Kinh Thánh Nhân Ký Sự đọc online – Tập III
Thuộc Kinh Tiểu Bộ (Khuddaka Nikàya) | Tạng Kinh (SUTTANTAPITAKA)
Dịch Việt: Tỳ khưu Indacanda
Nguồn: https://www.tamtangpaliviet.net/ & https://theravada.vn/
Kinh Thánh Nhân Ký Sự gồm 3 tập:
MỤC LỤC
LỜI GIỚI THIỆU
I. SUMEDHĀVAGGO – PHẨM SUMEDHĀ:
- Sumedhāpadānaṃ – Ký Sự về Sumedhā
- Mekhalādāyikāpadānaṃ – Ký Sự về Mekhalādāyikā
- Maṇḍapadāyikāpadānaṃ – Ký Sự về Maṇḍapadāyikā
- Saṅkamanatthāpadānaṃ – Ký Sự về Saṇkamanatthā
- Naḷamālikāpadānaṃ – Ký Sự về Naḷamālikā
- Ekapiṇḍapātadāyikāpadānaṃ – Ký Sự về Ekapiṇḍapātadāyikā
- Kaṭacchubhikkhādāyikāpadānaṃ – Ký Sự về Kaṭacchubhikkhādāyikā
- Sattuppalamālikāpadānaṃ – Ký Sự về Sattuppalamālikā
- Pañcadīpikāpadānaṃ – Ký Sự về Pañcadīpikā
- Udakadāyikāpadānaṃ – Ký Sự về Udakadāyikā
Tassuddānaṃ – Tóm Lược của Phẩm Này
II. EKUPOSATHIKAVAGGO – PHẨM MỘT LẦN TRAI GIỚI:
- Ekuposathikāpadānaṃ – Ký Sự về Ekuposathikā
- Salalapupphikāpadānaṃ – Ký Sự về Salalapupphikā
- Modakadāyikāpadānaṃ – Ký Sự về Modakadāyikā
- Ekāsanadāyikāpadānaṃ – Ký Sự về Ekāsanadāyikā
- Pañcadīpadāyikāpadānaṃ – Ký Sự về Pañcadīpadāyikā
- Sālamālikāpadānaṃ – Ký Sự về Sālamālikā
- Mahāpāpatigotamī-apadānaṃ – Ký sự về Mahāpajāpatigotamī
- Khemāpadānaṃ – Ký Sự về Khemā
- Uppalavaṇṇāpadānaṃ – Ký Sự về Uppalavaṇṇā
- Paṭācārāpadānaṃ – Ký Sự về Paṭācārā
Tassuddānaṃ – Tóm Lược của Phẩm Này
III. KUṆḌALAKESIVAGGO – PHẨM KUṆḌALAKESĪ:
- Kuṇḍalakesāpadānaṃ – Ký Sự về Kuṇḍalakesā
- Kisāgotamī apādānaṃ – Ký Sự về Kisāgotamī
- Dhammadinnāpadānaṃ – Ký Sự về Dhammadinnā
- Sakulāpadānaṃ – Ký Sự về Sakulā
- Nandājanapadakalyāṇī apadānaṃ – Ký Sự về Nandā – Mỹ Nhân của Xứ Sở
- Soṇāpadānaṃ – Ký Sự về Soṇā
- Bhaddākāpilāni-apadānaṃ – Ký Sự về Bhaddākāpilānī
- Yasodharāpadānaṃ – Ký Sự về Yasodharā
- Dasabhikkhunīsahassāpadānaṃ – ý Sự về 10.000 vị Tỳ Khưu Ni
- Aṭṭhārasabhikkhunīsahassāpadānaṃ – Ký Sự về 18.000 vị Tỳ Khưu Ni
Tassuddānaṃ – Tóm Lược của Phẩm Này
IV. KHATTIYĀVAGGO – PHẨM CÁC NI DÒNG SÁT-ĐẾ-LỴ:
- Yasavatīpamukhabhikkhunīnaṃ apadānaṃ – Ký Sự về các vị Tỳ Khưu Ni đứng đầu là Yasavatī
- Brahmaṇakaññābhikkhunīnaṃ apadānaṃ – Ký Sự về các vị Tỳ Khưu Ni Thiếu Nữ Bà-la-môn
- Uppaladāyikāpadānaṃ – Ký Sự về Uppaladāyikā
- Sigālamātāpadānaṃ – Ký Sự về Sigālamātā
- Sukkāpadānaṃ – Ký Sự về Sukkā
- Rūpanandāpadānaṃ – Ký Sự về Rūpanandā
- Aḍḍhakāsī-apadānaṃ – Ký Sự về Aḍḍhakāsī
- Puṇṇāpadānaṃ – Ký Sự về Puṇṇā
- Ambapālī-apadānaṃ – Ký Sự về Ambapālī
- Pesalāpadānaṃ – Ký Sự về Pesalā
Tassuddānaṃ – Tóm Lược của Phẩm Này
Atha vagguddānaṃ – Tóm Lược của Các Phẩm
LỜI GIỚI THIỆU
Apadānapāḷi là tựa đề của tập Kinh thứ mười ba thuộc Tiểu Bộ. Chúng tôi đề nghị tựa đề tiếng Việt là Thánh Nhân Ký Sự. Sự chọn lựa tựa đề của chúng tôi được căn cứ vào lời giảng của Ngài Chú Giải Sư Dhammapāla ở Cariyāpiṭaka-Aṭṭhakathā (Chú Giải Hạnh Tạng) rằng: “Buddhāpadāniyaṃ là đề tài được thuyết giảng, là đề tài được trình bày có liên quan đến công hạnh khó làm thuộc thời xa xưa nghĩa là việc làm quá khứ của chư Phật” (335). Về ý nghĩa của từ apadāna, có nhiều tài liệu nghiên cứu tiếng Anh thảo luận về ý nghĩa của từ này và từ tương đương của Sanskrit là avadāna, nhưng vẫn chưa có được câu trả lời xác định và hợp lý về phương diện ngôn ngữ học. Từ điển A Dictionary of Pali, Part I của Margaret Cone do nhà xuất bản Pali Text Society phát hành năm 2001 ghi nghĩa rằng: “— 2. a person’s “reaping”, (the result of) one’s action,” và “—3.the story of a person’s actions and their result;” tuy nhiên, các ý nghĩa này cũng chỉ là những kết luận được rút ra từ các ngữ cảnh có liên quan ở các văn bản Pāli.
Apadānapāḷi gồm có bốn phần:
– Buddhāpadāna (liên quan đến Phật Toàn Giác)
– Paccekabuddhāpadāna (liên quan đến Phật Độc Giác)
– Therāpadāna (559 câu chuyện về các vị trưởng lão)
– và Therī-apadāna (40 câu chuyện về các vị trưởng lão ni).
Tập Kinh được trình bày ở đây là phần thứ tư, Therī-apadāna, chúng tôi đề nghị tựa đề tiếng Việt là Trưởng Lão Ni Ký Sự. Chú giải của tập Kinh Apadānapāḷi có tên là Visuddhajanavilāsinī chỉ đề cập đến ba phần đầu, còn phần chú giải liên quan đến các vị tỳ khưu ni lại không được đề cập đến, có thể đã không được thực hiện.
Về nội dung, Therī-apadāna – Trưởng Lão Ni Ký Sự được trình bày thành bốn phẩm (vagga), mỗi phẩm gồm có 10 ký sự, tổng cộng là 40 câu chuyện được kể lại bởi các vị tỳ khưu ni đã sống, tu tập, và thành Đạo dưới sự hướng dẫn của đức Phật Gotama, tức là đức Phật Thích Ca đang được chúng ta thờ phụng hiện nay. Các câu chuyện này có chủ đề liên quan đến những hành động cúng dường thù thắng của các vị tỳ khưu ni này ở trong quá khứ. Những thiện nghiệp này đã đem lại phước báu cho các vị ấy trong nhiều kiếp, cuối cùng vào kiếp chót các vị này đã xuất gia trở thành tỳ khưu ni, được chứng quả vị A-la-hán, thành tựu tam minh, đắc chứng bốn tuệ phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí. Một số nghiệp bất thiện cũng đã được đề cập đến và nghiệp quả xấu phải gánh chịu do những hành động ấy đem lại cũng không phải là nhỏ. Các chi tiết được trình bày ở mỗi ký sự đã được đích thân các vị tỳ khưu ni đích thân thuật lại, dài ngắn cũng không chừng đổi, đôi lúc có xen lẫn một vài dòng kệ chú thích của người sưu tập. Tên của một số vị trưởng lão ni đã được ghi nhận theo hành động, ví dụ vị ni Mekhalādāyikā có tên gọi theo hành động cúng dường sợi dây thắt lưng (mekhala), Maṇḍapadāyikā do việc cúng dường mái che (maṇḍapa), v.v… Tên của nhiều vị trưởng lão ni được thấy ở Therīgāthā – Trưởng Lão Ni Kệ, nhưng không phải là tất cả. Ngược lại tên của một số vị trưởng lão ni có ở Therīgāthā nhưng không được tìm thấy ở Apadāna. So sánh giữa hai văn bản, một vài vị ni có tên gọi không giống nhau nhưng chi tiết trình bày lại tương đồng. Nói chung, có một số tư liệu xét ra là mới lạ đối với hàng học Phật người Việt được chứa đựng trong tập Kinh này.
Về hình thức, Therī-apadāna – Trưởng Lão Ni Ký Sự được viết theo thể kệ thơ (gāthā), mỗi câu kệ gồm có bốn pāda được trình bày thành hai dòng. Đa số các câu kệ của tập Kinh này làm theo thể thông thường gồm có tám âm cho mỗi pāda. Chúng tôi chủ trương ghi lại lời dịch Việt theo lối văn xuôi hầu ý nghĩa chuyển dịch được phần trọn vẹn. Đôi chỗ hai câu kệ được dịch chung thành một đoạn dựa theo tính chất hoàn chỉnh về văn phạm hoặc về ý nghĩa của chúng. Cũng cần nói thêm về văn bản Pāḷi được trình bày ở đây đã được phiên âm lại từ văn bản Pāḷi – Sinhala, ấn bản Buddha Jayanti Tripitaka Series của nước quốc giáo Sri Lanka.
Về phương diện dịch thuật và trình bày văn bản tiếng Việt, có một số điều cần lưu ý như sau: Mặc dầu toàn bộ văn bản là các lời tự thuật, tuy nhiên chúng tôi chỉ trình bày ở dạng chữ nghiêng cho những đoạn có tính chất đối thoại trực tiếp hoặc những điều ước nguyện, suy nghĩ. Về từ xưng hô của hàng đệ tử đối với đức Phật, chúng tôi sử dụng từ “con” ở ngôi thứ nhất cho những trường hợp trực tiếp, và “tôi” cho những trường hợp xét rằng người nghe là các đối tượng khác. Về sự xưng hô của đức Phật với người đối diện, chúng tôi thay đổi theo suy nghĩ chủ quan, lúc thì “bà” dùng cho Mahāpajāpati Gotamī, “em” dùng cho Nandā người em gái cùng cha khác mẹ, “nàng, các nàng” dùng cho Yasodharā, Kisāgotamī, Rūpanandā, và những vị ni trước đây là hầu thiếp ở trong cung, “ngươi, các ngươi” dùng cho các vị tỳ khưu, và ít dùng từ “con, các con” ở ngôi thứ hai cho các trường hợp này; điểm này xét ra cần có thêm sự đầu tư suy nghĩ. Về văn phong của lời dịch, chúng tôi chủ trương ghi lại lời tiếng Việt sát theo văn bản gốc và cố gắng không bỏ sót từ nào không dịch. Lời văn tiếng Việt của chúng tôi có chứa đựng những mấu chốt giúp cho những ai có ý thích nghiên cứu Pāḷi thấy ra được cấu trúc của loại ngôn ngữ này. Việc làm này của chúng tôi không hẳn đã được hoàn hảo, dẫu sao cũng là bước khởi đầu nhằm thúc đẩy phong trào nghiên cứu cổ ngữ Phật Học của người Việt Nam. Tuy nhiên, một số sai sót trong quá trình phiên dịch đương nhiên không thể tránh khỏi, chúng tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về trình độ yếu kém.
Nhân đây, chúng tôi cũng xin chân thành ghi nhận sự quan tâm chăm sóc trực tiếp hoặc gián tiếp đối với công tác phiên dịch của chúng tôi về phương diện vật thực bồi dưỡng và thuốc men chữa bệnh của các vị hữu ân sau: Sư Cô Trí Anh – chùa Linh Sơn (Pháp), Bhikkhunī Sukhettā Nichanaporn Ketjan (Thái), Cô Phạm Thu Hương và Cô Hoàng Thị Thịnh (Hồng Kông), Cô Upekkhā (Úc Đại Lợi), Phật tử Daw Pat Gray (Myanmar). Công việc soạn thảo này được thông suốt, không bị gián đoạn, chính là nhờ có sự hỗ trợ cấp thời và quý báu của quý vị. Thành tâm cầu chúc quý vị luôn giữ vững niềm tin và thành tựu được nhiều kết quả trong công việc tu tập giải thoát và hộ trì Tam Bảo.
Một điều thiếu sót lớn nếu không đề cập đến sự nhiệt tình giúp đỡ chúng tôi của sinh viên Karunaratna trong việc tham khảo bản dịch tiếng bản xứ. Cũng không quên không nhắc đến những sự ủng hộ, khích lệ, và công đức góp ý về phần tiếng Việt các vị: Đại Đức Dhammapāla (Trần Văn Tha), Đại Đức Chánh Kiến, Đại Đức Đức Hiền, Đại Đức Ni Nguyên Hương đã sắp xếp thời gian đọc qua bản thảo và đã giúp cho chúng tôi tránh được một số điểm vụng về trong việc sử dụng từ ngữ tiếng Việt. Nhân đây, cũng xin ghi nhận sự cúng dường Từ Điển Tiếng Việt của Đại Đức Tâm Pháp, nhờ thế đã giúp cho chúng tôi rất nhiều trong việc xác định từ ngữ được thêm phần chính xác. Chúng tôi cũng xin thành tâm tùy hỷ và tán dương công đức của các thí chủ đã nhiệt tâm đóng góp tài chánh giúp cho Công Trình Ấn Tống Tam Tạng Song Ngữ Pāḷi – Việt được tồn tại và phát triến, mong sao phước báu Pháp thí này luôn dẫn dắt quý vị vào con đường tu tập đúng theo Chánh Pháp, thành tựu Chánh Trí, chứng ngộ Niết Bàn, không còn luân hồi sanh tử nữa.
Cuối cùng, ngưỡng mong phước báu phát sanh trong công việc soạn thảo tập Kinh này được thành tựu đến thầy tổ, song thân, và tất cả chúng sanh trong tam giới. Nguyện cho hết thảy đều được an vui, sức khỏe, có trí tuệ, và tinh tấn tu tập ngõ hầu thành đạt cứu cánh giải thoát, chấm dứt khổ đau.
Kính bút,
Ngày 31 tháng 12 năm 2007
Tỳ Khưu Indacanda (Trương đình Dũng)
CÁC CHỮ VIẾT TẮT:
ApA. : Apadāna Aṭṭhakathā – Chú Giải Apadāna (PTS.)
ND : Chú thích của Người Dịch
PTS.: Nhà Xuất Bản Pali Text Society (Anh Quốc)
TTPV. : Tam Tạng Pāḷi – Việt
I. PHẨM SUMEDHĀ
1. Ký Sự về Sumedhā
1. Vào thời đức Thế Tôn Koṇāgamana, chúng tôi gồm ba người bạn gái[1] thân thiết đã dâng cúng trú xá ở tại chỗ cư ngụ mới là tu viện của hội chúng.
2. Chúng tôi đã tái sanh mười lần, trăm lần, ngàn lần, mười ngàn lần ở các cõi trời thì ở cõi người có điều gì để nói.
3. Chúng tôi đã có đại thần lực ở cõi trời thì ở cõi người có điều gì để nói. Tôi đã là hoàng hậu, là báu vật nữ nhân trong số bảy loại báu vật.
4. Ở nơi này, do phước thiện đã được tích lũy, Dhanañjānī, Khemā, và tôi nữa, ba người đã là hậu duệ của các gia tộc vô cùng giàu có.
5. Sau khi tạo lập tu viện được xây dựng khéo léo và được trang hoàng về mọi phương diện, chúng tôi đã dâng đến hội chúng có đức Phật đứng đầu và (chúng tôi) đã được hoan hỷ.
6. Do mãnh lực của nghiệp ấy, ở bất cứ nơi nào tôi sanh ra, ở các cõi trời và cũng y như thế ở giữa loài người, tôi đều đạt được phẩm vị cao quý.
7. Ngay trong kiếp này, trong số các vị đang thuyết giảng đã hiện khởi đấng cao quý tên Kassapa, thuộc dòng dõi, có danh tiếng vĩ đại, là thân quyến của đấng Phạm Thiên.
8. Khi ấy, đức vua của xứ Kāsī tên Kikī ở tại kinh thành Bārāṇasī, vị chúa tể của nhân loại đã là người hộ độ cho bậc Đại Ẩn Sĩ.
9. Bảy người con gái của đức vua đã là những nàng công chúa khéo được nuôi dưỡng. Được vui thích trong việc hộ độ đức Phật, các nàng đã thực hành Phạm hạnh (của người thiếu nữ).
10. Là bạn của những cô (công chúa) ấy, tôi đã khéo chuyên chú vào các giới, đã dâng cúng các vật thí một cách cung kính, và đã thực hành phận sự dầu chỉ là người tại gia.
11. Do nghiệp ấy đã được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ thân nhân loại tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.
12. Từ nơi ấy chết đi, tôi đã đi đến cõi trời Dạ Ma, từ đó đã đi đến cõi trời Đẩu Suất, và từ đó đến cõi Hóa Lạc Thiên, rồi từ đó đến cõi Tha Hóa Tự Tại.
13. Là người đã được thành tựu thiện nghiệp, ở bất cứ nơi nào tôi sanh ra tôi đều đã được thiết lập vào ngôi chánh hậu của các vị vua ở chính tại các nơi ấy.
14. Từ nơi ấy chết đi (sanh) vào thân nhân loại, tôi đã được thiết lập vào ngôi chánh hậu của các đấng Chuyển Luân Vương và của các vị vua cai quản các lãnh thổ.
15. Tôi đã thọ hưởng sự thành đạt ở giữa chư Thiên và ở giữa loài người, đã được an vui ở tất cả các nơi, và đã luân hồi qua nhiều kiếp sống.
16. Nhân ấy, nguồn sanh khởi ấy, căn nguyên ấy, sự chăm chỉ ấy trong Giáo Pháp, sự liên kết đầu tiên ấy, việc Niết Bàn ấy là do sự thỏa thích trong Giáo Pháp.
17. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu[2] đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
18. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
19. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Tỳ khưu ni Sumedhā đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão ni Sumedhā là phần thứ nhất.
–ooOoo–
2. Ký Sự về Mekhalādāyikā[3]
20. Tôi đã là người cho thực hiện ngôi bảo tháp của đức Thế Tôn Siddhattha. Tôi đã dâng cúng sợi dây thắt lưng đến công trình xây dựng dành cho bậc Đạo Sư.
21. Và khi ngôi đại bảo tháp đã hoàn tất, được tịnh tín tôi đã tự tay mình dâng cúng thêm sợi dây thắt lưng đến bậc Hiền Trí, đấng Bảo Hộ Thế Gian.
22. Kể từ khi tôi đã dâng cúng sợi dây thắt lưng trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc xây dựng ngôi bảo tháp.
23. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
24. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
25. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Tỳ khưu ni Mekhalādāyikā đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão ni Mekhalādāyikā là phần thứ nhì.
–ooOoo–
3. Ký Sự về Maṇḍapadāyikā[4]
26. Mái che dành cho đấng Hiền Trí Koṇāgamana đã được tôi cho thực hiện. Và tôi đã thường xuyên dâng cúng y đến đức Phật, bậc quyến thuộc của thế gian.
27. Bất cứ xứ sở, phố chợ, kinh thành nào tôi đi đến, ở tại tất cả các nơi ấy tôi đều được tôn vinh; điều này là quả báu của nghiệp phước thiện.
28. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
29. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
30. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Tỳ khưu ni Maṇḍapadāyikā đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão ni Maṇḍapadāyikā là phần thứ ba.
–ooOoo–
4. Ký Sự về Saṅkamanatthā[5]
31. Trong lúc đức Thế Tôn Vipassī, bậc Trưởng Thượng của thế gian như thế ấy đang bước đi trên đường, đang tiếp độ chúng sanh.
32. Tôi đã bước ra khỏi nhà, cúi mình, và nằm dài xuống. Bậc Thương Tưởng, đấng Bảo Hộ Thế Gian đã bước lên đỉnh đầu của tôi.
33. Sau khi bước lên đầu (của tôi), đấng Lãnh Đạo Thế Gian đã ra đi. Do sự tịnh tín ấy ở trong tâm, tôi đã sanh lên cõi trời Đẩu Suất.
34. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
35. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
36. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được tôi đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Tỳ khưu ni Saṅkamanatthā đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão ni Saṅkamanatthā là phần thứ tư.
–ooOoo–
5. Ký Sự về Naḷamālikā[6]
37. Khi ấy, tôi đã là loài kim-sỉ-điểu[7] cái ở bờ sông Candabhāgā. Tôi đã nhìn thấy đức Phật, bậc Vô Nhiễm, đấng Tự Chủ, bậc không bị đánh bại.
38. Với tâm tịnh tín, với ý vui mừng, tràn đầy niềm phấn khởi, tôi đã chắp tay lên. Tôi đã cầm lấy tràng hoa sậy và đã cúng dường đến đấng Tự Chủ.
39. Do nghiệp ấy đã được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ thân xác kim-sỉ-điểu, tôi đã đi đến cõi Tam Thập.
40. Tôi đã được thiết lập vào ngôi chánh hậu của ba mươi sáu vị Thiên Vương. Tôi đã được thiết lập vào ngôi chánh hậu của mười đấng Chuyển Luân Vương. Sau khi đã khiến cho tâm của tôi bị chấn động, tôi đã xuất gia vào đời sống không gia đình.
41. (Kể từ khi) tôi đã cúng dường bông hoa trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường bông hoa.
42. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch, tất cả các lậu hoặc đã được cạn kiệt, giờ đây không còn tái sanh nữa.
43. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
44. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
45. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được tôi đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Tỳ khưu ni Naḷamālikā đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão ni Naḷamālikā là phần thứ năm.
–ooOoo–
6. Ký Sự về Ekapiṇḍapātadāyikā[8]
46. Ở thành phố Bandhumatī, có vị Sát-đế-lỵ tên là Bandhumā. Tôi đã là người vợ của vị vua ấy. Có một lần tôi đã khiến (người) đưa tôi đi (du ngoạn).
47. Khi ấy, tôi đã đi đến nơi thanh vắng và ngồi xuống, tôi đã suy nghĩ như vầy: “Dầu đã đạt được vị thế xứng đáng, nhưng không điều lành nào đã được ta thực hiện!
48. Có lẽ ta sẽ đi đến địa ngục là nơi vô cùng nóng bức, khổ sở, có dáng vẻ rùng rợn, vô cùng khiếp đảm; điều này đối với ta là không có sự hoài nghi (nữa).”
49. Tôi đã đi đến gặp đức vua và đã nói lời nói này: “Tâu vị Sát-đế-lỵ, xin hãy ban cho thiếp một vị sa-môn. Thiếp sẽ chăm lo về vật thực.”
50. Vị đại vương đã ban cho tôi (một) vị sa-môn có (các) giác quan đã được tu tập. Sau khi nhận lấy bình bát của vị ấy, tôi đã đặt đầy (bình bát) với vật thực thượng hạng.
51. Sau khi đã đặt đầy (bình bát) với vật thực thượng hạng, tôi đã thoa dầu thơm. rồi đã che đậy lại bằng xấp vải đôi có giá trị đến một ngàn.
52. Đối với tôi, tôi (sẽ) ghi nhớ cảnh tượng này đến hết cuộc đời. Sau khi làm cho tâm được tịnh tín vào điều ấy, tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.
53. Tôi đã được thiết lập vào ngôi chánh hậu của ba mươi vị Thiên Vương. Điều ước nguyện trong tâm của tôi là được tái sanh theo như ước muốn.
54. Tôi đã được thiết lập vào ngôi chánh hậu của hai mươi đấng Chuyển Luân Vương. Sau khi thành tựu kết quả, tôi luân hồi ở nhiều cõi.
55. Tôi đã được giải thoát khỏi tất cả các điều trói buộc. Đối với tôi, các sự liên quan đến tái sanh đã xa lìa, tất cả các lậu hoặc đã được cạn kiệt, giờ đây không còn tái sanh nữa.
56. Kể từ khi tôi đã dâng cúng vật thí trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của món vật thực.
57. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
58. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
59. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được tôi đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Tỳ khưu ni Ekapiṇḍapātadāyikā đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão ni Ekapiṇḍapātadāyikā là phần thứ sáu.
–ooOoo–
7. Ký Sự về Kaṭacchubhikkhādāyikā[9]
60. Trong khi bậc Đạo Sư tên Tissa đang đi khất thực, tôi đã nâng lên muỗng vật thực và đã dâng cúng đến đức Phật tối thượng.
61. Sau khi thọ lãnh, đấng Toàn Giác Tissa bậc Đạo Sư vị Lãnh Đạo cao cả của thế gian, đứng ở đường lộ, đã thực hiện lời tùy hỷ (phước báu) đến tôi:
62. “Sau khi bố thí muỗng vật thực, con sẽ đi đến cõi trời Đạo Lợi. Con sẽ làm chánh hậu của ba mươi sáu vị Thiên Vương.
63. Con sẽ làm chánh hậu của năm mươi đấng Chuyển Luân Vương. Con sẽ luôn luôn thành tựu tất cả các điều ước nguyện ở trong tâm.
64. Sau khi thọ hưởng sự thành đạt, con sẽ xuất gia không có (tài sản) gì. Sau khi biết toàn diện về tất cả các lậu hoặc, con sẽ Niết Bàn không còn lậu hoặc.”
65. Nói xong điều ấy, đấng Toàn Giác Tissa bậc Trí Tuệ vị Lãnh Đạo cao cả của thế gian đã bay lên không trung, tợ như loài thiên nga chúa ở trên bầu trời.
66. Đối với tôi, sự bố thí cao quý là đã được bố thí tốt đẹp, sự thành công trong việc cống hiến là đã được cống hiến tốt đẹp. Sau khi bố thí muỗng vật thực, tôi đã đạt đến vị thế không bị lay chuyển.
67. Kể từ khi tôi đã dâng cúng vật thí trước đây chín mươi hai kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng vật thực.
68. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
69. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
70. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được tôi đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Tỳ khưu ni Kaṭacchubhikkhādāyikā đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão ni Kaṭacchubhikkhadāyikā là phần thứ bảy.
–ooOoo–
8. Ký Sự về Sattuppalamālikā[10]
71. Ở thành phố Aruṇavatī, có vị Sát-đế-lỵ tên là Aruṇavā. Tôi đã là người vợ của vị vua ấy. Tôi (thường) bảo (người) đưa tôi đi đó đây.
72. Sau khi nhận được bảy đóa sen xanh có hương thơm của cõi trời, tôi đã ngồi xuống ở nơi cao quý của tòa lâu đài, và ngay khi ấy đã suy nghĩ như vầy:
73. “Với bảy đóa hoa này được gắn ở đầu của ta thì ta có được gì? Điều cao quý đối với ta là được vươn đến trí tuệ của đức Phật tối thượng.”
74. Trong lúc chờ đợi đấng Toàn Giác, tôi đã ngồi xuống ở gần cánh cửa lớn (nghĩ rằng): “Khi nào đấng Toàn Giác ngự đến, ta sẽ cúng dường đến bậc Đại Hiền Trí.”
75. Nổi bật, chói sáng, y như con sư tử là vua của các thú rừng, đấng Chiến Thắng được tháp tùng bởi Hội Chúng tỳ khưu đã đi đến ở trên đường lộ.
76. Sau khi nhìn thấy hào quang của đức Phật, tôi đã trở nên mừng rỡ, có tâm ý phấn khởi. Tôi đã mở cửa ra và đã cúng dường đến đức Phật tối thượng.
77. Bảy đóa hoa sen xanh đã được phân tán ra ở trên không trung. Chúng tạo thành hình mái che và nằm yên ở trên đỉnh đầu của đức Phật.
78. Với tâm phấn chấn, với ý vui mừng, tràn đầy niềm phấn khởi, tôi đã chắp tay lên. Sau khi làm cho tâm được tịnh tín vào điều ấy, tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.
79. Chúng hình thành tấm che màu xanh thẩm ở trên đầu của tôi, tôi tỏa ra hương thơm của cõi trời; điều này là quả báu của bảy đóa sen xanh.
80. Lúc bấy giờ, vào một lần nào đó trong khi tôi được tập thể quyến thuộc dẫn đi, hết thảy nhóm người của tôi đều được khoác lên (một) màu xanh thẩm.
81. Tôi đã được thiết lập vào ngôi chánh hậu của bảy mươi vị Thiên Vương. Sau khi trở thành vị nữ hoàng ở khắp mọi nơi, tôi (đã) luân hồi ở cõi này cõi khác.
82. Tôi đã được thiết lập vào ngôi chánh hậu của sáu mươi ba đấng Chuyển Luân Vương. Tất cả đều thuận theo tôi, tôi đã có lời nói hợp lý.
83. Màu da của tôi chính là (màu) của hoa sen xanh và còn tỏa ra hương thơm nữa. Tôi không biết đến làn da xấu xí; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
84. Được thiện xảo về các nền tảng của phép thần thông, được thích thú trong việc tu tập các chi phần đưa đến giác ngộ, được thành tựu các thắng trí và các pháp toàn hảo; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
85. Được thiện xảo trong các sự thiết lập về niệm, có các hành xứ về thiền định, được gắn bó với các sự nỗ lực đúng đắn; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
86. Tôi có sự tinh tấn, có khả năng tiến hành các phận sự là điều kiện đưa đến sự an ổn khỏi các điều ràng buộc, tất cả các lậu hoặc đã được cạn kiệt, giờ đây không còn tái sanh nữa.
87. Kể từ khi tôi đã thực hiện việc làm ấy trước đây ba mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng bông hoa.
88. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
89. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
90. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được tôi đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Tỳ khưu ni Sattuppalamālikā đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão ni Sattuppalamālikā là phần thứ tám.
–ooOoo–
9. Ký Sự về Pañcadīpikā[11]
91. Khi ấy, tôi đã là nữ du sĩ ở thành phố Haṃsavatī. Là người tầm cầu sự tốt đẹp, tôi đi từ tu viện này đến tu viện khác.
92. Vào một ngày thuộc hạ huyền, tôi đã nhìn thấy cội cây Bồ Đề tối thượng. Tại đó, sau khi làm cho tâm được tịnh tín tôi đã ngồi xuống ở gốc cây Bồ Đề.
93. Sau khi thiết lập tâm cung kính, tôi đã chắp tay lên ở đầu và bày tỏ lòng hoan hỷ. Ngay khi ấy tôi đã suy nghĩ như vầy:
94. “Nếu đức Phật có đức hạnh vô lượng, không người sánh bằng, xin cội Bồ Đề này hãy thị hiện thần thông, hãy chói sáng cho tôi thấy.”
95. Cùng với điều suy nghĩ của tôi, ngay khi ấy cội Bồ Đề đã phát sáng, đã biến thành vàng toàn bộ, và đã chiếu sáng tất cả các phương.
96. Tôi đã ngồi xuống tại nơi ấy, ở gốc cây Bồ Đề bảy ngày đêm. Khi đạt đến ngày thứ bảy, tôi đã thực hiện việc cúng dường các ngọn đèn.
97. Sau khi được đặt quanh chỗ ngồi, năm ngọn đèn đã phát sáng. Khi ấy, các ngọn đèn của tôi đã phát sáng cho đến khi mặt trời mọc lên.
98. Do nghiệp ấy đã được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ thân nhân loại tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.
99. Tại nơi ấy, có cung điện đã khéo được kiến tạo dành cho tôi gọi tên là “Ngũ Đăng,” có chiều cao là sáu mươi do-tuần, chiều rộng ba mươi do-tuần.
100. Xung quanh tôi có vô số ngọn đèn chiếu sáng. Cho đến cung điện của chư Thiên cũng sáng rực bởi ánh sáng của các ngọn đèn.
101. Sau khi ngồi xuống với mặt quay về hướng khác, nếu tôi muốn nhìn thấy ở bên trên, bên dưới, và chiều ngang, tôi đều nhìn thấy tất cả bằng mắt.
102. Ngay cả khi tôi mong muốn nhìn thấy những sự việc tốt đẹp hoặc xấu xa thì không có gì che đậy được việc ấy, dầu ở các cây cối hoặc ở các núi non.
103. Tôi đã được thiết lập vào ngôi chánh hậu của tám mươi vị Thiên Vương. Tôi đã được thiết lập vào ngôi chánh hậu của một trăm đấng Chuyển Luân Vương.
104. Mỗi khi tôi tái sanh dầu là cảnh giới chư Thiên hoặc loài người, có một trăm ngàn ngọn đèn quây quần xung quanh tôi và chiếu sáng.
105. Sau khi mệnh chung từ thế giới chư Thiên, tôi đã tái sanh vào bụng mẹ. Trong khi đi vào bụng mẹ và trụ lại, mắt của tôi không nhắm lại.
106. Một trăm ngàn ngọn đèn là kết quả của nghiệp phước thiện, chúng chiếu sáng ở nhà bảo sanh; điều này là quả báu của năm ngọn đèn.
107. Khi đạt đến cuộc sống cuối cùng, tôi đã gìn giữ tâm ý. Tôi đã chạm đến Niết Bàn là trạng thái mát mẻ, không già, không chết.
108. Bảy tuổi tính từ khi sanh, tôi đã thành tựu phẩm vị A-la-hán. Sau khi biết được đức hạnh (của tôi), đức Phật Gotama đã cho tôi tu lên bậc trên.
109. Trong lúc tôi tham thiền ở mái che hoặc ở gốc cây, ở các tòa nhà lớn hoặc ở các hang động, và ở nơi trống vắng, có năm ngọn đèn chiếu sáng tôi.
110. Thiên nhãn của tôi được thanh tịnh, tôi được thiện xảo về định, được thành tựu các thắng trí và các pháp toàn hảo; điều này là quả báu của năm ngọn đèn.
111. “Bạch đấng Đại Hùng, bậc Hữu Nhãn, con là Pañcadīpā có toàn bộ nguồn nhiên liệu đã cạn, có các phận sự đã được làm xong, không còn các lậu hoặc, con xin đảnh lễ ở bàn chân (Ngài).”
112. Kể từ khi tôi đã dâng cúng ngọn đèn trước đây một trăm ngàn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của năm ngọn đèn.
113. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
114. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
115. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được tôi đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Tỳ khưu ni Pañcadīpikā đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão ni Pañcadīpikā là phần thứ chín.
–ooOoo–
10. Ký Sự về Udakadāyikā[12]
116. Ở thành phố Bandhumatī, tôi đã là cô gái đội nước.[13] Tôi sống nhờ vào việc đội nước. Nhờ vào việc ấy, tôi nuôi dưỡng các đứa trẻ.
117. Và tôi không có gì xứng đáng để dâng cúng đến phước điền vô thượng. Tôi đã đi đến bể chứa và đã cung cấp nước.
118. Do nghiệp ấy đã được thực hiện tốt đẹp, tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi. Ở nơi ấy, có cung điện đã được kiến tạo khéo léo, đã được hóa hiện ra dành cho tôi do (công đức của) việc đội nước.
119. Khi ấy, chính tôi là người đứng đầu của một ngàn tiên nữ, tôi luôn luôn cai quản tất cả các nàng ấy cùng với mười khu vực.
120. Tôi đã được thiết lập vào ngôi chánh hậu của năm mươi vị Thiên Vương. Tôi đã được thiết lập vào ngôi chánh hậu của hai mươi đấng Chuyển Luân Vương.
121. Tôi (đã) luân hồi trong hai cảnh giới, ở bản thể chư Thiên và nhân loại. Tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc bố thí nước.
122. Cho dù ở đỉnh núi hoặc ở ngọn cây, ở trên không trung và ở trên mặt đất, khi nào tôi ước muốn về nước thì tôi đạt được ngay lập tức.
