Kinh Tiểu Diễn Giải đọc online – Phần I
Thuộc Kinh Tiểu Bộ (Khuddaka Nikàya) | Tạng Kinh (SUTTANTAPITAKA)
Dịch Việt: Tỳ khưu Indacanda và các cộng sự
Nguồn: https://www.tamtangpaliviet.net/ & https://theravada.vn/
Nội dung Kinh Tiểu Diễn Giải được chia thành 2 phần:
MỤC LỤC
LỜI GIỚI THIỆU
PĀRĀYANAVAGGO – PHẨM ĐƯỜNG ĐI ĐẾN BỜ KIA
- Vatthugāthā – Kệ ngôn giới thiệu (13/05/2014)
- Ajitamāṇavapucchā – Câu hỏi của thanh niên Ajita (29/04/2017)
- Tissametteyyamāṇavapucchā – Câu hỏi của thanh niên Ajita (03/05/2017)
- Puṇṇakamāṇavapucchā – Câu hỏi của thanh niên Puṇṇaka (dịch xong ngày 11/05/2017)
- Mettagūmāṇavapucchā – Câu hỏi của thanh niên Mettagū (dịch xong ngày 30/05/2017)
- Dhotakamāṇavapucchā – Câu hỏi của thanh niên Dhotaka (dịch xong ngày 05/06/2017)
(Tiếp theo) 06. Upasīvamāṇavapucchā – Câu hỏi của thanh niên Upasīva (dịch xong ngày 17/06/2017) - Nandamāṇavapucchā – Câu hỏi của thanh niên Nanda (dịch xong ngày 22/06/2017)
- Hemakamāṇavapucchā – Câu hỏi của thanh niên Hemaka (dịch xong ngày 25/06/2017)
- Todeyyamāṇavapucchā – Câu hỏi của thanh niên Todeyya (dịch xong ngày 27/06/2017)
- Kappamāṇavapucchā – Câu hỏi của thanh niên Kappa (dịch xong ngày 30/06/2017)
- Jatukaṇṇīmāṇavapucchā – Câu hỏi của thanh niên Jatukaṇṇī (dịch xong ngày 04/07/2017)
- Bhadrāvudhamāṇavapucchā – Câu hỏi của thanh niên Bhadrāvudha (dịch xong ngày 07/07/2017)
- Udayamāṇavapucchā – Câu hỏi của thanh niên Udaya (dịch xong ngày 11/07/2017)
- Posālamāṇavapucchā – Câu hỏi của thanh niên Posāla (dịch xong ngày 16/07/2017)
- Mogharājamāṇavapucchā – Câu hỏi của thanh niên Mogharāja (dịch xong ngày 23/07/2017)
- Piṅgiyamāṇavapucchā – Câu hỏi của thanh niên Piṅgiya (dịch xong ngày 26/07/2017)
- Pārāyanānugīti – Phần Tường Thuật Kinh Đường Đi Đến Bờ Kia (dịch xong ngày 18/08/2017)
- AJITASUTTANIDDESO – DIỄN GIẢI KINH AJITA
1 – 1 (dịch xong ngày 15/04/2017)
1 – 2 (dịch xong ngày 17/04/2017)
1 – 3 (dịch xong ngày 19/04/2017)
1 – 4 (dịch xong ngày 20/04/2017)
1 – 5 (dịch xong ngày 22/04/2017)
1 – 6 (dịch xong ngày 24/04/2017)
1 – 7 (dịch xong ngày 27/04/2017)
1 – 8 (dịch xong ngày 29/04/2017) - TISSAMETTEYYASUTTANIDDESO – DIỄN GIẢI KINH TISSAMETTEYYA
2 – 1 (dịch xong ngày 01/05/2017)
2 – 2 (dịch xong ngày 02/05/2017)
2 – 3 (dịch xong ngày 03/05/2017) - PUṆṆAKASUTTANIDDESO – DIỄN GIẢI KINH PUṆṆAKA
3 – 1 (dịch xong ngày 05/05/2017)
3 – 2 (dịch xong ngày 06/05/2017)
3 – 3 (dịch xong ngày 07/05/2017)
3 – 4 (dịch xong ngày 09/05/2017)
3 – 5 (dịch xong ngày 10/05/2017)
3 – 6 (dịch xong ngày 11/05/2017) - METTAGŪSUTTANIDDESO – DIỄN GIẢI KINH METTAGŪ
4 – 1 (dịch xong ngày 15/05/2017)
4 – 2 (dịch xong ngày 18/05/2017)
4 – 3 (dịch xong ngày 20/05/2017)
4 – 4 (dịch xong ngày 22/05/2017)
4 – 5 (dịch xong ngày 23/05/2017)
4 – 6 (dịch xong ngày 24/05/2017)
4 – 7 (dịch xong ngày 25/05/2017)
4 – 8 (dịch xong ngày 26/05/2017)
4 – 9 (dịch xong ngày 27/05/2017)
4 – 10 (dịch xong ngày 28/05/2017)
4 – 11 (dịch xong ngày 29/05/2017)
4 – 12 (dịch xong ngày 30/05/2017) - DHOTAKASUTTANIDDESO – DIỄN GIẢI KINH DHOTAKA
5 – 1 (dịch xong ngày 31/05/2017)
5 – 2 (dịch xong ngày 31/05/2017)
5 – 3 (dịch xong ngày 01/06/2017)
5 – 4 (dịch xong ngày 02/06/2017)
5 – 5 (dịch xong ngày 03/06/2017)
5 – 6 (dịch xong ngày 04/06/2017)
5 – 7 (dịch xong ngày 05/06/2017)
5 – 8 (dịch xong ngày 06/06/2017) - UPASĪVASUTTANIDDESO – DIỄN GIẢI KINH UPASĪVA
6 – 1 (dịch xong ngày 07/06/2017)
6 – 2 (dịch xong ngày 08/06/2017)
6 – 3 (dịch xong ngày 09/06/2017)
6 – 4 (dịch xong ngày 10/06/2017)
6 – 5 (dịch xong ngày 15/06/2017)
6 – 6 (dịch xong ngày 16/06/2017)
6 – 7 (dịch xong ngày 17/06/2017)
6 – 8 (dịch xong ngày 17/06/2017) - NANDASUTTANIDDESO – DIỄN GIẢI KINH NANDA
7 – 1 (dịch xong ngày 18/06/2017)
7 – 2 (dịch xong ngày 19/06/2017)
7 – 3 (dịch xong ngày 20/06/2017)
7 – 4 (dịch xong ngày 20/06/2017)
7 – 5 – 6 (dịch xong ngày 20/06/2017)
7 – 7 (dịch xong ngày 21/06/2017)
7 – 8 (dịch xong ngày 22/06/2017) - HEMAKASUTTANIDDESO – DIỄN GIẢI KINH HEMAKA
8 – 1 (dịch xong ngày 23/06/2017)
8 – 2 (dịch xong ngày 24/06/2017)
8 – 3 (dịch xong ngày 24/06/2017)
8 – 4 (dịch xong ngày 25/06/2017) - TODEYYASUTTANIDDESO – DIỄN GIẢI KINH TODEYYA
9 – 1 (dịch xong ngày 26/06/2017)
9 – 2 (dịch xong ngày 26/06/2017)
9 – 3 (dịch xong ngày 27/06/2017)
9 – 4 (dịch xong ngày 27/06/2017) - KAPPASUTTANIDDESO – DIỄN GIẢI KINH KAPPA
10 – 1 (dịch xong ngày 28/06/2017)
10 – 2 (dịch xong ngày 29/06/2017)
10 – 3 (dịch xong ngày 30/06/2017)
10 – 4 (dịch xong ngày 30/06/2017) - JATUKAṆṆĪSUTTANIDDESO – DIỄN GIẢI KINH JATUKAṆṆĪ
11 – 1 (dịch xong ngày 01/07/2017)
11 – 2 (dịch xong ngày 02/07/2017)
11 – 3 (dịch xong ngày 03/07/2017)
11 – 4 (dịch xong ngày 04/07/2017)
11 – 5 (dịch xong ngày 04/07/2017) - BHADRĀVUDHASUTTANIDDESO – DIỄN GIẢI KINH BHADRĀVUDHA
12 – 1 (dịch xong ngày 05/07/2017)
12 – 2 (dịch xong ngày 06/07/2017)
12 – 3 (dịch xong ngày 07/07/2017)
12 – 4 (dịch xong ngày 07/07/2017) - UDAYASUTTANIDDESO – DIỄN GIẢI KINH UDAYA
13 – 1 (dịch xong ngày 08/07/2017)
13 – 2 (dịch xong ngày 09/07/2017)
13 – 3 (dịch xong ngày 10/07/2017)
13 – 4 (dịch xong ngày 11/07/2017)
13 – 5 (dịch xong ngày 11/07/2017)
13 – 6 (dịch xong ngày 11/07/2017)
13 – 7 (dịch xong ngày 11/07/2017) - POSĀLASUTTANIDDESO – DIỄN GIẢI KINH POSĀLA
14 – 1 (dịch xong ngày 13/07/2017)
14 – 2 (dịch xong ngày 14/07/2017)
14 – 3 (dịch xong ngày 15/07/2017)
14 – 4 (dịch xong ngày 16/07/2017) - MOGHARĀJASUTTANIDDESO – DIỄN GIẢI KINH MOGHARĀJA
15 – 1 (dịch xong ngày 18/07/2017)
15 – 2 (dịch xong ngày 19/07/2017)
15 – 3 (dịch xong ngày 19/07/2017)
15 – 4 (dịch xong ngày 23/07/2017) - PIṄGIYASUTTANIDDESO – DIỄN GIẢI KINH PIṄGIYA
16 – 1 (dịch xong ngày 24/07/2017)
16 – 2 (dịch xong ngày 25/07/2017)
16 – 3 (dịch xong ngày 25/07/2017)
16 – 4 (dịch xong ngày 26/07/2017) - PĀRĀYANĀNUGĪTINIDDESO – DIỄN GIẢI PHẦN TƯỜNG THUẬT KINH ĐƯỜNG ĐI ĐẾN BỜ KIA
17- 00 (dịch xong ngày 28/07/2017)
17 – 01 – 02 – 03 (dịch xong ngày 29/07/2017)
17 – 04 (dịch xong ngày 30/07/2017)
17 – 05 (dịch xong ngày 31/07/2017)
17 – 06 (dịch xong ngày 01/08/2017)
17 – 07 (dịch xong ngày 02/08/2017)
17 – 08 (dịch xong ngày 03/08/2017)
17 – 09 (dịch xong ngày 04/08/2017)
17 – 10 (dịch xong ngày 05/08/2017)
17 – 11 (dịch xong ngày 06/08/2017)
17 – 12 (dịch xong ngày 07/08/2017)
17 – 13 (dịch xong ngày 08/08/2017)
17 – 14 (dịch xong ngày 09/08/2017)
17 – 15 (dịch xong ngày 09/08/2017)
17 – 16 (dịch xong ngày 10/08/2017)
17 – 17 (dịch xong ngày 10/08/2017)
17 – 18 (dịch xong ngày 10/08/2017)
17 – 19 (dịch xong ngày 11/08/2017)
17 – 20 (dịch xong ngày 12/08/2017)
17 – 21 (dịch xong ngày 13/08/2017)
17 – 22 (dịch xong ngày 14/08/2017)
17 – 23 (dịch xong ngày 15/08/2017)
17 – 24 (dịch xong ngày 16/08/2017)
17 – 25 (dịch xong ngày 17/08/2017)
17 – 26 (dịch xong ngày 18/08/2017) - KHAGGAVISĀṆASUTTANIDDESO – DIỄN GIẢI KINH SỪNG TÊ NGƯU
PAṬHAMO VAGGO – PHẨM THỨ NHẤT
18 – 01 – 01 (dịch xong ngày 20/08/2017)
18 – 01 – 02 (dịch xong ngày 22/08/2017)
18 – 01 – 03 (dịch xong ngày 23/08/2017)
18 – 01 – 04 (dịch xong ngày 24/08/2017)
18 – 01 – 05 (dịch xong ngày 24/08/2017)
18 – 01 – 06 (dịch xong ngày 25/08/2017)
18 – 01 – 07 (dịch xong ngày 26/08/2017)
18 – 01 – 08 (dịch xong ngày 27/08/2017)
18 – 01 – 09 (dịch xong ngày 28/08/2017)
18 – 01 – 10 (dịch xong ngày 28/08/2017)
DUTIYO VAGGO – PHẨM THỨ NHÌ
18 – 02 – 01 (dịch xong ngày 29/08/2017)
18 – 02 – 02 (dịch xong ngày 29/08/2017)
18 – 02 – 03 (dịch xong ngày 30/08/2017)
18 – 02 – 04 (dịch xong ngày 30/08/2017)
18 – 02 – 05 (dịch xong ngày 30/08/2017)
18 – 02 – 06 (dịch xong ngày 01/09/2017)
18 – 02 – 07 (dịch xong ngày 02/09/2017)
18 – 02 – 08 (dịch xong ngày 02/09/2017)
18 – 02 – 09 (dịch xong ngày 03/09/2017)
18 – 02 – 10 (dịch xong ngày 04/09/2017)
TATIYO VAGGO – PHẨM THỨ BA
18 – 03 – 01 (dịch xong ngày 05/09/2017)
18 – 03 – 02 (dịch xong ngày 07/09/2017)
18 – 03 – 03 (dịch xong ngày 08/09/2017)
18 – 03 – 04 (dịch xong ngày 09/09/2017)
18 – 03 – 05 (dịch xong ngày 09/09/2017)
18 – 03 – 06 (dịch xong ngày 10/09/2017)
18 – 03 – 07 (dịch xong ngày 10/09/2017)
18 – 03 – 08 (dịch xong ngày 11/09/2017)
18 – 03 – 09 (dịch xong ngày 16/09/2017)
18 – 03 – 10 (dịch xong ngày 17/09/2017)
CATUTTHO VAGGO – PHẨM THỨ TƯ
18 – 04 – 01 (dịch xong ngày 18/09/2017)
18 – 04 – 02 (dịch xong ngày 19/09/2017)
18 – 04 – 03 (dịch xong ngày 19/09/2017)
18 – 04 – 04 (dịch xong ngày 21/09/2017)
18 – 04 – 05 (dịch xong ngày 22/09/2017)
18 – 04 – 06 (dịch xong ngày 23/09/2017)
18 – 04 – 07 (dịch xong ngày 24/09/2017)
18 – 04 – 08 (dịch xong ngày 24/09/2017)
18 – 04 – 09 (dịch xong ngày 25/09/2017)
18 – 04 – 10 (dịch xong ngày 26/09/2017)
18 – 04 – 11 (dịch xong ngày 28/09/2017)
LỜI GIỚI THIỆU
Niddesa là tựa đề của tập Kinh thứ mười một trong mười lăm tập thuộc Khuddakanikāya – Tiểu Bộ. Niddesa được chia làm hai tập: Mahāniddesapāḷi – Đại Diễn Giải (TTPV 35) và Cullaniddesapāḷi – Tiểu Diễn Giải (TTPV 36). Tập Kinh Mahāniddesapāḷi – Đại Diễn Giải là tài liệu giải thích về phẩm 4, Aṭṭhakavagga – Phẩm Nhóm Tám, còn Cullaniddesapāḷi – Tiểu Diễn Giải giải thích tiếp phẩm 5, Pārāyanavagga – Phẩm Đường Đi Đến Bờ Kia, tức là phẩm cuối, và cộng thêm bài Kinh Khaggavisāṇa – Kinh Sừng Tê Ngưu thuộc phẩm 1, Uragavagga – Phẩm Rắn, tất cả đều được trích ra từ tập Kinh Suttanipātapāḷi – Kinh Tập, thuộc Tạng Kinh, Tiểu Bộ. Chúng tôi không nghiệm ra được lý do tác giả lại chọn lọc và diễn giải hai phẩm trên cộng thêm chỉ một bài Kinh Khaggavisāṇa – Kinh Sừng Tê Ngưu của tập Suttanipātapāḷi – Kinh Tập mà bỏ qua các phẩm và các bài Kinh còn lại. Cách thức diễn giải ở tập Kinh này, Cullaniddesapāḷi – Tiểu Diễn Giải, cũng tương tự như ở tập 1, Mahāniddesapāḷi – Đại Diễn Giải, nghĩa là chú trọng vào việc giải thích các từ đơn và các lời giải thích này được lập lại mỗi khi những từ ấy xuất hiện ở các kệ ngôn khác, thêm vào đó là các phần giải thích cho các nhóm từ hoặc một phần của câu kệ ngôn; đôi lúc lời giải thích chỉ là sự sắp xếp lại thứ tự của các từ ở câu văn giúp cho việc xác định ý nghĩa được dễ dàng hơn.
Nội dung của Pārāyanavagganiddeso – Diễn Giải Phẩm Đường Đi Đến Bờ Kia mở đầu với phần trình bày lại đầy đủ các kệ ngôn của Pārāyanavagga – Phẩm Đường Đi Đến Bờ Kia và gồm có ba phần:
– Phần mở đầu: Vatthugāthā – Kệ Ngôn Dẫn Chuyện, giới thiệu câu chuyện của vị Bà-la-môn Bāvari và lý do vị này phái các đệ tử của mình đi đến gặp đức Phật (56 kệ ngôn).
– Phần các câu hỏi: ghi lại các câu hỏi và đáp diễn ra giữa 16 đệ tử của vị Bà-la-môn Bāvari và đức Phật, bắt đầu với các câu hỏi của thanh niên Bà-la-môn Ajita, v.v… (93 kệ ngôn)
– Và phần kết: Pārāyanānugīti – Phần Tường Thuật Về Đường Đi Đến Bờ Kia, kể lại việc thanh niên Bà-la-môn Piṅgiya, cháu gọi Bà-la-môn Bāvari bằng cậu, đã trở về để gặp lại và tường thuật mọi chuyện cho Bà-la-môn Bāvari, đồng thời cũng đã tạo duyên cho vị này đạt đến quả vị A-la-hán (26 kệ ngôn).
Tác giả đã không giải thích 56 kệ ngôn của phần mở đầu, có lẽ ý nghĩa của câu chuyện dẫn nhập ở phần này không có gì khó hiểu, mà chỉ thực hiện việc diễn giải cho hai phần sau: Phần các câu hỏi gồm 93 kệ ngôn, được chia làm 16 phần nhỏ tương xứng với 16 vị đệ tử của Bà-la-môn Bāvari với số lượng câu hỏi ít hay nhiều tùy theo mỗi vị. Thanh niên Bà-la-môn Tissametteyya hỏi ít nhất với 3 câu hỏi, thanh niên Bà-la-môn Mettagū hỏi nhiều nhất với 12 câu hỏi, các vị khác thì tùy duyên sự với 4, 5, 6, 7, hoặc 8 câu hỏi. Với mỗi câu hỏi của các vị ấy thì có câu trả lời của đức Thế Tôn. Và phần kết gồm có 26 kệ ngôn cũng đã được giải thích đầy đủ. Tổng cộng các kệ ngôn đã được diễn giải gồm có 119 câu và được liệt kê chi tiết như sau:
1. Ajitasuttaniddeso – Diễn Giải Kinh Ajita
2. Tissametteyyasuttaniddeso – Diễn Giải Kinh Tissametteyya
3. Puṇṇakasuttaniddeso – Diễn Giải Kinh Puṇṇaka
4. Mettagūsuttaniddeso – Diễn Giải Kinh Mettagū
5. Dhotakasuttaniddeso – Diễn Giải Kinh Dhotaka
6. Upasīvasuttaniddeso – Diễn Giải Kinh Upasīva
7. Nandasuttaniddeso – Diễn Giải Kinh Nanda
8. Hemakasuttaniddeso – Diễn Giải Kinh Hemaka
9. Todeyyasuttaniddeso – Diễn Giải Kinh Todeyya
10. Kappasuttaniddeso – Diễn Giải Kinh Kappa
11. Jatukaṇṇīsuttaniddeso – Diễn Giải Kinh Jatukaṇṇī
12. Bhadrāvudhasuttaniddeso – Diễn Giải Kinh Bhadrāvudha
13. Udayasuttaniddeso – Diễn Giải Kinh Udaya
14. Posālasuttaniddeso – Diễn Giải Kinh Posāla
15. Mogharājasuttaniddeso – Diễn Giải Kinh Mogharāja
16. Piṅgiyasuttaniddeso – Diễn Giải Kinh Piṅgiya
17. Pārāyanānugītiniddeso – Diễn Giải Phần Tường Thuật Về Đường Đi Đến Bờ Kia.
Nội dung của Khaggavisāṇasuttaniddeso – Diễn Giải Kinh Sừng Tê Ngưu được chia làm bốn vagga (phẩm), tổng cộng gồm có 41 kệ ngôn được phân chia ra như sau:
Paṭhamo Vaggo – Phẩm Thứ Nhất (10 kệ ngôn)
Dutiyo Vaggo – Phẩm Thứ Nhì (10 kệ ngôn)
Tatiyo Vaggo – Phẩm Thứ Ba (10 kệ ngôn)
Catuttho Vaggo – Phẩm Thứ Tư (10 kệ ngôn)
*****
Văn bản Pāḷi được trình bày ở tập Kinh này đã được phiên âm lại từ văn bản Pāḷi – Sinhala, ấn bản Buddha Jayanti Tripitaka Series của nước quốc giáo Sri Lanka. Chúng tôi xin thành tâm tán dương công đức của Venerable Mettāvihārī đã hoan hỷ cho phép chúng tôi sử dụng văn bản đã được phiên âm sẵn đang phổ biến trên mạng internet. Điểm đóng góp của chúng tôi trong việc thực hiện văn bản Pāḷi Roman này là dò lại kỹ lưỡng văn bản đã được phiên âm và so sánh kiểm tra những điểm khác biệt về văn tự ở Tam Tạng của các nước Thái Lan, Miến Điện, và Anh Quốc được ghi ở phần cước chú, đồng thời bổ sung thêm một số điểm khác biệt đã phát hiện được trong lúc so sánh các văn bản với nhau.
Về phương diện dịch thuật và trình bày văn bản tiếng Việt, chúng tôi đã ghi nghĩa Việt của các kệ ngôn bằng văn xuôi nhằm diễn tả trọn vẹn ý nghĩa của văn bản gốc. Trong phần nhiều các trường hợp, hai dòng kệ ngôn gồm bốn pāda là được hoàn chỉnh về ý nghĩa. Nhưng có một vài trường hợp, ý nghĩa được nối từ kệ ngôn này sang kệ ngôn khác, thì chúng tôi dịch gom chung các kệ ngôn có liên quan lại với nhau; ngược lại, ở một số nơi khác, nếu thứ tự sắp xếp các đoạn dịch Việt là thuận tiện cho việc tách rời, thì chúng tôi sử dụng dấu gạch ngang (—) ở cuối kệ ngôn trước và ở đầu kệ ngôn sau để báo hiệu sự tiếp nối. Trong trường hợp một số các kệ ngôn Pāḷi gồm 3 hoặc 4 dòng có ý nghĩa được tách biệt theo từng dòng một, chúng tôi ngắt câu dịch Việt thành từng dòng riêng biệt tương ứng với từng câu Pāḷi để tiện việc đối chiếu, so sánh, tìm hiểu, và học hỏi.
Về văn phong của lời dịch, chúng tôi chủ trương ghi lại lời tiếng Việt sát theo văn bản gốc và cố gắng không bỏ sót từ nào không dịch. Lời văn tiếng Việt của chúng tôi có chứa đựng những mấu chốt giúp cho những ai có ý thích nghiên cứu Pāḷi thấy ra được cấu trúc của loại ngôn ngữ này, đồng thời tạo sự thuận tiện cho công việc hiệu đính trong tương lai. Việc làm này của chúng tôi không hẳn đã được hoàn hảo, dẫu sao cũng là bước khởi đầu nhằm thúc đẩy phong trào nghiên cứu cổ ngữ Phật Học của người Việt Nam. Tuy nhiên, một số sai sót trong quá trình phiên dịch đương nhiên không thể tránh khỏi, chúng tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về trình độ có hạn.
Nhân đây, chúng tôi cũng xin chân thành ghi nhận sự quan tâm chăm sóc trực tiếp hoặc gián tiếp đối với công tác phiên dịch của chúng tôi về phương diện vật thực bồi dưỡng và thuốc men chữa bệnh của các vị hữu ân sau: tập thể Phật tử Việt Nam tại Hong Kong, gia đình Phật tử Phạm Trọng Độ, gia đình Phật tử Minh Hỷ & Diệu Tâm, gia đình Nha Sĩ Phạm Văn Giai, Đạo Hữu Nguyễn Tín Dũng, Phật tử Hoàng Thị Nhàn, Phật tử Bùi Lan Khanh, Phật tử Phạm Thu Hương, Phật tử Vivian Nguyen (Hoa Kỳ), Phật tử Tâm Hạnh (Đức), Phật tử Nguyễn Thị Thanh Bạch (Úc), Phật tử Nguyễn Thị Kim Liên, gia đình Phật tử Vũ Đình Lâm, Phật tử Lê Ngọc Diệp, Phật tử Nguyễn Thị Mai Thào, Phật tử Đặng Thu Trang, và sự động viên tinh thần của Phật tử Dương Tường Khải Như (Việt Nam) trong quá trình phiên dịch. Công việc soạn thảo này được thông suốt, không bị gián đoạn, chính là nhờ có sự hỗ trợ nhiệt tình và quý báu của quý vị. Thành tâm cầu chúc quý vị luôn giữ vững niềm tin và thành tựu được nhiều kết quả trong công việc tu tập giải thoát.
Một điều thiếu sót lớn nếu không đề cập đến sự nhiệt tình giúp đỡ của Sư Cô Mỹ Thúy đã sắp xếp thời gian để đọc lại bản thảo một cách kỹ lưỡng và đã đóng góp nhiều ý kiến sâu sắc giúp cho chúng tôi tránh được một số điểm vụng về trong việc sử dụng từ ngữ tiếng Việt. Chúng tôi cũng xin thành tâm tùy hỷ và tán dương công đức của các thí chủ đã nhiệt tâm đóng góp tài chánh giúp cho Công Trình Ấn Tống Tam Tạng Song Ngữ Pāḷi – Việt được tồn tại và phát triến, mong sao phước báu Pháp thí này luôn dẫn dắt quý vị vào con đường tu tập đúng theo Chánh Pháp, thành tựu Chánh Trí, chứng ngộ Niết Bàn, không còn luân hồi sanh tử nữa.
Nhân đây, cũng xin thành kính tri ân công đức của Ngài Hòa Thượng Ven. Devahandiye Paññāsekara Nāyaka Mahāthera, tu viện trưởng tu viện Sri Jayawardhanaramaya Colombo 8 – Sri Lanka, đã cung cấp trú xứ và các vật dụng cần thiết giúp cho chúng tôi có thể tập trung toàn thời gian cho công việc thực hiện tập Kinh này.
Cuối cùng, ngưỡng mong phước báu phát sanh trong công việc soạn thảo tập Kinh này được thành tựu đến thầy tổ, song thân, và tất cả chúng sanh trong tam giới. Nguyện cho hết thảy đều được an vui, sức khỏe, có trí tuệ, và tinh tấn tu tập ngõ hầu thành đạt cứu cánh giải thoát, chấm dứt khổ đau.
Kính bút,
Ngày 21 tháng 04 năm 2018
Tỳ Khưu Indacanda (Trương đình Dũng)
PĀRĀYANAVAGGO – PHẨM ĐI ĐẾN BỜ KIA
VATTHUGĀTHĀ – KỆ NGÔN GIỚI THIỆU
(I) Bài kệ mở đầu
1. Kosalānaṃ purā rammā – agamā dakkhiṇāpathaṃ, ākiñcaññaṃ patthayāno – brāhmaṇo mantapāragū.
1. Có vị Bà-la-môn tinh thông chú thuật, trong khi ước nguyện về trạng thái vô sở hữu, từ thành phố đáng yêu của xứ Kosala đã đi đến khu vực phía Nam.
976. Từ thành phố đẹp đẽ,
Của các Kô-xa-la,
Có vị Bà-la-môn,
Thông đạt các chú thuật,
Hướng tầm vô sở hữu,
Hướng phía Nam bước tới.
(Kinh Tập, chương V)
2. So assakassa visaye – mūlakassa samāsane, vasī godāvarī kūle – uñchena ca phalena ca.
2. Vị ấy đã trú ngụ ở địa phận Assaka, kế bên vùng Mūlaka, bên bờ sông Godāvarī (sống) bằng vật lượm lặt và trái cây.
977. Trong nước Át-xa-ka,
Gần xứ A-la-ka,
Vị ấy sống trên bờ,
Sông Gô-đa-và-rà,
Nuôi sống bằng trái cây,
Bằng đồ ăn lượm vặt.
3. Tasseva upanissāya – gāmo ca vipulo ahu, tato jātena āyena – mahāyaññamakappayī.
3. Và đã có một ngôi làng rộng lớn kề cận với bờ sông ấy. Với thu nhập phát sanh từ nơi ấy, vị Bà-la-môn đã sắp đặt một cuộc tế lễ vĩ đại.
978. Gần chỗ vị ấy ở,
Có làng đất rộng rãi,
Với tài sản thâu thập,
Tổ chức tế đàn lớn.
4. Mahāyaññaṃ yajitvāna – puna pāvisi assamaṃ, tasmiṃ patipaviṭṭhamhi – añño āgañchi brāhmaṇo.
4. Sau khi đã cống hiến cuộc tế lễ vĩ đại, vị Bà-la-môn đã đi vào lại nơi ẩn cư. Khi vị ấy đã đi vào trong, một người Bà-la-môn khác đã đi đến.
979. Ðại tế đàn lễ xong,
Vị ấy trở về am,
Trong khi bước vào am,
Một Phạm-chí khác đến.
5. Ugghaṭṭapādo tasito – paṅkadanto rajassiro, so ca naṃ upasaṅkamma – satāni pañca yācati.
5. Và người ấy, với bàn chân bị sưng vù, run lập cập, có răng đóng bợn, với đầu lấm bụi, đã đi đến gần vị Bà-la-môn và cầu xin năm trăm (tiền).
980. Chân sưng húp, run rẩy
Ðầy bùn, đầu lấm bụi,
Người ấy bước đến gần,
Và xin năm trăm tiền.
6. Tamenaṃ bāvarī disvā – āsanena nimantayī, sukhaṃ ca kusalaṃ pucchi – idaṃ vacanamabravī.
6. Sau khi nhìn thấy kẻ ấy đấy, (Bà-la-môn) Bāvarī đã mời chỗ ngồi, đã hỏi về sự an lạc và tốt lành, rồi đã nói lời này:
981. Sau khi thấy vị ấy,
Ba-va-ri mời ngồi,
Hỏi thăm, thiện, an lạc
Rồi nói lời như sau:
7. Yaṃ kho mamaṃ deyyadhammaṃ – sabbaṃ vissajjitaṃ mayā, anujānāhi me brahme – natthi pañca satāni me.
7. “Quả thật, cái gì thuộc về tôi mà là vật có thể bố thí, thì tôi đã ban phát tất cả rồi. Này ông Bà-la-môn, xin hãy hiểu cho tôi, tôi không có năm trăm.”
Bàvarim:
982. Những gì tôi cho được,
Tôi đã cho tất cả,
Phạm chí hãy tin tôi,
Tôi không có năm trăm.
8. Sace me yācamānassa – bhavaṃ nānupadassati, sattame divase tuyhaṃ – muddhā phalatu sattadhā.
8. “Nếu trong khi được tôi cầu xin, mà ngài không ban cho, thì vào ngày thứ bảy, cái đầu của ngài hãy bể tan thành bảy mảnh.”
Phạm-chí:
983. Nếu điều ta xin Ông,
Tôn giả không đáp ứng,
Sau bảy ngày, đầu Ông
Sẽ bị vỡ, bảy mảnh!
9. Abhisaṅkharitvā kuhako – bheravaṃ so akittayī, tassa taṃ vacanaṃ sutvā – bāvarī dukkhito ahu.
9. Sau khi làm thủ thuật, kẻ dối trá ấy đã thốt lời hăm dọa. Sau khi nghe được lời nói ấy của kẻ ấy, Bāvarī đã trở nên sầu khổ.
984. Sau khi làm chú thuật,
Kẻ man trá tuyên bố,
Những lời nói đáng sợ,
Nghe những lời nói ấy,
Phạm-chí Ba-va-ri
Cảm thấy lòng đau khổ.
10. Ussussati anāhāro – sokasallasamappito, atho’pi evaṃ cittassa – jhāne na ramatī mano.
10. (Vị ấy) trở nên héo mòn, không thức ăn, đã bị đâm trúng bởi mũi tên sầu muộn, Rồi cũng thế, đối với người có tâm như vậy, ý không vui thích trong việc tham thiền.
985. Gầy ốm, không uống ăn,
Bị tên sầu muộn đâm,
Với tâm tư như vậy,
Ý khó vui trong thiền,
11. Utrastaṃ dukkhitaṃ disvā – devatā atthakāminī, bāvariṃ upasaṅkamma – idaṃ vacanamabravī.
11. Sau khi nhìn thấy Bāvarī bị run sợ, bị sầu khổ, vị Thiên nhân có lòng mong mỏi điều tốt đẹp, đã đi đến gặp Bāvarī và đã nói lời này:
986. Thấy lo sợ buồn khổ,
Một Thiên nhân đi đến,
Muốn bạn được hạnh phúc,
Nói với Ba-va-ri.
12. Na so muddhaṃ pajānāti – kuhako so dhanatthiko, muddhani muddhapāte vā – ñāṇaṃ tassa na vijjati.
12. “Gã ấy không nhận biết về cái đầu. Gã dối trá ấy là kẻ tầm cầu tài sản. Sự hiểu biết của gã ấy về cái đầu hay về việc làm vỡ cái đầu không hiện hữu.”
Thiên nhân:
987. Kẻ man trá muốn tiền,
Không rõ biết về đầu,
Về đầu, đánh bể đầu,
Trí ấy nó không có.
13. Bhotī carahi jānāti – taṃ me akkhāhi pucchitā, muddhaṃ muddhādhipātaṃ ca – taṃ suṇoma vaco tava.
13. “Thưa tiên nữ, nếu nàng biết, khi được tôi hỏi, xin nàng hãy nói với tôi về điều ấy, về cái đầu và về việc làm vỡ cái đầu. Chúng tôi xin lắng nghe lời nói của nàng về điều ấy.”
Bàvarim:
988. Này bạn,nếu bạn biết,
Hãy nói câu hỏi tôi,
Về đầu, đánh bể đầu,
Chúng tôi nghe lời người.
14. Ahampetaṃ na jānāmi – ñāṇaṃ mettha na vijjati, muddhaṃ muddhādhipāto ca – jinānaṃ hetadassanaṃ.
14. “Ngay cả tôi cũng không biết về điều này; sự hiểu biết của tôi về lĩnh vực này không hiện hữu. Kiến thức ở lĩnh vực này, cái đầu và việc làm vỡ cái đầu, chỉ riêng thuộc về các đấng Chiến Thắng.”
Thiên nhân:
989. Tôi không biết việc này,
Trí này, tôi không có,
Về đầu, đánh bể đầu,
Bậc chiến thắng thấy được.
15. Atha ko carahi jānāti – asmiṃ puthavi maṇḍale, muddhaṃ muddhādhipātaṃ ca – taṃ me akkhāhi devate.
15. “Vậy thì hiện nay, ở trái đất hình cầu này, người nào biết về cái đầu và về việc làm vỡ cái đầu? Thưa tiên nữ, xin nàng hãy nói điều ấy cho tôi.”
Bàvarim:
990. Vậy ai có thể biết,
Trên quả đất tròn này,
Về đầu, đánh bể đầu,
Thiên nhân, nói tôi biết.
16. Purā kapilavatthumhā – nikkhanto lokanāyako, apacco okkākarājassa – sakyaputto pabhaṅkaro.
16. “Bậc Lãnh Đạo Thế Gian, hậu duệ của đức vua Okkāka, con trai dòng Sakya, đấng Mặt Trời, trước đây đã ra đi từ thành Kapilavatthu.
Thiên nhân:
991. Từ thành Ka-pi-la,
Bậc lãnh đạo thế giới,
Xuất hiện ra ở đời,
Là con cháu, hậu duệ,
Của vua Ok-ka-ka
Thích tử, chiếu hào quang.
17. So hi brāhmaṇa sambuddho – sabbadhammāna pāragu, sabbābhiññābalappatto -sabbadhammesu cakkhumā, sabbakammakkhayaṃ patto – vimutto upadhisaṅkhaye.
17. Này Bà-la-môn, vị ấy chính là đấng Toàn Giác, bậc đã đi đến bờ kia đối với tất cả các pháp, đã đạt được năng lực của tất cả các thắng trí, bậc Hữu Nhãn về tất cả các pháp, đã đạt đến sự cạn kiệt đối với tất cả các nghiệp, đã được giải thoát về sự diệt tận các mầm tái sanh.
992. Vị ấy Chánh Ðẳng Giác,
Hỡi này Bà-la-môn,
Ðã đi đến bờ kia,
Ðối với tất cả pháp,
Ðạt được cả sức mạnh,
Của tất cả thắng trí,
Bậc có mặt thấy được
Trong tất cả các pháp.
Ðạt được sự diệt tận,
Của tất cả các pháp,
Ðược giải thoát, diệt tận,
Ðối với các sanh y.
18. Buddho so bhagavā loke – dhammaṃ deseti cakkhumā, taṃ tvaṃ gantvāna pucchassū – so te taṃ vyākarissati.
18. Vị ấy là đức Phật, đấng Thế Tôn ở thế gian, bậc Hữu Nhãn thuyết giảng Giáo Pháp. Ông hãy đi đến và hỏi vị ấy. Vị ấy sẽ giải thích điều ấy cho ông.”
993. Bậc Giác ngộ, Thế Tôn,
Bậc có mắt thuyết pháp,
Hãy đến hỏi vị ấy,
Vị ấy sẽ trả lời.
19. Sambuddhoti vaco sutvā – udaggo bāvarī ahu, sokassa tanuko āsi – pītiñca vipulaṃ labhi.
19. Sau khi nghe được câu nói “Đấng Toàn Giác,” Bāvarī đã trở nên phấn khởi. Nỗi sầu muộn của vị này đã trở thành nhỏ nhoi, và ông ta đã đạt được niềm vui bao la.
994. Nghe tiếng Chánh Ðẳng Giác,
Ba-va-ri phấn khởi,
Sầu muộn được giảm bớt,
Ðược hoan hỷ rộng lớn.
