiện và hiểm họa khuất lấp. –nt– Các hiểm họa là vì ‘nơi ấy là chỗ trú’ còn là như vậy. Vị tầm cầu điều tốt đẹp: với vị đang tầm cầu, đang tìm tòi, đang tìm kiếm sự thực hành đúng đắn, sự thực hành phù hợp, sự thực hành không trái ngược, sự thực hành đưa đến lợi ích, –nt– đạo lộ thánh thiện tám chi phần, Niết Bàn, và sự thực hành đưa đến Niết Bàn, có những hiểm họa cần phải được kiềm chế, cần phải được chế ngự, cần phải được đè bẹp, cần phải được trấn áp, cần phải được chà đạp; – ‘và vị tầm cầu điều tốt đẹp còn phải khắc phục những hiểm họa khác nữa’ là như thế.
Tenāha bhagavā:
“Paradhammikānampi na santaseyya
disvāpi tesaṃ bahubheravāni,
athāparāni abhisambhaveyya
parissayāni kusalānuesī ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Cũng không nên hoảng sợ đối với những kẻ theo các giáo phái khác, ngay cả sau khi nhìn thấy nhiều điều khiếp đảm của họ. Và vị tầm cầu điều tốt đẹp còn phải khắc phục những hiểm họa khác nữa.”
16.12
Ātaṅkaphassena khudāya phuṭṭho sītaṃ athuṇhaṃ adhivāsayeyya, so tehi phuṭṭho bahudhā anoko
viriyaparakkamaṃ daḷhaṃ kareyya.
Bị tác động bởi sự xúc chạm của bệnh tật, của cơn đói, nên chịu đựng sự lạnh, sự nóng. Bị tác động bởi những việc ấy dưới nhiều hình thức, vị ấy, bậc không trú xứ, nên thể hiện sự nỗ lực tinh tấn một cách vững chãi.
Khi thọ lãnh bệnh hoạn,
Khi cảm xúc đói khổ,
Với lạnh và cực nóng,
Cần phải nhiếp phục chúng,
Bị chúng cảm xúc nhiều,
Kẻ không bỏ nhà cửa
Cần tinh tấn cần mẫn,
Lòng hết sức kiên trì.
(Kinh Tập, câu kệ 966)
Ātaṅkaphassena khudāya phuṭṭho ti – Ātaṅkaphasso vuccati rogaphasso. Rogaphassena phuṭṭho pareto samohito samannāgato assa; cakkhurogena phuṭṭho pareto samohito samannāgato assa; sotarogena – ghānarogena – jivhārogena – kāyarogena ―pe― ḍaṃsa-makasa-vātātapa-siriṃsapa-samphassena phuṭṭho pareto samohito samannāgato assa. Khudā vuccati chātako. Chātakena phuṭṭho pareto samohito samannāgato assā ’ti – ātaṅkaphassena khudāya phuṭṭho.
Sītaṃ athuṇhaṃ adhivāsayeyyā ti – Sītan ti dvīhi kāraṇehi sītaṃ hoti: abbhantaradhātupakopavasena vā sītaṃ hoti, bahiddhā utuvasena vā sītaṃ hoti. Uṇhan ti dvīhi kāraṇehi uṇhaṃ hoti: abbhantaradhātupakopavasena2 vā uṇhaṃ hoti, bahiddhā utuvasena vā uṇhaṃ hotī ’ti – sītaṃ athuṇhaṃ. Adhivāsayeyyā ti khamo assa sītassa uṇhassa jighacchāya pipāsāya ḍaṃsamakasavātātapasiriṃsapasamphassānaṃ, duruttānaṃ durāgatānaṃ vacanapathānaṃ, uppannānaṃ sārīrikānaṃ vedanānaṃ dukkhānaṃ tippānaṃ kharānaṃ kaṭukānaṃ asātānaṃ amanāpānaṃ pāṇaharānaṃ adhivāsakajātiko assā ’ti – sītaṃ athuṇhaṃ1 adhivāsayeyya.
So tehi phuṭṭho bahudhā anoko ti – So tehī ti ātaṅkaphassena ca khudāya ca sītena ca uṇhena ca phuṭṭho pareto samohito samannāgato assā’ti – so tehi phuṭṭho. Bahudhā ti anekavidhehi ākārehi phuṭṭho pareto samohito samannāgato assāti – so tehi phuṭṭho bahudhā. Anoko ti abhisaṅkhārasahagataviññāṇassa okāsaṃ na karotītipi – anoko. Athavā, kāyaduccaritassa vacīduccaritassa manoduccaritassa okāsaṃ na karotītipi anoko ’ti – so tehi phuṭṭho bahudhā anoko.
Viriyaparakkamaṃ daḷhaṃ kareyyā ti – Viriyaparakkamo vuccati: “yo cetasiko viriyārambho nikkamo parakkamo uyyāmo vāyāmo ussāho ussoḷhī appaṭivānī thāmo dhiti asithilaparakkamatā anikkhittachandatā anikkhittadhuratā dhurasampaggāho viriyaṃ viriyindriyaṃ viriyabalaṃ sammāvāyāmo.” Viriyaparakkamaṃ daḷhaṃ kareyyā ti – viriyaparakkamaṃ daḷhaṃ kareyya, thiraṃ kareyya, daḷhasamādāno assa avatthitasamādānoti – viriyaparakkamaṃ daḷhaṃ kareyya.
Tenāha bhagavā:
“Ātaṅkaphassena khudāya phuṭṭho sītaṃ athuṇhaṃ adhivāsayeyya, so tehi phuṭṭho bahudhā anoko
viriyaparakkamaṃ4 daḷhaṃ kareyyā ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Bị tác động bởi sự xúc chạm của bệnh tật, của cơn đói, nên chịu đựng sự lạnh, sự nóng. Bị tác động bởi những việc ấy dưới nhiều hình thức, vị ấy, bậc không trú xứ, nên thể hiện sự nỗ lực tinh tấn một cách vững chãi.”
16.13
Theyyaṃ na kareyya na musā bhaṇeyya mettāya phasse tasathāvarāni, yadāvilattaṃ manaso vijaññā
kaṇhassa pakkhoti vinodayeyya.
Không nên thực hiện việc trộm cắp, không nên nói lời dối trá, nên tiếp xúc với các loài yếu đuối hay mạnh bạo bằng từ tâm, khi nào nhận biết được trạng thái bị khuấy động của tâm, nên xua đi (nghĩ rằng): ‘Nó là phần đen tối.’
Chớ ăn trộm, ăn cắp,
Chớ nói lời nói láo,
Hãy cảm xúc từ tâm,
Ðối kẻ yếu, kẻ mạnh,
Khi rõ biết tâm tư,
Trong tình trạng dao động,
Hãy gột sạch, tẩy sạch,
Phần hắc ám đen tối.
(Kinh Tập, câu kệ 967)
Theyyaṃ na kareyya na musā bhaṇeyyā ti – Theyyaṃ na kareyyā ti Idha bhikkhu adinnādānaṃ pahāya adinnādānā paṭivirato assa, dinnādāyī dinnapāṭikaṅkhī athenena sucibhūtena attanā vihareyyā ’ti – theyyaṃ na kareyya. Na musā bhaṇeyyā ti – Idha bhikkhu musāvādaṃ pahāya musāvādā paṭivirato assa, saccavādī saccasandho theto paccayiko avisaṃvādako lokassā ’ti – theyyaṃ na kareyya na musā bhaṇeyya.
Mettāya phasse tasathāvarānī ti – Mettā ti “yā sattesu metti mettāyanā mettāyitattaṃ anuddayā anuddayatā anuddayitattaṃ hitesitā anukampā abyāpādo abyāpajjo adoso kusalamūlaṃ.” Tasā ti yesaṃ tasinā taṇhā appahīnā, yesañca bhayabheravā appahīnā. Kiṃkāraṇā vuccanti tasā ? Te tasanti uttasanti paritasanti bhāyanti santāsaṃ āpajjanti; taṃkāraṇā vuccanti tasā. Thāvarā ti yesaṃ tasinā taṇhā pahīnā, yesañca bhayabheravā pahīnā. Kiṃkāraṇā vuccanti thāvarā? Te na tasanti na uttasanti na paritasanti na bhāyanti, santāsaṃ na āpajjanti; taṃkāraṇā vuccanti thāvarā.
Mettāya phasse tasathāvarānī ti – Tase ca thāvare ca mettāya phasseyya phareyya, mettāsahagatena cetasā vipulena mahaggatena appamāṇena averena abyāpajjena pharitvā vihareyyā ’ti – mettāya phasse tasathāvarāni.
Yadāvilattaṃ manaso vijaññā ti – Yadā ti yaṃ. Manaso ti “Yaṃ cittaṃ mano mānasaṃ hadayaṃ paṇḍaraṃ mano manāyatanaṃ manindriyaṃ viññāṇaṃ viññāṇakkhandho tajjā manoviññāṇadhātu.” Kāyaduccaritena cittaṃ āvilaṃ hoti luḷitaṃ eritaṃ ghaṭṭitaṃ calitaṃ bhantaṃ avūpasantaṃ; vacīduccaritena – manoduccaritena – rāgena – dosena – mohena – kodhena – upanāhena – makkhena – palāsena – issāya – macchariyena – māyāya – sāṭheyyena – thambhena – sārambhena – mānena – atimānena – madena – pamādena – sabbakilesehi – sabbaduccaritehi – sabbadarathehi – sabbapariḷāhehi – sabbasantāpehi – sabbākusalābhisaṅkhārehi cittaṃ āvilaṃ hoti luḷitaṃ eritaṃ ghaṭṭitaṃ calitaṃ bhantaṃ avūpasantaṃ. Yadāvilattaṃ manaso vijaññā ti – Cittassa āvilabhāvaṃ jāneyya ājāneyya vijāneyya paṭivijāneyya paṭivijjheyyā ’ti – yadāvilattaṃ manaso vijaññā.
Kaṇhassa pakkhoti vinodayeyyā ti – Kaṇho ti yo so māro kaṇho adhipati antagū namuci pamattabandhu. Kaṇhassa pakkho mārapakkho mārapāso mārabalisaṃ mārāmisaṃ māravisayo māranivāpo māragocaro mārabandhanan ’ti pajaheyya vinodeyya byantīkareyya anabhāvaṃ gameyyā ’ti – evampi kaṇhassa pakkhoti vinodayeyya. Athavā kaṇhassa pakkho – mārapakkho akusalapakkho dukkhudrayo dukkhavipāko nirayasaṃvattaniko tiracchānayonisaṃvattaniko pettivisayasaṃvattaniko ti pajaheyya vinodeyya byantīkareyya anabhāvaṃ gameyyā ’ti – evampi kaṇhassa pakkhoti vinodayeyya.