123. Không có phương nào là không có mưa, và không bị nóng bức hoặc bị thiêu đốt; sau khi biết được ý định của tôi đám mây lớn (sẽ) đổ mưa xuống.
124. Lúc bấy giờ, vào một lần nào đó trong khi tôi được tập thể quyến thuộc dẫn đi, khi nào tôi muốn mưa thì khi ấy đám mây lớn đổ mưa xuống.
125. Sự nóng nực hoặc bực bội không được biết đến ở cơ thể của tôi, và bụi bặm không có ở trên thân thể của tôi; điều này là quả báu của việc bố thí nước.
126. Hiện nay, do tâm ý thanh tịnh, các ác pháp đã lìa, tất cả các lậu hoặc đã được cạn kiệt, giờ đây không còn tái sanh nữa.
127. Kể từ khi tôi đã thực hiện việc làm ấy trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc bố thí nước.
128. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
129. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
130. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được tôi đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Tỳ khưu ni Udakadāyikā đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão ni Udakadāyikā là phần thứ mười.
–ooOoo–
TÓM LƯỢC CỦA PHẨM NÀY
Vị ni Sumedhā, cô gái dâng dây nịt, dâng cúng mái che, và con đường đi, cô gái có tràng hoa sậy, cô gái thí vật thực, muỗng (thức ăn), và cô gái dâng cúng đóa sen xanh, cô gái dâng các ngọn đèn, và luôn cả cô gái bố thí nước. Các câu kệ ngôn đã được tính đếm ở đây là một trăm câu kệ ngôn và ba mươi câu thêm vào đó nữa.
Phẩm Sumedhā là phẩm thứ nhất.
–ooOoo–
II. PHẨM MỘT LẦN TRAI GIỚI
11. Ký Sự về Ekuposathikā[14]
131. Ở thành phố Bandhumatī, có vị Sát-đế-lỵ tên là Bandhumā. Vào ngày trăng tròn, vị ấy thực hành Bát quan trai giới.
132. Vào lúc bấy giờ, tôi đã là cô nô tỳ đội nước ở tại nơi ấy. Sau khi nhìn thấy đoàn quân cùng với đức vua, khi ấy tôi đã suy nghĩ như vầy:
133. “Ngay cả đức vua cũng đã buông bỏ vương quyền và thực hành Bát quan trai giới, chắc hẳn việc làm ấy là có quả báu khiến đám đông người hứng thú.”
134. Sau khi suy xét chính chắn về cảnh giới khổ đau và sự nghèo khó, tôi đã tự làm cho tâm được hoan hỷ và đã thực hành Bát quan trai giới.
135. Tôi đã thực hành Bát quan trai giới theo lời dạy của đấng Chánh Đẳng Giác. Do nghiệp ấy đã được thực hiện tốt đẹp, tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.
136. Tại nơi ấy, có cung điện đã được kiến tạo khéo léo dành cho tôi, phía bên trên vươn cao một do-tuần, được kề cận với ngôi nhà mái nhọn quý giá, được trang hoàng với các chỗ nằm ngồi.
137. Một trăm ngàn tiên nữ luôn luôn kề cận tôi. Tôi luôn luôn vượt trội và rực rỡ hơn các vị Thiên nhân khác.
138. Tôi đã được thiết lập vào ngôi hoàng hậu của sáu mươi bốn vị Thiên Vương. Tôi đã được thiết lập vào ngôi hoàng hậu của sáu mươi ba đấng Chuyển Luân Vương.
139. Có được màu da vàng chói, tôi luân hồi ở các cảnh giới. Tôi là người cao quý ở tất cả các nơi; điều này là quả báu của Bát quan trai giới.
140. Về phương tiện di chuyển bằng voi, phương tiện di chuyển bằng ngựa, phương tiện di chuyển bằng xe, và kiệu khiêng, tôi cũng đều đạt được tất cả (các) điều ấy; điều này là quả báu của Bát quan trai giới.
141. Khi ấy, ngay cả vật làm bằng vàng, làm bằng bạc, làm bằng ngọc pha-lê, luôn cả vật làm bằng hồng ngọc, tôi đều đạt được tất cả.
142. Các tấm mền làm bằng tơ lụa, bằng sợi len và bông vải, cùng với các tấm vải có giá trị cao, tôi đều đạt được tất cả.
143. Thức ăn, nước uống, vật để nhai, vải vóc, và các chỗ nằm ngồi, tôi đều đạt được tất cả (các) thứ ấy; điều này là quả báu của Bát quan trai giới.
144. Hương thơm cao quý, tràng hoa, bột phấn thơm, dầu thoa, tôi đều đạt được tất cả (các) thứ ấy; điều này là quả báu của Bát quan trai giới.
145. Ngôi nhà mái nhọn, tòa lâu đài, mái che, tòa nhà dài, hang động, tôi đều đạt được tất cả (các) thứ ấy; điều này là quả báu của Bát quan trai giới.
146. Bảy tuổi tính từ khi sanh, tôi đã xuất gia vào đời sống không gia đình. Chưa đầy nửa tháng, tôi đã thành tựu phẩm vị A-la-hán.
147. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch, tất cả các lậu hoặc đã được cạn kiệt, giờ đây không còn tái sanh nữa.
148. Kể từ khi tôi đã thực hiện việc làm ấy trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của Bát quan trai giới.
149. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
150. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được tôi đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Tỳ khưu ni Ekuposathikā đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão ni Ekuposathikā là phần thứ nhất.
–ooOoo–
12. Ký Sự về Salalapupphikā[15]
151. Khi ấy, tôi đã là loài kim-sỉ-điểu cái ở bờ sông Candabhāgā. Tôi đã nhìn thấy đấng Nhân Ngưu, vị Trời của chư Thiên, đang đi kinh hành.
152. Sau khi hái xuống bông hoa salala, tôi đã dâng lên đức Phật tối thượng (nói rằng): “Bạch đấng Đại Hùng thỉnh ngài ngửi bông hoa salala có hương thơm của cõi trời.”
153. Sau khi thọ nhận, đấng Toàn Giác Vipassī, bậc Lãnh Đạo Thế Gian, đấng Đại Hùng đã ngửi (bông hoa ấy), trong khi ấy tôi đang chăm chú nhìn.
154. Tôi đã chắp tay lên và đã đảnh lễ đấng Tối Thượng Nhân. Sau khi làm cho tâm của mình được tịnh tín, từ nơi ấy tôi đã đi lên ngọn núi.
155. Kể từ khi tôi đã dâng cúng bông hoa trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
156. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
157. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
158. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được tôi đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Tỳ khưu ni Salalapupphikā đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão ni Salalapupphikā là phần thứ nhì.
–ooOoo–
13. Ký Sự về Modakadāyikā[16]
159. Ở thành phố Bandhumatī, tôi đã là người nữ tỳ đội nước. Là người vận chuyển nước, tôi đã ra đi sau khi nhận lấy phần (nước) của mình.
160. Ở đường lộ, tôi đã nhìn thấy vị sa-môn có tâm thanh tịnh, định tĩnh. Với tâm tịnh tín, với ý vui mừng, tôi đã dâng ba cục thịt vò viên.
161. Do nghiệp ấy đã được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, tôi đã không đi đến đọa xứ chín mươi mốt kiếp.
162. Sau khi đã làm thành tựu điều ấy, tôi đạt được mọi thứ. Sau khi bố thí ba cục thịt vò viên, tôi đã đạt đến vị thế không bị lay chuyển.
163. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
164. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
165. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được tôi đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Tỳ khưu ni Modakadāyikā đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão ni Modakadāyikā là phần thứ ba.
–ooOoo–
14. Ký Sự về Ekāsanadāyikā[17]
166. Lúc bấy giờ, tôi đã là cô thiếu nữ ở tại thành phố Haṃsavatī. Mẹ và luôn cả cha của tôi, họ đều đã đi làm công việc.
167. Vào lúc mặt trời ở chính ngọ, tôi đã nhìn thấy vị sa-môn đang đi dọc theo đường lộ nên tôi đã xếp đặt chỗ ngồi.
168. Sau khi xếp đặt chỗ ngồi bằng nhiều loại lông cừu, v.v… rồi với tâm tịnh tín, với ý vui mừng, tôi đã nói lời nói này:
169. “Mặt đất bị nóng bỏng, bị thiêu đốt, mặt trời đã đứng ở chính ngọ, và các cơn gió ngưng thổi, vậy là lúc ngài hãy nghỉ ở đây.
170. Thưa bậc đại hiền trí, đây là chỗ ngồi đã được sắp xếp dành cho ngài. Vì lòng thương tưởng, xin ngài hãy ngồi xuống chỗ ngồi của con.”
171. Với tâm ý thanh tịnh, vị sa-môn được rèn luyện chu đáo đã ngồi xuống ở tại nơi ấy. Tôi đã nhận lãnh bình bát của vị ấy và đã dâng cúng không chút sai sót.
172. Do nghiệp ấy đã được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ thân nhân loại tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.
173. Tại nơi ấy, tôi có cung điện đã khéo được xây dựng, đã khéo được hóa hiện ra với chỗ ngồi, có chiều cao sáu mươi do-tuần, chiều rộng ba mươi do-tuần.
174. Cũng vào khi ấy, tôi có các ghế dài nhiều kiểu làm bằng vàng, làm bằng ngọc ma-ni, làm bằng ngọc pha-lê, và làm bằng hồng ngọc nữa.
175. Các ghế dài của tôi khéo được trải lót với các tấm nệm bằng len dệt, với nhiều loại tấm trải bằng tơ dệt có đính các viên ngọc, và với các tấm trải viền ren ở một bên.
176. Khi nào tôi ước muốn sự ra đi với mục đích giải trí nô đùa, điều ước nguyện của tôi là tôi ra đi bằng chiếc ghế dài thù thắng của tôi.
177. Tôi đã được thiết lập vào ngôi hoàng hậu của tám mươi vị Thiên Vương. Tôi đã được thiết lập vào ngôi hoàng hậu của bảy mươi đấng Chuyển Luân Vương.
178. Trong khi luân hồi ở cõi này cõi khác, tôi đã đạt được tài sản lớn lao. Đối với tôi không có sự thiếu hụt về của cải; điều này là quả báu của một chỗ ngồi.
179. Tôi (đã) luân hồi ở hai cảnh giới, trong bản thể chư Thiên và nhân loại. Tôi không còn biết đến các cõi khác; điều này là quả báu của một chỗ ngồi.
180. Tôi (đã) được sanh ra ở hai gia tộc, Sát-đế-lỵ và cả Bà-la-môn nữa. Ở mọi nơi, tôi đều thuộc gia đình thượng lưu; điều này là quả báu của một chỗ ngồi.
181. Tôi không biết đến tâm sân hận và sự bực bội của tâm. Tôi không biết đến việc tàn tạ dung nhan; điều này là quả báu của một chỗ ngồi.
182. Các nữ tỳ hầu hạ tôi, nhiều người bị gù lưng, bị chảy nước dãi. Tôi đã (được ẳm bồng) di chuyển từ hông này đến hông khác; điều này là quả báu của một chỗ ngồi.
183. Luôn luôn có các cô này tắm (cho tôi), các cô kia chăm lo thức ăn, các cô khác làm cho tôi vui thích, các cô nọ thoa dầu thơm (cho tôi); điều này là quả báu của một chỗ ngồi.
184. Trong lúc tôi sống ở mái che, ở gốc cây, hoặc ở ngôi nhà trống vắng, chiếc ghế dài biết được ý định của tôi hiện diện kề bên.
185. Đây là kiếp sống cuối cùng của tôi, là lần hiện hữu cuối cùng trong sự luân chuyển. Hiện nay, tôi đã từ bỏ vương quốc và đã xuất gia vào đời sống không gia đình.
186. Kể từ khi tôi đã dâng cúng vật thí trước đây một trăm ngàn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của một chỗ ngồi.
187. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
188. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
189. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được tôi đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Vị tỳ khưu ni Ekāsanadāyikā đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão ni Ekāsanadāyikā là phần thứ tư.
–ooOoo–
15. Ký Sự về Pañcadīpadāyikā[18]
190. Khi ấy, tôi đã là nữ du sĩ ở thành phố Haṃsavatī. Có sự tầm cầu thiện pháp, tôi (đã) đi từ tu viện này đến tu viện khác.
191. Vào một ngày thuộc hạ huyền, tôi đã nhìn thấy cội cây Bồ Đề tối thượng. Tại đó, sau khi làm cho tâm được tịnh tín tôi đã ngồi xuống ở gốc cây Bồ Đề.
192. Sau khi thiết lập tâm cung kỉnh, tôi đã chắp tay lên ở đầu và bày tỏ lòng hoan hỷ. Ngay khi ấy tôi đã suy nghĩ như vầy:
193. “Nếu đức Phật có đức hạnh vô lượng, không người sánh bằng, xin cội Bồ Đề này hãy thị hiện thần thông, hãy chói sáng cho tôi thấy.”
194. Cùng với điều suy nghĩ của tôi, ngay khi ấy cội Bồ Đề đã phát sáng, đã biến thành vàng toàn bộ, và đã chiếu sáng tất cả các phương.
195. Tôi đã ngồi xuống tại nơi ấy, ở gốc cây Bồ Đề bảy ngày đêm. Khi đạt đến ngày thứ bảy, tôi đã thực hiện việc cúng dường các ngọn đèn.
196. Sau khi được đặt quanh chỗ ngồi, năm ngọn đèn đã phát sáng. Khi ấy, các ngọn đèn của tôi đã phát sáng cho đến khi mặt trời mọc lên.
197. Do nghiệp ấy đã được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ thân nhân loại tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.
198. Tại nơi ấy, cung điện đã được kiến tạo khéo léo dành cho tôi được gọi là “Ngũ Đăng,” có chiều cao sáu mươi do-tuần, chiều rộng ba mươi do-tuần.
199. Xung quanh tôi có vô số ngọn đèn chiếu sáng. Cho đến cung điện của chư Thiên cũng sáng rực bởi ánh sáng của các ngọn đèn.
200. Sau khi ngồi xuống mặt quay về hướng khác, nếu tôi muốn nhìn thấy ở bên trên, bên dưới, và chiều ngang, tôi đều nhìn thấy tất cả bằng mắt.
201. Ngay cả khi tôi mong muốn nhìn thấy những việc tốt đẹp hoặc xấu xa thì không có gì che đậy được việc ấy, dầu ở các cây cối hoặc ở các núi non.
202. Tôi đã được thiết lập vào ngôi chánh hậu của tám mươi vị Thiên Vương. Tôi đã được thiết lập vào ngôi chánh hậu của một trăm đấng Chuyển Luân Vương.
203. Mỗi khi tôi nhập thai bào dầu là cảnh giới chư Thiên hoặc loài người, có một trăm ngàn ngọn đèn chiếu sáng ở xung quanh tôi.
204. Sau khi mệnh chung từ thế giới chư Thiên, tôi đã tái sanh vào bụng mẹ. Trong khi đi vào bụng mẹ và trụ lại, mắt của tôi không nhắm lại.
205. Một trăm ngàn ngọn đèn là kết quả của nghiệp phước thiện, chúng chiếu sáng ở nhà bảo sanh; điều này là quả báu của năm ngọn đèn.
206. Khi đạt đến cuộc sống cuối cùng, tôi đã gìn giữ tâm ý. Tôi đã chạm đến Niết Bàn là trạng thái mát mẻ, không già, không chết.
207. Bảy tuổi tính từ khi sanh, tôi đã thành tựu phẩm vị A-la-hán. Sau khi biết được đức hạnh (của tôi), đức Phật Gotama đã cho tôi tu lên bậc trên.
208. Trong lúc sinh sống ở mái che, ở gốc cây, hoặc ở ngôi nhà trống vắng, luôn luôn có ngọn đèn chiếu sáng; điều này là quả báu của năm ngọn đèn.
209. Thiên nhãn của tôi được thanh tịnh, tôi được thiện xảo về định, được thành tựu các thắng trí và các pháp toàn hảo; điều này là quả báu của năm ngọn đèn.
210. “Bạch đấng Đại Hùng, bậc Hữu Nhãn, con là Pañcadīpā có toàn bộ nguồn nhiên liệu đã cạn, có các phận sự đã được làm xong, không còn các lậu hoặc, con xin đảnh lễ ở bàn chân (Ngài).”
211. Kể từ khi tôi đã dâng cúng ngọn đèn trước đây một trăm ngàn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của năm ngọn đèn.
212. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
213. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
214. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được tôi đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Vị tỳ khưu ni Pañcadīpadāyikā đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão ni Pañcadīpadāyikā là phần thứ năm.
–ooOoo–
16. Ký Sự về Sālamālikā[19]
215. Khi ấy, tôi đã là loài kim-sỉ-điểu cái ở bờ sông Candabhāgā. Tôi đã nhìn thấy đức Phật, bậc Vô Nhiễm, đấng Tự Chủ, bậc không bị đánh bại.
216. Với tâm tịnh tín, với ý vui mừng, tràn đầy niềm phấn khởi, tôi đã chắp tay lên. Tôi đã cầm lấy tràng hoa sālā và đã cúng dường đến bậc Tự Chủ.
217. Do nghiệp ấy đã được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ thân xác kim-sỉ-điểu, tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.
218. Tôi đã được thiết lập vào ngôi hoàng hậu của ba mươi sáu vị Thiên Vương. Điều ước nguyện trong tâm của tôi là được tái sanh theo ước muốn.
219. Tôi đã được thiết lập vào ngôi hoàng hậu của mười đấng Chuyển Luân Vương. Sau khi thành tựu kết quả, tôi luân hồi ở nhiều cõi.
220. Điều tốt lành của tôi đã được tìm thấy, tôi đã xuất gia vào đời sống không gia đình. Hiện nay, tôi là bậc xứng đáng sự cúng dường ở trong Giáo Pháp của người con trai dòng dõi Sakya (Thích Ca).
221. Hiện nay, với tâm ý đã được thanh tịnh, các ác pháp đã không còn, tất cả các lậu hoặc đã cạn kiệt, giờ đây không còn tái sanh nữa.
222. (Kể từ khi) tôi đã cúng dường đến đức Phật trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của tràng hoa sālā.
223. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
224. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
225. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được tôi đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Vị tỳ khưu ni Sālamālikā đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão ni Sālamālikā là phần thứ sáu.
–ooOoo–
17. Ký sự về Mahāpajāpatigotamī[20]
226. Một thời, bậc Quang Đăng của thế gian, đấng Điều Phục Nhân trú tại thành Vesālī, khu Đại Lâm, ở ngôi nhà mái nhọn, trong giảng đường xinh xắn.
227. Khi ấy, người dì ruột của đấng Chiến Thắng là tỳ khưu ni Mahāgotamī đã cư ngụ tại tu viện của tỳ khưu ni được xây dựng ở tại nơi ấy, trong thành phố đáng yêu.
228. Khi đang ở nơi thanh vắng cùng với năm trăm vị tỳ khưu ni đã được giải thoát, có điều suy tầm đã khởi đến tâm của vị ni ấy như vầy:
229. “Ta sẽ không thể chứng kiến sự viên tịch Niết Bàn của đức Phật, hoặc của hai vị Tối Thượng Thinh Văn, của Rāhula, Ānanda, vā Nanda.
230. Trước khi có thể buông bỏ thọ hành rồi thành tựu Niết Bàn, ta cần được đấng Bảo Hộ Thế Gian, bậc Đại Ẩn Sĩ cho phép.”
231. Sự suy tầm của năm trăm vị tỳ khưu ni cũng như thế, chính điều suy tầm này cũng đã khởi đến các vị ni như là Khemā, v.v…
232. Khi ấy, đã có sự lay động của trái đất, tiếng trống của cõi trời đã vang lên. Các Thiên nhân cư ngụ ở ni viện đã bị dày vò bởi sầu muộn. Tại nơi ấy, trong khi than vãn với niềm bi mẫn họ đã tuôn rơi những giọt nước mắt.
233. Cùng với các vị (Thiên nhân) ấy, các vị tỳ khưu ni bạn đã đi đến gặp bà Gotamī. Họ đã quỳ xuống đê đầu ở bàn chân và đã nói lời nói này:
234. “Thưa ni sư, chúng tôi đã tưới nước ở tại nơi ấy rồi đã đi đến nơi thanh vắng. Trái đất có sự vững chải đã bị lay động, tiếng trống của cõi trời đã được vang lên, và những tiếng than khóc đã được nghe đến. Bà Gotamī, chẳng lẽ có sự việc gì hay sao?”
235. Khi ấy, bà Gotamī đã kể lại mọi việc theo như đã được suy tầm. Các vị ni ấy cũng đã kể lại mọi việc theo như đã được suy tầm:
236. “Thưa ni sư, thưa vị có sự hành trì tốt đẹp, nếu Niết Bàn tối thắng thù diệu được bà thích thú, thì tất cả chúng tôi cũng sẽ Niết Bàn với sự chấp thuận của đức Phật.
237. Chúng tôi sẽ cùng nhau rời khỏi ngôi nhà và rời khỏi luôn cả sự hiện hữu, chúng tôi sẽ cùng nhau đi đến thành phố Niết Bàn tối thượng.”
238. Bà Gotamī đã nói rằng: “Ta sẽ nói gì đây đối với những người đang đi đến Niết Bàn?” Khi ấy, bà Gotamī cùng với tất cả các vị ni ấy đã rời khỏi chỗ cư ngụ của các tỳ khưu ni.
239. “Xin chư Thiên đang ngự tại trú xá hãy thông cảm cho ta. Đây là sự nhìn thấy ni viện lần cuối cùng của ta.
240. Nơi nào sự già hoặc sự chết, sự gần gũi với những gì không yêu thích, sự xa lìa với những gì yêu thích là không có, thì ta nên đi đến nơi ấy là nơi không bị tạo tác.”
241. Nghe được lời nói ấy, những vị tỳ khưu ni của đấng Thiện Thệ có tham ái chưa được xa lìa bị dằn vặt bởi sầu muộn nên đã than vãn rằng: “Than ôi, chúng tôi có phước báu kém cỏi.
242. Trú xứ này của các tỳ khưu ni thiếu vắng các vị ấy (sẽ) trở nên trống không. Các vị tỳ khưu ni của đấng Chiến Thắng (sẽ) không còn được nhìn thấy, ví như các vì sao không còn được nhìn thấy vào ban ngày.
243. Bà Gotamī đi đến Niết bàn cùng với năm trăm vị tương tợ như sông Gaṅgā cùng với năm trăm dòng sông chảy về biển cả.”
244. Sau khi nhìn thấy bà Gotamī đang đi ở trên đường, các nữ cư sĩ thành tín đã di ra khỏi nhà rồi đã quỳ xuống ở hai bàn chân (của bà) và đã nói điều này:
245. “Hỡi vị có tài sản vĩ đại, xin người hoan hỷ. Xin chớ lìa bỏ chúng con (trở thành) không người bảo hộ. Xin người chớ quyết định Niết Bàn,” họ đã than van ầm ĩ như thế.
246. Nhằm mục đích xóa đi nỗi sầu muộn của họ, bà Gotamī đã nói với giọng nói ngọt ngào rằng: “Này các con, than khóc đã đủ rồi, hôm nay đây là thời điểm vui cười của các con.
247. Khổ đã được ta biết toàn diện, nhân của Khổ đã được ta dứt bỏ, sự Diệt Tận đã được ta tác chứng, và Đạo cũng đã được ta thực hành khéo léo.
Tụng phẩm thứ nhất.
248. Bậc Đạo Sư đã được ta phục vụ, lời dạy của đức Phật đã được ta thực hành, nhiệm vụ nặng nề đã được đặt xuống, lối dẫn đi tái sanh đã được xóa tan.
249. Vì mục đích nào ta đã rời khỏi gia đình xuất gia vào đời sống không gia đình, mục đích ấy tức là sự đoạn tận tất cả các sự trói buộc đã được ta đạt đến.
250. Này các con, đức Phật và Chánh Pháp không bị thiếu sót của Ngài vẫn còn tồn tại vào thời điểm Niết Bàn của ta, chớ có khóc than cho ta.
251. Koṇḍañña, Ānanda, Nanda, v.v…, vị Rāhula chiến thắng còn tại tiền, hội chúng là được an lạc, hòa hợp, còn đối với các ngoại đạo thì niềm kiêu hãnh đã bị tiêu tan.
252. Danh tiếng của dòng tộc Okkāka với sự tiêu diệt Ma Vương đã được giương cao. Này các con, chẳng phải chính lúc này là thời điểm cho mục đích Niết Bàn của ta hay sao?
253. Điều ước nguyện của ta được nung đúc từ lâu hôm nay được thành tựu. Này các con, giờ đây là thời điểm của những tiếng trống vui mừng, việc gì với những giọt nước mắt của các con?
254. Nếu có lòng thương mến đối với ta, và nếu có lòng bi mẫn, tất cả các con hãy thể hiện sự tinh tấn kiên cố cho sự tồn tại của Chánh Pháp.
255. Khi được ta thỉnh cầu, đấng Toàn Giác đã ban cho sự xuất gia một cách lưỡng lự. Do điều đó, ta đã hoan hỷ như thế nào thì các con hãy thuận theo điều ấy như thế.”
256. Sau khi dặn dò như thế, bà Gotamī dẫn đầu các vị tỳ khưu ni đã đi đến đảnh lễ đức Phật, rồi đã nói lời nói này:
257. “Bạch đấng Thiện Thệ, con là mẹ của Ngài. Và bạch đấng Anh Hùng, Ngài là cha của con. Bạch đấng Bảo Hộ, Ngài là người ban cho niềm an lạc trong Chánh Pháp. Bạch ngài Gotama, con đã được sanh ra bởi Ngài.
258. Bạch đấng Thiện Thệ, hình hài và thân xác này của Ngài đã được lớn mạnh là nhờ con. Còn Pháp thân không thể phê phán của con đã được tăng trưởng là nhờ vào Ngài.
259. Nhờ con, Ngài đã được uống nước sữa làm dịu đi sự khao khát trong chốc lát. Nhờ Ngài, con cũng đã được uống chính dòng sữa Giáo Pháp thanh tịnh vô cùng tận.
260. Bạch đấng Đại Hiền Trí, trong việc dưỡng nuôi chăm sóc của con Ngài không có nợ nần. Mong sao cho các phụ nữ có lòng mong mỏi con trai có thể đạt được người con trai như thế này.
261. Mẹ của các vị vua như đức vua Mandhātu, v.v… là ở trong biển cả của hiện hữu. Này con trai, ta đã bị chìm đắm, nhờ Ngài ta đã vượt qua khỏi đại dương của hiện hữu.
262. Đối với hàng phụ nữ, danh xưng ‘Hoàng hậu mẹ của đức vua’ là dễ dàng đạt được. Còn danh xưng ‘Người mẹ của đức Phật’ là đạt được vô cùng khó khăn.
263. Và bạch đấng Anh Hùng, nhờ Ngài con đã đạt được điều ước nguyện ấy của con. Với con toàn bộ điều ấy dầu nhỏ bé hay lớn lao đều đã được tròn đủ.
264. Con muốn từ bỏ xác thân này, con muốn viên tịch Niết Bàn. Bạch đấng Anh Hùng, bậc Lãnh Đạo, vị Đoạn Tận Khổ Đau, xin Ngài hãy cho phép con.
265. Xin Ngài hãy duỗi ra (hai) bàn chân mềm dịu như hoa sen được điểm tô bằng những cây căm bánh xe và các ngọn cờ, con sẽ thể hiện sự tôn kính đến Ngài với lòng yêu mến đối với người con trai.
266. Bạch đấng Lãnh Đạo, xin Ngài hãy thể hiện rõ ràng thân thể tợ như khối vàng, sau khi thực hiện việc chiêm ngưỡng thân thể của Ngài, con sẽ đi về chốn an tịnh.”
267. Đấng Chiến Thắng đã khiến cho người dì nhìn thấy thân thể được thành tựu ba mươi hai tướng trạng và được điểm tô với những hào quang xinh xắn trông giống như ánh mặt trời non trẻ từ đám mây chiều.
268. Sau đó, bà Gotamī đã đê đầu ở lòng bàn chân được in dấu hình bánh xe, trông tợ như đóa hoa sen nở rộ có ánh sáng của mặt trời buổi bình minh.
269. “Con xin đảnh lễ đấng mặt trời của nhân loại, vị tiêu biểu của dòng dõi mặt trời. Đây là lần tử biệt cuối cùng của con, con không gặp Ngài nữa rồi.
270. Bạch đấng Cao Cả của thế gian, hàng nữ nhân gây nên mọi điều xấu xa rồi chết đi. Và bạch đấng Thể Hiện lòng bi mẫn, nếu con có điều sai trái gì xin Ngài tha thứ.
271. Và bạch đấng Nhân Ngưu, con đã liên tục cầu xin sự xuất gia cho hàng phụ nữ, trong việc này nếu con có điều sai trái xin Ngài hãy thứ tha điều ấy.
272. Bạch đấng Đại Hùng, các tỳ khưu ni đã được con dạy dỗ với sự cho phép của Ngài. Bạch đấng Chúa Tể về kham nhẫn, trong trường hợp này nếu có vấn đề huấn luyện kém cỏi, xin Ngài hãy thứ tha điều ấy.”
273. (Đức Phật đáp lại rằng): “Này người có đức hạnh là vật trang điểm, có thể kham nhẫn những điều gọi là không thể kham nhẫn thì còn có việc gì? Ta sẽ nói điều gì hơn nữa đối với bà là người đang tiến đến Niết Bàn?
274. Khi hội chúng tỳ khưu của Ta là thanh tịnh không khiếm khuyết đang tiến bước để ra khỏi thế gian này, ví như quầng trăng ra đi vào lúc rạng đông sau khi nhìn thấy sự biến mất dần của các vì thiên thể.”
275. Khi ấy, các vị tỳ khưu ni kia đã hướng vai phải nhiễu quanh đấng Chiến Thắng cao cả, trông giống như các vì sao theo gót mặt trăng di chuyển xung quanh núi Sumeru. Sau đó họ đã quỳ xuống đê đầu ở bàn chân (đức Phật) rồi đứng lên chiêm ngưỡng khuôn mặt (của Ngài).
276. “Mắt chưa có sự thỏa mãn đối với việc nhìn ngắm Ngài, tai chưa có sự thoả mãn đối với việc được (nghe) Ngài thuyết giảng, chỉ riêng một mình tâm của con đã đạt được sự thoả mãn ấy nhờ vào hương vị của Giáo Pháp.
277. Bạch đấng Cao Quý của loài người, trong khi Ngài tuyên thuyết ở hội chúng, những người nào nhìn thấy khuôn mặt của Ngài là vị đánh đổ sự kiêu căng của những người đối chất, những người ấy là hữu duyên.
278. Bạch đấng có lóng (tay chân) dài, những người nào sẽ khom mình ở bàn chân xinh đẹp có gót chân nhô ra, bạch bậc Thượng Đức, những người ấy cũng là hữu duyên.
279. Bạch đấng Thượng Nhân, những người nào sẽ lắng nghe những lời nói ngọt ngào, vui vẻ, tiêu diệt lỗi lầm, và có lợi ích của Ngài, những người ấy cũng là hữu duyên.
280. Bạch đấng Đại Hùng, với sự nhiệt tâm trong việc lễ bái bàn chân (Ngài), con đã vượt qua khu rừng rậm luân hồi nhờ vào lời thiện thuyết của đấng Quang Vinh, con là hữu duyên với Ngài.”
281. Sau đó, vị ni có hạnh kiểm tốt đẹp ấy cũng đã thông báo đến hội chúng tỳ khưu. Và sau khi đảnh lễ các vị Rāhula, Ānanda, Nanda, bà đã nói điều này:
282. “Mẹ nhờm gớm cái xác thân tợ như chỗ trú của rắn độc, là chỗ ngụ của bệnh tật, bị chồng chất khổ đau, là chốn lai vãng của sự già và sự chết, –
283. – đầy rẫy nhiễm ô và tội lỗi, bị lệ thuộc vào người khác, không năng động. Vì thế Mẹ muốn Niết Bàn. Này các con trai, hãy thông cảm (cho Mẹ).”
284. Vị Nanda và bậc hiền thiện Rāhula, có sầu muộn đã lìa, không còn lậu hoặc, bền vững, không bị lay động, chắc chắn, kiên quyết, đã suy xét về lẽ tự nhiên rằng:
285. “Thật là xấu hổ cho (xác thân) bị tạo tác, chao đảo, không có lõi, tương tợ như cây chuối, giống như trò xảo thuật hay ảo ảnh, ngắn ngủi, không bền vững.
286. Ngay cả bà Gotamī này, đối với đấng Chiến Thắng là người dì, là người nuôi dưỡng Đức Phật, rồi cũng đi đến sự tử vong; tất cả pháp hữu vi là vô thường.”
287. Và lúc bấy giờ, ngài Ānanda, vị có lòng thương mến đối với đấng Chiến Thắng, là bậc hữu học, đã bị dằn vặt vì sầu muộn. Tại đó, trong khi tuôn trào những giọt lệ, vị ấy rên rĩ nỗi tiếc thương:
288. “Hỡi ôi! Bà Gotamī đi đến chốn thanh tịnh. Hiển nhiên, chẳng bao lâu nữa đức Phật cũng đi đến tịch diệt ví như ngọn lửa hết nguồn nhiên liệu.”
289. Bà Gotamī đã nói với vị Ānanda đang than vãn ấy như vầy: “Này vị sâu sắc như biển cả về việc nghe (học hỏi). Này vị nhiệt tâm trong việc hầu cận đức Phật.
290. Này con trai, chớ miệt mài thương tiếc khi thời điểm cười vui đã đến đối với con. Này con trai, nơi nương nhờ của ta là Niết Bàn đã đến.
291. Này con yêu, được cầu khẩn bởi con (đức Phật) đã cho phép sự xuất gia đến chúng tôi. Này con trai, chớ có phiền muộn, sự nỗ lực của con là có kết quả.
292. Đạo lộ ấy thậm chí không được nhìn thấy bởi các vị ngoại đạo sư trước đây lại được biết đến bởi những bé gái hiền thiện bảy tuổi.
293. Này vị hộ trì Giáo Pháp của đức Phật, (giờ là) lần nhìn thấy cuối cùng của con. Này con trai, nơi nào khi đã đi đến là không được nhìn thấy thì ta đi đến nơi ấy.”
294. Có lần nọ đấng Lãnh Đạo cao cả của thế gian bị hắt hơi trong khi đang thuyết giảng Giáo Pháp, khi ấy với lòng thương tưởng tôi đã nói lời mong mỏi rằng:
295. “Bạch đấng Đại Hùng, xin Ngài hãy sống thọ. Bạch bậc Đại Hiền Trí, xin Ngài hãy tồn tại trọn kiếp. Vì lợi ích của tất cả thế gian, xin Ngài hãy là vị Thiên Thần bất lão.”
296. Với tôi là người nữ có lời nói như thế về điều ấy, đức Phật ấy đã nói điều này: “Này Gotamī, chư Phật không nên được tôn vinh như thế, giống như cách bà đã tôn vinh.”
297. “Bạch đấng Toàn Tri, vậy thì các đấng Như Lai là nên được tôn vinh như thế nào? Chư Phật là không nên được tôn vinh như thế nào? Được hỏi, xin Ngài hãy giảng cho con về điều ấy.”
298. “Bà hãy nhìn xem các vị đệ tử là có sự hòa hợp, có sự ra sức tinh tấn, có tính khẳng quyết, có sự nỗ lực mạnh mẽ một cách bền bĩ; ấy là sự tôn vinh chư Phật.”
299. Từ nơi ấy, sau khi đi về ni viện, chỉ có một mình tôi đã suy nghiệm rằng: “Đấng Bảo Hộ, vị đi đến tận cùng Tam Giới hài lòng về tập thể có sự hòa hợp.
300. Vậy thì ta sẽ Niết Bàn, ta chớ chứng kiến sự băng hoại ấy.” Sau khi suy nghĩ như thế, tôi đã diện kiến bậc Đệ Nhất Ẩn Sĩ.
301. Tôi đã thông báo thời điểm viên tịch Niết Bàn của tôi đến bậc Hướng Đạo. Do đó, Ngài đã đồng ý rằng: “Này Gotamī, bà hãy biết lấy thời điểm.”
302. “Các phiền não của con đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), con sống không còn lậu hoặc.