20. So bāvarī attamano udaggo taṃ devataṃ pucchati vedajāto, katamamhi gāme nigamamhi vā puna katamamhi vā janapade lokanātho, yattha gantvā namassemu – sambuddhaṃ dipaduttamaṃ.
20. Vị Bāvarī ấy, có ý hài lòng, phấn khởi, sanh nỗi hân hoan, hỏi người tiên nữ ấy rằng: “Đấng Bảo Hộ Thế Gian ở ngôi làng hoặc ở phố thị nào, hay ở xứ sở nào? Chúng tôi sẽ đi đến nơi ấy và lễ bái đấng Toàn Giác, bậc tối thượng của loài người.”
995. Vị Ba-va-ri ấy,
Hoan hỷ và phấn khởi,
Cảm thấy lòng cảm động,
Hỏi vị thiên nhân ấy.Bàvarim:
995b. Ở tại thôn làng nào,
Ở tại thị trấn nào,
Ở tại quốc độ nào,
Lãnh đạo thế giới trú?
Tại đấy, tôi sẽ đi,
Ðảnh lễ bậc Giác ngộ,
Bậc Vô thượng loài Người.
21. Sāvatthiyaṃ kosalamandire jino pahūtapañño varabhūrimedhaso, so sakyaputto vidhuro anāsavo
muddhādhipātassa vidū narāsabho.
21. “Đấng Chiến Thắng ở Sāvatthi, cung điện của xứ Kosala, có tuệ rộng lớn, có sự sáng suốt quảng đại cao quý. Người con trai dòng Sakya ấy không kẻ sánh bằng, không còn lậu hoặc, là bậc Nhân Ngưu, vị hiểu biết về việc làm vỡ cái đầu.”
Thiên nhân:
996. Ở tại Xa-vat-thi,
Trong thành Kô-xa-la,
Bậc chiến thắng an trú,
Với trí tuệ rộng lớn,
Với hiểu biết thù thắng,
Rộng rãi và cùng khắp.
Vị ấy là Thích tử,
Không gánh nặng vô lậu,
Bậc Ngưu vương loài Người,
Biết rõ về đỉnh đầu,
Biết rõ đánh vỡ đầu.
22. Tato āmantayī sisse – brāhmaṇo mantapārage, etha māṇavā akkhissaṃ – suṇotha vacanaṃ mama.
22. Sau đó, vị Bà-la-môn đã bảo những người học trò tinh thông về chú thuật rằng: “Này các cậu thanh niên hãy đi đến, ta sẽ nói. Các ngươi hãy lắng nghe lời nói của ta.
997. Rồi vị Bà-la-môn,
Cho gọi các đệ tử,
Là những vị thông đạt,
Về bùa chú kệ tụng.Bàvarim:
997b. Hãy đến, các thanh niên,
Ta sẽ nói, hãy nghe,
Những lời ta nói lên.
23. Yasseso dullabho loke – pātubhāvo abhiṇhaso, svajja lokamhi uppanno – sambuddho iti vissuto, khippaṃ gantvāna sāvatthiṃ – passavho dipaduttamaṃ.
23. Sự xuất hiện thường xuyên ấy của vị nào là điều khó đạt được ở thế gian, vị ấy hôm nay đã hiện khởi ở thế gian, được biết tiếng là “Đấng Toàn Giác.” Chúng ta hãy nhanh chóng đi đến Sāvatthi và diện kiến bậc tối thượng của loài người.”
998. Vị ấy rất khó gặp,
Rất hiếm hiện ở đời,
Nay sanh ra ở đời,
Ðược danh bậc Chánh giác,
Hãy đi gấp Xá-vệ,
Thấy được bậc Vô thượng.
24. Kathaṃ carahi jānemu – disvā buddhoti brāhmaṇa, ajānataṃ no pabrūhi – yathā jānemu taṃ mayaṃ.
24. “Thưa Bà-la-môn, vậy làm thế nào chúng con có thể biết là ‘Đức Phật’ sau khi nhìn thấy? Xin thầy hãy nói ra cho những người không biết chúng con để chúng con có thể nhận biết vị ấy.”
Các đệ tử:
999. Kính thưa Bà-la-môn,
Thế nào chúng con biết,
Sau khi thấy vị ấy,
Biết vị ấy là Phật,
Chúng con chưa được biết
Hãy nói chúng con biết!
25. Āgatāni hi mantesu – mahāpurisalakkhaṇā, dvattiṃsa ca vyākhyātā – samattā anupubbaso.
25. “Các tướng trạng của bậc đại nhân quả đã được lưu truyền ở các chú thuật, và ba mươi hai điều đã được thuật lại đầy đủ theo thứ tự.
Bàvarim:
1000. Trong những kệ bùa chú,
Ðược truyền lại đến nay,
Có nói đến tướng tốt,
Của một bậc Ðại nhân,
Có nói ba mươi hai,
Trọn đủ, được liên tục.
26. Yassete honti gattesu – mahāpurisalakkhaṇā, dve yeva tassa gatiyo – tatiyā hi na vijjati.
26. Vị nào có những tướng trạng của bậc đại nhân này ở các phần thân thể, đối với vị ấy chỉ có hai lối đi, bởi vì lối đi thứ ba không có.
1001. Ai có trên tay chân,
Ðủ tướng đại nhân ấy,
Chỉ có hai sanh thú,
Không có cái thứ ba.
27. Sace agāraṃ āvasati – vijeyya paṭhaviṃ imaṃ, adaṇḍena asatthena – dhammenamanusāsati.
27. Nếu sống tại gia, vị ấy sẽ chinh phục trái đất này và cai quản đúng pháp, không nhờ vào gậy gộc, không nhờ vào gươm đao.
1002. Nếu trú tại gia đình,
Chinh phục quả đất này,
Không dùng trượng, dùng kiếm,
Giáo hóa đúng Chánh pháp.
28. Sace ca so pabbajati – agārā anagāriyaṃ, vivaṭṭacchaddo sambuddho – arahā bhavati anuttaro.
28. Và nếu vị ấy xuất gia, rời nhà sống không nhà, thì (sẽ) trở thành đấng Toàn Giác, bậc A-la-hán, đấng Vô Thượng, có màn che (vô minh) đã được xua tan.
1003. Nếu vị ấy xuất gia,
Bỏ nhà, sống không nhà,
Rộng mở màn vô minh,
Vị ấy, được trở thành,
Bậc Chánh đẳng Chánh giác,
Bậc Ứng cúng, Vô thượng.
29. Jātiṃ gottaṃ ca lakkhaṇaṃ – mante sisse punāparaṃ, muddhaṃ muddhādhipātaṃ ca – manasāyeva pucchatha.
29. Các ngươi hãy hỏi, chỉ bằng ý mà thôi, về việc sanh ra và về dòng họ, về tướng trạng, về các chú thuật, về các học trò, về những điều khác nữa (liên quan đến ta), về cái đầu và về việc làm vỡ cái đầu.
1004. Với tâm ý, hãy hỏi,
Sanh, tánh tướng của ta,
Kệ chú, đệ tử ta,
Về đầu, đánh bể đầu.
30. Anāvaraṇadassāvī – yadi buddho bhavissati, manasā pucchite pañhe – vācāya vissajessati.
30. Nếu là đức Phật, bậc có sự nhìn thấy không bị chướng ngại, thì khi câu hỏi được hỏi bằng ý, (vị ấy) sẽ đáp lại bằng lời nói.”
1005. Nếu vị ấy là Phật,
Thấy rõ, không che kín,
Với lời, vị ấy đáp,
Các câu hỏi bởi ý.
31. Bāvarissa vaco sutvā – sissā soḷasa brāhmaṇā, ajito tissametteyyo – puṇṇako atha mettagu.
31. Sau khi lắng nghe lời nói của Bāvarī, mười sáu vị Bà-la-môn học trò là: Ajita, Tissametteyya, Puṇṇaka, rồi Mettagū, …Nghe lời Ba-va-ri,
Mười sáu người đệ tử,
Tất cả là Phạm chí,
Tên là A-ji-ta,
Tis-xa-mêt-tê-ya,
Pun-na-ka, Mết-gu,
32. Dhotako upasīvo ca – nando ca atha hemako, todeyyakappā dubhayo – jatukaṇṇī ca paṇḍito.
32. Dhotaka, và Upasīva, Nanda, rồi Hemaka, hai vị Todeyya, và Kappa, và vị sáng suốt Jatukaṇṇī, …
1006. Cùng với Ðo-ta-ka,
Và U-pa-xi-va,
Nan-da, Hê-ma-ka,
Tô-đê-ya, Kap-pa,
Với Ja-tu-kan-ni,
Là bậc danh Hiền trí.
33. Bhadrāvudho udayo ca – posālo cāpi brāhmaṇo, mogharājā ca medhāvī – piṅgiyo ca mahā-isi.
33. Bhadrāvudha, và Udaya, luôn cả Bà-la-môn Posāla, và vị thông minh Mogharājā, và vị đại ẩn sĩ Piṅgiya.
1008. Và Bha-drà-vu-đa,
Cùng với U-da-ya,
Phạm Chí Po-xà-la,
Và Mo-gha-rà-jà,
Là bậc có trí tuệ,
Cùng với Pin-gi-ya,
Là vị đại ẩn sĩ,
Tất cả những vị ấy.
34. Paccekagaṇino sabbe – sabbalokassa vissutā, jhāyī jhānaratā dhīrā – pubbavāsanavāsitā.
34. Tất cả là những vị có đồ chúng riêng, được nổi tiếng khắp cả thế gian, có thiền chứng, thích thú với thiền, sáng trí, đã được huân tập thành thói quen trong quá khứ.
1009. Mỗi người có đồ chúng,
Có danh xưng ở đời,
Tu thiền, ưa thiền định,
Bậc có trí sáng suốt,
Mang theo những dấu tích,
Ðời sống trước của mình.
35. Bāvariṃ abhivanditvā – katvā ca naṃ padakkhiṇaṃ, jaṭājinadhārā sabbe – pakkāmuṃ uttarāmukhā.
35. Sau khi đã đảnh lễ Bāvarī, và thực hiện việc nhiễu quanh vị ấy, tất cả có tóc bện, mặc y da dê, đã ra đi hướng về phía bắc.
1010. Ðảnh lễ Ba-va-ri,
Thân phía hữu hướng Ngài,
Tất cả đều bện tóc,
Mặc áo vải da thú,
Mặt hướng về phía Bắc,
Tất cả chúng ra đi.
36. Mūlakassa patiṭṭhānaṃ – purimaṃ māhissatiṃ tathā, ujjeniṃ cāpi gonaddhaṃ – vedisaṃ vanasavhayaṃ.
36. (Họ đã đi) đến Patiṭṭhāna của xứ sở Mūlaka trước tiên, rồi đến Māhissatī, luôn cả Ujjenī, Gonaddhā, Vedisā, và (thành phố) có tên Vana.
1011. Trước hết, họ đi ngang,
Ðến Pa-tít-thà-na,
Của xứ A-la-ka,
Rồi Ma-hi-xa-ti,
Tiếp đến Uj-jê-ni,
Và đến Gô-nad-đăng,
Tiếp đến Vê-đi-xăng,
Va-na-xa-ha-yăng,
37. Kosambiṃ cāpi sāketaṃ – sāvatthiṃ ca puruttamaṃ, setavyaṃ kapilavatthuṃ – kusināraṃ ca mandiraṃ.
37. Rồi đến Kosambī, luôn cả sāketa, và thành phố hạng nhất Sāvatthi, Setavya, Kapilavatthu, và cung điện Kusinārā.
Ði đến Kô-xăm-bi,
Ði đến Xa-kê-ta,
Rồi đến Xa-vat-thi,
Là thành phố tối thượng,
Kế đến Xê-ta-vyam,
Ka-pi-la-vat-thu,
Rồi đến tòa lâu đài,
Tên Ku-xi-na-ra,
38. Pāvaṃ ca bhoganagaraṃ – vesāliṃ māgadhaṃ puraṃ, pāsāṇakaṃ cetiyaṃ ca – ramaṇīyaṃ manoramaṃ.
38. Pāvā, và thành phố Bhogā, Vesālī, thành phố xứ Magadha, và điện thờ Pāsāṇakaṃ đáng yêu, thich ý.1012. Rồi đi đến Pa-va,
Và thành phố Bhô-ga,
Tiếp đến Vê-xá-ly,
Thành phố Ma-ga-đa,
Rồi Pa-xe-na-ka,
Ngôi điện đẹp, khả ái.
39. Tasitovudakaṃ sītaṃ – mahālābhaṃ va vāṇijo, chāyaṃ ghammābhitattova – tusitā pabbatamāruhuṃ.
39. Tựa như người bị khát nước được nước mát, tựa như thương buôn được lợi lớn, tựa như người bị thiêu đốt bởi sức nóng được bóng râm, họ đã vui mừng trèo lên ngọn núi.
1014. Như người khát, nước mát,
Như người buôn, lợi lớn,
Như nóng bức, bóng mát,
Họ gấp leo ngọn núi.
40. Bhagavā ca tasmiṃ samaye – bhikkhusaṅghapurakkhato, bhikkhūnaṃ dhammaṃ deseti – sīhova nadatī vane.
40. Và vào thời điểm ấy, đức Thế Tôn, được hội chúng tỳ khưu tôn vinh, thuyết giảng Giáo Pháp cho các vị tỳ khưu, tựa như con sư tử gầm thét ở khu rừng.
1015. Thế Tôn, trong lúc ấy,
Dẫn đầu chúng Tỷ-kheo,
Ngài đang thuyết Chánh pháp,
Cho các vị Tỷ-kheo,
Giống như con sư tử,
Rống tiếng rống trong rừng.
41. Ajito addasa sambuddhaṃ – sataraṃsiṃ’va bhānumaṃ, candaṃ yathā paṇṇarase – paripūrimupāgataṃ.
41. Ajita đã nhìn thấy đấng Toàn Giác tựa như mặt trời có trăm ánh hào quang, giống như mặt trăng đã tiến gần đến sự tròn đầy vào ngày mười lăm.
1016. A-ja-ta thấy Phật,
Như mặt trời vàng chói,
Như mặt trăng ngày rằm,
Ðược tròn đầy viên mãn.
42. Athassa gatte disvāna – paripūraṃ ca byañjanaṃ, ekamantaṃ ṭhito haṭṭho – manopañhe apucchatha.
42. Rồi sau khi nhìn thấy các phần thân thể của vị này và dấu hiệu được đầy đủ, Ajita, đứng ở một bên, mừng rỡ, đã hỏi bằng ý các câu hỏi rằng:
1017. Và thấy tay chân Ngài,
Ðầy đủ các tướng tốt,
Hoan hỷ đứng một bên,
Hỏi câu hỏi tâm ý.
43. Ādissa jammanaṃ brūhi – gottaṃ brūhi salakkhaṇaṃ, mantesu pāramiṃ brūhi – kati vāceti brāhmaṇo.
43. “Xin Ngài hãy xác định và nói về việc sanh ra (của vị Bāvarī). Xin Ngài hãy nói về dòng họ cùng với tướng trạng. Xin Ngài hãy nói về sự toàn hảo ở các chú thuật. Vị Bà-la-môn (Bāvarī) dạy bảo được bao nhiêu?”
Ajita:
1018. Hãy nói về thọ sanh,
Nói dòng họ, các tướng,
Về tối thượng kệ chú,
Phạm chí đọc bao nhiêu?
44. Vīsaṃ vassasataṃ āyu – so ca gottena bāvarī, tīṇassa lakkhaṇā gatte – tiṇṇaṃ vedāna pāragū.
44. “Tuổi thọ là một trăm hai mươi. Và theo dòng họ vị ấy là Bāvarī. Ở thân thể vị này có ba tướng trạng. Là vị tinh thông về ba bộ Vệ Đà.
Thế Tôn:
1019. Tuổi thọ trăm hai mươi,
Dòng họ Bà-va-ri,
Trên tay chân, ba tướng,
Thông đạt ba Vệ-đà.
45. Lakkhaṇe itihāse ca – sanighaṇḍu-sakeṭubhe, pañca satāni vāceti – sadhamme pāramiṃ gato.
45. Là người đã đạt đến sự toàn hảo về pháp (Bà-la-môn) của mình, về tướng trạng và về lịch sử, về từ vựng và về nghi lễ, (Bāvarī) dạy bảo năm trăm (học trò).”
1020. Về tướng và truyền thuyết,
Về tự vựng, lễ nghi,
Tụng đọc được năm trăm,
Ðạt tối thượng diệu pháp.
46. Lakkhaṇānaṃ pavicayaṃ – bāvarissa naruttama, taṇhacchida pakāsehi – mā no kaṅkhāyitaṃ ahu.
46. “Thưa bậc Tối Thượng Nhân, thưa bậc đã cắt đứt tham ái, xin Ngài hãy giải thích chi tiết về các tướng trạng của Bāvarī, xin chớ để chúng tôi bị hoài nghi.”
Ajita:
1021. Bậc Vô thượng, đoạn ái,
Hãy nói lên tường tận
Các tướng Ba-va-ri,
Ðể chúng con không nghi.
47. Mukhaṃ jivhāya chādeti – uṇṇassa bhamukantare, kosohitaṃ vatthaguyhaṃ – evaṃ jānāhi māṇava.
47. “(Người ấy) che khuất khuôn mặt bằng cái lưỡi, có sợi lông ở khoảng giữa chân mày của người này, vật được che giấu sau lớp vải (vật kín) được bọc lại; này người thanh niên, hãy biết như thế.”
Thế Tôn:
1022. Lưỡi che kín mặt mày,
Giữa hàng mi, lông trắng,
Có da bọc âm tàng,
Hãy biết vậy, thanh niên.
48. Pucchamhi kañci asuṇanto – sutvā pañhe vyākate, vicinteti jano sabbo – vedajāto katañjalī.
48. Trong khi không nghe bất kỳ câu hỏi nào, mà đã nghe các câu hỏi được trả lời, tất cả mọi người sanh nỗi hân hoan, tay chắp lại, suy nghĩ rằng:
1023. Không nghe câu hỏi gì,
Chỉ nghe câu trả lời,
Quần chúng rất ngạc nhiên,
Chắp tay tự suy nghĩ.
49. Ko nu devo vā brāhmā vā – indo vāpi sujampati, manasā pucchite pañhe – kametaṃ paṭibhāsati.
49. “Vậy thì vị Trời nào, hay đấng Đại Phạm, hoặc (Thiên vương) Inda chồng của Sujā, đã hỏi bằng ý những câu hỏi ấy? (Đức Phật) đáp lại điều này cho ai?”
Dân chúng:
1024. Thiên, Phạm thiên, Ðế thích,
Hay Xu-jam-pa-ti
Ai, với ý hỏi Ngài,
Xin nói cho được biết?
50. Muddhaṃ muddhādhipātaṃ ca – bāvarī paripucchati, taṃ vyākarohi bhagavā – kaṅkhaṃ vinaya no ise.
50. “Vị Bāvarī hỏi về cái đầu và về việc làm vỡ cái đầu. Thưa đức Thế Tôn, xin Ngài hãy trả lời điều ấy. Thưa bậc ẩn sĩ, xin Ngài hãy xua đi nỗi nghi ngờ của chúng tôi.”
Ajita:
1025. Ba-va-ri tìm hỏi,
Về đầu, đánh bể đầu,
Thế Tôn hãy trả lời,
Ðoạn nghi hoặc chúng con?
Ôi, thưa bậc Tiên nhân!
51. Avijjā muddhāti jānāhi – vijjā muddhādhipātinī, saddhāsatisamādhīhi chandaviriyena saṃyutā.
51. “Người hãy biết vô minh là ‘cái đầu,’ minh với việc đập vỡ cái đầu, được liên kết với tín, niệm, định, … với ước muốn và tinh tấn.”
Thế Tôn:
1026. Vô minh là đỉnh đầu,
Hãy hiểu biết như vậy,
Minh là đánh bể đầu,
Liên hệ dục tinh tấn,
Với lòng tin, chánh niệm,
Liên hệ với thiền định.
52. Tato vedena mahatā – santhambhitvāna māṇavo, ekaṃsaṃ ajinaṃ katvā – pādesu sirasā patī.
52. Do đó, với nỗi hân hoan lớn lao, sau khi trấn tĩnh lại người thanh niên Bà-la-môn đã khoác tấm da dê một bên vai, quỳ xuống đê đầu ở hai bàn chân (đức Phật và nói rằng):
1027. Với cảm thọ lớn mạnh,
Thanh niên tự chế ngự,
Ðắp áo da một bên,
Với đầu, đảnh lễ chân.
53. Bāvarī brāhmaṇo bhoto – saha sissehi mārisa, udaggacitto sumano – pāde vandati cakkhuma.
53. “Thưa Ngài, Bà-la-môn Bāvarī, có tâm phấn khởi, có ý tốt lành, cùng với các học trò đảnh lễ hai bàn chân của Ngài, thưa bậc Hữu Nhãn.”
Ajita:
1028. Phạm chí Ba-va-ri,
Cùng đệ tử, thưa Ngài,
Tâm phấn khởi, đẹp ý,
Lễ chân, bậc có mắt.
54. Sukhito bāvarī hotu – saha sissehi brāhmaṇo, tvaṃ cāpi sukhito hohi – ciraṃ jīvāhi māṇava.
54. “Mong sao Bà-la-môn Bāvarī cùng với các học trò được an lạc. Và luôn cả ngươi nữa hãy được an lạc. Này người thanh niên, chúc người sống thọ.
Thế Tôn:
1029. Phạm chí Ba-va-ri,
Hãy sống được an lạc,
Cùng với các đệ tử!
Mong Ông sống an lạc,
Thọ mạng được lâu dài,
Hỡi này kẻ thanh niên.
55. Bāvarissa va tumhaṃ vā – sabbesaṃ sabbasaṃsayaṃ,
katāvakāsā pucchavho – yaṃ kiñci manasicchatha.
55. Từ cơ hội đã được tạo ra, ngươi hãy hỏi mọi điều hoài nghi của tất cả, của Bāvarī, hoặc của ngươi, bất cứ điều gì ngươi mong muốn ở trong tâm.”
1030. Ba-va-ri và Ông,
Có mọi nghi ngờ gì,
Cơ hội đến, hãy hỏi,
Tùy theo ý Ông muốn.
56. Sambuddhena katokāso – nisīditvāna pañjalī, ajito paṭhamaṃ pañhaṃ – tattha pucchi tathāgataṃ.
56. Với cơ hội đã được tạo ra bởi đấng Toàn Giác, Ajita đã ngồi xuống, chắp tay lại, tại nơi ấy đã hỏi đức Như Lai câu hỏi thứ nhất.
1031. Ðược bậc Chánh Ðẳng Giác,
Cho cơ hội tốt đẹp,
A-ji-ta liền ngồi,
Chắp tay hỏi Như Lai,
Hỏi câu hỏi thứ nhất,
Chính ngay tại chỗ ấy,
Kệ mở đầu đã xong.
Vatthugāthā niṭṭhitā.
Dứt Kệ Ngôn Giới Thiệu.
1. AJITAMĀṆAVAPUCCHĀ – CÂU HỎI CỦA THANH NIÊN AJITA
1-1. Kenassu nivuto loko (iccāyasmā ajito) kenassu nappakāsati kissābhilepanaṃ brūhi kiṃ su tassa mahabbhayaṃ.
1-1. (Tôn giả Ajita[1] hỏi:) “Thế giới bị bao trùm bởi cái gì? Không chói sáng bởi điều gì? Ngài hãy nói cái gì là vật làm uế nhiễm đối với (thế giới) này? Sự nguy hiểm lớn lao của nó là gì?”
[1] Lúc đi đến gặp đức Thế Tôn, Ajita còn là một vị thanh niên Bà-la-môn (māṇava). Vào cuối buổi giảng Pháp, Ajita đã được thành tựu quả vị A-la-hán (SnA. ii, 588; Cullaniddesapāḷi – Tiểu Diễn Giải, TTPV tập 36, trang 89).
(II) Câu hỏi của thanh niên A-ji-ta
Ajita:
1032. Tôn giả A-ji-ta:
Do gì, đời bị che,
Do gì, không chói sáng,
Hãy nói lên cái gì,
Làm uế nhiễm cuộc đời,
Cái gì sợ hãi lớn?
(Kinh Tập, chương V)
1-2. Avijjāya nivuto loko (ajitāti bhagavā) vevicchā pamādā nappakāsati jappābhilepanaṃ brūmi dukkhamassa mahabbhayaṃ.
1-2. (Đức Thế Tôn nói: “Này Ajita,) thế giới bị bao trùm bởi vô minh, không chói sáng bởi keo kiệt, bởi xao lãng. Ta nói tham muốn là vật làm uế nhiễm, khổ là sự nguy hiểm lớn lao của nó (thế giới).”
Thế Tôn:
1033. Thế Tôn liền đáp lại:
Ðời bị vô minh che,
Do xan tham, phóng dật,
Ðời không được chói sáng,
Ta nói do mong cầu,
Nên đời bị uế nhiễm,
Chính là sự đau khổ,
Nên có sợ hãi lớn.
1-3. Savanti sabbadhi sotā (iccāyasmā ajito) sotānaṃ kiṃ nivāraṇaṃ sotānaṃ saṃvaraṃ brūhi kena sotā pithīyare.
1-3. (Tôn giả Ajita hỏi:) “Các dòng chảy chảy tràn khắp mọi nơi, cái gì là sự ngăn cản các dòng chảy? Ngài hãy nói về sự chế ngự các dòng chảy, các dòng chảy được chặn đứng bởi cái gì?”
Ajita:
1034. Tôn giả A-ji-ta:
Mọi nơi dòng nước chảy,
Cái gì ngăn dòng nước?
Hãy nói lên cái gì?
Chế ngự được dòng nước?
Cái gì đóng dòng nước?
1-4. Yāni sotāni lokasmiṃ (ajitāni bhagavā) sati tesaṃ nivāraṇaṃ sotānaṃ saṃvaraṃ brūmi paññāyete pithīyare.
1-4. (Đức Thế Tôn nói: “Này Ajita,) những dòng chảy nào hiện diện ở thế gian, niệm là sự ngăn cản chúng. Ta nói về sự chế ngự các dòng chảy, chúng được chặn đứng bởi tuệ.”
Thế Tôn:
1035. Thế Tôn liền đáp lại:
Hỡi này A-ji-ta,
Các dòng nước ở đời,
Chánh niệm ngăn chận lại,
Chánh niệm được Ta gọi,
Chế ngự các dòng nước,
Và chính do trí tuệ,
Ðóng lại các dòng nước.
1-5. Paññā ceva satī cāpi (iccāyasmā ajito) nāmarūpaṃ ca mārisa etaṃ me puṭṭho pabrūhi katthetaṃ uparujjhati.
1-5. (Tôn giả Ajita hỏi:) “Thưa ngài, tuệ và luôn cả niệm, danh và sắc; được tôi hỏi điều này, xin ngài hãy nói lên, ở đâu điều này được hoại diệt?”
Ajita:
1036. Tôn giả A-ji-ta:
Trí tuệ và chánh niệm,
Cùng với danh và sắc,
Kính thưa bậc Tôn giả,
Hãy nói điều con hỏi,
Từ đâu chúng bị diệt?
1-6. Yametaṃ pañhaṃ apucchi ajita taṃ vadāmi te, yattha nāmaṃ ca rūpaṃ ca asesaṃ uparujjhati, viññāṇassa nirodhena etthetaṃ uparujjhati.
1-6. “Ngươi đã hỏi câu hỏi về điều nào, này Ajita, Ta (sẽ) trả lời cho ngươi về điều ấy, về việc danh và sắc được hoại diệt không dư sót. Do sự diệt tận của thức, ở đây, điều này (danh và sắc) được hoại diệt.”
Thế Tôn:
1037. Câu hỏi gì Ông hỏi,
Hỡi này A-ji-ta,
Ta sẽ đáp cho Ông,
Chỗ nào danh và sắc,
Ðược đoạn diệt hoàn toàn,
Không còn lại dư tàn,
Chính do đoạn diệt thức,
Danh sắc được đoạn diệt.
1-7. Ye ca saṅkhātadhammā se ye ca sekhā puthū idha tesaṃ me nipako iriyaṃ puṭṭho pabrūhi mārisa.
1-7. “Những vị nào đã hiểu rõ Giáo Pháp (là các bậc A-la- hán) và những vị nào là các bậc Hữu Học đông đảo ở nơi này, tôi hỏi bậc Chín Chắn về oai nghi của những vị ấy, thưa ngài, xin ngài hãy nói lên.”
Ajita:
1038. Những ai biết tư sát,
Các pháp thuộc hữu vi,
Cùng với bậc hữu học,
Và phàm phu ở đời,
Ðược hỏi, Ngài hãy nói,
Về nếp sống của họ?
Bậc thận trọng sáng suốt,
Hãy nói lên, thưa Ngài!
1-8. Kāmesu nābhigijjheyya manasā nāvilo siyā kusalo sabbadhammānaṃ sato bhikkhu paribbaje.
1-8. “Không nên khát khao ở các dục, không nên bị khuấy động bởi tâm, thiện xảo đối với tất cả các pháp, có niệm, vị tỳ khưu ra đi du phương.”
Thế Tôn:
1039. Chớ tham đắm các dục,
Giữ tâm tư an tịnh,
Thiện xảo trong các pháp,
Tỷ-kheo giữ chánh niệm,
Sống đời sống xuất gia.
Ajitamāṇavapucchā niṭṭhitā.
Dứt Câu Hỏi Của Thanh Niên Ajita.
2. TISSAMETTEYYAMĀṆAVAPUCCHĀ – CÂU HỎI CỦA THANH NIÊN TISSAMETTEYYA
(III) Các câu hỏi của thanh niên Tissametmeyya
2-1. Ko ’dha santusito loke (iccāyasmā tissa metteyyo ) kassa no santi iñjitā ko ubhantamabhiññāya majjhe mantā na lippati kaṃ brūsi mahāpuriso ’ti ko ’dha sibbanim accagā?
2-1. (Tôn giả Tissametteyya hỏi rằng:) “Ở đây, người nào được hài lòng ở thế gian? Đối với người nào, các sự dao động không hiện hữu? Người nào, sau khi biết rõ cả hai đầu, không bị nhiễm bẩn ở khoảng giữa nhờ vào trí tuệ? Ngài nói ai là ‘bậc đại nhân’? Ở đây, người nào vượt qua thợ may (tham ái)?”
Tissa:
1040. Tissa Met-tey-ya:
Ai thỏa mãn ở đời,
Với ai không dao động,
Ai thắng tri hai biên,
Ở giữa, không dính líu,
Ai Ngài gọi đại nhân,
Ở đời, ai vượt khỏi,
Thêu dệt các ái nhiễm?
(Kinh Tập, chương V)
2-2. Kāmesu brahmacariyavā (metteyyāti bhagavā) vītataṇho sadā sato saṅkhāya nibbuto bhikkhu tassa no santi iñjitā.
2-2. (Đức Thế Tôn nói: “Này Metteyya,) vị có Phạm hạnh trong các dục, đã xa lìa tham ái, luôn luôn có niệm. Sau khi đã suy xét, vị tỳ khưu được tịch tịnh; đối với vị ấy, các sự dao động không hiện hữu.
Thế Tôn:
1041. Thế Tôn liền đáp rằng:
Hỡi này Met-tê-ya!
Giữa dục, sống Phạm hạnh,
Không ái, luôn chánh niệm,
Tỷ-kheo lặng tính toán,
An tịnh, không dao động.
2-3. So ubhantamabhiññāya majjhe mantā na lippati taṃ brūmi mahā puriso ’ti so ’dha sibbanimaccagā.
2-3. Vị ấy, sau khi biết rõ cả hai đầu, không bị nhiễm bẩn ở khoảng giữa nhờ vào trí tuệ. Ta nói vị ấy là ‘bậc đại nhân.’ Ở đây, vị ấy vượt qua thợ may (tham ái).”
1042. Ai thắng tri hai biên,
Chặng giữa, nhờ suy tư,
Không dính líu bị nhiễm,
Ta gọi là đại nhân,
Vị ấy, ở đời này,
Vượt khỏi sự thêu dệt,
Các ái nhiễm tham muốn.
Tissametteyyamāṇavapucchā niṭṭhitā.
Dứt Câu Hỏi Của Thanh Niên Tissametteyya.
3. PUṆṆAKAMĀṆAVAPUCCHĀ – CÂU HỎI CỦA THANH NIÊN PUṆṆAKA
(IV) Câu hỏi của thanh niên Punnaka
3-1. Anejaṃ mūladassāviṃ ( iccāyasmā puṇṇako) atthi pañhena āgamaṃ kiṃnissitā isayo manujā khattiyā brāhmaṇā devatānaṃ yaññamakappayiṃsu puthu idha loke pucchāmi taṃ bhagavā brūhi metaṃ.
3-1. (Tôn giả Puṇṇaka hỏi rằng:) “Với ý định hỏi câu hỏi, tôi đã đi đến với bậc không dục vọng, bậc có sự nhìn thấy gốc rễ (của các pháp): ‘Nương tựa vào điều gì, các vị ẩn sĩ, loài người, các Sát-đế-lỵ, các Bà-la-môn, đối với các thiên thần, đã chuẩn bị lễ hiến tế đông đảo tại nơi này, ở thế gian. Thưa đức Thế Tôn, tôi hỏi ngài. Xin ngài hãy trả lời tôi về điều này.”
Punnaka:
1043. Tôn giả Pun-na-ka:
Với ai không dao động,
Thấy rõ được cội gốc,
Con đến với câu hỏi,
Liên hệ đến mục đích,
Bậc ẩn sĩ, loài Người,
Sát-đế-ly, Phạm chí,
Do họ y chỉ gì,
Tế đàn cho chư Thiên.
Ðã tổ chức rộng lớn?
Con hỏi bậc Thế Tôn,
Hãy trả lời cho con.
3-2. Ye kec’ ime isayo manujā (puṇṇakāti bhagavā) khattiyā brāhmaṇā devatānaṃ yaññamakappayiṃsu puthu idha loke āsiṃsamānā puṇṇaka itthabhāvaṃ jaraṃsitā yaññamakappayiṃsu.
3-2. (Đức Thế Tôn nói: “Này Puṇṇaka,) bất cứ những ai, các vị ẩn sĩ, loài người, các Sát-đế-lỵ, các Bà-la-môn, đối với các thiên thần, đã chuẩn bị lễ hiến tế đông đảo tại nơi này, ở thế gian, này Puṇṇaka, trong khi mong ước bản thể này, bị phụ thuộc vào tuổi già, họ đã chuẩn bị lễ hiến tế.”
Thế Tôn:
1044. Thế Tôn bèn đáp rằng:
Hỡi này Pun-na-ka!
Bậc ẩn sĩ loài Người,
Sát-đế-ly, Phạm chí,
Ðã tổ chức rộng lớn,
Tế đàn cho chư Thiên.
Khi họ thành già yếu,
Họ tổ chức tế đàn,
Vì rằng họ hy vọng,
Ðược sanh ở đời này,
Hỡi này Pun-na-ka!
3-3. Ye kec’ ime isayo manujā (iccāyasmā puṇṇako) khattiyā brāhmaṇā devatānaṃ yaññamakappayiṃsu puthu idha loke kaccissu te bhagavā yaññapathe appamattā atāru jātiṃ ca jaraṃ ca mārisa pucchāmi taṃ bhagavā brūhi metaṃ.
3-3. (Tôn giả Puṇṇaka hỏi rằng:) “Bất cứ những ai, các vị ẩn sĩ, loài người, các Sát-đế-lỵ, các Bà-la-môn, đối với các thiên thần, đã chuẩn bị lễ hiến tế đông đảo tại nơi này, ở thế gian, thưa đức Thế Tôn, có phải những người ấy, không xao lãng ở đường lối tế lễ, thưa ngài, thì họ đã vượt qua sanh và già? Thưa đức Thế Tôn, tôi hỏi ngài. Xin ngài hãy trả lời tôi về điều này.”
Punnaka:
1045. Tôn giả Pun-na-ka:
Bậc ẩn sĩ loài Người,
Sát-đế-ly, Phạm chí,
Ðã tổ chức rộng lớn,
Tế đàn cho chư Thiên.
Thế Tôn nghĩ thế nào,
Họ không có phóng dật
Trên con đường tế đàn,
Họ vượt qua già chết,
Ðược hay không, thưa Ngài,
Con hỏi đức Thế Tôn,
Con mong Ngài trả lời?
3-4. Āsiṃsanti thomayanti abhijappanti juhanti (puṇṇakāti bhagavā) kāmābhijappanti paṭicca lābhaṃ te yājayogā bhavarāgarattā nātariṃsu jātijaranti brūmi.
3-4. (Đức Thế Tôn nói: “Này Puṇṇaka,) những kẻ mong ước, khen ngợi, cầu khấn, cúng tế, những kẻ cầu khấn các dục bởi vì lợi lộc, Ta nói rằng: ‘Những kẻ ấy, do sự gắn bó vào tế lễ, bị luyến ái với sự luyến ái vào hiện hữu, đã không vượt qua sanh và già.’”
Thế Tôn:
1046. Thế Tôn trả lời rằng:
Hỡi này Pun-na-ka,
Họ hy vọng, tán thán,
Họ cầu nguyện, cúng lễ,
Họ cầu nguyện các dục,
Do duyên vì lợi dưỡng,
Chuyên tâm lo tế đàn,
Ưa thích, tham sanh hữu,
Họ không vượt già chết,
Ta nói lên như vậy.
3-5. Te ce nātariṃsu yājayogā (iccāyasmā puṇṇako) yaññehi jātiñca jarañca mārisa atha ko carahi devamanussaloke atāri jātiṃ ca jaraṃ ca mārisa pucchāmi taṃ bhagavā brūhi metaṃ.
3-5. (Tôn giả Puṇṇaka hỏi rằng:) “Thưa ngài, nếu những kẻ ấy, do sự gắn bó vào tế lễ, đã không vượt qua sanh và già nhờ vào các lễ hiến tế, vậy giờ đây, thưa ngài, người nào ở thế giới chư Thiên và nhân loại đã vượt qua sanh và già? Thưa đức Thế Tôn, tôi hỏi ngài. Xin ngài hãy trả lời tôi về điều này.”
Punnaka:
1047. Tôn giả Pun-na-ka:
Nếu chúng chuyên tế đàn,
Nhưng không thể vượt qua,
Già chết với tế đàn,
Thời ai sống ở đời,
Trong thế giới Nhơn, Thiên,
Ðã vượt qua già chết,
Ai được vậy, thưa Ngài,
Con hỏi đức Thế Tôn,
Ngài trả lời cho con?