Tenāha bhagavā:
“Theyyaṃ na kareyya na musā bhaṇeyya
mettāya phasse tasathāvarāni,
yadāvilattaṃ manaso vijaññā
kaṇhassa pakkhoti vinodayeyyā ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Không nên thực hiện việc trộm cắp, không nên nói lời dối trá, nên tiếp xúc với các loài yếu đuối hay mạnh bạo bằng từ tâm, khi nào nhận biết được trạng thái bị khuấy động của tâm, nên xua đi (nghĩ rằng): ‘Nó là phần đen tối.’”
16.14
Kodhātimānassa vasaṃ na gacche mūlampi tesaṃ palikhañña tiṭṭhe, athappiyaṃ vā pana appiyaṃ vā
addhā bhavanto abhisambhaveyya.
Không nên rơi vào quyền lực của sự giận dữ và ngã mạn thái quá, nên đứng vững sau khi đào lên gốc rễ của chúng. Và trong khi khắc phục vật được yêu mến hoặc không được yêu mến, nên chế ngự chúng một cách chắc chắn.Chớ để bị chi phối,
Bởi phẫn nộ, quá mạn,
Hãy đào chúng tận gốc,
Và an trú như vậy,
Ðối những gì khả ái,
Hay đối không khả ái,
Hãy hoàn toàn nhiếp phục,
Chớ để bị chi phối.
(Kinh Tập, câu kệ 968)
Kodhātimānassa vasaṃ na gacche ’ti – Kodho ’ti “yo cittassa āghāto paṭighāto –pe– caṇḍikkaṃ asuropo anattamanatā cittassa.” Atimāno ’ti – “Idhekacco paraṃ atimaññati jātiyā vā gottena vā –pe–aññataraññatarena vā vatthunā.” Kodhātimānassa vasaṃ na gacche ’ti kodhassa ca atimānassa ca vasaṃ na gaccheyya, kodhañca atimānañca pajaheyya vinodeyya byantīkareyya anabhāvaṃ gameyyā ’ti – kodhātimānassa vasaṃ na gacche.
Mūlampi tesaṃ palikhañña tiṭṭhe ’ti – Katamaṃ kodhassa mūlaṃ? Avijjā mūlaṃ, ayonisomanasikāro mūlaṃ, asmimāno mūlaṃ, ahirikaṃ mūlaṃ, anottappaṃ mūlaṃ, uddhaccaṃ mūlaṃ. Idaṃ kodhassa mūlaṃ. Katamaṃ atimānassa mūlaṃ? Avijjā mūlaṃ, ayonisomanasikāro mūlaṃ, asmimāno mūlaṃ, ahirikaṃ mūlaṃ, anottappaṃ mūlaṃ, uddhaccaṃ mūlaṃ. Idaṃ asmimānassa mūlaṃ. Mūlampi tesaṃ palikhañña tiṭṭhe ’ti kodhassa ca atimānassa ca mūlaṃ palikhaṇitvā uddharitvā samuddharitvā uppāṭayitvā samuppāṭayitvā pajahitvā vinodetvā byantīkaritvā anabhāvaṃ gametvā tiṭṭheyya santiṭṭheyyā ’ti – mūlampi tesaṃ palikhañña tiṭṭhe.
Athappiyaṃ vā pana appiyaṃ vā addhā bhavanto abhisambhaveyyā ’ti – Athā ’ti padasandhi padasaṃsaggo padapāripūrī akkharasamavāyo byañjanasiliṭṭhatā padānupubbatāmetaṃ ‘athā ’ti. Piyā ’ti – Dve piyā: sattā vā saṅkhārā vā. Katame sattā piyā? Idha yā ’ssa te honti atthakāmā hitakāmā phāsukāmā yogakkhemakāmā mātā vā pitā vā bhātā vā bhaginī vā putto vā dhītā vā mittā vā amaccā vā ñātī vā sālohitā vā; ime sattā piyā. Katame saṅkhārā piyā? Manāpikā rūpā manāpikā saddā – gandhā – rasā – phoṭṭhabbā; ime saṅkhārā piyā. Appiyā ’ti – Dve appiyā: sattā vā saṅkhārā vā. Katame sattā appiyā? Idha yāssa1 te honti anatthakāmā, ahitakāmā aphāsukāmā ayogakkhemakāmā jīvitā voropetukāmā; ime sattā appiyā. Katame saṅkhārā appiyā? Amanāpikā rūpā amanāpikā saddā – gandhā – rasā – phoṭṭhabbā; ime saṅkhārā appiyā. Addhā ’ti ekaṃsavacanaṃ nissaṃsayavacanaṃ nikkaṅkhavacanaṃ advejjhavacanaṃ adveḷhakavacanaṃ niyogavacanaṃ apaṇṇakavacanaṃ avatthāpanavacanametaṃ ‘addhā ’ti. Athappiyaṃ vā pana appiyaṃ vā addhā bhavanto abhisambhaveyyā ’ti piyāppiyaṃ sātāsātaṃ sukhadukkhaṃ somanassadomanassaṃ iṭṭhāniṭṭhaṃ abhisambhavanto vā abhibhaveyya abhibhavanto vā abhisambhaveyyā ’ti – athappiyaṃ vā pana appiyaṃ vā addhā bhavanto abhisambhaveyya.
Tenāha bhagavā:
“Kodhātimānassa vasaṃ na gacche mūlampi tesaṃ palikhañña tiṭṭhe, athappiyaṃ vā pana appiyaṃ vā
addhā bhavanto abisambhaveyyā ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Không nên rơi vào quyền lực của sự giận dữ và ngã mạn thái quá, nên đứng vững sau khi đào lên gốc rễ của chúng. Và trong khi khắc phục vật được yêu mến hoặc không được yêu mến, nên chế ngự chúng một cách chắc chắn.”
16.15
Paññaṃ purakkhatvā kalyāṇapīti vikkhambhaye tāni parissayāni, aratiṃ sahetha sayanamhi pante
caturo sahetha paridevadhamme.
Sau khi chú trọng về tuệ, với sự hoan hỷ về thiện pháp, nên loại trừ các hiểm họa ấy, nên khống chế sự không ưa thích ở chỗ trú ngụ xa vắng, nên khống chế bốn pháp tạo nên sự than vãn.
Thiên trọng về trí tuệ,
Hoan hỷ trong chí thiện,
Hãy chận đứng loại bỏ,
Nguy hiểm ách nạn ấy,
Hãy khắc phục bất lạc,
Ðối trú xứ vắng lặng,
Hãy khắc phục bốn pháp,
Khiến sầu muộn khóc than.
(Kinh Tập, câu kệ 969)
Paññaṃ purakkhatvā kalyāṇapītī ’ti – Paññā ’ti “yā paññā pajānanā vicayo pavicayo dhammavicayo –pe–amoho dhammavicayo sammādiṭṭhi.” Paññaṃ purakkhatvā ’ti idhekacco paññaṃ purato katvā carati paññādhajo paññāketu paññādhipateyyo vicayabahulo pavicayabahulo pekkhāyanabahulo samekkhāyanabahulo vibhūtavihārī taccarito tabbahulo taggaruko tanninno tappoṇo tappabhāro tadadhimutto tadadhipateyyo ’ti – evampi paññaṃ purakkhatvā.
Athavā gacchanto vā gacchāmī ’ti pajānāti; ṭhito vā ‘ṭhitomhī ’ti pajānāti, nisinno vā ‘nisinnomhī ’ti pajānāti, sayāno vā ‘sayānomhī ’ti pajānāti, yathā yathā vā panassa kāyo paṇihito hoti, tathā tathā naṃ pajānātī ’ti; evampi paññaṃ purakkhatvā. Athavā abhikkante paṭikkante sampajānakārī hoti, ālokite vilokite sampajānakārī hoti, sammiñjite pasārite sampajānakārī hoti, saṅghāṭipattacīvaradhāraṇe sampajānakārī hoti, asite pīte khāyite sāyite sampajānakārī hoti, uccārapassāvakamme sampajānakārī hoti, gate ṭhite nisinne sutte jāgarite bhāsite tuṇhībhāve sampajānakārī hotī ’ti; evampi paññaṃ purakkhatvā. Kalyāṇapītī ’ti buddhānussativasena uppajjati pītipāmujjaṃ kalyāṇapīti, dhammānussativasena – saṅghānussativasena – sīlānussativasena – cāgānussativasena – devatānussativasena – ānāpānasativasena – maraṇasati vasena – kāyagatāsativasena – upasamānussativasena uppajjati pītipāmujjaṃ kalyāṇapītī ’ti – paññaṃ purakkhatvā kalyāṇapīti.
Vikkhambhaye tāni parissayānī ’ti – Parissayā ’ti dve parissayā: pākaṭaparissayā ca paṭicchannaparissayā ca –pe– ime vuccanti pākaṭaparissayā –pe– ime vuccanti paṭicchannaparissayā –pe– evampi tatrāsayā ’ti parissayā. Vikkhambhaye tāni parissayānī ’ti tāni parissayāni vikkhambheyya abhibhaveyya ajjhotthareyya pariyādiyeyya maddeyyā ’ti – vikkhambhaye tāni parissayāni.
Aratiṃ sahetha sayanamhi pante ’ti – Aratī ’ti “yā arati aratikā anabhirati anabhiramaṇā ukkaṇṭhitā paritassikā.” Sayanamhi pante ’ti pantesu vā senāsanesu aññataraññataresu dhammesu aratiṃ saheyya abhibhaveyya ajjhotthaheyya pariyādiyeyya maddeyyā ’ti – aratiṃ sahetha sayanamhi pante.
Caturo sahetha paridevadhamme ’ti – Caturo paridevanīye dhamme saheyya parisaheyya abhibhaveyya ajjhotthareyya pariyādiyeyya maddeyyā ’ti – caturo sahetha paridevadhamme.
Tenāha bhagavā: “Paññaṃ purakkhatvā kalyāṇapīti vikkhambhaye tāni parissayāni, aratiṃ sahetha sayanamhi pante caturo sahetha paridevadhamme ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Sau khi chú trọng về tuệ, với sự hoan hỷ về thiện pháp, nên loại trừ các hiểm họa ấy, nên khống chế sự không ưa thích ở chỗ trú ngụ xa vắng, nên khống chế bốn pháp tạo nên sự than vãn.”