303. Quả vậy, con đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
304. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được con đắc chứng; con đã thực hành lời dạy của đức Phật.”
305. “Này Gotamī, những kẻ ngu có khuynh hướng không chú tâm và trì trệ trong việc lãnh hội Giáo Pháp, bà hãy thị hiện thần thông vì lợi ích cho sự từ bỏ tà kiến của những kẻ ấy.”
306. Khi ấy, với sự cho phép của đức Phật, bà Gotamī đã quỳ xuống (đảnh lễ) đấng Toàn Giác rồi đã bay lên không trung và đã thị hiện nhiều loại thần thông.
307. 308. Là một, bà đã trở thành nhiều, và tương tợ như thế là nhiều trở thành một. Bà đã hiện ra, biến mất, đi xuyên qua vách tường, xuyên qua ngọn núi không bị chướng ngại. Bà cũng đã chìm vào trong trái đất. Bà đã đi ở trên nước mà không làm chao động như là ở trên đất liền.
309. Khi ấy, bà đã di chuyển với thế kiết già tương tợ như loài chim ở trên không trung. Bằng thân bà đã thể hiện sự tác động đến tận chỗ ngụ của đấng Phạm Thiên.
310. Sau khi đã làm ngọn núi Sineru thành cây cán lọng và đã làm đại địa cầu thành cái lọng che, bà đã xoay ngược lại đến tận gốc rễ. Trong khi cầm (lọng che), bà đã đi kinh hành ở hư không.
311. Và bà đã làm thế gian mù mịt khói đúng vào lúc mọc lên của sáu mặt trời. Bà đã gây rối ren bằng những tràng hoa rực lửa như là thế gian vào lúc hoại kiếp.
312. Về tảng đá khổng lồ Mucalinda, núi Meru, núi Mandāra, và núi Daddara, bà đã nắm lấy toàn bộ bằng một nắm tay như là (nắm lấy) những hạt cải.
313. Với đầu ngón tay bà đã che khuất mặt trời cùng với mặt trăng. Bà đã nắm giữ một ngàn mặt trăng và mặt trời như là (nắm giữ) tràng hoa đội đầu.
314. Bà đã nắm giữ nước của bốn bể bằng một bàn tay, đã làm đổ mưa trận mưa lớn có hình dáng của đám mây đen vào lúc tận thế.
315. Bà đã biến hóa thành đấng Chuyển Luân Vương cùng với tùy tùng ở bề mặt của không trung. Bà đã khiến cho nhìn thấy loài kim-sỉ-điểu, loài voi, và loài sư tử đang gầm rống.
316. Chỉ một mình, bà đã biến hóa thành hội chúng tỳ khưu ni vô số kể sau đó lại làm cho biến mất chỉ còn một mình, rồi đã nói với bậc Hiền Trí rằng:
317. “Bạch đấng Đại Hùng, bạch bậc Hữu Nhãn, người dì cùa Ngài là người nữ thực hành theo lời dạy của Ngài và đã đạt được lợi ích cho bản thân, giờ (xin) đảnh lễ ở bàn chân (Ngài).”
318. Sau khi thị hiện nhiều thể loại thần thông, vị ni ấy đã từ bề mặt của không trung đáp xuống đảnh lễ đấng Quang Đăng của thế gian rồi đã ngồi xuống ở một bên.
319. “Bạch đấng Đại Hiền Trí, con đây đã được một trăm hai mươi tuổi tính từ lúc sanh. Bạch đấng Anh Hùng, chừng ấy là vừa đủ. Bạch đấng Lãnh Đạo, con sẽ Niết Bàn.”
320. Khi ấy, toàn thể hội chúng ấy vô cùng sửng sốt đã chắp tay lên nói rằng: “Thưa ni sư, làm thế nào bà đã trở thành vị có thần thông và sự nỗ lực không thể sánh bằng?”
321. Trước đây một trăm ngàn kiếp, vị Lãnh Đạo, đấng Chiến Thắng tên Padumuttara, bậc Hữu Nhãn về tất cả các pháp đã hiện khởi.
322. Khi ấy, tôi đã được sanh ra ở tại Haṃsavatī, trong gia đình vị quan cận thần được đầy đủ mọi thứ tiện nghi, sung túc, thịnh vượng, có đại tài sản.
323. Có lần nọ, tôi đã dẫn đầu nhóm nữ tỳ cùng người cha với đoàn tùy tùng đông đảo đi đến đấng Nhân Ngưu ấy.
324. Tợ như vị (Thiên Vương) Vāsava đang làm mưa, đấng Chiến Thắng bậc không còn lậu hoặc, rực rỡ với quầng hào quang giống như mặt trời của mùa thu, đang làm đổ xuống cơn mưa Pháp.
325. Sau khi nhìn thấy, tôi đã làm cho tâm được tịnh tín và đã lắng nghe (Giáo Pháp) khéo được thuyết giảng của đấng Lãnh Đạo nhân loại ấy trong khi Ngài đang thiết lập vị tỳ khưu ni Mātucchā vào vị thế hàng đầu.
326. Sau khi lắng nghe, tôi đã dâng cúng đại thí và nhiều vật dụng trong bảy ngày đến bậc Tối Thượng Nhân như thế ấy cùng với hội chúng (của Ngài).
327. Tôi đã nằm dài xuống ở bàn chân (Ngài) và đã phát nguyện vị thế ấy. Sau đó, vị Đệ Nhất Ẩn Sĩ đã nói với đoàn tùy tùng đông đảo rằng:
328. “Người nữ nào đã chăm lo bữa ăn đến đấng Lãnh Đạo Thế Gian cùng với hội chúng trong bảy ngày, Ta sẽ tán dương người nữ ấy. Các người hãy lắng nghe Ta nói.
329. Vào một trăm ngàn kiếp về sau này, bậc Đạo Sư tên Gotama, thuộc dòng dõi, xuất thân gia tộc Okkāka sẽ xuất hiện ở thế gian.
330. (Người nữ này) sẽ trở thành nữ Thinh Văn của bậc Đạo Sư, là người thừa tự Giáo Pháp của vị (Phật) ấy, là chánh thống, được tạo ra từ Giáo Pháp, có tên là Gotamī.
331. Người nữ này sẽ là người dì nuôi dưỡng mạng sống của vị Phật ấy và sẽ đạt được vị thế hạng nhất trong số các tỳ khưu ni kỳ cựu.”
332. Sau khi nghe được điều ấy, tôi đã trở nên hoan hỷ. Khi ấy, tôi đã hộ độ đấng Chiến Thắng bằng các vật dụng cho đến hết cuộc đời, sau đó đã từ trần.
333. Được sanh lên giữa chư Thiên thuộc cõi Đạo Lợi có các sự dồi dào về mọi dục lạc, tôi đã vượt trội các vị (Trời) khác về mười phương diện:
334. Là các sắc, các thinh, các hương, các vị, và các xúc, luôn cả tuổi thọ và sắc đẹp, sự an lạc và luôn cả danh tiếng nữa.
335. Với ưu thế như thế ấy, tôi đã nổi bật và sáng chói. Tôi đã là hoàng hậu yêu dấu của vị Trời Đế Thích ở tại nơi ấy.
336. Trong khi trôi nổi luân hồi, bị dời chuyển dưới tác động của nghiệp, tôi đã được sanh ra ở trong ngôi làng dân nô lệ thuộc lãnh địa của đức vua Kāsi.
337. Khi ấy, có không dưới năm trăm người nô lệ cư ngụ ở nơi ấy. Tại đó, người nào là đứng đầu của tất cả (nhóm người), tôi đã trở thành vợ của người ấy.
338. Năm trăm bậc Tự Chủ đã đi vào làng để khất thực. Sau khi nhìn thấy các vị ấy, tôi cùng với tất cả quyến thuộc đã vui mừng.
339. Chúng tôi cùng với những người chồng đã xây dựng năm trăm cốc liêu, đã hộ độ trong bốn tháng, đã dâng cúng ba y, và đã trở nên hoan hỷ.
340. Từ nơi ấy chết đi, chúng tôi cùng với những người chồng đã đi đến cõi trời Đạo Lợi. Và trong kiếp sống cuối cùng hiện nay, chúng tôi đã được sanh ra ở thành phố Devadaha.
341. Cha của tôi là Añjana thuộc dòng Sakya, mẹ của tôi là (hoàng hậu) Sulakkhaṇā. Sau đó, tôi đã đi đến nhà (làm vợ) của (đức vua) Suddhodana ở thành Kapilavatthu.
342. Những người còn lại đã được sanh vào gia tộc Sakya, đã đi đến nhà (làm vợ) của các vị dòng Sakya. Là ưu việt trong số tất cả, tôi đã là người bảo mẫu của đấng Chiến Thắng.
343. Người con trai của tôi sau khi lìa bỏ ra đi đã trở thành đức Phật, bậc Hướng Đạo. Về sau, tôi đã xuất gia cùng với năm trăm vị (công nương).
344. Cùng với các công nương dòng Sakya, tôi đã chạm đến sự an lạc của Niết Bàn. Khi ấy, những người nào đã là chồng của chúng tôi trong cuộc sống trước đây, –
345. – những người cùng thực hiện phước báu, những người đã tạo ra thời điểm trọng đại, được đấng Thiện Thệ thương tưởng những người ấy đã chạm đến phẩm vị A-la-hán.
346. Khi ấy, các vị tỳ khưu ni kia đã ngự lên bề mặt của không trung. Có đại thần lực, các vị ni đã chói sáng như là các vì sao đã được quần tụ lại.
347. Các vị ni đã thị hiện nhiều loại thần thông, tương tợ như những thợ vàng khéo được huấn luyện đã làm ra nhiều mẫu mã trang sức đối với kim loại vàng đã được chế biến.
348. Khi ấy, các vị ni đã thị hiện các phép lạ đa dạng nhiều loại và đã làm hoan hỷ bậc Hiền Trí, vị thuyết giảng hàng đầu, cùng với đồ chúng.
349. Sau khi từ không trung đáp xuống, các vị ni đã đảnh lễ bậc Ẩn Sĩ tối thượng. Được sự cho phép của đấng Tối Thượng Nhân, các vị ni đã ngồi xuống đúng theo vị thế (nói rằng):
350. “Ôi! Bạch đấng Anh Hùng, bà Gotamī là người có lòng từ mẫn đối với tất cả chúng con. Được sống nhờ vào những phước báu của Ngài, chúng con đã đạt được sự đoạn tận các lậu hoặc.
351. Các phiền não của chúng con đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là những con voi cái (đã được cởi trói), chúng con sống không còn lậu hoặc.
352. Quả vậy, chúng con đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
353. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được chúng con đắc chứng; chúng con đã thực hành lời dạy của đức Phật.
354. Bạch đấng Đại Hiền Trí, chúng con đã có năng lực về các loại thần thông và thiên nhĩ giới, chúng con đã có năng lực về trí biết tâm của người khác.
355. Chúng con biết được đời sống trước đây, thiên nhãn được thanh tịnh, tất cả các lậu hoặc đã được cạn kiệt, giờ đây không còn tái sanh nữa.
356. Bạch đấng Đại Hùng, trí của chúng con về ý nghĩa, về pháp, về ngôn từ, và về phép biện giải được phát hiện và được thành tựu trong sự hiện diện của Ngài.
357. Bạch đấng Lãnh Đạo, Ngài đã hành sử đối với chúng con bằng các tâm từ ái. Bạch đấng Đại Hiền Trí, xin Ngài cho phép về việc Niết Bàn đến tất cả (chúng con).”
358. Đấng Chiến Thắng đã nói rằng: “Khi các nàng nói: ‘Chúng con sẽ Niết Bàn,’ như thế thì Ta còn nói điều gì nữa. Vậy thì giờ đây, các nàng hãy suy nghĩ về thời điểm của các nàng.”
359. Khi ấy, các vị tỳ khưu ni ấy đứng đầu là Gotamī, v.v… đã đảnh lễ đấng Chiến Thắng. Rồi các vị ni ấy đã từ chỗ ngồi ấy đứng dậy và đã ra đi.
360. Bậc Anh Hùng ấy, vị Lãnh Đạo cao cả của thế gian cùng với đại chúng đông đảo đã cùng đi theo người dì cho đến tận cổng.
361. Khi ấy, bà Gotamī đã cúi xuống ở các bàn chân của đấng quyến thuộc thế gian, là sự đảnh lễ bàn chân lần cuối cùng với tất cả các vị ni kia.
362. “Đây là lần nhìn thấy đấng Bảo Hộ Thế Gian lần cuối cùng của con. Con sẽ không còn nhìn thấy lại khuôn mặt của Ngài là nguồn phát sanh lên sự Bất Tử.
363. Và bạch đấng Anh Hùng, (đây) không phải là sự đảnh lễ của con ở bàn chân vô cùng mềm mại của ngài. Bạch đấng Cao Cả của thế gian, con sẽ sờ nắn (chúng); hôm nay con đi đến nơi an tịnh.
364. Có gì với sắc tướng này của Ngài khi pháp đã được thấy đúng theo bản thể? Toàn bộ sắc tướng này chỉ là hữu vi, không được thoải mái, là tạm bợ.”
365. Sau khi đi về tu viện tỳ khưu ni của mình cùng với các vị ni ấy, bà Gotamī đã xếp chân bán già ngồi xuống ở trên chỗ ngồi cao nhất.
366. Khi ấy, các nữ cư sĩ mến chuộng Phật Pháp ở tại nơi ấy, sau khi nghe được tin tức về bà ấy, đã đi đến đảnh lễ ở bàn chân (của bà).
367. Bị dằn vặt vì sầu muộn, họ đã đấm vào ngực bằng những bàn tay. Rồi giống như là các dây leo bị chặt đứt gốc rễ, họ đã ngã xuống ở trên đất trong khi nức nở tiếng khóc lóc thảm thương rằng:
368. “Hỡi người ban bố sự nương nhờ, hỡi người bảo hộ, xin người đừng từ bỏ chúng con mà đi đến nơi an tịnh. Toàn thể người nữ chúng con quỳ xuống đê đầu thỉnh cầu (người).”
369. Trong khi xoa đầu của người nữ cư sĩ có sự nỗ lực cao nhất, có tín tâm, có trí tuệ trong số ấy, bà Gotamī đã nói lời nói này:
370. “Này các con, thôi đủ rồi bởi vì thất vọng là sự xoay vần theo mưu kế của Ma Vương. Tất cả pháp hữu vi là vô thường, sự chia lìa và sự tử vong là không chừng đổi.”
371. Sau đó, bà ấy đã giã từ những người nữ ấy rồi đã thể nhập thiền tối thượng bậc thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, và luôn cả bậc thứ tư.
372. Tương tợ như thế, theo tuần tự bà đã thể nhập (các bậc thiền) không gian xứ, thức xứ, vô sở hữu, phi tưởng.
373. Bà Gotamī đã thể nhập các bậc thiền theo chiều nghịch về lại bậc thiền thứ nhất, rồi từ đó tiến đến bậc thứ tư.
374. Từ đó bà đã xuất ra và đã Niết Bàn tợ như ngọn lửa của cây đèn cạn dầu. Đã có sự chuyển động dữ dội của trái đất, sét đã giáng xuống từ bầu trời.
375. Các tiếng trống đã được vang lên, chư Thiên đã than vãn, và cơn mưa bông hoa từ bầu trời đã đổ xuống trái đất.
376. Ngọn núi chúa Meru cũng đã rung động tương tợ như người vũ công ở giữa sàn nhảy. Chính vì sầu muộn, biển cả đã có sự gào thét vô cùng thảm thiết.
377. Vào giây phút ấy, chư Thiên, các Long Vương, các Atula, và đấng Phạm Thiên bị chấn động đã thốt lên rằng: “Các pháp hữu vi quả thật là vô thường, theo như thế ấy vị ni này đã đi đến sự hoại diệt.
378. Và các vị ni nào là những người thực hành theo lời dạy của bậc Đạo Sư đã tháp tùng vị ni này, các vị ni ấy cũng không còn chấp thủ, như là ngọn lửa của cây đèn đã bị lụi tàn.”
379. Và đã có sự than vãn rằng: “Chao ôi! Các sự hội tụ có sự chia lìa là điểm kết thúc. Chao ôi! Tất cả pháp hữu vi là vô thường. Chao ôi! Cuộc sống có sự tiêu hoại là điểm kết thúc.”
380. Sau đó, chư Thiên và đấng Phạm Thiên (đã) tiến hành công việc thuận theo pháp thế gian, thích hợp thời điểm, rồi đã đi đến gần vị Đệ Nhất Ẩn Sĩ.
381. Khi ấy, bậc Đạo Sư đã bảo ngài Ānanda là vị có sự học ví như biển cả rằng: “Này Ānanda, hãy đi thông báo đến các tỳ khưu về việc Niết Bàn của mẹ.”
382. Khi ấy, ngài Ānanda, không còn nét hân hoan,[21] mắt đẫm lệ, đã nói với giọng nói nghẹn ngào rằng: “Hỡi chư tỳ khưu, hãy cùng nhau đi đến.
383. Hỡi chư tỳ khưu là các đệ tử của đấng Thiện Thệ đang ngụ ở các hướng đông, nam, tây, bắc, xin hãy lắng nghe lời nói của tôi.
384. Bà gotamī ấy, người đã ra sức nuôi dưỡng xác thân cuối cùng của đấng Hiền Trí, đã đi đến nơi an tịnh như là vì sao vào lúc ló dạng của mặt trời.
385. Sau khi đã thiết lập danh xưng cho vị ni đã ngự đến Niết Bàn là ‘Người Mẹ của đức Phật,’ đấng Lãnh Đạo, dầu là bậc Ngũ Nhãn, cũng không nhìn thấy nơi nào là nơi (bà) đã đi đến.
386. Vị nào có niềm tin vào đấng Thiện Thệ, và vị nào yêu quý bậc Đại Hiền Trí, xin vị đệ tử của đấng Thiện Thệ hãy thể hiện sự tôn kính đối với người mẹ của đức Phật.”
387. Sau nghe được điều ấy, các vị tỳ khưu thậm chí từ quốc độ vô cùng xa xôi đã nhanh chóng đi đến, một số vị là nhờ vào năng lực của đức Phật, một số vị là được rành rẽ về các phép thần thông.
388. Ở trong ngôi nhà mái nhọn cao quý đáng yêu toàn bộ làm bằng vàng sáng chói, các vị đã cùng nhau sắp đặt chiếc giường nhỏ là nơi bà Gotamī an nghỉ.
389. Bốn vị (Trời) hộ trì thế gian ấy đã cùng nhau gánh vác bằng những bả vai. Chư Thiên còn lại như là (vua Trời) Sakka, v.v… đã cùng nhau khiêng các ngôi nhà mái nhọn.
390. Toàn bộ đã có đến năm trăm ngôi nhà mái nhọn có màu sắc như ánh mặt trời vào mùa thu đều đã được tạo nên bởi vị Trời Vissakamma.
391. Toàn thể các vị tỳ khưu ni ấy đã được đặt nằm trên những chiếc giường được nâng lên đặt ở vai của chư Thiên rồi được tuần tự rước đi.
392. Có mái che đã che phủ toàn bộ bề mặt của không trung. Mặt trăng, mặt trời, cùng các vì sao đã được ghi dấu hiệu bằng vàng.
393. Vô số ngọn cờ đã được dựng lên, các tấm màn hoa đã được trải rộng. Từ trên không trung những đóa hoa sen đã rơi xuống, ở trên mặt đất là bông hoa đã được vun cao.
394. Mặt trăng và mặt trời được nhìn thấy và các vì sao lấp lánh. Và mặt trời dầu đã đi đến chính ngọ nhưng không làm cho nóng bức, tợ như là mặt trăng vậy.
395. Chư Thiên đã cúng dường bằng các hương thơm ở cõi trời, những tràng hoa thơm ngát, các khúc nhạc, những điệu vũ, và các bản đồng ca.
396. Và các vị Long Vương, chư Thiên, và các Phạm Thiên tùy theo khả năng, tùy theo sức lực đã cúng dường người mẹ của đức Phật đã Niết Bàn đang được rước đi.
397. Toàn bộ các vị ni đệ tử của đấng Thiện Thệ đã tịch diệt là được rước đi ở phía trước, bà Gotamī, người đã nuôi dưỡng đức Phật, được kính trọng, đã được rước đi ở phía sau.
398. Chư Thiên và nhân loại cùng với các Long Vương, A-tu-la, Phạm Thiên là ở phía trước, đức Phật cùng các vị Thinh Văn đi ở phía sau nhằm mục đích tôn vinh người mẹ.
399. Lễ viên tịch Niết Bàn của đức Phật đã là như thế nào chứ không được như thế này, lễ viên tịch Niết Bàn của bà Gotamī đã là vô cùng phi thường.
400. Ở lễ Niết Bàn của đức Phật, đức Phật không hiện diện (chỉ có) các vị tỳ khưu. Ở lễ Niết Bàn của bà Gotamī có đức Phật cũng như có các vị Sāriputta, v.v…
401. Các vị ấy đã thực hiện các giàn hỏa thiêu được làm bằng tất cả các loại vật thơm, được rải rắc các loại bột phấn thơm, rồi đã hỏa thiêu bà ở nơi đó.
402. Các phần còn sót lại đã được đốt cháy toàn bộ, toàn bộ phần còn lại là các hạt xương. Và khi ấy, ngài Ānanda đã nói lời nói khơi dậy nỗi chấn động:
403. “Bà Gotamī đã đi đến sự yên nghỉ, và thi thể của bà ấy đã được thiêu đốt. Tôi e rằng sự Niết Bàn của đức Phật sẽ là không lâu.”
404. Sau đó, được đức Phật khuyên bảo vị Ānanda ấy đã dâng lên đấng Bảo Hộ các xá-lợi của bà Gotamī đã được đặt vào trong bình bát của bà ấy.
405. Sau khi đã nâng lên các xá-lợi bằng bàn tay, vị Đệ Nhất Ẩn Sĩ đã nói rằng: “So sánh với thân cây to lớn có lõi đang đứng thẳng, –
406. – giống cây nào dầu có tầm vóc lớn hơn vẫn bị ngã xuống bởi vì tính chất vô thường, tương tợ như thế bà Gotamī của hội chúng tỳ khưu ni đã viên tịch Niết Bàn.
407. Ôi! Quả là ngạc nhiên đối với Ta! Ngay cả trong sự Niết Bàn của người mẹ chỉ còn lại phần nhỏ về xá-lợi, và không có sự sầu muộn hay than vãn.
408. Không có sự sầu khổ ở những người khác. Bà ấy có biển cả luân hồi đã được vượt qua, có sự bực bội đã lìa, được trạng thái mát mẻ, đã Niết Bàn tốt đẹp.
409. Bà đã là vị thông thái có tuệ vĩ đại, và tương tợ như thế ấy bà là vị có tuệ bao quát, là vị kỳ cựu trong số các tỳ khưu ni. Này các tỳ khưu, các ngươi hãy ghi nhận như thế.
410. Bà Gotamī đã có năng lực về thần thông, về thiên nhĩ giới, và đã có năng lực về trí biết tâm của người khác.
411. Bà đã biết được đời sống trước đây, thiên nhãn được thanh tịnh, tất cả các lậu hoặc đã được cạn kiệt, đối với bà ấy không còn tái sanh nữa.
412. Bà ấy đã có được trí hoàn toàn thanh tịnh về ý nghĩa, về pháp, về ngôn từ, và tương tợ y như thế về phép biện giải; vì thế không nên sầu muộn.
413. Giống như đối với ngọn lửa cháy sáng hủy hoại luôn cả chiếc búa sắt (nhưng khi) đã được dập tắt theo tuần tự thì nơi đi đến cũng không được biết.
414. Tương tợ như vậy, đối với những người đã được giải thoát đúng đắn, có sự vượt qua dòng lũ ràng buộc của các dục lạc, đã đạt được vị thế bất động thì không còn cảnh giới tái sanh nào đế nhận biết nữa.
415. Do đó, các ngươi hãy là hòn đảo của chính bản thân, có hành xứ là các sự thiết lập niệm. Sau khi tu tập bảy chi phần giác ngộ, các ngươi sẽ làm chấm dứt sự khổ đau.”
Vị tỳ khưu ni Mahāpajāpatigotamī đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão ni Mahāpajāpatigotamī là phần thứ bảy.
–ooOoo–
18. Ký Sự về Khemā
416. Trước đây một trăm ngàn kiếp, đấng Chiến Thắng tên Padumuttara, bậc Hữu Nhãn về tất cả các pháp, đấng Lãnh Đạo đã hiện khởi.
417. Khi ấy, tôi đã được sanh ra ở tại Haṃsavatī trong gia đình triệu phú được rạng rỡ với nhiều loại châu báu, tôi đã được thừa hưởng lạc thú lớn lao.
418. Tôi đã đi đến đấng Đại Hùng ấy và đã lắng nghe lời giảng Pháp. Sau đó, với niềm tịnh tín sanh khởi tôi đã đi đến nương tựa vào đấng Chiến Thắng.
419. Và tôi cũng đã yêu cầu mẹ cha rồi đã thỉnh mời đấng Hướng Đạo cùng với các vị Thinh Văn và đã cung ứng vật thực trong bảy ngày.
420. Và khi bảy ngày đã trôi qua, đấng Điều Phục Nhân đã thiết lập vị tỳ khưu ni đứng đầu trong số các vị ni có đại trí tuệ vào vị thế tối thắng.
421. Được hoan hỷ sau khi lắng nghe điều ấy, tôi đã thể hiện sự tôn kính đến bậc Đại Ẩn Sĩ ấy lần nữa rồi đã nằm dài xuống và đã phát nguyện vị thế ấy.
422. Do đó, đấng Chiến Thắng ấy đã nói với tôi rằng: “Điều phát nguyện của nàng (sẽ) được thành tựu. Sự tôn kính đã được nàng thực hiện ở nơi Ta cùng với Hội Chúng là có quả báu vô lượng.
423. Vào một trăm ngàn kiếp về sau này, bậc Đạo Sư tên Gotama, thuộc dòng dõi, xuất thân gia tộc Okkāka sẽ xuất hiện ở thế gian.
424. Nàng sẽ có tên là Khemā, là người thừa tự Giáo Pháp của vị (Phật) ấy, là chánh thống, được tạo ra từ Giáo Pháp, và sẽ đạt được vị thế tối thắng.”
425. Do nghiệp ấy đã được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ thân nhân loại tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.
426. Mệnh chung từ nơi ấy, tôi đã đi đến cõi trời Dạ Ma, từ đó đã đi đến cõi trời Đẩu Suất, và từ đó đến cõi Hóa Lạc Thiên, rồi từ đó đến cõi Tha Hóa Tự Tại.
427. Do mãnh lực của nghiệp ấy, ở bất cứ nơi nào tôi sanh ra, tôi đều đã được thiết lập vào ngôi chánh hậu của các vị vua ở chính tại các nơi ấy.
428. Từ nơi ấy chết đi (sanh) vào thân nhân loại, tôi đã được thiết lập vào ngôi chánh hậu của các đấng Chuyển Luân Vương và các vị vua cai quản các lãnh thổ.
429. Tôi đã thọ hưởng sự thành đạt ở giữa chư Thiên và loài người, đã được an vui ở tất cả các nơi, và đã luân hồi trong nhiều kiếp.
430. Trước đây chín mươi mốt kiếp, đấng Lãnh Đạo Thế Gian Vipassī là vị có ánh mắt thu hút, vị thấy rõ tất cả các pháp đã hiện khởi.
431. Tôi đã đi đến gặp bậc Lãnh Đạo Thế Gian, đấng Điều Phục Nhân ấy. Sau khi lắng nghe Giáo Pháp cao quý, tôi đã xuất gia vào đời sống không gia đình.
432. Sau khi thực hành Phạm hạnh trong Giáo Pháp của đấng Anh Hùng ấy mười ngàn năm, tôi đã gắn bó vào thiền tập, có sự nghe nhiều (học rộng).
433. Là vị thiện xảo về các biểu hiện của duyên (tùy thuận sanh khởi), có niềm tự tín ở bốn Sự Thật, là người khôn khéo, là vị thuyết giảng hay, là người thực hành theo lời dạy của bậc Đạo Sư.
434. Từ nơi ấy chết đi, tôi đã đạt đến cõi trời Đẩu Suất, là tiên nữ có danh tiếng. Tại nơi ấy, tôi đã vượt trội những người khác nhờ vào quả báu của việc thực hành Phạm hạnh.
435. Ở bất cứ nơi nào tôi được sanh ra, tôi đều có nhiều của cải, nhiều tài sản, là người có sự sáng suốt, có sắc đẹp, và có luôn cả hội chúng đã được rèn luyện nữa.
436. Do nghiệp ấy có sự gắn bó với Giáo Pháp của đấng Chiến Thắng, tất cả các sự thành tựu của tôi đều đạt được dễ dàng và là các niềm yêu quý của tâm.
437. Thậm chí ở bất cứ nơi đâu tôi sanh đến, bất cứ người nào là chồng của tôi đều không khinh miệt tôi nhờ vào quả báu tu tập của tôi.
438. Ở vào kiếp Bhadda này, trong số các vị đang thuyết giảng đã hiện khởi đấng cao quý tên Koṇāgamana, có danh tiếng vĩ đại, là thân quyến của đấng Phạm Thiên.
439. Khi ấy, tôi là hậu duệ của một gia đình vô cùng giàu có ở tại Bārāṇasī. Dhanañjāni, Sumedhā, và tôi nữa là ba người.
440. Là những người cộng sự trong việc bố thí trước đây và là những người tạo lập, chúng tôi đã xác định trú xá là của Hội Chúng rồi đã dâng cúng tu viện đến Hội Chúng.
441. Từ nơi ấy chết đi, tất cả chúng tôi đã đi đến cõi Đạo Lợi, đã đạt được tư cách cao tột về danh vọng, và tương tợ y như thế ở giữa loài người.
442. Chính ở vào kiếp này, trong số các vị đang thuyết giảng đã hiện khởi đấng cao quý tên Kassapa, thuộc dòng dõi, có danh tiếng vĩ đại, là thân quyến của đấng Phạm Thiên.
443. Khi ấy, có vị quân vương là đức vua xứ Kāsi tên Kikī ở tại kinh thành Bārāṇasī là người hộ độ của bậc Đại Ẩn Sĩ.
444. Tôi đã là người con gái lớn nhất của vị ấy, được nổi danh là Samaṇī. Sau khi lắng nghe Giáo Pháp của đấng Chiến Thắng cao cả, tôi đã xin xuất gia.
445. 446. Cha đã không cho phép chúng tôi. Khi ấy, là những người con gái của đức vua khéo được nuôi dưỡng, chúng tôi đã thực hành Phạm hạnh của người thiếu nữ ngay tại nhà trong hai chục ngàn năm, không xao lãng. Được hoan hỷ, bảy người con gái đã vui thích trong việc hộ độ đức Phật.
447. Samaṇī, Samaṇaguttā, Bhikkhunī, Bhikkhudāsikā, Dhammā, luôn cả Sudhammā nữa, và Saṅghadāsikā là thứ bảy.
448. Tôi, Uppalavaṇṇā, Paṭācārā, Kuṇḍalā, Kisāgotamī, Dhammadinnā, và Visākhā là thứ bảy (vào thời hiện tại).
449. Có lần nọ đấng Mặt Trời của nhân loại ấy thuyết giảng Giáo Pháp tuyệt vời. Sau khi lắng nghe bài Kinh Mahānidāna[22] tôi đã học thuộc lòng bài Kinh ấy.
450. Do các nghiệp ấy đã được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ thân nhân loại tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.
451. Và trong kiếp cuối cùng hiện nay, tôi là người con gái vui tính, đáng mến, đáng yêu của đức vua Madda ở tại kinh thành Sāgalā.
452. Cùng với sự việc đã được sanh của tôi là trong kinh thành ấy đã có sự thái bình. Vì thế, tên “Khemā” đã được sanh lên cho tôi phát xuất từ công đức (ấy).
453. Khi đạt đến tuổi thanh xuân, tôi được tô điểm bởi sắc đẹp và sự mặn mà, khi ấy người cha đã dâng tôi cho đức vua Bimbisāra.
454. Tôi đã là người nữ vô cùng yêu quý của vị (vua) ấy. Thích thú trong việc trau chuốt xác thân, tôi đã không tỏ ra rộng lượng đối với những lời nói về sự xấu xa của các sắc thân.
455. Khi ấy, với sáng kiến nhằm giúp đỡ cho tôi, đức vua Bimbisāra đã ngợi khen về Veḷuvana(Trúc Lâm) và đã bảo các ca sĩ ca hát cho tôi nghe rằng:
456. “Chúng tôi quan niệm rằng: ‘Người nào chưa nhìn thấy Veḷuvana đáng yêu, chốn ngụ cư của đấng Thiện Thệ, thì người ấy chưa nhìn thấy (vườn hoa) Nandana (của cõi trời).
457. Người nào đã nhìn thấy Veḷuvana là (vườn hoa) hoan lạc Nandana của nhân loại, người ấy đã nhìn thấy (vườn hoa) Nandana vô cùng hoan lạc của vị Thiên Vương.
458. Chư Thiên sau khi rời (vườn hoa) Nandana ngự xuống mặt đất và đã nhìn thấy Veḷuvana đáng yêu thì vô cùng sửng sốt và không còn tiếc nuối nữa.
459. (Veḷuvana) đã được sanh lên do phước báu của đức vua, được làm đẹp nhờ vào phước báu của đức Phật, có ai là người thuật lại một cách trọn vẹn về tổng thể các đức tính tốt đẹp của khu vườn ấy?”
460. Sau khi nghe được sự thành công của khu rừng ấy, đối với tôi là có sự quyến rũ vào tai. Lúc bấy giờ, có lòng mong muốn nhìn thấy khu vườn ấy tôi đã trình lên đức vua.
461. Và khi ấy, vị lãnh chúa ấy đã sốt sắng ra lệnh cho đoàn tùy tùng đông đảo đưa tôi đi để nhìn xem khu vườn ấy (và đã nói với tôi rằng):
462. “Hỡi nàng là của cải vĩ đại, nàng hãy đi, hãy nhìn xem khu rừng đem lại sự bổ ích cho cặp mắt, là nơi luôn luôn chói sáng với sự vinh quanh, được rực rỡ với hào quang của đấng Thiện Thệ.”
463. Và vào lúc đấng Hiền Trí đã đi vào kinh thành Giribbaja để khất thực, đúng vào lúc ấy tôi đã đi đến để nhìn thấy khu rừng.
464. Khi ấy, khu rừng cây trải dài ấy[23] được rì rào tiếng vo ve của ong vò vẽ các loại, được phối hợp với tiếng rù rù của loài chim cu, được nhảy múa bởi đám chim công.
465. (Khu rừng cây) có ít tiếng động, không bị phân tán, được điểm tô bằng các đường kinh hành khác nhau, được rải rác với các cụm liêu cốc, được nổi bậc với các hành giả cao quý.
466. Trong khi dạo quanh, tôi đã suy nghĩ rằng: “Mắt ta có được thành quả.” Cũng tại nơi ấy, tôi đã nhìn thấy vị tỳ khưu trẻ gắn bó (thiền tập) và đã suy gẫm rằng:
467. “Vị này ở vào độ tuổi rất trẻ và được phú cho dáng vóc dễ thương như là mùa xuân lại chịu ở trong khu rừng dẫu cho là đáng yêu như vầy.
468. Ngồi ở gốc cây, đầu cạo, đắp y hai lớp, tham thiền, quả nhiên vị tỳ khưu này đã từ bỏ khoái lạc sanh lên từ đối tượng (bên ngoài).
469. Phải chăng con người vô cùng hiền thiện này nên thọ hưởng (ngũ) dục cho thoải mái với cuộc đời tại gia, sau này về già mới nên thực hành Giáo Pháp?”
470. Sau khi biết được rằng “Suññaka” là hương thất, là chỗ ngụ của đấng Chiến Thắng, tôi đã đi đến gần và đã nhìn thấy đấng Chiến Thắng tợ như mặt trời đang mọc lên.
471. (Tôi đã nhìn thấy đấng Chiến Thắng) ngồi mỗi một mình một cách an lạc, đang được quạt bởi người nữ quý phái. Sau khi nhìn thấy tôi đã suy gẫm như vầy: “Bậc Nhân Ngưu này không có quê kệch.”
472. Người thiếu nữ ấy có diện mạo (sáng) như vàng, có khuôn mặt và đôi mắt như đóa sen, có môi đỏ, có răng màu hoa nhài, có sự thu hút con tim và ánh mắt.