3-6. Saṅkhāya lokasmiṃ parovarāni (puṇṇakāti bhagavā) yassiñjitaṃ natthi kuhiñci loke santo vidhūmo anīgho nirāso atāri so jātijaranti brūmī ”ti.
3-6. (Đức Thế Tôn nói: “Này Puṇṇaka,) sau khi đã suy xét nơi này và nơi khác ở thế gian, vị nào không có sự dao động tại bất cứ nơi nào ở thế gian, là bậc an tịnh, không còn khói mù, không phiền muộn, không mong cầu, Ta nói rằng, vị ấy đã vượt qua sanh và già.”
Thế Tôn:
1048. Thế Tôn trả lời rằng:
Hỡi này Pun-na-ka,
Ai tính toán cao thấp,
Ước lượng vậy ở đời,
Ai không bị dao động,
Bất cứ đâu ở đời,
An tịnh, không phun khói,
Không phiền não, không cầu,
Vị ấy vượt già chết,
Ta nói lên như vậy.
Puṇṇakamāṇavapucchā niṭṭhitā.
Dứt Câu Hỏi Của Thanh Niên Puṇṇaka.
4. METTAGŪMĀṆAVAPUCCHĀ – CÂU HỎI CỦA THANH NIÊN METTAGŪ
(V) Câu hỏi của thanh niên Mettagu
4-1. Pucchāmi taṃ bhagavā brūhi metaṃ (iccāyasmā mettagū) maññāmi taṃ vedaguṃ bhāvitattaṃ kuto nu dukkhā samudāgatā ime ye keci lokasmiṃ anekarūpā.
4-1. (Tôn giả Mettagū nói rằng:) “Thưa đức Thế Tôn, tôi hỏi ngài. Xin ngài hãy trả lời tôi về điều này. Tôi nghĩ rằng ngài là bậc đã đạt được sự hiểu biết, có bản thân đã được tu tập. Từ đâu mà các khổ này đã được khởi lên, bất kể loại nào ở thế gian, với nhiều hình thức?”
Mettagu:
1049. Tôn giả Mêt-ta-gu:
Con xin hỏi Thế Tôn,
Mong Thế Tôn trả lời,
Vấn đề con đã hỏi,
Con nghĩ Ngài hiền trí,
Tự ngã đã tu tập,
Từ đâu, ở trong đời,
Ðau khổ này khởi lên,
Với nhiều loại như vậy?
4-2. Dukkhassa ve maṃ pabhavaṃ apucchasi (mettagūti bhagavā) taṃ te pavakkhāmi yathā pajānaṃ upadhinidānā pabhavanti dukkhā ye keci lokasmiṃ anekarūpā.
4-2. (Đức Thế Tôn nói: “Này Mettagū,) quả thật ngươi đã hỏi Ta về nguồn sanh khởi của khổ. Ta sẽ tuyên thuyết về điều ấy cho ngươi theo như điều Ta nhận biết. Các khổ phát khởi đều có căn nguyên là mầm tái sanh, bất kể loại nào ở thế gian, với nhiều hình thức.
Thế Tôn:
1050. Thế Tôn trả lời rằng:
Hỡi này Mêt-ta-gu,
Ông hỏi ta vấn đề,
Sanh khởi của khổ đau,
Ta sẽ nói cho Ông,
Như Ta đã được biết,
Chính do duyên sanh y,
Nên khổ được khởi lên,
Với nhiều loại như vậy,
Khác biệt ở trong đời.
4-3. Yo ve avidvā upadhiṃ karoti punappunaṃ dukkhamupeti mando tasmā pajānaṃ upadhiṃ na kayirā dukkhassa jātippabhavānupassī.
4-3. Thật vậy, kẻ nào, (do) không biết, tạo ra mầm tái sanh, là kẻ ngu, (sẽ) đi đến khổ lần này rồi lần khác. Vì thế, người có sự quán xét về sự sanh ra và phát khởi của khổ, trong khi biết, không nên tạo ra mầm tái sanh.”
1051. Những ai vì vô minh,
Tác thành các sanh y,
Kẻ ngu tạo đau khổ,
Tiếp tục được sanh khởi,
Do vậy kẻ hiểu biết,
Không nên tạo sanh y,
Vì thấy sự sanh khởi,
Của sanh và đau khổ.
4-4. Yaṃ taṃ apucchimha akittayī no (iccāyasmā mettagū) aññaṃ taṃ pucchāma tadiṅgha brūhi kathannu dhīrā vitaranti oghaṃ ātijaraṃ sokapariddavañca taṃ me munī sādhu viyākarohi tathā hi te vidito esa dhammo.
4-4. (Tôn giả Mettagū nói rằng:) “Điều nào chúng tôi đã hỏi ngài, ngài đã giải thích cho chúng tôi. Chúng tôi hỏi ngài điều khác, vậy xin ngài hãy trả lời điều ấy. Làm thế nào các bậc sáng trí vượt qua dòng lũ, sanh và già, sầu muộn và than vãn? Thưa bậc hiền trí, xin ngài hãy khéo léo giảng rõ điều ấy cho tôi, bởi vì pháp này đã được ngài biết đúng theo bản thể.”
Mettagu:
1052. Ðiều chúng con đã hỏi,
Ngài đã đáp chúng rồi,
Nay xin hỏi câu khác,
Mong Ngài giải đáp cho,
Thế nào bậc Hiền trí,
Vượt khỏi dòng nước mạnh,
Vượt khỏi sanh và già,
Cùng sầu muộn than khóc,
Mong rằng bậc ẩn sĩ,
Hãy khéo trả lời con,
Ðúng như Ngài đã biết,
Pháp nhĩ là như vậy?
4-5. Kittiyissāmi te dhammaṃ (mettagūti bhagavā) diṭṭhe dhamme anitīhaṃ yaṃ viditvā sato caraṃ tare loke visattikaṃ.
4-5. (Đức Thế Tôn nói: “Này Mettagū,) Ta sẽ giải thích cho ngươi Giáo Pháp, về pháp đã được thấy, không phải do nghe nói lại, sau khi hiểu pháp ấy, vị có niệm, trong khi sống, có thể vượt qua sự vướng mắc ở thế gian.”
Thế Tôn:
1053. Thế Tôn trả lời rằng:
Hỡi này Mêt-ta-gu,
Ta sẽ nói cho Ông,
Pháp thiết thực hiện tại,
Không do trao truyền lại,
Sau khi biết pháp ấy,
Vị ấy sống chánh niệm,
Vượt tham ái ở đời.
4-6. Taṃ cāhaṃ abhinandāmi mahesi dhammamuttamaṃ, yaṃ viditvā sato caraṃ tare loke visattikaṃ.
4-6. “Và tôi thích thú Giáo Pháp tối thượng ấy, thưa bậc đại ẩn sĩ. Sau khi hiểu pháp ấy, vị có niệm, trong khi sống, có thể vượt qua sự vướng mắc ở thế gian.”
Mettagu:
1054. Thưa bậc Ðại ẩn sĩ,
Con hết sức hoan hỷ,
Chánh pháp vô thượng ấy,
Sau khi biết pháp ấy,
Sống gìn giữ chánh niệm,
Vượt tham ái ở đời.
4-7. Yaṃ kiñci sampajānāsi (mettagūti bhagavā) uddhaṃ adho tiriyaṃ cāpi majjhe etesu nandiñca nivesanañca panujja viññāṇaṃ bhave na tiṭṭhe.
4-7. (Đức Thế Tôn nói: “Này Mettagū,) bất cứ điều gì mà ngươi tự mình nhận biết, bên trên, bên dưới, luôn cả bề ngang và khoảng giữa, ngươi hãy xua đi sự vui thích, sự chấp chặt, và tâm thức liên quan đến các pháp ấy; không nên trụ lại ở hiện hữu.
Thế Tôn:
1055. Thế Tôn đáp lại rằng:
Hỡi này Mêt-ta-gu,
Phàm Ông rõ biết gì,
Trên dưới, ngang ở giữa,
Hãy từ bỏ hoan hỷ,
Hãy từ bỏ trú xứ,
Chớ để cho ý thức,
An trú trên sanh hữu.
4-8. Evaṃvihārī sato appamatto bhikkhu caraṃ hitvā mamāyitāni jātiṃ jaraṃ sokapariddavañca idheva vidvā pajaheyya dukkhaṃ.
4-8. An trú như vậy, có niệm, không xao lãng, vị tỳ khưu, trong khi sống, sau khi từ bỏ các vật đã được chấp là của ta, là vị hiểu biết, ngay tại nơi này, có thể dứt bỏ khổ đau, sanh, già, sầu muộn và than vãn.”
1056. An trú vậy, chánh niệm,
Tỷ-kheo không phóng dật,
Sau khi bỏ sở hành,
Ðưa đến ngã, sở hữu.
Ðối với sanh và già,
Sầu muộn và than khóc,
Ở đây, biết được vậy,
Hãy từ bỏ đau khổ.
4-9. Etābhinandāmi vaco mahesino (iccāyasmā mettagū) sukittitaṃ gotama nūpadhīkaṃ, addhā hi bhagavā pahāsi dukkhaṃ tathā hi te vidito esa dhammo.
4-9. (Tôn giả Mettagū nói rằng:) “Tôi thích thú lời nói này của bậc đại ẩn sĩ, đã khéo được trình bày, thưa ngài Gotama, không liên quan đến mầm tái sanh, bởi vì đức Thế Tôn đương nhiên đã dứt bỏ khổ, bởi vì pháp này đã được ngài biết đúng theo bản thể.
Mettagu:
1057. Con cảm thấy hoan hỉ,
Lời nói bậc Ðại sĩ;
Ðoạn tận được sanh y,
Ðược Ngài khéo tuyên thuyết.
Chắc chắn đức Thế Tôn,
Ðã đoạn tận đau khổ,
Vì pháp này được Ngài,
Rõ biết là như vậy.
4-10. Te cāpi nūna pajaheyyu dukkhaṃ ye tvaṃ munī aṭṭhitaṃ ovadeyya, taṃ taṃ namassāmi samecca nāgaṃ appeva maṃ bhagavā aṭṭhitaṃ ovadeyya.
4-10. Và thưa bậc hiền trí, những người nào được ngài giáo huấn không ngừng nghỉ, những người ấy chắc chắn có thể dứt bỏ khổ đau. Vì thế, thưa bậc long tượng, sau khi gặp ngài, con xin kính lễ ngài. Mong sao đức Thế Tôn sẽ giáo huấn con không ngừng nghỉ.”
1058. Những vị ấy hãy đoạn,
Hãy từ bỏ đau khổ,
Những người ấy được Ngài
Thường thường dạy, giáo hóa.
Con xin đảnh lễ Ngài,
Hãy đến, bậc Long tượng,
Mong Thế Tôn thường hằng,
Giáo hóa dạy dỗ con.
4-11. Yaṃ brāhmaṇaṃ vedaguṃ ābhijaññā (mettagūti bhagavā) akiñcanaṃ kāmabhave asattaṃ addhā hi so oghamimaṃ atāri tiṇṇo ca pāraṃ akhilo akaṅkho.
4-11. (Đức Thế Tôn nói: “Này Mettagū,) vị Bà-la-môn nào mà ngươi có thể biết rõ là bậc đã đạt được sự hiểu biết, không còn vướng bận, không bị dính mắc ở dục và hữu, vị ấy đương nhiên đã vượt qua dòng lũ này, và đã vượt qua đến bờ kia, không còn cọc nhọn (ô nhiễm), không còn hoài nghi.
Thế Tôn:
1059. Vị Bà-la-môn nào,
Ðược thắng tri, có trí,
Không có sở hữu gì,
Không ái luyến dục hữu,
Chắc chắn vị như vậy,
Vượt qua bộc lưu này,
Ðã đến được bờ kia,
Không cứng cỏi không nghỉ.
4-12. Vidvā ca yo vedagū naro idha bhavābhave saṅgamimaṃ visajja so vītataṇho anīgho nirāso atāri so jātijaranti brūmī ”ti.
4-12. “Và người nào ở nơi này, có sự hiểu biết, là bậc đã đạt được sự hiểu biết, sau khi tháo gỡ sự bấu víu này ở hữu và phi hữu, người ấy có tham ái đã được xa lìa, không còn phiền muộn, không có mong cầu, Ta nói rằng, vị ấy đã vượt qua sanh và già.”
1060. Người ấy sau khi biết,
Thông suốt được Thánh điển,
Không dính ái triền này,
Về hữu và phi hữu,
Vị ấy ly tham ái,
Không phiền lụy không cầu,
Ta nói rằng vị ấy,
Ðã vượt khỏi sanh già.
Mettagūmāṇavapucchā niṭṭhitā.
Dứt Câu Hỏi Của Thanh Niên Mettagū.
5. DHOTAKAMĀṆAVAPUCCHĀ – CÂU HỎI CỦA THANH NIÊN DHOTAKA
(VI) Câu hỏi của thanh niên Dhotaka
5-1. Pucchāmi taṃ bhagavā brūhi metaṃ (iccāyasmā dhotako) vācābhikaṅkhāmi mahesi tuyhaṃ tava sutvāna nigghosaṃ sikkhe nibbānamattano.
5-1. (Tôn giả Dhotaka nói rằng:) “Thưa đức Thế Tôn, con hỏi ngài. Xin ngài hãy trả lời con về điều này. Thưa bậc đại ẩn sĩ, con mong mỏi lời nói của ngài. Sau khi lắng nghe lời tuyên bố của ngài, con có thể học tập về sự tịch diệt cho bản thân.”Dhotaka:
1061. Tôn giả Dhô-ta-ka:
Con xin hỏi Thế Tôn,
Mong Ngài trả lời cho,
Con chờ đợi lời Ngài,
Kính thưa bậc Ðại sĩ,
Nghe lời Ngài tuyên bố,
Chúng con sẽ tự mình,
Học tập giới Niết-bàn.
5-2. Tena h’ ātappaṃ karohi (dhotakāti bhagavā) idheva nipako sato ito sutvāna nigghosaṃ sikkhe nibbānamattano.
5-2. (Đức Thế Tôn nói: “Này Dhotaka,) chính vì điều ấy, ngươi hãy thực hiện sự năng nổ, ngay tại nơi này, hãy là người có sự chín chắn, có niệm. Sau khi lắng nghe lời tuyên bố từ nơi đây, nên học tập về sự tịch diệt cho bản thân.”Thế Tôn:
1062. Thế Tôn đáp lại rằng:
Hỡi này Dhô-ta-ka,
Ở đây Ông nhiệt tâm,
Sáng suốt và chánh niệm,
Từ đây, nghe tuyên bố,
Tự học tập Niết-bàn.
5-3. Passāmahaṃ deva manussaloke (iccāyasmā dhotako) akiñcanaṃ brāhmaṇamiriyamānaṃ taṃ taṃ namassāmi samantacakkhu pamuñca maṃ sakka kathaṃkathāhi.
5-3. (Tôn giả Dhotaka nói rằng:) “Con nhìn thấy ở thế giới của chư Thiên và loài người vị Bà-la-môn không còn vướng bận đang hành xử (bốn oai nghi). Vì thế, thưa bậc Toàn Nhãn, con xin kính lễ ngài. Thưa vị dòng Sakya, xin ngài hãy giải thoát cho con khỏi các mối nghi ngờ.”Dhotaka:
1063. Con thấy ở thế giới,
Chư Thiên và loài Người,
Sở hành của Phạm chí,
Không một gì sở hữu.
Con đảnh lễ chính Ngài,
Bậc có mắt cùng khắp,
Kính thưa bậc Thích tử,
Hãy giải thoát cho con,
Tất cả mọi nghi ngờ.
5-4. Nāhaṃ sahissāmi pamocanāya (dhotakāti bhagavā) kathaṃkathiṃ dhotaka kañci loke dhammaṃ ca seṭṭhaṃ ājānamāno evaṃ tuvaṃ oghamimaṃ taresi.
5-4. (Đức Thế Tôn nói: “Này Dhotaka,) Ta sẽ không có khả năng về việc giúp cho giải thoát bất cứ người nào ở thế gian có nỗi nghi hoặc, này Dhotaka. Nhưng trong khi biết rõ Giáo Pháp tối thượng, như vậy ngươi có thể vượt qua dòng lũ này.”Thế Tôn:
1064. Hỡi này Dhô-ta-ka,
Ta sẽ không đi đến,
Giải thoát cho một ai,
Có nghi ngờ ở đời,
Khi pháp được Ông biết,
Là tối thượng tối thắng,
Như vậy Ông vượt khỏi,
Dòng nước chảy mạnh này.
5-5. Anusāsa brahme karuṇāyamāno (iccāyasmā dhotako) vivekadhammaṃ yamahaṃ vijaññaṃ yathāhaṃ ākāso’va avyāpajjamāno idheva santo asito careyyaṃ.
5-5. (Tôn giả Dhotaka nói rằng:) “Thưa đấng Phạm Thiên, xin ngài hãy từ mẫn chỉ dạy pháp viễn ly để con có thể nhận thức được pháp ấy, theo đó, ví như hư không, không bị xáo trộn, con có thể sống ở chính nơi này, được an tịnh, không nương nhờ.”Dhotaka:
1065. Hãy giáo hóa, từ mẫn,
Ôi bậc đại Phạm thiên,
Ðể con được rõ biết,
Pháp viễn ly vô thượng,
Như vậy con sẽ sống,
Như trời không áp bức,
Sở hành ở đời này,
An tịnh và độc lập.
5-6. Kittayissāmi te santiṃ (dhotakāti bhagavā) diṭṭhe dhamme anītihaṃ yaṃ viditvā sato caraṃ tare loke visattikaṃ.
5-6. (Đức Thế Tôn nói: “Này Dhotaka,) Ta sẽ giải thích cho ngươi về sự an tịnh, về pháp đã được thấy, không phải do nghe nói lại; sau khi hiểu pháp ấy, vị có niệm, trong khi sống, có thể vượt qua sự vướng mắc ở thế gian.”Thế Tôn:
1066. Thế Tôn liền nói rằng:
Hỡi này Dho-ta-ka,
Ta sẽ giảng cho Ông,
Pháp tịch tịnh hiện tại;
Không do xưa truyền lại,
Sau khi biết pháp này,
Hãy sống, giữa chánh niệm
Vượt tham ái ở đời.
5-7. Taṃ cāhaṃ abhinandāmi (iccāyasmā dhotako) mahesi santimuttamaṃ yaṃ viditvā sato caraṃ tare loke visattikaṃ.
5-7. (Tôn giả Dhotaka nói rằng:) “Và con thích thú về điều ấy, thưa bậc đại ẩn sĩ, về sự an tịnh tối thượng; sau khi hiểu pháp ấy, vị có niệm, trong khi sống, có thể vượt qua sự vướng mắc ở thế gian.”
Dhotaka:
1067. Con cảm thấy hoan hỷ,
Pháp bậc Ðại sĩ giảng,
Pháp tịch tịnh vô thượng;
Sau khi biết pháp này,
Con sẽ sống chánh niệm,
Vượt tham ái ở đời.
5-8. Yaṃ kiñci sampajānāsi (dhotakāti bhagavā) uddhaṃ adho tiriyaṃ cāpi majjhe etaṃ viditvā saṅgo ’ti loke bhavābhavāya mākāsi taṇhan ”ti.
5-8. (Đức Thế Tôn nói: “Này Dhotaka,) bất cứ điều gì mà ngươi tự mình nhận biết, ở bên trên, bên dưới, luôn cả bề ngang và khoảng giữa, sau khi hiểu điều này là ‘sự quyến luyến’ ở thế gian, ngươi chớ tạo ra tham ái ở hữu và phi hữu.”Thế Tôn:
1068. Thế Tôn lời đáp lại:
Hỡi này Dho-ta-ka,
Phàm Ông rõ biết gì,
Cao, thấp, ngang, chặng giữa,
Sau khi được rõ biết,
Tham ái này ở đời,
Chớ tạo nên khát ái
Với hữu và phi hữu.
Dhotakamāṇavapucchā niṭṭhitā.
Dứt Câu Hỏi Của Thanh Niên Dhotaka.
PĀRĀYANAVAGGO – PHẨM ĐI ĐẾN BỜ KIA (tiếp theo)
6. UPASĪVAMĀṆAVAPUCCHĀ – CÂU HỎI CỦA THANH NIÊN UPASĪVA
(VII) Câu hỏi của thanh niên Upasiva
6-1. Eko ahaṃ sakka mahantamoghaṃ (iccāyasmā upasīvo) anissito no visahāmi tarituṃ ārammaṇaṃ brūhi samantacakkhu yaṃ nissito oghamimaṃ tareyyaṃ.
6-1. (Tôn giả Upasīva nói rằng:) “Thưa vị dòng Sakya, một mình con, không nương tựa (nơi nào), con không có khả năng vượt qua dòng lũ lớn. Thưa bậc Toàn Nhãn, xin ngài hãy nói về đối tượng, được nương tựa vào nơi ấy, con có thể vượt qua dòng lũ này.”Upasiva:
1069. Tôn giả U-pa-si-va:
Kính thưa bậc Thích tử,
Một mình, không y chỉ,
Con không thể vượt khỏi,
Dòng nước lớn mạnh này,
Kính thưa bậc Biến nhãn,
Hãy nói cho sở duyên,
Y chỉ sở duyên này,
Có thể vượt qua khỏi,
Dòng nước chảy mạnh này.
6-2. Ākiñcaññaṃ pekkhamāno satīmā (upasīvāti bhagavā) natthīti nissāya tarassu oghaṃ kāme pahāya virato kathāhi taṇhakkhayaṃ nattamahābhipassa.
6-2. (Đức Thế Tôn nói: “Này Upasīva,) trong khi xem xét về Vô Sở Hữu Xứ, có niệm, nương tựa vào (ý niệm) ‘không có gì,’ ngươi hãy vượt qua dòng lũ. Sau khi dứt bỏ các dục, đã xa lánh hẳn các điều nghi hoặc, ngươi hãy quán sát sự cạn kiệt của tham ái, đêm và ngày.”Thế Tôn:
1070. Ðây lời dạy Thế Tôn:
Này U-pa-si-va,
Biết gìn giữ chánh niệm,
Không mong đợi vật gì,
Ông sẽ vượt bộc lưu,
Nương tựa: “không có gì “,
Ngày đêm ngươi nhận thấy,
Ðoạn dục, ly nghi ngờ,
Ái diệt là Niết-bàn.
6-3. Sabbesu kāmesu yo vītarāgo (iccāyasmā upasīvo) ākiñcaññaṃ nissito hitva aññaṃ saññāvimokkhe paramedhimutto tiṭṭhe nu so tattha anānuyāyi.
6-3. (Tôn giả Upasīva nói rằng:): “Vị nào đã xa lìa sự luyến ái ở tất cả các dục, đã nương tựa vào Vô Sở Hữu Xứ sau khi từ bỏ pháp (chứng đắc) khác,[1] đã thiên về sự giải-thoát-do-tưởng cao nhất, phải chăng vị ấy có thể trụ lại ở nơi ấy, không đi tiếp nữa?”
[1] Pháp (chứng đắc) khác: nói đến sáu loại chứng đắc thấp hơn (SnA. ii, 593-594), tức là sự chứng đắc bốn tầng thiền Sắc Giới và hai tầng thiền Không Vô Biên Xứ và Thức Vô Biên Xứ thuộc Vô Sắc Giới (ND).
Upasiva:
1071. U-pa-si-va nói:
Ai là người ly tham,
Ðối với tất cả dục,
Y chỉ không có gì,
Từ bỏ mọi gì khác,
Ðược giải thoát hoàn toàn,
Tưởng giải thoát tối thượng,
Tại đấy vị ấy trú,
Không tiếp tục đi tới.
6-4. Sabbesu kāmesu yo vītarāgo (upasīvāti bhagavā) ākiñcaññaṃ nissito hitvamaññaṃ saññāvimokkhe paramedhimutto tiṭṭheyya so tattha anānuyāyī.
6-4. (Đức Thế Tôn nói: “Này Upasīva,) vị nào đã xa lìa sự luyến ái ở tất cả các dục, đã nương tựa vào Vô Sở Hữu Xứ sau khi từ bỏ pháp (chứng đắc) khác, đã thiên về sự giải-thoát-do-tưởng cao nhất, vị ấy có thể trụ lại ở nơi ấy, không đi tiếp nữa.”Thế Tôn:
1072. Thế Tôn nói như sau:
Này U-pa-si-va,
Ai hoàn toàn ly tham,
Ðối với tất cả dục,
Y chỉ không có gì,
Từ bỏ mọi gì khác,
Ðược giải thoát hoàn toàn,
Tương giải thoát tối thượng,
Tại đấy, vị ấy trú,
Không tiếp tục đi tới.
6-5. Tiṭṭhe ce so tattha anānuyāyī (iccāyasmā upasīvo) yugampi vassānaṃ samantacakkhu tattheva so sītī siyā vimutto cavetha viññāṇaṃ tathāvidhassa.
6-5. (Tôn giả Upasīva nói rằng:) “Nếu vị ấy trụ lại ở nơi ấy, không đi tiếp nữa, thậm chí một số năm, thưa bậc Toàn Nhãn, ngay tại chỗ ấy, vị ấy có thể có sự mát mẻ, được giải thoát, có phải thức của vị thuộc hạng như thế ấy có thể diệt tắt?”
Upasiva:
1073. Nếu vị ấy tại đấy,
An trú không đi tiếp,
Trong một số nhiều năm,
Ôi bậc có biến nhãn!
Nếu vị ấy tại đấy,
Ðược mát lạnh giải thoát,
Với vị được như vậy,
Còn có thức hay không?
6-6. Acci yathā vātavegena khittā (upasīvāti bhagavā) atthaṃ paleti na upeti saṅkhaṃ evaṃ munī nāmakāyā vimutto atthaṃ paleti na upeti saṅkhaṃ.
6-6. (Đức Thế Tôn nói: “Này Upasīva,) giống như ngọn lửa đã bị dập tắt bởi lực đẩy của làn gió, thời đi đến sự chấm dứt, không đạt đến danh xưng; tương tự như vậy, vị hiền trí đã được giải thoát khỏi danh thân (tập hợp các yếu tố thuộc về tâm) thời đi đến sự chấm dứt, không đạt đến danh xưng.Thế Tôn:
1074. Ðây lời Thế Tôn nói:
Hỡi U-pa-si-va!
Cũng giống như ngọn lửa,
Bị sức gió mạnh thổi,
Ði đến chỗ tận cùng,
Không có thể ước lượng,
Cũng vậy, vị ẩn sĩ,
Ðược giải thoát danh thân,
Ði đến chỗ tận cùng,
Không có thể ước lượng.
6-7. Atthaṃ gato so udavā so natthi (iccāyasmā upasīvo) udāhu ve sassatiyā arogo taṃ me munī sādhu viyākarohi tathā hi te vidito esa dhammo.
6-7. (Tôn giả Upasīva nói rằng:) “Có phải vị ấy đi đến sự chấm dứt hay vị ấy không có (hiện hữu), hay là vị ấy thật sự ở vào trạng thái trường tồn, vô bệnh? Thưa bậc hiền trí, xin ngài hãy giải thích tường tận điều ấy cho con, bởi vì pháp này đã được ngài biết đúng theo bản thể.”Upasiva:
1075. Vị đi đến tận cùng,
Có phải không hiện hữu,
Hai vị ấy thường hằng,
Ðạt được sự không bệnh,
Lành thay, bậc ẩn sĩ,
Hãy trả lời cho con,
Có vậy, con hiểu được,
Pháp như thật Ngài giảng.
6-8. Atthaṃ gatassa na pamāṇamatthi (upasīvāti bhagavā) yena naṃ vajju taṃ tassa natthi sabbesu dhammesu samūhatesu samūhatā vādapathāpi sabbe ”ti.
6-8. (Đức Thế Tôn nói: “Này Upasīva,) đối với vị đã đi đến sự chấm dứt, thì không có sự ước lượng. Với điều nào người ta có thể nói về vị ấy, thì điều ấy không còn có đối với vị ấy. Khi tất cả các pháp đã được bứng lên hoàn toàn, ngay cả đường lối của lời nói cũng được bứng lên hoàn toàn.”Thế Tôn:
1076. Thế Tôn nói như sau:
Hỡi U-pa-si-va,
Người đi đến tận cùng,
Không thể còn ước lượng,
Với gì, nói đến nó,
Không còn có cái ấy,
Khi tất cả các pháp,
Ðã được nhổ hẳn lên,
Mọi con đường nói phô,
Ðược nhổ lên sạch hết.
7. NANDAMĀṆAVAPUCCHĀ – CÂU HỎI CỦA THANH NIÊN NANDA
(VIII) Các câu hỏi của thanh niên Nanda
7-1. Santi loke munayo (iccāyasmā nando) janā vadanti tayidaṃ kathaṃsu ñāṇūpapannaṃ no muniṃ vadanti udāhu ve jīvitenūpapannaṃ.
(Tôn giả Nanda nói rằng:) “‘Các bậc hiền trí hiện hữu ở thế gian,’ dân chúng nói như thế; theo ngài, điều này (có ý nghĩa) thế nào? Họ nói người đã thành tựu về trí là bậc hiền trí, hay là người đã thực sự thành tựu về lối sống?”Nanda:
1077. Tôn giả Nan-da nói:
Quần chúng có nói rằng:
Có ẩn sĩ ở đời,
Ngài nghĩ như thế nào?
Chúng gọi là ẩn sĩ
Vị có đầy đủ trí?
Hay vị đầy đủ mạng?
7-2. Na diṭṭhiyā na sutiyā na ñāṇena (nandāti bhagavā) munīdha nanda kusalā vadanti visenikatvā anīghā nirāsā caranti ye te munayo ’ti brūmi.
7-2. (Đức Thế Tôn nói: “Này Nanda,) không phải do thấy, không phải do nghe, không phải do trí, mà các bậc thiện xảo ở nơi đây gọi là bậc hiền trí. Những người nào sau khi tiêu diệt đạo binh (ô nhiễm), sống không phiền muộn, không mong cầu, Ta nói rằng những người ấy là các bậc hiền trí.”Thế Tôn:
1078. Các bậc thiện nói rằng:
Ở đời này Nan-da,
Không phải vì tri kiến,
Vì truyền thống, vì trí
Ðược gọi là ẩn sĩ,
Ta chỉ gọi ẩn sĩ,
Những ai diệt quân lực,
Không phiền não, không cầu.
7-3. Ye kecime samaṇabrāhmaṇā se (iccāyasmā nando) diṭṭhe sutenāpi vadanti suddhiṃ sīlabbatenāpi vadanti suddhiṃ anekarūpena vadanti suddhiṃ kacci su te bhagavā tattha yathā carantā atāru jātiṃ ca jaraṃ ca mārisa pucchāmi taṃ bhagavā brūhi metaṃ.
7-3. (Tôn giả Nanda nói rằng:) “Bất cứ những Sa-môn và Bà-la-môn nào nói rằng sự trong sạch là do thấy và do nghe, nói rằng sự trong sạch là do giới và phận sự, nói rằng sự trong sạch là do nhiều hình thức, có phải những vị ấy, thưa đức Thế Tôn, trong khi sống kiềm chế ở nơi ấy, họ đã vượt qua sanh và già, thưa ngài? Con hỏi ngài, thưa đức Thế Tôn, xin ngài hãy trả lời con về điều này.”
Nanda:
1079. Tôn giả Nan-đa thưa:
Có Sa-môn, Phạm chí,
Nói rằng sự thanh tịnh
Là nhờ thấy, nhờ nghe;
Có người lại nói rằng:
Thanh tịnh do giới cấm;
Có người lại nói rằng:
Thanh tịnh do nhiều pháp.
Bạch Thế Tôn, như vậy,
Là sở hành của chúng,
Vậy Ngài nghĩ thế nào,
Chúng có thể vượt qua,
Sanh và già thưa Ngài,
Con kính hỏi Thế Tôn,
Mong Ngài trả lời con.
7-4. Ye kecime samaṇabrāhmaṇā se (nandāti bhagavā) diṭṭhe sutenāpi vadanti suddhiṃ sīlabbatenāpi vadanti suddhiṃ anekarūpena vadanti suddhiṃ kiñcāpi te tattha yathā caranti nātariṃsu jātijaranti brūmi.
7-4. (Đức Thế Tôn nói: “Này Nanda,) bất cứ những vị Sa-môn và Bà-la-môn nào nói rằng sự trong sạch là do thấy và do nghe, nói rằng sự trong sạch là do giới và phận sự, nói rằng sự trong sạch là do nhiều hình thức, mặc dầu những vị ấy, trong khi sống kiềm chế ở nơi ấy, Ta nói rằng: ‘Họ đã không vượt qua sanh và già.’” Thế Tôn:
1080. Thế Tôn nói: Nan-đa!
Sa-môn, Phạm chí này,
Nói rằng sự thanh tịnh
Là nhờ thấy, nhờ nghe;
Có người lại nói rằng:
Thanh tịnh do giới cấm;
Có người lại nói rằng:
Thanh tịnh do nhiều pháp.
Dầu chúng ở tại đây,
Với sở hành như vậy,
Ta nói chúng không vượt,
Khỏi sanh và khỏi già.
7-5. Ye kecime samaṇabrāhmaṇā se (iccāyasmā nando) diṭṭhe sutenāpi vadanti suddhiṃ sīlabbatenāpi vadanti suddhiṃ anekarūpena vadanti suddhiṃ.
7-5. (Tôn giả Nanda nói rằng:) “Bất cứ những vị Sa-môn và Bà-la-môn nào nói rằng sự trong sạch là do thấy và do nghe, nói rằng sự trong sạch là do giới và phận sự, nói rằng sự trong sạch là do nhiều hình thức.Nan-da:
1081. Tôn giả Nan-đa thưa:
Sa-môn, Phạm chí này,
Nói rằng sự thanh tịnh
Là nhờ thấy, nhờ nghe;
Có người lại nói rằng:
Thanh tịnh do giới cấm;
Có người lại nói rằng:
Thanh tịnh do nhiều pháp.
7-6. Te ce munī brūhi anoghatiṇṇe atha ko carahi devamanussaloke atāri jātiñca jarañca mārisa pucchāmi taṃ bhagavā brūhi metaṃ.
7-6. Thưa bậc hiền trí, nếu ngài nói những vị ấy là không vượt qua dòng lũ, vậy giờ đây, thưa ngài, người nào ở thế giới chư Thiên và nhân loại đã vượt qua sanh và già? Con hỏi ngài, thưa đức Thế Tôn, xin ngài hãy trả lời con về điều này.”
Thưa ẩn sĩ, Ngài nói:
Chúng không vượt bộc lưu,
Vậy ai có thể được,
Giữa thế giới Trời, Người,
Có thể vượt qua được,
Sanh và già, thưa Ngài,
Con xin hỏi Thế Tôn
Mong Ngài trả lời con.
7-7. Nāhaṃ sabbe samaṇabrāhmaṇā se (nandāti bhagavā) jātijarāya nivutā ’ti brūmi ye sūdha diṭṭhaṃ va sutaṃ mutaṃ vā sīlabbataṃ vāpi pahāya sabbaṃ anekarūpampi pahāya sabbaṃ taṇhaṃ pariññāya anāsavā se te ve narā oghatiṇṇā ’ti brūmi.
7-7. (Đức Thế Tôn nói: “Này Nanda,) Ta không nói rằng tất cả các vị Sa-môn và Bà-la-môn đều bị bao trùm bởi sanh và già. Ở đây, những vị nào đã dứt bỏ điều đã được thấy, hoặc đã được nghe, hoặc đã được cảm giác, hoặc thậm chí tất cả giới và phận sự, hoặc đã dứt bỏ mọi hình thức nhiều loại, đã biết toàn diện về tham ái, không còn lậu hoặc, Ta nói rằng ‘những con người ấy thật sự đã vượt qua dòng lũ.’”Thế Tôn:
1082. Thế Tôn nói: Nan-đa
Ta không nói tất cả,
Sa-môn, Bà-la-môn
Bị sanh già che lấp.
Những ai ở đời này,
Ðoạn tận khắp tất cả,
Ðiều được nghe được thấy,
Ðược cảm tưởng, giới cấm,
Và đoạn nhiều pháp khác,
Liễu tri ái, vô lậu,
Ta nói những người ấy,
Vượt qua được bộc lưu.
7-8. Etābhinandāmi vaco mahesino (iccāyasmā nando) sukittitaṃ gotamanūpadhīkaṃ ye sūdha diṭṭhaṃ va sutaṃ mutaṃ vā sīlabbataṃ vāpi pahāya sabbaṃ anekarūpampi pahāya sabbaṃ taṇhaṃ pariññāya anāsavā se ahampi te oghatiṇṇā ’ti brūmī ”ti.
7-8. (Tôn giả Nanda nói rằng:) “Thưa ngài Gotama, con thích thú lời nói này của bậc đại ẩn sĩ, đã khéo được trình bày, không liên quan đến mầm tái sanh. Ở đây, những vị nào đã dứt bỏ điều đã được thấy, hoặc đã được nghe, hoặc đã được cảm giác, hoặc thậm chí tất cả giới và phận sự, hoặc đã dứt bỏ mọi hình thức nhiều loại, đã biết toàn diện về tham ái, không còn lậu hoặc, con cũng nói rằng ‘những vị ấy đã vượt qua dòng lũ.’”Nanda:
1083. Con cảm thấy hoan hỷ,
Lời Ðại sĩ Cù-đàm,
Ðược Ngài khéo thuyết giảng,
Về chấm dứt sanh y,
Những ai ở đời này,
Ðoạn tận khắp tất cả,
Ðiều được nghe, được thấy,
Ðược cảm tưởng, giới cấm,
Và đoạn nhiều pháp khác,
Liễu tri ái, vô lậu,
Ta nói những người ấy,
Vượt qua khỏi bộc lưu.
Nandamāṇavapucchā niṭṭhitā.
Dứt Câu Hỏi Của Thanh Niên Nanda.
8. HEMAKAMĀṆAVAPUCCHĀ – CÂU HỎI CỦA THANH NIÊN HEMAKA
(IX) Các câu hỏi của thanh niên Hemaka
8-1. Ye me pubbe vyākaṃsu (iccāyasmā hemako) huraṃ gotamasāsanā iccāsi iti bhavissati sabbaṃ taṃ itihītihaṃ sabbaṃ taṃ takkavaḍḍhanaṃ nāhaṃ tattha abhiramiṃ.