16.16
Kiṃsu asissaṃ kuvaṃ vā asissaṃ dukkhaṃ vata settha kuvajja sessaṃ, ete vitakke paridevaneyye vinayetha sekho aniketacārī.‘
Vậy ta sẽ ăn gì? Hoặc ta sẽ ăn ở đâu?
Có thật chăng ta đã ngủ khổ sở? Hôm nay, ta sẽ ngủ ở đâu?’
Vị hữu học, không có sự vương vấn nhà ở, nên loại bỏ
những suy tầm có tính chất than vãn này.
970. Ta sẽ ăn những gì,
Và được ăn tại đâu.
Thật khó khăn ta ngủ,
Nay ta ngủ tại đâu?
Với những tư tưởng ấy,
Vị ấy có thể than,
Bậc hữu học, không nhà,
Hãy nhiếp phục trừ chúng.
(Kinh Tập, câu kệ 970)
Kiṃ su asissaṃ kuvaṃ vā asissan ’ti – Kiṃsu asissan ’ti Kiṃ bhuñjissāmi odanaṃ vā kummāsaṃ vā sattuṃ vā macchaṃ vā maṃsaṃ vā ’ti – kiṃ su asissaṃ. Kuvaṃ vā asissan ’ti kattha bhuñjissāmi khattiyakule vā brāhmaṇakule vā vessakule vā suddakule vā ’ti – kiṃ su asissaṃ kuvaṃ vā asissaṃ.
Vậy ta sẽ ăn gì? Hoặc ta sẽ ăn ở đâu? – Vậy ta sẽ ăn gì? (nghĩ rằng): ‘Tôi sẽ thọ thực vật gì, cơm, hay cháo chua, hay bánh bột, hay cá, hay thịt?’ – ‘Vậy ta sẽ ăn gì?’ là như thế. Hoặc ta sẽ ăn ở đâu? (nghĩ rằng): ‘Tôi sẽ thọ thực ở đâu, ở gia đình Sát-đế-lỵ, hoặc ở gia đình Bà-la-môn, hoặc ở gia đình thương buôn, hoặc ở gia đình nô lệ? – ‘Vậy ta sẽ ăn gì? Hoặc ta sẽ ăn ở đâu?’ là như thế.
Dukkhaṃ vata settha kuvajja sessan ’ti – Imaṃ rattiṃ dukkhaṃ sayittha phalake vā taṭṭikāya vā cammakhaṇḍe vā tiṇasanthāre vā paṇṇasanthāre vā palālasanthāre vā, āgāmirattiṃ kattha sukhaṃ sayissāmi mañce vā pīṭhe vā bhisiyā vā bimbohane vā vihāre vā aḍḍhayoge vā pāsāde vā hammiye vā guhāya vā ’ti – dukkhaṃ vata settha kuvajja sessaṃ.
Có thật chăng ta đã ngủ khổ sở? Hôm nay, ta sẽ ngủ ở đâu? – (nghĩ rằng): Đêm nay, tôi đã ngủ một cách khổ sở trên tấm ván, hoặc ở chiếc chiếu ngắn, hoặc ở mảnh da thú, hoặc ở thảm cỏ, hoặc ở thảm lá, hoặc ở thảm rơm. Đêm tới, tôi sẽ ngủ một cách sung sướng ở giường, hay ở ghế, hay ở nệm, hay ở cái gối, hay ở trú xá, hay ở nhà một mái, hay ở tòa lâu đài, hay ở tòa nhà dài, hay ở hang?’ – ‘Có thật chăng ta đã ngủ khổ sở? Hôm nay, ta sẽ ngủ ở đâu?’ là như thế.
Ete vitakke paridevaneyye ’ti – Ete vitakke ’ti dve piṇḍapātapaṭisaññutte vitakke, dve senāsanapaṭisaññutte vitakke. Paridevaneyye ’ti ādevaneyye paridevaneyye ’ti – ete vitakke paridevaneyye.
Những suy tầm có tính chất than vãn này – Những suy tầm này: Hai suy tầm liên quan đến đồ ăn khất thực, hai suy tầm liên quan đến chỗ nằm ngồi. Có tính chất than vãn: có tính chất kể lể, có tính chất than vãn; – ‘những suy tầm có tính chất than vãn này’ là như vậy.
Vinayetha sekho aniketacārī ’ti – Sekho ’ti Kiṃ kāraṇā vuccati sekho? Sikkhatīti sekho. Kiñca sikkhati? Adhisīlampi sikkhati, adhicittampi sikkhati, adhipaññampi sikkhati. Katamā adhisīlasikkhā? –pe– ayaṃ adhipaññāsikkhā. Imā tisso sikkhāyo āvajjanto sikkhati, jānanto – passanto – paccavekkhanto – cittaṃ adhiṭṭhahanto sikkhati, saddhāya adhimuccanto sikkhati, viriyaṃ paggaṇhanto – satiṃ upaṭṭhapento – cittaṃ samādahanto – paññāya pajānanto sikkhati, abhiññeyyaṃ abhijānanto sikkhati, pariññeyyaṃ parijānanto – pahātabbaṃ pajahanto – bhāvetabbaṃ bhāvento – sacchikātabbaṃ sacchikaronto sikkhati ācarati samācarati samādāya sikkhati. Taṃkāraṇā vuccati sekho. Sekho vinayāya paṭivinayāya pahānāya vūpasamāya paṭinissaggāya paṭippassaddhiyā adhisīlampi sikkheyya, adhicittampi sikkheyya, adhipaññampi sikkheyya. Imā tisso sikkhāyo āvajjanto sikkheyya, jānanto –pe– sacchikātabbaṃ sacchikaronto sikkheyya ācareyya samācareyya samādāya vatteyyā ’ti – vinayetha sekho.
Aniketacārī ’ti – Kathaṃ niketacārī hoti? Idhekacco kulapaḷibodhena samannāgato hoti, gaṇapaḷibodhena – āvāsapaḷibodhena – cīvarapaḷibodhena – piṇḍapātapaḷibodhena – senāsanapaḷibodhena – gilānapaccayabhesajjaparikkhārapaḷibodhena samannāgato hoti. Evaṃ niketacārī hoti. Kathaṃ aniketacārī hoti? Idha bhikkhu na kulapaḷibodhena samannāgato na gaṇapaḷibodhena – na āvāsapaḷibodhena – na cīvarapaḷibodhena – na piṇḍapātapaḷibodhena – na senāsanapaḷibodhena – na gilānapaccayabhesajjaparikkhārapaḷibodhena samannāgato hoti. Evaṃ aniketacārī hoti.
Vị hữu học, không có sự vương vấn nhà ở, nên loại bỏ – Vị hữu học: Vì lý do gì được gọi là hữu học? ‘Vị học tập’ là hữu học. Và học tập gì? Học tập về thắng giới, học tập về thắng tâm, học tập về thắng tuệ. Học tập về thắng giới là việc nào? –nt– việc này là sự học tập về thắng tuệ. Trong khi hướng tâm đến ba sự học tập này, vị ấy học tập; trong khi biết –nt–; trong khi thấy –nt–; trong khi quán xét lại –nt–; trong khi quyết định tâm, vị ấy học tập; trong khi hướng đến đức tin, vị ấy học tập; trong khi ra sức tinh tấn –nt–; trong khi thiết lập niệm –nt–; trong khi tập trung tâm –nt–; trong khi nhận biết bằng tuệ, vị ấy học tập; trong khi biết rõ các pháp cần được biết rõ, vị ấy học tập; trong khi biết toàn diện các pháp cần được biết toàn diện –nt–; trong khi dứt bỏ các pháp cần được dứt bỏ –nt–; trong khi tu tập các pháp cần được tu tập –nt–; trong khi chứng ngộ các pháp cần được chứng ngộ, vị ấy học tập, thực hành, hành theo, tiếp nhận và học tập. Vì lý do ấy, được gọi là hữu học. Vị hữu học nên học tập về thắng giới, nên học tập về thắng tâm, nên học tập về thắng tuệ nhằm loại bỏ, nhằm bài trừ, nhằm dứt bỏ, vì sự vắng lặng, vì sự buông bỏ, vì sự tịch tịnh. Trong khi hướng tâm đến ba sự học tập này, thì nên học tập; trong khi biết, –nt– trong khi chứng ngộ các pháp cần được chứng ngộ, thì nên học tập, nên thực hành, nên hành theo, nên tiếp nhận và duy trì; – ‘vị hữu học nên loại bỏ’ là như thế.
Không có sự vương vấn nhà ở – Thế nào là có sự vương vấn nhà ở? Ở đây, một vị nào đó có sự vướng bận về gia tộc, –nt– vướng bận về đồ chúng, –nt– vướng bận về chỗ ngụ, –nt– vướng bận về y phục, –nt– vướng bận về đồ ăn khất thực, –nt– vướng bận về chỗ nằm ngồi, có sự vướng bận về vật dụng là thuốc men chữa bệnh. Có sự vương vấn nhà ở là như vậy. Thế nào là có sự không vương vấn nhà ở? Ở đây, vị tỳ khưu không có sự vướng bận về gia tộc, –nt– không vướng bận về đồ chúng, –nt– không vướng bận về chỗ ngụ, –nt– không vướng bận về y phục, –nt– không vướng bận về đồ ăn khất thực, –nt– không vướng bận về chỗ nằm ngồi, –nt– có sự không vướng bận về vật dụng là thuốc men chữa bệnh. Có sự không vương vấn nhà ở là như vậy.
1. “Magadhaṃ gatā kosalaṃ gatā ekacciyā pana vajjibhūmiyā, migā viya asaṅgacārino aniketā viharanti bhikkhavo.
1. Các vị đã đi đến Magadha, đã đi đến Kosala, còn một số vị ở lãnh địa xứ Vajjī, tựa như những con nai di chuyển không có sự quyến luyến, các vị tỳ khưu sống không có sự vướng bận.
2. Sādhu caritakaṃ sādhu sucaritaṃ sādhu sadā aniketavihāro, atthapucchanaṃ padakkhiṇakammaṃ etaṃ sāmaññaṃ akiñcanassā ”ti; vinayetha sekho aniketacārī.
2. Lành thay, người có tánh hạnh, lành thay việc đã khéo thực hành, cuộc sống không nhà luôn luôn là tốt đẹp,
việc học hỏi về ý nghĩa, hành động cung kính, điều ấy là đời sống Sa-môn của vị không sở hữu vật gì.