473. Có đôi tai lấp lánh khuyên vàng, có ngực dạng bầu bầu, có eo thon, có mông đẹp, có đùi thân chuối, và có đồ trang sức xinh xắn.
474. Với chiếc áo khoác ngoài lên đôi vai gợi tình, với y phục tinh khiết màu xanh, được sở hữu tính chất phụ nữ với hình dáng (nhìn) không thể nào thỏa mãn.
475. Sau khi nhìn thấy nàng ấy, tôi đã suy nghĩ như vầy: “Ôi, nàng này tuyệt đẹp, ta chưa từng nhìn thấy trước đây bằng (cặp) mắt này.”
476. Kế đó, bị chế ngự bởi sự già, nàng ấy (trở nên) có dung nhan tàn tạ, khuôn mặt chảy dài, răng sứt mẻ, đầu bạc, miệng có nước dãi, dơ dáy.
477. (Nàng ấy) có tai bị co rút, mắt trắng (đục), bộ ngực xấu xí đong đưa, tất cả các bộ phận cơ thể bị nhăn nheo chảy xệ, thân thể nổi đầy gân.
478. (Nàng ấy) có lưng bị còng, có gậy là bạn, vô cùng nhợt nhạt, gầy còm, trong lúc run rẩy bị té nhào, chốc chốc lại bị hụt hơi.
479. Do đó, tôi đã có sự chấn động, kinh ngạc, lông dựng đứng: “Thật là xấu hổ cho xác thân bất tịnh là nơi mà những kẻ ngu hứng thú!”
480. Lúc bấy giờ, sau khi nhìn thấy (tôi có) tâm bị chấn động, đấng Đại Bi, bậc Thiện Thệ với tâm phấn chấn đã nói lên những lời kệ này:
481. “Này Khemā, hãy nhìn xem thân thể bệnh hoạn, bất tịnh, hôi thối đang tiết ra, đang rò rỉ lại được hứng thú đối với những kẻ ngu.
482. Nàng hãy tu tập tâm cho được chuyên nhất khéo tập trung về đề mục bất mỹ, niệm hãy được hướng đến thân, nàng hãy có nhiều sự nhàm chán.
483. Thân này như thế nào thì xác kia như vậy, xác kia như thế nào thì thân này như vậy. Nàng hãy lìa bỏ sự mong muốn về thân ở bên trong lẫn bên ngoài.
484. Và nàng hãy tu tập về vô tướng, hãy dứt bỏ ngã mạn ngũ ngầm. Từ đó, có được sự lãnh hội về ngã mạn nàng sẽ sống thanh tịnh.
485. Những người bị đắm nhiễm ái dục rơi vào dòng chảy, tương tợ như con nhện sa vào mạng lưới được tạo nên bởi chính nó, sau khi cắt đứt luôn cả điều ấy, xuất gia, từ bỏ dục lạc, trở thành những người vô tư lự.”
486. Kế đó, sau khi biết được tôi có tâm đã được sẵn sàng, đấng Điều Phục Nhân đã thuyết giảng bài Kinh Mahānidāna[24] nhằm hướng dẫn cho tôi.
487. Sau khi lắng nghe bài kinh tuyệt vời ấy, tôi đã tưởng nhớ về quá khứ. Tôi được an tịnh ngay khi đang đứng tại nơi ấy, tôi đã làm cho Pháp nhãn được thanh tịnh.
488. Ngay khi ấy, tôi đã cúi xuống ở nơi bàn chân của bậc Đại Hiền Trí nhằm mục đích bày tỏ tội lỗi, và đã nói lời nói này:
489. “Bạch đấng Toàn Tri, con kính lễ Ngài! Bạch đấng hành bi mẫn, con kính lễ Ngài! Bạch đấng đã vượt qua luân hồi, con kính lễ Ngài! Bạch đấng ban cho sự Bất Tử, con kính lễ Ngài!
490. Con đã lao theo sự nắm bắt tà kiến, bị lầm lạc trong ái dục, nhờ vào Ngài với phương pháp đúng đắn con đã được dẫn dắt, được thỏa thích trong sự rèn luyện.
491. Do việc không nhìn thấy các bậc Đại Hiền Trí như thế ấy, các chúng sanh không có phước phần phải gánh chịu khổ đau lớn lao trong biển cả luân hồi.
492. Vào lúc con đã không nhận ra Ngài là chốn nương nhờ của thế gian, là bậc không dục vọng đã đạt đến tận cùng của sự chết, là sự lợi ích cận kề, con xin bày tỏ lỗi lầm ấy.
493. Bị đắm say xác thân, con đã không đến gần bậc có lợi ích lớn, vị có sự bố thí cao quý, hoài nghi là: ‘Không có lợi ích,’ con xin bày tỏ lỗi lầm ấy.”
494. Khi ấy, trong lúc rưới rắc sự Bất Tử đến tôi, bậc Đại Bi, đấng Chiến Thắng, vị có giọng nói vang ngọt ngào, đã nói rằng: “Này Khemā, hãy đứng lại.”
495. Khi ấy, sau khi đã đê đầu đảnh lễ và đã thực hiện việc nhiễu quanh vị ấy, tôi đã ra đi. Sau khi nhìn thấy đấng quân vương, tôi đã nói lời nói này:
496. “Ôi vị khuất phục kẻ thù, phương pháp đúng đắn này đã được suy tính bởi bệ hạ. Do ước muốn nhìn thấy khu rừng mà bậc Hiền Trí, vị ban phát Niết Bàn, đã được nhìn thấy.
497. Tâu bệ hạ, nếu ngài vui thích thiếp sẽ xuất gia trong Giáo Pháp của vị như thế ấy. Nhờ vào lời nói của bậc Hiền Trí, thiếp đã nhàm chán sắc thân.”
Tụng phẩm thứ nhì.
498. Khi ấy, vị lãnh chúa ấy đã chắp tay lên và nói rằng: “Này hiền thê, trẫm cho phép nàng. Cầu chúc sự xuất gia được thành tựu đến nàng.”
499. Và sau khi xuất gia, khi ấy đã được nửa tháng, sau khi nhìn thấy sự sáng lên của ngọn đèn và sự diệt tắt, tôi có tâm bị chấn động.
500. Nhàm chán tất cả các hành, được rành rẽ về biểu hiện của duyên (tùy thuận sanh khởi), sau khi đã vượt qua bốn dòng nước lũ,[25] tôi đã đạt được phẩm vị A-la-hán.
501. Tôi đã có năng lực về thần thông, về thiên nhĩ giới, và tôi cũng đã có năng lực về trí biết tâm của người khác.
502. Tôi biết được đời sống trước đây, thiên nhãn được thanh tịnh, tất cả các lậu hoặc đã được cạn kiệt, giờ đây không còn tái sanh nữa.
503. Trí tuệ hoàn toàn thanh tịnh của tôi về ý nghĩa, về pháp, về ngôn từ, và tương tợ y như thế về phép biện giải là được thành tựu trong Giáo Pháp của đức Phật.
504. Tôi được thiện xảo về các (pháp) thanh tịnh, tự tin trong vấn đề tranh luận, biết về phương thức của vi diệu pháp, và đã đạt được năng lực ở Giáo Pháp.
505. Sau đó, được đức vua (Pasenadi) chủ quản xứ Kosala hỏi các câu hỏi khôn khéo về vấn đề vật thực, tôi đã giải thích đúng theo bản thể.
506. Sau đó, vị vua ấy đã đi đến gặp đấng Thiện Thệ và đã hỏi lại. Các điều ấy đã được tôi giải thích như thế nào thì đức Phật đã giải thích y như thế ấy.
507. Đấng Chiến Thắng, bậc Tối Thượng Nhân hoan hỷ về đức hạnh ấy đã thiết lập tôi vào vị thế tối thắng là “Vị đứng đầu các vị có đại tuệ” trong số các vị tỳ khưu ni.
508. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
509. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
510. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được tôi đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Tỳ khưu ni Khemā đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão ni Khemā là phần thứ tám.
–ooOoo–
19. Ký Sự về Uppalavaṇṇā
511. Tỳ khưu ni Uppalavaṇṇā, được đạt đến sự toàn hảo về thần thông, đã đảnh lễ ở bàn chân của bậc Đạo Sư rồi đã nói lời nói này:
512. “Bạch đấng Đại Hiền Trí, con xin trình rằng con đã vượt qua sự tái sanh luân hồi, đã đạt được vị thế bất động, con đã cạn kiệt tất cả khổ đau.
513. Cho đến nhóm người có lòng tịnh tín vào Giáo Pháp của đấng Chiến Thắng, và con có lỗi lầm đối với những ai, mong rằng họ hãy tha thứ ở trước mặt đấng Chiến Thắng.
514. Bạch đấng Đại Hùng, con xin trình rằng trong khi luân chuyển ở vòng luân hồi, nếu con có điều lầm lỗi xin Ngài tha thứ cho điều sai trái ấy.”
515. “Nàng cũng nên phô bày thần thông cho những người hành theo Giáo Pháp của Ta được thấy. Hôm nay nàng hãy cắt đứt sự hoài nghi cho cả tứ chúng.”
516. “Bạch đấng Đại Hùng, bậc Trí Tuệ, đấng Quang Minh, con là con gái của Ngài, con đã làm được nhiều công việc khó làm và vô cùng khó làm.
517. Màu da của con chính là màu của hoa sen, tên gọi Uppala là theo tên gọi của hoa sen. Bạch đấng Đại Hùng, con là nữ Thinh Văn của Ngài. Bạch đấng Hữu Nhãn, con xin đảnh lễ ở bàn chân (của Ngài).
518. Trong nhiều trăm lần tái sanh, Rāhula và luôn cả con nữa đã được sanh ra trong cùng một dòng tộc do ý muốn tương tợ nhau.
519. Có sự sanh ra cùng nhau trong nhiều lần tái sanh của con. Trong kiếp sống cuối cùng được thành tựu, cả hai lại có dòng tộc khác nhau.
520. Và người con trai tên là Rāhula, người con gái tên gọi Uppala. Bạch đấng Anh Hùng, xin hãy nhìn xem thần thông của con, con sẽ thị hiện năng lực đến bậc Đạo Sư.”
521. Vị ni đã đặt bốn đại dương ở trong lòng bàn tay, tương tợ như vị y sĩ Jīvaka Komārabhacca đã đổ dầu vào bàn tay.
522. Vị ni đã bứng trái đất lên rồi đặt ở trong lòng bàn tay, tương tợ như người thiếu niên trẻ tuổi đã nhổ lên cọng cỏ muñja nhiều màu sắc.
523. Vị ni đã đưa bàn tay tợ như vũ trụ che ở đỉnh đầu và đã làm đổ xuống giọt mưa nhiều màu sắc thành nhiều đợt.
524. Vị ni đã biến mặt đất thành cái cối giã, đã biến hạt cát thành thóc lúa, đã biến ngọn núi Sineru thành cái chày, rồi đã giã nát tương tợ như cô thiếu nữ (giã lúa gạo).
525. “Con là con gái của đức Phật tối thượng có tên gọi là Uppala, đã có được năng lực về các thắng trí, là người thực hành theo lời dạy của Ngài.
526. Bạch đấng Hữu Nhãn, sau khi đã thực hiện và đã phô bày vô số phép biến hóa đến vị Lãnh Đạo Thế Gian, sau khi công bố tên và dòng họ, con xin đảnh lễ ở bàn chân (của Ngài).
527. Bạch đấng Đại Hiền Trí, con đã có năng lực về thần thông, về thiên nhĩ giới, và đã có năng lực về trí biết tâm của người khác.
528. Con biết được đời sống trước đây, thiên nhãn được thanh tịnh, tất cả các lậu hoặc đã được cạn kiệt, giờ đây không còn tái sanh nữa.
529. Trí tuệ của con về ý nghĩa, về pháp, về ngôn từ, và tương tợ y như thế về phép biện giải là được trong sạch, không bợn nhơ nhờ vào quyền năng của bậc Đại Ẩn Sĩ.
530. Bạch đấng Đại Hiền Trí, nhiều việc làm hướng thượng của con đến các đấng Chiến Thắng cao cả trong quá khứ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp là nhằm mục đích về Ngài.
531. Bạch đấng Hiền Trí, thiện nghiệp nào của con đã được con làm tròn đủ, xin Ngài hãy nhớ lại. Bạch đấng Đại Hùng, phước báu đã được tích lũy bởi con là nhằm mục đích về Ngài.
532. Bạch đấng Đại Hùng, sau khi tránh xa những nơi không xứng đáng, trong khi từ bỏ tánh hạnh xấu, mạng sống quý báu đã được từ bỏ là nhằm mục đích về Ngài.
533. Bạch đấng Đại Hiền Trí, con đã bố thí mười ngàn koṭi, và mạng sống của con đã được con dứt bỏ là nhằm mục đích về Ngài.”
534. Khi ấy, vô cùng sửng sốt, tất cả đã chắp tay lên ngay ở đầu và đã nói rằng: “Thưa ni sư, làm thế nào ni sư có được sự nỗ lực về thần thông không thể sánh bằng?”
535. Trước đây một trăm ngàn kiếp, khi ấy tôi đã là con gái của Long Vương, có tên Vimalā, được công nhận là tốt lành trong số những người con gái.
536. Có vị chúa rồng là loài rồng khổng lồ, được tịnh tín với Giáo Pháp của đấng Chiến Thắng, nên đã thỉnh mời đấng Đại Quyền Lực Padumuttara cùng với các vị Thinh Văn.
537. (Vị ấy đã cho chuẩn bị) mái che làm bằng châu báu, ghế dài làm bằng châu báu, và vật dụng làm bằng châu báu được rắc rải các hạt cát châu báu.
538. Và vị ấy đã cho chuẩn bị đường đi được trang hoàng với các ngọn cờ bằng châu báu. Trong khi được vang lên bởi các nhạc cụ, vị ấy đã đi ra tiếp rước bậc Toàn Giác.
539. Được tháp tùng bởi tứ chúng, đấng Lãnh Đạo Thế Gian đã ngồi xuống ở chỗ ngồi cao nhất trong cung điện của vị chúa rồng.
540. Vị Long Vương có danh tiếng vĩ đại đã dâng lên thức ăn nước uống vật thực cứng, vật thực mềm có giá trị lớn lao vô cùng quý báu.
541. Sau khi thọ thực, đấng Toàn Giác đã rửa bình bát theo khuôn phép, rồi đã nói lời tùy hỷ đến vị Long Vương có đại thần lực.
542. Sau khi nhìn thấy đấng Toàn Tri một cách trọn vẹn, người con gái có danh vọng lớn lao của vị Long Vương đã được tịnh tín đối với bậc Đạo Sư, và tâm đã được gắn liền chặt chẽ với ý.
543. Và sau khi biết được tâm của tôi, bậc Đại Hùng, đấng Lãnh Đạo Padumuttara vào giây phút ấy đã bảo vị tỳ khưu ni thị hiện thần thông.
544. Được tự tin, vị tỳ khưu ni ấy đã thị hiện nhiều loại thần thông. Được hoan hỷ, tràn đầy niềm phấn khởi, tôi đã nói với bậc Đạo Sư điều này:
545. “Bạch đấng Anh Hùng, con cũng đã nhìn xem loại thần thông này nhưng với tâm vui mừng khác. Làm thế nào nàng ấy đã được vô cùng tự tin về thần thông?”
546. “Người con gái có đại thần lực của Ta là chánh thống, được sanh ra từ miệng, là người thực hành theo Giáo Pháp của Ta, vô cùng tự tin về thần thông.”
547. Sau khi lắng nghe lời nói của đức Phật, khi ấy tôi đã ước nguyện như vầy: “Mong sao cho tôi cũng được vô cùng tự tin về thần thông như thế ấy.”
548. Được hoan hỷ, với tâm vui mừng, tôi đã đạt đến ý nghĩ cao quý rằng: “Bạch đấng Lãnh Đạo, mong sao trong tương lai xa vời con sẽ là như thế ấy.”
549. Ở chiếc ghế dài làm bằng ngọc ma-ni tại mái che sáng ngời, tôi đã làm hài lòng đấng Lãnh Đạo Thế Gian cùng với hội chúng bằng cơm ăn và nước uống.
550. Tôi đã cúng dường đấng Lãnh Đạo Thế Gian đóa hoa sen xanh cao quý của loài rồng tên là Aruṇa (nguyện rằng): “Mong sao cho tôi có được màu da như thế này.”
551. Do nghiệp ấy đã được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ thân nhân loại tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.
552. Từ nơi ấy chết đi, được sanh vào loài người, tôi đã dâng vật thực được đậy lại bằng những đóa sen xanh đến đấng Tự Chủ.
553. Trước đây chín mươi mốt kiếp, đã hiện khởi đấng Lãnh Đạo tên Vipassī, là vị có ánh mắt thu hút, là bậc Hữu Nhãn về tất cả các pháp.
554. Khi ấy, là con gái của người triệu phú ở kinh thành Bārāṇasī, tôi đã thỉnh mời đấng Toàn Giác vị Lãnh Đạo Thế Gian cùng với hội chúng.
555. Sau khi dâng cúng đại thí và đã cúng dường những đóa sen xanh đến đấng Hướng Đạo, tôi đã ước nguyện về sự xinh đẹp của làn da chỉ bằng tâm ý.
556. Ở vào kiếp Bhadda này, trong số các vị đang thuyết giảng đã hiện khởi đấng cao quý tên Kassapa, thuộc dòng dõi, có danh tiếng vĩ đại, là thân quyến của đấng Phạm Thiên.
557. Khi ấy, có vị quân vương là đức vua xứ Kāsi tên Kikī ở tại kinh thành Bārāṇasī là người hộ độ của bậc Đại Ẩn Sĩ.
558. Tôi đã là người con gái thứ hai của vị (vua) ấy có tên là Samaṇagutta. Sau khi lắng nghe Giáo Pháp của đấng Chiến Thắng cao cả, tôi đã xin xuất gia.
559. 560. Cha đã không cho phép chúng tôi. Khi ấy, là những người con gái của đức vua khéo được nuôi dưỡng, chúng tôi đã thực hành Phạm hạnh của người thiếu nữ ngay tại nhà trong hai chục ngàn năm, không xao lãng. Được hoan hỷ, bảy người con gái đã vui thích trong việc hộ độ đức Phật.
561. Samaṇī, Samaṇaguttā, Bhikkhunī, Bhikkhudāsikā, Dhammā, luôn cả Sudhammā nữa, và Saṅghadāsikā là thứ bảy.
562. Tôi, Khemā có trí tuệ, Paṭācārā, Kuṇḍalā, Kisāgotamī, Dhammadinnā, và Visākhā là thứ bảy (vào thời hiện tại).
563. Do các nghiệp ấy đã được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ thân nhân loại tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.
564. Từ nơi ấy chết đi, được sanh vào giữa loài người, trong đại gia tộc, tôi đã dâng đến vị A-la-hán tấm vải màu vàng mịn màng quý giá.
565. Từ nơi ấy chết đi, tôi đã được sanh vào gia tộc dòng Bà-la-môn ở trong thành Ariṭṭha, là con gái của Tiriṭavaccha, có nét quyến rũ, tên là Ummādantī.
566. Từ nơi ấy chết đi, được sanh ra vào gia đình nọ không được giàu có lắm ở trong quốc độ, khi ấy tôi đã chăm sóc lúa sāli.
567. Sau khi nhìn thấy vị Độc Giác Phật, tôi đã dâng năm trăm hạt cốm được che đậy bởi những đóa hoa sen (và đã ước nguyện) năm trăm người con trai.
568. Sau khi dâng cúng mật ong đến đấng Tự Chủ, tôi đã ước nguyện về những người con trai ấy.[26] Từ nơi ấy chết đi, tôi đã được sanh ra ở trong lòng đóa hoa sen ở trong rừng.
569. Tôi đã trở thành chánh hậu của đức vua xứ Kāsi, được tôn vinh kính trọng. Tôi đã sanh ra năm trăm vị hoàng tử không thiếu (một vị).
570. Khi đạt được tuổi thanh niên, những người con trai ấy trong lúc chơi giỡn cuộc vui ở trong nước đã nhìn thấy đóa hoa sen bị rụng cánh, họ đã trở thành các vị Lãnh Đạo Độc Giác.
571. Không có những người con trai cao quý ấy, tôi đây có sự sầu muộn. Chết đi, tôi đã được sanh ra ở ngôi làng nhỏ tại sườn núi Isigili.
572. 573. Khi ấy, tôi đã lớn lên, có con cái. Và tôi đã mang món cháo cho những người con trai và cả người chồng nữa. Trong khi đi tôi đã nhìn thấy tám vị Lãnh Đạo Độc Giác đang đi vào làng để khất thực, và đã tưởng nhớ lại những người con trai. Khi ấy, bầu sữa tôi đã tiết ra ngoài bởi lòng thương yêu những người con trai của tôi.
574. Sau đó, được tịnh tín tôi đã tự tay mình dâng món cháo đến các vị ấy. Từ nơi ấy chết đi, tôi đã đạt đến vườn hoa Nandana ở cõi Tam Thập.
575. “Bạch đấng Đại Hùng, con đã trải qua an lạc khổ đau, đã luân hồi cõi này cõi khác, và mạng sống đã được dứt bỏ là nhằm mục đích về Ngài.”
576. Như vậy là đã có khổ đau đa dạng và thành công nhiều hình thức. Khi đạt đến cuộc sống cuối cùng, tôi đã được sanh ra ở thành Sāvatthī.
577. Tôi đã có được sự thành tựu về tất cả các dục lạc ở trong gia đình triệu phú có đại tài sản, được rực rỡ bởi nhiều loại châu báu khác nhau, được an vui, được chu cấp như thế ấy.
578. Tôi đã được kính trọng, được tôn vinh, được nể vì, được cung kỉnh như thế ấy, được thành tựu vẻ xinh đẹp của dáng vóc, được trọng vọng ở các gia đình.
579. Và tôi đã được ao ước vô cùng mãnh liệt bởi những người có sắc tướng, giàu có, sang trọng, và được ao ước bởi hàng trăm người con trai nhà triệu phú.
580. Sau khi từ bỏ gia đình, tôi đã xuất gia vào đời sống không gia đình. Không đầy nửa tháng, tôi đã đạt được phẩm vị A-la-hán.
581. Sau khi đã hóa hiện bằng thần thông thành chiếc xe bốn ngựa, tôi đã đảnh lễ ở bàn chân của đức Phật, đấng Bảo Hộ Thế Gian, bậc Quang Vinh.
582. “Hỡi vị tỳ khưu ni, sau khi đi đến tột đỉnh của việc đã được phát triển toàn diện, nàng một mình đứng ở gốc cây Sālā. Và này người có phẩm chất về sắc đẹp, nàng không có người thứ nhì, nàng không hãi sợ lũ ngu dốt trong số những kẻ tồi bại hay sao?”[27]
583. “Cho dầu là trăm ngàn kẻ tồi bại như ngươi có đi đến nơi đây, ta cũng không chao động sợi lông, ta cũng không bối rối. Này Ma Vương, ngươi chỉ một mình, ta không hãi sợ ngươi.”
584. “Hỡi nàng, ta sẽ biến mất hoặc ta sẽ đi vào trong bụng của nàng. Dẫu ta đang đứng ở ngay giữa lông mày, nàng vẫn không nhìn thấy ta.”
585. “Các nền tảng của thần thông đã khéo được tu tập ở trong tâm, có được năng lực. Này ông bạn, ta đã được thoát khỏi mọi sự trói buộc, ta không sợ hãi ngươi.”
586. “Các dục như là gươm giáo, các uẩn như là cái thớt của chúng. Điều ngươi gọi là sự thích thú trong các dục, điều ấy giờ đây là sự không thích đối với ta.”
587. “Sự vui thích đã được phá hủy ở tất cả các nơi. Khối đống mê mờ đã được phá tan. Này Ác Nhân, ngươi hãy biết như thế. Này Tử Thần, người đã bị đánh bại.”
588. Hoan hỷ về đức hạnh ấy, đấng Chiến Thắng, bậc Lãnh Đạo, ở giữa các chúng đã thiết lập tôi vào vị thế tối thắng là “Vị đứng đầu trong số các vị ni có thần thông.”
589. Bậc Đạo Sư đã được tôi phục vụ, lời dạy của đức Phật đã được tôi thực hành, nhiệm vụ nặng nề đã được đặt xuống, lối dẫn đi tái sanh đã được xóa tan.
590. Vì mục đích nào tôi đã rời khỏi gia đình xuất gia vào đời sống không gia đình, mục đích ấy tức là sự đoạn tận tất cả các sự trói buộc đã được tôi đạt đến.
591. Trong phút chốc, hàng ngàn người từ các nơi dâng lên y phục, đồ ăn khất thực, thuốc men, và chỗ nằm ngồi.
592. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
593. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
594. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được tôi đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Tỳ khưu ni Uppalavaṇṇā đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão ni Uppalavaṇṇā là phần thứ chín.
–ooOoo–
20. Ký Sự về Paṭācārā
595. Trước đây một trăm ngàn kiếp, vị Lãnh Đạo, đấng Chiến Thắng tên Padumuttara, bậc thông suốt về tất cả các pháp đã hiện khởi.
596. Khi ấy, tôi đã được sanh ra ở tại Haṃsavatī, trong gia đình triệu phú được rạng rỡ với vô số loại châu báu, tôi đã được thừa hưởng lạc thú lớn lao.
597. Tôi đã đi đến bậc Đại Hùng ấy và đã lắng nghe lời giảng Pháp. Sau đó, với niềm tịnh tín sanh khởi tôi đã đi đến nương tựa vào đấng Chiến Thắng.
598. Sau đó, đấng Lãnh Đạo đã tán dương vị tỳ khưu ni có sự tự tin về các điều được phép hoặc không được phép và khiêm tốn như thế ấy, là đứng đầu trong số các vị ni thông suốt về Luật.
599. Khi ấy, với tâm hoan hỷ, có sự mong muốn về vị thế ấy, tôi đã thỉnh mời đấng Thập Lực, vị Lãnh Đạo Thế Gian cùng với hội chúng.
600. Sau khi đã dâng vật thực trong bảy ngày, tôi đã dâng cúng ba y, rồi đã quỳ xuống đê đầu ở bàn chân và đã nói lời nói này:
601. “Bạch đấng Anh Hùng, vị ni đã được Ngài tán dương vào tám ngày trước đây. Bạch đấng Lãnh Đạo, nếu được thành tựu con sẽ trở thành như vị ni ấy.”
602. Khi ấy, bậc Đạo Sư đã nói với tôi rằng: “Này cô gái hiền thục, chớ lo ngại, hãy yên tâm. Trong thời vị lai xa xôi, nàng sẽ đạt được điều mong ước ấy.
603. Vào một trăm ngàn kiếp về sau này, bậc Đạo Sư tên Gotama, thuộc dòng dõi, xuất thân gia tộc Okkāka sẽ xuất hiện ở thế gian.
604. Nàng sẽ trở thành nữ Thinh Văn của bậc Đạo Sư, là người thừa tự Giáo Pháp của vị (Phật) ấy, là chánh thống, được tạo ra từ Giáo Pháp, có tên là Paṭācārā.”
605. Khi ấy, tôi đã được hoan hỷ. Với tâm từ mẫn, tôi đã phục vụ đấng Chiến Thắng, bậc Lãnh Đạo Thế Gian cùng với hội chúng từ đó cho đến hết cuộc đời.
606. Do nghiệp ấy đã được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ thân nhân loại tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.
607. Ở vào kiếp Bhadda này, trong số các vị đang thuyết giảng đã hiện khởi đấng cao quý tên Kassapa, thuộc dòng dõi, có danh tiếng vĩ đại, là thân quyến của đấng Phạm Thiên.
608. Khi ấy, có vị quân vương là đức vua xứ Kāsi tên Kikī ở tại kinh thành Bārāṇasī là người hộ độ của bậc Đại Ẩn Sĩ.
609. Tôi đã là người con gái thứ ba của vị (vua) ấy, được nổi danh là Bhikkhunī. Sau khi lắng nghe Giáo Pháp của đấng Chiến Thắng cao cả, tôi đã xin xuất gia.
610. 611. Cha đã không cho phép chúng tôi. Khi ấy, là những người con gái của đức vua khéo được nuôi dưỡng, chúng tôi đã thực hành Phạm hạnh của người thiếu nữ ngay tại nhà trong hai chục ngàn năm, không xao lãng. Được hoan hỷ, bảy người con gái đã vui thích trong việc hộ độ đức Phật.
612. Samaṇī, Samaṇaguttā, Bhikkhunī, Bhikkhudāsikā, Dhammā, luôn cả Sudhammā nữa, và Saṅghadāsikā là thứ bảy.
613. Tôi, Uppalavaṇṇā, Khemā, Bhikkhunī hiền thục, Kisāgotamī, Dhammadinnā, và Visākhā là thứ bảy (vào thời hiện tại).
614. Do các nghiệp ấy đã được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ thân nhân loại tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.
615. Và trong kiếp sống cuối cùng hiện nay, tôi đã được sanh vào gia đình triệu phú sung túc, thịnh vượng, có tài sản lớn lao ở trong kinh thành Sāvatthī.
616. Và khi đã đạt đến tuổi thanh xuân, tôi đã bị tác động của sự suy tầm. Sau khi gặp người đàn ông quê mùa, tôi đã bỏ đi cùng với người ấy.
617. Tôi đã sanh ra một người con trai, đứa thứ nhì còn ở trong bụng của tôi. Khi ấy, tôi đã ước muốn mãnh liệt rằng: “Ta sẽ gặp lại cha mẹ.”
618. Người chồng của tôi đã không bằng lòng. Khi ấy, trong lúc người ấy đi vắng, mỗi một mình tôi đã rời khỏi ngôi nhà để đi đến kinh thành Sāvatthī.
619. Sau đó, người chồng của tôi đã đi đến và đã gặp tôi ở trên đường lộ. Khi ấy, có cơn gió vô cùng khủng khiếp sanh lên do nghiệp của tôi đã ào tới.
620. Và có trận mưa lớn đã xuất hiện vào lúc lâm bồn của tôi. Khi ấy, người chồng đã ra đi vì mục đích củi gỗ (để sưởi ấm) và đã bị chết bởi con rắn.
621. Khi ấy, do đau đớn vì đã sanh đẻ, không người bảo hộ, tôi đã trở nên khốn khổ. Trong khi đi đến chỗ trú ngụ của gia đình, tôi đã nhìn thấy con sông cạn bị tràn ngập.
622. Sau khi ẳm lấy đứa bé tôi đã lội qua, và còn mỗi một đứa ở bờ bên kia. Tôi đã đặt đứa con trai thơ dại nằm xuống vì việc mang đứa kia sang.
623. Tôi đã quay trở lại. Có con chim ưng đã tha đi đứa nhỏ đang kêu khóc và dòng nước đã cuốn trôi đứa kia; tôi đây đã bị xâm chiếm bởi sầu muộn.
624. Sau khi đi đến thành Sāvatthī, tôi đã nghe rằng những người thân đã chết. Khi ấy, bị dằn vặt bởi nỗi sầu muộn, bị xâm chiếm bởi nỗi sầu muộn lớn lao, tôi đã nói rằng:
625. “Cả hai người con trai đã lìa đời, chồng của tôi đã bị chết ở trên đường, mẹ cha và người em trai đã được thiêu chung ở một giàn hỏa táng.”
626. Khi ấy, trở nên ốm yếu, vàng vọt, không người bảo hộ, tâm ý thê lương, trong lúc đi quanh quẩn đó đây tôi đã nhìn thấy đấng Điều Phục Nhân.
627. Sau đó, bậc Đạo Sư đã nói với tôi rằng: “Này con gái, chớ khóc than, hãy bình tâm. Con hãy tìm kiếm lại chính mình. Sao con lại buồn đau một cách vô ích?
628. Không có những người con trai, không có người cha, cũng không có những người thân trong việc bảo vệ. Đối với người đã bị khuất phục bởi sự chết, sự bảo vệ ở những người thân là không có.”[28]
629. Sau khi lắng nghe lời nói ấy của bậc Hiền Trí, tôi đã chứng đạt quả vị thứ nhất. Sau khi xuất gia không bao lâu, tôi đã thành tựu phẩm vị A-la-hán.
630. Là người thực hành theo lời dạy của đấng Đạo Sư, tôi có năng lực về các thần thông, về thiên nhĩ giới, tôi biết được tâm của người khác.
631. Tôi biết được đời sống trước đây, thiên nhãn được thanh tịnh. Sau khi quăng bỏ tất cả các lậu hoặc, tôi được thanh tịnh, hoàn toàn không ô nhiễm.
632. Sau đó, trong sự hiện diện của đấng Toàn Tri, tôi đã học toàn bộ về Luật cùng tất cả phần chi tiết và đã trình bày đúng theo như thế.
633. Hoan hỷ về đức hạnh ấy, đấng Chiến Thắng đã thiết lập tôi vào vị thế tối thắng rằng: “Chỉ mỗi một mình Paṭācārā là đứng đầu trong số các vị ni thông suốt về Luật.”
634. Bậc Đạo Sư đã được tôi phục vụ, lời dạy của đức Phật đã được tôi thực hành, nhiệm vụ nặng nề đã được đặt xuống, lối dẫn đi tái sanh đã được xóa tan.
635. Vì mục đích nào tôi đã rời khỏi gia đình xuất gia vào đời sống không gia đình, mục đích ấy tức là sự đoạn tận tất cả các sự trói buộc đã được tôi đạt đến.
636. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
637. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
638. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được tôi đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Tỳ khưu ni Paṭācārā đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão ni Paṭācārā là phần thứ mười.
TÓM LƯỢC CỦA PHẨM NÀY
Vị ni Ekuposathikā, luôn cả vị ni Saḷalā, rồi vị ni Modakā, vị ni Ekāsanā, vị ni Pañcadīpā, vị ni Naḷamālī, và vị ni Gotamī, vị ni Khemā, vị ni Uppalavaṇṇā, và tỳ khưu ni Paṭācārā, (tổng cộng) là năm trăm câu kệ ngôn và chín câu nữa cũng được thêm vào đó.
Phẩm Một Lần Trai Giới là phẩm thứ nhì.
–ooOoo–
[1] Là Sumedhā và hai người bạn gái là Dhanañjanī và Khemā được đề cập ở phần dưới.
[2] kāmabhavādayo sabbe nava bhavā mayā samūhatā (ApA. 295) = Toàn bộ chín (9) hữu như là dục hữu, (sắc hữu, vô sắc hữu), v.v… đã được tôi xóa sạch.
[3] Mekhalādāyikā nghĩa là “người nữ dâng cúng sợi dây thắt lưng.”
[4] Maṇḍapadāyikā nghĩa là “người nữ dâng cúng mái che.”
[5] Saṅkamanatthā nghĩa là “người nữ thành lập con đường đi.”
[6] Naḷamālikā nghĩa là “người nữ có tràng hoa sậy.”
[7] Kinnara, kinnarī: loài nhân điểu nam hoặc nữ, có thân người đầu chim (ND).
[8] Ekapiṇḍapātadāyikā nghĩa là “người nữ dâng cúng một phần vật thực.”
[9] Kaṭacchubhikkhādāyikā nghĩa là “người nữ dâng cúng muỗng vật thực.”
[10] Sattuppalamālikā nghĩa là “người nữ có bảy đóa hoa sen xanh.”
[11] Pañcadīpikā nghĩa là “người nữ có năm ngọn đèn.”
[12] Udakadāyikā nghĩa là “người nữ dâng cúng nước.”
[13] Từ udakahārikā được dịch sát nghĩa là người vận chuyển nước (đội, gánh, mang, vác, v.v…).
[14] Ekuposathikā nghĩa là “người nữ có một lần thực hành Bát quan trai giới.”
[15] Salalapupphikā nghĩa là “người nữ có bông hoa salala.”
[16] Modakadāyikā nghĩa là “người nữ dâng cúng thịt vò viên.”
[17] Ekāsanadāyikā nghĩa là “người nữ dâng cúng một chỗ ngồi.”
[18] Pañcadīpadāyikā nghĩa là “người nữ dâng cúng năm ngọn đèn.” Câu chuyện này tương tợ câu chuyện số 9 của Pañcadīpikā (người nữ có năm ngọn đèn).
[19] Sālamālikā nghĩa là “người nữ có tràng hoa sālā, tương tợ câu chuyện số 5.