8-1. (Tôn giả Hemaka nói rằng:) “Những người nào trước đây đã giải thích cho con khác với lời dạy của Gotama (nói rằng): ‘Đã là như vầy, sẽ là như vầy,’ mọi điều ấy đều do nghe nói lại theo truyền thống, mọi điều ấy đều là sự tăng trưởng suy nghĩ, con không thích thú về điều ấy.
Hemaka:
1084. Tôn giả He-ma-ka:
Những ai trong thời trước,
Ðã trả lời cho con,
Về lời dạy Cù-đàm,
Trước đã như thế nào,
Sau sẽ là như vậy,
Tất cả đều truyền thống,
Tất cả tăng suy tư.1085. Ðây, con không hoan hỷ,
8-2. Tvaṃ ca me dhammamakkhāhi taṇhānigghātanaṃ muni yaṃ viditvā sato caraṃ tare loke visattikaṃ.
8-2. Và xin ngài hãy nói ra cho con về pháp diệt trừ tham ái, thưa bậc hiền trí; sau khi hiểu pháp ấy, con có niệm, trong khi sống, có thể vượt qua sự vướng mắc ở thế gian.
”Ngài nói Pháp cho con,
Ôi mong bậc ẩn sĩ,
Nói Pháp đoạn khát ái,
Biết xong, sống chánh niệm,
Vượt ái trước ở đời.
8-3. Idha diṭṭhasutamuta – viññātesu piyarūpesu hemaka chandarāgavinodanaṃ nibbānapadamaccutaṃ.
8-3. “Ở đây, sự xua đi mong muốn và luyến ái ở các vật có vẻ đáng yêu đã được thấy, đã được nghe, đã được cảm giác, đã được nhận thức, này Hemaka, là vị thế Niết Bàn, Bất Hoại.
Thế Tôn:
1086. He-ma-ka ở đây,
Ðối các Pháp khả ái,
Ðược nghe và được thấy,
Ðược cảm tưởng, nhận thức,
Tẩy sạch ước muốn tham,
Là Niết-bàn, bất tử.
8-4. Etadaññāya ye satā diṭṭhadhammābhinibbutā upasantā ca te sadā tiṇṇā loke visattikan ”ti.
8-4. Sau khi hiểu thông điều này, những người nào có niệm, đã nhận thức được Giáo Pháp, đã được diệt tắt, và những người ấy luôn luôn yên tịnh, họ đã vượt qua sự vướng mắc ở thế gian.”
1087. Biết vậy, giữ chánh niệm,
Hiện tại, đạt mát lạnh,
Vị ấy thường an tịnh,
Vượt chấp trước ở đời.
Hemakamāṇavapucchā niṭṭhitā.
Dứt Câu Hỏi Của Thanh Niên Hemaka.
9. TODEYYAMĀṆAVAPUCCHĀ – CÂU HỎI CỦA THANH NIÊN TODEYYA
(X) Câu hỏi của thanh niên Todeyya
9-1. Yasmiṃ kāmā na vasanti (iccāyasmā todeyyo) taṇhā yassa na vijjati kathaṃkathā ca yo tiṇṇo vimokkho tassa kīdiso.
9-1. (Tôn giả Todeyya nói rằng:) “Ở người nào các dục không sinh tồn, đối với người nào tham ái không tìm thấy, và người nào đã vượt qua các nỗi nghi hoặc, sự giải thoát của người ấy là như thế nào?”
Todeyya:
1088. Tôn giả Tô-đê-ya:
Ai sống không dục vọng,
Ai sống không có ái,
Ai vượt khỏi nghi hoặc,
Giải thoát của vị ấy,
Giải thoát như thế nào?
9-2. Yasmiṃ kāmā na vasanti (todeyyāti bhagavā) taṇhā yassa na vijjati kathaṃkathā ca yo tiṇṇo vimokkho tassa nāparo.
9-2. (Đức Thế Tôn nói: “Này Todeyya,) ở người nào các dục không sinh tồn, đối với người nào tham ái không tìm thấy, và người nào đã vượt qua các nỗi nghi hoặc, đối với người ấy không có sự giải thoát nào khác nữa.”Thế Tôn:
1089. Ðây lời nói Thế Tôn:
Hỡi nãy Tô-đê-ya,
Ai sống không dục vọng,
Ai sống không có ái,
Ai vượt khỏi nghi hoặc
Giải thoát của vị ấy
Không có gì là khác.
9-3. Nirāsaso so uda āsasāno (iccāyasmā todeyyo) paññāṇavā so uda paññakappī muniṃ ahaṃ sakka yathā vijaññaṃ taṃ me viyācikkha samantacakkhu.
9-3. “Vị ấy không còn mong ước, hay là (vị ấy) đang mong ước? Vị ấy có tuệ hay là có sự sắp đặt nhờ vào tuệ? Thưa vị dòng Sakya, để cho con có thể nhận biết về vị hiền trí, thưa bậc Toàn Nhãn, xin ngài hãy nói rõ điều ấy cho con.”
Todeyya:
1090. Vị sống không ước vọng
Hay sống có ước vọng,
Vị ấy có trí tuệ,
Hay tác thành trí tuệ,
Ôi kính bậc Biến nhãn,
Hãy trả lời con rõ,
Ðể con có thể biết,
Thế nào là ẩn sĩ,
Ôi kính bậc Thích tử.
9-4. Nirāsaso so na so āsasāno paññāṇavā so na ca paññakappī evampi todeyya muniṃ vijāna akiñcanaṃ kāmabhave asattan ”ti.
9-4. “Vị ấy không còn mong ước, vị ấy không mong ước. Vị ấy có tuệ và không có sự sắp đặt nhờ vào tuệ. Này Todeyya, ngươi hãy nhận biết về vị hiền trí là như vậy, là vị không còn vướng bận, không bị dính mắc ở dục và hữu.”
Thế Tôn:
1091. Vị sống không ước vọng,
Không có ước vọng nào,
Vị ấy có trí tuệ,
Không tác thành trí tuệ,
Như vậy, Tô-đê-ya,
Hãy biết bậc ẩn sĩ,
Không có sở hữu gì,
Không tham dính dục hữu.
Todeyyamāṇavapucchā niṭṭhitā.
Dứt Câu Hỏi Của Thanh Niên Todeyya.
10. KAPPAMĀṆAVAPUCCHĀ – CÂU HỎI CỦA THANH NIÊN KAPPA
(XI) Câu hỏi của thanh niên Kappa
10-1. Majjhe sarasmiṃ tiṭṭhataṃ (iccāyasmā kappo) oghe jāte mahabbhaye jarāmaccuparetānaṃ dīpaṃ pabrūhi mārisa tvaṃ ca me dīpamakkhāhi yathayidaṃ nāparaṃ siyā.
10-1. (Tôn giả Kappa nói rằng:) “Thưa ngài, xin ngài hãy nói về hòn đảo cho những người đang bị chế ngự bởi sanh và tử, cho những người đang đứng giữa hồ nước, ở dòng lũ có sự nguy hiểm lớn đã được sanh ra. Và xin ngài hãy nói ra cho con về hòn đảo để cho cái (khổ) khác giống như cái (khổ) này không thể xảy ra.”Kappa:
1092. Tôn giả Káp-pa nói:
Những ai đứng giữa nước,
Trong dòng nước mạnh chảy,
Giữa sợ hãi lớn lao,
Thưa Ngài hãy nói lên,
Hòn đảo cho những kẻ,
Bị già chết chinh phục,
Ngài nói con hòn đảo,
Ðể không có khổ khác,
Giống như đau khổ này(Kinh Tập, chương V)
10-2. Majjhe sarasmiṃ tiṭṭhitaṃ (kappāti bhagavā) oghe jāte mahabbhaye jarāmaccuparetānaṃ dīpaṃ pabrūmi kappa te.
10-2. (Đức Thế Tôn nói: “Này Kappa,) Ta sẽ nói với ngươi về hòn đảo cho những người đang bị chế ngự bởi sanh và tử, cho những người đang đứng giữa hồ nước, ở dòng lũ có sự nguy hiểm lớn đã được sanh ra, này Kappa.Thế Tôn:
1093. Thế Tôn nói Kap-pa,
Những ai đứng giữa nước,
Trong dòng nước mạnh chảy,
Giữa sợ hãi lớn lao,
Ta nói Ông hòn đảo,
Cho những ai đang bị,
Già và chết chinh phục.
10-3. Akiñcanaṃ anādānaṃ etaṃ dīpaṃ anāparaṃ nibbānaṃ iti naṃ brūmi jarāmaccuparikkhayaṃ.
10-3. Hòn đảo này là không vướng bận, không nắm giữ, không có cái nào khác, Ta gọi cái ấy là ‘Niết Bàn,’ sự đoạn diệt hoàn toàn sanh và tử.
1094. Hòn đảo vô song này,
Không sở hữu, chấp trước,
Ta nói Ông Niết-bàn,
Già chết được đoạn diệt,
10-4. Etadaññāya ye satā diṭṭhadhammābhinibbutā na te māravasānugā na te mārassa paddhagū ”ti.
10-4. Sau khi hiểu thông điều này, những người nào có niệm, đã nhận thức được Giáo Pháp, đã được diệt tắt, những người ấy không đi theo quyền lực của Ma Vương, những người ấy không là nô bộc của Ma Vương.”
1095. Biết vậy, giữ chánh niệm,
Hiện tại đạt mát lạnh,
Không rơi vào ma lực,
Không tùy tùng theo ma.
Kappamāṇavapucchā niṭṭhitā.
Dứt Câu Hỏi Của Thanh Niên Kappa.
11. JATUKAṆṆĪMĀṆAVAPUCCHĀ – CÂU HỎI CỦA THANH NIÊN JATUKAṆṆĪ
(XII) Câu hỏi của thanh niên Jatukanni
11-1. Sutvānahaṃ vīramakāmakāmiṃ (iccāyasmā jātukaṇṇī ) oghātigaṃ puṭṭhumakāmamāgamaṃ santipadaṃ brūhi sahajanetta yathātacchaṃ bhagavā brūhi metaṃ.
11-1. (Tôn giả Jatukaṇṇī nói rằng:) “Thưa bậc anh hùng, sau khi con nghe về vị không có ham muốn các dục, con đã đi đến để hỏi vị đã vượt qua dòng lũ, không có ham muốn. Thưa bậc có nhãn quan (trí Toàn Giác) đã được đồng sanh, xin ngài hãy nói về vị thế an tịnh. Thưa đức Thế Tôn, xin ngài hãy nói cho con về điều này đúng theo sự thật.Jatukanni:
1096. Ja-tu-kan-ni nói:
Ðược nghe bậc anh hùng,
Không tham đắm dục vọng,
Nên con đã đến đây,
Ðể hỏi bậc vô dục,
Ðã thoát khỏi bộc lưu,
Bậc sanh với con mắt,
Hãy nói đường an tịnh,
Thế Tôn hãy như thật,
Nói cho con được biết.
11-2. Bhagavā hi kāme abhibhuyya irīyati ādiccova paṭhaviṃ tejī tejasā parittapaññassa me bhūripañña ācikkha dhammaṃ yamahaṃ vijaññaṃ jātijarāya idha vippahānaṃ.
11-2. Bởi vì sau khi đã chế ngự các dục, đức Thế Tôn hành xử (các oai nghi) ví như thái dương có sức nóng (chế ngự) trái đất bằng sức nóng. Thưa bậc có tuệ bao la, đối với con là người có tuệ nhỏ nhoi, xin ngài hãy chỉ bảo về Giáo Pháp để con có thể nhận thức sự lìa bỏ đối với sanh và già ở nơi đây.”
1097. Chinh phục dục vọng xong,
Thế Tôn sống ở đời,
Như mặt trời chiếu sáng,
Cõi đất với hào quang,
Bậc trí tuệ rộng lớn,
Hãy nói pháp cho con,
Kẻ trí tuệ bé nhỏ,
Do rõ biết pháp này,
Ở đây, con đoạn được,
Kể cả sanh và già.
11-3. Kāmesu vinaya gedhaṃ (jatukaṇṇīti bhagavā) nekkhammaṃ daṭṭhu khemato uggahitaṃ niratthaṃ vā mā te vijjittha kiñcanaṃ.
11-3. (Đức Thế Tôn nói: “Này Jatukaṇṇī,) ngươi hãy dẹp bỏ sự thèm khát ở các dục để nhìn thấy sự xuất ly là an toàn. Dầu đã được nắm bắt hay đã được vứt bỏ, sự vướng bận chớ có hiện diện đối với ngươi.Thế Tôn:
1098. Thế Tôn nói như sau:
Hỡi Ja-tu-kan-ni!
Hãy nhiếp phục lòng tham,
Ðối với các dục vọng;
Hãy nhìn hạnh xuất ly,
Ðưa đến sự an ổn;
Chớ chấp chờ, từ bỏ,
Sự vật gì ở đời.
11-4. Yaṃ pubbe taṃ visosehi pacchā te māhu kiñcanaṃ majjhe ce no gahessasi upasanto carissasi.
11-4. Điều (ô nhiễm) nào trước đây (quá khứ), ngươi hãy làm khô héo điều ấy. Chớ có bất cứ điều (ô nhiễm) gì sanh khởi đến ngươi sau này (vị lai). Nếu ngươi sẽ không nắm lấy (điều gì) ở khoảng giữa (hiện tại), ngươi sẽ sống, được an tịnh.
1099. Những gì có trước Ông,
Hãy làm nó khô cạn,
Ðừng có sự vật gì,
Ở phía đàng sau Ông,
Ở giữa, Ông không chấp,
Ông sẽ sống an tịnh.
11-5. Sabbaso nāmarūpasmiṃ vītagedhassa brāhmaṇa āsavāssa na vijjanti yehi maccuvasaṃ vaje ”ti.
11-5. Này Bà-la-môn, đối với vị đã xa lìa sự thèm khát ở danh và sắc về mọi phương diện, đối với vị này các lậu hoặc không hiện hữu, bởi vì chúng, con người rơi vào sự thống trị của Tử thần.”
1100. Hỡi này Bà-la-môn!
Ðối với danh và sắc,
Hoàn toàn không tham đắm,
Không có các lậu hoặc,
Chính do lậu hoặc này,
Bị thần chết chi phối.
Jatukaṇṇīmāṇavapucchā niṭṭhitā.
Dứt Câu Hỏi Của Thanh Niên Jatukaṇṇī.
12. BHADRĀVUDHAMĀṆAVAPUCCHĀ – CÂU HỎI CỦA THANH NIÊN BHADRĀVUDHA
(XIII) Câu hỏi của thanh niên Bhadràvudha
12-1. Okaṃ jahaṃ taṇhacchidaṃ anejaṃ (iccāyasmā bhadrāvudho) nandiṃ jahaṃ oghatiṇṇaṃ vimuttaṃ
kappaṃ jahaṃ abhiyāce sumedhaṃ sutvāna nāgassa apanamissanti ito.
12-1. (Tôn giả Bhadrāvudha nói rằng:) “Con khẩn cầu bậc khôn ngoan, bậc từ bỏ chỗ trú ngụ, bậc cắt đứt tham ái, bậc không còn dục vọng, bậc từ bỏ niềm vui, bậc đã vượt qua dòng lũ, bậc đã được giải thoát, bậc từ bỏ sự sắp đặt (do tham ái và tà kiến). Sau khi lắng nghe bậc Long Tượng, từ đây họ sẽ ra đi. Bhadràvudha:
1101. Bha-đra-vu-đa nói:
Con có lời yêu cầu,
Bậc Thiện Tuệ nói lên,
Bậc bỏ nhà, đoạn ái,
Bất động, bỏ hỷ ái,
Giải thoát, vượt bộc lưu,
Thời gian, không chi phối,
Nghe xong, bậc Long tượng,
Từ đây, họ ra đi.
12-2. Nānā janā janapadehi saṅgatā tava vīra vākyaṃ abhikaṅkhamānā tesaṃ tuvaṃ sādhu viyākarohi tathā hi te vidito esa dhammo.
12-2. Trong khi mong mỏi lời nói của Ngài, thưa bậc anh hùng, vô số người từ các xứ sở đã tụ hội lại. Xin Ngài hãy khéo léo giải thích cho họ, bởi vì pháp này đã được Ngài biết đúng theo bản thể.”
1102. Quần chúng sai biệt ấy,
Từ quốc độ tụ họp,
Họ ao ước khát vọng,
Ðược nghe lời của Ngài,
Ôi anh hùng chiến thắng,
Ngài hãy khéo trả lời,
Pháp Ngài dạy thế này,
Như vậy họ hiểu biết.
12-3. Ādānataṇhaṃ vinayetha sabbaṃ (bhadrāvudhāti bhagavā) uddhaṃ adho tiriyaṃ cāpi majjhe yaṃ yaṃ hi lokasmiṃ upādiyanti teneva māro anveti jantuṃ.
12-3. (Đức Thế Tôn nói: “Này Bhadrāvudha,) nên dẹp bỏ mọi sự nắm giữ và tham ái ở bên trên, bên dưới, luôn cả bề ngang và khoảng giữa. Bởi vì, mỗi một điều gì họ chấp thủ ở thế gian, do chính điều ấy Ma Vương theo đuổi loài người. Thế Tôn:
1103. Thế Tôn nói như sau:
Này Bha-đra-vu-đa!
Hãy nhiếp phục tất cả,
Mọi tham ái chấp thủ,
Trên, dưới cả bề ngang,
Và kể luôn chặng giữa,
Những ai có chấp thủ,
Sự gì ở trong đời,
Chính do sự việc ấy,
Ác ma theo người ấy.
12-4. Tasmā pajānaṃ na upādiyetha bhikkhu sato kiñcanaṃ sabbaloke ādānasatte iti pekkhamāno pajaṃ imaṃ maccudheyye visattan ”ti.
12-4. Bởi vậy, trong khi nhận biết, vị tỳ khưu, có niệm, không nên chấp thủ bất cứ điều gì ở khắp thế gian, trong khi xem xét chúng sanh bị dính mắc ở sự nắm giữ, nhân loại này bị vướng mắc ở lãnh địa của Thần Chết.”
1104. Do vậy, bậc hiểu biết,
Không có chấp thủ gì,
Tỷ-kheo giữ chánh niệm,
Trong tất cả thế giới,
Phàm có sở hữu gì,
Vị ấy không mong ước,
Nhìn xem quần chúng này,
Là chúng sanh chấp thủ,
Trong lãnh vực của Ma,
Bị tham dính chấp trước.
Bhadrāvudhamāṇavapucchā niṭṭhitā.
Dứt Câu Hỏi Của Thanh Niên Bhadrāvudha.
13. UDAYAMĀṆAVAPUCCHĀ – CÂU HỎI CỦA THANH NIÊN UDAYA
(XIV) Câu hỏi của thanh niên Udaya
13-1. Jhāyiṃ virajamāsīnaṃ (iccāyasmā udayo) katakiccaṃ anāsavaṃ pāraguṃ sabbadhammānaṃ atthi pañhena āgamaṃ aññāvimokkhaṃ pabrūhi avijjāya pabhedanaṃ.
13-1. (Tôn giả Udaya nói rằng:) “Với ý định (hỏi) câu hỏi, con đã đi đến bậc có thiền chứng, không còn bụi bặm, đang ngồi, bậc đã làm xong phận sự, không còn lậu hoặc, đã đi đến bờ kia của tất cả các pháp, xin ngài hãy nói về sự giải thoát do trí giác ngộ, về sự phá vỡ vô minh. Udaya:
1105. Tôn giả U-da-ya:
Con đến với câu hỏi,
Về tất cả mọi pháp,
Ðể hỏi bậc tu thiền,
Bậc an tọa không bụi;
Trách nhiệm đã làm xong,
Bậc không có lậu hoặc,
Ðã đạt bờ bên kia,
Hãy nói trí giải thoát
Ðể phá hoại vô minh.
13-2. Pahānaṃ kāmacchandānaṃ (udayāti bhagavā) domanassāna cūbhayaṃ thīnassa ca panūdanaṃ kukkuccānaṃ nivāraṇaṃ.
13-2. (Đức Thế Tôn nói: “Này Udaya,) sự dứt bỏ đối với những mong muốn về dục và những nỗi ưu phiền, cả hai loại, việc xua đi sự dã dượi, và việc che lấp các trạng thái hối hận.
Thế Tôn:
1106. Ðây lời Thế Tôn nói:
Hỡi này U-đa-ya,
Ðoạn ước muốn, dục vọng,
Và cả hai loại ưu,
Và trừ bỏ hôn trầm,
Ngăn chận mọi hối hận.
13-3. Upekkhāsatisaṃsuddhaṃ dhammatakkapurejavaṃ aññāvimokkhaṃ pabrūmi avijjāya pabhedanaṃ.
13-3. Ta nói về sự giải thoát do trí giác ngộ, về sự phá vỡ vô minh có xả và niệm hoàn toàn trong sạch, có sự suy tầm đúng pháp đi trước.”
1107. Ta nói trí giải thoát,
Ðể phá hoại vô minh,
Thanh tịnh nhờ xả niệm,
Suy tư pháp đi trước.
13-4. Kiṃ su saṃyojano loko (iccāyasmā udayo) kiṃ su tassa vicāraṇaṃ kissassa vippahānena nibbānamiti vuccati.
13-4. (Tôn giả Udaya nói rằng:) “Thế gian có cái gì là sự ràng buộc? Cái gì, đối với nó, là phương tiện xem xét? Do lìa bỏ cái gì được gọi là ‘Niết Bàn’?”
Udaya:
1108. Ðời cái gì trói buộc,
Cái gì, đời vận hành?
Do đoạn được cái gì,
Ðược gọi là Niết-bàn?
13-5. Nandisaṃyojano loko (udayāti bhagavā) vitakkassa vicāraṇā taṇhāya vippahānena nibbānaṃ iti vuccati.
13-5. (Đức Thế Tôn nói: “Này Udaya,) Thế gian có vui thích là sự ràng buộc. Suy tầm, đối với nó, là phương tiện xem xét. Do lìa bỏ tham ái được gọi là ‘Niết Bàn.’”
Thế Tôn:
1109. Ðời bị hỷ trói buộc,
Suy tầm là sở hành,
Do đoạn được khát ái,
Ðược gọi là Niết-bàn.
13-6. Kathaṃ satassa carato (iccāyasmā udayo) viññāṇaṃ uparujjhati bhagavantaṃ puṭṭhumāgamma taṃ suṇoma vaco tava.
13-6. (Tôn giả Udaya nói rằng:) “Như thế nào đối với vị có niệm, trong lúc thực hành, thức (của vị ấy) được đình chỉ? Chúng con đã đi đến để hỏi đức Thế Tôn, hãy cho chúng con nghe lời nói ấy của Ngài.”Udaya:
1110. Người sở hành chánh niệm,
Thức được diệt thế nào?
Con đến hỏi Thế Tôn,
Nghe lời Thế Tôn nói.
13-7. Ajjhattaṃ ca bahiddhā ca vedanaṃ nābhinandato evaṃ satassa carato viññāṇaṃ uparujjhatī ”ti.
13-7. “Đối với vị không thích thú cảm thọ ở nội phần và ngoại phần, đối với vị có niệm như vậy, trong lúc thực hành, thức (của vị ấy) được đình chỉ.”Thế Tôn:
1111. Ai không có hoan hỷ,
Với nội và ngoại thọ,
Sở hành chánh niệm vậy,
Thức đạt được hoại diệt.
Udayamāṇavapucchā niṭṭhitā.
Dứt Câu Hỏi Của Thanh Niên Udaya.
14. POSĀLAMĀṆAVAPUCCHĀ – CÂU HỎI CỦA THANH NIÊN POSĀLA
(XV) Câu hỏi của thanh niên Posàla
14-1. Yo atītaṃ ādisati (iccāyasmā posālo) anejo chinnasaṃsayo pāraguṃ sabbadhammānaṃ atthi pañhena āgamaṃ.
14-1. (Tôn giả Posāla nói rằng:) “Với ý định (hỏi) câu hỏi, con đã đi đến gặp bậc đã ngự đến bờ kia của tất cả các pháp, vị chỉ ra thời quá khứ, không còn dục vọng, đã cắt đứt sự nghi ngờ.Posàla:
1112. Tôn giả Po-sa-la:
Vị nói về quá khứ,
Bất động nghi hoặc đoạn,
Ðã đến bờ bên kia,
Con đến với câu hỏi
Hỏi về hết thảy pháp.
(Kinh Tập, chương V)
14-2. Vibhūtarūpasaññissa sabbakāyappahāyino ajjhattaṃ ca bahiddhā ca natthi kiñcīti passato ñāṇaṃ sakkānupucchāmi kathaṃ neyyo tathāvidho.
14-2. Đối với vị có sắc tưởng đã không còn, có sự dứt bỏ toàn bộ về thân, đang nhìn thấy nội phần và ngoại phần là ‘không có gì,’ thưa vị dòng Sakya, con hỏi thêm về trí (của vị ấy); vị thuộc hạng như thế ấy nên được hướng dẫn thế nào?”
1113. Với ai, sắc tưởng diệt,
Ðoạn tận hết thảy thân,
Nhìn thấy nội và ngoại,
Thật sự không có gì,
Con hỏi bậc Thích-ca,
Thế nào người như vậy,
Có thể bị dắt dẫn?
14-3. Viññāṇaṭṭhitiyo sabbā (posālāti bhagavā) abhijānaṃ tathāgato tiṭṭhantamenaṃ jānāti dhimuttaṃ tapparāyaṇaṃ.
14-3. (Đức Thế Tôn nói: “Này Posāla,) trong khi biết rõ tất cả các chỗ trú của thức, đức Như Lai biết vị ấy đang trú (ở đâu), bị thiên về (điều gì), có điều ấy là mục tiêu.Thế Tôn:
1114. Thế Tôn bèn đáp rằng:
Hỡi này Pô-sa-la,
Như Lai được thắng trí,
Tất cả nhờ thức trú,
Rõ biết vị an trú,
Giải thoát, đạt cứu cánh.
14-4. Ākiñcaññā sambhavaṃ ñatvā nandi saṃyojanaṃ iti evametaṃ abhiññāya tato tattha vipassati etaṃ ñāṇaṃ tathā tassa brāhmaṇassa vusīmato ”ti.
14-4. Sau khi biết được nguồn sanh khởi của Vô Sở Hữu, (biết được) rằng: ‘sự ràng buộc bởi vui thích,’ sau khi biết rõ điều ấy như vậy, từ đó nhìn thấy rõ nơi ấy; đây là trí như thật của vị ấy, của vị Bà-la-môn đã sống hoàn hảo.”
1115. Biết được sự tác thành,
Thuộc về vô sở hữu,
Biết hỷ là kiết sử,
Do thắng tri như vậy,
Tại đấy, thấy như vậy,
Ðây là trí như thật,
Của vị Bà-la-môn,
Ðã thành tựu Phạm hạnh.
Posālamāṇavapucchā niṭṭhitā.
Dứt Câu Hỏi Của Thanh Niên Posāla.
15. MOGHARĀJAMĀṆAVAPUCCHĀ – CÂU HỎI CỦA THANH NIÊN MOGHARĀJA
(XVI) Câu hỏi của thanh niên Mogharàja
15-1. Dvāhaṃ sakkaṃ apucchissaṃ (iccāyasmā mogharājā) na me vyākāsi cakkhumāyāva tatiyaṃ ca devisī vyākarotīti me sutaṃ.
15-1. (Tôn giả Mogharāja nói rằng:) “Con đã hỏi vị dòng Sakya hai lần. Bậc Hữu Nhãn đã không giải đáp cho con. Và con đã được nghe rằng: ‘(Được hỏi) đến lần thứ ba, bậc Thiên Nhân Ẩn Sĩ (sẽ) giải đáp.’
Mogharàja:
1116. Mo-gha-rà-ja nói:
Ðã hai lần con hỏi,
Bậc có mắt, họ Thích,
Ngài chưa trả lời con,
Nhưng con được nghe rằng,
Cho đến lần thứ ba,
Vị Thiên nhân ẩn sĩ,
Sẽ trả lời cho con.
15-2. Ayaṃ loko paro loko brahmaloko sadevako diṭṭhinte nābhijānāti gotamassa yasassino.
15-2. Thế giới này, thế giới khác, thế giới Phạm Thiên luôn cả chư Thiên không (thể) biết rõ quan điểm của Ngài, của vị Gotama có danh tiếng.
1117. Ðời này và đời sau,
Phạm thiên giới, thiên giới,
Con không rõ quan điểm,
Gotama lừng danh.
15-3. Evaṃ abhikkantadassāviṃ atthi pañhena āgamaṃ kathaṃ lokaṃ avekkhantaṃ maccurājā na passati.
15-3. Con đã đi đến bậc có nhãn quan vượt trội như vậy với ý định (hỏi) câu hỏi: Người đang xem xét thế gian như thế nào thì Tử Thần không nhìn thấy (người ấy)?”
1118. Vị thầy được thù diệu,
Con đến với câu hỏi,
Cần nhìn đời thế nào,
Ðể thần chết không thấy.
15-4. Suññato lokaṃ avekkhassu mogharāja sadā sato attānudiṭṭhiṃ ūhacca evaṃ maccutaro siyā evaṃ lokaṃ avekkhantaṃ maccurājā na passatī ”ti.
Thế Tôn:
1119. Này Mô-gha-ra-ja,
Hãy nhìn đời trống không,
Luôn luôn giữ chánh niệm,
Nhô lên ngã tùy kiến,
Như vậy vượt tử vong,
Hãy nhìn đời như vậy,
Thần chết không thấy được.
Mogharājamāṇavapucchā niṭṭhitā.
Dứt Câu Hỏi Của Thanh Niên Mogharāja.
16. PIṄGIYAMĀṆAVAPUCCHĀ – CÂU HỎI CỦA THANH NIÊN PIṄGIYA
(XVII) Câu hỏi của thanh niên Pingiya
16-1. Jiṇṇo ’hamasmi abalo vītavaṇṇo (iccāyasmā piṅgiyo) nettā na suddhā savaṇaṃ na phāsu māhaṃ nassaṃ momuho antarāva ācikkha dhammaṃ yamahaṃ vijaññaṃ jātijarāya idha vippahānaṃ.
Pingiya:
1120. Tôn giả Pin-gi-ya:
Con đã già, yếu đuối,
Không còn có dung sắc,
Mắt không thấy rõ ràng,
Tai không nghe thông suốt,
Ðể con khỏi mệnh chung,
Với tâm tư si ám,
Mong Ngài nói Chánh pháp,
Nhờ rõ biết pháp ấy,
Chính tại ở đời này,
Con đoạn tận sanh già.
16-2. Disvāna rūpesu vihaññamāne (piṅgiyāti bhagavā) ruppanti rūpesu janā pamattā tasmā tuvaṃ piṅgiya appamatto jahassu rūpaṃ apunabbhavāya.
Thế Tôn:
1121. Thế Tôn đáp lại rằng:
Hỡi này Pin-gi-ya,
Thấy được sự tác hại,
Trong các loại sắc pháp,
Chúng sanh sống phóng dật,
Bị phiền lụy trong sắc,
Do vậy, Pin-gi-ya,
Ông chớ có phóng dật,
Hãy từ bỏ sắc pháp
Chớ đi đến tái sanh.
16-3. Disā catasso vidisā catasso (iccāyasmā piṅgiyo) uddhaṃ adho dasadisā imāyo na tuyhaṃ adiṭṭhaṃ asutaṃ amutaṃ atho aviññātaṃ kiñci natthi loke ācikkha dhammaṃ yamahaṃ vijaññaṃ jātijarāya idha vippahānaṃ.
Pingiya:
1122. Bốn phương chính, bốn phụ,
Cộng thêm trên và dưới,
Như vậy có mười phương,
Và trong thế giới này,
Không có sự việc gì,
Mà Ngài không được thấy,
Không nghe, không nghĩ đến,
Và không được thức tri,
Hãy nói đến Chánh pháp,
Nhờ rõ biết pháp này,
Con ngay tại đời này,
Ðoạn tận được sanh già.
16-4. Taṇhādhipanne manuje pekkhamāno (piṅgiyāti bhagavā) santāpajāte jarasā parete tasmā tuvaṃ piṅgiya appamatto jahassu taṇhaṃ apunabbhavāyā ”ti.
Thế Tôn:
1123. Thế Tôn nói như sau:
Hỡi này Pin-gi-ya!
Thấy chúng sanh loài Người,
Rơi vào trong khát ái,
Bị già nua đốt cháy,
Bị già nua chinh phục
Do vậy, Pin-gi-ya,
Ông chớ có phóng dật
Hãy từ bỏ khát ái,
Không còn bị tái sanh.
Piṅgiyamāṇavapucchā niṭṭhitā.
Dứt Câu Hỏi Của Thanh Niên Piṅgiya.
(XVIII) Kết luận
Idamavoca bhagavā magadhesu viharanto pāsāṇake cetiye paricārakasoḷasānaṃ brāhmaṇānaṃ ajjhiṭṭho puṭṭho puṭṭho pañhaṃ vyākāsi. Ekamekassa cepi pañhassa atthamaññāya dhammamaññāya dhammānudhammaṃ paṭipajjeyya gaccheyyeva jarāmaraṇassa pāraṃ. Pāraṃ gamanīyā ime dhammā ti tasmā imassa dhammapariyāyassa pārāyanaṃtveva adhivacanaṃ.
Thế Tôn nói như vậy. Trong khi ở tại Magadha, tại điện Phà-xa-na-ka, Thế Tôn được mười sáu Bà-la-môn đệ tử của Bàvani tìm đến, được hỏi nhiều câu hỏi và Ngài đã trả lời. Nêu từng câu hỏi một, sau khi hiểu nghĩa, sau khi hiểu pháp, thực hành pháp và tùy pháp, thì có thể đi đến bờ bên kia của già chết. Những pháp này có thể đưa người qua bờ bên kia, cho nên pháp môn này cũng được gọi là Pàràyanam: “Con đường đưa đến bờ bên kia”.
(Kinh Tập, chương V)
1. Ajito tissametteyyo – puṇṇako atha mettagū dhotako upasīvo ca – nando ca atha hemako.
1124. Phạm chí Ajita,
Tissa-Met-tayya,
Phạm chí Pun-na-ka,
Cùng với Met-ta-gù,
Thanh niên Dhotaka,
Và Upasiva,
Nan-đa, He-ma-ka,
Cả hai vị thanh niên.
2. Todeyyakappā dubhayo – jatukaṇṇī ca paṇḍito bhadrāvudho udayo ca – posālo cāpi brāhmaṇo mogharājā ca medhāvī – piṅgiyo ca mahāisi.
1125. To-dey-ya, Kap-pà;
Và Ja-tu-kha-ni,
Với Bhad-rà-vu-dha
Phạm chí U-da-ya
Phạm chí Po-sà-la,
Với Mo-gha-rà-ja
Là bậc đại Hiền trí,
Cùng với bậc đại sĩ,
Tên là Pin-gi-ya.
3. Ete buddhaṃ upāgañchuṃ – sampannacaraṇaṃ isiṃ pucchantā nipuṇe pañhe – buddhaseṭṭhaṃ upāgamuṃ.
1126. Những vị này đi đến,
Ðức Phật, bậc Tiên nhân,
Bậc hạnh đức đầy đủ,
Những vị này đi đến,
Bậc giác ngộ tối thượng,
Hỏi câu hỏi tế nhị.
4. Tesaṃ buddho vyākāsi – pañhe puṭṭho yathātathaṃ pañhānaṃ veyyākaraṇena – tosesi brāhmaṇe muni.
1127. Ðức Phật đã như thật,
Trả lời các vị ấy,
Tùy theo các câu hỏi,
Và bậc đại ẩn sĩ
Trả lời những câu hỏi,
Khiến các Bà-la-môn,
Ðược hoan hỷ vui thích.
5. Te tositā cakkhumatā – buddhenādiccabandhunā brahmacariyamacariṃsu – varapaññassa santike.
1128. Họ được vui, hoan hỷ,
Nhờ Phật, bậc có mắt,
Nhờ bà con mặt trời,
Họ hành trì Phạm hạnh,
Dưới chỉ đạo hướng dẫn,
Bậc trí tuệ tuyệt diệu.
6. Ekamekassa pañhassa – yathā buddhena desitaṃ tathā yo paṭipajjeyya – gacche pāraṃ apārato.
1129. Theo từng câu hỏi một,
Tùy đức Phật thuyết giảng,
Ai như vậy hành trì,
Ði được từ bờ này,
Ðến được bờ bên kia.
7. Apārā pāraṃ gaccheyya – bhāvento maggamuttamaṃ maggo so pāraṃ gamanāya – tasmā pārāyanaṃ iti.
1130. Ði được từ bờ này,
Ðến được bờ bên kia,
Tu tập đạo vô thượng,
Và chính con đường ấy,
Ðưa đến bờ bên kia,
Do vậy được tên gọi,
Con đường đến bờ kia.
Rồi Tôn giả Pingiya đi về Godhàvari và nói lại với Bà-la-môn Bàvari những điều đã xảy ra.
8. Pārāyanamanugāyissaṃ (iccāyasmā piṅgiyo) yathā addakkhi tathā akkhāsi vimalo bhūrimedhaso nikkāmo nibbano nāgo kissa hetu musā bhaṇe.
Pingiya:
1131. Tôn giả Pin-gi-ya:
Con sẽ đọc tụng lên
Con đường đến bờ kia,
Ngài được thấy thế nào,
Ngài nói lên thế ấy,
Bậc vô cấu, quảng trí,
Bậc lãnh đạo không dục,
Bậc Niết-bàn an tịnh,
Làm sao do nhân gì,
Ngài nói điều không thật.
9. Pahīnamalamohassa mānamakkhappahāyino handāhaṃ kittayissāmi giraṃ vaṇṇūpasaṃhitaṃ.
1132. Bậc đã đoạn trừ hết,
Uế nhiễm và si mê,
Bậc đã diệt trừ sạch,
Kiêu mạn và gièm pha,
Con sẽ nói tán thán,
Âm thanh vi diệu ấy.
10. Tamonudo buddho samantacakkhu lokantagū sabbabhavātivatto anāsavo sabbadukkhappahīno saccavhayo brahme upāsito me.
1133. Bậc quét sạch u ám,
Phật-đà, bậc Biến nhãn,
Ðã đến, tận cùng đời,
Ðã vượt qua sanh hữu,
Bậc không có lậu hoặc,
Ðoạn tận mọi đau khổ,
Vị được gọi sự thật,
Hỡi vị Bà-la-môn,
Con được hầu vị ấy.