– ‘Vị hữu học, không có sự vương vấn nhà ở, nên loại bỏ’ là như thế.
Tenāha bhagavā: “Kiṃ su asissaṃ kuvaṃ vā asissaṃ dukkhaṃ vata settha kuvajja sessaṃ, ete vitakke paridevaneyye vinayetha sekho aniketacārī ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng: “‘Vậy ta sẽ ăn gì? Hoặc ta sẽ ăn ở đâu? Có thật chăng ta đã ngủ khổ sở? Hôm nay, ta sẽ ngủ ở đâu?’
Vị hữu học, không có sự vương vấn nhà ở, nên loại bỏ những suy tầm có tính chất than vãn này.”
16.17
Annañca laddhā vasanañca kāle mattaṃ sa jaññā idha tosanatthaṃ, so tesu gutto yatacāri gāme
rusitopi vācaṃ pharusaṃ na vajjā.
Sau khi đạt được vật thực và y phục lúc đúng thời, vị ấy nên biết chừng mực ở đây, với mục đích vừa lòng. Vị ấy, được bảo vệ về các điều ấy, có đời sống thu thúc ở trong làng, dầu cho bị xúc phạm, không nên nói lời nói thô lỗ.
Với đồ ăn, vải mặc,
Ðúng thời, thâu hoạch được,
Cần ước lượng vừa đủ,
Với mục đích thỏa mãn,
Chế ngự đối với chúng,
Sống nhiếp phục trong lòng,
Dầu phẫn uất, không nói,
Những lời độc thô ác.
(Kinh Tập, câu kệ 971)
Annañca laddhā vasanañca kāle ’ti – Annan ’ti odano kummāso sattu maccho maṃsaṃ. Vasanan ’ti – Cha cīvarāni: khomaṃ kappāsikaṃ koseyyaṃ kambalaṃ sāṇaṃ bhaṅgaṃ. Annañca laddhā vasanañca kāle ’ti – cīvaraṃ labhitvā piṇḍapātaṃ labhitvā, na kuhanāya na lapanāya na nemittikatāya na nippesikatāya na lābhena lābhaṃ nijigiṃsanatāya na dārudānena na veḷudānena na pattadānena na pupphadānena na phaladānena na sinānadānena na cuṇṇadānena na mattikādānena na dantakaṭṭhadānena na mukhodakadānena na cāṭukamyatāya na muggasuppatāya na pāribhaṭṭatāya na piṭṭhimaṃsikatāya na vatthuvijjāya na tiracchānavijjāya na aṅgavijjāya na nakkhattavijjāya na dūtagamanena na pahiṇagamanena na jaṅghapesaniyena na vejjakammena na piṇḍapatipiṇḍakena na dānānuppadānena dhammena samena laddhā labhitvā adhigantvā vinditvā paṭilabhitvā ’ti – annañca laddhā vasanañca kāle.
Mattaṃ sa jaññā idha tosanatthan ’ti – Mattaṃ sa jaññā ’ti dvīhi kāraṇehi mattaṃ jāneyya; paṭiggahanato vā paribhogato vā. Kathaṃ paṭiggahanato mattaṃ janāti? Thokepi diyyamāne kulānuddayāya kulānurakkhāya kulānukampāya paṭiggaṇhāti. Bahukepi diyyamāne kāyaparihārikaṃ cīvaraṃ paṭigaṇhāti, kucchiparihārikaṃ piṇḍapātaṃ paṭigaṇhāti. Evaṃ paṭiggahanato mattaṃ jānāti.
Trang 706:Trang 707:Kathaṃ paribhogato mattaṃ jānāti? Paṭisaṅkhā yoniso cīvaraṃ paṭisevati: yāvadeva sītassa paṭighātāya uṇhassa paṭighātāya ḍaṃsamakasavātātapasiriṃsapasamphassānaṃ paṭighātāya, yāvadeva hirikopīnapaṭicchādanatthaṃ. Paṭisaṅkhā yoniso piṇḍapātaṃ paṭisevati: neva davāya na madāya na maṇḍanāya na vibhūsanāya, yāvadeva imassa kāyassa ṭhitiyā yāpanāya vihiṃsūparatiyā brahmacariyānuggahāya, iti purāṇañca vedanaṃ paṭihaṅkhāmi, navañca vedanaṃ na uppādessāmi, yātrā ca me bhavissati anavajjatā ca phāsuvihāro ca. Paṭisaṅkhā yoniso senāsanaṃ paṭisevati: yāvadeva sītassa paṭighātāya uṇhassa paṭighātāya ḍaṃsamakasavātātapasiriṃsapasamphassānaṃ paṭighātāya, yāvadeva utuparissayavinodanaṃ paṭisallānārāmatthaṃ. Paṭisaṅkhā yoniso gilānapaccayabhesajjaparikkhāraṃ paṭisevati: yāvadeva uppannānaṃ veyyābādhikānaṃ vedanānaṃ paṭighātāya abyāpajjhaparamatāya. Evaṃ paribhogato mattaṃ jānāti.
Mattaṃ sa jaññā ’ti imehi dvīhi kāraṇehi mattaṃ jāneyya ājāneyya paṭivijāneyya paṭivijjheyyā ’ti – mattaṃ sa jaññā.
Idha tosanatthan ’ti – “Idha bhikkhu santuṭṭho hoti itarītarena cīvarena, itarītaracīvarasantuṭṭhiyā ca vaṇṇavādī, na ca cīvarahetu anesanaṃ appatirūpaṃ āpajjati, aladdhā ca cīvaraṃ na paritassati, laddhā ca cīvaraṃ agathito amucchito anajjhāpanno ādīnavadassāvī nissaraṇapañño paribhuñjati, tāya ca pana itarītaracīvarasantuṭṭhiyā nevattānukkaṃseti, no paraṃ vambheti. Yo hi tattha dakkho analaso sampajāno patissato, ayaṃ vuccati bhikkhu porāṇe aggaññe ariyavaṃse ṭhito.
Puna ca paraṃ bhikkhu santuṭṭho hoti itarītarena piṇḍapātena, itarītarapiṇḍapātasantuṭṭhiyā ca vaṇṇavādī, na ca piṇḍapātahetu anesanaṃ appatirūpaṃ āpajjati, aladdhā ca piṇḍapātaṃ na paritassati, laddhā ca piṇḍapātaṃ agathito amucchito anajjhāpanno ādīnavadassāvī nissaraṇapañño paribhuñjati; tāya ca pana itarītarapiṇḍapātasantuṭṭhiyā nevattānukkaṃseti, no paraṃ vambheti. Yo hi tattha dakkho analaso sampajāno patissato,4 ayaṃ vuccati bhikkhu porāṇe aggaññe ariyavaṃse ṭhito.
Puna ca paraṃ bhikkhu santuṭṭho hoti itarītarena senāsanena, itarītarasenāsanasantuṭṭhiyā ca vaṇṇavādī, na ca senāsanahetu anesanaṃ appatirūpaṃ āpajjati, aladdhā ca senāsanaṃ na paritassati, laddhā ca senāsanaṃ agathito amucchito anajjhāpanno ādīnavadassāvī nissaraṇapañño paribhuñjati. Tāya ca pana itarītarasenāsanasantuṭṭhiyā nevattānukkaṃseti, no paraṃ vambheti. Yo hi tattha dakkho analaso sampajāno patissato, ayaṃ vuccati bhikkhu porāṇe aggaññe ariyavaṃse ṭhito.
Puna ca paraṃ bhikkhu santuṭṭho hoti itarītarena gilānapaccayabhesajja-parikkhārena itarītaragilānapaccayabhesajjaparikkhārasantuṭṭhiyā ca vaṇṇavādī, na ca gilānapaccayabhesajjaparikkhārahetu anesanaṃ appatirūpaṃ āpajjati, aladdhā ca gilānapaccayabhesajjaparikkhāraṃ na paritassati, laddhā ca gilānapaccayabhesajjaparikkhāraṃ agathito amucchito anajjhāpanno ādīnavadassāvī nissaraṇapañño paribhuñjati. Tāya ca pana itarītaragilānapaccayabhesajjaparikkhārasantuṭṭhiyā nevattānukkaṃseti, no paraṃ vambheti. Yo hi tattha dakkho analaso sampajāno patissato,1 ayaṃ vuccati bhikkhu porāṇe aggaññe ariyavaṃse ṭhito ’ti – mattaṃ sa jaññā idha tosanatthaṃ.
So tesu gutto yatacāri gāme ’ti – So tesu gutto ’ti cīvare piṇḍapāte senāsane gilānapaccayabhesajjaparikkhāre gutto gopito rakkhito saṃvuto ’ti, evampi so tesu gutto. Athavā āyatanesu gutto gopito rakkhito saṃvuto ’ti, evampi so tesu gutto. Yatacāri gāme ’ti – Gāme yato yatatto paṭiyatatto gutto gopito rakkhito saṃvuto ’ti – so tesu gutto yatacāri gāme.
Rusitopi vācaṃ pharusaṃ na vajjā ’ti – rusito khuṃsito vambhito ghaṭṭito garahito upavadito pharusena kakkhaḷena nappaṭivajjā, nappaṭibhaṇeyya, akkosantaṃ na paccakkoseyya, rosantaṃ nappaṭiroseyya, bhaṇḍantaṃ nappaṭibhaṇḍeyya, na kalahaṃ kareyya, na bhaṇḍanaṃ kareyya, na viggahaṃ kareyya, na vivādaṃ kareyya, na medhagaṃ kareyya, kalahaṃ bhaṇḍanaṃ viggahaṃ vivādaṃ medhagaṃ pajaheyya vinodeyya byantīkareyya anabhāvaṃ gameyya. Kalahabhaṇḍanaviggahavivādamedhagā ārato assa virato paṭivirato nikkhanto nissaṭo vippamutto visaññutto vimariyādīkatena cetasā vihareyyā ’ti – rusitopi vācaṃ pharusaṃ na vajjā.
Tenāha bhagavā: “Annañca laddhā vasanañca kāle mattaṃ sa jaññā idha tosanatthaṃ, so tesu gutto yatacāri gāme rusitopi vācaṃ pharusaṃ na vajjā ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Sau khi đạt được vật thực và y phục lúc đúng thời, vị ấy nên biết chừng mực ở đây, với mục đích vừa lòng. Vị ấy, được bảo vệ về các điều ấy, có đời sống thu thúc ở trong làng, dầu cho bị xúc phạm, không nên nói lời nói thô lỗ.”