[20] Mahāpajāpatigotamī nghĩa là “người nữ lãnh tụ vĩ đại thuộc dòng họ Gotama.”
[21] “ānando nir-ānando” là phép chơi chữ , không thể diễn tả bằng tiếng Việt.
[22] Xem Mahānidānasuttaṃ – Kinh Đại Duyên, Trường Bộ II.
[23] Dịch theo các bản Pāḷi của Thái, Miến, Anh: tadā taṃ phullapivinaṃ …
[24] Xem Mahānidānasuttaṃ – Kinh Đại Duyên, Trường Bộ II.
[25] Tứ bộc: dục bộc, hữu bộc, kiến bộc, vô minh bộc.
[26] tepi patthesuṃ = các vị ấy cũng đã ước nguyện (?), vì thế đã dịch theo Tam Tạng Thái Lan: patthesiṃ tesu puttesu.
[27] Các câu kệ từ 581 đến 587 được thấy ở Trưởng Lão Ni Kệ, Phẩm Mười Một – Tập Mười Hai Kệ, miêu tả cuộc đối thoại giữa Ma Vương và vị trưởng lão ni.
[28] Kinh Pháp Cú, câu 288.
III. PHẨM KUṆḌALAKESĪ
21. Ký Sự về Kuṇḍalakesā
639. Trước đây một trăm ngàn kiếp, đấng Chiến Thắng tên Padumuttara, bậc Hữu Nhãn về tất cả các pháp, đấng Lãnh Đạo đã hiện khởi.
640. Khi ấy, tôi đã được sanh ra tại Haṃsavatī, trong gia đình triệu phú được rạng rỡ bởi vô số loại châu báu, được đầy đủ với những lạc thú lớn lao.
641. Tôi đã đi đến đấng Đại Hùng ấy và đã lắng nghe lời giảng Pháp. Sau đó, có niềm tịnh tín sanh khởi, tôi đã đi đến nương tựa vào đấng Chiến Thắng.
642. Khi ấy, đấng Đại Bi tên Padumuttara đã thiết lập tỳ khưu ni Subhā vào vị thế tối thắng trong số các vị ni có thắng trí nhạy bén.
643. Sau khi nghe được điều ấy, tôi đã trở nên hoan hỷ và đã dâng cúng vật thí đến bậc Đại Ẩn Sĩ, rồi đã quỳ xuống đê đầu ở bàn chân và đã phát nguyện vị thế ấy.
644. Đấng Đại Hùng đã nói lời tùy hỷ rằng: “Này cô gái hiền thục, điều nào đã được nàng ước nguyện toàn bộ điều ấy sẽ được thành tựu. Hãy được an lạc, hãy được Niết Bàn.
645. Vào một trăm ngàn kiếp về sau này, bậc Đạo Sư tên Gotama, thuộc dòng dõi, xuất thân gia tộc Okkāka sẽ xuất hiện ở thế gian.
646. Nàng sẽ là Bhaddā Kuṇḍakesā, nữ Thinh Văn của bậc Đạo Sư, là người thừa tự Giáo Pháp của vị (Phật) ấy, là chánh thống, được tạo ra từ Giáo Pháp.”
647. Do nghiệp ấy đã được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ thân nhân loại tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.
648. Từ nơi ấy chết đi, tôi đã đi đến cõi trời Dạ Ma, từ đó đã đi đến cõi trời Đẩu Suất, và từ đó đến cõi Hóa Lạc Thiên, rồi từ đó đến cõi Tha Hóa Tự Tại.
649. Do mãnh lực của nghiệp ấy, ở bất cứ nơi nào tôi sanh ra, tôi đều đã được thiết lập vào ngôi chánh hậu của các vị vua ở chính tại các nơi ấy.
650. Từ nơi ấy chết đi, (sanh lên) ở giữa loài người tôi đã được thiết lập vào ngôi chánh hậu của các vị vua có quyền lực và của các vị vua có lãnh thổ.
651. Tôi đã thọ hưởng sự thành công ở giữa chư Thiên và nhân loại, tôi đã được an vui ở trong mọi nơi, tôi đã luân hồi vô số (đại) kiếp.
652. Ở vào kiếp Bhadda này, trong số các vị đang thuyết giảng đã hiện khởi đấng cao quý tên Kassapa, thuộc dòng dõi, có danh tiếng vĩ đại, là thân quyến của đấng Phạm Thiên.
653. Khi ấy, có vị quân vương là đức vua xứ Kāsi tên Kikī ở tại kinh thành Bārāṇasī là người hộ độ của bậc Đại Ẩn Sĩ.
654. Tôi đã là người con gái thứ tư của vị (vua) ấy được nổi danh là “Bhikkhudāsī.” Sau khi lắng nghe Giáo Pháp của đấng Chiến Thắng cao cả, tôi đã xin xuất gia.
655. 656. Cha đã không cho phép chúng tôi. Khi ấy, là những người con gái của đức vua khéo được nuôi dưỡng, chúng tôi đã thực hành Phạm hạnh của người thiếu nữ ngay tại nhà trong hai chục ngàn năm, không xao lãng. Được hoan hỷ, bảy người con gái đã vui thích trong việc hộ độ đức Phật.
657. Samaṇī, Samaṇaguttā, Bhikkhunī, Bhikkhudāsikā, Dhammā, luôn cả Sudhammā nữa, và Saṅghadāsikā là thứ bảy.
658. Khemā, Uppalavaṇṇā, Paṭācārā, thêm vào tôi, Kisāgotamī, Dhammadinnā, và Visākhā là thứ bảy (vào thời hiện tại).
659. Do các nghiệp ấy đã được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ thân nhân loại tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.
660. Và trong kiếp sống cuối cùng hiện nay, tôi đã được sanh ra tại kinh thành Giribbaja, trong gia đình triệu phú thịnh vượng. Rồi đến lúc tôi đã ở vào lứa tuổi thanh xuân.
661. Sau khi nhìn thấy kẻ trộm đang bị dẫn đi để xử tử, tôi đã bị luyến ái với gã. Do đó, cha của tôi đã giải cứu gã ấy khỏi cái chết bằng ngàn đồng tiền.
662. Sau khi biết được tâm ý của tôi, cha đã ban gã ấy cho tôi. Tôi đã trở nên thân thiết, vô cùng yêu thương, gắn bó đối với gã ấy.
663. Vì lòng tham đối với các đồ trang sức của tôi, gã nghịch thù ấy có ý định gây tội đã đưa (tôi) đến ngọn núi có vực thẳm Kẻ Trộm và đã nghĩ đến việc giết chết (tôi).
664. Khi ấy, trong lúc bảo vệ mạng sống của mình, tôi đã cúi lạy, nghiêm chỉnh chắp tay lại với người chồng, và đã nói lời nói này:
665. “Thưa tướng công, vàng vòng ngọc trai ngọc bích này có nhiều, xin chàng hãy tự mang đi tất cả. Và hãy thông báo rằng thiếp là ‘Nô tỳ.’”[1]
666. “Này người đẹp, nàng phải chết. Chớ than vãn nhiều quá. Và ta biết chắc rằng không giết thì tài sản không mang đi được.”
667. “Kể từ khi thiếp ghi nhớ được bản thân, kể từ khi thiếp đạt được sự hiểu biết, và thiếp biết chắc rằng không ai khác được yêu thương hơn là chàng.
668. Xin chàng hãy đến, thiếp sẽ ôm lấy chàng và sẽ nhiễu quanh chàng. Và giờ đây không còn có sự gần gũi nào giữa thiếp và chàng nữa.”
669. Không hẳn trong mọi trường hợp người nam là khôn ngoan. Người nữ có sự cẩn thật nhiều bề cũng là khôn ngoan.
670. Không hẳn trong mọi trường hợp người nam là khôn ngoan. Người nữ cân nhắc điều lợi ích một cách mau chóng cũng là khôn ngoan.
671. Quả nhiên, một cách nhẹ nhàng và mau chóng tôi đã suy nghĩ mưu kế. Giống như bộ lông (giết chết) con thú, khi ấy tôi đã giết chết gã Sattuka như thế.
672. Và người nào không mau chóng nhận ra điều lợi ích đã bị vuột mất, người có trí kém cỏi ấy sẽ bị giết như là kẻ trộm ở hẻm núi.
673. Và người nào thật mau chóng nhận ra điều lợi ích đã bị vuột mất, (người ấy) thoát khỏi sự quấy rối của kẻ thù, giống như tôi và Sattuka vào lúc ấy vậy.
674. Khi ấy, tôi đã quăng gã Sattuka ấy vào hóc núi, rồi đã đi đến gặp những người (ngoại đạo) mặc vải trắng, và đã xuất gia.
675. Và khi ấy, sau khi đã nhổ lên toàn bộ những sợi tóc của tôi bằng nhíp,[2] họ đã cho tôi xuất gia và đã chỉ dạy giáo lý không có gián đoạn.
676. 677. Tôi đã học xong (giáo lý) ấy từ họ. Tôi đã ngồi xuống mỗi một mình và đã suy xét về (giáo lý) ấy. Có con chó tha bàn tay người đã bị đứt lìa và đã đánh rơi ở cạnh tôi rồi bỏ chạy. Sau khi nhìn thấy cảnh tượng (ấy), tôi đã nhặt lấy bàn tay có đầy dòi bọ ấy.
678. Sau khi từ chỗ ấy đứng dậy, bị chấn động tôi đã hỏi những người đồng đạo. Họ đã nói rằng: “Những vị tỳ khưu dòng Sakya biết rõ ý nghĩa ấy.”
679. (Nghĩ rằng) “Ta sẽ hỏi ý nghĩa ấy,” tôi đây đã đi đến các vị Thinh Văn của đức Phật. Sau khi đón nhận tôi, các vị ấy đã đi đến bên đức Phật Tối Thượng.
680. Và đấng Lãnh Đạo ấy đã thuyết Pháp cho tôi về: “Uẩn, xứ, giới, đề mục bất mỹ, vô thường, khổ não, vô ngã.”
681. 682. Sau khi lắng nghe Giáo Pháp của vị ấy, tôi đã làm cho Pháp nhãn được thanh tịnh. Sau đó, được hiểu rõ Chánh Pháp, tôi đã yêu cầu sự xuất gia và sự tu lên bậc trên. Khi ấy, đấng Lãnh Đạo ấy đã nói rằng: “Này cô gái hiền thục, hãy đến.” Khi ấy, tôi đã được tu lên bậc trên. Tôi đã nhìn thấy một ít nước.
683. Với sự rửa sạch bàn chân, tôi đã biết được là có sự tiêu hoại với nước. Khi ấy, tôi đã tự suy xét rằng: “Tất cả các hành cũng là tương tợ như thế.”
684. Do đó, tâm tôi đã được giải thoát trọn vẹn không còn chấp thủ. Khi ấy, đấng Chiến Thắng đã tuyên bố tôi là đứng đầu trong số các vị ni có thắng trí nhạy bén.
685. Là người thực hành theo lời dạy của bậc Đạo Sư, tôi có năng lực về các thần thông, về thiên nhĩ giới, tôi biết được tâm của người khác.
686. Tôi biết được đời sống trước đây, thiên nhãn được thanh tịnh. Sau khi đã quăng bỏ tất cả các lậu hoặc, tôi đã được thanh tịnh, hoàn toàn không ô nhiễm.
687. Bậc Đạo Sư đã được tôi phục vụ, lời dạy của đức Phật đã được tôi thực hành, nhiệm vụ nặng nề đã được đặt xuống, lối dẫn đi tái sanh đã được xóa tan.
688. Vì mục đích nào tôi đã rời khỏi gia đình xuất gia vào đời sống không gia đình, mục đích ấy tức là sự đoạn tận tất cả các điều trói buộc đã được tôi đạt đến.
689. Trí tuệ của tôi về ý nghĩa, về pháp, về ngôn từ, và tương tợ y như thế về phép biện giải là bao la, trong sạch ở Giáo Pháp của đức Phật tối thượng.
690. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
691. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
692. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được tôi đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Tỳ khưu ni Bhaddā Kuṇḍalakesā đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão ni Bhaddā Kuṇḍalakesā là phần thứ nhất.
–ooOoo–
22. Ký Sự về Kisāgotamī
693. Trước đây một trăm ngàn kiếp, vị Lãnh Đạo, đấng Chiến Thắng tên Padumuttara, bậc thông suốt về tất cả các pháp đã hiện khởi.
694. Khi ấy, tôi đã được sanh ra ở một gia đình nọ trong (thành) Haṃsavatī. Tôi đã đi đến và đã nương nhờ vào bậc Quý Nhân ấy.
695. Và tôi đã lắng nghe Giáo Pháp ngọt ngào của vị ấy bao gồm bốn Sự Thật, có phẩm vị tối thắng, đưa đến sự an lạc và tịnh lặng của vòng luân hồi.
696. Và khi ấy, trong khi thiết lập vị tỳ khưu ni mặc y thô vào vị thế tối thắng, đấng Anh Hùng bậc Tối Thượng Nhân đã khen ngợi.
697. Sau khi đã làm sanh lên niềm phỉ lạc không nhỏ nhoi, sau khi lắng nghe đức hạnh của vị tỳ khưu ni, tôi đã làm công việc phục vụ đến đức Phật tùy theo khả năng, tùy theo sức lực.
698. Tôi đã quỳ xuống ở bậc Hiền Trí Anh Hùng ấy và đã ước nguyện vị thế ấy. Lúc đó, bậc Toàn Giác, đấng Lãnh Đạo đã nói lời tùy hỷ về sự lợi ích của vị thế (ấy) rằng:
699. “Vào một trăm ngàn kiếp về sau này, bậc Đạo Sư tên Gotama, thuộc dòng dõi, xuất thân gia tộc Okkāka sẽ xuất hiện ở thế gian.
700. (Người nữ này) sẽ trở thành nữ Thinh Văn của bậc Đạo Sư, là người thừa tự Giáo Pháp của vị (Phật) ấy, là chánh thống, được tạo ra từ Giáo Pháp, có tên là Gotamī.”
701. Nghe được điều ấy, tôi đã trở nên hoan hỷ. Khi ấy, với tâm từ ái tôi đã chăm sóc đấng Chiến Thắng, bậc Hướng Đạo bằng các vật dụng cho đến hết cuộc đời.
702. Do nghiệp ấy đã được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ thân nhân loại tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.
703. Ở vào kiếp Bhadda này, trong số các vị đang thuyết giảng đã hiện khởi đấng cao quý tên Kassapa, thuộc dòng dõi, có danh tiếng vĩ đại, là thân quyến của đấng Phạm Thiên.
704. Khi ấy, có vị quân vương là đức vua xứ Kāsi tên Kikī ở tại kinh thành Bārāṇasī là người hộ độ của bậc Đại Ẩn Sĩ.
705. Tôi đã là người con gái thứ năm của vị (vua) ấy, được nổi danh với tên là Dhammā. Sau khi lắng nghe Giáo Pháp của đấng Chiến Thắng cao cả, tôi đã xin xuất gia.
706. 707. Cha đã không cho phép chúng tôi. Khi ấy, là những người con gái của đức vua khéo được nuôi dưỡng, chúng tôi đã thực hành Phạm hạnh của người thiếu nữ ngay tại nhà trong hai chục ngàn năm, không xao lãng. Được hoan hỷ, bảy người con gái đã vui thích trong việc hộ độ đức Phật.
708. Samaṇī, Samaṇaguttā, Bhikkhunī, Bhikkhudāsikā, Dhammā, luôn cả Sudhammā nữa, và Saṅghadāsikā là thứ bảy.
709. Khemā, Uppalavaṇṇā, Paṭācārā, Kuṇḍalā, tôi, luôn cả Dhammadinnā, và Visākhā là thứ bảy (vào thời hiện tại).
710. Do các nghiệp ấy đã được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ thân nhân loại tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.
711. Và trong kiếp cuối cùng hiện nay, tôi đã được sanh ra trong gia đình triệu phú bị lâm cảnh khốn cùng, không tài sản, bị khánh tận, và tôi đã được gả vào gia đình có tài sản.
712. Ngoại trừ người chồng, những người còn lại giễu (tôi) là “Nữ nhân không tài sản.” Và đến khi tôi có con trai, khi ấy tôi đã được cảm tình của tất cả.
713. Vào lúc đứa bé trai hiền hậu ấy, có cơ thể mềm mại, được nuôi dưỡng trong sung sướng, được yêu quý như chính mạng sống của tôi đã đi đến cõi chết.
714. Bị dằn vặt bởi sầu muộn, có vẻ mặt thê lương, mắt đẫm lệ, miệng khóc than, tôi đã bồng ẳm thi thể đã chết. Trong lúc than vãn, tôi đã đi lang thang.
715. Khi ấy, tự nhận định (sự việc) một mình tôi đã đi đến vị Đệ Nhất Lương Y và đã nói rằng: “Thưa ông, xin ông hãy cho thuốc đem lại sự sống cho con tôi.”
716. Đấng Chiến Thắng, bậc rành rẽ về phương thức huấn luyện, đã nói rằng: “Những người chết không được tìm thấy ở tại ngôi nhà nào thì nàng hãy mang lại hạt cải từ nơi (ngôi nhà) ấy.”
717. Khi ấy, tôi đã đi ở trong thành Sāvatthī, và đã không đạt được ngôi nhà như thế ấy. Do đó, tôi đã đạt được trí nhớ rằng: “Hạt cải ở đâu, từ nơi đâu?”
718. Sau khi đã quăng bỏ thây chết, tôi đã đi đến đấng Lãnh Đạo Thế Gian. Sau khi nhìn thấy tôi từ rất xa, vị có âm giọng ngọt ngào đã nói rằng:
719. “Và người nào đã sống trăm năm không nhìn thấy sự sanh diệt, cuộc sống một ngày là tốt hơn đối với người đang nhìn thấy sự sanh diệt.[3]
720. Không phải là quy luật thuộc về ngôi làng, không phải là quy luật thuộc về phố chợ, quy luật này cũng không phải thuộc về một gia đình, mà thuộc về tất cả thế gian luôn cả chư Thiên; quy luật ấy chính là tính chất vô thường.”
721. Sau khi lắng nghe lời kệ này, tôi đây đã làm cho Pháp nhãn được thanh tịnh. Sau đó, được hiểu rõ Chánh Pháp, tôi đã xuất gia vào đời sống không gia đình.
722. Trong khi đã được xuất gia như thế, trong khi gắn bó vào Giáo Pháp của đấng Chiến Thắng, trong thời gian không bao lâu tôi đã thành tựu phẩm vị A-la-hán.
723. Là người thực hành theo lời dạy của đấng Đạo Sư, tôi có năng lực về các thần thông, về thiên nhĩ giới, tôi biết được tâm của người khác.
724. Tôi biết được đời sống trước đây, thiên nhãn được thanh tịnh. Sau khi đã quăng bỏ tất cả các lậu hoặc, tôi đã được thanh tịnh, hoàn toàn không ô nhiễm.
725. Bậc Đạo Sư đã được tôi phục vụ, lời dạy của đức Phật đã được tôi thực hành, nhiệm vụ nặng nề đã được đặt xuống, lối dẫn đi tái sanh đã được xóa tan.
726. Vì mục đích nào tôi đã rời khỏi gia đình xuất gia vào đời sống không gia đình, mục đích ấy tức là sự đoạn tận tất cả các sự trói buộc đã được tôi đạt đến.
727. Trí tuệ của tôi về ý nghĩa, về pháp, về ngôn từ, và tương tợ y như thế về phép biện giải là trong sạch, không bợn nhơ, nhờ vào sự tác động của đức Phật tối thượng.
728. Sau khi mang về từ đống rác, từ mộ địa, và thậm chí từ đường lộ, từ đó tôi đã thực hiện y hai lớp và đã mặc y thô.
729. Hoan hỷ về đức hạnh ấy, đấng Chiến Thắng, bậc Hướng Đạo, ở giữa các chúng đã thiết lập (tôi) vào vị thế tối thắng trong việc mặc y thô.
730. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
731. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
732. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được tôi đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Tỳ khưu ni Kisāgotamī đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão ni Kisāgotamī là phần thứ nhì.
–ooOoo–
23. Ký Sự về Dhammadinnā
733. Trước đây một trăm ngàn kiếp, vị Lãnh Đạo, đấng Chiến Thắng tên Padumuttara, bậc thông suốt về tất cả các pháp đã hiện khởi.
734. Khi ấy, tôi đã ở trong một gia đình nọ tại thành Haṃsavatī. Tôi đã là người nữ làm thuê cho người khác, cẩn trọng, gìn giữ tánh hạnh.
735. Sujāta, vị Thinh Văn hàng đầu của đức Phật Padumuttara, đã rời khỏi trú xá đi khất thực.
736. Là người nữ đội nước, khi ấy trong lúc cầm lấy bầu nước đang đi, tôi đã nhìn thấy vị ấy. Được tịnh tín, tôi đã tự tay mình dâng (vị ấy) món bánh ngọt.
737. Sau khi thọ lãnh, vị ấy đã ngồi xuống ngay tại nơi ấy và đã thọ dụng. Sau đó, tôi đã đưa vị ấy về nhà và đã dâng vật thực đến vị ấy.
738. Do đó, người chủ của tôi hoan hỷ đã nhận làm con dâu của mình. Tôi đã cùng với người mẹ chồng đi đến và đã đảnh lễ bậc Toàn Giác.
739. Khi ấy, Ngài đã tán dương và đã thiết lập vị tỳ khưu ni là vị thuyết giảng Giáo Pháp vào vị thế tối thắng. Sau khi nghe được điều ấy, tôi đã hoan hỷ.
740. Tôi đã thỉnh mời đức Thiện Thệ đấng Lãnh Đạo Thế Gian cùng với hội chúng, rồi đã dâng cúng đại thí và đã ước nguyện vị thế ấy.
741. 742. Sau đó, với giọng có âm điệu đều đều vang vang, đấng Thiện Thệ đã nói với tôi rằng: “Này người thiếu nữ hiền thục là người dâng vật thực, được vui thích trong việc hộ độ Ta cùng với hội chúng, được gắn bó trong việc lắng nghe Chánh Pháp, với tâm ý được tăng trưởng về đức hạnh, nàng hãy hoan hỷ, nàng sẽ đạt được kết quả của điều nguyện ước.
743. Vào một trăm ngàn kiếp về sau này, bậc Đạo Sư tên Gotama, thuộc dòng dõi, xuất thân gia tộc Okkāka sẽ xuất hiện ở thế gian.
744. Nàng sẽ trở thành nữ Thinh Văn của bậc Đạo Sư, là người thừa tự Giáo Pháp của vị (Phật) ấy, là chánh thống, được tạo ra từ Giáo Pháp, có tên là Dhammadinnā.”
745. Nghe được điều ấy, tôi đã trở nên hoan hỷ. Khi ấy, với tâm từ ái tôi đã chăm sóc đấng Chiến Thắng, bậc Hướng Đạo bằng các vật dụng cho đến hết cuộc đời.
746. Do nghiệp ấy đã được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ thân nhân loại tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.
747. Ở vào kiếp Bhadda này, trong số các vị đang thuyết giảng đã hiện khởi đấng cao quý tên Kassapa, thuộc dòng dõi, có danh tiếng vĩ đại, là thân quyến của đấng Phạm Thiên.
748. Khi ấy, có vị quân vương là đức vua xứ Kāsi tên Kikī ở tại kinh thành Bārāṇasī là người hộ độ của bậc Đại Ẩn Sĩ.
749. Tôi đã là người con gái thứ sáu của vị (vua) ấy được nổi danh là Sudhammā. Sau khi lắng nghe Giáo Pháp của đấng Chiến Thắng cao cả, tôi đã xin xuất gia.
Tụng phẩm thứ ba.
750. 751. Cha đã không cho phép chúng tôi. Là những người con gái của đức vua khéo được nuôi dưỡng có sự cư ngụ cùng với gia đình, chúng tôi đã thực hành Phạm hạnh của người thiếu nữ trong hai chục ngàn năm, không xao lãng. Được hoan hỷ, bảy người con gái đã vui thích trong việc hộ độ đức Phật.
752. Samaṇī, Samaṇaguttā, Bhikkhunī, Bhikkhudāsikā, Dhammā, luôn cả Sudhammā nữa, và Saṅghadāsikā là thứ bảy.
753. Khemā, Uppalavaṇṇā, Paṭācārā, Kuṇḍalā, Gotamī, tôi, và luôn cả Visākhā là thứ bảy (vào thời hiện tại).
754. Do các nghiệp ấy đã được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ thân nhân loại tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.
755. Và vào kiếp sống cuối cùng hiện nay, tôi đã được sanh ra ở kinh thành Giribbaja, trong gia đình triệu phú, thịnh vượng, có sự dồi dào về tất cả các dục lạc.
756. Vào lúc đạt đến sắc đẹp và đức hạnh ở vào thời đầu của tuổi thanh xuân, khi ấy tôi đã đi đến gia tộc khác (làm vợ) và đã sống thọ hưởng lạc thú.
757. Sau khi đi đến đấng Nương Nhờ của thế gian và đã lắng nghe thuyết giảng Giáo Pháp, chồng của tôi đã đạt đến quả vị Bất Lai, có trí giác ngộ hoàn hảo.
758. Khi ấy, tôi đã thuyết phục vị ấy rồi đã xuất gia vào đời sống không gia đình. Trong thời gian không bao lâu, tôi đã thành tựu phẩm vị A-la-hán.
759. Khi ấy, vị nam cư sĩ ấy đã đi đến tôi và đã hỏi về các tuệ thâm sâu và khôn khéo. Tôi đã giảng giải về tất cả các điều ấy.[4]
760. Hoan hỷ về đức hạnh ấy, đấng Chiến Thắng đã thiết lập tôi vào vị thế tối thắng: “Ta không nhìn thấy vị tỳ khưu ni nào khác là vị thuyết giảng Giáo Pháp như là vị ni này.
761. Này các tỳ khưu, Dhammadinnā là vị ni sáng trí, các ngươi hãy ghi nhớ như thế.” Được đấng Lãnh Đạo thương xót, tôi đã trở thành vị ni trí tuệ như thế.
762. Bậc Đạo Sư đã được tôi phục vụ, lời dạy của đức Phật đã được tôi thực hành, nhiệm vụ nặng nề đã được đặt xuống, lối dẫn đi tái sanh đã được xóa tan.
763. Vì mục đích nào tôi đã rời khỏi gia đình xuất gia vào đời sống không gia đình, mục đích ấy tức là sự đoạn tận tất cả các sự trói buộc đã được tôi đạt đến.
764. Là người thực hành theo lời dạy của đấng Đạo Sư, tôi có năng lực về các thần thông, về thiên nhĩ giới, tôi biết được tâm của người khác.
765. Tôi biết được đời sống trước đây, thiên nhãn được thanh tịnh. Sau khi đã quăng bỏ tất cả các lậu hoặc, tôi được thanh tịnh, hoàn toàn không ô nhiễm.
766. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
767. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
768. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được tôi đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Tỳ khưu ni Dhammadinnā đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão ni Dhammadinnā là phần thứ ba.
–ooOoo–
24. Ký Sự về Sakulā
769. Trước đây một trăm ngàn kiếp, vị Lãnh Đạo, đấng Chiến Thắng tên Padumuttara, bậc thông suốt về tất cả các pháp đã hiện khởi.
770. Vì sự tấn hóa, vì sự lợi ích, vì sự an lạc của tất cả chúng sanh, đấng Siêu Nhân, bậc cao quý trong số các vị đang thuyết giảng đã sanh ra ở thế gian gồm cả Thiên giới.
771. Đã đạt đến danh vọng cao tột, đấng Chiến Thắng có sự vinh quang, có được sự tán dương ca ngợi. Ngài được tôn vinh, được nổi danh ở tất cả các phương của toàn thể thế gian.
772. Ngài đã vượt lên trên sự hoài nghi, đã vượt qua sự lưỡng lự, đã tròn đủ tâm tư, đã đạt đến quả vị Toàn Giác tối thượng.
773. Là người khai mở con đường chưa được khai mở, đấng Tối Thượng Nhân đã nói đến điều chưa được nói đến và đã nhận thức điều chưa được nhận thức.
774. Đấng Nhân Ngưu là vị biết được Đạo lộ, là vị rành mạch về Đạo lộ, là vị thuyết về Đạo lộ. Được thiện xảo về Đạo lộ, đấng Đạo Sư là cao quý tối thượng trong số các bậc Điều Ngự (người điều khiển xe).
775. Đấng Đại Bi, bậc Đạo Sư, vị Lãnh Đạo đã thuyết giảng Giáo Pháp. Ngài tiếp độ những chúng sanh (đang) bị đắm chìm trong đầm lầy ái dục.
776. Khi ấy, tôi đã được sanh ra ở tại Haṃsavatī, là niềm hoan hỷ của dòng Sát-đế-lỵ. Và tôi đã có sắc đẹp tuyệt vời, có tài sản, được yêu quý, và có sự vẻ vang.
777. Là người con gái vô cùng xinh đẹp của vị đại vương Ānanda, và cũng là người em gái khác mẹ của vị (Phật) tên Padumuttara.
778. Được tháp tùng bởi các người con gái của đức vua, được trang điểm với tất cả các đồ trang sức, tôi đã đi đến đấng Đại Hùng và đã lắng nghe thuyết giảng Giáo Pháp.
779. Chính vào khi ấy, bậc Thầy của thế gian ấy ở giữa các chúng đã tán dương vị tỳ khưu ni có thiên nhãn và đã thiết lập vị ni ấy vào vị thế tối thắng.
780. Sau khi lắng nghe điều ấy, được mừng rỡ tôi đã dâng cúng vật thí đến bậc Đạo Sư. Và sau khi cúng dường đến bậc Toàn Giác, tôi đã ước nguyện về thiên nhãn.
781. Do đó, bậc Đạo Sư đã nói với tôi rằng: “Này người thiếu nữ vui vẻ, nàng sẽ đạt được điều đã ước nguyện. Điều đã khéo được mong muốn này là quả báu của các việc dâng cúng đèn và Giáo Pháp.
782. Vào một trăm ngàn kiếp về sau này, bậc Đạo Sư tên Gotama, thuộc dòng dõi, xuất thân gia tộc Okkāka sẽ xuất hiện ở thế gian.
783. Nàng sẽ trở thành nữ Thinh Văn của bậc Đạo Sư, là người thừa tự Giáo Pháp của vị (Phật) ấy, là chánh thống, được tạo ra từ Giáo Pháp, có tên là Sakulā.”
784. Do nghiệp ấy đã được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ thân nhân loại tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.
785. Ở vào kiếp Bhadda này, trong số các vị đang thuyết giảng đã hiện khởi đấng cao quý tên Kassapa, thuộc dòng dõi, có danh tiếng vĩ đại, là thân quyến của đấng Phạm Thiên.
786. Khi ấy, tôi đã là nữ du sĩ ngoại đạo có hạnh độc hành. Sau khi đi lang thang để khất thực tôi đã nhận được một số lượng dầu thắp.
787. Sau khi thắp sáng ngọn đèn với số (dầu) đó, với tâm ý trong sạch tôi đã phục vụ ngôi bảo tháp của đấng Tối Thượng Nhân trọn cả đêm.
788. Do nghiệp ấy đã được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ thân nhân loại tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.
789. Do mãnh lực của nghiệp ấy, ở bất cứ nơi nào tôi sanh ra thì có các ngọn đèn lớn chiếu sáng ở chính tại các nơi ấy khi tôi đi đến.
790. Nếu tôi muốn, tôi (có thể) nhìn thấy ngọn núi sau khi đã vượt lên xuyên qua bức tường, xuyên qua tảng đá; điều này là quả báu của việc dâng cúng đèn.
791. Tôi có cặp mắt trong ngần, và tôi chói sáng với danh vọng, lại còn có đức tin và trí tuệ nữa; điều này là quả báu của việc dâng cúng đèn.
792. Và trong kiếp sống cuối cùng hiện nay, tôi đã được sanh vào gia đình Bà-la-môn có nhiều tài sản và lúa gạo, được hài lòng, được đức vua tôn trọng.
793. Được thành tựu toàn vẹn về cơ thể, được trang điểm với tất cả các đồ trang sức, đứng ở cửa sổ tôi (đã nhìn thấy) đấng Thiện Thệ ở lối đi vào thành.
794. Tôi đã nhìn thấy Ngài đang chói sáng với danh vọng, được trọng vọng bởi chư Thiên và nhân loại, được hội đủ các tướng mạo phụ, được điểm tô bằng những tướng mạo chính.
795. Với tâm phấn chấn, với ý vui mừng, tôi đã xin xuất gia. Trong thời gian không bao lâu tôi đã thành tựu phẩm vị A-la-hán.
796. Là người thực hành theo lời dạy của đấng Đạo Sư, tôi có năng lực về các thần thông, về thiên nhĩ giới, tôi biết được tâm của người khác.
797. Tôi biết được đời sống trước đây, thiên nhãn được thanh tịnh. Sau khi đã quăng bỏ tất cả các lậu hoặc, tôi đã được thanh tịnh, hoàn toàn không ô nhiễm.
798. Bậc Đạo Sư đã được tôi phục vụ, lời dạy của đức Phật đã được tôi thực hành, nhiệm vụ nặng nề đã được đặt xuống, lối dẫn đi tái sanh đã được xóa tan.
799. Vì mục đích nào tôi đã rời khỏi gia đình xuất gia vào đời sống không gia đình, mục đích ấy tức là sự đoạn tận tất cả các sự trói buộc đã được tôi đạt đến.
800. Do đó, đấng Đại Bi, bậc Tối Thượng Nhân đã thiết lập tôi vào vị thế tối thắng “Sakulā là vị ni đứng đầu trong các vị ni có thiên nhãn.”
801. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
802. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
803. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được tôi đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Tỳ khưu ni Sakulā đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão ni Sakulā là phần thứ tư.
–ooOoo–
25. Ký Sự về Nandā – Mỹ Nhân của Xứ Sở
804. Trước đây một trăm ngàn kiếp, vị Lãnh Đạo, đấng Chiến Thắng tên Padumuttara, bậc thông suốt về tất cả các pháp đã hiện khởi.
805. Là vị giáo giới, vị làm cho hiểu rõ, vị hành xử đối với tất cả chúng sanh, là thiện xảo trong việc chỉ dạy, đức Phật đã giúp cho nhiều chúng sanh vượt qua.
806. Là bậc Thương Tưởng, đấng Bi Mẫn, vị tầm cầu sự lợi ích cho tất cả chúng sanh, Ngài đã an trú vào ngũ giới cho tất cả các ngoại đạo đã đi đến.
807. Như thế, được tô điểm với các vị A-la-hán có được năng lực như thế ấy, (thế gian) đã không bị rối loạn và không có các ngoại đạo.
808. Bậc Đại Hiền Trí ấy cao năm mươi tám ratana (14. 50 m) tợ như cây cột trụ bằng vàng, có ba mươi hai quý tướng.
809. Cho đến khi ấy, tuổi thọ được biết là một trăm ngàn năm. Trong khi tồn tại như thế, Ngài đã giúp cho nhiều người vượt qua.
810. Khi ấy, tôi đã được sanh ra ở tại Haṃsavatī, trong gia đình triệu phú được rạng rỡ với vô số loại châu báu, được đầy đủ với những lạc thú lớn lao.
811. Tôi đã đi đến đấng Đại Hùng ấy và đã lắng nghe thuyết giảng Giáo Pháp Bất Tử, có phẩm vị tối thắng, làm rõ về chân lý tuyệt đối.
812. Khi ấy, được tịnh tín tôi đã thỉnh mời đấng Lãnh Đạo Thế Gian cùng với hội chúng và đã tự tay mình dâng cúng đại thí đến vị ấy.
813. Tôi đã quỳ xuống đê đầu đến bậc Anh Hùng đấng Lãnh Đạo Thế Gian cùng với hội chúng, tôi đã ước nguyện vị thế tối thắng trong số các tỳ khưu ni có thiền chứng.
814. Khi ấy, bậc Điều Phục những ai chưa được điều phục, đấng Nương Nhờ của ba cõi, vị Chúa Tể, bậc Nhân Báo đã chú nguyện rằng: “Nàng sẽ đạt được điều đã khéo được ước nguyện ấy.
815. Vào một trăm ngàn kiếp về sau này, bậc Đạo Sư tên Gotama, thuộc dòng dõi, xuất thân gia tộc Okkāka sẽ xuất hiện ở thế gian.