11. Dvijo yathā kubbanakaṃ pahāya bahupphalaṃ kānanamāvaseyya evaṃ pahaṃ appadasse pahāya mahodadhiṃ haṃsarivajjhapatto.
1134. Như chim bỏ rừng hoang,
Ðến ở rừng nhiều trái,
Cũng vậy con từ bỏ,
Những bậc thấy nhỏ nhen,
Con đạt đến biển lớn,
Chẳng khác con thiên nga.
12. Ye me pubbe viyākaṃsu huraṃ gotamasāsanā iccāsīti bhavissati sabbaṃ taṃ itihītihaṃ sabbaṃ taṃ takkavaḍḍhanaṃ.
1135. Những ai trong đời khác,
Ðã nói cho con nghe,
Lời dạy bậc Cù-đàm
Như vậy đã xảy ra,
Như vậy sẽ xảy đến,
Tất cả là tin đồn,
Chỉ làm tăng nghi ngờ.
13. Eko tamanudāsīno jutimā so pabhaṅkaro gotamo bhūripaññāṇo gotamo bhūrimedhaso.
1136. Chỉ một vị an trú,
Quét sạch các hắn ám,
Sanh trưởng gia đình quý,
Vị ấy chiếu hào quang,
Cù-đàm, bậc quảng tuệ,
Cù-đàm, bậc quảng trí.
14. Yo me dhammamadesesi sandiṭṭhikamakālikaṃ taṇhakkhayamanītikaṃ yassa natthi upamā kvaci.
1137. Ai thuyết pháp cho con,
Pháp thiết thực hiện tại,
Ðến ngay không chờ đợi,
Ái diệt, vượt đau khổ,
Vị ấy không ai sánh.
15. Kinnu tamhā vippavasasi muhuttamapi piṅgiya gotamā bhūripaññāṇā gotamā bhūrimedhasā.
Bàvari:
1138. Hỡi này Pin-gi-ya,
Sao Ông lại không thể,
Sống xa lánh vị ấy,
Chỉ trong một chốc lát,
Bậc Cù-đàm quảng tuệ,
Bậc Cù-đàm quảng trí,
16. Yo te dhammamadesesi sandiṭṭhikamakālikaṃ taṇhakkhayamanītikaṃ yassa natthi upamā kvaci.
1139. Vị thuyết pháp cho người,
Pháp thiết thực hiện tại,
Ðến ngay không chờ đợi,
Ái diệt, vượt đau khổ,
Vị ấy không ai sánh.
17. Nāhaṃ tamhā vippavasāmi muhuttamapi brāhmaṇa gotamā bhūripaññāṇā gotamā bhūrimedhasā. Pingiya:
1140. Hỡi này Bà-la-môn,
Con không có thể được,
Sống xa lánh vị ấy
Chỉ trong một chốc lát,
Gotama quảng tuệ,
Gotama quảng trí.
18. Yo me dhammamadesesi sandiṭṭhikamakālikaṃ taṇhakkhayamanītikaṃ yassa natthi upamā kvaci.
1141. Vị thuyết pháp cho con,
Pháp thiết thực hiện tại,
Ðến ngay không chờ đợi,
Ái diệt, vượt đau khổ,
Vị ấy không ai sánh.
19. Passāmi naṃ manasā cakkhunā va rattiṃ divaṃ brāhmaṇa appamatto namassamāno vivasemi rattiṃ teneva maññāmi avippavāsaṃ.
1142. Chính con thấy vị ấy,
Với ý, với con mắt,
Ngày đêm không phóng dật,
Kính thưa Bà-la-môn,
Con trải qua suốt đêm
Ðảnh lễ, kính vị ấy,
Do vậy con nghĩ rằng,
Con không xa vị ấy.
20. Saddhā ca pītī ca mano satī ca nāpenti me gotamasāsanamhā yaṃ yaṃ disaṃ vajati bhūripañño sa tena teneva natohamasmi.
1143. Với tín và với hỷ,
Với ý luôn chánh niệm,
Không làm con xa rời,
Lời dạy Gotama!
Chính tại phương hướng nào,
Bậc quảng tuệ đi đến,
Chính ở phương hướng ấy,
Con được dắt dẫn đến.
21. Jiṇṇassa me dubbalathāmakassa teneva kāyo na paleti tattha saṃkappayattāya vajāmi niccaṃ. mano hi me brāhmaṇa tena yutto.
1144. Với con tuổi đã già,
Yếu đuối, không sức mạnh,
Do vậy thân thể này,
Không đến được chỗ ấy,
Với tâm tư quyết chí,
Con thường hằng đi đến.
Vì rằng thưa Phạm chí,
Ý con cột vị ấy.
22. Paṅke sayāno pariphandamāno dīpā dīpaṃ uppalaviṃ athaddasāsiṃ sambuddhaṃ oghatiṇṇamanāsavaṃ.
1145. Nằm dài trong vũng bùn,
Vùng vẫy, vật qua lại,
Con đã bơi qua lại,
Ðảo này đến đảo khác,
Con đã thấy đức Phật,
Vượt bộc lưu, vô lậu.
Ðến đây, khi chúng đang nói, đức Phật hiện ra và nói:
23. Yathā ahu vakkali muttasaddho bhadrāvudho āḷavi gotamo ca evameva tvampi pamuñcassu saddhaṃ gamissasi tvaṃ piṅgiya maccudheyyassa pāraṃ.
Thế Tôn:
1146. Cũng như Vak-ka-li
Nhờ tin, được giải thoát,
Với Bhad-rà-vu-dha,
A-la-vi, Cù-đàm,
Cũng vậy, Ông đã được,
Giải thoát nhờ lòng tin.
Hỡi này Pin-gi-ya,
Ông sẽ đi đến được,
Ðến được bờ bên kia,
Của thế giới thần chết.
24. Esa bhīyo pasīdāmi sutvāna munino vaco vivattacchaddo sambuddho akhilo paṭibhānavā.
Pingiya:
1147. Ðược nghe lời ẩn sĩ,
Con tăng trưởng tịnh tín,
Bậc Chánh đẳng Chánh giác,
Ðã vén lên tấm màn,
Không cứng cỏi, biện tài.
25. Adhideve abhiññāya sabbaṃ vedi parovaraṃ pañhānantakaro satthā kaṅkhīnaṃ paṭijānataṃ.
1148. Thắng tri các chư Thiên,
Biết tất cả cao thấp,
Bậc Ðạo Sư chấm dứt,
Tất cả các câu hỏi,
Với những ai tự nhận,
Còn có chỗ nghi ngờ.
26. Asaṃhīraṃ asaṃkuppaṃ yassa natthi upamā kvaci addhā gamissāmi na mettha kaṅkhā evaṃ maṃ dhārehi adhimuttacittan ”ti.
1149. Không run rẩy, dao động,
Không ai có thể sánh,
Chắc chắn con sẽ đi,
Tại đây, con không nghi,
Như vậy, thọ trì Ta
Như tâm người tín giải.
Piṅgiyasuttantaṃ soḷasi.
Pārāyanavaggo niṭṭhito.
Phẩm “Con đường đi đến bờ bên kia ” đã xong.
1. AJITASUTTANIDDESO – DIỄN GIẢI KINH AJITA
(II) Câu hỏi của thanh niên A-ji-ta:
Kenassu nivuto loko (iccāyasmā ajito) kenassu nappakāsati kissābhilepanaṃ brūsi kiṃ su tassa mahabbhayaṃ.
(Tôn giả Ajita nói rằng:)
“Thế giới bị bao trùm bởi cái gì?
Không chói sáng bởi điều gì?
Ngài hãy nói cái gì là vật làm uế nhiễm đối với (thế giới) này?
Sự nguy hiểm lớn lao của nó là gì?”
Ajita:
1032. Tôn giả A-ji-ta:
Do gì, đời bị che,
Do gì, không chói sáng,
Hãy nói lên cái gì,
Làm uế nhiễm cuộc đời,
Cái gì sợ hãi lớn?
Kenassu nivuto loko ti – Loko ’ti nirayaloko tiracchānaloko pettivisayaloko manussaloko devaloko khandhaloko dhātuloko āyatanaloko ayaṃ loko paro loko brahmaloko devaloko ayaṃ vuccati loko, ayaṃ loko kena āvuto nivuto ovuto pihito paṭicchanno paṭikujjito ’ti – kenassu nivuto loko.
Iccāyasmā ajito ti – Iccā ti padasandhi padasaṃsaggo padapāripūri akkharasamavāyo byañjanasiliṭṭhatā padānupubbatāpetaṃ iccā ’ti. Āyasmā ti piyavacanaṃ garuvacanaṃ sagāravasappatissādhivacanametaṃ āyasmā ’ti. Ajito ti tassa brāhmaṇassa nāmaṃ saṅkhā samaññā paññatti vohāro nāmaṃ nāmakammaṃ nāmadheyyaṃ nirutti byañjanaṃ abhilāpo ’ti – iccāyasmā ajito.
Kenassu nappakāsatī ti – kena loko nappakāsati na bhāsati na tapati na virocati na ñāyati na paññāyatī ’ti – kenassu nappakāsatīti.
Kissābhilepanaṃ brūsī ti kiṃ lokassa lepanaṃ lagganaṃ bandhanaṃ upakkileso. Kena loko litto saṃlitto upalitto kiliṭṭho saṅkiliṭṭho makkhito saṃsaṭṭho laggo laggito paḷibuddho. Brūsi: ācikkhasi desesi paññapesi paṭṭhapesi vivarasi vibhajasi uttānīkarosi pakāsesī ’ti – kissābhilepanaṃ brūsi.
Kiṃsu tassa mahabbhayan ti – kiṃ lokassa bhayaṃ mahabbhayaṃ pīḷanaṃ ghaṭṭanaṃ upaddavo upasaggo ’ti – kiṃsu tassa mahabbhayaṃ.
Tenāha so brāhmaṇo:
“Kenassu nivuto loko (iccāyasmā ajito)
kenassu nappakāsati
kissābhilepanaṃ brūsi
kiṃsu tassa mahabbhayan ”ti.
Vì thế, vị Bà-la-môn ấy đã nói rằng:
(Tôn giả Ajita nói rằng:)
“Thế giới bị bao trùm bởi cái gì?
Không chói sáng bởi điều gì?
Ngài hãy nói cái gì là vật làm uế nhiễm đối với (thế giới) này?
Sự nguy hiểm lớn lao của nó là gì?”
Avijjāya nivuto loko (ajitāti bhagavā) vivicchā pamādā nappakāsati jappābhilepanaṃ brūmi dukkhamassa mahabbhayaṃ.
(Đức Thế Tôn nói: “Này Ajita,)
thế giới bị bao trùm bởi vô minh,
không chói sáng bởi keo kiệt, bởi xao lãng.
Ta nói tham muốn là vật làm uế nhiễm,
khổ là sự nguy hiểm lớn lao của nó (thế giới).”
Thế Tôn:
1033. Thế Tôn liền đáp lại:
Ðời bị vô minh che,
Do xan tham, phóng dật,
Ðời không được chói sáng,
Ta nói do mong cầu,
Nên đời bị uế nhiễm,
Chính là sự đau khổ,
Nên có sợ hãi lớn.
Avijjāya nivuto loko ti – Avijjā ti dukkhe aññāṇaṃ dukkhasamudaye aññāṇaṃ dukkhanirodhe aññāṇaṃ dukkhanirodhagāminiyā paṭipadāya aññāṇaṃ pubbante aññāṇaṃ aparante aññāṇaṃ pubbantāparante aññāṇaṃ idappaccayatāpaṭiccasamuppannesu dhammesu aññāṇaṃ yaṃ evarūpaṃ aññāṇaṃ adassanaṃ anabhisamayo ananubodho asambodho appaṭivedho asaṅgāhanā apariyogāhanā asamapekkhanā apaccavekkhanā apaccakkhakammaṃ dummejjhaṃ bālyaṃ asampajaññaṃ moho pamoho sampamoho avijjā avijjogho avijjāyogo avijjānusayo avijjāpariyuṭṭhānaṃ avijjālaṅgī moho akusalamūlaṃ, ayaṃ vuccati avijjā.
Loko ti nirayaloko tiracchānaloko pettivisayaloko manussaloko devaloko khandhaloko dhātuloko āyatanaloko, ayaṃ loko paroloko brahmaloko devaloko, ayaṃ vuccati loko. Ayaṃ loko imāya avijjāya āvuto nivuto ovuto pihito paṭicchanno paṭikujjito ’ti – avijjāya nivuto loko.
Ajitā ti bhagavā taṃ brāhmaṇaṃ nāmena ālapati.
Bhagavā ti gāravādhivacanaṃ. Api ca, bhaggarāgoti bhagavā; bhaggadosoti bhagavā; bhaggamohoti bhagavā; bhaggamānoti bhagavā; bhaggadiṭṭhīti bhagavā; bhaggakaṇṭhakoti bhagavā; bhaggakilesoti bhagavā; bhaji vibhaji pavibhaji dhammaratananti bhagavā; bhavānaṃ antakaroti bhagavā; bhāvitakāyo bhāvitasīlo bhāvitacitto bhāvitapaññoti bhagavā; bhaji vā bhagavā araññe vanapatthāni pantāni senāsanāni appasaddāni appanigghosāni vijanavātāni manussarāhasseyyakāni paṭisallānasāruppānīti bhagavā; bhāgī vā bhagavā cīvara-piṇḍapāta-senāsana-gilānapaccaya-bhesajja-parikkhārānanti bhagavā; bhāgī vā bhagavā attharasassa dhammarasassa vimuttirasassa adhisīlassa adhicittassa adhipaññāyāti bhagavā; – bhāgī vā bhagavā catunnaṃ jhānānaṃ catunnaṃ appamaññānaṃ catunnaṃ arūpasamāpattīnanti bhagavā; bhāgī vā bhagavā aṭṭhannaṃ vimokkhānaṃ aṭṭhannaṃ abhibhāyatanānaṃ navannaṃ anupubbavihārasamāpattīnanti bhagavā; bhāgī vā bhagavā dasannaṃ saññābhāvanānaṃ dasannaṃ kasiṇasamāpattīnaṃ ānāpānasatisamādhissa asubhasamāpattiyāti bhagavā; bhāgī vā bhagavā catunnaṃ satipaṭṭhānānaṃ catunnaṃ sammappadhānānaṃ catunnaṃ iddhipādānaṃ pañcannaṃ indriyānaṃ pañcannaṃ balānaṃ sattannaṃ bojjhaṅgānaṃ ariyassa aṭṭhaṅgikassa maggassāti bhagavā; bhāgī vā bhagavā dasannaṃ tathāgatabalānaṃ catunnaṃ vesārajjānaṃ catunnaṃ paṭisambhidānaṃ channaṃ abhiññānaṃ channaṃ buddhadhammānanti bhagavā. Bhagavāti netaṃ nāmaṃ mātarā kataṃ na pitarā kataṃ na bhātarā kataṃ na bhaginiyā kataṃ na mittāmaccehi kataṃ na ñātisālohitehi kataṃ na samaṇabrāhmaṇehi kataṃ na devatāhi kataṃ vimokkhantikametaṃ buddhānaṃ bhagavantānaṃ bodhiyā mūle saha sabbaññutañāṇassa paṭilābhā sacchikā paññatti, yadidaṃ bhagavā ’ti – ajitāti bhagavā.
Vivicchā pamādā nappakāsatī ti – Vivicchā vuccati pañca macchariyāni āvāsamacchariyaṃ kulamacchariyaṃ lābhamacchariyaṃ vaṇṇamacchariyaṃ dhammamacchariyaṃ yaṃ evarūpaṃ maccheraṃ maccharāyanā maccharāyitattaṃ vevicchaṃ kadariyaṃ kaṭukañcukatā aggahitattaṃ cittassa idaṃ vuccati macchariyaṃ. Api ca khandhamacchariyampi macchariyaṃ dhātumacchariyampi macchariyaṃ āyatanamacchariyampi macchariyaṃ. Gāho vuccati macchariyaṃ.
Pamādo vattabbo: kāyaduccarite vā vacīduccarite vā manoduccarite vā pañcasu vā kāmaguṇesu cittassa vossaggo vossaggānuppadānaṃ kusalānaṃ vā dhammānaṃ bhāvanāya asakkaccakiriyatā asātaccakiriyatā anaṭṭhitakiriyatā olīnavuttitā nikkhittachandatā nikkhittadhuratā anāsevanā abhāvanā abahulīkammaṃ anadhiṭṭhānaṃ ananuyogo pamādo, yo evarūpo pamādo pamajjanā pamajjitattaṃ ayaṃ vuccati pamādo.
Vivicchā pamādā nappakāsatī ti iminā ca macchariyena iminā ca pamādena loko nappakāsati na bhāsati na tapati na virocati na ñāyati na paññāyatī ’ti – vivicchā pamādā nappakāsati.
Jappābhilepanaṃ brūmī ti – Jappā vuccati taṇhā yo rāgo sārāgo anunayo anurodho nandi nandirāgo cittassa sārāgo icchā mucchā ajjhosānaṃ gedho paḷigedho saṅgo paṅko ejā māyā janikā sañjananī sibbanī jālinī saritā visattikā suttaṃ visaṭā āyūhanī dutiyā paṇidhi bhavanetti vanaṃ vanatho santhavo sineho apekkhā paṭibandhu āsā āsiṃsanā āsiṃsitattaṃ rūpāsā saddāsā gandhāsā rasāsā phoṭṭhabbāsā lābhāsā dhanāsā puttāsā jīvitāsā jappā pajappā abhijappā jappanā jappitattaṃ loluppaṃ loluppāyanā loluppāyi tattaṃ pucchañcikatā sādukamyatā adhammarāgo visamalobho nikanti nikāmanā patthanā pihanā sampatthanā kāmataṇhā bhavataṇhā vibhavataṇhā rūpataṇhā arūpataṇhā nirodhataṇhā rūpataṇhā saddataṇhā gandhataṇhā rasataṇhā phoṭṭhabbataṇhā dhammataṇhā ogho yogo gantho upādānaṃ āvaraṇaṃ nīvaraṇaṃ chadanaṃ bandhanaṃ upakkileso anusayo pariyuṭṭhānaṃ latā vevicchaṃ dukkhamūlaṃ dukkhanidānaṃ dukkhappabhavo mārapāso mārabalisaṃ mārāmisaṃ māravisayo māranivāso māragocaro mārabandhanaṃ taṇhānadī taṇhājālaṃ taṇhāgaddulaṃ taṇhāsamuddo abhijjhā lobho akusalamūlaṃ, ayaṃ vuccati jappā, lokassa lepanaṃ lagganaṃ bandhanaṃ upakkileso imāya jappāya loko litto saṃlitto upalitto kiliṭṭho saṅkiliṭṭho makkhito saṃsaṭṭho laggo laggito palibuddhoti brūmi ācikkhāmi desemi paññapemi paṭṭhapemi vivarāmi vibhajāmi uttānīkaromi pakāsemī ’ti – jappābhilepanaṃ brūmi.
Dukkhamassa mahabbhayan ti – Dukkhan ti jātidukkhaṃ jarādukkhaṃ vyādhidukkhaṃ maraṇadukkhaṃ sokaparidevadukkhaṃ domanassupāyāsadukkhaṃ nerayikaṃ dukkhaṃ tiracchānayonikaṃ dukkhaṃ pettivisayikaṃ dukkhaṃ mānusakaṃ dukkhaṃ gabbhokkantimūlakaṃ dukkhaṃ gabbhaṭṭhitimūlakaṃ dukkhaṃ gabbhavuṭṭhānamūlakaṃ dukkhaṃ jātassa upanibandhakaṃ dukkhaṃ jātassa parādheyyakaṃ dukkhaṃ attūpakkamadukkhaṃ parūpakkamadukkhaṃ saṅkhāradukkhaṃ viparināmadukkhaṃ cakkhurogo sotarogo ghānarogo jivhārogo kāyarogo sīsarogo kaṇṇarogo mukharogo dantarogo kāso sāso pināso ḍaho jaro kucchirogo mucchā pakkhandikā sūlā visūcikā kuṭṭhaṃ gaṇḍo kilāso soso apamāro daddu kaṇḍu kacchu rakhasā vitacchikā lohitapittaṃ madhumeho aṃsā piḷakā bhagandalā pittasamuṭṭhānā ābādhā semhasamuṭṭhānā ābādhā vātasamuṭṭhānā ābādhā sannipātikā ābādhā utuparināmajā ābādhā visamaparihārajā ābādhā opakkamikā ābādhā kammavipākajā ābādhā sītaṃ uṇhaṃ jighacchā pipāsā uccāro passāvo ḍaṃsa-makasa-vātātapa-siriṃsapa -samphassaṃ dukkhaṃ mātumaraṇaṃ dukkhaṃ pitumaraṇaṃ dukkhaṃ bhātumaraṇaṃ dukkhaṃ bhaginīmaraṇaṃ dukkhaṃ puttamaraṇaṃ dukkhaṃ dhītumaraṇaṃ dukkhaṃ ñātivyasanaṃ dukkhaṃ bhogavyasanaṃ dukkhaṃ sīlavyasanaṃ dukkhaṃ diṭṭhivyasanaṃ dukkhaṃ yesaṃ dhammānaṃ ādito samudāgamanaṃ paññāyati atthaṅgamato nirodho paññāyati kammasannissito vipāko vipākasannissitaṃ kammaṃ nāmasannissitaṃ rūpaṃ rūpasannissitaṃ nāmaṃ jātiyā anugataṃ jarāya anusaṭaṃ byādhinā abhibhūtaṃ maraṇena abbhāhataṃ dukkhe patiṭṭhitaṃ atāṇaṃ aleṇaṃ asaraṇaṃ asaraṇībhūtaṃ, idaṃ vuccati dukkhaṃ. Idaṃ dukkhaṃ lokassa bhayaṃ mahabbhayaṃ pīḷanaṃ ghaṭṭanaṃ upaddavo upasaggo ’ti – dukkhamassa mahabbhayaṃ.
Tenāha bhagavā:
“Avijjā nivuto loko (ajitāti bhagavā)
vivicchā pamādā nappakāsati
jappābhilepanaṃ brūmi
dukkhamassa mahabbhayan ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
(Đức Thế Tôn nói: “Này Ajita,)
thế giới bị bao trùm bởi vô minh,
không chói sáng bởi keo kiệt, bởi xao lãng.
Ta nói tham muốn là vật làm uế nhiễm,
khổ là sự nguy hiểm lớn lao của nó (thế giới).”
Savanti sabbadhi sotā (iccāyasmā ajito) sotānaṃ kiṃ nivāraṇaṃ sotānaṃ saṃvaraṃ brūhi kena sotā pithīyare.
(Tôn giả Ajita nói rằng:)
“Các dòng chảy chảy tràn khắp mọi nơi, cái gì là sự ngăn cản các dòng chảy? Ngài hãy nói về sự chế ngự các dòng chảy, các dòng chảy được chặn đứng bởi cái gì?”
Ajita:
1034. Tôn giả A-ji-ta:
Mọi nơi dòng nước chảy,
Cái gì ngăn dòng nước?
Hãy nói lên cái gì?
Chế ngự được dòng nước?
Savanti sabbadhi sotā ti – Sotā ti taṇhāsoto diṭṭhisoto kilesasoto duccaritasoto avijjāsoto. Sabbadhī ti sabbesu āyatanesu. Savantī ti savanti āsavanti sandanti pavattanti, cakkhuto rūpe savanti āsavanti sandanti pavattanti, sotato sadde savanti —pe— ghānato gandhe savanti —pe— jivhāto rase savanti —pe— kāyato phoṭṭhabbe savanti —pe— manato dhamme savanti āsavanti sandanti pavattanti, cakkhuto rūpataṇhā savanti āsavanti sandanti pavattanti, sotato saddataṇhā savanti āsavanti sandanti pavattanti, ghānato gandhataṇhā savanti —pe— jivhāto rasataṇhā savanti —pe— kāyato phoṭṭhabbataṇhā savanti —pe— manato dhammataṇhā savanti āsavanti sandanti pavattantīti – savanti sabbadhi sotā.
Iccāyasmā ajito ti – Iccā ti padasandhi —pe— padānupubbatāpetaṃ iccā ’ti. Āyasmā ti piyavacanaṃ —pe— Ajito ti tassa brāhmaṇassa nāmaṃ —pe— abhilāpo ’ti – iccāyasmā ajito.
Sotānaṃ kiṃ nivāraṇan ti sotānaṃ kiṃ āvaraṇaṃ nīvaraṇaṃ saṃvaraṇaṃ rakkhaṇaṃ gopanan ’ti – sotānaṃ kiṃ nivāraṇaṃ.
Sotānaṃ saṃvaraṃ brūhī ti sotānaṃ āvaraṇaṃ nīvaraṇaṃ saṃvaraṇaṃ rakkhaṇaṃ gopanaṃ brūhi ācikkha desehi paññapehi paṭṭhapehi vivarāhi vibhajāhi uttānīkarohi pakāsehī ’ti – ‘sotānaṃ saṃvaraṃ brūhi.
Kena sotā pithīyare ti kena sotā pithīyanti pacchijjanti na savanti na āsavanti na sandanti nappavattantī ’ti – kena sotā pithīyare.
Tenāha so brāhmaṇo:
“Savanti sabbadhi sotā (iccāyasmā ajito)
sotānaṃ kiṃ nivāraṇaṃ
sotānaṃ saṃvaraṃ brūhi
kena sotā pithīyare ”ti.
Vì thế, vị Bà-la-môn ấy đã nói rằng:
(Tôn giả Ajita nói rằng:)
“Các dòng chảy chảy tràn khắp mọi nơi,
cái gì là sự ngăn cản các dòng chảy?
Ngài hãy nói về sự chế ngự các dòng chảy,
các dòng chảy được chặn đứng bởi cái gì?”
Yāni sotāni lokasmiṃ (ajitāti bhagavā) sati tesaṃ nivāraṇaṃ sotānaṃ saṃvaraṃ brūmi paññāyete pithīyare.
(Đức Thế Tôn nói: “Này Ajita,)
những dòng chảy nào hiện diện ở thế gian,
niệm là sự ngăn cản chúng.
Ta nói về sự chế ngự các dòng chảy,
chúng được chặn đứng bởi tuệ.”
Thế Tôn:
1035. Thế Tôn liền đáp lại:
Hỡi này A-ji-ta,
Các dòng nước ở đời,
Chánh niệm ngăn chận lại,
Chánh niệm được Ta gọi,
Chế ngự các dòng nước,
Và chính do trí tuệ,
Ðóng lại các dòng nước.
Yāni sotāni lokasmin ti yāni etāni sotāni mayā kittitāni pakittitāni ācikkhitāni desitāni paññāpitāni paṭṭhapitāni vivaritāni vibhajitāni uttānīkatāni pakāsitāni, seyyathīdaṃ: taṇhāsoto diṭṭhisoto kilesasoto duccaritasoto avijjāsoto. Lokasmin ti apāyaloke manussaloke devaloke khandhaloke dhātuloke āyatanaloke ’ti – yāni sotāni lokasmiṃ. Ajitā ti bhagavā taṃ brāhmaṇaṃ nāmena ālapati.
Sati tesaṃ nivāraṇan ti – Satī ti yā sati anussati patissati sati saraṇatā dhāraṇatā apilāpanatā asammussanatā sati satindriyaṃ satibalaṃ sammāsati satisambojjhaṅgo ekāyano maggo, ayaṃ vuccati sati. Nivāraṇan ti āvaraṇaṃ nīvaraṇaṃ saṃvaraṇaṃ rakkhaṇaṃ gopanan ’ti – sati tesaṃ nivāraṇaṃ.
Sotānaṃ saṃvaraṃ brūmī ti sotānaṃ āvaraṇaṃ nīvaraṇaṃ saṃvaraṇaṃ rakkhaṇaṃ gopanaṃ, brūmi ācikkhāmi –pe– uttānīkaromi pakāsemī ’ti – sotānaṃ saṃvaraṃ brūmi.
Paññāyete pithīyare ti – Paññā ti yā paññā pajānanā —pe— amoho dhammavicayo sammādiṭṭhi. Paññāyete pithīyare ti paññāya ete sotā pithīyanti pacchijjanti na savanti na āsavanti na sandanti nappavattanti.
Sabbe saṅkhārā aniccā ”ti jānato passato paññāya ete sotā pithīyanti pacchijjanti na savanti na āsavanti na sandanti nappavattanti. Sabbe saṅkhārā dukkhā ”ti jānato passato paññāyete sotā pithīyanti pacchijjanti na savanti na āsavanti na sandanti nappavattanti. Sabbe saṅkhārā anattā ”ti jānato passato paññāyete sotā pithīyanti pacchijjanti na savanti na āsavanti na sandanti nappavattanti.
Avijjāpaccayā saṅkhārā ”ti jānato passato paññāyete sotā pithīyanti pacchijjanti na savanti na āsavanti na sandanti nappavattanti. Saṅkhārapaccayā viññāṇan ”ti —pe— Viññāṇapaccayā nāmarūpan ”ti —pe— Nāmarūpapaccayā saḷāyatanan ”ti —pe— Saḷāyatanapaccayā phasso ”ti —pe— Phassapaccayā vedanā ”ti —pe— Vedanāpaccayā taṇhā ”ti —pe— Taṇhāpaccayā upādānan ”ti —pe— Upādānapaccayā bhavo ”ti —pe— Bhavapaccayā jātī ”ti —pe— Jātipaccayā jarāmaraṇan ”ti jānato passato paññāyete sotā pithīyanti pacchijjanti na savanti na āsavanti na sandanti nappavattanti. Avijjānirodhā saṅkhāranirodho ”ti —pe— Saṅkhāranirodhā viññāṇanirodho ”ti —pe— Viññāṇanirodhā nāmarūpanirodho ”ti —pe— Nāmarūpanirodhā saḷāyatananirodho ”ti —pe— Saḷāyatananirodhā phassanirodho ”ti —pe— Phassanirodhā vedanānirodho ”ti —pe— Vedanānirodhā taṇhānirodho ”ti —pe— Taṇhānirodhā upādānanirodho ”ti —pe— Upādānanirodhā bhavanirodho ”ti —pe— Bhavanirodhā jātinirodho ”ti —pe— Jātinirodhā jarāmaraṇanirodho ”ti jānato passato paññāyete sotā pithīyanti pacchijjanti na savanti na āsavanti na sandanti nappavattanti.
Idaṃ dukkhan ”ti —pe— Ayaṃ dukkhasamudayo ”ti —pe— Ayaṃ dukkhanirodho ”ti —pe— Ayaṃ dukkhanirodhagāminīpaṭipadā ”ti jānato passato paññāyete sotā pithīyanti pacchijjanti na savanti na āsavanti na sandanti nappavattanti.
Ime āsavā ”ti —pe— Ayaṃ āsavasamudayo ”ti —pe— Ayaṃ āsavanirodho ”ti —pe— Ayaṃ āsavanirodhagāminīpaṭipadā ”ti jānato passato paññāyete sotā pithīyanti pacchijjanti na savanti na āsavanti na sandanti nappavattanti.
Ime dhammā abhiññeyyā ”ti —pe— Ime dhammā pariññeyyā ”ti —pe— Ime dhammā pahātabbā ”ti —pe— Ime dhammā bhāvetabbā ”ti —pe— Ime dhammā sacchikātabbā ”ti jānato passato paññāyete sotā pithīyanti pacchijjanti na savanti na āsavanti na sandanti nappavattanti.
Channaṃ phassāyatanānaṃ samudayañca atthaṅgamañca assādañca ādīnavañca nissaraṇañca jānato passato paññāyete sotā pithīyanti pacchijjanti na savanti na āsavanti na sandanti nappavattanti.
Pañcannaṃ upādānakkhandhānaṃ samudayañca atthaṅgamañca assādañca ādīnavañca nissaraṇañca jānato passato —pe— Catunnaṃ mahābhūtānaṃ samudayañca atthaṅgamañca assādañca ādīnavañca nissaraṇañca jānato passato —pe— Yaṃ kiñci samudayadhammaṃ sabbaṃ taṃ nirodhadhamman ”ti jānato passato paññāyete sotā pithīyanti pacchijjanti na savanti na āsavanti na sandanti nappavattantī ’ti – paññāyete pithīyare.
Tenāha bhagavā:
“Yāni sotāni lokasmiṃ (ajitāti bhagavā)
sati tesaṃ nivāraṇaṃ
sotānaṃ saṃvaraṃ brūmi
paññāyete pithīyare ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
(Đức Thế Tôn nói: “Này Ajita,)
những dòng chảy nào hiện diện ở thế gian, niệm là sự ngăn cản chúng. Ta nói về sự chế ngự các dòng chảy,
chúng được chặn đứng bởi tuệ.”
Paññā ceva satī cāpi (iccāyasmā ajito) nāmarūpañca mārisa etaṃ me puṭṭho pabrūhi katthetaṃ uparujjhati.
(Tôn giả Ajita nói rằng:)
“Tuệ và luôn cả niệm,
danh và sắc, thưa ngài,
được tôi hỏi điều này, xin ngài hãy nói lên,
ở đâu điều này được hoại diệt?”
Ajita:
1036. Tôn giả A-ji-ta:
Trí tuệ và chánh niệm,
Cùng với danh và sắc,
Kính thưa bậc Tôn giả,
Hãy nói điều con hỏi,
Từ đâu chúng bị diệt?
Paññā ceva satī cāpī ti – Paññā ti yā paññā pajānanā vicayo pavicayo dhammavicayo sallakkhaṇā upalakkhaṇā paccupalakkhaṇā paṇḍiccaṃ kosallaṃ nepuññaṃ vebhavyā cintā upaparikkhā bhūrī medhā pariṇāyikā vipassanā sampajaññaṃ patodo paññā paññindriyaṃ paññābalaṃ paññāsatthaṃ paññāpāsādo paññāāloko paññāobhāso paññāpajjoto paññāratanaṃ amoho dhammavicayo sammādiṭṭhi. Satī ti yā sati anussati —pe— sammāsatī ’ti – paññā ceva satī cāpi.
Iccāyasmā ajito —pe— abhilāpo ’ti – iccāyasmā ajito.
Nāmarūpañca mārisā ti – Nāman ti cattāro arūpino khandhā. Rūpan ti cattāro ca mahābhūtā catunnaṃ ca mahābhūtānaṃ upādāyarūpaṃ. Mārisā ti piyavacanaṃ garuvacanaṃ sagāravasappatissādhivacanametaṃ mārisā ’ti – nāmarūpaṃ ca mārisa.
Etaṃ me puṭṭho pabrūhī ti – Etaṃ me ti yaṃ pucchāmi yaṃ yācāmi yaṃ ajjhesāmi yaṃ pasādemi. Puṭṭhoti pucchito yācito ajjhesito pasādito. Pabrūhī ti brūhi ācikkhāhi desehi paññāpehi paṭṭhapehi vivarāhi vibhajāhi uttānīkarohi pakāsehī ’ti – etaṃ me puṭṭho pabrūhi.
Katthetaṃ uparujjhatī ti katthetaṃ nirujjhati vūpasammati atthaṃ gacchati paṭippassambhatī ’ti – katthetaṃ uparujjhati.
Tenāha so brāhmaṇo:
“Paññā ceva satī cāpi (iccāyasmā ajito)
nāmarūpañca mārisa
etaṃ me puṭṭho pabrūhi
katthetaṃ uparujjhatī ”ti.
Vì thế, vị Bà-la-môn ấy đã nói rằng:
(Tôn giả Ajita nói rằng:)
“Tuệ và luôn cả niệm,
danh và sắc, thưa ngài,
được tôi hỏi điều này, xin ngài hãy nói lên,
ở đâu điều này được hoại diệt?”
Yametaṃ pañhaṃ apucchi – ajita taṃ vadāmi te yattha nāmaṃ ca rūpaṃ ca – asesaṃ uparujjhati viññāṇassa nirodhena – etthetaṃ uparujjhati.
“Ngươi đã hỏi câu hỏi về điều nào, này Ajita, Ta (sẽ) trả lời cho ngươi về điều ấy, về việc danh và sắc được hoại diệt không dư sót. Do sự diệt tận của thức, ở đây, điều này (danh và sắc) được hoại diệt.”
Thế Tôn:
1037. Câu hỏi gì Ông hỏi,
Hỡi này A-ji-ta,
Ta sẽ đáp cho Ông,
Chỗ nào danh và sắc,
Ðược đoạn diệt hoàn toàn,
Không còn lại dư tàn,
Chính do đoạn diệt thức,
Danh sắc được đoạn diệt.
Yametaṃ pañhaṃ apucchī ti – Yametan ti paññañca satiñca nāmarūpañca. Apucchī ti apucchasi ayācasi ajjhesasi pasādesī ’ti – yametaṃ pañhaṃ apucchi.
Ajita taṃ vadāmi te ti – Ajitā ti bhagavā taṃ brāhmaṇaṃ nāmena ālapati. Tan ti paññañca satiñca nāmarūpañca. Vadāmī ti vadāmi ācikkhāmi desemi paññāpemi paṭṭhapemi vivarāmi vibhajāmi uttānīkaromi pakāsemī ’ti – ajita taṃ vadāmi te.
Yattha nāmañca rūpañca asesaṃ uparujjhatī ti – Nāman ti cattāro arūpino khandhā. Rūpan ti cattāro ca mahābhūtā catunnaṃ ca mahābhūtānaṃ upādāyarūpaṃ. Asesan ti sabbena sabbaṃ sabbathā sabbaṃ asesaṃ nissesaṃ pariyādiyana vacanametaṃ asesan ’ti. Uparujjhatī ti nirujjhati vūpasammati atthaṃ gacchati paṭippassambhatī ’ti – yattha nāmañca rūpañca asesaṃ uparujjhati.
Viññāṇassa nirodhena etthetaṃ uparujjhatī ti sotāpattimaggañāṇena abhisaṅkhāraviññāṇassa nirodhena satta bhave ṭhapetvā anamatagge saṃsāre ye uppajjeyyuṃ nāmaṃ ca rūpaṃ ca etthete nirujjhanti vūpasammanti atthaṃ gacchanti paṭippassambhanti. Sakadāgāmimaggañāṇena abhisaṅkhāraviññāṇassa nirodhena dve bhave ṭhapetvā pañcasu bhavesu ye uppajjeyyuṃ nāmaṃ ca rūpaṃ ca etthete nirujjhanti vūpasammanti atthaṃ gacchanti paṭippassambhanti. Anāgāmimaggañāṇena abhisaṅkhāraviññāṇassa nirodhena ekaṃ bhavaṃ ṭhapetvā rūpadhātuyā vā arūpadhātuyā vā ye uppajjeyyuṃ nāmaṃ ca rūpaṃ ca etthete nirujjhanti vūpasammanti atthaṃ gacchanti paṭippassambhanti. Arahattamaggañāṇena abhisaṅkhāraviññāṇassa nirodhena ye uppajjeyyuṃ nāmaṃ ca rūpaṃ ca etthete nirujjhanti vūpasammanti atthaṃ gacchanti paṭippassambhanti. Arahato anupādisesāya nibbānadhātuyā parinibbāyantassa carimaviññāṇassa nirodhena paññā ca sati ca nāmaṃ ca rūpaṃ ca etthete nirujjhanti vūpasammanti atthaṃ gacchanti paṭippassambhantī ’ti – viññāṇassa nirodhena etthetaṃ uparujjhati.