16.18
Okkhittacakkhu na ca pādalolo jhānānuyutto bahujāgar’ assa upekkhamārabbha samāhitatto takkāsayaṃ kukkuccañcupacchinde.
Có mắt nhìn xuống và không buông thả bàn chân (đi đó đây), nên gắn bó với việc tham thiền, nên có nhiều tỉnh thức, sau khi nỗ lực về hành xả, có bản thân định tĩnh, nên cắt đứt chỗ trú của sự suy nghĩ và (nên cắt đứt) sự hối hận.
Với mắt cúi nhìn xuống,
Chân không đi lang thang,
Chú tâm vào thiền định,
Với rất nhiều tỉnh giác,
Cố gắng tu tập xả,
Tự ngã khéo định tĩnh,
Hãy cắt đứt trừ khử,
Các nghi ngờ hối tiếc.
(Kinh Tập, câu kệ 972)
Okkhittacakkhu na ca pādalolo ’ti – Kathaṃ khittacakkhu hoti? Idhekacco bhikkhu cakkhulolo cakkhuloliyena samannāgato hoti: ‘Adiṭṭhaṃ dakkhitabbaṃ diṭṭhaṃ samatikkamitabban ’ti ārāmena ārāmaṃ uyyānena uyyānaṃ gāmena gāmaṃ nigamena nigamaṃ nagarena nagaraṃ raṭṭhena raṭṭhaṃ janapadena janapadaṃ dīghacārikaṃ anivattacārikaṃ anuyutto hoti rūpadassanāya. Evampi khittacakkhu hoti.
Có mắt nhìn xuống và không buông thả bàn chân (đi đó đây) – Thế nào là có mắt buông lung? Ở đây, một vị tỳ khưu nào đó buông thả con mắt, có trạng thái buông thả ở mắt (nghĩ rằng): ‘Nên thấy điều chưa thấy, nên bỏ qua điều đã thấy,’ rồi từ tu viện này đến tu viện khác, từ vườn hoa này đến vườn hoa khác, từ ngôi làng này đến ngôi làng khác, từ thị trấn này đến thị trấn khác, từ thành phố này đến thành phố khác, từ lãnh thổ này đến lãnh thổ khác, từ xứ sở này đến xứ sở khác, đeo đuổi cuộc du hành lâu dài, cuộc du hành không quay lại để nhìn ngắm cảnh sắc; có mắt buông lung là như vậy.
Athavā bhikkhu antaragharaṃ paviṭṭho vīthiṃ paṭipanno asaṃvuto gacchati: hatthiṃ olokento assaṃ olokento rathaṃ olokento pattiṃ olokento itthiyo olokento purise olokento kumārake olokento kumārikāyo olokento antarāpaṇaṃ olokento gharamukhāni olokento uddhaṃ olokento adho olokento disāvidisaṃ pekkhamāno gacchati. Evampi khittacakkhu hoti.
Athavā bhikkhu cakkhunā rūpaṃ disvā nimittaggāhī hoti anubyañjanaggāhī. Yatvādhikaraṇamenaṃ cakkhundriyaṃ asaṃvutaṃ viharantaṃ abhijjhādomanassā pāpakā akusalā dhammā anvāssaveyyuṃ, tassa saṃvarāya na paṭipajjati, na rakkhati cakkhundriyaṃ, cakkhundriye na saṃvaraṃ āpajjati. Evampi khittacakkhu hoti.
Yathā vā paneke bhonto samaṇabrāhmaṇā saddhādeyyāni bhojanāni bhuñjitvā te evarūpaṃ visūkadassanaṃ anuyuttā viharanti. Seyyathīdaṃ: naccaṃ gītaṃ vāditaṃ pekkhaṃ akkhānaṃ pāṇissaraṃ vetāḷaṃ kumbhathūnaṃ sobhanagarakaṃ caṇḍālaṃ vaṃsaṃ dhovanaṃ hatthiyuddhaṃ assayuddhaṃ mahisayuddhaṃ usabhayuddhaṃ goyuddhaṃ ajayuddhaṃ meṇḍayuddhaṃ kukkuṭayuddhaṃ vaṭṭakayuddhaṃ daṇḍayuddhaṃ muṭṭhiyuddhaṃ nibbuddhaṃ uyyodhikaṃ balaggaṃ senābyūhaṃ aṇīkadassanaṃ iti vā. Evampi khittacakkhu hoti.
Kathaṃ na khittacakkhu hoti? Idhekacco bhikkhu na cakkhulolo na cakkhuloliyena samannāgato hoti: ‘Adiṭṭhaṃ dakkhitabbaṃ diṭṭhaṃ samatikkamitabban ’ti na ārāmena ārāmaṃ na uyyānena uyyānaṃ na gāmena gāmaṃ na nigamena nigamaṃ na nagarena nagaraṃ na raṭṭhena raṭṭhaṃ na janapadena janapadaṃ dīghacārikaṃ anivattacārikaṃ anuyutto hoti rūpadassanāya. Evampi na khittacakkhu hoti.
Athavā bhikkhu antaragharaṃ paviṭṭho vīthiṃ paṭipanno saṃvuto gacchati: na hatthiṃ olokento –pe– na disāvidisaṃ pekkhamāno gacchati. Evampi na khittacakkhu hoti.
Athavā bhikkhu cakkhunā rūpaṃ disvā na nimittaggāhī hoti –pe–cakkhundriye saṃvaraṃ āpajjati. Evampi na khittacakkhu hoti.
Yathā vā paneke bhonto samaṇabrāhmaṇā saddhādeyyāni bhojanāni bhuñjitvā –pe– aṇīkadassanaṃ iti vā. Evarūpā visūkadassanānuyogā paṭivirato hoti. Evampi na khittacakkhu hotī ’ti – okkhittacakkhu.
’ti – Kathaṃ pādalolo hoti? Idhekacco bhikkhu pādalolo pādaloliyena samannāgato hoti, ārāmena ārāmaṃ –pe– dīghacārikaṃ anivattacārikaṃ anuyutto hoti rūpadassanāya. Evampi pādalolo hoti. Athavā bhikkhu antopi saṅghārāme pādalolo pādaloliyena samannāgato hoti: na atthahetu na kāraṇahetu uddhato avūpasantacitto pariveṇato pariveṇaṃ gacchati, vihārato ―pe― iti bhavābhavakathaṃ iti vā evampi pādalolo hoti.
Và không buông thả bàn chân – Thế nào là buông thả bàn chân? Ở đây, một vị tỳ khưu nào đó buông thả bàn chân, có trạng thái buông thả ở bàn chân, rồi từ tu viện này đến tu viện khác, –nt– đeo đuổi cuộc du hành lâu dài, cuộc du hành không quay lại để nhìn ngắm cảnh sắc; buông thả bàn chân là như vậy. Hoặc là, vị tỳ khưu buông thả bàn chân, có trạng thái buông thả ở bàn chân, thậm chí ở bên trong tu viện của hội chúng: không phải vì sự lợi ích là nguyên nhân, không phải vì công việc là nguyên nhân, bị phóng túng, có tâm không được vắng lặng, rồi đi từ gian phòng này đến gian phòng khác, từ trú xá này –nt– nói về hữu và phi hữu là như vầy hay là như vầy; buông thả bàn chân còn là như vậy.
Na ca pādalolo ’ti pādaloliyaṃ pajaheyya vinodeyya byantīkareyya anabhāvaṃ gameyya. Pādaloliyā ārato assa virato paṭivirato nikkhanto nissaṭo vippamutto visaññutto vimariyādīkatena cetasā vihareyya. Paṭisallānārāmo assa paṭisallānarato ajjhattaṃ cetosamathamanuyutto anirākatajjhāno vipassanāya samannāgato brūhetā suññāgārānaṃ, jhāyī jhānarato ekattamanuyutto sadatthagaruko ’ti – okkhittacakkhu na ca pādalolo.
Jhānānuyutto bahujāgarassā ’ti – Jhānānuyutto ’ti dvīhi kāraṇehi jhānānuyutto: anuppannassa vā paṭhamassa jhānassa uppādāya yutto payutto āyutto samāyutto; anuppannassa vā dutiyassa jhānassa – tatiyassa jhānassa – catutthassa jhānassa uppādāya yutto payutto āyutto samāyutto ’ti, evampi jhānānuyutto. Athavā uppannaṃ vā paṭhamaṃ jhānaṃ āsevati bhāveti bahulīkaroti; uppannaṃ vā dutiyaṃ jhānaṃ – tatiyaṃ jhānaṃ – catutthaṃ jhānaṃ āsevati bhāveti bahulīkarotī ’ti evampi jhānānuyutto.
Bahujāgarassā ’ti – Idha bhikkhu divasaṃ caṅkamena nisajjāya āvaraṇīyehi dhammehi cittaṃ parisodheti, rattiyā paṭhamaṃ yāmaṃ caṅkamena nisajjāya āvaraṇīyehi dhammehi cittaṃ parisodheti, rattiyā majjhimaṃ yāmaṃ dakkhiṇena passena sīhaseyyaṃ kappeti pāde pādaṃ accādhāya sato sampajāno uṭṭhānasaññaṃ manasikaritvā, rattiyā pacchimaṃ yāmaṃ paccuṭṭhāya caṅkamena nisajjāya āvaraṇīyehi dhammehi cittaṃ parisodhetī ’ti – jhānānuyutto bahujāgarassa.
Upekkhamārabbha samāhitatto ’ti – Upekkhā ’ti yā catutthe jhāne upekkhā upekkhanā ajjhupekkhanā cittasamatā cittapassaddhatā majjhattatā cittassa.
Samāhitatto ’ti yā cittassa ṭhiti saṇṭhiti avaṭṭhiti avisāhāro avikkhepo avisāhaṭamānasatā samatho samādhindriyaṃ samādhibalaṃ sammāsamādhi. Upekkhamārabbha samāhitatto ’ti catutthe jhāne upekkhaṃ ārabbha ekaggacitto avikkhittacitto avisāhaṭamānaso ’ti – upekkhamārabbha samāhitatto.