816. Nàng sẽ trở thành nữ Thinh Văn của bậc Đạo Sư, là người thừa tự Giáo Pháp của vị (Phật) ấy, là chánh thống, được tạo ra từ Giáo Pháp, có tên là Nandā.”
817. Nghe được điều ấy, tôi đã trở nên hoan hỷ. Khi ấy, với tâm từ ái tôi đã chăm sóc đấng Chiến Thắng, bậc Hướng Đạo bằng các vật dụng cho đến hết cuộc đời.
818. Do nghiệp ấy đã được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ thân nhân loại tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.
819. Mệnh chung từ nơi ấy, tôi đã đi đến cõi trời Dạ Ma, từ đó đã đi đến cõi trời Đẩu Suất, và từ đó đến cõi Hóa Lạc Thiên, rồi từ đó đến cõi Tha Hóa Tự Tại.
820. Do mãnh lực của nghiệp ấy, ở bất cứ nơi nào tôi sanh ra, tôi đều đã được thiết lập vào ngôi chánh hậu của các vị vua ở chính tại các nơi ấy.
821. Mệnh chung từ nơi ấy (sanh) vào thân nhân loại, tôi đã được thiết lập vào ngôi chánh hậu của các đấng Chuyển Luân Vương và các vị vua cai quản các lãnh thổ.
822. Tôi đã thọ hưởng sự thành đạt ở giữa chư Thiên và loài người, đã được an vui ở tất cả các nơi, và đã luân hồi qua nhiều đại kiếp.
823. Khi đạt đến kiếp sống cuối cùng, tôi đã là người con gái hoàn hảo của đức vua Suddhodana tại thành phố tên là Kapila.
824. Nhìn thấy (tôi) có nét đẹp vô cùng rạng rỡ, gia đình ấy đã trở nên vui vẻ; vì thế tôi có tên là “Nandā” (vui vẻ). Tôi đã được công nhận là xinh đẹp.
825. Và cũng ở trong thành phố đáng yêu ấy, tôi đã được nổi danh là “Mỹ nhân” trong số tất cả các thiếu nữ ngoại trừ Yasodharā.
826. Người anh trai đầu là đấng Cao Cả của tam giới, cũng vậy người út là vị A-la-hán. Mỗi một mình tôi là người tại gia, tôi đã bị mẹ quở trách rằng:
827. “Này con, được sanh trong gia tộc dòng Sakya (Thích Ca), con là em gái của đức Phật. Con cũng không còn có Nanda nữa, việc gì con lại ở tại gia?
828. Tuổi trẻ có sự già là nơi cư ngụ, xác thân được xem là bất tịnh, sức khỏe cũng có cơn bệnh là điểm cuối cùng, mạng sống có sự chết là nơi chấm dứt.
829. Sắc thân này của con dầu là xinh đẹp, được yêu dấu như là mặt trăng, quyến rũ, có sự trang điểm của những đồ trang sức tợ như được gắn liền với sự rạng rỡ.
830. (Sắc thân này của con) được gộp chung lại thuần sự tinh túy của thế gian, là sự đem lại chất vị cho những con mắt, là sự sản xuất ra danh thơm của các điều phước thiện, là niềm vui của gia tộc Okkāka.
831. Vào thời gian chẳng bao lâu nữa, sự già sẽ ngự trị. Này cô gái trẻ, hãy từ bỏ gia đình. Này cô gái hoàn hảo, hãy thực hành Giáo Pháp.”
832. Được vui thích với sắc đẹp và tuổi thanh xuân, sau khi nghe lời nói của người mẹ, tôi đã xuất gia vào đời sống không gia đình bằng thân chứ không phải bằng tâm.
833. Và với sự cố gắng lớn lao, mẹ (tôi đã) nói để thuyết phục tôi gắn bó vào việc tham thiền, nhưng tôi đã không năng nổ về việc ấy.
834. Do đó, bậc Đại Bi, đấng Chiến Thắng, đã nhìn thấy tôi có lòng khao khát về các dục, và đối với tôi ý nghĩa của sự nhàm chán về xác thân là qua lộ trình của mắt.
835. Bằng năng lực tự thân, Ngài đã làm hiện ra người phụ nữ lộng lẫy, đáng nhìn, rất dễ thương, vô cùng xinh đẹp hơn hẳn luôn cả tôi.
836. Sau khi nhìn thấy người nữ có thân thể vô cùng kinh ngạc ấy, tôi đã sửng sốt. Và tôi đã suy nghĩ về sự lợi ích thuộc về nhân gian đối với con mắt rằng: “Có quả báu đến ta.”
837. (Tôi đã nói rằng): “Này em yêu dấu, hãy đến với chị đây. Có cần gì em hãy nói với chị. Hãy nói với chị về gia đình, tên, dòng họ của em nếu em ưng ý.”
838. (Cô gái đáp): “Này chị yêu dấu, không phải là lúc hỏi han. Hãy cho em tựa vào lòng. Tay chân của em như là chìm xuống. Chị hãy ru em ngủ một chốc.”
839. Sau đó, nàng có đôi mắt xinh đẹp ấy đã kê đầu vào hông của tôi rồi đã thiếp đi. Có con nhện vô cùng ghê rợn đã rơi xuống ở trán của nàng.
840. Cùng với sự rơi xuống của con nhện ấy, mụn nhọt đã nổi lên. Chúng đã rò rỉ, vỡ ra, và toàn thân là mủ và máu.
841. Và khuôn mặt đã bị nứt nẻ, thi thể có mùi hôi thối. Toàn thân bị trương lên, đổi sang màu tím, và thối rửa.
842. Với tất cả các chi thể bị run rẩy, chốc chốc lại bị hụt hơi, nàng ấy trong khi cảm nhận sự khổ đau của mình đã than vãn một cách thê lương rằng:
843. “Em bị khổ sở vì nỗi đau đớn, và các cảm thọ được chạm đến, em bị đắm chìm trong nỗi khổ đau lớn lao. Này cô bạn gái, chị hãy là nơi nương nhờ của em.”
844. “Vẻ đẹp ở khuôn mặt của cô đâu rồi? Lỗ mũi cao của cô đâu rồi? Làn môi màu đỏ của trái cây bimba tuyệt hảo của cô, khuôn mặt của cô đã đi đâu rồi?
845. Gương mặt tợ như mặt trăng đâu rồi? Chiếc cổ ba ngần đã đi đâu rồi? Và các lỗ tai run rẩy lung linh của cô đã đi đến tình trạng thay đổi rồi.
846. Bộ ngực có hình dáng đóa hoa sen còn dạng chồi tợ như bầu nước đã trở thành thi thể hôi thối, bị phân rã, có mùi khó chịu.
847. Eo thon, mông đầy đặn bị sưng lên, có sự lở lói và độc hại, trở thành nơi chứa đầy vật không trong sạch; ôi xác thân là không vĩnh viễn!
848. Toàn bộ nguồn gốc của thân thể là có mùi hôi thối, có sự hãi sợ, như là bãi tha ma kinh hoàng, lại là nơi mà những kẻ ngu hứng thú!”
849. Lúc bấy giờ, sau khi nhìn thấy tôi có tâm bị chấn động, đấng Đại Bi, bậc Lãnh Đạo Thế Gian, người anh trai của tôi, đã nói lên những lời kệ này:
850. “Này Nandā, hãy nhìn thân thể bệnh hoạn, bất tịnh, hôi thối. Em hãy tu tập tâm về đề mục bất mỹ (tử thi) trở thành chuyên nhất, khéo được tập trung.
851. Thân này như thế nào thì xác kia như vậy, xác kia như thế nào thì thân này như vậy, (là vật) có mùi khó chịu hoặc hôi thối lại được hứng thú đối với những kẻ ngu.
852. Trong khi xem xét xác thân này như thế đêm ngày không mệt mỏi, từ đó với niệm với tuệ sau khi đã nhàm chán thì em sẽ nhìn thấy.”
853. Do đó, sau khi nghe được các lời kệ khéo thuyết, tôi đã bị vô cùng chấn động. Đứng tại chỗ ấy, trong lúc quán sát tôi đã đạt được phẩm vị A-la-hán.
854. Ngồi xuống ở bất cứ nơi nào, tôi luôn luôn có mục đích chính là thiền. Hoan hỷ về đức hạnh ấy, đấng Chiến Thắng đã thiết lập tôi vào vị thế tối thắng.
855. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
856. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
857. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được tôi đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Tỳ khưu ni Nandā đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão ni Nandā là phần thứ năm.
–ooOoo–
26. Ký Sự về Soṇā
858. Trước đây một trăm ngàn kiếp, vị Lãnh Đạo, đấng Chiến Thắng tên Padumuttara, bậc thông suốt về tất cả các pháp đã hiện khởi.
859. Khi ấy, tôi đã được sanh ra trong gia đình triệu phú, được hạnh phúc, được tôn vinh, yêu quý. Tôi đã đi đến bậc Hiền Trí cao quý ấy và đã lắng nghe lời nói ngọt ngào.
860. Đấng Chiến Thắng đã tán dương vị tỳ khưu ni đứng đầu trong số các vị ni có sự ra sức tinh tấn. Sau khi nghe được điều ấy, tôi đã trở nên hoan hỷ và tôi đã thể hiện sự thành kính đến bậc Đạo Sư.
861. Khi ấy, tôi đã đảnh lễ bậc Toàn Giác và đã ước nguyện vị thế ấy. Đấng Đại Hùng đã nói lời tùy hỷ rằng: “Ước nguyện của nàng sẽ được thành tựu.
862. Vào một trăm ngàn kiếp về sau này, bậc Đạo Sư tên Gotama, thuộc dòng dõi, xuất thân gia tộc Okkāka sẽ xuất hiện ở thế gian.
863. Nàng sẽ trở thành nữ Thinh Văn của bậc Đạo Sư, là người thừa tự Giáo Pháp của vị (Phật) ấy, là chánh thống, được tạo ra từ Giáo Pháp, có tên là Soṇā.”
864. Nghe được điều ấy, tôi đã trở nên hoan hỷ. Khi ấy, với tâm từ ái tôi đã chăm sóc đấng Chiến Thắng, bậc Hướng Đạo bằng các vật dụng cho đến hết cuộc đời.
865. Do nghiệp ấy đã được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ thân nhân loại tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.
866. Và trong kiếp sống cuối cùng hiện nay, tôi đã được sanh vào gia đình triệu phú sung túc, thịnh vượng, có tài sản lớn lao ở trong kinh thành Sāvatthī.
867. Và khi đã đạt đến tuổi thanh xuân, tôi đã đi đến nhà người chồng và đã sanh ra mười người con trai, hết thảy đều có vóc dáng hoàn hảo.
868. Và tất cả bọn chúng đều được nuôi dưỡng trong sung sướng, có sự thu hút ánh mắt của mọi người. Ngay cả đối với những kẻ nghịch thù, chúng cũng được ưa thích. Chúng được yêu mến còn hơn cả tôi nữa.
869. Sau đó, với sự không mong muốn của tôi, người chồng ấy của tôi được khích lệ bởi mười người con trai đã xuất gia trong Giáo Pháp của vị Trời của chư Thiên.
870. Khi ấy, còn mỗi một mình tôi đã suy xét rằng: “Đã đủ cho cuộc sống của ta là kẻ bị chồng và những người con trai bỏ rơi, lại già cả, và thảm thương.
871. Ta cũng sẽ đi đến nơi nào mà người chồng của ta đã đạt đến.” Sau khi suy xét như thế, tôi đã xuất gia vào đời sống không gia đình.
872. Và sau đó, các vị tỳ khưu ni đã để tôi ở lại tu viện của các tỳ khưu ni như thế rồi đã đi (nghe) giáo giới (bảo rằng): “Bà hãy đun nóng nước.”
873. Khi ấy, tôi đã đem nước lại đổ vào trong nồi, sau đó đặt ở bếp lửa, rồi đã ngồi xuống. Do đó tâm đã được định tĩnh.
874. Sau khi nhìn thấy các uẩn là vô thường, là khổ não, và là vô ngã, tôi đã cắt đứt tất cả các lậu hoặc và đã thành tựu phẩm vị A-la-hán.
875. Khi ấy, các vị tỳ khưu ni đã quay lại và đã hỏi về nước nóng. Sau khi chú nguyện vào bản thể của lửa, tôi đã đun nóng nước một cách mau chóng.
876. Ngạc nhiên, các vị ni ấy đã trình lại sự việc này đến đấng Chiến Thắng cao quý. Sau khi nghe điều ấy, được hoan hỷ, đấng Bảo Hộ đã nói lên lời kệ này:
877. “Và người nào đã sống trăm năm, lười biếng, có sự tinh tấn thấp thỏi, cuộc sống một ngày của người đang ra sức tinh tấn một cách bền bĩ là tốt hơn.”[5]
878. Được hài lòng với sự thực hành tốt đẹp của tôi, đấng Đại Hùng, bậc Đại Hiền Trí ấy đã nói tôi là đứng đầu trong số các vị ni có sự ra sức tinh tấn.
879. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
880. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
881. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được tôi đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Tỳ khưu ni Soṇā đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão ni Soṇā là phần thứ sáu.
–ooOoo–
27. Ký Sự về Bhaddākāpilānī
882. Trước đây một trăm ngàn kiếp, vị Lãnh Đạo, đấng Chiến Thắng tên Padumuttara, bậc thông suốt về tất cả các pháp đã hiện khởi.
883. Khi ấy, ở tại Haṃsavatī có người triệu phú tên là Videha có rất nhiều châu báu. Tôi đã là vợ của người ấy.
884. Có lần nọ, người ấy cùng nhóm tùy tùng đã đi đến đấng Mặt Trời của nhân loại và đã lắng nghe Giáo Pháp đưa đến sự diệt tận tất cả khổ đau của đức Phật.
885. Đấng Lãnh Đạo đã ngợi khen vị Thinh Văn đứng đầu trong số các vị thuyết về sự giũ bỏ (pháp đầu-đà). Sau khi lắng nghe, chồng tôi đã dâng cúng vật thí đến đức Phật như thế ấy trong bảy ngày.
886. Chồng tôi trong khi làm hội chúng vui vẻ đã quỳ xuống đê đầu ở bàn chân và đã ước nguyện vị thế ấy. Chính vào khi ấy, đấng Cao Quý của loài người –
887. – vì lòng thương tưởng đến người triệu phú, đã nói những lời kệ này: “Này con trai, ngươi sẽ đạt được vị thế đã ước nguyện rồi ngươi hãy Niết Bàn.
888. Vào một trăm ngàn kiếp về sau này, bậc Đạo Sư tên Gotama, thuộc dòng dõi, xuất thân gia tộc Okkāka sẽ xuất hiện ở thế gian.
889. Ngươi sẽ trở thành nam Thinh Văn của bậc Đạo Sư, là người thừa tự Giáo Pháp của vị (Phật) ấy, là chánh thống, được tạo ra từ Giáo Pháp, có tên là Kassapa.”
890. Nghe được điều ấy, chồng tôi đã trở nên hoan hỷ. Khi ấy, với tâm từ ái chồng tôi đã chăm sóc đấng Chiến Thắng, bậc Hướng Đạo bằng các vật dụng cho đến hết cuộc đời.
891. Vị (Phật) ấy đã làm chói sáng Giáo Pháp, đã chế phục các ngoại đạo, đã hướng dẫn những ai đáng được hướng dẫn, rồi đã Niết Bàn cùng các vị Thinh Văn.
892. Khi đấng Cao Cả của thế gian ấy đã Niết Bàn, nhằm mục đích cúng dường đến bậc Đạo Sư chồng tôi đã tập hợp các bạn bè quyến thuộc, rồi cùng với những người ấy đã cho xây dựng –
893. – ngôi bảo tháp làm bằng châu báu cao bảy do-tuần, chói sáng như là trăm ánh hào quang, được tỏa rộng ra như là bông hoa sālā chúa.
894. Tại nơi ấy, chồng tôi đã cho thực hiện bảy trăm ngàn chiếc đĩa nhỏ bằng chính bảy loại châu báu, chúng đang chói sáng như là ngọn lửa của cây sậy.
895. Chồng tôi đã cho đổ đầy với dầu thơm rồi đã cho thắp sáng các ngọn đèn tại nơi ấy nhằm mục đích cúng dường đến bậc Đại Ẩn Sĩ, đấng Bi Mẫn của mọi sanh linh.
896. Chồng tôi đã cho thực hiện bảy trăm ngàn chậu đầy đặn được chứa đầy với thuần các loại châu báu nhằm mục đích cúng dường đến bậc Đại Ẩn Sĩ.
897. Ở giữa của mỗi nhóm tám chậu là những vật giá trị như vàng được chất đống. Chúng sáng rực với màu sắc tợ như ánh mặt trời vào mùa thu.
898. Chiếu sáng ở bốn cửa là các vòm cổng làm bằng châu báu. Chiếu sáng là những tấm ván xinh xắn làm bằng châu báu được dựng đứng.
899. Chói sáng là các lẳng hoa khéo tạo ra được đặt vòng quanh. Chói sáng là các cờ xí bằng châu báu được dựng đứng.
900. Và ngôi bảo tháp làm bằng ngọc quý này khéo được tô màu, khéo được thực hiện, sáng rực với màu sắc tợ như mặt trời vào lúc hoàng hôn.
901. Ngôi bảo tháp có ba bệ thờ. Chồng tôi đã chất đầy một bệ với đá màu vàng, một bệ với đá màu đỏ, và một bệ với đá màu đen.
902. Sau khi đã cho thực hiện việc cúng dường đáng yêu như thế ấy đến bậc Thuyết Giảng cao quý, chồng tôi đã dâng cúng vật thí đến Hội Chúng tùy theo năng lực cho đến hết cuộc đời.
903. Sau khi đã cùng với người triệu phú ấy thực hiện toàn bộ những việc phước báu ấy cho đến hết cuộc đời, tôi đã đi đến nhàn cảnh cùng với chính người ấy.
904. Sau khi đã thọ hưởng sự thành công ở bản thể chư Thiên rồi nhân loại, tôi đã luân hồi cùng với chính người ấy như là hình bóng với xác thân vậy.
905. Trước đây chín mươi mốt kiếp, đấng Lãnh Đạo Thế Gian Vipassī, vị có ánh mắt thu hút, bậc thấy rõ tất cả các pháp đã hiện khởi
906. Khi ấy ở tại Bandhumatī, người này là vị Bà-la-môn được công nhận là tốt lành, dồi dào về việc thâu đạt kiến thức, và đã bị lâm vào cảnh vô cùng khó khăn về tài sản.
907. Cũng vào khi ấy, với tâm ý tương đồng tôi đã là nữ Bà-la-môn (vợ) của người ấy. Có lần, người Bà-la-môn cao quý ấy đã đi đến bậc Đại Hiền Trí.
908. (Đức Phật) ngồi ở đám người đang thuyết giảng về vị thế Bất Tử. Sau khi nghe Pháp, được hoan hỷ người ấy đã dâng cúng một tấm vải choàng.
909. Quay về lại nhà với một mảnh vải, người ấy đã nói với tôi điều này: “Nàng hãy tùy hỷ việc phước lớn lao; tấm vải choàng đã được dâng đến đức Phật.”
910. Khi ấy, được hài lòng xiết bao tôi đã chắp tay lên nói lời tùy hỷ rằng: “Phu quân à, tấm vải choàng là đã khéo được dâng đến đức Phật tối thượng như thế ấy.”
911. Được an vui, trở nên gắn bó, trong khi luân hồi cõi này cõi khác, người ấy đã trở thành đức vua, vị lãnh chúa ở thành phố Bārāṇasī đáng yêu.
912. Khi ấy, tôi trở thành chánh hậu của người ấy, là tối cao trong đám nữ nhân. Tôi đã được cảm tình rất mực của người ấy do sự yêu mến trước đây của chồng.
913. Sau khi nhìn thấy tám vị Lãnh Đạo Độc Giác đang đi quanh để khất thực, người ấy đã trở nên hoan hỷ và đã dâng vật thực vô cùng giá trị.
914. Sau khi thỉnh mời lần nữa, người ấy đã thực hiện mái che bằng châu báu. Lọng che bằng vàng (rộng) trăm cánh tay đã được những người thợ rèn kiến thiết.
915. Sau khi đã hướng dẫn tất cả các ngài ấy tiến vào các chỗ ngồi bằng vàng, được tịnh tín người ấy đã tự tay mình dâng cúng vật thí đến các ngài ấy.
916. Khi ấy, tôi cũng đã dâng cúng vật thí ấy cùng với đức vua xứ Kāsi. Tôi đã được sanh ra ở Bārāṇasī lần nữa, tại ngôi làng nhỏ ngoại thành.
917. (Sanh ra) ở trong gia đình giàu có thịnh vượng, người ấy được an lạc, có em trai. Tôi đã là người vợ vô cùng chung thủy của người anh cả.
918. Sau khi nhìn thấy vị Phật Độc Giác, người em gái của chồng tôi đã dâng phần cơm đến vị ấy, và đã thuật lại khi chồng tôi đi đến.
919. Chồng tôi không hoan hỷ với việc dâng cúng. Do đó, tôi đã lấy lại phần cơm ấy từ bình bát rồi đã trao cho chồng. Chồng tôi đã dâng cúng (phần cơm ấy) một lần nữa đến chính vị Phật ấy.
920. Khi ấy, tôi đã quăng bỏ đi phần cơm ấy và đã độc ác đối với đức Phật. Tôi đã dâng bình bát ấy chứa đầy bùn đến vị Phật như thế ấy.
921. Về vật cho cũng như việc nhận giống như là vật không trong sạch và đóa hoa sen, khi ấy tôi đã nhìn khuôn mặt có tâm bình thản và đã vô cùng chấn động.
922. Sau khi nhận lại bình bát, tôi đã làm sạch bằng chất thơm, rồi với tâm tịnh tín, tôi đã chứa đầy với bơ lỏng và đã dâng lên một cách cung kính.
923. Ở bất cứ nơi đâu tôi được sanh ra, tôi đều có sắc xinh đẹp do sự bố thí và có mùi hôi do lời nói và do thái độ không phải phép đối với đức Phật.
924. Lần khác, khi ngôi bảo tháp của đấng Chiến Thắng Kassapa đang được hoàn tất, được hoan hỷ tôi đã dâng cúng phiến ngói cao quý bằng vàng.
925. Tôi đã tẩm phiến ngói ấy bằng hương thơm sanh lên từ bốn nguồn. Tôi đã được thoát khỏi khuyết điểm về mùi hôi thối và đã được thành tựu tốt đẹp về toàn bộ các phần thân thể.
926. (Chồng tôi) đã cho thực hiện bảy ngàn cái đĩa bằng chính bảy loại châu báu, được chứa đầy bơ lỏng và hàng ngàn tim đèn.
927. Với tâm ý thanh tịnh, sau khi đã đặt (tim đèn) vào và thắp sáng, người ấy đã xếp thành bảy hàng nhằm mục đích cúng dường đến bậc Bảo Hộ Thế Gian.
928. Khi ấy, tôi cũng có phần đóng góp đặc biệt trong việc phước thiện ấy. Người ấy đã được sanh ra ở xứ Kāsi lần nữa, được nổi danh là Sumitta.
929. Tôi đã là vợ của người ấy, được an vui, được gắn bó, được yêu quý. Khi ấy, người ấy cũng đã dâng đến vị Hiền Trí Độc Giác tấm vải choàng bền chắc.
930. Tôi đã hoan hỷ về việc bố thí tối thượng và cũng đã có phần trong việc ấy. Vị ấy cũng đã sanh ra lần nữa trong quốc độ Kāsi thuộc dòng dõi Koliya.
931. Khi ấy, cùng với năm trăm người con trai dòng Koliya, người ấy đã hộ độ năm trăm vị Phật Độc Giác.
932. Và sau khi đã làm hài lòng (chư Phật Độc Giác) trong ba tháng, người ấy đã dâng ba y. Khi ấy, đi theo lộ trình của nghiệp phước thiện tôi đã là vợ của người ấy.
933. Từ nơi ấy chết đi, người ấy đã trở thành vị vua tên là Nanda có danh tiếng vĩ đại. Tôi cũng đã trở thành chánh hậu của người ấy, có sự thành tựu về tất cả các điều dục lạc.
934. Và khi ấy, người ấy đã trở thành vị lãnh chúa Brahmadatta. Khi ấy, những người con trai của bà Padumavatī đã trở thành các bậc Hiền Trí Độc Giác.
935. Người ấy đã hộ độ năm trăm vị không thiếu vị nào cho đến hết cuộc đời. Chư Phật Độc Giác đã cư ngụ tại vườn hoa của đức vua rồi đã Niết Bàn, và người ấy đã cúng dường.
936. Và sau khi cho xây dựng các ngôi bảo tháp, cả hai chúng tôi đã xuất gia. Sau khi tu tập các vô lượng (tâm), chúng tôi đã đi đến cõi Phạm Thiên.
937. Từ nơi ấy chết đi, người ấy đã khéo được sanh ra tại Mahātittha (tên) là Pipphalāyana Mẹ là Sumanadevī, cha là người Bà-la-môn dòng tộc Kosiya.
938. Tôi đã là người con gái của vị Bà-la-môn Kapila, mẹ là Sucīmatī, ở tại kinh thành Sāgalā trong xứ sở Madda.
939. Sau khi tạo ra tôi với hình tượng bằng vàng khối, người cha đã gã tôi cho bậc trí Kassapa là người đã kiêng cử các dục.
940. Lần nọ, con người có lòng bi mẫn ấy đã đi xem xét công việc làm. Sau khi nhìn thấy các sinh vật bị những loài như là quạ, v.v… ăn thịt, người ấy đã bị động tâm.
941. Và tôi ở nhà, sau khi nhìn thấy những cây mè mọc lên trong sự thiêu đốt của ánh nắng mặt trời và loài sâu bọ bị các con quạ ăn thịt, khi ấy tôi đã có sự động tâm.
942. Lúc bấy giờ, con người trí tuệ ấy đã xuất gia. Tôi đã xuất gia theo vị ấy. Tôi đã sống theo hạnh du sĩ ngoại đạo trong năm năm.
943. Đến khi bà Gotamī người nuôi dưỡng đấng Chiến Thắng đã được xuất gia, khi ấy tôi đã đi theo bà ấy và đã được chỉ dạy bởi đức Phật.
944. Trong thời gian không bao lâu tôi đã thành tựu phẩm vị A-la-hán. Ôi, tính chất bạn hữu tốt lành đối với vị Kassapa vinh quang!
945. Kassapa là con trai, là người thừa tự của đức Phật, khéo được định tĩnh, nhìn thấy được cõi trời và địa ngục, và là vị đã biết được đời sống trước đây.
946. Rồi (vị ấy) đã đạt đến sự diệt tận của sự sanh, là vị hiền trí được hoàn hảo về thắng trí, với ba sự hiểu biết ấy trở thành vị Bà-la-môn có tam minh.
947. Tương tợ như thế ấy, Bhaddā Kāpilānī là vị ni có tam minh, có sự dứt bỏ Tử Thần, mang thân mạng cuối cùng sau khi đã chiến thắng Ma Vương cùng với đạo quân binh.
948. Sau khi nhìn thấy điều tai hại ở thế gian, cả hai chúng tôi đã xuất gia. Chúng tôi đây có các lậu hoặc đã cạn kiệt, đã được huấn luyện, đã có được trạng thái mát mẻ, đã được Niết Bàn.
949. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
950. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
951. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được tôi đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Tỳ khưu ni Bhaddākāpilānī đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão ni Bhaddākāpilānī là phần thứ bảy.
–ooOoo–
28. Ký Sự về Yasodharā
952. Vào một thuở nọ, đấng Lãnh Đạo nhân loại đang ngự tại một sườn núi cao quý ở thành Rājagaha đáng yêu, trù phú.[6]
953. Khi đang cư ngụ tại trú xứ đáng yêu của các tỳ khưu ni ở trong thành phố ấy, đã có suy nghĩ như vầy khởi đến vị tỳ khưu ni Yasodharā rằng:
954. “Nanda, Rāhula hiền thiện, và tương tợ y như thế (hai) vị tối thượng Thinh Văn, đại vương Suddhodana, và bà Pajāpatī Gotamī.
955. Cùng các vị đại trưởng lão đã đạt thắng trí, và các trưởng lão ni có đại thần lực, các vị ấy đã ngự đến nơi an tịnh không còn lậu hoặc, như là tim của cây đèn hết nhiên liệu.
956. Và luôn cả ta nữa cũng sẽ đi đến vị thế an toàn ngay trong khi đấng Lãnh Đạo Thế Gian còn hiện tiền.” Trong khi xem xét tuổi thọ của mình, vị ni đã suy nghĩ như thế.
957. Sau khi xem xét thọ hành sẽ đi đến sự hoại diệt trong chính ngày hôm ấy, vị ni đã cầm lấy bình bát và y rồi đã rời khỏi chốn tịnh cư của mình.
958. Vị ni có đại thần lực có đại trí tuệ ấy đã dẫn đầu một trăm ngàn vị tỳ khưu ni đi đến bậc Toàn Giác.
959. Sau khi đảnh lễ bậc Toàn Giác, vị ni ấy đã ngồi xuống ở một bên và đã nói lời nói này với bậc Đạo Sư là vị có dấu hiệu bánh xe:
960. “Bạch đấng Đại Hiền Trí, con đã bảy mươi tám tuổi. Giai đoạn cuối cùng của tuổi tác đang tiến đến. Con đã đạt đến ngay ở sườn dốc, con xin thưa rõ.
961. Sự tiêu hoại của con đã chín muồi, mạng sống của con còn chút ít. Rời bỏ Ngài, con sẽ ra đi. Sự nương nhờ của bản thân đã được con thực hiện.
962. Chính ở thời điểm cuối cùng, sự chết chận đứng tuổi thọ. Bạch đấng Đại Hùng, hôm nay vào ban đêm con sẽ thành tựu Niết Bàn.
963. Bạch đấng Hiền Trí, (Niết Bàn) là nơi không có sự sanh, sự già, sự bệnh và sự chết. Bạch đấng Anh Hùng, nơi nào khi đã đi đến là không còn được nhìn thấy thì con đi đến nơi ấy.
964. Bạch đấng Hiền Trí, cho đến nhóm người của bậc Đạo Sư ngồi chung ở nơi đây (nếu) nhận biết lỗi lầm (nào của tôi), xin quý vị hãy tha thứ ở trước mặt.
965. Và sau khi đã xoay vần trong vòng luân hồi, nếu có điều sai trái của con đối với Ngài, bạch đấng Đại Hùng con xin thưa rõ, xin Ngài hãy tha thứ lỗi lầm cho con.”
966. Sau khi lắng nghe lời nói của vị ni ấy, đấng Hiền Trí Vương đã nói điều này: “Ta sẽ nói điều gì hơn về nàng là người đang đi đến Niết Bàn?
967. Và nàng cũng nên thị hiện thần thông cho các vị hành theo Giáo Pháp của Ta được thấy. Và hãy chặt đứt sự nghi ngờ về Giáo Pháp cho tất cả các chúng.”
968. Sau khi lắng nghe lời nói của bậc Hiền Trí ấy, vị tỳ khưu ni Yasodharā ấy đã đảnh lễ đấng Hiền Trí Vương ấy và đã nói lời nói này:
969. “Bạch đấng Anh Hùng, con là Yasodharā, ở tại gia là người vợ của Ngài. Được sanh ra trong gia tộc Sakya, con đã duy trì phận sự của người nữ.
970. Bạch đấng Anh Hùng, trong số một trăm chín mươi sáu ngàn phụ nữ ở nhà của Ngài, con là người đứng đầu, là người chủ quản tất cả.
971. Là người có được sắc đẹp, tánh tình, và đức hạnh, ở vào tuổi thanh xuân, có lời nói đáng yêu, tất cả chư Thiên cũng như loài người đều quý trọng con.
972. Con đứng đầu một ngàn thiếu nữ ở trong cung của người con trai dòng Sakya. Các cô ấy cùng vui buồn giống nhau tợ như chư Thiên ở (vườn hoa) Nandana.
973. Con đã vượt lên trên lãnh vực dục tình, được khẳng định về mặt thể hình, không có người tương đương về sắc đẹp ngoại trừ đấng Lãnh Đạo Thế Gian.”
974. Sau khi đã nói như thế, v.v… Yasodharā, với sự cho phép của đức Phật, đã bay lên không trung và đã thị hiện vô số thần thông.
975. (Yasodharā đã thị hiện) cơ thể tương đương với bầu vũ trụ, đầu là (đảo) Kuru ở về phía bắc, hai cánh là hai hòn đảo, thân mình là đảo Jambu.[7]
976. Và đuôi công là cái hồ ở phía nam nhưng các cánh chim là các cành lá khác nhau, mặt trăng và mặt trời là mắt, núi Meru là chóp đỉnh.
977. Ngọn núi của bầu vũ trụ là mỏ chim. Trong lúc phe phẩy cây Jambu cùng với cội rễ (làm cây quạt), vị ni đã đi đến và đảnh lễ đấng Lãnh Đạo Thế Gian.
978. Tương tợ y như thế, vị ni đã thị hiện hình dáng con voi, con ngựa, ngọn núi, và biển cả, rồi mặt trăng, mặt trời, núi Meru, và vóc dáng của vị trời Sakka.
979. “Bạch đấng Anh Hùng, bạch đấng Hữu Nhãn, con là Yasodharā đảnh lễ ở bàn chân (Ngài). Con đã che khuất một ngàn thế giới bằng đóa sen nở rộ.”
980. Và sau khi hóa hiện ra vóc dáng của đấng Brahma, vị ni đã thuyết giảng Giáo Pháp về không tánh. “Bạch đấng Anh Hùng, bạch đấng Hữu Nhãn, con là Yasodharā xin đảnh lễ ở bàn chân (Ngài).
981. Bạch đấng Đại Hiền Trí, con đã có năng lực về các loại thần thông và thiên nhĩ giới, con đã có năng lực về trí biết tâm của người khác.
982. Con biết được đời sống trước đây, thiên nhãn được thanh tịnh, tất cả các lậu hoặc đã được cạn kiệt, giờ đây không còn tái sanh nữa.
983. Bạch đấng Đại Hùng, trí của con về ý nghĩa, về pháp, về ngôn từ, và tương tợ y như thế về phép biện giải là được thành tựu trong sự hiện diện của Ngài.
984. Sự gặp gỡ đối với chư Phật là các đấng Lãnh Đạo Thế Gian đã được Ngài nhìn thấy rõ. Bạch đấng Đại Hiền Trí, có nhiều hành động hướng thượng của con là nhằm mục đích về Ngài.
985. Bạch đấng Hiền Trí, xin Ngài nhớ lại thiện nghiệp trước đây của con. Bạch đấng Đại Hùng, phước báu đã được con tích lũy là nhằm mục đích về Ngài.
986. Bạch đấng Đại Hùng, sau khi đã tránh xa những nơi không thích hợp và đã ngăn trừ điều không giới hạnh, mạng sống đã được con hy sinh là nhằm mục đích về Ngài.
987. Bạch đấng Đại Hiền Trí, Ngài đã bố thí con nhằm mục đích làm vợ (kẻ khác) nhiều ngàn koṭi[8] lần. Con không có bất bình về điều ấy là nhằm mục đích về Ngài.
988. Bạch đấng Đại Hiền Trí, Ngài đã bố thí con vì sự hỗ trợ (kẻ khác) nhiều ngàn koṭi lần. Con không có bất bình về điều ấy là nhằm mục đích về Ngài.
989. Bạch đấng Đại Hiền Trí, Ngài đã bố thí con nhằm mục đích vật thực (cho kẻ khác) nhiều ngàn koṭi lần. Con không có bất bình về điều ấy là nhằm mục đích về Ngài.
990. Con đã từ bỏ nhiều ngàn koṭi mạng sống. Con từ bỏ mạng sống của con (nghĩ rằng): ‘Ta sẽ thực hiện sự giải thoát khỏi nỗi sợ hãi.’
991. Bạch đấng Đại Hiền Trí, con không cất giấu các đồ trang sức được dùng cho cơ thể, nhiều vải vóc các loại, các vật dụng của phụ nữ là nhằm mục đích về Ngài.
992. Con đã dứt bỏ tài sản, lúa gạo, các làng, và các phố chợ. Bạch đấng Đại Hiền Trí, các ruộng vườn, những người con trai, và con gái là đã được dứt bỏ.
993. Bạch đấng Đại Hùng, không thể đếm được những con voi, ngựa, trâu bò, luôn cả các nữ tỳ và tớ gái đã được dứt bỏ là nhằm mục đích về Ngài.