Tenāha bhagavā:
“Yametaṃ pañhaṃ apucchi – ajita taṃ vadāmi te yattha nāmañca rūpañca – asesaṃ uparujjhati viññāṇassa nirodhena – etthetaṃ uparujjhatī ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Ngươi đã hỏi câu hỏi về điều nào, này Ajita, Ta (sẽ) trả lời cho ngươi về điều ấy, về việc danh và sắc được hoại diệt không dư sót. Do sự diệt tận của thức, ở đây, điều này (danh và sắc) được hoại diệt.”
Ye ca saṅkhātadhammā se – ye ca sekhā puthū idha tesaṃ me nipako iriyaṃ – puṭṭho pabrūhi mārisa.
“Những vị nào đã hiểu rõ Giáo Pháp (là các bậc A-la- hán) và những vị nào là các bậc Hữu Học đông đảo ở nơi này, tôi hỏi bậc Chín Chắn về oai nghi của những vị ấy, thưa ngài, xin ngài hãy nói lên.”
Ajita:
1038. Những ai biết tư sát,
Các pháp thuộc hữu vi,
Cùng với bậc hữu học,
Và phàm phu ở đời,
Ðược hỏi, Ngài hãy nói,
Về nếp sống của họ?
Bậc thận trọng sáng suốt,
Hãy nói lên, thưa Ngài!
Ye ca saṅkhātadhammā se ti – Saṅkhātadhammā vuccanti arahanto khīṇāsavā, kiṃkāraṇā saṅkhātadhammā vuccanti arahanto khīṇāsavā? Te saṅkhātadhammā ñātadhammā tulitadhammā tīritadhammā vibhūtadhammā vibhāvitadhammā, “sabbe saṅkhārā aniccā ”ti saṅkhātadhammā ñātadhammā tulitadhammā tīritadhammā vibhūtadhammā vibhāvitadhammā, “sabbe saṅkhārā dukkhā ”ti saṅkhātadhammā —pe— “sabbe dhammā anattā ”ti saṅkhātadhammā —pe— “avijjāpaccayā saṅkhārā ”ti saṅkhātadhammā —pe— “yaṃ kiñci samudayadhammaṃ sabbaṃ taṃ nirodhadhamman ”ti saṅkhātadhammā ñātadhammā tulitadhammā tīritadhammā vibhūtadhammā vibhāvitadhammā.
Athavā tesaṃ khandhā saṅkhātā, dhātuyo saṅkhātā, āyatanāni saṅkhātāni, gatiyo saṅkhātā, uppattiyo saṅkhātā, paṭisandhi saṅkhātā, bhavā saṅkhātā, saṃsārā saṅkhātā, vaṭṭā saṅkhātā.
Athavā te khandhapariyante ṭhitā, dhātupariyante ṭhitā, āyatanapariyante ṭhitā, gatipariyante ṭhitā, uppattipariyante ṭhitā, paṭisandhipariyante ṭhitā, bhavapariyante ṭhitā, saṃsārapariyante ṭhitā, vaṭṭapariyante ṭhitā, antime bhave ṭhitā, antime samussaye ṭhitā antimadehadharā arahanto.
1. ‘Tesāyaṃ pacchimakoṭi carimoyaṃ samussayo,jātimaraṇasaṃsāro natthi tesaṃ punabbhavo ”ti.
1.“Đối với các vị ấy, đây là lần cuối cùng, thân xác này là sau chót, sự sanh tử luân hồi, việc sanh ra lần nữa không có đối với các vị ấy.”Taṃkāraṇā saṅkhātadhammā vuccanti arahanto khīṇāsavā ’ti – ye ca saṅkhātadhammā se.
Ye ca sekhā puthū idhā ti – Sekhā ti kiṃkāraṇā vuccanti sekhā? Sikkhantīti sekhā. Kiñca sikkhanti? Adhisīlampi sikkhanti adhicittampi sikkhanti adhipaññampi sikkhanti. Katamā adhisīlasikkhā? Idha bhikkhu sīlavā hoti pātimokkhasaṃvarasaṃvuto viharati ācāragocarasampanno aṇumattesu vajjesu bhayadassāvī samādāya sikkhati sikkhāpadesu, khuddakopi sīlakkhandho mahantopi sīlakkhandho sīlaṃ patiṭṭhā ādi caraṇaṃ saṃyamo saṃvaro mukhaṃ pamukhaṃ kusalānaṃ dhammānaṃ samāpattiyā. Ayaṃ adhisīlasikkhā.
Katamā adhicittasikkhā? Idha bhikkhu vivicceva kāmehi —pe— paṭhamaṃ jhānaṃ – dutiyaṃ jhānaṃ – tatiyaṃ jhānaṃ – catutthaṃ jhānaṃ upasampajja viharati. Ayaṃ adhicittasikkhā.
Katamā adhipaññāsikkhā? Idha bhikkhu paññavā hoti udayatthagāminiyā paññāya samannāgato ariyāya nibbedhikāya sammā dukkhakkhayagāminiyā. So idaṃ dukkhanti yathābhūtaṃ pajānāti, ayaṃ dukkhasamudayoti —pe— ayaṃ dukkhanirodhoti —pe— ayaṃ dukkhanirodhagāminī paṭipadāti yathābhūtaṃ pajānāti, ime āsavāti —pe— ayaṃ āsavasamudayoti —pe— ayaṃ āsavanirodhoti —pe— ayaṃ āsavanirodhagāminī paṭipadāti yathābhūtaṃ pajānāti. Ayaṃ adhipaññāsikkhā.
Imā tisso sikkhāyo āvajjantā sikkhanti, jānantā sikkhanti, passantā sikkhanti, paccavekkhantā sikkhanti cittaṃ adhiṭṭhahantā sikkhanti, saddhāya adhimuccantā sikkhanti, viriyaṃ paggaṇhantā sikkhanti, satiṃ upaṭṭhapentā sikkhanti, cittaṃ samādahantā sikkhanti, paññāya pajānantā sikkhanti, abhiññeyyaṃ abhijānantā sikkhanti, pariññeyyaṃ parijānantā sikkhanti, pahātabbaṃ pajahantā sikkhanti, bhāvetabbaṃ bhāventā sikkhanti, sacchikātabbaṃ sacchikarontā sikkhanti ācaranti samācaranti samādāya vattanti. Taṃkāraṇā vuccanti sekhā.
Puthū ti bahukā. Ete sekhā sotāpannā ca paṭipannā ca sakādāgāmino ca paṭipannā ca anāgāmino ca paṭipannā ca arahanto ca paṭipannā ca.
Idhā ti imissā diṭṭhiyā imissā khantiyā imissā ruciyā imasmiṃ ādāye imasmiṃ dhamme imasmiṃ vinaye imasmiṃ dhammavinaye imasmiṃ pāvacane imasmiṃ brahmacariye imasmiṃ satthusāsane imasmiṃ attabhāve imasmiṃ manussaloke ’ti – ye ca sekhā puthū idha.
Tesaṃ me nipako iriyaṃ puṭṭho pabrūhi mārisā ti tvaṃ hi nipako paṇḍito paññavā buddhimā ñāṇī vibhāvī medhāvī. Tesaṃ saṅkhātadhammānaṃ ca sekhānaṃ ca. Iriyan ti cariyaṃ vuttiṃ pavattiṃ ācāraṃ gocaraṃ vihāraṃ paṭipadaṃ. Puṭṭho ti pucchito yācito ajjhesito pasādito. Pabrūhī ti brūhi ācikkhāhi desehi paññāpehi paṭṭhapehi vivarāhi vibhajāhi uttānīkarohi pakāsehi. Mārisā ti piyavacanaṃ garuvacanaṃ sagāravasappatissādhivacanametaṃ mārisā ’ti – tesaṃ me nipako iriyaṃ puṭṭho pabrūhi mārisa.
Tenāha so brāhmaṇo:
“Ye ca saṅkhātadhammā se – ye ca sekhā puthū idha tesaṃ me nipako iriyaṃ – puṭṭho pabrūhi mārisā ”ti.
Vì thế, vị Bà-la-môn ấy đã nói rằng:
“Những vị nào đã hiểu rõ Giáo Pháp (là các bậc A-la- hán) và những vị nào là các bậc Hữu Học đông đảo ở nơi này, tôi hỏi bậc Chín Chắn về oai nghi của những vị ấy, thưa ngài, xin ngài hãy nói lên.”
Kāmesu nābhigijjheyya – manasā nāvilo siyā kusalo sabbadhammānaṃ – sato bhikkhu paribbaje.
“Không nên khát khao ở các dục, không nên bị khuấy động bởi tâm, thiện xảo đối với tất cả các pháp, có niệm, vị tỳ khưu ra đi du phương.”
Thế Tôn:
1039. Chớ tham đắm các dục,
Giữ tâm tư an tịnh,
Thiện xảo trong các pháp,
Tỷ-kheo giữ chánh niệm,
Sống đời sống xuất gia.
Kāmesu nābhigijjheyyā ti – Kāmā ti uddānato dve kāmā: vatthukāmā ca kilesakāmā ca. Katame vatthukāmā? Manāpikā rūpā manāpikā saddā manāpikā gandhā manāpikā rasā manāpikā phoṭṭhabbā attharaṇā pāpuraṇā dāsidāsā ajeḷakā kukkuṭasūkarā hatthigavāssavaḷavā khettaṃ vatthuṃ hiraññaṃ suvaṇṇaṃ gāmanigamarājadhāniyo raṭṭhaṃ ca janapado ca koso ca koṭṭhāgāranaṃ ca yaṃ kiñci rajanīyaṃ vatthu, vatthukāmā.
Api ca atītā kāmā anāgatā kāmā paccuppannā kāmā ajjhattā kāmā bahiddhā kāmā ajjhattabahiddhā kāmā hīnā kāmā majjhimā kāmā paṇītā kāmā āpāyikā kāmā mānusikā kāmā dibbā kāmā paccupaṭṭhitā kāmā nimmitā kāmā paranimmitā kāmā animmitā kāmā pariggahitā kāmā apariggahitā kāmā mamāyitā kāmā amamāyitā kāmā sabbepi kāmāvacarā dhammā sabbepi rūpāvacarā dhammā sabbepi arūpāvacarā dhammā taṇhāvatthukā taṇhārammaṇā kamanīyaṭṭhena rajanīyaṭṭhena madanīyaṭṭhena kāmā. Ime vuccanti vatthukāmā.
Katame kilesakāmā? Chando kāmo rāgo kāmo chandarāgo kāmo saṅkappo kāmo rāgo kāmo saṅkapparāgo kāmo, yo kāmesu kāmacchando kāmarāgo kāmanandi kāmataṇhā kāmasineho kāmapipāsā kāmapariḷāho kāmagedho kāmamucchā kāmajjhosānaṃ kāmogho kāmayogo kāmūpādānaṃ kāmacchandanīvaraṇaṃ.
2. Addasaṃ kāma, te mūlaṃ – saṅkappā kāma jāyasi,na taṃ saṅkappayissāmi – evaṃ kāma na hehisī ti. Ime vuccanti kilesakāmā.
Gedho vuccati taṇhā yo rāgo sārāgo —pe— abhijjhā lobho akusalamūlaṃ.
Kāmesu nābhigijjheyyā ti kilesakāmena vatthukāmesu nābhigijjheyya na paḷibuddheyya agiddho assa agathito amucchito anajjhāpanno vītagedho vigatagedho cattagedho vantagedho muttagedho pahīnagedho paṭinissaṭṭhagedho vītarāgo vigatarāgo cattarāgo vantarāgo muttarāgo pahīnarāgo paṭinissaṭṭharāgo nicchāto nibbuto sītibhūto sukhapaṭisaṃvedī brahmabhūtena attanā vihareyyā ’ti – kāmesu nābhigijjheyya.
Manasā nāvilo siyā ti – Mano ti yaṃ cittaṃ mano mānasaṃ hadayaṃ paṇḍaraṃ mano manāyatanaṃ manindriyaṃ viññāṇaṃ viññāṇakkhandho tajjā manoviññāṇadhātu. Kāyaduccaritena cittaṃ āvilaṃ hoti lulitaṃ eritaṃ ghaṭṭitaṃ calitaṃ bhantaṃ avūpasantaṃ, vacīduccaritena —pe— manoduccaritena —pe— rāgena —pe— dosena —pe— mohena —pe— kodhena —pe— upanāhena —pe— makkhena —pe— palāsena —pe— issāya —pe— macchariyena —pe— māyāya —pe— sāṭheyyena —pe— thambhena —pe— sārambhena —pe— mānena —pe— atimānena —pe— madena —pe— pamādena —pe— sabbakilesehi —pe— sabbaduccaritehi —pe— sabbadarathehi —pe— [BJT Page 84] sabbapariḷāhehi —pe— sabbasantāpehi —pe— sabbākusalāhi saṅkhārehi cittaṃ āvilaṃ hoti lulitaṃ eritaṃ ghaṭṭitaṃ calitaṃ bhantaṃ avūpasantaṃ.
Manasā nāvilo siyā ti cittena anāvilo siyā alulito anerito aghaṭṭito acalito abhanto vūpasanto, āvilakare kilese jaheyya pajaheyya vinodeyya byantīkareyya anabhāvaṃ gameyya, āvilakarehi kilesehi ca ārato assa virato paṭivirato nikkhanto nissaṭo vippamutto visaññutto vimariyādīkatena cetasā vihareyyā ’ti – manasā nāvilo siyā.
Kusalo sabbadhammānan ti “sabbe saṅkhārā aniccā ”ti kusalo sabbadhammānaṃ, “sabbe saṅkhārā dukkhā ”ti kusalo sabbadhammānaṃ, “sabbe dhammā anattā ”ti kusalo sabbadhammānaṃ, “avijjāpaccayā saṅkhārā ”ti kusalo sabbadhammānaṃ, —pe— “yaṃ kiñci samudayadhammaṃ sabbaṃ taṃ nirodhadhamman ”ti kusalo sabbadhammānaṃ, evampi kusalo sabbadhammānaṃ.
Athavā aniccato kusalo sabbadhammānaṃ, dukkhato —pe— rogato – gaṇḍato – sallato – aghato – ābādhato – parato – palokato – ītito – upaddavato – [asātato ] – bhayato – upasaggato – calato – pabhaṅguto – addhuvato – atāṇato – alenato – asaraṇato – asaraṇībhūtato – rittato – tucchato – suññato – anattato – ādīnavato – vipariṇāmadhammato – asārakato – aghamūlato – vadhakato – vibhavato – sāsavato – saṅkhatato – mārāmisato – jātidhammato – jarādhammato – vyādhidhammato – maraṇadhammato – sokaparidevadukkhadomanassupāyāsadhammato – saṅkilesikadhammato – samudayato – atthaṅgamato – assādato – ādīnavato – nissaraṇato kusalo sabbadhammānaṃ, evampi kusalo sabbadhammānaṃ.
Athavā khandhakusalo dhātukusalo āyatanakusalo paṭiccasamuppādakusalo satipaṭṭhānakusalo sammappadhānakusalo iddhipādakusalo indriyakusalo balakusalo bojjhaṅgakusalo maggakusalo phalakusalo nibbānakusalo, evampi kusalo sabbadhammānaṃ.
Athavā sabbadhammā vuccanti dvādasāyatanāni. Cakkhuṃ ceva rūpā ca sotaṃ ca saddā ca ghānaṃ ca gandhā ca jivhā ca rasā ca kāyo ca phoṭṭhabbā ca mano ca dhammā ca. Yato ca kho ajjhattikabāhiresu āyatanesu chandarāgo pahīno hoti ucchinnamūlo tālavatthukato anabhāvakato āyatiṃ anuppādadhammo, ettāvatāpi kusalo sabbadhammānan ’ti – kusalo sabbadhammānaṃ.
Sato bhikkhu paribbaje ti – Sato ti catūhi kāraṇehi sato: kāye kāyānupassanāsatipaṭṭhānaṃ bhāvento sato, vedanāsu vedanānupassanāsatipaṭṭhānaṃ bhāvento sato, citte cittānupassanāsatipaṭṭhānaṃ bhāvento sato, dhammesu dhammānupassanāsatipaṭṭhānaṃ bhāvento sato.
Aparehipi catūhi kāraṇehi sato: asatiparivajjanāya sato, satikaraṇīyānaṃ dhammānaṃ katattā sato, satipaṭipakkhānaṃ dhammānaṃ hatattā sato, satinimittānaṃ dhammānaṃ apammuṭṭhattā sato.
Aparehipi catūhi kāraṇehi sato: satiyā samannāgatattā sato, satiyā vasittā sato, satiyā pāguññena samannāgatattā sato, satiyā apaccorohaṇatāya sato.
Aparehipi catūhi kāraṇehi sato: sattattā sato, santattā sato, samitattā sato, santadhammasamannāgatattā sato, buddhānussatiyā sato, dhammānussatiyā sato, saṅghānussatiyā sato, sīlānussatiyā sato, cāgānussatiyā sato, devatānussatiyā sato, ānāpānasatiyā sato, maraṇasatiyā sato, kāyagatāsatiyā sato, upasamānussatiyā sato. Yā sati anussati —pe— sammāsati satisambojjhaṅgo ekāyanamaggo, ayaṃ vuccati sati. Imāya satiyā upeto hoti samupeto upagato samupagato upapanno samupapanno samannāgato, ayaṃ vuccati sato.
Bhikkhū ti sattannaṃ dhammānaṃ bhinnattā bhikkhu: sakkāyadiṭṭhi bhinnā hoti, vicikicchā bhinnā hoti, sīlabbataparāmāso bhinno hoti, rāgo bhinno hoti, doso bhinno hoti, moho bhinno hoti, māno bhinno hoti, bhinnā honti pāpakā akusalā dhammā saṃkilesikā ponobhavikā sadarā dukkhavipākā āyatiṃ jātijarāmaraṇīyā.
3. “Pajjena katena attanā (sabhiyāti bhagavā) parinibbānagato vitiṇṇakaṅkho vibhavañca bhavañca vippahāya
vusitavā khīṇapunabbhavo sa bhikkhū ”ti – sato bhikkhu.
Sato bhikkhu paribbaje ti – sato bhikkhu paribbaje: sato gaccheyya, sato tiṭṭheyya, sato nisīdeyya, sato seyyaṃ kappeyya, sato abhikkameyya, sato paṭikkameyya, sato ālokeyya, sato vilokeyya, sato sammiñjeyya, sato pasāreyya, sato saṅghāṭipattacīvaraṃ dhāreyya, sato careyya, vihareyya irīyeyya vatteyya pāleyya yapeyya yāpeyyā ’ti – sato bhikkhu paribbaje.
Tenāha bhagavā:
“Kāmesu nābhigijjheyya – manasā nāvilo siyā kusalo sabbadhammānaṃ – sato bhikkhu paribbaje ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Không nên khát khao ở các dục, không nên bị khuấy động bởi tâm, thiện xảo đối với tất cả các pháp, có niệm, vị tỳ khưu ra đi du phương.”
Saha gāthāpariyosānā ye te brāhmaṇena saddhiṃ ekacchandā ekapayogā ekādhippāyā ekavāsanavāsitā tesaṃ anekapāṇasahassānaṃ virajaṃ vītamalaṃ dhammacakkhuṃ udapādi: “Yaṃ kiñci samudayadhammaṃ sabbaṃ taṃ nirodhadhamman ”ti. Tassa ca pana brāhmaṇassa anupādāya āsavehi cittaṃ vimucci. Saha arahattappattā ajinajaṭāvākacīratidaṇḍakamaṇḍalukesā ca massu ca antarahitā. Ajito bhaṇḍukāsāyavatthavasano saṅghāṭipattacīvaradharo [bhikkhu ] anvatthapaṭipattiyā pañjaliko bhagavantaṃ namassamāno nisinno hoti: “Satthā me bhante, bhagavā sāvako ’hamasmī ”ti.
Cùng với lúc kết thúc câu kệ ngôn, Pháp nhãn không nhiễm bụi trần, không vết nhơ đã sanh khởi đến nhiều ngàn sanh mạng là những người có cùng sự mong muốn, có cùng sự thực hành, có cùng chủ tâm, có cùng sự huân tập thành thói quen (trong quá khứ) với vị Bà-la-môn ấy, rằng: “Điều gì có bản tánh được sanh lên, toàn bộ điều ấy đều có bản tánh hoại diệt.” Và hơn nữa, tâm của vị Bà-la-môn ấy đã không còn chấp thủ và đã được giải thoát khỏi các lậu hoặc. Ngay khi đạt đến phẩm vị A-la-hán, áo choàng da dê, tóc bện, y phục vỏ cây, gậy chống ba chân, bình nước, tóc, và râu đều biến mất. Ajita trở thành [vị tỳ khưu] có đầu cạo, mặc y phục vải màu ca-sa, mang y hai lớp, bình bát, và y, bằng hành động thuận theo đạo lý, đã ngồi xuống, chắp tay lên, cúi lạy đức Thế Tôn (nói rằng): “Bạch ngài, đức Thế Tôn là bậc đạo sư của con, con là người đệ tử.”
Ajitasuttaniddeso samatto.
Diễn Giải Kinh Ajita được hoàn tất.
2. TISSAMETTEYYASUTTANIDDESO – DIỄN GIẢI KINH TISSAMETTEYYA
(III) Các câu hỏi của thanh niên Tissametteyya
Ko ’dha santusito loke (iccāyasmā tissametteyyo ) kassa no santi iñjitā ko ubhantamabhiññāya majjhe mantā na lippati kaṃ brūsi mahāpuriso ’ti ko ’dha sibbanim accagā.
(Tôn giả Tissametteyya nói rằng:)
“Ở đây, người nào được hài lòng ở thế gian?
Đối với người nào các sự dao động không hiện hữu?
Người nào, sau khi biết rõ cả hai thái cực,
không bị nhiễm bẩn ở khoảng giữa nhờ vào trí tuệ?
Ngài nói ai là ‘bậc đại nhân’?
Ở đây, người nào đã vượt qua thợ may (tham ái)?”
Tissa:
1040. Tissa Met-tey-ya:
Ai thỏa mãn ở đời,
Với ai không dao động,
Ai thắng tri hai biên,
Ở giữa, không dính líu,
Ai Ngài gọi đại nhân,
Ở đời, ai vượt khỏi,
Thêu dệt các ái nhiễm?
Kodha santusito loke ti – ko loke tuṭṭho santuṭṭho attamano paripuṇṇasaṅkappo ’ti – kodha santusito loke.
Iccāyasmā tissametteyyo ti – Iccā ti padasandhi padasaṃsaggo padapāripūri akkharasamavāyo byañjanasiliṭṭhatā padānupubbatā nāmetaṃ iccā ’ti. Āyasmā ti piyavacanaṃ garuvacanaṃ sagāravasappatissādhivacanametaṃ āyasmā ’ti. Tisso ti tassa brāhmaṇassa nāmaṃ saṅkhā samaññā paññatti vohāro nāmaṃ nāmakammaṃ nāmadheyyaṃ nirutti byañjanaṃ abhilāpo. Metteyyo ti tassa brāhmaṇassa gottaṃ saṅkhā samaññā paññatti vohāro ’ti – iccāyasmā tissametteyyo.
Kassa no santi iñjitā ti taṇhiñjitaṃ diṭṭhiñjitaṃ māniñjitaṃ kilesiñjitaṃ kāmiñjitaṃ. Kassime iñjitā natthi, na santi na saṃvijjanti nūpalabbhanti, pahīnā samucchinnā vūpasantā paṭippassaddhā abhabbuppattikā ñāṇagginā daḍḍhā ’ti – kassa no santi iñjitā.
Ko ubhantamabhiññāyā ti ko ubho ante abhiññāya jānitvā tulayitvā tīrayitvā vibhāvayitvā vibhūtaṃ katvā ’ti – ko ubhantamabhiññāya.
Majjhe mantā na lippatī ti majjhe mantāya na lippati, alitto anupalitto nikkhanto nissaṭo vippamutto visaññutto vimariyādīkatena cetasā viharatī ’ti – majjhe mantā na lippati.
Kaṃ brūsi mahāpuriso ti mahāpuriso aggapuriso seṭṭhapuriso viseṭṭhapuriso pāmokkhapuriso uttamapuriso padhānapuriso pavarapuriso ’ti. Kaṃ brūsi: kaṃ kathesi kaṃ maññasi kaṃ bhaṇasi kaṃ passasi kaṃ voharasī ’ti – kaṃ brūsi mahāpurisoti.
Kodha sibbanimaccagā ti ko idha sibbaniṃ taṇhaṃ accagā upaccagā atikkanto samatikkanto vītivatto ’ti – kodha sibbanimaccagā.
Tenāha so brāhmaṇo:
“Ko ’dha santusito loke (iccāyasmā tissametteyyo)
kassa no santi iñjitā
ko ubhantamabhiññāya
majjhe mantā na lippati
kaṃ brūsi mahāpuriso ’ti
ko ’dha sibbanimaccagā ”ti.
Vì thế, vị Bà-la-môn ấy đã nói rằng:
(Tôn giả Tissametteyya nói rằng:)
“Ở đây, người nào được hài lòng ở thế gian?
Đối với người nào các sự dao động không hiện hữu?
Người nào, sau khi biết rõ cả hai thái cực,
không bị nhiễm bẩn ở khoảng giữa nhờ vào trí tuệ?
Ngài nói ai là ‘bậc đại nhân’?
Ở đây, người nào đã vượt qua thợ may (tham ái)?”
Kāmesu brahmacariyavā (metteyyāti bhagavā) vītataṇho sadā sato saṅkhāya nibbuto bhikkhu tassa no santi iñjitā.
(Đức Thế Tôn nói: “Này Metteyya,)
vị có Phạm hạnh về các dục,
đã xa lìa tham ái, luôn luôn có niệm,
sau khi đã suy xét, vị tỳ khưu được tịch tịnh.
Đối với vị ấy, các sự dao động không hiện hữu.
Thế Tôn:
1041. Thế Tôn liền đáp rằng:
Hỡi này Met-tê-ya!
Giữa dục, sống Phạm hạnh,
Không ái, luôn chánh niệm,
Tỷ-kheo lặng tính toán,
An tịnh, không dao động.
Kāmesu brahmacariyavā ti – Kāmā ti uddānato dve kāmā vatthukāmā ca kilesakāmā ca —pe— Ime vuccanti vatthukāmā. —pe— Ime vuccanti kilesakāmā.
Brahmacariyavā ti brahmacariyaṃ vuccati asaddhammasamāpattiyā ārati virati paṭivirati veramaṇī akiriyā akaraṇaṃ anajjhāpatti velā-anatikkamo. Api ca nippariyāyena brahmacariyaṃ vuccati ariyo aṭṭhaṅgiko maggo, seyyathīdaṃ sammādiṭṭhi sammāsaṅkappo sammāvācā sammākammanto sammāājīvo sammāvāyāmo sammāsati sammāsamādhi. Yo iminā ariyena aṭṭhaṅgikena maggena upeto samupeto upagato samupagato upapanno samupapanno samannāgato, so vuccati brahmacariyavā. Yathā ca dhanena ‘dhanavā ’ti vuccati, bhogena ‘bhogavā ’ti vuccati, yasena ‘yasavā ’ti vuccati, sippena ‘sippavā ’ti vuccati, sīlena ‘sīlavā ’ti vuccati, viriyena ‘viriyavā ’ti vuccati, paññāya ‘paññavā ’ti vuccati, vijjāya ‘vijjavā ’ti vuccati, evameva yo iminā ariyena aṭṭhaṅgikena maggena upeto samupeto upagato samupagato upapanno samupapanno samannāgato so vuccati brahmacariyavā ’ti – kāmesu brahmacariyavā.
Metteyyā ti bhagavā taṃ brāhmaṇaṃ gottena ālapati. Bhagavā ti gāravādhivacanametaṃ —pe— sacchikā paññatti, yadidaṃ bhagavā ’ti – metteyyāti bhagavā.
Vītataṇho sadā sato ti – Taṇhā ti rūpataṇhā –nt–dhammataṇhā. Yassesā taṇhā pahīnā samucchinnā vūpasantā paṭippassaddhā abhabbuppattiyā ñāṇagginā daḍḍhā, so vuccati vītataṇho vigatataṇho cattataṇho vantataṇho muttataṇho pahīnataṇho paṭinissaṭṭhataṇho vītarāgo vigatarāgo cattarāgo vantarāgo muttarāgo pahīnarāgo paṭinissaṭṭharāgo nicchāto nibbuto sītibhūto sukhapaṭisaṃvedī brahmabhūtena attanā viharati. Sadā ti sadā sabbadā sabbakālaṃ niccakālaṃ dhuvakālaṃ satataṃ samitaṃ abbokiṇṇaṃ poṅkhānupoṅkhaṃ udakomikājātaṃ avīcisantatisahitaṃ phussitaṃ purebhattaṃ pacchābhattaṃ purimaṃ yāmaṃ majjhimaṃ yāmaṃ pacchimaṃ yāmaṃ kāḷe juṇhe vasse hemante gimhe purime vayokhandhe majjhime vayokhandhe pacchime vayokhandhe. Sato ti catūhi kāraṇehi sato: kāye kāyānupassanāsatipaṭṭhānaṃ bhāvento sato vedanāsu vedanānupassanāsatipaṭṭhānaṃ bhāvento sato, citte cittānupassanāsatipaṭṭhānaṃ bhāvento sato, dhammesu dhammānupassanāsatipaṭṭhānaṃ bhāvento sato —pe— So vuccati sato ’ti – vītataṇho sadā sato.
Saṅkhāya nibbuto bhikkhū ti – Saṅkhā vuccati ñāṇaṃ, yā paññā pajānanā vicayo pavicayo —pe— amoho dhammavicayo sammādiṭṭhi. Saṅkhāyā ti saṅkhāya jānitvā tulayitvā tīrayitvā vibhāvayitvā vibhūtaṃ katvā, ‘sabbe saṅkhārā aniccā ’ti saṅkhāya jānitvā tulayitvā tīrayitvā vibhāvayitvā vibhūtaṃ katvā, ‘sabbe saṅkhārā dukkhā ’ti —pe— ‘sabbe dhammā anattā ’ti —pe— ‘avijjāpaccayā saṅkhārā ’ti –pe– ‘Yaṃ kiñci samudayadhammaṃ sabbaṃ taṃ nirodhadhamman ’ti saṅkhāya jānitvā tulayitvā tīrayitvā vibhāvayitvā vibhūtaṃ katvā.
Athavā aniccato saṅkhāya jānitvā —pe— dukkhato —pe— rogato —pe— gaṇḍato —pe— sallato —pe— nissaraṇato saṅkhāya jānitvā tulayitvā tīrayitvā vibhāvayitvā vibhūtaṃ katvā. Nibbuto ti rāgassa nibbāpitattā nibbuto, dosassa nibbāpitattā nibbuto, mohassa nibbāpitattā nibbuto, kodhassa – upanāhassa – makkhassa – paḷāsassa – issāya – macchariyassa – māyāya – sāṭheyyassa – thambhassa – sārambhassa – mānassa – atimānassa – madassa – pamādassa – sabbakilesānaṃ – sabbaduccaritānaṃ – sabbadarathānaṃ – sabbapariḷāhānaṃ – sabbasantāpānaṃ – sabbākusalābhisaṅkhārānaṃ nibbāpitattā nibbuto. Bhikkhū ti sattannaṃ dhammānaṃ bhinnattā bhikkhu —pe— vusitavā khīṇapunabbhavo sa bhikkhū ’ti – saṅkhāya nibbuto bhikkhu.
assa no santi iñjitā ti – Tassā ti arahato khīṇāsavassa. Iñjitā ti taṇhiñjitaṃ diṭṭhiñjitaṃ māniñjitaṃ kilesiñjitaṃ kāmiñjitaṃ, tassime iñjitā natthi, na santi, na saṃvijjanti, nūpalabbhanti, pahīnā samucchinnā vūpasantā paṭippassaddhā abhabbuppattikā ñāṇagginā daḍḍhā ’ti – tassa no santi iñjitā.
Tenāha bhagavā:
“Kāmesu brahmacariyavā (metteyyāti bhagavā) vītataṇho sadā sato, saṅkhāya nibbuto bhikkhu tassa no santi iñjitā ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
(Đức Thế Tôn nói: “Này Metteyya,)
vị có Phạm hạnh về các dục,
đã xa lìa tham ái, luôn luôn có niệm,
sau khi đã suy xét, vị tỳ khưu được tịch tịnh.
Đối với vị ấy, các sự dao động không hiện hữu.
So ubhantamabhiññāya majjhe mantā na lippati taṃ brūmi mahāpuriso ’ti so ’dha sibbanimaccagā.
Vị ấy, sau khi biết rõ cả hai thái cực,
không bị nhiễm bẩn ở khoảng giữa nhờ vào trí tuệ.
Ta nói vị ấy là ‘bậc đại nhân.’
Ở đây, vị ấy vượt qua thợ may (tham ái).”1042. Ai thắng tri hai biên,Chặng giữa, nhờ suy tư,Không dính líu bị nhiễm,Ta gọi là đại nhân,Vị ấy, ở đời này,Vượt khỏi sự thêu dệt,Các ái nhiễm tham muốn.
So ubhantamabhiññāya majjhe mantā na lippatī ti – Antā ti dve antā: phasso eko anto, phassasamudayo dutiyo anto, phassanirodho majjhe. Atītaṃ eko anto, anāgataṃ dutiyo anto, paccuppannaṃ majjhe. Sukhā vedanā eko anto, dukkhā vedanā dutiyo anto, adukkhamasukhā vedanā majjhe. Nāmaṃ eko anto, rūpaṃ dutiyo anto, viññāṇaṃ majjhe. Cha ajjhattikāni āyatanāni eko anto, cha bāhirāni āyatanāni dutiyo anto, viññāṇaṃ majjhe. Sakkāyo eko anto, sakkāyasamudayo dutiyo anto, sakkāyanirodho majjhe. Mantā vuccati paññā yā paññā pajānanā —pe— amoho dhammavicayo sammādiṭṭhi.
Lepā ti dve lepā: taṇhālepo ca diṭṭhilepo ca.
Katamo taṇhālepo? Yāvatā taṇhāsaṅkhātena sīmakataṃ mariyādīkataṃ odhikataṃ pariyantakataṃ pariggahitaṃ mamāyitaṃ, idaṃ mama, etaṃ mama, ettakaṃ mama, ettāvatā mama rūpā saddā gandhā rasā phoṭṭhabbā attharaṇā pāpuraṇā dāsidāsā ajeḷakā kukkuṭasūkarā hatthigavāssavaḷavā khettaṃ vatthuṃ hiraññaṃ suvaṇṇaṃ gāmanigamarājadhāniyo raṭṭhaṃ ca janapado ca koso ca koṭṭhāgāraṃ ca kevalampi mahāpaṭhaviṃ taṇhāvasena mamāyati. Yāvatā aṭṭhasatataṇhāvicaritaṃ, ayaṃ taṇhālepo.
Katamo diṭṭhilepo? Vīsativatthukā sakkāyadiṭṭhi, dasavatthukā micchādiṭṭhi, dasavatthukā antaggāhikā diṭṭhi, yā evarūpā diṭṭhi diṭṭhigataṃ diṭṭhigahaṇaṃ diṭṭhikantāro diṭṭhivisūkāyikaṃ diṭṭhivipphanditaṃ diṭṭhisaṃyojanaṃ gāho paṭiggāho abhiniveso parāmāso kummaggo micchāpatho micchattaṃ titthāyatanaṃ vipariyesagāho viparītagāho vipallāsagāho micchāgāho ayāthāvatasmiṃ yāthāvatanti gāho yāvatā dvāsaṭṭhidiṭṭhigatāni, ayaṃ diṭṭhilepo.
So ubhantamabhiññāya majjhe mantā na lippatī ti so ubho ca ante majjhañca mantāya abhiññāya jānitvā tulayitvā tīrayitvā vibhāvayitvā vibhūtaṃ katvā, na lippati na palippati na upalippati, alitto asaṃlitto anupalitto nikkhanto nissaṭo vippamutto visaṃyutto vimariyādīkatena cetasā viharatī ’ti – ‘so ubhantamabhiññāya majjhe mantā na lippati.
Taṃ brūmi mahāpuriso ti mahāpuriso aggapuriso seṭṭhapuriso viseṭṭhapuriso pāmokkhapuriso uttamapuriso pavarapuriso ’ti, taṃ brūmi taṃ kathemi [taṁ maññāmi ] taṃ bhaṇāmi taṃ dīpemi taṃ voharāmi.
Āyasmā sāriputto bhagavantaṃ etadavoca: “Mahāpuriso mahāpurisoti bhante, vuccati. Kittāvatā nu kho bhante mahāpuriso hotī ”ti? “Vimuttacittattā khvāhaṃ sāriputta ‘mahāpuriso ’ti vadāmi.
Avimuttacittattā no mahāpuriso ’ti vadāmi. Kathaṃ ca sāriputta, vimuttacitto hoti? Idha sāriputta, bhikkhu ajjhattaṃ kāye kāyānupassī viharati ātāpī sampajāno satimā vineyya loke abhijjhādomanassaṃ, tassa kāye kāyānupassino viharato cittaṃ virajjati vimuccati anupādāya āsavehi; vedanāsu —pe— citte —pe— dhammesu dhammānupassī viharati ātāpī sampajāno satimā vineyya loke abhijjhādomanassaṃ, tassa dhammesu dhammānupassino viharato cittaṃ virajjati vimuccati anupādāya āsavehi. Evaṃ kho sāriputta, vimuttacitto hoti. Vimuttacittattā khvāhaṃ sāriputta, mahāpurisoti vadāmi. Avimuttacittattā1 no mahāpurisoti vadāmī ”ti; – taṃ brūmi mahāpuriso ’ti.