Takkāsayaṃ kukkuccañcupacchinde ’ti – Takkā ’ti: Nava vitakkā: kāmavitakko byāpādavitakko vihiṃsāvitakko ñātivitakko janapadavitakko amaravitakko parānuddayatāpaṭisaññutto vitakko lābhasakkārasilokapaṭisaññutto vitakko anavaññattipaṭisaññutto vitakko. Ime vuccanti nava vitakkā. Kāmavitakkānaṃ kāmasaññāsayo, byāpādavitakkānaṃ byāpādasaññāsayo, vihiṃsāvitakkānaṃ vihiṃsāsaññāsayo; athavā takkānaṃ vitakkānaṃ saṅkappānaṃ avijjāsayo, ayoniso manasikāro āsayo, asmimāno āsayo, anottappaṃ āsayo, uddhaccaṃ āsayo.
Kukkuccan ’ti hatthakukkuccampi kukkuccaṃ pādakukkuccampi kukkuccaṃ, hatthapādakukkuccampi kukkuccaṃ, akappiye kappiyasaññitā kappiye akappiyasaññitā avajje vajjasaññitā vajje avajjasaññitā, yaṃ evarūpaṃ kukkuccaṃ kukkuccāyanā kukkuccāyitattaṃ cetaso vippaṭisāro manovilekho, idaṃ vuccati kukkuccaṃ.
Api ca dvīhi kāraṇehi uppajjati kukkuccaṃ cetaso vippaṭisāro manovilekho: katattā ca akatattā ca. Kathaṃ katattā ca akatattā ca uppajjati kukkuccaṃ cetaso vippaṭisāro manovilekho? ‘Kataṃ me kāyaduccaritaṃ akataṃ me kāyasucaritan ’ti uppajjati kukkuccaṃ cetaso vippaṭisāro manovilekho. ‘Kataṃ me vacīduccaritaṃ – kataṃ me mano duccaritaṃ – kato me pāṇātipāto, akatā me pāṇātipātā veramaṇī ’ti uppajjati kukkuccaṃ cetaso vippaṭisāro manovilekho. ‘Kataṃ me adinnādānaṃ – kato me kāmesu micchācāro – kato me musāvādo – katā me pisunā vācā – katā me pharusā vācā – kato me samphappalāpo – katā me abhijjhā – kato me byāpādo – katā me micchādiṭṭhi, akatā me sammādiṭṭhī ’ti uppajjati kukkuccaṃ cetaso vippaṭisāro manovilekho. Evaṃ katattā ca akatattā ca uppajjati kukkuccaṃ cetaso vippaṭisāro manovilekho.
Athavā ‘sīlesumhi na paripūrakārī ’ti uppajjati kukkuccaṃ cetaso vippaṭisāro manovilekho. ‘Indriyesumhi aguttadvāro ’ti – Bhojane amattaññūmhī ’ti – Jāgariyaṃ ananuyuttomhī ’ti – Na satisampajaññena samannāgatomhī ’ti – Abhāvitā me cattāro satipaṭṭhānā ’ti – Abhāvitā me cattāro sammappadhānā ’ti – Abhāvitā me cattāro iddhipādā ’ti – Abhāvitāni me pañcindriyānī ’ti – Abhāvitāni me pañca balānī ’ti – Abhāvitā me satta bojjhaṅgā ’ti – Abhāvitā me ariyo aṭṭhaṅgiko maggo ’ti – Dukkhaṃ me apariññātanti – Dukkhasamudayo me appahīno ’ti – Maggo me abhāvito ’ti – Nirodho me asacchikato ’ti uppajjati kukkuccaṃ cetaso vippaṭisāro manovilekho.
Takkāsayaṃ kukkuccañcupacchinde ’ti takkaṃ ca takkāsayañca kukkuccañcupacchindeyya chindeyya ucchindeyya samucchindeyya pajaheyya vinodeyya byantīkareyya anabhāvaṃ gameyyā ’ti – takkāsayaṃ kukkuccañcupacchinde.
Hoặc là, (nghĩ rằng): ‘Ta là người không thực hành đầy đủ các giới,’ sự hối hận, sự ăn năn của tâm, sự bối rối của ý sanh lên; ‘Ta là người có các giác quan không được gìn giữ,’ – ‘Ta là người không biết chừng mực về vật thực,’ – ‘Ta không rèn luyện về tỉnh thức,’ – ‘Ta không đầy đủ niệm và sự nhận biết rõ,’ – ‘Ta không tu tập bốn sự thiết lập niệm,’ – ‘Ta không tu tập bốn chánh tinh tấn,’ – ‘Ta không tu tập bốn nền tảng của thần thông,’ – ‘Ta không tu tập năm quyền,’ – ‘Ta không tu tập năm lực,’ – ‘Ta không tu tập bảy yếu tố đưa đến giác ngộ,’ – ‘Ta không tu tập đạo lộ thánh thiện tám chi phần,’ – ‘Ta không biết toàn diện về Khổ,’ – ‘Ta chưa dứt bỏ Tập,’ – ‘Ta không tu tập Đạo,’ – ‘Ta chưa chứng ngộ Diệt,’ sự hối hận, sự ăn năn của tâm, sự bối rối của ý sanh lên. Nên cắt đứt chỗ trú của sự suy nghĩ và (nên cắt đứt) sự hối hận: Nên cắt, nên cắt rời, nên cắt lìa, nên dứt bỏ, nên xua đi, nên làm chấm dứt, nên làm cho không còn hiện hữu sự suy nghĩ, chỗ trú của sự suy nghĩ, và sự hối hận; – ‘nên cắt đứt chỗ trú của sự suy nghĩ và (nên cắt đứt) sự hối hận’ là như thế.
Tenāha bhagavā: “Okkhittacakkhu na ca pādalolo jhānānuyutto bahujāgarassa, upekkhamārabbha samāhitatto takkāsayaṃ kukkuccañcupacchinde ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Có mắt nhìn xuống và không buông thả bàn chân (đi đó đây), nên gắn bó với việc tham thiền, nên có nhiều tỉnh thức, sau khi nỗ lực về hành xả, có bản thân định tĩnh,nên cắt đứt chỗ trú của sự suy nghĩ và (nên cắt đứt) sự hối hận.”
16.19
Cudito vacībhi satimābhinande sabrahmacārīsu khilaṃ pabhinde, vācaṃ pamuñce kusalaṃ nātivelaṃ janavādadhammāya na cetayeyya.
Bị quở trách bởi những lời nói, vị (tỳ khưu) có niệm nên hoan hỷ. Nên phá vỡ sự cứng cỏi đối với các vị đồng phạm hạnh. Nên thốt lên lời nói tốt lành, (lời nói) không vượt quá giới hạn. Không nên suy nghĩ về chuyện phiếm luận của những người (khác).
Bị buộc, tội bằng lời,
Chánh niệm, tâm hoan hỉ,
Phá hoại sự cứng rắn,
Giữa các đồng Phạm hạnh,
Nói lên những lời nói,
Hiền thiện và đúng thời,
Không để tâm suy tư,
Các chủ thuyết người khác.
(Kinh Tập, câu kệ 973)
Cudito vacībhi satimābhinande ’ti – Cudito ’ti upajjhāyā vā ācariyā vā samānupajjhāyakā vā samānācariyakā vā mittā vā sandiṭṭhā vā sambhattā vā sahāyā vā codenti: “Idaṃ te āvuso ayuttaṃ, idaṃ te appattaṃ, idaṃ te asāruppaṃ, idaṃ te asīlaṭṭhan ”ti; satiṃ upaṭṭhāpetvā taṃ codanaṃ nandeyya abhinandeyya modeyya anumodeyya iccheyya sādiyeyya patthayeyya pihayeyya abhijappeyya. Yathā itthī vā puriso vā daharo yuvā maṇḍanakajātiko sīsaṃ nahāto uppalamālaṃ vā vassikamālaṃ vā adhimuttikamālaṃ vā labhitvā ubhohi hatthehi paṭiggahetvā uttamaṅge sirasmiṃ patiṭṭhāpetvā nandeyya abhinandeyya modeyya anumodeyya iccheyya sādiyeyya patthayeyya5 pihayeyya abhijappeyya, evamevaṃ satiṃ upaṭṭhāpetvā4 taṃ codanaṃ nandeyya abhinandeyya modeyya anumodeyya iccheyya sādiyeyya patthayeyya5 pihayeyya abhijappeyya.
1. “Nidhīnaṃva pavattāraṃ yaṃ passe vajjadassinaṃ, niggayha vādiṃ medhāviṃ tādisaṃ paṇḍitaṃ bhaje. tādisaṃ bhajamānassa seyyo hoti na pāpiyo ”ti.
2. “Ovadeyyanusāseyya asabbhā ca nivāraye, satañhi so piyo hoti asataṃ hoti appiyo ”ti.
– cudito vacībhi satimābhinande.
Sabrahmacārīsu khilaṃ pabhinde ’ti – Sabrahmacārī ’ti ekakammā ekuddesā samasikkhakā. Sabrahmacārīsu khilaṃ pabhinde ’ti sabrahmacārīsu āhatacittataṃ khilajātataṃ pabhindeyya; pañcapi cetokhile pabhindeyya; tayopi cetokhile pabhindeyya; rāgakhilaṃ dosakhilaṃ mohakhilaṃ bhindeyya pabhindeyya sambhindeyyā ’ti – sabrahmacārīsu khilaṃ pabhinde.
Vācaṃ pamuñce kusalaṃ nātivelan ’ti – ñāṇasamuṭṭhitaṃ vācaṃ muñceyya. Atthūpasaṃhitaṃ dhammūpasaṃhitaṃ kālena sāpadesaṃ pariyantavatiṃ vācaṃ muñceyya pamuñceyyā ’ti – vācaṃ pamuñce kusalaṃ. Nātivelan ’ti – Velā ’ti dve velā: kālavelā ca sīlavelā ca. Katamā kālavelā? Kālātikkantaṃ vācaṃ na bhāseyya, velātikkantaṃ vācaṃ na bhāseyya, kālavelātikkantaṃ vācaṃ na bhāseyya, kālaṃ asampattaṃ vācaṃ na bhāseyya, velaṃ asampattaṃ vācaṃ na bhāseyya, kālavelaṃ asampattaṃ vācaṃ na bhāseyya.
3. “Yo ve kāle asampatte ativelaṃ pabhāsati, evaṃ so nihato seti kokilāyeva atrajo ”ti.