994. Về việc Ngài bảo con rằng: ‘Ta sẽ cho vật thí đến người hành khất,’ con không nhìn thấy sự bất bình của con trong khi Ngài bố thí vật thí tối thượng.
995. Bạch đấng Đại Hùng và con đã trải qua nhiều khổ đau khác loại không thể đếm được, ở nhiều hình thức trong sự luân hồi là nhằm mục đích về Ngài.
996. Bạch đấng Đại Hiền Trí, đạt được sung sướng con không vui thích và không có tâm bực bội trong những khổ đau, con được quân bình trong mọi trường hợp là nhằm mục đích về Ngài.
997. Theo lộ trình mà bậc Toàn Giác (quá khứ) đã khẳng định về pháp (giải thoát), thì đấng Đại Hiền Trí đã đạt đến sự Giác Ngộ sau khi trải qua an lạc và khổ đau.
998. Bạch đấng Phạm Thiên, bậc Toàn Giác, đấng Lãnh Đạo Thế Gian Gotama, Ngài với con đã có nhiều lần gặp gỡ với các đấng Bảo Hộ Thế Gian khác.
999. Bạch đấng Đại Hiền Trí, nhiều hành động hướng thượng của con là nhằm mục đích về Ngài. Con là nữ tỳ của Ngài trong lúc Ngài tầm cầu Phật Pháp.”
1000. Vào thuở bốn a-tăng-kỳ và một trăm ngàn kiếp, bậc Đại Anh Hùng, vị Lãnh Đạo Thế Gian Dīpaṅkara đã hiện khởi.
1001. Sau khi đã thỉnh mời đức Như Lai, những người ở khu vực vùng biên địa làm sạch sẽ con đường đi đến của Ngài với tâm hoan hỷ.
1002. Vào thời điểm ấy, người ấy đã là vị Bà-la-môn tên Sumedha, và đã sửa soạn con đường của đấng Toàn Tri đang đi đến.
1003. Vào thời điểm ấy, con đã là người thiếu nữ xuất thân Bà-la-môn tên Sumittā. Con đã đi đến cuộc tụ hội.
1004. Con đã cầm tám nắm hoa sen nhằm mục đích cúng dường đến bậc Đạo Sư. Con đã nhìn thấy vị ẩn sĩ được nổi bậc ở giữa đám người.
1005. Sau khi nhìn thấy con người đang ngồi khoác áo vỏ cây vô cùng đáng yêu quyến rũ đang ngồi, khi ấy con đã nghĩ rằng: ‘Mạng sống của ta là có kết quả.’
1006. Khi ấy, con đã nhìn thấy sự nỗ lực ấy của vị ẩn sĩ là có được kết quả. Do nghiệp quá khứ, tâm của con cũng đã tịnh tín vào đấng Toàn Giác.
1007. Con đã có tâm tịnh tín hơn nữa đối với vị ẩn sĩ có tâm ý hướng thượng. (Con đã nói rằng): ‘Này vị ẩn sĩ, tôi không nhìn thấy vật nào khác nên được dâng cúng, tôi cho ông các đóa hoa.
1008. Này vị ẩn sĩ, hãy là của ông năm nắm, hãy là của tôi ba nắm. Này vị ẩn sĩ, như thế sự thành tựu hãy là bằng nhau đối với mục đích giác ngộ của Ngài.’
Tụng phẩm thứ tư.
1009. Sau khi cầm lấy các đóa hoa, vị ẩn sĩ ở giữa đám người đã cúng dường đến bậc Đại Ẩn Sĩ có danh tiếng vĩ đại đang đi đến nhằm mục đích giác ngộ.
1010. Bậc Đại Hiền Trí Dīpaṅkara, đấng Đại Hùng đã nhìn thấy ở giữa đám người và đã chú nguyện cho vị ẩn sĩ có tâm ý hướng thượng rằng:
1011. ‘Này vị đại ẩn sĩ, (người nữ này) sẽ có tâm tương đương, có nghiệp tương đương, có hành động tương đương, sẽ trở thành người vợ do nghiệp báu đối với mục đích của ngươi.’
1012. (Người nữ này) có dáng nhìn xinh đẹp, vô cùng đáng yêu, vui vẻ, có lời nói đáng mến, sẽ trở thành người vợ yêu quý, người thừa tự Giáo Pháp của vị (Phật) ấy.
1013. Cũng giống như các người chủ gìn giữ cái rương của cải, người nữ này sẽ hộ trì như thế ấy đối với các thiện pháp.
1014. Trong khi thương tưởng đến ngươi đây, (người nữ này) sẽ làm tròn đủ các pháp toàn hảo, sẽ đạt được quả vị giác ngộ tương tợ như con sư tử phá vỡ cái chuồng.’
1015. Ấy là điều đức Phật đã chú nguyện cho con trước đây vô lượng kiếp. Trong khi tùy hỷ lời nói ấy, con đã là người có hành động như vậy.
1016. Tại nơi ấy, con đã có tâm tịnh tín đối với việc làm đã được thực hiện tốt đẹp ấy. Con đã sanh vào bản thể trời và người với số lần không thể đếm được.
1017. Con đã trải qua lạc và khổ ở các cõi trời và ở loài người. Khi đạt đến kiếp sống cuối cùng, con đã sanh ra trong gia tộc Sakya.
1018. Con có sắc đẹp, có của cải, có danh vọng và giới hạnh tương tợ như thế. Con có sự thành tựu vẹn toàn thân thể, được vô cùng kính trọng về các điều lành.
1019. Lợi lộc, danh vọng, cung kính, sự hội tụ của các pháp thế gian, và tâm bị khổ não là không có, con sống không sợ hãi.[9]
1020. Con đã nhàm chán các sự luân hồi và đã xuất gia vào đời sống không gia đình. Sau khi xuất gia cùng với một ngàn người hầu cận, con không có gì.
1021. Sau khi từ bỏ gia đình, con đã xuất gia vào đời sống không gia đình. Khi chưa đạt đến nửa tháng, con đã đạt được bốn Sự Thật.
1022. Nhiều người, không phải một, đem lại y phục, vật thực, thuốc men, và chỗ nằm ngồi tợ như các làn sóng của biển cả.
1023. Các phiền não của con đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), con sống không còn lậu hoặc.
1024. Quả vậy, con đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
1025. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được con đắc chứng; con đã thực hành lời dạy của đức Phật.
1026. Như vậy là có khổ đau đa dạng và thành công nhiều hình thức. Được đạt đến trạng thái thanh tịnh, con nhận lãnh mọi sự thành tựu.
1027. Nàng ấy bố thí chính bản thân mình vì mục đích phước báu của vị đại ẩn sĩ. Họ có sự thành tựu về bạn hữu. Vị thế Niết Bàn là không còn tạo tác.
1028. “Quá khứ, hiện tại, và vị lai đã được cạn kiệt, tất cả nghiệp của con đã được cạn kiệt. Bạch đấng Hữu Nhãn, con xin đảnh lễ ở bàn chân (Ngài).”
Tỳ khưu ni Yasodharā đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão ni Yasodharā là phần thứ tám.
–ooOoo–
29. Ký Sự về 10. 000 vị Tỳ Khưu Ni
1029. Vào thuở bốn a-tăng-kỳ và một trăm ngàn kiếp, đấng Chiến Thắng, vị Lãnh Đạo Thế Gian tên là Dīpaṅkara đã hiện khởi.
1030. Đấng Đại Hùng, bậc Hướng Đạo Dīpaṅkara đã chú nguyện cho Sumedha và Sumittā có trạng thái hạnh phúc và khổ đau tương tợ như nhau.
1031. Trong lúc nhìn thấy (thế gian) cùng với chư Thiên và trong lúc đi đó đây ở thế gian) luôn cả cõi trời, chúng con đã đi đến nơi tụ hội vào dịp tuyên dương của hai người ấy (và đã nói rằng):
1032. “Trong lần tụ hội ở ngày vị lai, xin ngài hãy là chồng của tất cả chúng tôi. Hết thảy tất cả sẽ là những người vợ vui vẻ, có lời nói đáng yêu của ngài.”
1033. Bạch đấng Đại Hiền Trí, tất cả chúng con có bố thí với trì giới, và tham thiền đã khéo được tu tập. Và mọi thứ thuộc về chúng con đã được buông bỏ từ lâu.
1034. Bạch đấng Đại Hiền Trí, bất cứ điều gì đã được ao ước (như là) hương thơm, vật thoa, tràng hoa, đèn, vật làm bằng châu báu, tất cả đã được buông bỏ.
1035. Bạch đấng Đại Hiền Trí, và luôn cả nghiệp nào khác đã được thực hiện cũng như sự thụ hưởng thuộc về nhân loại, mọi thứ thuộc về chúng con đã được buông bỏ từ lâu rồi.
1036. Trong khi luân hồi nhiều kiếp sống, chúng con đã làm được nhiều phước báu. Chúng con đã thọ hưởng quyền thế và đã luân hồi cõi này cõi khác.
1037. Khi đạt đến kiếp sống cuối cùng ở trong cung của người con trai dòng Sakya, chúng con đã được sanh ra trong nhiều gia tộc khác nhau, là những mỹ nhân có ái dục và sắc đẹp.
1038. Chúng con đã đạt đến danh vọng cùng với lợi lộc tột đỉnh, được tôn vinh, được tất cả tôn trọng, luôn luôn được cung cấp các lợi lộc về cơm ăn nước uống.
1039. Sau khi từ bỏ gia đình, chúng con đã xuất gia vào đời sống không gia đình. Khi chưa đạt đến nửa tháng, tất cả chúng con đã đạt được Niết Bàn.
1040. Nhiều người đem lại mọi thứ lợi lộc về cơm ăn nước uống, y phục và chỗ nằm ngồi. Chúng con luôn luôn được tôn kính cúng dường.
1041. Các phiền não của chúng con đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là những con voi cái (đã được cởi trói), chúng con sống không còn lậu hoặc.
1042. Quả vậy, chúng con đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
1043. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được chúng con đắc chứng; chúng con đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Mười ngàn vị tỳ khưu ni đứng đầu là Yasodharā trước mặt đức Thế Tôn đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về mười ngàn vị tỳ khưu ni là phần thứ chín.
–ooOoo–
30. Ký Sự về 18. 000 vị Tỳ Khưu Ni
1044. Mười tám ngàn vị tỳ khưu ni xuất thân dòng Sakya đứng đầu là Yasodharā đã đi đến gặp đấng Toàn Giác.
1045. Tất cả mười tám ngàn vị ni đều có đại thần lực. Trong khi đảnh lễ ở bàn chân của bậc Hiền Trí, các vị ni trình rõ đúng theo năng lực rằng:
1046. “Bạch đấng Đại Hiền Trí, sự sanh, sự già, sự bệnh, và sự chết đã được cạn kiệt. Bạch đấng Lãnh Đạo, chúng con đã đi đến vị thế Bất Tử, an tịnh, không còn lậu hoặc.
1047. Bạch đấng Đại Hiền Trí, nếu có điều sai trái gì trước đây của tất cả chúng con vì không biết là lỗi lầm, bạch đấng Hướng Đạo xin Ngài hãy tha thứ cho chúng con.”
1048. “Là những người thực hành theo Giáo Pháp của Ta, các nàng cũng nên thị hiện thần thông. Và hãy chặt đứt sự nghi ngờ đã có cho tất cả các chúng.”
1049. “Bạch đấng Đại Hùng, là những vị ni danh tiếng, vui vẻ, có dáng vóc đáng yêu, bạch đấng Đại Hùng, tất cả đã là vợ của Ngài lúc còn tại gia.
1050. Bạch đấng Anh Hùng, trong số một trăm chín mươi sáu ngàn phụ nữ ở nhà của Ngài, chúng con là những vị đứng đầu, là những người chủ quản tất cả.
1051. Là những người có được sắc đẹp, tánh tình, và đức hạnh, ở vào tuổi thanh xuân, có lời nói đáng yêu, tất cả chư Thiên cũng như loài người đều quý trọng (chúng con).
1052. Khi ấy, tất cả mười tám ngàn vị ni đều xuất thân dòng Sakya, một ngàn vị ni có danh tiếng là những vị đứng đầu, là những người chủ quản.
1053. Bạch đấng Đại Hiền Trí, (các cô ấy) đã vượt qua dục giới, đã được an trú vào sắc giới. Không có gì tương đương với sắc đẹp của một ngàn cô ấy.”
1054. Sau khi đảnh lễ bậc Toàn Giác, các vị ni đã phô bày thần thông đến bậc Đạo Sư. Các vị ni cũng đã thị hiện đại thần lực với nhiều hình thức khác loại.
1055. (Các vị ni đã thị hiện) cơ thể tương đương với bầu vũ trụ, đầu là (đảo) Kuru ở về phía bắc, hai cánh là hai hòn đảo, thân mình là đảo Jambu.
1056. Và đuôi công là cái hồ ở phía nam nhưng các lông chim là các cành lá khác nhau, mặt trăng và mặt trời là cặp mắt to, núi Meru là chóp đỉnh.
1057. Ngọn núi của bầu vũ trụ là mỏ chim. Trong lúc phe phẩy cây Jambu cùng với cội rễ (làm cây quạt), các vị ni đã đi đến và đảnh lễ đấng Lãnh Đạo Thế Gian.
1058. Tương tợ y như thế, các vị ni đã thị hiện hình dáng con voi, con ngựa, ngọn núi, và biển cả, rồi mặt trăng, mặt trời, núi Meru, và vóc dáng của vị trời Sakka.
1059. “Bạch vị Anh Hùng, bạch đấng Hữu Nhãn, chúng con là các vị Yasodharā xin đảnh lễ ở bàn chân (Ngài). Bạch vị Anh Hùng, bạch đấng Lãnh Đạo của nhân loại, chúng con đã được hoàn thành nhờ vào quyền uy của Ngài.
1060. Bạch đấng Đại Hiền Trí, chúng con đã có năng lực về các loại thần thông và thiên nhĩ giới, chúng con đã có năng lực về trí biết tâm của người khác.
1061. Chúng con biết được đời sống trước đây, thiên nhãn được thanh tịnh, tất cả các lậu hoặc đã được cạn kiệt, giờ đây không còn tái sanh nữa.
1062. Bạch đấng Đại Hùng, trí của chúng con về ý nghĩa, về pháp, về ngôn từ, và tương tợ như thế về phép biện giải là được thành tựu trong sự hiện diện của Ngài.
1063. Bạch đấng Đại Hiền Trí, sự gặp gỡ đối với các đấng Lãnh Đạo Thế Gian trước đây đã được chúng con nhìn thấy rõ. Nhiều hành động hướng thượng của chúng con là nhằm mục đích về Ngài.
1064. Bạch bậc Hiền Trí, xin Ngài nhớ lại thiện nghiệp trước đây của chúng con. Bạch đấng Đại Hùng, phước báu đã được tích lũy bởi chúng con là nhằm mục đích về Ngài.
1065. Bạch đấng Đại Hùng, sau khi đã tránh xa những nơi không thích hợp và đã ngăn trừ điều không giới hạnh, mạng sống đã được chúng con hy sinh là nhằm mục đích về Ngài.
1066. Bạch đấng Đại Hiền Trí, Ngài đã bố thí chúng con nhằm mục đích làm vợ (kẻ khác) nhiều ngàn koṭi lần. Chúng con không có bất bình về điều ấy là nhằm mục đích về Ngài.
1067. Bạch đấng Đại Hiền Trí, Ngài đã bố thí chúng con vì sự hỗ trợ (kẻ khác) nhiều ngàn koṭi lần. Chúng con không có bất bình về điều ấy là nhằm mục đích về Ngài.
1068. Bạch đấng Đại Hiền Trí, Ngài đã bố thí chúng con nhằm mục đích vật thực (cho kẻ khác) nhiều ngàn koṭi lần. Chúng con không có bất bình về điều ấy là nhằm mục đích về Ngài.
1069. Chúng con đã từ bỏ nhiều ngàn koṭi mạng sống. Chúng con đã từ bỏ các mạng sống (nghĩ rằng): ‘Chúng ta sẽ thực hiện sự giải thoát khỏi nỗi sợ hãi.’
1070. Bạch đấng Đại Hiền Trí, chúng con không cất giấu các đồ trang sức được dùng cho phụ nữ, cùng nhiều vải vóc các loại, và các vật dụng của phụ nữ là nhằm mục đích về Ngài.
1071. Chúng con đã dứt bỏ tài sản, lúa gạo, các ngôi làng, và các phố chợ. Bạch đấng Đại Hiền Trí, các ruộng vườn, những người con trai và những người con gái đã được dứt bỏ.
1072. Bạch đấng Đại Hùng, không thể đếm được những con voi, ngựa, trâu bò, luôn cả các nữ tỳ và tớ gái đã được dứt bỏ là nhằm mục đích về Ngài.
1073. Về việc Ngài bảo chúng con rằng: ‘Ta sẽ cho vật thí đến người hành khất,’ chúng con không nhìn thấy sự bất bình của chúng con trong khi Ngài bố thí vật thí tối thượng.
1074. Bạch đấng Đại Hùng,chúng con đã trải qua nhiều khổ đau khác loại không thể đếm được, và ở sự luân hồi với nhiều hình thức là nhằm mục đích về Ngài.
1075. Bạch đấng Đại Hiền Trí, đạt được sung sướng chúng con không vui thích và không có tâm bực bội trong những khổ đau, chúng con được quân bình trong mọi trường hợp là nhằm mục đích về Ngài.
1076. Theo lộ trình mà bậc Toàn Giác (quá khứ) đã khẳng định về pháp (giải thoát), thì đấng Đại Hiền Trí đã đạt đến sự Giác Ngộ sau khi trải qua an lạc và khổ đau.
1077. Bạch đấng Phạm Thiên, bậc Toàn Giác, đấng Lãnh Đạo Thế Gian Gotama, Ngài với chúng con đã có nhiều lần gặp gỡ với các đấng Bảo Hộ Thế Gian khác.
1078. Bạch đấng Đại Hiền Trí, nhiều hành động hướng thượng của chúng con là nhằm mục đích về Ngài. Chúng con là những nữ tỳ của Ngài trong lúc Ngài tầm cầu Phật Pháp.”
1079. Vào thuở bốn a-tăng-kỳ và một trăm ngàn kiếp, bậc Đại Anh Hùng, vị Lãnh Đạo Thế Gian Dīpaṅkara đã hiện khởi.
1080. Sau khi đã thỉnh mời đức Như Lai, những người ở khu vực vùng biên địa làm sạch sẽ con đường đi đến của Ngài với tâm hoan hỷ.
1081. Vào thời điểm ấy, người ấy đã là vị Bà-la-môn tên Sumedha, và đã sửa soạn con đường của đấng Toàn Tri đang đi đến.
1082. Vào thời điểm ấy, tất cả chúng con đã có xuất thân là Bà-la-môn. Chúng con đã mang đến cuộc tụ hội những đóa hoa mọc trên đất liền và dưới nước.
1083. Vào lúc ấy, đức Phật Dīpaṅkara, bậc Đại Hùng có danh tiếng vĩ đại ấy đã chú nguyện cho vị ẩn sĩ có tâm ý hướng thượng.
1084. Trong khi tuyên dương hành động của vị ẩn sĩ có tâm ý hướng thượng ấy, quả đất (đã) lay chuyển, gào thét, rung động cùng với Thiên giới.
1085. Các tiên nữ và loài người, luôn cả chúng con cùng với chư Thiên đã dâng lên phẩm vật cúng dường khác nhau rồi đã ước nguyện.
1086. Đức Phật tên Jotidīpa (Dīpaṅkara) đã chú nguyện cho các vị ấy rằng: “Những điều đã được ước nguyện vào ngày hôm nay sẽ trở thành hiện thực.”
1087. Ấy là điều đức Phật đã chú nguyện cho chúng con trước đây vô lượng kiếp. Trong khi tùy hỷ lời nói ấy, chúng con đã là những người hành động như thế.
1088. Tại nơi ấy, chúng con đã có tâm tịnh tín đối với việc làm đã được thực hiện tốt đẹp ấy. Chúng con đã sanh vào bản thể trời và người với số lần không thể đếm được.
1089. Chúng con đã trải qua an lạc và khổ đau ở các cõi trời và loài người. Khi đạt đến kiếp sống cuối cùng, chúng con đã sanh ra trong gia tộc Sakya.
1090. Chúng con có sắc đẹp, có của cải, do đó có danh vọng và giới hạnh. Chúng con có sự thành tựu vẹn toàn thân thể, được vô cùng kính trọng ở các gia đình.
1091. Lợi lộc, danh vọng, cung kính, sự hội tụ của các pháp thế gian, và tâm bị khổ não là không có, chúng con sống không sợ hãi.
1092. Khi ấy, điều này đã được đức Thế Tôn nói ra ở trong kinh thành của đức vua (Suddhodana). Và đấng Anh Hùng đã chỉ ra việc hỗ trợ trước đây của các vị Sát-đế-lỵ:
1093. “Người nữ nào là hữu ân, người nữ nào cùng chung vui sướng khổ đau, người nữ nào nói lời hữu ích, và người nữ nào có lòng thương tưởng,
1094. – thời hãy thực hành pháp thiện hạnh, chớ thực hành ác hạnh ấy. Người thực hành Giáo Pháp thọ hưởng an lạc ở đời này và đời sau.”
1095. Sau khi từ bỏ gia đình, chúng con đã xuất gia vào đời sống không gia đình. Chưa đạt đến nửa tháng, chúng con đã chạm đến bốn Sự Thật.
1096. Nhiều người đem đến cho chúng con y phục, vật thực, thuốc men, và chỗ nằm ngồi tợ như các làn sóng của biển cả.
1097. Các phiền não của chúng con đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi tói), chúng con sống không còn lậu hoặc.
1098. Quả vậy, chúng con đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
1099. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được chúng con đắc chứng; chúng con đã thực hành lời dạy của đức Phật.
1100. Như vậy là có khổ đau đa dạng và thành công nhiều hình thức. Được đạt đến trạng thái thanh tịnh, chúng con nhận lãnh mọi sự thành tựu.
1101. Những nàng nào bố thí chính bản thân mình vì mục đích phước báu của vị đại ẩn sĩ là có sự thành tựu về bạn hữu, còn vị thế Niết Bàn là không còn tạo tác.
1102. “Quá khứ, hiện tại, và vị lai đã được cạn kiệt, tất cả nghiệp của chúng con đã được cạn kiệt. Bạch đấng Hữu Nhãn, chúng con xin đảnh lễ ở bàn chân (Ngài).”
1103. “Ta sẽ nói điều gì hơn nữa về các nàng là những người đang tiến đến Niết Bàn? Bởi vì các nàng đã đạt được vị thế Bất Tử, (là cảnh giới mà) sự tạo tác và điều sai trái đã được tịnh lặng.”
Mười tám ngàn vị tỳ khưu ni đứng đầu là Yasodharā trước mặt đức Thế Tôn đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về mười tám ngàn vị tỳ khưu ni có Yasodharā đứng đầu là phần thứ mười.
Phẩm Kuṇḍalakesī là phẩm thứ ba.
–ooOoo–
TÓM LƯỢC CỦA PHẨM NÀY
Vị ni Kuṇḍalā, vị ni Kisāgotamī, luôn cả vị ni Dhammadinnā, vị ni Sakulā, vị ni Nandā cao quý, vị ni Soṇā, vị ni Bhaddākāpilānī, vị ni Yasodharā, mười ngàn tỳ khưu ni, và mười tám ngàn vị ni, (tổng cộng) là bốn trăm bảy mươi sáu câu kệ cả thảy.
–ooOoo–
IV. PHẨM SÁT-ĐẾ-LỴ
31. Ký Sự về các Tỳ Khưu Ni đứng đầu là Yasavatī
1104. “Bạch đấng Đại Hiền Trí, chúng con xin trình rằng, tất cả các hữu của chúng con đã được cạn kiệt, mối liên hệ với sự tái sanh của chúng con đã được mở ra, và các lậu hoặc của chúng con không còn.
1105. Bạch đấng Đại Hiền Trí, bất cứ thiện nghiệp nào trước đây đã được ước nguyện tốt đẹp (và) vật dụng đã được bố thí là nhằm mục đích về Ngài.
1106. Bạch đấng Đại Hiền Trí, vật dụng đã được bố thí đến các vị Phật, đến các vị Phật Độc Giác, và đến các vị Phật Thinh Văn là nhằm mục đích về Ngài.
1107. Bạch đấng Đại Hiền Trí, hành động cao cả hoặc tầm thường đến các vị tỳ khưu đã được ước nguyện tốt đẹp, hành động khởi đầu này đây cho việc (sanh vào) các gia tộc thượng lưu đã được thực hiện.
1108. Sự thành tựu của nghiệp được thúc đẩy bởi nhân tố trong sạch, trong khi vượt trội loài người chúng con đã được sanh vào gia tộc Sát-đế-lỵ.
1109. Trong sự sanh ra và trong việc làm đã được thực hiện, và luôn cả trong sự tái sanh cùng với nhau, chúng con đã được sanh ra chung với nhau trong (kiếp sống) cuối cùng, có xuất thân gia tộc Sát-đế-lỵ.
1110. Bạch đấng Đại Hùng, có sắc đẹp, có của cải, được tôn vinh bằng các lợi lộc và sự kính trọng, chúng con ở trong kinh thành như là ở (vườn hoa) Nandana của chư Thiên.
1111. Chúng con đã nhàm chán và đã xuất gia vào đời sống không gia đình. Trong vài ngày, tất cả chúng con đã đạt được Niết Bàn.
1112. Nhiều người đem đến cho chúng con y phục, vật thực, thuốc men, và chỗ nằm ngồi, chúng con luôn luôn được kính trọng tôn vinh.
1113. Các phiền não của chúng con đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), chúng con sống không còn lậu hoặc.
1114. Quả vậy, chúng con đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
1115. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được chúng con đắc chứng; chúng con đã thực hành lời dạy của đức Phật.”
Mười tám ngàn vị tỳ khưu ni công nương dòng Sát-đế-lỵ đứng đầu là Yasavatī trước mặt đức Thế Tôn đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về mười tám ngàn vị tỳ khưu ni đứng đầu là Yasavatī là phần thứ nhất.
–ooOoo–
32. Ký Sự về các vị Tỳ Khưu Ni Thiếu Nữ Bà-la-môn
1116. “Bạch đấng Đại Hiền Trí, tám mươi bốn ngàn vị ni xuất thân gia tộc Bà-la-môn, có tay chân mềm mại, là thuộc về Ngài trước đây.
1117. Bạch đấng Đại Hiền Trí, nhiều thiếu nữ đã được sanh ra trong gia tộc thương buôn và nô lệ, là chư Thiên, loài rồng, và kim-sỉ-điểu, thuộc bốn châu lục, là thuộc về Ngài trước đây.
1118. Có một số đã được xuất gia, nhiều vị có sự nhìn thấy Sự Thật. Còn chư Thiên, kim-sỉ-điểu, loài rồng sẽ được giác ngộ trong ngày vị lai.
1119. Sau khi thọ hưởng danh vọng, sau khi đạt đến thành công toàn diện, tất cả đã đạt được niềm tịnh tín ở Ngài, sẽ được giác ngộ trong ngày vị lai.
1120. Bạch đấng Đại Hùng, bạch đấng Hữu Nhãn, chúng con là những người con gái của các Bà-la-môn, xuất thân gia tộc Bà-la-môn, chúng con xin đảnh lễ ở bàn chân của Ngài là vị đang xem xét chúng con.
1121. Tất cả các hữu đã được phá hủy, ái dục cội nguồn đã được thủ tiêu, các khuynh hướng ngủ ngầm đã được chặt đứt, các sự tạo tác đem lại phước báu đã được xé tan.
1122. Chúng con có tất cả các hành xứ về định, tương tợ như thế về khả năng thể nhập. Nhờ thiền, chúng con sẽ luôn luôn sống với sự thỏa thích trong Giáo Pháp.
1123. Lối dẫn đến tái sanh, vô minh, và luôn cả các pháp còn tạo tác đã được quăng bỏ. Bạch đấng Lãnh Đạo, xin Ngài cho phép (chúng con) đi đến vị thế khó nhìn thấy vô cùng.”
1124. “Các nàng là nguồn hỗ trợ cho Ta là người đã có sự thực hành dài lâu. Tất cả các nàng hãy cắt đứt sự hoài nghi của bốn (chúng) rồi hãy đi đến Niết Bàn.”
1125. Sau khi đảnh lễ ở bàn chân của bậc Hiền Trí và đã thực hiện sự biến hóa thần thông, một số vị ni thị hiện ánh sáng, còn một số khác thị hiện bóng tối.
1126. Các vị ni thị hiện mặt trăng, mặt trời, và biển cả có cả loài cá. Các vị thị hiện dãy núi Sineru và giống cây san hô (thuộc cõi trời).
1127. Với thần thông, các vị ni làm cho nhìn thấy cung trời Đạo Lợi, Dạ Ma, Đẩu Suất, các vị trời có uy lực lớn lao ở cõi Hóa Lạc Thiên và Tha Hóa Tự Tại.
1128. Một số vị ni làm cho nhìn thấy con đường kinh hành vô cùng giá trị của đấng Phạm Thiên. Và sau khi biến hóa thành hình dáng của đấng Phạm Thiên, các vị ni thuyết giảng Giáo Pháp về không tánh.
1129. Sau khi đã thực hiện sự biến hóa khác nhau và đã phô bày thần thông đến bậc Đạo Sư, tất cả đã trình bày năng lực và đã đảnh lễ ở bàn chân của bậc Đạo Sư.
1130. “Bạch đấng Đại Hiền Trí, chúng con có năng lực về các loại thần thông và thiên nhĩ giới, chúng con có năng lực về trí biết tâm của người khác.
1131. Chúng con biết được đời sống trước đây, thiên nhãn được thanh tịnh, tất cả các lậu hoặc đã được cạn kiệt, giờ đây không còn tái sanh nữa.
1132. Bạch đấng Đại Hùng, trí của chúng con về ý nghĩa, về pháp, về ngôn từ, và tương tợ y như thế về phép biện giải là được thành tựu trong sự hiện diện của Ngài.
1133. Bạch đấng Đại Hiền Trí, sự gặp gỡ đối với các đấng Lãnh Đạo Thế Gian trước đây đã được chúng con nhìn thấy rõ. Nhiều hành động hướng thượng của chúng con là nhằm mục đích về Ngài.
1134. Bạch đấng Hiền Trí, xin Ngài nhớ lại nghiệp thiện đã được chúng con thực hiện. Bạch đấng Đại Hùng, phước báu đã được tích lũy bởi chúng con là nhằm mục đích về Ngài.”
1135. Trước đây một trăm ngàn kiếp, có bậc Đại Hiền Trí Padumuttara. Thành phố tên Haṃsavatī là chỗ cư ngụ của gia đình đấng Toàn Giác.
1136. Sông Gaṅgā luôn luôn chảy qua cửa khẩu của thành Haṃsavatī. Bị khuấy rồi bởi dòng sông, các vị tỳ khưu ấy không có được đường đi.
1137. Các vị ấy không có được đường đi đã hai ngày, ba ngày, và luôn cả bảy ngày, sau đó là một tháng, thậm chí bốn tháng đã được tròn đủ.
1138. Khi ấy, bậc ưu tú của loài người đã là viên quan lại tên là Jaṭila. Sau khi nhìn thấy các vị tỳ khưu bị ngăn trở, người đã cho xây dựng cây cầu ở sông Gaṅgā.
1139. Khi ấy, người đã cho xây dựng cây cầu ở sông Gaṅgā với một trăm ngàn, và đã cho xây dựng ngôi trú xá của hội chúng ở bờ sông bên này.
1140. Những người đàn bà luôn cả đàn ông cùng các gia đình thượng và hạ lưu, họ đã góp phần bằng nhau cho cây cầu và ngôi trú xá của vị ấy.
1141. Với tâm ý vui mừng, chúng con và những người khác ở thành phố và ở các quốc độ là những người thừa tự các việc làm của vị ấy.
1142. Những người đàn bà, đàn ông, thiếu niên, và luôn cả nhiều thiếu nữ, họ đã rải cát cho cây cầu và ngôi trú xá.
1143. Sau khi làm việc quét dọn con đường, họ đã thực hiện các lá phướn, các chum đầy (nước), các cây cờ, nhang thắp, bột phấn, tràng hoa là việc tôn kính đến bậc Đạo Sư.
1144. Sau khi cho thực hiện cây cầu và ngôi trú xá, người đã thỉnh mời đấng Hướng Đạo, rồi đã dâng cúng đại thí, và đã ước nguyện quả vị Toàn Giác.
1145. Bậc Đại Hiền Trí, đấng Đại Hùng Padumuttara, bậc giúp cho tất cả các chúng sanh vượt qua đã nói lời tùy hỷ đến vị Jaṭila rằng:
1146. “Khi một trăm ngàn kiếp đã trôi qua sẽ là kiếp Bhadda, (người này) sau khi trải qua kiếp này kiếp khác sẽ đạt đến quả vị giác ngộ.
1147. Những người đàn ông và đàn bà nào đã thực hiện công việc hỗ trợ bằng tay, trong tương lai dài lâu tất cả sẽ gặp lại nhau.”
1148. Do kết quả của nghiệp ấy và do các nguyện lực của tác ý, những người nữ tỳ ấy của Ngài đã được sanh lên cung điện của chư Thiên.
1149. Trong khi thọ hưởng sự sung sướng vô lượng thuộc về cõi trời và vô lượng thuộc về nhân loại một thời gian dài, chúng con đã luân hồi cõi này cõi khác.
1150. Trong một trăm ngàn kiếp về trước, sự thành tựu của nghiệp đã được thể hiện tốt đẹp, chúng con được trẻ đẹp ở giữa loài người rồi ở cung trời cao quý.
1151. Chúng con liên tục thọ lãnh trọn vẹn sự thành tựu của nghiệp đã khéo được thể hiện về sắc đẹp, của cải, danh vọng, luôn cả tiếng tăm, và sự kính trọng.
1152. Khi đạt đến kiếp sống cuối cùng, chúng con đã được sanh ra trong gia tộc Bà-la-môn, có tay chân mềm mại, ở trong cung của người con trai dòng Sakya.
1153. “Bạch đấng Đại Hiền Trí, thậm chí trong mọi thời điểm chúng con cũng không nhìn thấy quả đất là không được trang hoàng, chúng con không nhìn thấy đầm lầy và mặt đất là bị ô nhiễm.
1154. Trong khi sống tại gia, chúng con có được sự tôn trọng trong mọi thời điểm. Do năng lực của nghiệp trước đây, người ta luôn luôn đem lại cho chúng con mọi thứ.
1155. Sau khi từ bỏ gia đình, chúng con đã xuất gia vào đời sống không gia đình. Chúng con đã được thoát khỏi đạo lộ luân hồi, có tham ái đã được lìa bỏ.
1156. Từ nơi kia từ nơi nọ, người ta luôn luôn đem lại cho chúng con hàng ngàn y phục, vật thực, thuốc men, và chỗ nằm ngồi.”
1157. Các phiền não của chúng con đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), chúng con sống không còn lậu hoặc.
1158. Quả vậy, chúng con đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
1159. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được chúng con đắc chứng; chúng con đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Tám mươi bốn ngàn vị tỳ khưu ni thiếu nữ Bà-la-môn trước mặt đức Thế Tôn đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về tám mươi bốn ngàn vị tỳ khưu ni là phần thứ nhì.
–ooOoo–
33. Ký Sự về Uppaladāyikā[10]
1160. Ở thành phố Aruṇavatī, có vị Sát-đế-lỵ tên là Aruṇa. Con đã là người vợ của vị vua ấy. Có một lần con đã khiến (người) đưa con đi (du ngoạn).
1161. Khi ấy, con đã đi đến nơi thanh vắng và ngồi xuống, con đã suy nghĩ như vầy: “Dầu đã đạt được vị thế xứng đáng, nhưng không điều lành nào đã được ta thực hiện!
1162. Có lẽ ta sẽ đi đến địa ngục là nơi vô cùng nóng bức, khổ sở, có dáng vẻ rùng rợn, vô cùng khiếp đảm; điều này đối với ta là không có sự hoài nghi (nữa).”