Sodha sibbanimaccagā ti sibbanī vuccati taṇhā. Yo rāgo sārāgo —pe— abhijjhā lobho akusalamūlaṃ. Yassesā sibbanī taṇhā pahīnā samucchinnā vūpasantā paṭippassaddhā abhabbuppattikā ñāṇagginā daḍḍhā, so sibbaniṃ taṇhaṃ accagā upaccagā atikkanto samatikkanto vītivatto ’ti – sodha sibbanimaccagā.
Tenāha bhagavā: “So ubhantamabhiññāya majjhe mattā na lippati taṃ brūmi mahāpurisoti so’dha sibbanimaccagā ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
Vị ấy, sau khi biết rõ cả hai thái cực,
không bị nhiễm bẩn ở khoảng giữa nhờ vào trí tuệ.
Ta nói vị ấy là ‘bậc đại nhân.’
Ở đây, vị ấy vượt qua thợ may (tham ái).”
Saha gāthāpariyosānā ye te brāhmaṇena saddhiṃ ekacchandā ekapayogā ekādhippāyā ekavāsanavāsitā, tesaṃ anekapāṇasahassānaṃ virajaṃ vītamalaṃ dhammacakkhuṃ udapādi: ‘Yaṃ kiñci samudayadhammaṃ sabbaṃ taṃ nirodhadhamman ’ti. Tassa brāhmaṇassa anupādāya āsavehi cittaṃ vimucci. Saha arahattappattā ajinajaṭāvākacīratidaṇḍakamaṇḍalukesā ca massu ca antarahitā. Bhaṇḍukāsāyavatthavasano saṅghāṭipattacīvaradharo anavatthapaṭipattiyā pañjaliko bhagavantaṃ namassamāno nisinno hoti: ‘Satthā me bhante bhagavā sāvako’ hama’smī ”ti.
Tissametteyya suttaniddeso samatto.
Diễn Giải Kinh Tissametteyya được hoàn tất.
3. PUṆṆAKASUTTANIDDESO – DIỄN GIẢI KINH PUṆṆAKA
(IV) Câu hỏi của thanh niên Punnaka:
Anejaṃ mūladassāviṃ (iccāyasmā puṇṇako) atthi pañhena āgamaṃ kiṃ nissitā isayo manujā khattiyā brāhmaṇā devatānaṃ yaññamakappayiṃsu puthū idha loke pucchāmi taṃ bhagavā brūhi metaṃ.
(Tôn giả Puṇṇaka nói rằng:) “Với ý định hỏi câu hỏi, tôi đã đi đến với bậc không dục vọng, bậc có sự nhìn thấy gốc rễ (của các pháp): ‘Nương tựa vào điều gì, các vị ẩn sĩ, loài người, các Sát-đế-lỵ, các Bà-la-môn, đối với các thiên thần, đã chuẩn bị lễ hiến tế đông đảo tại nơi này, ở thế gian. Thưa đức Thế Tôn, tôi hỏi ngài. Xin ngài hãy trả lời tôi về điều này.”
Punnaka:
1043. Tôn giả Pun-na-ka:
Với ai không dao động,
Thấy rõ được cội gốc,
Con đến với câu hỏi,
Liên hệ đến mục đích,
Bậc ẩn sĩ, loài Người,
Sát-đế-ly, Phạm chí,
Do họ y chỉ gì,
Tế đàn cho chư Thiên.
Ðã tổ chức rộng lớn?
Con hỏi bậc Thế Tôn,
Hãy trả lời cho con.
Anejaṃ mūladassāvin ti – Ejā vuccati taṇhā. Yo rāgo sārāgo —pe— abhijjhā lobho akusalamūlaṃ. Sā ejā taṇhā buddhassa bhagavato pahīnā ucchinnamūlā tālāvatthukatā anabhāvakatā āyatiṃ anuppādadhammā. Tasmā buddho anejo. Ejāya pahīnattā anejo. Bhagavā lābhepi na iñjati, alābhepi na iñjati, yasepi na iñjati, ayasepi na iñjati, pasaṃsāyapi na iñjati nindāyapi na iñjati, sukhepi na iñjati, dukkhepi na iñjati, na calati na vedhati nappavedhatī ’ti – anejaṃ. Mūladassāvin ti bhagavā mūladassāvī hetudassāvī nidānadassāvī sambhavadassāvī pabhavadassāvī samuṭṭhānadassāvī āhāradassāvī ārammaṇadassāvī paccayadassāvī samudayadassāvī.
Tīṇi akusalamūlāni: lobho akusalamūlaṃ, doso akusalamūlaṃ, moho akusalamūlaṃ. Vuttaṃ hetaṃ bhagavatā: “Tīṇimāni bhikkhave nidānāni kammānaṃ samudayāya. Katamāni tīṇi? Lobho nidānaṃ kammānaṃ samudayāya, doso nidānaṃ kammānaṃ samudayāya, moho nidānaṃ kammānaṃ samudayāya. Na bhikkhave lobhajena kammena dosajena kammena mohajena kammena devā paññāyanti, manussā paññāyanti, yā vā panaññāpi kāci sugatiyo. Atha kho bhikkhave lobhajena kammena dosajena kammena mohajena kammena nirayo paññāyati, tiracchānayoni paññāyati, pettivisayo paññāyati, yā vā panaññāpi kāci duggatiyo niraye tiracchānayoniyā pettivisaye attabhāvābhinibbattiyā. Imāni tīṇi akusalamūlānī ”ti bhagavā jānāti passati. Evampi bhagavā mūladassāvī —pe— samudayadassāvī.
Tīṇī kusalamūlāni: alobho kusalamūlaṃ, adoso kusalamūlaṃ, amoho kusalamūlaṃ. Vuttaṃ hetaṃ bhagavatā: “Tīṇimāni —pe— Na bhikkhave alobhajena kammena adosajena kammena amohajena kammena nirayo paññāyati, tiracchānayoni paññāyati, pettivisayo paññāyati, yā vā panaññāpi kāci duggatiyo. Atha kho bhikkhave, alobhajena kammena adosajena kammena amohajena kammena devā paññāyanti, manussā paññāyanti, yā vā panaññāpi kāci sugatiyo devesu ca manussesu ca attabhāvābhinibbattiyā. Imāni tīṇi kusalamūlānī ”ti bhagavā jānāti passati. Evampi bhagavā mūladassāvī —pe— samudayadassāvī.
Vuttaṃ hetaṃ bhagavatā: “Ye keci bhikkhave dhammā akusalā akusalabhāgiyā akusalapakkhikā sabbete avijjāmūlakā avijjāsamosaraṇā, avijjāsamugghātā, sabbe te samugghātaṃ gacchantī ”ti bhagavā jānāti passati. Evampi bhagavā mūladassāvī —pe— samudayadassāvī.
Vuttaṃ hetaṃ bhagavatā: “Ye keci me bhikkhave dhammā kusalā kusalabhāgiyā kusalapakkhikā sabbe te appamādamūlakā, appamādasamosaraṇā, appamādo tesaṃ dhammānaṃ aggamakkhāyatī ”ti bhagavā jānāti passati. Evampi bhagavā mūladassāvī —pe— samudayadassāvī.
Athavā bhagavā jānāti passati “avijjā mūlaṃ saṅkhārānaṃ, saṅkhārā mūlaṃ viññāṇassa, viññāṇaṃ mūlaṃ nāmarūpassa, nāmarūpaṃ mūlaṃ saḷāyatanassa, saḷāyatanaṃ mūlaṃ phassassa, phasso mūlaṃ vedanāya, vedanā mūlaṃ taṇhāya, taṇhā mūlaṃ upādānassa, upādānaṃ mūlaṃ bhavassa, bhavo mūlaṃ jātiyā, jāti mūlaṃ jarāmaraṇassā ”ti bhagavā jānāti passati. Evampi bhagavā mūladassāvī —pe— samudayadassāvī.
Athavā, bhagavā jānāti passati “cakkhu mūlaṃ cakkhurogānaṃ, sotaṃ mūlaṃ sotarogānaṃ, ghānaṃ mūlaṃ ghānarogānaṃ, jivhā mūlaṃ jivhārogānaṃ, kāyo mūlaṃ kāyarogānaṃ, mano mūlaṃ cetasikānaṃ dukkhānan ”ti bhagavā jānāti passati. Evampi bhagavā mūladassāvī hetudassāvī nidānadassāvī sambhavadassāvī pabhavadassāvī samuṭṭhānadassāvī āhāradassāvī ārammaṇadassāvī paccayadassāvī, samudayadassāvī ’ti – anejaṃ mūladassāviṃ.
Iccāyasmā puṇṇako ti – Iccā ti padasandhi —pe— iccāyasmā puṇṇako.
Atthi pañhena āgaman ti pañhena atthiko āgatomhi, pañhaṃ pucchitukāmo āgatomhi, pañhaṃ sotukāmo āgatomhī ’ti evampi ‘atthi pañhena āgamaṃ.’ Athavā pañhatthikānaṃ pañhaṃ pucchitukāmānaṃ pañhaṃ sotukāmānaṃ āgamanaṃ abhikkamanaṃ upasaṅkamanaṃ payirupāsanaṃ atthī ’ti evampi ‘atthi pañhena āgamaṃ.’ Athavā pañhāgamo tuyhaṃ atthi, tvampi pahū visavi alamatto mayā pucchitaṃ kathetuṃ vissajjetuṃ vahassetaṃ bhāran ’ti evampi ‘atthi pañhena āgamaṃ.’
Kiṃ nissitā isayo manujā ti – [Kiṁnissitā ti ] kiṃ nissitā āsitā allīnā upagatā ajjhositā adhimuttā. Isayo ti isināmakā ye keci isipabbajjaṃ pabbajitā: ājīvakā nighaṇṭhā jaṭilā tāpasā. Manujā ti manussā vuccantī ’ti – kiṃ nissitā isayo manujā.
Khattiyā brāhmaṇā devatānan ti – Khattiyā ti ye keci khattiyajātikā. Brāhmaṇā ti ye keci bhovādikā. Devatānan ti ājīvakasāvakānaṃ ājīvakā devatā, nighaṇṭhasāvakānaṃ nighaṇṭhā devatā, jaṭilasāvakānaṃ jaṭilā devatā, paribbājakasāvakānaṃ paribbājakā devatā, avaruddhakasāvakānaṃ avaruddhakā devatā, hatthivatikānaṃ hatthī devatā, assavatikānaṃ assā devatā, govatikānaṃ gāvo devatā, kukkuravatikānaṃ kukkurā devatā, kākavatikānaṃ kākā devatā, vāsudevavatikānaṃ vāsudevo devatā, baladevavatikānaṃ baladevo devatā, puṇṇabhaddavatikānaṃ puṇṇabhaddo devatā, maṇibhaddavatikānaṃ maṇibhaddo devatā, aggivatikānaṃ aggi devatā, nāgavatikānaṃ nāgā devatā, supaṇṇavatikānaṃ supaṇṇā devatā, yakkhavatikānaṃ yakkhā devatā, asuravatikānaṃ asurā devatā, gandhabbavatikānaṃ gandhabbā devatā, mahārājavatikānaṃ mahārājāno devatā, candavatikānaṃ cando devatā, suriyavatikānaṃ suriyo devatā, indavatikānaṃ indo devatā, brahmavatikānaṃ brahmā devatā, devavatikānaṃ devo devatā disāvatikānaṃ disā devatā, ye yesaṃ dakkhiṇeyyā te tesaṃ devatā ’ti – khattiyā brāhmaṇā devatānaṃ.
Yaññamakappayiṃsu puthūdha loke ti – yaññaṃ vuccati deyyadhammo: cīvara-piṇḍapāta-senāsana-gilānapaccayabhesajja-parikkhāraṃ annaṃ pānaṃ vatthaṃ yānaṃ mālāgandhavilepanaṃ, seyyāvasathapadīpeyyaṃ. Yaññamakappayiṃsu ti ye’pi yaññaṃ esanti gavesanti pariyesanti cīvara-piṇḍapāta-senāsana-gilānapaccayabhesajja-parikkhāraṃ annaṃ pānaṃ vatthaṃ yānaṃ mālagandhavilepanaṃ seyyāvasathapadīpeyyaṃ te’pi yaññaṃ kappenti. Ye’pi yaññaṃ abhisaṅkharonti cīvara-piṇḍapāta-senāsana-gilānapaccayabhesajja-parikkhāraṃ annaṃ pānaṃ —pe— seyyāvasathapadīpeyyaṃ, te’pi yaññaṃ kappenti. Ye’pi yaññaṃ denti yajanti pariccajanti cīvara-piṇḍapāta-senāsana-gilānapaccayabhesajja-parikkhāraṃ annaṃ pānaṃ —pe— seyyāvasathapadīpeyyaṃ, te’pi yaññaṃ kappenti. Puthū ti yaññā vā ete puthū, yaññayājakā vā ete puthū, dakkhiṇeyyā vā ete puthū.
Kathaṃ yaññā vā ete puthū? Bahukā ete yaññā: cīvara-piṇḍapāta-gilānapaccayabhesajja-parikkhāraṃ annaṃ pānaṃ vatthaṃ yānaṃ mālāgandhavilepanaṃ seyyāvasathapadīpeyyaṃ, evaṃ yañña vā ete puthū. Kathaṃ yaññayājakā vā ete puthū? Bahukā ete yaññayājakā: khattiyā ca brāhmaṇā ca vessā ca suddā ca gahaṭṭhā ca pabbajitā ca devā ca manussā ca, evaṃ yaññayājakā vā ete puthū. Kathaṃ dakkhiṇeyyā vā ete puthū? Bahukā ete dakkhiṇeyyā puthū: samaṇabrāhmaṇā kapaṇaddhikavaṇibbakayācakā, evaṃ dakkhiṇeyyā vā ete puthū. Idha loke ti manussaloke ’ti – yaññamakappayiṃsu puthūdha loke.
Pucchāmi taṃ bhagavā brūhi metan ti – Pucchā ti tisso pucchā: adiṭṭhajotanā pucchā, diṭṭhasaṃsandanā pucchā, vimaticchedanā pucchā. Katamā adiṭṭhajotanā pucchā? Pakatiyā lakkhaṇaṃ aññātaṃ hoti adiṭṭhaṃ atulitaṃ atīritaṃ avibhūtaṃ avibhāvitaṃ, tassa ñāṇāya dassanāya tulanāya tīraṇāya vibhāvanāya pañhaṃ pucchati, ayaṃ adiṭṭhajotanā pucchā. Katamā diṭṭhasaṃsandanā pucchā? Pakatiyā lakkhaṇaṃ ñātaṃ hoti diṭṭhaṃ tulitaṃ tīritaṃ vibhūtaṃ vibhāvitaṃ. Aññehi paṇḍitehi saddhiṃ saṃsandanatthāya pañhaṃ pucchati, ayaṃ diṭṭhasaṃsandanā pucchā. Katamā vimaticchedanā pucchā? Pakatiyā saṃsayapakkhanno hoti vimatipakkhanno dveḷhakajāto “evannu kho na nu kho kinnu kho kathaṃnu kho ”ti. So vimaticchedanatthāya pañhaṃ pucchati, ayaṃ vimaticchedanā pucchā. Imā tisso pucchā.
Aparāpi tisso pucchā: manussapucchā, amanussapucchā, nimmitapucchā. Katamā manussapucchā? Manussā buddhaṃ bhagavantaṃ upasaṅkamitvā pañhaṃ pucchanti: bhikkhū pucchanti, bhikkhuniyo pucchanti, upāsakā pucchanti, upāsikāyo pucchanti, rājāno pucchanti, khattiyā pucchanti, brāhmaṇā pucchanti, vessā pucchanti, suddā pucchanti, gahaṭṭhā pucchanti, pabbajitā pucchanti; ayaṃ manussapucchā. Katamā amanussapucchā? Amanussā buddhaṃ bhagavantaṃ upasaṃkamitvā pañhaṃ pucchanti: nāgā pucchanti, supaṇṇā pucchanti, yakkhā pucchanti, asurā pucchanti, gandhabbā pucchanti, mahārājāno pucchanti, indā pucchanti, brahmāno pucchanti, devā pucchanti; ayaṃ amanussapucchā. Katamā nimmitapucchā? Yaṃ bhagavā rūpaṃ abhinimmināti manomayaṃ sabbaṅgapaccaṅgaṃ ahīnindriyaṃ, taṃ so nimmito buddhaṃ bhagavantaṃ upasaṅkamitvā pañhaṃ pucchati, bhagavā vissajjeti; ayaṃ nimmitapucchā. Imā tisso pucchā.
Aparāpi tisso pucchā: attatthapucchā paratthapucchā ubhayatthapucchā. Aparāpi tisso pucchā: diṭṭhadhammikatthapucchā samparāyikatthapucchā paramatthapucchā. Aparāpi tisso pucchā: anavajjatthapucchā nikkilesatthapucchā vodānatthapucchā. Aparāpi tisso pucchā: atītapucchā anāgatapucchā paccuppannapucchā. Aparāpi tisso pucchā: ajjhattapucchā, bahiddhāpucchā, ajjhattabahiddhāpucchā. Aparāpi tisso pucchā: kusalapucchā akusalapucchā avyākatapucchā. Aparāpi tisso pucchā: khandhapucchā, dhātupucchā, āyatanapucchā. Aparāpi tisso pucchā: satipaṭṭhānapucchā sammappadhānapucchā iddhipādapucchā. Aparāpi tisso pucchā: indriyapucchā balapucchā bojjhaṅgapucchā. Aparāpi tisso pucchā: maggapucchā phalapucchā nibbānapucchāti.
Pucchāmi tan ti pucchāmi taṃ, yācāmi taṃ, ajjhesāmi taṃ, pasādemi taṃ kathayassu me’ ti – pucchāmi taṃ. Bhagavā ti gāravādhivacanametaṃ —pe— sacchikā paññatti, yadidaṃ bhagavā ’ti. Brūhi metan ti brūhi ācikkhāhi desehi paññapehi paṭṭhapehi vivarāhi vibhajāhi uttānīkarohi pakāsehī ’ti – pucchāmi taṃ bhagavā brūhi metaṃ.
Tenāha so brāhmaṇo:
“Anejaṃ mūladassāviṃ (iccāyasmā puṇṇako) atthi pañhena āgamaṃ kiṃ nissitā isayo manujā khattiyā brāhmaṇā devatānaṃ yaññamakappayiṃsu puthūdha loke pucchāmi taṃ bhagavā brūhi metan ”ti.
Vì thế, vị Bà-la-môn ấy đã nói rằng:
(Tôn giả Puṇṇaka nói rằng:) “Với ý định hỏi câu hỏi, tôi đã đi đến với bậc không dục vọng, bậc có sự nhìn thấy gốc rễ (của các pháp): ‘Nương tựa vào điều gì, các vị ẩn sĩ, loài người, các Sát-đế-lỵ, các Bà-la-môn, đối với các thiên thần, đã chuẩn bị lễ hiến tế đông đảo tại nơi này, ở thế gian. Thưa đức Thế Tôn, tôi hỏi ngài. Xin ngài hãy trả lời tôi về điều này.”
Ye kecime isayo manujā (puṇṇakāti bhagavā) khattiyā brāhmaṇā devatānaṃ yaññamakappayiṃsu puthū ’dha loke
āsiṃsamānā puṇṇaka itthabhāvaṃ jaraṃ sitā yaññamakappayiṃsu. Ye kecime isayo manujā (puṇṇakāti bhagavā)khattiyā brāhmaṇā devatānaṃ yaññamakappayiṃsu puthū ’dha loke āsiṃsamānā puṇṇaka itthabhāvaṃ jaraṃ sitā yaññamakappayiṃsu.
Thế Tôn:
1044. Thế Tôn bèn đáp rằng:
Hỡi này Pun-na-ka!
Bậc ẩn sĩ loài Người,
Sát-đế-ly, Phạm chí,
Ðã tổ chức rộng lớn,
Tế đàn cho chư Thiên.
Khi họ thành già yếu,
Họ tổ chức tế đàn,
Vì rằng họ hy vọng,
Ðược sanh ở đời này,
Hỡi này Pun-na-ka!
Ye kecime isayo manujā ti – Ye kecī ti sabbena sabbaṃ sabbathā sabbaṃ asesaṃ nissesaṃ pariyādiyanavacanametaṃ ye kecī ’ti. Isayo ti isināmakā ye keci isipabbajjaṃ pabbajitā: ājīvakā nigaṇṭhā jaṭilā tāpasā. Manujā ti manussā vuccantī ’ti – ye kecime isayo manujā. Puṇṇakāti bhagavā – Puṇṇakā ti bhagavā taṃ brāhmaṇaṃ nāmena ālapati. Bhagavā ti gāravādhivacanametaṃ —pe— sacchikā paññatti, yadidaṃ bhagavā ’ti – puṇṇakāti bhagavā.
Khattiyā brāhmaṇā devatānan ti – Khattiyā ti ye keci khattiyajātikā. Brāhmaṇā ti ye keci bhovādikā. Devatānan ti ājīvakasāvakānaṃ ājīvakā devatā —pe— disāvatikānaṃ disā devatā. Ye yesaṃ dakkhiṇeyyā te tesaṃ devatā ’ti – khattiyā brāhmaṇā devatānaṃ.
Yaññamakappayiṃsu puthūdha loke ti – Yaññaṃ vuccati deyyadhammo: cīvara-piṇḍapāta —pe— seyyāvasathapadīpeyyaṃ. Yaññamakappayiṃsū’ti yepi yaññaṃ esanti gavesanti pariyesanti —pe— seyyāvasathapadīpeyyaṃ, tepi yaññaṃ kappenti. Puthū ti yaññā vā ete puthū, yaññayājakā vā ete puthū, dakkhiṇeyyā vā ete puthū —pe— evaṃ dakkhiṇeyyā vā ete puthū. Idha loke ti manussaloke ’ti – yaññamakappayiṃsu puthūdha loke.
Āsiṃsamānā puṇṇaka itthabhāvan ti – Āsiṃsamānā ti rūpapaṭilābhaṃ āsiṃsamānā, saddapaṭilābhaṃ āsiṃsamānā, gandhapaṭilābhaṃ āsiṃsamānā, rasapaṭilābhaṃ āsiṃsamānā, phoṭṭhabbapaṭilābhaṃ āsiṃsamānā, puttapaṭilābhaṃ āsiṃsamānā, dārapaṭilābhaṃ āsiṃsamānā, dhanapaṭilābhaṃ āsiṃsamānā, yasapaṭilābhaṃ āsiṃsamānā, issariyapaṭilābhaṃ āsiṃsamānā, khattiyamahāsālakule attabhāvapaṭilābhaṃ āsiṃsamānā, brāhmaṇamahāsālakule attabhāvapaṭilābhaṃ āsiṃsamānā, gahapatimahāsālakule attabhāvapaṭilābhaṃ āsiṃsamānā, – – cātummahārājikesu devesu attabhāvapaṭilābhaṃ āsiṃsamānā, tāvatiṃsesu devesu —pe— yāmesu devesu – tusitesu devesu – nimmāṇaratīsu devesu – paranimmitavasavattīsu devesu – brahmakāyikesu devesu attabhāvapaṭilābhaṃ āsiṃsamānā icchamānā sādiyamānā patthayamānā pihayamānā abhijappamānā ’ti – āsiṃsamānā. Puṇṇaka itthabhāvan ti ettha attabhāvābhinibbattiṃ āsiṃsamānā, ettha khattiyamahāsālakule attabhāvābhinibbattiṃ āsiṃsamānā —pe— ettha brahmakāyikesu devesu attabhāvābhinibbattiṃ āsiṃsamānā icchamānā sādiyamānā patthayamānā pihayamānā abhijappamānā ’ti – āsiṃsamānā puṇṇaka itthabhāvaṃ.
Jaraṃ sitā yaññamakappayiṃsū ti – [Jaraṁ sitā ti ] jarānissitā vyādhinissitā maraṇanissitā sokaparidevadukkhadomanassupāyāsanissitā. Yadeva te jātinissitā tadeva te jarānissitā, yadeva te jarānissitā tadeva te vyādhinissitā, yadeva te vyādhinissitā tadeva te maraṇanissitā, yadeva te maraṇanissitā tadeva te sokaparidevadukkhadomanassupāyāsanissitā, yadeva te sokaparidevadukkhadomanassupāyāsanissitā tadeva te gatinissitā, yadeva te gatinissitā tadeva te uppattinissitā, yadeva te uppattinissitā tadeva te paṭisandhinissitā, yadeva te paṭisandhinissitā tadeva te bhavanissitā, yadeva te bhavanissitā tadeva te saṃsāranissitā, yadeva te saṃsāranissitā tadeva te vaṭṭanissitā allīnā upagatā ajjhositā adhimuttā ’ti – jaraṃ sitā yaññamakappayiṃsu.
Tenāha bhagavā: “Ye kecime isayo manujā (puṇṇakāti bhagavā) khattiyā brāhmaṇā devatānaṃ yaññamakappayiṃsu puthū ’dha loke āsiṃsamānā puṇṇaka itthabhāvaṃ jaraṃsitā yaññamakappayiṃsū ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
(Đức Thế Tôn nói: “Này Puṇṇaka,) bất cứ những ai, các vị ẩn sĩ, loài người, các Sát-đế-lỵ, các Bà-la-môn, đối với các thiên thần, đã chuẩn bị lễ hiến tế đông đảo tại nơi này, ở thế gian, này Puṇṇaka, trong khi mong ước bản thể này, bị phụ thuộc vào tuổi già, họ đã chuẩn bị lễ hiến tế.”
Ye kecime isayo manujā (iccāyasmā puṇṇako) khattiyā brāhmaṇā devatānaṃ yaññamakappayiṃsu puthū ’dha loke kacci su te bhagavā yaññapathe appamattā atāru jātiñca jarañca mārisa pucchāmi taṃ bhagavā brūhi metaṃ.
(Tôn giả Puṇṇaka nói rằng:) “Bất cứ những ai, các vị ẩn sĩ, loài người, các Sát-đế-lỵ, các Bà-la-môn, đối với các thiên thần, đã chuẩn bị lễ hiến tế đông đảo tại nơi này, ở thế gian, thưa đức Thế Tôn, có phải những người ấy, không xao lãng ở đường lối tế lễ, thưa ngài, thì họ đã vượt qua sanh và già? Thưa đức Thế Tôn, tôi hỏi ngài. Xin ngài hãy trả lời tôi về điều này.”
Punnaka:
1045. Tôn giả Pun-na-ka:
Bậc ẩn sĩ loài Người,
Sát-đế-ly, Phạm chí,
Ðã tổ chức rộng lớn,
Tế đàn cho chư Thiên.
Thế Tôn nghĩ thế nào,
Họ không có phóng dật
Trên con đường tế đàn,
Họ vượt qua già chết,
Ðược hay không, thưa Ngài,
Con hỏi đức Thế Tôn,
Con mong Ngài trả lời?
Ye kecime isayo manujā ti – Ye kecī ti —pe—Kacci su te bhagavā yaññapathe appamattā ti – Kacci sū ti saṃsayapucchā vimatipucchā dveḷhakapucchā anekaṃsapucchā “evaṃ nu kho, na nu kho, kinnu kho, kathannu kho ”ti kacci su. Te ti yaññayājakā vuccanti. Bhagavā ti gāravādhivacanaṃ —pe— sacchikā paññatti, yadidaṃ bhagavā ’ti – kacci su te bhagavā. Yaññapathe appamattā ti yañño yeva vuccati yaññapatho. Yathā ariyamaggo ariyapatho, devamaggo devapatho, brahmamaggo brahmapatho, evameva yañño yeva vuccati yaññapatho. Apamattā ti yepi yaññapathe appamattā sakkaccakārino sātaccakārino aṭṭhitakārino anolīnavuttino anikkhittachandā anikkhittadhurā taccaritā tabbahulā taggarukā tanninnā tapponā tappabbhārā tadadhimuttā tadadhipateyyā, tepi yaññapathe appamattā. Yepi yaññaṃ esanti gavesanti pariyesanti cīvara-piṇḍapāta-senāsana-gilānapaccayabhesajja-parikkhāraṃ annaṃ pānaṃ vatthaṃ yānaṃ mālāgandhavilepanaṃ seyyāvasathapadīpeyyaṃ sakkaccakārino —pe— tadadhipateyyā, tepi yaññapathe appamattā. Yepi yaññaṃ abhisaṅkharonti cīvara-piṇḍapāta-senāsana-gilānapaccayabhesajja-parikkhāraṃ annaṃ pānaṃ vatthaṃ yānaṃ mālāgandhavilepanaṃ seyyāvasathapadīpeyyaṃ sakkaccakārino —pe— tadadhipateyyā, tepi yaññapathe appamattā. Yepi yaññaṃ denti yajanti pariccajanti cīvara-piṇḍapāta-senāsana-gilānapaccayabhesajja-parikkhāraṃ annaṃ pānaṃ —pe— seyyāvasathapadīpeyyaṃ sakkaccakārino —pe— tadadhipateyyā, tepi yaññapathe appamattā ’ti – kacci su te bhagavā yaññapathe appamattā.
Atāru jātiñca jarañca mārisā ti jātijarāmaraṇaṃ atariṃsu uttariṃsu patariṃsu samatikkamiṃsu vītivattiṃsu. Mārisā ti piyavacanaṃ garuvacanaṃ sagāravasappatissādhivacanametaṃ ‘mārisā ’ti – atāru jātiñca jarañca mārisa
Pucchāmi taṃ bhagavā brūhi metan ti – Pucchāmi tan ti pucchāmi taṃ, ajjhesāmi taṃ, pasādemi taṃ, kathayassu me ’ti – pucchāmi taṃ. Bhagavā ti gāravādhivacanaṃ —pe— sacchikā paññatti, yadidaṃ ‘bhagavā ’ti. Brūhi metan ti brūhi ācikkhāhi desehi paññapehi paṭṭhapehi vivarāhi vibhajāhi uttānīkarohi pakāsehī ’ti – pucchāmi taṃ bhagavā brūhi metaṃ.
Tenāha so brāhmaṇo: “Ye keci me isayo manujā (iccāyasmā puṇṇako) khattiyā brāhmaṇā devatānaṃ, yaññamakappayiṃsu puthūdha loke kacci su te bhagavā yaññapathe appamattā atāru jātiñca jarañca mārisa, pucchāmi taṃ bhagavā brūhi metan ”ti.
Vì thế, vị Bà-la-môn ấy đã nói rằng:
(Tôn giả Puṇṇaka nói rằng:) “Bất cứ những ai, các vị ẩn sĩ, loài người, các Sát-đế-lỵ, các Bà-la-môn, đối với các thiên thần, đã chuẩn bị lễ hiến tế đông đảo tại nơi này, ở thế gian, thưa đức Thế Tôn, có phải những người ấy, không xao lãng ở đường lối tế lễ, thưa ngài, thì họ đã vượt qua sanh và già? Thưa đức Thế Tôn, tôi hỏi ngài. Xin ngài hãy trả lời tôi về điều này.”
Āsiṃsanti thomayanti abhijappanti juhanti (puṇṇakāti bhagavā) kāmābhijappanti paṭicca lābhaṃ, te yājayogā bhavarāgarattā nātariṃsu jātijaranti brūmi.
(Đức Thế Tôn nói: “Này Puṇṇaka,) những kẻ mong ước, khen ngợi, cầu khấn, cúng tế, những kẻ cầu khấn các dục bởi vì lợi lộc, Ta nói rằng: ‘Những kẻ ấy, do sự gắn bó vào tế lễ, bị luyến ái với sự luyến ái vào hữu, đã không vượt qua sanh và già.’”
Thế Tôn:
1046. Thế Tôn trả lời rằng:
Hỡi này Pun-na-ka,
Họ hy vọng, tán thán,
Họ cầu nguyện, cúng lễ,
Họ cầu nguyện các dục,
Do duyên vì lợi dưỡng,
Chuyên tâm lo tế đàn,
Ưa thích, tham sanh hữu,
Họ không vượt già chết,
Ta nói lên như vậy.
Āsiṃsanti thomayanti abhijappanti juhantī ti – Āsiṃsantī ti rūpapaṭilābhaṃ āsiṃsanti, saddapaṭilābhaṃ āsiṃsanti, gandhapaṭilābhaṃ āsiṃsanti, rasapaṭilābhaṃ āsiṃsanti, phoṭṭhabbapaṭilābhaṃ āsiṃsanti, puttapaṭilābhaṃ āsiṃsanti, dārapaṭilābhaṃ āsiṃsanti, dhanapaṭilābhaṃ āsiṃsanti, yasapaṭilābhaṃ āsiṃsanti, issariyapaṭilābhaṃ āsiṃsanti, khattiyamahāsālakule attabhāvapaṭilābhaṃ āsiṃsanti, brāhmaṇamahāsālakule –pe– gahapatimahāsālakule attabhāvapaṭilābhaṃ āsiṃsanti, cātummahārājikesu devesu –pe– brahmakāyikesu devesu attabhāvapaṭilābhaṃ āsiṃsanti, icchanti sādiyanti patthayanti pihayantī ’ti – āsiṃsanti.
Thomayantī ti yaññaṃ vā thomenti, phalaṃ vā thomenti, dakkhiṇeyye vā thomenti. Kathaṃ yaññaṃ thomenti? Suciṃ dinnaṃ manāpaṃ dinnaṃ, paṇītaṃ dinnaṃ, kālena dinnaṃ, kappiyaṃ dinnaṃ, viceyya dinnaṃ, anavajjaṃ dinnaṃ, abhiṇhaṃ dinnaṃ, dadaṃ cittaṃ pasāditanti thomenti kittenti vaṇṇenti pasaṃsanti. Evaṃ yaññaṃ thomayanti.
Kathaṃ phalaṃ thomenti? Ito nidānaṃ rūpapaṭilābho bhavissati, —pe— brahmakāyikesu devesu attabhāvapaṭilābho bhavissatīti thomenti kittenti vaṇṇenti pasaṃsantī ’ti evaṃ ‘phalaṃ thomenti.’
Kathaṃ dakkhiṇeyye thomenti? Dakkhiṇeyyā jātisampannā gottasampannā ajjhāyakā mantadharā tiṇṇaṃ vedānaṃ pāragū sanighaṇḍukeṭubhānaṃ sākkharappabhedānaṃ itihāsapañcamānaṃ padakā veyyākaraṇā lokāyatamahāpurisalakkhaṇesu anavayāti, vītarāgā vā rāgavinayāya vā paṭipannā, vītadosā vā dosavinayā vā paṭipannā, vītamohā vā mohavinayāya vā paṭipannā, saddhāsampannā sīlasampannā samādhisampannā paññāsampannā vimuttisampannā vimuttiñāṇadassanasampannāti thomenti kittenti vaṇṇenti pasaṃsanti. Evaṃ dakkhiṇeyye thomentī ’ti – āsiṃsanti thomenti.
Abhijappantī ti rūpapaṭilābhaṃ abhijappanti, saddapaṭilābhaṃ abhijappanti, gandhapaṭilābhaṃ abhijappanti, rasapaṭilābhaṃ abhijappanti, —pe— brahmakāyikesu devesu attabhāvapaṭilābhaṃ abhijappantī ’ti – āsiṃsanti thomayanti abhijappanti. Juhantī ti juhanti denti yajanti pariccajanti cīvara-piṇḍapāta-senāsana-gilānapaccayabhesajja-parikkhāraṃ annaṃ pānaṃ vatthaṃ yānaṃ mālāgandhavilepanaṃ seyyāvasathapadīpeyyan ’ti – āsiṃsanti thomenti abhijappanti juhanti.
Puṇṇakāti bhagavā ti – Puṇṇakā ti bhagavā taṃ brāhmaṇaṃ nāmena ālapati. Bhagavā ti gāravādhivacanametaṃ: —pe— yadidaṃ bhagavā ’ti – puṇṇakāti bhagavā.
Kāmābhijappanti paṭicca lābhan ti rūpapaṭilābhaṃ paṭicca kāme abhijappanti, saddapaṭilābhaṃ paṭicca kāme abhijappanti, —pe—, brahmakāyikesu devesu attabhāvapaṭilābhaṃ paṭicca kāme abhijappanti pajappantī ’ti – kāmābhijappanti paṭicca lābhaṃ.
Te yājayogā bhavarāgarattā nātariṃsu jātijaranti brūmī ti – Te ti yaññayājakā vuccanti. Yājayogā ti yājayogesu yuttā payuttā āyuttā samāyuttā taccaritā tabbahulā taggarukā tanninnā tapponā tappabbhārā tadadhimuttā tadadhipateyyā ’ti – te yājayogā. Bhavarāgarattā ti bhavarāgo vuccati yo bhavesu bhavacchando bhavarāgo bhavanandi bhavataṇhā bhavasineho [bhavapipāsā ] bhavapariḷāho bhavamucchā bhavajjhosānaṃ bhavarāgena bhavesu rattā giddhā gathitā mucchitā ajjhopannā laggā laggitā palibuddhā ’ti – te yājayogā bhavarāgarattā.
Nātariṃsu jātijaranti brūmī ti te yājayogā bhavarāgarattā jātijarāmaraṇaṃ nātariṃsu na uttariṃsu na patariṃsu na samatikkamiṃsu na vītivattiṃsu, jātijarāmaraṇā anikkhantā anissaṭā anatikkantā asamatikkantā avītivattā antojātijarāmaraṇe parivattanti antosaṃsārapathe parivattanti, jātiyā anugatā jarāya anusaṭā byādhinā abhibhūtā maraṇena abbhāhatā atāṇā alenā asaraṇā asaraṇībhūtāti brūmi ācikkhāmi desemi paññapemi paṭṭhapemi vivarāmi vibhajāmi uttānīkaromi pakāsemī ’ti – te yājayogā bhavarāgarattā nātariṃsu jātijaranti brūmi.
Tenāha bhagavā: “Āsiṃsanti thomayanti abhijappanti juhanti (puṇṇakāti bhagavā) kāmābhijappanti paṭicca lābhaṃ te yājayogā bhavarāgarattā nātariṃsu jātijaranti brūmī ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
(Đức Thế Tôn nói: “Này Puṇṇaka,) những kẻ mong ước, khen ngợi, cầu khấn, cúng tế, những kẻ cầu khấn các dục bởi vì lợi lộc, Ta nói rằng: ‘Những kẻ ấy, do sự gắn bó vào tế lễ, bị luyến ái với sự luyến ái vào hữu, đã không vượt qua sanh và già.’”
Te ce nātariṃsu yājayogā (iccāyasmā puṇṇako) yaññehi jātiñca jarañca mārisa, atha ko carahi devamanussaloke atāri jātiñca jarañca mārisa, pucchāmi taṃ bhagavā brūhi metaṃ.