Ayaṃ kālavelā. Katamā sīlavelā? Ratto vācaṃ na bhāseyya, duṭṭho vācaṃ na bhāseyya, mūḷho vācaṃ na bhāseyya, musāvādaṃ na bhāseyya, pisunaṃ vācaṃ na bhāseyya, pharusaṃ vācaṃ na bhāseyya, samphappalāpaṃ na bhāseyya na katheyya na bhaṇeyya na dīpayeyya na vohareyya. Ayaṃ sīlavelā ’ti – vācaṃ pamuñce kusalaṃ nātivelaṃ.
Janavādadhammāya na cetayeyyā ’ti – Janā ’ti khattiyā ca brāhmaṇā ca vessā ca suddā ca gahaṭṭhā ca pabbajitā ca devā ca manussā ca. Janassa vādāya upavādāya nindāya garahāya akittiyā avaṇṇahārikāya sīlavipattiyā vā ācāravipattiyā diṭṭhivipattiyā vā ājīvavipattiyā vā na cetayeyya cetanaṃ na uppādeyya cittaṃ na uppādeyya saṅkappaṃ na uppādeyya manasikāraṃ na uppādeyyā ’ti – janavādadhammāya na cetayeyya.
Tenāha bhagavā: “Cudito vacībhi satimābhinande sabrahmacārīsu khilaṃ pabhinde, vācaṃ pamuñce kusalaṃ nātivelaṃ janavādadhammāya na cetayeyyā ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Bị quở trách bởi những lời nói, vị (tỳ khưu) có niệm nên hoan hỷ. Nên phá vỡ sự cứng cỏi đối với các vị đồng phạm hạnh. Nên thốt lên lời nói tốt lành, (lời nói) không vượt quá giới hạn. Không nên suy nghĩ về chuyện phiếm luận của những người (khác).”
16.20
Athāparaṃ pañca rajāni loke yesaṃ satimā vinayāya sikkhe, rūpesu saddesu atho rasesu gandhesu phassesu sahetha rāgaṃ.
Và hơn thế nữa, có năm loại bụi bặm ở thế gian; đối với chúng, vị có niệm nên học tập để loại bỏ. Nên khống chế sự luyến ái ở các sắc, ở các thinh, rồi ở các vị, ở các hương, ở các xúc.Lại nữa, năm loại vua,
Hiện có ở trên đời,
Hãy học nhiếp phục chúng.
Luôn luôn giữ chánh niệm.
Ðối với sắc và tiếng,
Ðối với vị và hương,
Cùng đối các cảm xúc,
Hãy chế ngự tham ái.
(Kinh Tập, câu kệ 974)
Athāparaṃ pañca rajānī loke ’ti – Athā ’ti padasandhi padasaṃsaggo padapāripūri akkharasamavāyo byañjanasiliṭṭhatā padānupubbatāmetaṃ athāti. Pañca rajānī ’ti rūparajo saddarajo gandharajo rasarajo phoṭṭhabbarajo.
Và hơn thế nữa, có năm loại bụi bặm ở thế gian – Và: Từ ‘và’ này là sự nối liền các câu văn, sự kết hợp các câu văn, sự làm đầy đủ các câu văn, sự gặp gỡ của các âm, trạng thái trau chuốt từ ngữ, tính chất tuần tự của các câu văn. Có năm loại bụi bặm: (luyến ái ở) sắc là bụi bặm, (luyến ái ở) thinh là bụi bặm, (luyến ái ở) hương là bụi bặm, (luyến ái ở) vị là bụi bặm, (luyến ái ở) xúc là bụi bặm.
1. Rāgo rajo na ca pana reṇu vuccati rāgassetaṃ adhivacanaṃ rajoti, etaṃ rajaṃ vippajahitva paṇḍitā
viharanti te vigatarajassa sāsane.
1. Luyến ái là bụi bặm, nhưng không phải nói đến bụi đất, từ ‘bụi bặm’ này là tên gọi của luyến ái. Các vị sáng suốt, sau khi dứt bỏ hẳn bụi bặm này, các vị ấy sống trong Giáo Pháp của Bậc đã xa lìa bụi bặm.
2. Doso rajo na ca pana reṇu vuccati dosassetaṃ adhivacanaṃ rajoti, etaṃ rajaṃ vippajahitva paṇḍitā
viharanti te vigatarajassa sāsane.
2. Sân hận là bụi bặm, nhưng không phải nói đến bụi đất,
từ ‘bụi bặm’ này là tên gọi của sân hận.
Các vị sáng suốt, sau khi dứt bỏ hẳn bụi bặm này,
các vị ấy sống trong Giáo Pháp của Bậc đã xa lìa bụi bặm.
3. Moho rajo na ca pana reṇu vuccati
mohassetaṃ adhivacanaṃ rajoti,
etaṃ rajaṃ vippajahitva paṇḍitā
viharanti te vigatarajassa sāsane ”ti.
3. Si mê là bụi bặm, nhưng không phải nói đến bụi đất,
từ ‘bụi bặm’ này là tên gọi của si mê.
Các vị sáng suốt, sau khi dứt bỏ hẳn bụi bặm này,
các vị ấy sống trong Giáo Pháp của Bậc đã xa lìa bụi bặm.
Loke ’ti apāyaloke manussaloke devaloke khandhaloke dhātuloke āyatanaloke ’ti – athāparaṃ pañca rajāni loke.Ở thế gian: ở thế gian của khổ cảnh, ở thế gian của loài người, ở thế gian của chư Thiên, ở thế gian của các uẩn, ở thế gian của các giới, ở thế gian của các xứ; – ‘và hơn thế nữa, có năm loại bụi bặm ở thế gian’ là như thế.
Yesaṃ satimā vinayāya sikkhe ’ti – Yesan ’ti rūparāgassa saddarāgassa gandharāgassa rasarāgassa phoṭṭhabbarāgassa. Satimā ’ti “yā sati anussati paṭissati sati saraṇatā dhāraṇatā apilāpanatā asammussanatā sati satindriyaṃ satibalaṃ sammāsati satisambojjhaṅgo ekāyanamaggo; ayaṃ vuccati sati.” Imāya satiyā upeto samupeto upagato samupagato upapanno sampanno samannāgato, so vuccati satimā. Sikkhe ’ti tisso sikkhā: adhisīlasikkhā adhicittasikkhā adhipaññāsikkhā. Katamā adhisīlasikkhā –pe– ayaṃ adhipaññāsikkhā. Yesaṃ satimā vinayāya sikkhe ’ti satimā puggalo yesaṃ rūparāgassa saddarāgassa gandharāgassa rasarāgassa phoṭṭhabbarāgassa vinayāya paṭivinayāya pahānāya vūpasamāya paṭinissaggāya paṭippassaddhiyā adhisīlampi sikkheyya, adhicittampi sikkheyya, adhipaññampi sikkheyya. Imā tisso sikkhāyo āvajjanto sikkheyya, jānanto sikkheyya, –pe– sacchikātabbaṃ sacchikaronto sikkheyya ācareyya samācareyya samādāya vatteyyā ’ti – yesaṃ satimā vinayāya sikkhe.
Đối với chúng, vị có niệm nên học tập để loại bỏ – Đối với chúng: là đối với sự luyến ái ở sắc, đối với sự luyến ái ở thinh, đối với sự luyến ái ở hương, đối với sự luyến ái ở vị, đối với sự luyến ái ở xúc. Vị có niệm: Niệm là tùy niệm, niệm hiện tiền; niệm là sự nương tựa, sự ghi nhận, sự thâm nhập, sự không lơ là; niệm là niệm quyền, niệm lực, chánh niệm, niệm giác chi, con đường độc đạo; điều này được gọi là niệm. Người đã tiến đến, đã tiến gần, đã tiến vào, đã tiến sát, đã tiếp cận, đã tròn đủ, đã thành tựu niệm này, người ấy được gọi là có niệm. Nên học tập: Có ba sự học tập: học tập về thắng giới, học tập về thắng tâm, học tập về thắng tuệ. Việc nào là sự học tập về thắng giới? –nt– Việc này là sự học tập về thắng tuệ. Đối với chúng, vị có niệm nên học tập để loại bỏ: Người có niệm nên học tập về thắng giới, nên học tập về thắng tâm, nên học tập về thắng tuệ nhằm loại bỏ, nhằm bài trừ, nhằm dứt bỏ, nhằm vắng lặng, nhằm buông bỏ, nhằm tịch tịnh đối với chúng: đối với sự luyến ái ở sắc, đối với sự luyến ái ở thinh, đối với sự luyến ái ở hương, đối với sự luyến ái ở vị, đối với sự luyến ái ở xúc. Trong khi hướng tâm đến ba sự học tập này, thì nên học tập; trong khi biết, thì nên học tập; –nt– trong khi chứng ngộ các pháp cần được chứng ngộ, thì nên học tập, nên thực hành, nên hành theo, nên tiếp nhận và duy trì; – ‘đối với chúng, vị có niệm nên học tập để loại bỏ’ là như thế.
Rūpesu saddesu atho rasesu gandhesu phassesu sahetha rāgan ’ti rūpesu saddesu gandhesu rasesu phoṭṭhabbesu rāgaṃ saheyya parisaheyya abhibhaveyya ajjhotthareyya pariyādiyeyya maddeyyā ’ti – rūpesu saddesu atho rasesu gandhesu phassesu sahetha rāgaṃ.
Nên khống chế sự luyến ái ở các sắc, ở các thinh, rồi ở các vị, ở các hương, ở các xúc: Nên khống chế, nên áp chế, nên chế ngự, nên đè bẹp, nên trấn áp, nên chà đạp sự luyến ái ở các sắc, ở các thinh, ở các vị, ở các hương, ở các xúc; – ‘nên khống chế sự luyến ái ở các sắc, ở các thinh, rồi ở các vị, ở các hương, ở các xúc’ là như thế.Tenāha bhagavā:
“Athāparaṃ pañca rajāni loke
yesaṃ satimā vinayāya sikkhe,
rūpesu saddesu atho rasesu
gandhesu phassesu sahetha rāgan ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Và hơn thế nữa, có năm loại bụi bặm ở thế gian; đối với chúng, vị có niệm nên học tập để loại bỏ. Nên khống chế sự luyến ái ở các sắc, ở các thinh, rồi ở các vị, ở các hương, ở các xúc.”
16.21
Etesu dhammesu vineyya chandaṃ bhikkhu satimā suvimuttacitto, kālena so sammā dhammaṃ parivīmaṃsamāno ekodibhūto vihane tamaṃ so (iti bhagavā).