1163. Sau khi suy nghĩ như thế và sau khi đã làm cho tâm được mừng rỡ, con đã đi đến gặp đức vua và đã nói lời nói này:
1164. “Tâu bệ hạ, chúng thiếp là phụ nữ luôn luôn đi theo sau người nam. Tâu vị Sát-đế-lỵ, xin hãy ban cho thiếp một vị sa-môn. Thiếp sẽ chăm lo về vật thực.”
1165. Khi ấy, đức vua đã ban cho con (một) vị sa-môn có (các) giác quan đã được tu tập. Sau khi nhận lấy bình bát của vị ấy, con đã đặt đầy (bình bát) với vật thực thượng hạng.
1166. Sau khi đã đặt đầy (bình bát) với vật thực thượng hạng, con đã đậy lại bằng tấm vải lớn trị giá một ngàn và đã dâng lên với tâm ý hớn hở.
1167. Do nghiệp ấy đã được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ thân nhân loại con đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.
1168. Con đã được thiết lập vào ngôi hoàng hậu của một ngàn vị trời Đế Thích. Con đã được thiết lập vào ngôi hoàng hậu của một ngàn đấng Chuyển Luân Vương.
1169. Vương quyền của địa phận là bao la, vô lượng về phương diện tính đếm. Từ đó, quả báu của nghiệp ấy còn có nhiều hình thức đa dạng khác nữa.
1170. Màu da của con chính là màu của hoa sen, con là người nữ đẹp vô cùng, có dáng nhìn xinh xắn, được thành tựu toàn vẹn về cơ thể, được sanh vào nơi quyền quý, có sự lộng lẫy.
1171. Khi đạt đến kiếp sống cuối cùng, con đã được sanh ra trong gia tộc Sakya, đứng đầu một ngàn nữ nhân của người con trai của (đức vua) Suddhodana.
1172. Nhàm chán cuộc sống tại gia, con đã xuất gia vào đời sống không gia đình. Chưa đến đêm thứ bảy, con đã đạt được bốn Sự Thật.
1173. Con không thể nào ước lượng được số lượng y phục, vật thực, thuốc men, và chỗ nằm ngồi; điều này là quả báu của món vật thực.
1174. Bạch đấng Hiền Trí, xin Ngài nhớ lại việc làm tốt đẹp trước đây của con. Bạch đấng Đại Hùng, nhiều thứ đã được con buông bỏ là nhằm mục đích về Ngài.
1175. Kể từ khi con đã dâng cúng vật thí trước đây ba mươi mốt kiếp, con không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của món vật thực.
1176. Con nhận biết hai cảnh giới là bản thể chư Thiên và nhân loại, con không biết đến cảnh giới nào khác; điều này là quả báu của món vật thực.
1177. Con được sanh vào gia tộc thượng lưu, có đại sảnh đường, có tài sản lớn lao, con không biết đến gia tộc nào khác; điều này là quả báu của món vật thực.
1178. Sau khi luân hồi cõi này cõi khác, được thúc đẩy bởi nhân tố trong sạch con không nhìn thấy điều không vừa ý; (điều này) là quả báu đã được thực hiện với tâm hoan hỷ.
1179. Bạch đấng Đại Hiền Trí, con đã có năng lực về các loại thần thông và thiên nhĩ giới, con đã có năng lực về trí biết tâm của người khác.
1180. Con biết được đời sống trước đây, thiên nhãn được thanh tịnh, tất cả các lậu hoặc đã được cạn kiệt, giờ đây không còn tái sanh nữa.
1181. Bạch đấng Đại Hùng, trí của con về ý nghĩa, về pháp, về ngôn từ, và tương tợ như thế về phép biện giải là được thành tựu trong sự hiện diện của Ngài.
1182. Các phiền não của con đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), con sống không còn lậu hoặc.
1183. Quả vậy, con đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
1184. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được con đắc chứng; con đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Tỳ khưu ni Uppaladāyikā trước mặt đức Thế Tôn đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão ni Uppaladāyikā là phần thứ ba.
–ooOoo–
34. Ký Sự về Sigālamātā[11]
1185. Trước đây một trăm ngàn kiếp, vị Lãnh Đạo, đấng Chiến Thắng tên Padumuttara, bậc thông suốt về tất cả các pháp đã hiện khởi.
1186. Khi ấy, con đã được sanh ra tại Haṃsavatī, trong gia đình vị quan cận thần được rạng rỡ với châu báu khác loại, sung túc, thịnh vượng, có đại tài sản.
1187. Sau khi cùng với người cha dẫn đầu đám đông người đi đến và lắng nghe Giáo Pháp của đức Phật, con đã xuất gia vào đời sống không gia đình.
1188. Sau khi xuất gia, con đã lánh xa nghiệp ác do thân. Sau khi từ bỏ sở hành xấu xa về lời nói, con đã thanh lọc sự nuôi mạng sống.
1189. Con được tịnh tín với đức Phật, có sự tôn sùng Giáo Pháp và Hội Chúng. Con được gắn bó với việc lắng nghe Chánh Pháp và có lòng khao khát về việc nhìn thấy đức Phật.
1190. Khi ấy, con đã nghe về vị tỳ khưu ni đứng đầu trong số các vị ni có khuynh hướng về đức tin. Sau khi ước nguyện vị thế ấy, con đã làm tròn đủ Tam Học. Do đó, đấng Thiện Thệ với khuynh hướng thuận theo lòng bi mẫn đã nói với con rằng:
1191. “Đức tin của người nào đối với đức Như Lai là không bị lay chuyển, khéo được thiết lập, và giới của người nào là tốt đẹp, tương xứng với bậc Thánh, được ngợi khen.
1192. Người nào có niềm tịnh tín vào Hội Chúng, có bản thể chính trực và có sự nhận thức, người ta nói về vị ấy là ‘kẻ không nghèo,’ đời sống của vị ấy là không vô ích.
1193. Vì thế, người sáng suốt, trong khi ghi nhớ lời dạy của chư Phật, hãy gắn bó vào đức tin, vào giới, vào niềm tịnh tín, và vào việc nhận thức Giáo Pháp.”
1194. Sau khi lắng nghe điều ấy, được hoan hỷ con đã hỏi về điều phát nguyện của con. Khi ấy, đấng Hướng Đạo tối cao, vô lượng, đã chú nguyện rằng:
1195. “Này người thiện nữ, được tịnh tín vào đức Phật nàng sẽ đạt được điều đã ước nguyện ấy. Vào một trăm ngàn kiếp về sau này, bậc Đạo Sư tên Gotama, xuất thân gia tộc Okkāka, sẽ xuất hiện ở thế gian.
1196. Nàng sẽ trở thành nữ Thinh Văn của bậc Đạo Sư, là người thừa tự Giáo Pháp của vị (Phật) ấy, là chánh thống, được tạo ra từ Giáo Pháp, có tên là ‘Mẹ của Sigālaka.’”
1197. Nghe được điều ấy, con đã trở nên hoan hỷ. Khi ấy, với tâm từ ái con đã phụng sự đấng Chiến Thắng, bậc Lãnh Đạo với các sự hành đạo cho đến hết cuộc đời.
1198. Do nghiệp ấy đã được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ thân nhân loại con đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.
1199. Và trong kiếp sống cuối cùng hiện nay, con đã được sanh ra ở kinh thành Giribbaja, trong gia đình triệu phú, thịnh vượng, có sự tích lũy các châu báu lớn lao.
1200. Người con trai của con tên Sigālaka là thích thú vào con đường sái quấy. Trong khi lao theo việc nắm giữ tà kiến, nó có sự nhiệt thành với việc cúng dường các phương hướng.[12]
1201. Trong khi đi vào thành phố để khất thực, đức Phật bậc có sự giáo huấn, sau khi nhìn thấy nó đang lễ bái các phương hướng khác nhau, đấng Hướng Đạo đã thiết lập Sigālaka vào Đạo Lộ.
1202. Trong khi Ngài đang thuyết giảng Giáo Pháp, âm điệu của Ngài đáng kinh ngạc. Đã có sự lãnh hội Giáo Pháp của hai koṭi người nam và người nữ.[13]
1203. Khi ấy, con đã đi đến đám đông và đã lắng nghe lời thuyết giảng của đức Thiện Thệ. Con đã đạt đến quả vị Nhập Lưu và đã xuất gia vào đời sống không gia đình.
1204. Có lòng khao khát về việc nhìn thấy đức Phật, sau khi tu tập pháp tùy niệm ấy trong thời gian không bao lâu, con đã thành tựu phẩm vị A-la-hán.
1205. Con luôn thường xuyên đi đến nhằm mục đích chiêm ngưỡng đức Phật. Con nhìn không biết chán diện mạo có sự hoan hỷ ở đôi mắt.
1206. Con sống, không biết chán với sắc thân cao quý, được hiện hữu với tất cả các pháp toàn hảo, được phân bố với mọi sự tốt lành, là nơi chứa đựng các điều may mắn.
1207. Hoan hỷ về đức hạnh ấy, đấng Chiến Thắng đã thiết lập con vào vị thế tối thắng: “Mẹ của Sigālaka là vị có khuynh hướng về đức tin hạng nhất.”
1208. Bạch đấng Đại Hiền Trí, con đã có năng lực về các loại thần thông và thiên nhĩ giới, con đã có năng lực về trí biết tâm của người khác.
1209. Con biết được đời sống trước đây, thiên nhãn được thanh tịnh, tất cả các lậu hoặc đã được cạn kiệt, giờ đây không còn tái sanh nữa.
1210. Bạch đấng Đại Hùng, trí của con về ý nghĩa, về pháp, về ngôn từ, và tương tợ như thế về phép biện giải là được thành tựu trong sự hiện diện của Ngài.
1211. Các phiền não của con đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), con sống không còn lậu hoặc.
1212. Quả vậy, con đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
1213. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được con đắc chứng; con đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Tỳ khưu ni Sigālamātā trước mặt đức Thế Tôn đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão ni Sigālamātā là phần thứ tư.
–ooOoo–
35. Ký Sự về Sukkā
1214. Trước đây chín mươi mốt kiếp, đã hiện khởi đấng Lãnh Đạo tên Vipassī, là vị có ánh mắt thu hút, là vị thấy rõ tất cả các pháp.
1215. Khi ấy, con đã được sanh ra trong một gia đình nọ tại thành Bandhumatī. Sau khi lắng nghe Giáo Pháp của bậc Hiền Trí, con đã xuất gia vào đời sống không gia đình.
1216. Là người nghe nhiều (học rộng), thông thạo Giáo Pháp, tài biện giải cũng như thế, là vị thuyết giảng hay, và cũng là người thực hành theo lời dạy của đấng Chiến Thắng.
1217. Khi ấy, con đã thực hiện việc thuyết Pháp có nhiều lợi ích cho dân chúng. Từ nơi ấy chết đi, con đã đạt đến cõi trời Đẩu Suất, có được danh tiếng.
1218. Trước đây ba mươi mốt kiếp, trong số các vị đang thuyết giảng đã hiện khởi ở thế gian bậc Chiến Thắng Sikhī cao quý, chói sáng với danh tiếng như là ngọn lửa.
1219. Khi ấy, con cũng đã xuất gia. Là vị rành rẽ về lời dạy của đức Phật, con đã làm rạng rỡ những lời giảng của đấng Chiến Thắng, sau đó cũng đã đi đến cõi Đạo Lợi.
1220. Trước đây ba mươi mốt kiếp, đấng Lãnh Đạo tên Vessabhū có đại trí tuệ đã hiện khởi. Và cũng vào lúc ấy, con đã được sanh ra tương tợ y như thế.
1221. Sau khi xuất gia, thông thạo Giáo Pháp, con đã làm rạng rỡ lời dạy của đấng Chiến Thắng. Sau khi đi đến thành phố chư Thiên xinh đẹp, con đã thọ hưởng lạc thú lớn lao.
1222. Trong kiếp Bhadda này, đấng Chiến Thắng tối thượng Kakusandha, bậc Nhân Báo đã hiện khởi. Và cũng vào lúc ấy, con đã được sanh ra tương tợ y như thế.
1223. Sau khi xuất gia, con đã làm rạng rỡ quan điểm của bậc Hiền Trí cho đến hết tuổi thọ. Từ nơi ấy chết đi, con đã đi đến cõi trời Đạo Lợi tợ như đi đến chỗ ngụ của mình.
1224. Chính ở trong kiếp này, đã hiện khởi đấng Lãnh Đạo Koṇāgamana, bậc Nương Nhờ của thế gian, là đấng Tối Thượng của tất cả chúng sanh.
1225. Cũng vào khi ấy, sau khi xuất gia trong Giáo Pháp của bậc như thế ấy, là người nghe nhiều (học rộng), thông thạo Giáo Pháp, con đã làm rạng rỡ lời dạy của đấng Chiến Thắng.
1226. Chính ở trong kiếp này, đã hiện khởi đấng Tối Thượng Nhân Kassapa, là con mắt của thế gian, không dục vọng, bậc đã đi đến tận cùng của sự chết.
1227. Con cũng đã xuất gia trong Giáo Pháp của đấng Chiến Thắng của loài người ấy, có Chánh Pháp đã được học tập, là tự tin trong việc chất vấn.
1228. Có giới tốt đẹp, có sự khiêm tốn, và rành rẽ về Tam Học (Giới, Định, Tuệ). Con đã nhiều lần thực hiện việc thuyết Pháp đem lại điều lợi ích cho đến hết cuộc đời.
1229. Do nghiệp ấy đã được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ thân nhân loại con đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.
1230. Và trong kiếp sống cuối cùng hiện nay, con đã được sanh ra tại kinh thành Giribbaja, trong gia đình triệu phú, thịnh vượng, có sự tích lũy châu báu lớn lao.
1231. Vào lúc ấy, được tháp tùng bởi một ngàn vị tỳ khưu, đấng Lãnh Đạo Thế Gian đã đi vào thành Rājagaha, và đã được ca ngợi bởi vị có ngàn mắt (trời Sakka):
1232. “Là bậc đã chế ngự cùng với các vị đã được chế ngự, là bậc đã giải thoát cùng với các vị đã được giải thoát trước đây là các đạo sĩ tóc bện, đức Thế Tôn có màu da tợ như vàng đã đi vào thành Rājagaha.”[14]
1233. Sau khi nhìn thấy oai lực ấy của đức Phật, và sau khi lắng nghe sự tích lũy về đức hạnh, con đã làm cho tâm được tịnh tín ở đức Phật và đã cúng dường Ngài tùy theo năng lực.
1234. Và vào thời điểm khác, trong sự hiện diện của vị ni Dhammadinnā, con đã rời khỏi gia đình và đã xuất gia vào đời sống không gia đình.
1235. Trong khi các sợi tóc đang được cạo, con đã tham thiền về các phiền não. Sau khi xuất gia không bao lâu, con đã học xong toàn bộ Giáo Pháp.
1236. Sau đó, con đã thuyết giảng Giáo Pháp ở hội chúng đông người. Trong khi Giáo Pháp đang được thuyết giảng, đã có sự lãnh hội Giáo Pháp –
1237. – của nhiều ngàn người. Sau khi biết được điều đó, có vị Dạ Xoa đã vô cùng ngạc nhiên. Vô cùng tịnh tín đối với con, vị Dạ Xoa đã đi quanh thành Giribbaja (thông báo rằng):
1238. “Những người dân này ở Rājagaha đã làm gì? Họ ngồi yên như là đã uống (say) mật ong mà không đi đến vị ni Sukkā đang thuyết giảng về vị thế Bất Tử?
1239. Và Giáo Pháp ấy là không thể cưỡng lại, không bị trộn lẫn, có dưỡng chất. Tôi nghĩ rằng những người có trí tuệ uống (Giáo Pháp ấy) tợ như người lữ hành uống (nước từ) đám mây mưa.”
1240. Bạch đấng Đại Hiền Trí, con đã có năng lực về các loại thần thông và thiên nhĩ giới, con đã có năng lực về trí biết tâm của người khác.
1241. Con biết được đời sống trước đây, thiên nhãn được thanh tịnh, tất cả các lậu hoặc đã được cạn kiệt, giờ đây không còn tái sanh nữa.
1242. Bạch đấng Đại Hùng, trí của con về ý nghĩa, về pháp, về ngôn từ, và tương tợ y như thế về phép biện giải là được thành tựu trong sự hiện diện của Ngài.
1243. Các phiền não của con đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), con sống không còn lậu hoặc.
1244. Quả vậy, con đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
1245. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được con đắc chứng; con đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Tỳ khưu ni Sukkā trước mặt đức Thế Tôn đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão ni Sukkā là phần thứ năm.
Tụng phẩm thứ năm.
–ooOoo–
36. Ký Sự về Rūpanandā
1246. Trước đây chín mươi mốt kiếp, đã hiện khởi đấng Lãnh Đạo tên Vipassī, là vị có ánh mắt thu hút, là bậc Hữu Nhãn về tất cả các pháp.
1247. Khi ấy, con đã được sanh ra ở Bandhumatī, trong gia tộc lớn, sung túc, thịnh vượng, có sắc đẹp, được yêu quý, và xứng đáng sự tôn vinh của dân chúng.
1248. Con đã đi đến đấng Đại Hùng, bậc Lãnh Đạo Thế Gian Vipassī. Sau khi lắng nghe Giáo Pháp, con đã đi đến nương nhờ vào bậc Lãnh Đạo của nhân loại.
1249. Con đã thu thúc trong các giới. Và khi đấng Tối Thượng Nhân Niết Bàn, con đã cúng dường chiếc lọng che bằng vàng ở bên trên ngôi bảo tháp xá-lợi.
1250. Là người nữ có sự xả bỏ đã được mở ra, có giới hạnh cho đến hết cuộc đời, con đã mệnh chung từ nơi ấy. Sau khi từ bỏ thân nhân loại, con đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.
1251. Khi ấy, con đã hưởng thụ mười điều thừa thải là: các sắc, các thinh, các hương, các vị, các xúc, –
1252. – cùng với tuổi thọ, sắc đẹp, sung sướng, danh vọng, và quyền uy là tương tợ y như thế. Con đã vượt trội, con đã huy hoàng.
1253. Và trong kiếp sống cuối cùng hiện nay, con đã được sanh ra ở thành Kapila, là con gái của Khemaka dòng Sakya, được nổi danh với tên là Nandā.
1254. Sắc đẹp tuyệt trần là tên hiệu công nhận về vẻ yêu kiều của con. Khi đạt đến tuổi thanh xuân, con đã được điểm tô với sắc đẹp mặn mà.
1255. Khi ấy, sự tranh chấp giữa các vị dòng Sakya về việc của con đã trở nên vô cùng trầm trọng. Do đó, cha đã khiến (con) xuất gia: “Chớ để dòng Sakya bị hủy hoại.”
1256. Sau khi xuất gia, nghe rằng đức Như Lai bậc Tối Thượng Nhân là người có sự chỉ trích về sắc thân, tự hào về sắc đẹp của mình con đã không đến (gặp Ngài).
1257. E ngại về việc diện kiến đức Phật, con cũng không đi về việc giáo giới. Khi ấy, bằng phương kế đấng Chiến Thắng đã đưa (con) đến gặp Ngài.
1258. Nhờ vào thần thông, bậc rành rẽ về Đạo Lộ đã thị hiện ra ba người phụ nữ có sắc đẹp tương tợ tiên nữ, còn trẻ tuổi, bị già, và bị chết.
1259. Sau khi nhìn thấy ba người nữ ấy, bị vô cùng chấn động, không còn tham ái ở xác thân, con đã ổn định, đã nhàm chán hiện hữu. Khi ấy, bậc Lãnh đạo đã nói với con rằng:
1260. “Này Nandā, hãy xem xét thân thể bệnh hoạn, bất tịnh, hôi thối, đang tiết ra, đang rò rỉ lại được hứng thú đối với những kẻ ngu.
1261. Nàng hãy tu tập tâm được chuyên nhất khéo tập trung về đề mục bất mỹ (tử thi), thân này như thế nào thì xác kia như vậy.
1262. Trong khi quán xét xác thân này như thế, đêm ngày không mệt mỏi, sau đó với tuệ của chính mình nàng hãy nhàm chán rồi an trú.”
1263. Trong khi con đây đang sống không xao lãng ở nơi đây một cách đúng đắn, thân xác này đã được nhìn thấy bên trong lẫn bên ngoài đúng theo thực thể.
1264. Khi ấy, con đã nhàm chán về thân, và con đã ly tham nội phần. Con không xao lãng, không vướng bận, an tịnh, Niết Bàn.
1265. Bạch đấng Đại Hiền Trí, con đã có năng lực về các loại thần thông và thiên nhĩ giới, con đã có năng lực về trí biết tâm của người khác.
1266. Con biết được đời sống trước đây, thiên nhãn được thanh tịnh, tất cả các lậu hoặc đã được cạn kiệt, giờ đây không còn tái sanh nữa.
1267. Bạch đấng Đại Hùng, trí của con về ý nghĩa, về pháp, về ngôn từ, và tương tợ y như thế về phép biện giải là được thành tựu trong sự hiện diện của Ngài.
1268. Các phiền não của con đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), con sống không còn lậu hoặc.
1269. Quả vậy, con đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
1270. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được con đắc chứng; con đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Tỳ khưu ni Rūpanandātrước mặt đức Thế Tôn đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão ni Rūpanandā là phần thứ sáu.
–ooOoo–
37. Ký Sự về Aḍḍhakāsī
1271. Ở vào kiếp Bhadda này, trong số các vị đang thuyết giảng đã hiện khởi đấng cao quý tên là Kassapa, có danh tiếng vĩ đại, là thân quyến của đấng Phạm Thiên.
1272. Khi ấy, sau khi xuất gia trong Giáo Pháp của vị Phật ấy, con đã thu thúc trong giới bổn Pātimokkha và ở năm giác quan.
1273. 1274. Là người có sự tri túc trong vật thực và còn được gắn bó trong việc tỉnh thức nữa, trong khi sống con có thiền tập được gắn bó. Với tâm ác xấu, con đã mắng nhiếc vị tỳ khưu ni có lậu hoặc đã được xa lìa. Và khi ấy, con đã nói rằng: “Đồ kỹ nữ.” Do ác nghiệp ấy, con đã bị nung nấu ở địa ngục.
1275. Do phần dư sót của chính nghiệp ấy, con đã bị sanh ra trong gia đình kỹ nữ, đa phần bị phụ thuộc vào người khác cho đến cuộc sống cuối cùng.
1276. Do quả báu của việc thực hành Phạm hạnh, con đã được sanh ra ở xứ Kāsi trong gia đình triệu phú. Con đã có sự thành tựu về sắc đẹp như là cô tiên nữ ở giữa chư Thiên.
1277. Sau khi nhìn thấy con là (xinh xắn) đáng nhìn, họ đã sắp xếp con vào thân phận gái điếm ở trong kinh thành Giribbaja, vì quả báu về sự mắng nhiếc của con.
1278. Con đây sau khi lắng nghe lời thuyết giảng Chánh Pháp của đức Phật Tối Thượng, con đã xuất gia vào đời sống không gia đình; con đã đạt được cuộc sống trước đây.
1279. Sau đó, trong khi đi đến gặp đấng Chiến Thắng vì mục đích tu lên bậc trên, con đã nghe rằng các kẻ vô lại đứng chận ở trên đường, và con đã đạt được sự tu lên bậc trên bằng sứ giả.[15]
1280. Tất cả các nghiệp đã được cạn kiệt, và tương tợ như thế về phước thiện và điều ác xấu. Con đã vượt qua tất cả các sự luân hồi, và thân phận gái điếm đã được quăng bỏ.
1281. Bạch đấng Đại Hiền Trí, con đã có năng lực về các loại thần thông và thiên nhĩ giới, con đã có năng lực về trí biết tâm của người khác.
1282. Con biết được đời sống trước đây, thiên nhãn được thanh tịnh, tất cả các lậu hoặc đã được cạn kiệt, giờ đây không còn tái sanh nữa.
1283. Bạch đấng Đại Hùng, trí của con về ý nghĩa, về pháp, về ngôn từ, và tương tợ như thế về phép biện giải là được thành tựu trong sự hiện diện của Ngài.
1284. Các phiền não của con đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), con sống không còn lậu hoặc.
1285. Quả vậy, con đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
1286. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được con đắc chứng; con đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Tỳ khưu ni Aḍḍhakāsī trước mặt đức Thế Tôn đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão ni Aḍḍhakāsī là phần thứ bảy.
–ooOoo–
38. Ký Sự về Puṇṇā
1287. (Trong Giáo Pháp) của đức Thế Tôn Vipassī, Sikhī, Vessabhū, Kakusandha, và như thế ấy (trong Giáo Pháp) của bậc Hiền Trí Koṇāgamana.
1288. Và trong Giáo Pháp của đức Phật Kassapa, sau khi xuất gia con đã là vị tỳ khưu ni thành tựu về giới, cẩn trọng, có các giác quan được thu thúc.
1289. Là người nghe nhiều (học rộng), thông thạo Giáo Pháp, là người vấn hỏi các ý nghĩa của Giáo Pháp, là người học tập và lắng nghe các Pháp, là người phục vụ (bậc Đạo Sư).
1290. Trong khi thuyết giảng ở giữa dân chúng, con đã ở trong Giáo Pháp của đấng Chiến Thắng. Với sự học rộng ấy, hạnh tốt, con đã tự cao.
1291. Và trong kiếp sống cuối cùng hiện nay, con đã được sanh ra tại kinh thành Sāvatthī trong nhà của Anāthapiṇḍika, (con) của người nữ tỳ lo việc đội nước.
1292. Đi đội nước, con đã nhìn thấy vị Bà-la-môn Sotthiya bị khổ sở vì lạnh ở trong nước. Sau khi nhìn thấy vị ấy, con đã nói điều này:
1293. “Là người nữ đội nước, tôi ở trong sự lạnh lẽo, tôi đã thường xuyên lội xuống nước. Tôi sợ hãi vì nỗi lo về hình phạt của những người chủ, bị khổ sở vì nỗi lo về sự sai trái của lời nói.
1294. Này người Bà-la-môn, ngài sợ hãi điều gì khiến ngài đã thường xuyên lội xuống nước? Với các bộ phận của cơ thể đang run rẩy, ngài tự biết sự lạnh là kinh khủng.”
1295. “Này cô Puṇṇikā quý mến, quả nhiên trong khi cô biết lại còn chất vấn ta là người đang thực hiện việc tốt và đang cản ngăn điều ác đã làm.
1296. Này cô, người nào dầu già hoặc còn trẻ thực hiện nghiệp ác, nhờ vào việc tắm gội bằng nước (người ấy) được thoát khỏi nghiệp ác.”
1297. Con đã nói cho người đang lội ra (khỏi nước) về Đạo Lộ hội đủ Pháp và ý nghĩa. Và sau khi biết được điều ấy, bị chấn động, người ấy đã xuất gia và đã trở thành vị A-la-hán.
1298. Do việc con đã được sanh ra ở gia đình nô bộc làm tròn đủ một trăm (người) không thiếu hụt, vì việc đó tên của con là Puṇṇā. Những người (chủ) ấy đã cho con trở thành người tự do.
1299. Nhờ vào điều ấy, con đã làm cho người triệu phú được hoan hỷ và con đã xuất gia vào đời sống không gia đình Trong thời gian không bao lâu con đã thành tựu phẩm vị A-la-hán.
1300. Bạch đấng Đại Hiền Trí, con đã có năng lực về các loại thần thông và thiên nhĩ giới, con đã có năng lực về trí biết tâm của người khác.
1301. Con biết được đời sống trước đây, thiên nhãn được thanh tịnh, tất cả các lậu hoặc đã được cạn kiệt, giờ đây không còn tái sanh nữa.
1302. Trí tuệ của con về ý nghĩa, về pháp, về ngôn từ, và tương tợ y như thế về phép biện giải là trong sạch, không bợn nhơ, nhờ vào sự tác động của đức Phật tối thượng.
1303. Do việc tu tập con trở thành vị ni có đại trí tuệ, và do việc nghe con trở thành vị ni thông thái, Việc bị sanh ra trong gia tộc hạ tiện do ngã mạn chính là vì nghiệp không bị tiêu hoại.
1304. Các phiền não của con đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), con sống không còn lậu hoặc.
1305. Quả vậy, con đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
1306. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được con đắc chứng; con đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Tỳ khưu ni Puṇṇā trước mặt đức Thế Tôn đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão ni Puṇṇā là phần thứ tám.
–ooOoo–
39. Ký Sự về Ambapālī
1307. Vị có vòng hoa đội đầu được phát ra hào quang là bậc Đại Hiền Trí tên Phussa. Con đã là người em gái của vị ấy. Con đã được sanh ra trong gia tộc Sát-đế-lỵ.
1308. Sau khi lắng nghe Giáo Pháp của vị ấy, với tâm tư trong sạch con đã dâng cúng đại thí và đã ước nguyện sự thành tựu về sắc đẹp.
1309. Trước đây ba mươi mốt kiếp, đã hiện khởi bậc Quang Đăng của thế gian, đấng Chiến Thắng, vị Lãnh Đạo Thế Gian Sikhī, bậc Nương Nhờ của tam giới.
1310. Khi ấy, con xuất thân gia tộc Bà-la-môn ở trong thành Aruṇa xinh đẹp. Bị sân hận, con đã cho người nguyền rủa vị tỳ khưu ni có tâm giải thoát rằng:
1311. “Cô chính là gái điếm, không có hạnh kiểm, là kẻ làm bại hoại Giáo Pháp của đấng Chiến Thắng.” Con đã cho người mắng nhiếc như thế. Do hành động xấu xa ấy, –
1312. – con đã đi đến địa ngục khắc nghiệt, bị thọ lãnh khổ đau cùng cực. Từ nơi ấy chết đi, con đã được sanh ra giữa loài người, là nữ đạo sĩ khổ hạnh.
1313. Con đã bị buộc làm thân phận gái điếm mười ngàn kiếp sống. Do việc ác ấy con đã không được giải thoát, như là đã thọ dụng chất độc xấu xa vậy.
1314. Con đã rèn luyện Phạm hạnh trong Giáo Pháp của đấng Chiến Thắng Kassapa. Do kết quả của nghiệp ấy, con đã được sanh ra ở cõi trời Đạo Lợi.
1315. Khi đạt đến kiếp sống cuối cùng, con đã là người được hóa sanh. Con đã được sanh ra ở giữa cành cây xoài, vì thế con là “Ambapālī.”
1316. Được tùy tùng với nhiều koṭi sanh mạng, con đã xuất gia trong Giáo Pháp của đấng Chiến Thắng. Con đã đạt đến vị thế bất động, được tồn tại, là chánh thống của đức Phật.
1317. Bạch đấng Đại Hiền Trí, con đã có năng lực về các loại thần thông và sự thanh tịnh về nhĩ giới, con đã có năng lực về trí biết tâm của người khác.
1318. Con biết được đời sống trước đây, thiên nhãn được thanh tịnh, tất cả các lậu hoặc đã được cạn kiệt, giờ đây không còn tái sanh nữa.
1319. Trí tuệ của con về ý nghĩa, về pháp, về ngôn từ, và tương tợ y như thế về phép biện giải là trong sạch, không bợn nhơ, nhờ vào sự tác động của đức Phật tối thượng.
1320. Các phiền não của con đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), con sống không còn lậu hoặc.
1321. Quả vậy, con đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
1322. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được con đắc chứng; con đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Tỳ khưu ni Ambapālī trước mặt đức Thế Tôn đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão ni Ambapālī là phần thứ chín.
–ooOoo–
40. Ký Sự về Pesalā
1323. Ở vào kiếp Bhadda này, trong số các vị đang thuyết giảng đã hiện khởi đấng cao quý tên là Kassapa, có danh tiếng vĩ đại, là thân quyến của đấng Phạm Thiên.
1324. Con đã được sanh ra trong gia đình cư sĩ tại kinh thành Sāvatthī. Sau khi nhìn thấy đấng Chiến Thắng cao quý ấy con đã lắng nghe lời thuyết giảng.
1325. Sau khi đi đến nương tựa vào vị Anh Hùng ấy, con đã thọ trì các giới. Có lần nọ bậc Đại Hùng ấy ở tại cuộc tụ hội của đám đông dân chúng.
1326. Đấng Nhân Ngưu đã công bố quả vị Chánh Đẳng Giác của mình: “Về các pháp trước đây chưa từng được nghe, về khổ, v.v…
1327. (Pháp) nhãn, trí, tuệ, minh, và ánh sáng đã có cho Ta.” Sau khi lắng nghe điều ấy, con đã học và đã vấn hỏi các vị tỳ khưu.
1328. Do nghiệp ấy đã được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ thân nhân loại con đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.
1329. Và trong kiếp sống cuối cùng hiện nay, được sanh ra trong đại gia đình triệu phú con đã đi đến đức Phật và đã lắng nghe Chánh Pháp bao gồm các Sự Thật.
1330. Sau khi xuất gia chẳng bao lâu, trong khi suy xét về ý nghĩa của các Sự Thật, con đã quăng bỏ tất cả các lậu hoặc và đã thành tựu phẩm vị A-la-hán.
1331. Bạch đấng Đại Hiền Trí, con đã có năng lực về các loại thần thông và thiên nhĩ giới, con đã có năng lực về trí biết tâm của người khác.
1332. Con biết được đời sống trước đây, thiên nhãn được thanh tịnh, tất cả các lậu hoặc đã được cạn kiệt, giờ đây không còn tái sanh nữa.
1333. Trí tuệ của con về ý nghĩa, về pháp, về ngôn từ, và tương tợ y như thế về phép biện giải là trong sạch, không bợn nhơ, nhờ vào sự tác động của đức Phật tối thượng.
1334. Các phiền não của con đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), con sống không còn lậu hoặc.
1335. Quả vậy, con đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
1336. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được con đắc chứng; con đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Tỳ khưu ni Pesalā đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão ni Pesalā là phần thứ mười.
Phẩm Sát-đế-lỵ là phẩm thứ tư.
–ooOoo–
TÓM LƯỢC CỦA PHẨM NÀY
Các vị ni dòng Sát-đế-lỵ, luôn cả các vị ni dòng Bà-la-môn, tương tợ như thế là vị ni Uppaladāyikā, vị ni Sigālamātā, vị ni Sukkā, vị ni vô cùng xinh đẹp (Rūpanandā), vị ni Aḍḍhakāsikā, vị ni Puṇṇā, vị ni Ambapālī, và vị ni Pesalā ấy là mười. Ở đây, có hai trăm câu kệ ngôn và thêm vào bốn mươi hai câu nữa.
–ooOoo–
GIỜ LÀ PHẦN TÓM LƯỢC CỦA CÁC PHẨM
(Bốn Phẩm) Sumedhā, Ekūposathā, Kuṇḍalakesī, Khattiyā được gộp chung lại có một ngàn ba trăm bốn mươi bảy kệ ngôn. Cùng với các câu kệ của phần tóm lược đã được tính đếm bởi các bậc trí là một ngàn ba trăm năm mươi bảy câu kệ cả thảy.
Ký Sự về Trưởng Lão Ni được đầy đủ.
Bộ Kinh Apadāna được đầy đủ.
–ooOoo–
[1] Xem Bổn Sanh Sulasā, tích chuyện 419.
[2] Sau khi đã được nhổ sạch, những sợi tóc mọc lại đã bị xoắn nên có biệt hiệu là Kuṇḍalakesā (tóc xoắn).
[3] Kinh Pháp Cú, câu 113.
[4] Xem thêm Kinh Cūlavedallasuttaṃ – Tiểu Kinh Phương Quảng, Trung Bộ I.
[5] Kinh Pháp Cú, câu 112.
[6] Các câu kệ từ 952 – 957 không thấy ở Tạng Thái và Tạng Anh.
[7] Jambudīpa: bán đảo Ấn Độ.
[8] Một koṭi là mười triệu.
[9] Kế tiếp có hai mươi câu kệ được thấy ở Tạng Thái, Miến, Anh, nhưng không thấy ở Tạng Sri Lanka. Vì nội dung không có gì đặc sắc nên không thêm vào.
[10] Uppaladāyikā có ý nghĩa là “người nữ dâng cúng hoa sen xanh.”
[11] Sigālamātā nghĩa là “mẹ của Sigāla.”
[12] Xem Sigālasuttaṃ, Kinh Trường Bộ III.
[13] Hai koṭi là hai mươi triệu.
[14] Việc này được đề cập ở Luật Đại Phẩm, Chương 1.
[15] Việc này được đề cập ở Luật Tiểu Phẩm, Chương 10.