Vị tỳ khưu có niệm, có tâm khéo được giải thoát, nên loại bỏ sự mong muốn ở các pháp ấy. Vị ấy, đúng thời điểm, trong khi suy xét toàn diện một cách đúng đắn về Giáo Pháp, có trạng thái chuyên nhất (của tâm), vị ấy có thể diệt trừ sự tăm tối (Đức Thế Tôn nói như thế).
Hãy chế ngự ước muốn,
Ðối với những pháp ấy,
Vị Tỷ kheo chánh niệm,
Tâm tư khéo giải thoát,
Rồi đúng thời vị ấy,
Chơn chánh suy tư pháp,
Với chuyên tâm nhất trí,
Hãy đoạn tận hắc ám.
Thế Tôn nói như vậy.
(Kinh Tập, câu kệ 975)
Etesu dhammesu vineyya chandan ’ti – Etesū ’ti rūpesu saddesu gandhesu rasesu phoṭṭhabbesu. Chando ’ti “yo kāmesu kāmacchando kāmarāgo kāmanandi kāmataṇhā kāmasineho kāmapariḷāho kāmamucchā kāmajjhosānaṃ kāmogho kāmayogo kāmupādānaṃ –pe– kāmacchandanīvaraṇaṃ.” Etesu dhammesu vineyya chandan ’ti etesu dhammesu chandaṃ vineyya paṭivineyya pajaheyya vinodeyya byantīkareyya anabhāvaṃ gameyyā ’ti – etesu dhammesu vineyya chandaṃ.
Bhikkhu satimā suvimuttacitto ’ti – Bhikkhū ’ti puthujjanakalyāṇako vā bhikkhu sekho vā bhikkhu. Satimā ’ti “yā sati anussati –pe– sammāsati satisambojjhaṅgo ekāyanamaggo; ayaṃ vuccati sati. Imāya satiyā upeto –pe– so vuccati satimā. Bhikkhu satimā suvimuttacitto ’ti paṭhamaṃ jhānaṃ samāpannassa nīvaraṇehi cittaṃ muttaṃ vimuttaṃ suvimuttaṃ. Dutiyaṃ jhānaṃ samāpannassa vitakkavicārehi cittaṃ muttaṃ vimuttaṃ suvimuttaṃ. Tatiyaṃ jhānaṃ samāpannassa pītiyā ca cittaṃ muttaṃ vimuttaṃ suvimuttaṃ. Catutthaṃ jhānaṃ samāpannassa sukhadukkhehi cittaṃ muttaṃ vimuttaṃ suvimuttaṃ. Ākāsānañcāyatanaṃ samāpannassa rūpasaññāya paṭighasaññāya nānattasaññāya cittaṃ muttaṃ vimuttaṃ suvimuttaṃ. Viññāṇañcāyatanaṃ samāpannassa ākāsānañcāyatanasaññāya cittaṃ –pe– Ākiñcaññāyatanaṃ samāpannassa viññāṇañcāyatanasaññāya cittaṃ ―pe― Nevasaññānāsaññāyatanaṃ samāpannassa ākiñcaññāyatanasaññāya cittaṃ muttaṃ vimuttaṃ suvimuttaṃ. Sotāpannassa sakkāyadiṭṭhiyā vicikicchāya sīlabbataparāmāsā diṭṭhānusayā vicikicchānusayā tadekaṭṭhehi ca kilesehi cittaṃ muttaṃ vimuttaṃ suvimuttaṃ. Sakadāgāmissa oḷārikā kāmarāgānusayā paṭighānusayā tadekaṭṭhehi ca kilesehi cittaṃ muttaṃ vimuttaṃ suvimuttaṃ. Anāgāmissa aṇusahagatā kāmarāgasaññojanā paṭighasaññojanā aṇusahagatā kāmarāgānusayā paṭighānusayā tadekaṭṭhehi ca kilesehi cittaṃ muttaṃ vimuttaṃ suvimuttaṃ. Arahato rūparāgā arūparāgā mānā uddhaccā avijjāya mānānusayā bhavarāgānusayā avijjānusayā tadekaṭṭhehi ca kilesehi bahiddhā ca sabbanimittehi cittaṃ muttaṃ vimuttaṃ suvimuttan ’ti – bhikkhu satimā suvimuttacitto.
Kālena so sammā dhammaṃ parivīmaṃsamāno ’ti – Kālenā ’ti uddhate citte samādhissa kālo, samāhite citte vipassanāya kālo.
1. Kāle paggaṇhati cittaṃ niggaṇhāti punāpare, sampahaṃsati kālena kāle cittaṃ samādahe, ajjhupekkhati kālena so yogi kālakovido.
2. Kimhi kālamhi paggāho kimhi kāle viniggaho, kimhi pahaṃsanākālo samathakālo ca kīdiso, upekkhākālaṃ cittassa kathaṃ dasseti yogino?
3. Līne cittamhi paggāho uddhatasmiṃ hi niggaho, nirassādagataṃ cittaṃ sampahaṃseyya tāvade.
4. Sampahaṭṭhaṃ yadā cittaṃ alīnaṃ bhavatanuddhataṃ, samathanimittassa so kālo ajjhattaṃ ramaye mano.
5. Etena mevupāyena yadā hoti samāhitaṃ, samāhitaṃ cittamaññāya ajjhupekkheyya tāvade.
6. Evaṃ kālavidū dhīro kālaññū kālakovido, kālena kālaṃ cittassa nimittamupalakkhaye ”ti.
Kālena so sammā dhammaṃ parivīmaṃsamāno ’ti – ‘Sabbe saṅkhārā aniccā ’ti sammā dhammaṃ parivīmaṃsamāno. ‘Sabbe saṅkhārā dukkhā ’ti sammā dhammaṃ parivīmaṃsamāno. ‘Sabbe dhammā anattā ’ti sammā dhammaṃ parivīmaṃsamāno ―pe― ‘Yaṃ kiñci samudayadhammaṃ sabbaṃ taṃ nirodhadhamman ’ti sammā dhammaṃ parivīmaṃsamāno ’ti – kālena so sammā dhammaṃ parivīmaṃsamāno.
Ekodibhūto vihane tamaṃ soti bhagavā ’ti – Ekodī ’ti ekaggacitto avikkhittacitto avisāhaṭamānaso samatho samādhindriyaṃ samādhibalaṃ sammāsamādhī ’ti ekodibhūto. Vihane tamaṃ so ’ti rāgatamaṃ dosatamaṃ mohatamaṃ diṭṭhitamaṃ mānatamaṃ kilesatamaṃ duccaritatamaṃ andhakaraṇaṃ acakkhukaraṇaṃ aññāṇakaraṇaṃ paññānirodhikaṃ vighātapakkhikaṃ anibbānasaṃvattanikaṃ haneyya vihaneyya pajaheyya vinodeyya byantīkareyya anabhāvaṃ gameyya.
Bhagavā ’ti gāravādhivacanaṃ. Api ca bhaggarāgoti bhagavā, bhaggadosoti bhagavā, bhaggamohoti bhagavā, bhaggamānoti bhagavā, bhaggadiṭṭhīti bhagavā, bhaggakaṇṭakoti bhagavā, bhaggakilesoti bhagavā, bhaji vibhaji pavibhaji dhammaratananti bhagavā. Bhavānaṃ antakaroti bhagavā. Bhāvitakāyoti bhagavā, bhāvitasīlo bhāvitacitto bhāvitapaññoti bhagavā. Bhaji vā bhagavā araññe vanapatthāni pantāni senāsanāni appasaddāni appanigghosāni vijanavātāni manussarāhaseyyakāni paṭisallānasāruppānīti bhagavā. Bhāgī vā bhagavā cīvarapiṇḍapātasenāsanagilānapaccayabhesajjaparikkhārānanti bhagavā. Bhāgī va bhagavā attharasassa dhammarasassa vimuttirasassa adhisīlassa adhicittassa adhipaññāyāti bhagavā. Bhāgī vā bhagavā catunnaṃ jhānānaṃ catunnaṃ appamaññānaṃ catunnaṃ arūpasamāpattīnanti bhagavā. Bhāgī vā bhagavā aṭṭhannaṃ vimokkhānaṃ aṭṭhannaṃ abhibhāyatanānaṃ navannaṃ anupubbavihārasamāpattīnanti bhagavā. Bhāgī vā bhagavā dasannaṃ saññābhāvanānaṃ dasannaṃ kasiṇasamāpattīnaṃ ānāpānasatisamādhissa asubhasamāpattiyāti bhagavā. Bhāgī vā bhagavā catunnaṃ satipaṭṭhānānaṃ catunnaṃ sammappadhānānaṃ catunnaṃ iddhipādānaṃ pañcannaṃ indriyānaṃ pañcannaṃ balānaṃ sattannaṃ bojjhaṅgānaṃ ariyassa aṭṭhaṅgikassa maggassāti bhagavā. Bhāgī vā bhagavā dasannaṃ tathāgatabalānaṃ catunnaṃ vesārajjānaṃ catunnaṃ paṭisambhidānaṃ channaṃ abhiññānaṃ channaṃ buddhadhammānanti bhagavā. –
‘Bhagavā ’ti netaṃ nāmaṃ mātarā kataṃ, na pitarā kataṃ, na bhātarā kataṃ, na bhaginiyā kataṃ, na mittāmaccehi kataṃ, na ñātisālohitehi kataṃ, na samaṇabrāhmaṇehi kataṃ, na devatāhi kataṃ. Vimokkhantikametaṃ buddhānaṃ bhagavantānaṃ bodhiyā mūle saha sabbaññutañāṇassa paṭilābhā sacchikā paññatti yadidaṃ bhagavā ’ti – ekodibhūto vihane tamaṃ soti bhagavā.
Tenāha bhagavā: “Etesu dhammesu vineyya chandaṃ bhikkhu satimā suvimuttacitto, kālena so sammā dhammaṃ parivīmaṃsamāno ekodibhūto vihane tamaṃ so (ti bhagavā “ti).
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Vị tỳ khưu có niệm, có tâm khéo được giải thoát, nên loại bỏ sự mong muốn ở các pháp ấy. Vị ấy, đúng thời điểm, trong khi suy xét toàn diện một cách đúng đắn về Giáo Pháp, có trạng thái chuyên nhất (của tâm), vị ấy có thể diệt trừ sự tăm tối.”
Soḷasamo sāriputtasuttaniddeso samatto.Diễn Giải Kinh Sāriputta – Phần thứ Mười Sáu Được Đầy Đủ.MAHĀNIDDESAPĀḶI NIṬṬHITĀ.
DỨT ĐẠI DIỄN GIẢI.