(Tôn giả Puṇṇaka nói rằng:) “Thưa ngài, nếu những kẻ ấy, do sự gắn bó vào tế lễ, đã không vượt qua sanh và già nhờ vào các lễ hiến tế, vậy giờ đây, thưa ngài, người nào ở thế giới chư Thiên và nhân loại đã vượt qua sanh và già? Thưa đức Thế Tôn, tôi hỏi ngài. Xin ngài hãy trả lời tôi về điều này.”
Punnaka:
1047. Tôn giả Pun-na-ka:
Nếu chúng chuyên tế đàn,
Nhưng không thể vượt qua,
Già chết với tế đàn,
Thời ai sống ở đời,
Trong thế giới Nhơn, Thiên,
Ðã vượt qua già chết,
Ai được vậy, thưa Ngài,
Con hỏi đức Thế Tôn,
Ngài trả lời cho con?
Te ce nātariṃsu yājayogā ti te yaññayājakā yājayogā bhavarāgarattā jātijarāmaraṇaṃ nātariṃsu, na uttariṃsu, na patariṃsu, na samatikkamiṃsu, na vītivattiṃsu, jātijarāmaraṇā anikkhantā anissaṭā anatikkantā asamatikkantā avītivattā antojātijarāmaraṇe parivattanti, –– antosaṃsārapathe parivattanti jātiyā anugatā, jarāya anusaṭā byādhinā abhibhūtā, maraṇena abbhāhatā, atāṇā alenā asaraṇā asaraṇībhūtā ’ti – te ce nātariṃsu yājayogā. Iccāyasmā puṇṇāko ti – Iccā ti padasandhi —pe— iccāyasmā puṇṇako.
Yaññehi jātiñca jarañca mārisā ti – Yaññehī ti yaññehi pahūtehi yaññehi vividhehi yaññehi puthūhi. Mārisā ti piyavacanaṃ garuvacanaṃ sagāravasappatissādhivacanametaṃ mārisā ’ti – yaññehi jātiñca jarañca mārisa.
Atha ko carahi devamanussaloke atāri jātiñca jarañca mārisā ti: atha ko eso sadevake loke samārake sabrahmake sassamaṇabrāhmaṇiyā pajāya sadevamanussāya jātijarāmaraṇaṃ atari uttari patari samatikkami vītivattayi. Mārisā ti piyavacanaṃ garuvacanaṃ sagāravasappatissādhivacanametaṃ mārisā ’ti – atha ko carahi devamanussaloke atāri jātiñca jarañca mārisa.
Pucchāmi taṃ bhagavā brūhi metan ti – Pucchāmi tan ti pucchāmi taṃ, yācāmi taṃ, ajjhesāmi taṃ, pasādemi taṃ, kathayassu metan ’ti – pucchāmi taṃ. Bhagavā ti gāravādhivacanametaṃ —pe— sacchikā paññatti, yadidaṃ bhagavā ’ti. Brūhi metan ti brūhi ācikkhāhi desehi paññapehi paṭṭhapehi vivarāhi vibhajāhi uttānīkarohi pakāsehī ’ti – pucchāmi taṃ bhagavā brūhi metaṃ.
Tenāha so brāhmaṇo: “Te ce nātariṃsu yājayogā (iccāyasmā puṇṇako) yaññehi jātiñca jarañca mārisa, atha ko carahi devamanussaloke atāri jātiñca jarañca mārisa pucchāmi taṃ bhagavā brūhi metan ”ti.
Vì thế, vị Bà-la-môn ấy đã nói rằng:
(Tôn giả Puṇṇaka nói rằng:) “Thưa ngài, nếu những kẻ ấy, do sự gắn bó vào tế lễ, đã không vượt qua sanh và già nhờ vào các lễ hiến tế, vậy giờ đây, thưa ngài, người nào ở thế giới chư Thiên và nhân loại đã vượt qua sanh và già? Thưa đức Thế Tôn, tôi hỏi ngài. Xin ngài hãy trả lời tôi về điều này.”
Saṅkhāya lokasmiṃ parovarāni (puṇṇakāti bhagavā) yassiñjitaṃ natthi kuhiñci loke santo vidhūmo anīgho nirāso atāri so jātijaranti brūmi.
(Đức Thế Tôn nói: “Này Puṇṇaka,) sau khi đã suy xét nơi này và nơi khác ở thế gian, vị nào không có sự dao động tại bất cứ nơi nào ở thế gian, là bậc an tịnh, không còn khói mù, không phiền muộn, không mong cầu, Ta nói rằng, vị ấy đã vượt qua sanh và già.”
Thế Tôn:
1048. Thế Tôn trả lời rằng:
Hỡi này Pun-na-ka,
Ai tính toán cao thấp,
Ước lượng vậy ở đời,
Ai không bị dao động,
Bất cứ đâu ở đời,
An tịnh, không phun khói,
Không phiền não, không cầu,
Vị ấy vượt già chết,
Ta nói lên như vậy.(
Saṅkhāya lokasmiṃ parovarānī ti saṅkhā vuccati ñāṇaṃ, yā paññā pajānanā —pe— amoho dhammavicayo sammādiṭṭhi. Parovarānī ti oraṃ vuccati sakattabhāvo, paraṃ vuccati parattabhāvo, oraṃ vuccati sakarūpavedanāsaññāsaṅkhāraviññāṇaṃ, paraṃ vuccati pararūpavedanāsaññāsaṅkhāraviññāṇaṃ, oraṃ vuccati cha ajjhattikāni āyatanāni, paraṃ vuccati cha bāhirāni āyatanāni, oraṃ vuccati manussaloko, paraṃ vuccati devaloko, oraṃ vuccati kāmadhātu, paraṃ vuccati rūpadhātu arūpadhātu, oraṃ vuccati kāmadhātu rūpadhātu, paraṃ vuccati arūpadhātu. Saṅkhāya lokasmiṃ parovarānī ti parovarāni aniccato saṅkhāya, dukkhato – rogato – gaṇḍato –pe– nissaraṇato saṅkhāya jānitvā tulayitvā tīrayitvā vibhāvayitvā vibhūtaṃ katvā ’ti – saṅkhāya lokasmiṃ parovarāni. Puṇṇakāti bhagavā ti – Puṇṇakā ti bhagavā taṃ brāhmaṇaṃ nāmena ālapati. Bhagavā ti gāravādhivacanametaṃ —pe— yadidaṃ bhagavā ’ti – puṇṇakāti bhagavā.
Yassiñjitaṃ natthi kuhiñci loke ti – Yassā ti arahato khīṇāsavassa. Iñjitan ti taṇhiñjitaṃ diṭṭhiñjitaṃ māniñjitaṃ kilesiñjitaṃ kāmiñjitaṃ, yassime iñjitā natthi, na santi, na saṃvijjanti, nūpalabbhanti, pahīnā samucchinnā vūpasantā paṭippassaddhā abhabbuppattikā ñāṇagginā daḍḍhā. Kuhiñcī ti kuhiñci kismiñci katthaci ajjhattaṃ vā bahiddhā vā ajjhattabahiddhā vā. Loke ti apāyaloke —pe— āyatanaloke ’ti – yassiñjitaṃ natthi kuhiñci loke.
Santo vidhūmo anīgho nirāso atāri so jātijaranti brūmī ti – Santo ti rāgassa santattā santo, dosassa – mohassa – kodhassa – upanāhassa – makkhassa –pe– sabbākusalābhisaṅkhārānaṃ santattā samitattā vūpasamitattā vijjhātattā nibbutattā vigatattā paṭippassaddhattā santo upasanto vūpasanto nibbuto paṭippassaddho ’ti – santo.
Vidhūmo ti kāyaduccaritaṃ vidhūmitaṃ vidhamitaṃ sositaṃ visositaṃ byantīkataṃ, vacīduccaritaṃ – manoduccaritaṃ vidhūmitaṃ vidhamitaṃ sositaṃ visositaṃ byantīkataṃ, rāgo – doso – moho vidhūmito vidhamito sosito visosito byantīkato, kodho – upanāho – makkho – paḷāso – issā – macchariyaṃ – māyā – sāṭheyyaṃ – thambho – sārambho – māno – atimāno – mado – pamādo – sabbe kilesā – sabbe duccaritā – sabbe darathā – sabbe pariḷāhā – sabbe santāpā – sabbākusalābhisaṅkhārā vidhūmitā vidhamitā sositā visositā byantīkatā. Athavā, kodho vuccati dhūmo:
“Māno hi te brāhmaṇa khāribhāro kodho dhūmo bhasmani mosavajjaṃ, jivhā sujā hadayaṃ jotiṭṭhānaṃ
attā sudanto purisassa joti.”
“Này Bà-la-môn, đối với ngươi, ngã mạn chính là gánh nặng,
sự giận dữ là khói mù, lời nói dối trá là đống tro,
lưỡi là cái vá múc, trái tim là bệ thờ lửa,
bản thân đã khéo được rèn luyện là ánh sáng của con người.”
Apica dasahākārehi kodho jāyati: ‘anatthaṃ me acarī ’ti kodho jāyati, ‘anatthaṃ me caratī ’ti kodho jāyati, ‘anatthaṃ me carissatī ’ti kodho jāyati, ‘piyassa me manāpassa anatthaṃ acari, anatthaṃ carati, anatthaṃ carissatī ’ti kodho jāyati, ‘appiyassa me amanāpassa, atthaṃ acari, atthaṃ carati, atthaṃ carissatī ’ti kodho jāyati, aṭṭhāne vā pana kodho jāyati. Yo evarūpo cittassa āghāto paṭighāto paṭighaṃ paṭivirodho kopo pakopo sampakopo doso padoso sampadoso cittassa vyāpatti manopadoso kodho kujjhanā kujjhitattaṃ doso dussanā dussitattaṃ byāpatti byāpajjanā byāpajjitattaṃ virodho paṭivirodho caṇḍikkaṃ asuropo anattamanatā cittassa. Ayaṃ vuccati kodho.
Apica kodhassa adhimattaparittatā veditabbā: atthi kañcikālaṃ kodho cittāvilakaraṇamatto hoti, na ca tāva mukhakulanavikulano hoti; atthi kañcikālaṃ kodho mukhakulanavikulanamatto hoti, na ca tāva hanusañcopano hoti; atthi kañcikālaṃ kodho hanusañcopanamatto hoti, na ca tāva pharusavācaṃ nicchāraṇo hoti; atthi kañcikālaṃ kodho pharusavācaṃ nicchāraṇamatto hoti, na ca tāva disāvidisānuvilokano hoti; atthi kañcikālaṃ kodho disāvidisānuvilokanamatto hoti, na ca tāva daṇḍasatthaparāmasano hoti; atthi kañcikālaṃ kodho daṇḍasatthaparāmasanamatto hoti, na ca tāva daṇḍasatthaabbhukkiraṇo hoti; atthi kañcikālaṃ kodho daṇḍasatthaabbhukkiraṇamatto hoti, na ca tāva daṇḍasatthaabhinipātano hoti; atthi kañcikālaṃ kodho daṇḍasatthaabhinipātanamatto hoti, na ca tāva chinnavicchinnakaraṇo hoti; atthi kañcikālaṃ kodho chinnavicchinnakaraṇamatto hoti, na ca tāva sambhañjanapaḷibhañjano hoti; atthi kañcikālaṃ kodho sambhañjanapaḷibhañjanamatto hoti, na ca tāva aṅgamaṅga-apakaḍḍhano hoti; atthi kañcikālaṃ kodho aṅgamaṅga-apakaḍḍhanamatto hoti, na ca tāva jīvitā voropano hoti; atthi kañcikālaṃ kodho jīvitā voropanamatto hoti, na ca tāva sabbacāgapariccāgāya saṇṭhito hoti. Yato kho kodho paraṃ puggalaṃ ghātetvā attānaṃ ghāteti, ettāvatā kodho paramussadagato – paramavepullappatto hoti. Yassa so hoti kodho pahīno samucchinno vūpasanto paṭippassaddho abhabbuppattiko ñāṇagginā daḍḍho, so vuccati vidhūmo.
Kodhassa pahīnattā vidhūmo, kodhavatthussa pariññātattā vidhūmo, kodhahetussa pariññātattā vidhūmo, kodhahetussa upacchinnattā vidhūmo. Anīgho ti rāgo nīgho, doso nīgho, moho nīgho, kodho nīgho, upanāho nīgho, —pe— sabbākusalābhisaṅkhārā nīghā, yassete nīghā pahīnā samucchinnā vūpasantā paṭippassaddhā abhabbuppattikā ñāṇagginā daḍḍhā, so vuccati anīgho. Nirāso ti – āsā vuccati taṇhā. Yo rāgo sārāgo —pe— abhijjhā lobho akusalamūlaṃ. Yassesā āsā taṇhā pahīnā samucchinnā vūpasantā paṭippassaddhā abhabbuppattikā ñāṇagginā daḍḍhā, so vuccati nirāso.
Jātī ti yā tesaṃ tesaṃ sattānaṃ tamhi tamhi sattanikāye jāti sañjāti okkanti abhinibbatti khandhānaṃ pātubhāvo āyatanānaṃ paṭilābho. Jarā ti yā tesaṃ tesaṃ sattānaṃ tamhi tamhi sattanikāye jarā jīraṇatā khaṇḍiccaṃ pāliccaṃ valittacatā āyuno saṃhāni indriyānaṃ paripāko. Santo vidhūmo anīgho nirāso, atāri so jātijaranti brūmī ti yo santo ca vidhūmo ca anīgho ca nirāso ca, so jātijarāmaraṇaṃ atari uttari patari samatikkami vītivattayīti brūmi ācikkhāmi desemi paññapemi paṭṭhapemi vivarāmi vibhajāmi uttānīkaromi pakāsemī ’ti – santo vidhūmo anīgho nirāso atāri so jāti jaranti brūmi.
Tenāha bhagavā: “Saṅkhāya lokasmiṃ parovarāni (puṇṇakāti bhagavā) yassiñjitaṃ natthi kuhiñci loke, santo vidhūmo anīgho nirāso atāri so jātijaranti brūmī ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng: (Đức Thế Tôn nói: “Này Puṇṇaka,) sau khi đã suy xét nơi này và nơi khác ở thế gian, vị nào không có sự dao động tại bất cứ nơi nào ở thế gian, là bậc an tịnh, không còn khói mù, không phiền muộn, không mong cầu, Ta nói rằng, vị ấy đã vượt qua sanh và già.”
Sahagāthāpariyosānā –pe– pañjaliko bhagavantaṃ namassamāno nisinno hoti: ‘satthā me bhante bhagavā sāvakohamasmī ”ti.
Cùng với lúc kết thúc câu kệ ngôn, –nt– (vị ấy) đã ngồi xuống, chắp tay lên, cúi lạy đức Thế Tôn (nói rằng): “Bạch ngài, đức Thế Tôn là bậc đạo sư của con, con là người đệ tử.”
Puṇṇakasuttaniddeso samatto.
Diễn Giải Kinh Puṇṇaka được hoàn tất.
4. METTAGŪSUTTANIDDESO – DIỄN GIẢI KINH METTAGŪ
(V) Câu hỏi của thanh niên Mettagu
Pucchāmi taṃ bhagavā brūhi metaṃ (iccāyasmā mettagū) maññāmi taṃ vedaguṃ bhāvitattaṃ kuto nu dukkhā samudāgatā ime ye keci lokasmiṃ anekarūpā.
(Tôn giả Mettagū nói rằng:) “Thưa đức Thế Tôn, tôi hỏi ngài. Xin ngài hãy trả lời tôi về điều này. Tôi nghĩ rằng ngài là bậc đã đạt được sự hiểu biết, có bản thân đã được tu tập. Từ đâu mà các khổ này đã được khởi lên, bất kể loại nào ở thế gian, với nhiều hình thức?”
Mettagu:
1049. Tôn giả Mêt-ta-gu:
Con xin hỏi Thế Tôn,
Mong Thế Tôn trả lời,
Vấn đề con đã hỏi,
Con nghĩ Ngài hiền trí,
Tự ngã đã tu tập,
Từ đâu, ở trong đời,
Ðau khổ này khởi lên,
Với nhiều loại như vậy?
(Kinh Tập, chương V)
Pucchāmi taṃ bhagavā brūhi metan ti – Pucchāmī ti tisso pucchā: adiṭṭhajotanā pucchā, diṭṭhasaṃsandanā pucchā, vimaticchedanā pucchā.
Katamā adiṭṭhajotanā pucchā? Pakatiyā lakkhaṇaṃ aññātaṃ hoti adiṭṭhaṃ atulitaṃ atīritaṃ avibhūtaṃ avibhāvitaṃ, tassa ñāṇāya dassanāya tulanāya tīraṇāya vibhūtatthāya vibhāvanatthāya pañhaṃ pucchati. Ayaṃ adiṭṭhajotanā pucchā.
Katamā diṭṭhasaṃsandanā pucchā? Pakatiyā lakkhaṇaṃ ñātaṃ hoti diṭṭhaṃ tulitaṃ tīritaṃ vibhūtaṃ vibhāvitaṃ aññehi paṇḍitehi saddhiṃ saṃsandanatthāya pañhaṃ pucchati. Ayaṃ diṭṭhasaṃsandanā pucchā.
Katamā vimaticchedanā pucchā? Pakatiyā saṃsayapakkhanto hoti, vimatipakkhanto dveḷhakajāto evaṃ nu kho na nu kho kiṃ nu kho kathaṃ nu khoti. So vimaticchedanatthāya pañhaṃ pucchati. Ayaṃ vimaticchedanā pucchā. Imā tisso pucchā.
Aparāpi tisso pucchā: manussapucchā amanussapucchā nimmitapucchā.
Katamā manussapucchā? Manussā buddhaṃ bhagavantaṃ upasaṅkamitvā pañhaṃ pucchanti, bhikkhū pucchanti, bhikkhuṇiyo pucchanti, upāsakā pucchanti, upāsikāyo pucchanti, rājāno pucchanti, khattiyā pucchanti, brāhmaṇā pucchanti, vessā pucchanti, suddā pucchanti, gahaṭṭhā pucchanti, pabbajitā pucchanti. Ayaṃ manussapucchā.
Katamā amanussapucchā? Amanussā buddhaṃ bhagavantaṃ upasaṅkamitvā pañhaṃ pucchanti, nāgā pucchanti, supaṇṇā pucchanti, yakkhā pucchanti, asurā pucchanti, gandhabbā pucchanti, mahārājāno pucchanti, indā pucchanti, brahmāno pucchanti, devā pucchanti. Ayaṃ amanussapucchā.
Katamā nimmitapucchā? Yaṃ bhagavā rūpaṃ abhinimmināti manomayaṃ sabbaṅgapaccaṅgaṃ ahīnindriyaṃ, so nimmito buddhaṃ bhagavantaṃ upasaṃkamitvā pañhaṃ pucchati, bhagavā vissajjeti. Ayaṃ nimmitapucchā. Imā tisso pucchā.
Aparāpi tisso pucchā: attatthapucchā, paratthapucchā, ubhayatthapucchā. Aparāpi tisso pucchā: diṭṭhadhammikatthapucchā, samparāyikatthapucchā, paramatthapucchā. Aparāpi tisso pucchā: anavajjatthapucchā, nikkilesatthapucchā, vodānatthapucchā. Aparāpi tisso pucchā: atītā pucchā, anāgatā pucchā, paccuppannā pucchā. Aparāpi tisso pucchā: ajjhattapucchā, bahiddhāpucchā, ajjhattabahiddhāpucchā. Aparāpi tisso pucchā: kusalapucchā, akusalapucchā, abyākatapucchā. Aparāpi tisso pucchā: khandhapucchā, dhātupucchā, āyatanapucchā. Aparāpi tisso pucchā: satipaṭṭhānapucchā, sammappadhānapucchā, iddhipādapucchā. Aparāpi tisso pucchā: indriyapucchā, balapucchā, bojjhaṅgapucchā. Aparāpi tisso pucchā: maggapucchā, phalapucchā, nibbānapucchā.
Pucchāmi tan ti pucchāmi taṃ, yācāmi taṃ, ajjhesāmi taṃ, pasādemi taṃ, kathayassu me ’ti – pucchāmi taṃ. Bhagavā ti gāravādhivacanametaṃ —pe— sacchikā paññatti, yadidaṃ bhagavā ’ti – pucchāmi taṃ bhagavā. Brūhi metan ti brūhi ācikkha desehi paññapehi paṭṭhapehi vivara vibhaja uttānīkarohi pakāsehī ’ti – pucchāmi taṃ bhagavā brūhi metaṃ. Iccāyasmā mettagū ti – Iccā ti padasandhi —pe— iccāyasmā mettagū.
Maññāmi taṃ vedaguṃ bhāvitattan ti vedagū ’ti taṃ maññāmi, bhāvitatto ’ti taṃ maññāmi, [evaṁ maññāmi ] evaṃ jānāmi, evaṃ ājānāmi, evaṃ vijānāmi, evaṃ paṭivijānāmi, evaṃ paṭivijjhāmi. Vedagū bhāvitatto ti kathaṃ bhagavā vedagū? Vedo vuccati catusu maggesu ñāṇaṃ, paññā paññindriyaṃ paññābalaṃ —pe— dhammavicayasambojjhaṅgo vīmaṃsā vipassanā sammādiṭṭhi, bhagavā tehi vedehi jātijarāmaraṇassa antagato, – – antappatto koṭigato koṭippatto pariyantagato pariyantappatto vosānagato vosānappatto tāṇagato tāṇappatto lenagato lenappatto saraṇagato saraṇappatto abhayagato abhayappatto accutagato accutappatto amatagato amatappatto nibbānagato nibbānappatto. Vedānaṃ vā antagatoti vedagū, vedehi vā antagatoti vedagū, sattannaṃ vā dhammānaṃ viditattā vedagū: sakkāyadiṭṭhi viditā hoti, vicikicchā viditā hoti, sīlabbataparāmāso vidito hoti, rāgo – doso – moho – māno vidito hoti, viditāssa honti pāpakā akusalā dhammā saṃkilesikā ponobhavikā sadarā dukkhavipākā āyatiṃ jātijarāmaraṇīyā:
1. “Vedāni viceyya kevalāni (sabhiyāti bhagavā)
samaṇānaṃ yānipatthi brāhmaṇānaṃ
sabbavedanāsu vītarāgo
sabbaṃ vedamaticca vedagū so ”ti. Evaṃ bhagavā vedagū.
1. (Đức Thế Tôn nói: “Này Sabhiya,) vị đã hiểu rõ toàn bộ các loại kiến thức thuộc về các Sa-môn, thuộc về các Bà-la-môn, vị đã xa lìa sự luyến ái ở tất cả các cảm thọ, vị đã vượt qua mọi kiến thức, vị ấy là ‘bậc đã đạt được sự hiểu biết.”
Đức Thế Tôn là bậc đã đạt được sự hiểu biết nghĩa là như vậy.
Kathaṃ bhagavā bhāvitatto? Bhagavā bhāvitakāyo bhāvitasīlo bhāvitacitto bhāvitapañño bhāvitasatipaṭṭhāno bhāvitasammappadhāno bhāvitaiddhipādo bhāvitaindriyo bhāvitabalo bhāvitabojjhaṅgo bhāvitamaggo pahīnakileso paṭividdhākuppo sacchikatanirodho, dukkhaṃ tassa pariññātaṃ, samudayo pahīno, maggo bhāvito, nirodho sacchikato, abhiññeyyaṃ abhiññātaṃ, pariññeyyaṃ pariññātaṃ, pahātabbaṃ pahīnaṃ, bhāvetabbaṃ bhāvitaṃ, sacchikātabbaṃ sacchikataṃ, aparitto mahanto gambhīro appameyyo duppariyogāḷho pahūtaratano sāgarūpamo chaḷaṅgupekkhāya samannāgato hoti.
Cakkhunā rūpaṃ disvā neva sumano hoti, na dummano, upekkhako viharati sato sampajāno. Sotena saddaṃ sutvā —pe— Ghānena gandhaṃ ghāyitvā —pe— Jivhāya rasaṃ sāyitvā —pe— Kāyena phoṭṭhabbaṃ phusitvā —pe— Manasā dhammaṃ viññāya neva sumano hoti, na dummano, upekkhako viharati sato sampajāno
Cakkhunā rūpaṃ disvā manāpaṃ rūpaṃ nābhigijjhati nābhihaṃsati na rāgaṃ janeti, tassa ṭhitova kāyo hoti, ṭhitaṃ cittaṃ ajjhattaṃ susaṃṭhitaṃ suvimuttaṃ. Cakkhunā kho paneva rūpaṃ disvā amanāpaṃ na maṅku hoti, appatiṭṭhitacitto alīnamanaso abyāpannacetaso, tassa ṭhitova kāyo hoti, ṭhitaṃ cittaṃ ajjhattaṃ susaṃṭhitaṃ suvimuttaṃ. Sotena saddaṃ sutvā —pe— Ghānena gandhaṃ ghāyitvā —pe— Jivhāya rasaṃ sāyitvā —pe— Kāyena phoṭṭhabbaṃ phusitvā —pe— Manasā dhammaṃ viññāya manāpaṃ nābhigijjhati nābhihaṃsati na rāgaṃ janeti, tassa ṭhitova kāyo hoti, ṭhitaṃ cittaṃ ajjhattaṃ susaṃṭhitaṃ suvimuttaṃ. Manasā yeva kho pana dhammaṃ viññāya amanāpaṃ na maṅku hoti, appatiṭṭhitacitto alīnamanaso abyāpannacetaso, tassa ṭhitova kāyo hoti, ṭhitaṃ cittaṃ ajjhattaṃ susaṃṭhitaṃ suvimuttaṃ.
Cakkhunā rūpaṃ disvā manāpāmanāpesu rūpesu ṭhitova kāyo hoti, ṭhitaṃ cittaṃ ajjhattaṃ susaṃṭhitaṃ suvimuttaṃ. Sotena saddaṃ sutvā —pe— Manasā dhammaṃ viññāya manāpāmanāpesu dhammesu ṭhitova kāyo hoti, ṭhitaṃ cittaṃ ajjhattaṃ susaṃṭhitaṃ suvimuttaṃ.
Cakkhunā rūpaṃ disvā rajanīye na rajjati, dosanīye na dussati, mohanīye na muyhati, kopanīye na kuppati, madanīye na majjati, kilesanīye na kilissati. Sotena saddaṃ sutvā —pe— Manasā dhammaṃ viññāya rajanīye na rajjati, dosanīye na dussati, mohanīye na muyhati, kopanīye na kuppati, madanīye na majjati, kilesanīye na kilissati. Diṭṭhe diṭṭhamatto sute sutamatto mute mutamatto viññāte viññātamatto, diṭṭhe na lippati, sute na lippati, mute na lippati, viññāte na lippati. Diṭṭhe anupayo anapāyo anissito appaṭibaddho vippamutto visaññutto vimariyādīkatena cetasā viharati. Sute –pe– Mute —pe— Viññāte anupayo anapāyo anissito appaṭibaddho vippamutto visaññutto vimariyādīkatena cetasā viharati.
Saṃvijjati bhagavato cakkhu passati bhagavā cakkhunā rūpaṃ, chandarāgo bhagavato natthi, suvimuttacitto bhagavā. Saṃvijjati bhagavato sotaṃ, suṇāti bhagavā sotena saddaṃ, chandarāgo bhagavato natthi, suvimuttacitto bhagavā. Saṃvijjati bhagavato ghānaṃ, ghāyati bhagavā ghānena gandhaṃ, chandarāgo bhagavato natthi, suvimuttacitto bhagavā. Saṃvijjati bhagavato jivhā, sāyati bhagavā jivhāya rasaṃ, chandarāgo bhagavato natthi, suvimuttacitto bhagavā. Saṃvijjati bhagavato kāyo, phusati bhagavā kāyena phoṭṭhabbaṃ, chandarāgo bhagavato natthi, suvimuttacitto bhagavā. Saṃvijjati bhagavato mano, vijānāti bhagavā manasā dhammaṃ, chandarāgo bhagavato natthi, suvimuttacitto bhagavā.
Cakkhuṃ rūpārāmaṃ rūparataṃ rūpasammuditaṃ, taṃ bhagavato dantaṃ guttaṃ rakkhitaṃ saṃvutaṃ, tassa ca saṃvarāya dhammaṃ deseti. Sotaṃ saddārāmaṃ saddarataṃ saddasammuditaṃ —pe— Ghānaṃ gandhārāmaṃ gandharataṃ gandhasammuditaṃ —pe— Jivhā rasārāmā rasaratā rasasammuditā, sā bhagavato3 dantā guttā rakkhitā saṃvutā, tassa ca saṃvarāya dhammaṃ deseti. Kāyo phoṭṭhabbārāmo phoṭṭhabbarato phoṭṭhabbasammudito —pe— Mano dhammārāmo dhammarato dhammasammudito so bhagavato3 danto gutto rakkhito saṃvuto, tassa ca saṃvarāya dhammaṃ deseti.
2. Dantaṃ nayanti samitiṃ dantaṃ rājābhirūhati, danto seṭṭho manussesu yotivākyaṃ titikkhati.
2. Người ta đưa (ngựa) đã được rèn luyện đến nơi tụ hội. Đức vua cỡi lên (ngựa) đã được rèn luyện. Người đã được rèn luyện chịu đựng lời mắng nhiếc là hạng nhất giữa loài người.
3. Varamassatarā dantā ājānīyā ca sindhavā, kuñjarā ca mahānāgā attadantā tato varaṃ.
3. Cao quý thay những con lừa đã được thuần hóa, những con ngựa Sindhu thuần chủng, và những con voi thuộc loài khổng tượng, người đã tự rèn luyện bản thân là cao quý hơn cả.
4. Na hi etehi yānehi gaccheyya agataṃ disaṃ, yathāttanā sudantena danto dantena gacchati.
4. Bởi vì chẳng phải nhờ vào những cỗ xe ấy mà có thể đi đến nơi chưa đi đến (Niết Bàn), như là nhờ vào bản thân đã khéo được rèn luyện. Do nhờ đã được rèn luyện mà người đã được rèn luyện đi đến (Niết Bàn).
5. Vidhāsu na vikampanti vippamuttā punabbhavā, dantabhūmiṃ anuppattā te loke vijitāvino.
5. Các vị không dao động ở các trạng thái kiêu mạn, đã được thoát khỏi việc sanh ra lần nữa, đã đạt đến lãnh vực của các bậc đã được rèn luyện, các vị ấy là những người chiến thắng ở thế gian.
6. Yassindriyāni bhāvitāni ajjhattañca bahiddhā ca sabbaloke, nibbijjha imaṃ parañca lokaṃ kālaṃ kaṅkhati bhāvitatto sadanto ”ti. Evaṃ bhagavā bhāvitatto.
6. Vị nào có các giác quan đã được tu tập, ở nội phần, ở ngoại phần, và ở toàn thể thế gian, sau khi thấu triệt đời này và đời sau, vị có bản thân đã được tu tập chờ đợi thời điểm, vị ấy là đã được huấn luyện.”
Maññāmi taṃ vedaguṃ bhāvitattaṃ kuto nu dukkhā samudāgatā ime ti – Kuto nū ti saṃsayapucchā vimatipucchā dveḷhapucchā anekaṃsapucchā: evaṃ nu kho, na nu kho, kiṃ nu kho, kathaṃ nu kho ’ti – kuto nu.
Dukkhā ti jātidukkhaṃ jarādukkhaṃ vyādhidukkhaṃ maraṇadukkhaṃ sokaparidevadukkhadomanassupāyāsadukkhaṃ nerayikaṃ dukkhaṃ tiracchānadukkhaṃ pettivisayadukkhaṃ mānusikaṃ dukkhaṃ gabbhokkantimūlakaṃ dukkhaṃ gabbhaṭṭhitimūlakaṃ dukkhaṃ gabbhavuṭṭhānamūlakaṃ dukkhaṃ jātassupanibandhanaṃ dukkhaṃ jātassa parādheyyataṃ dukkhaṃ attūpakkamaṃ dukkhaṃ parūpakkamaṃ dukkhaṃ dukkhadukkhaṃ saṅkhāradukkhaṃ viparināmadukkhaṃ, cakkhurogo sotarogo ghānarogo jivhārogo kāyarogo sīsarogo kaṇṇarogo mukharogo dantarogo kāso sāso pināso ḍaho jaro kucchirogo mucchā pakkhandikā sūlā visūcikā kuṭṭhaṃ gaṇḍo kilāso soso apamāro daddu kaṇḍu kacchu rakhasā vitacchikā lohitapittaṃ madhumeho aṃsā piḷakā bhagandalā pittasamuṭṭhānā ābādhā semhasamuṭṭhānā ābādhā vātasamuṭṭhānā ābādhā sannipātikā ābādhā utuparināmajā ābādhā visamaparihārajā ābādhā opakkamikā ābādhā kammavipākajā ābādhā sītaṃ uṇhaṃ jighacchā pipāsā uccāro passāvo ḍaṃsamakasavātātapasiriṃsapasamphassānaṃ dukkhaṃ, mātumaraṇaṃ dukkhaṃ pitumaraṇaṃ dukkhaṃ bhātumaraṇaṃ dukkhaṃ bhaginīmaraṇaṃ dukkhaṃ puttamaraṇaṃ dukkhaṃ dhītumaraṇaṃ dukkhaṃ ñātivyasanaṃ dukkhaṃ [rogabyasanaṃ dukkhaṃ ] bhogavyasanaṃ dukkhaṃ sīlavyasanaṃ dukkhaṃ diṭṭhivyasanaṃ dukkhaṃ yesaṃ dhammānaṃ ādito samudāgamanaṃ paññāyati, atthaṅgamato nirodho paññāyati. Kammasannissito vipāko, vipākasannissitaṃ kammaṃ, nāmasannissitaṃ rūpaṃ, rūpasannissitaṃ nāmaṃ, jātiyā anugataṃ, jarāya anusaṭaṃ byādhinā abhibhūtaṃ, maraṇena abbhāhataṃ, dukkhe patiṭṭhitaṃ, atāṇaṃ alenaṃ asaraṇaṃ asaraṇībhūtaṃ, ime vuccanti dukkhā.
Ime dukkhā kuto samudāgatā, kuto jātā, kuto sañjātā kuto nibbattā kuto abhinibbattā kuto pātubhūtā kiṃnidānā kiṃsamudayā kiṃjātikā kiṃpabhavāti imesaṃ dukkhānaṃ mūlaṃ pucchati, hetuṃ pucchati, nidānaṃ pucchati, sambhavaṃ pucchati, pabhavaṃ pucchati, samuṭṭhānaṃ pucchati, āhāraṃ pucchati, ārammaṇaṃ pucchati, paccayaṃ pucchati, samudayaṃ pucchati, papucchati yācati ajjhesati pasādetī ’ti – kuto nu dukkhā samudāgatā ime.
Ye keci lokasmiṃ anekarūpā ti – Ye kecī ti sabbena sabbaṃ sabbathā sabbaṃ asesaṃ nissesaṃ pariyādiyanavacanametaṃ ye kecī ’ti. Lokasmin ti apāyaloke manussaloke devaloke khandhaloke dhātuloke āyatanaloke. Anekarūpā ti anekavidhā nānappakārā dukkhā ’ti – ye keci lokasmiṃ anekarūpā.
Tenāha so brāhmaṇo:
“Pucchāmi taṃ bhagavā brūhi metaṃ (iccāyasmā mettagū)
maññāmi taṃ vedaguṃ bhāvitattaṃ,
kuto nu dukkhā samudāgatā ime
ye keci lokasmiṃ anekarūpā ”ti.
Vì thế, vị Bà-la-môn ấy đã nói rằng:
(Tôn giả Mettagū nói rằng:) “Thưa đức Thế Tôn, tôi hỏi ngài. Xin ngài hãy trả lời tôi về điều này. Tôi nghĩ rằng ngài là bậc đã đạt được sự hiểu biết, có bản thân đã được tu tập. Từ đâu mà các khổ này đã được khởi lên, bất kể loại nào ở thế gian, với nhiều hình thức?”
Dukkhassa ve maṃ pabhavaṃ apucchasi (mettagūti bhagavā) taṃ te pavakkhāmi yathā pajānaṃ, upadhinidānā pabhavanti dukkhā ye keci lokasmiṃ anekarūpā.
(Đức Thế Tôn nói: “Này Mettagū,) quả thật ngươi đã hỏi Ta về nguồn sanh khởi của khổ. Ta sẽ tuyên thuyết về điều ấy cho ngươi theo như điều Ta nhận biết. Các khổ phát khởi đều có căn nguyên là mầm tái sanh, bất kể loại nào ở thế gian, với nhiều hình thức.Thế Tôn:
1050. Thế Tôn trả lời rằng:
Hỡi này Mêt-ta-gu,
Ông hỏi ta vấn đề,
Sanh khởi của khổ đau,
Ta sẽ nói cho Ông,
Như Ta đã được biết,
Chính do duyên sanh y,
Nên khổ được khởi lên,
Với nhiều loại như vậy,
Khác biệt ở trong đời.
(Kinh Tập, chương V)
Dukkhassa ve maṃ pabhavaṃ apucchasī ti – Dukkhassā ti jātidukkhassa jarādukkhassa vyādhidukkhassa maraṇadukkhassa sokaparidevadukkhadomanassupāyāsadukkhassa. Pabhavaṃ apucchasī ti dukkhassa mūlaṃ pucchasi, hetuṃ pucchasi, nidānaṃ pucchasi, sambhavaṃ pucchasi, pabhavaṃ pucchasi, samuṭṭhānaṃ pucchasi, āhāraṃ pucchasi, ārammaṇaṃ pucchasi, paccayaṃ pucchasi, samudayaṃ pucchasi, yācasi ajjhesasi pasādesī ’ti – dukkhassa ve maṃ pabhavaṃ apucchasi.
Mettagūti bhagavā ti bhagavā taṃ brāhmaṇaṃ nāmena ālapati. Bhagavā ti gāravādhivacanametaṃ —pe— sacchikā paññatti, yadidaṃ bhagavā ’ti – mettagūti bhagavā.
Taṃ te pavakkhāmi yathā pajānan ti – Tan ti dukkhassa mūlaṃ pavakkhāmi, hetuṃ pavakkhāmi, nidānaṃ pavakkhāmi, sambhavaṃ pavakkhāmi, pabhavaṃ pavakkhāmi, samuṭṭhānaṃ pavakkhāmi, āhāraṃ pavakkhāmi, ārammaṇaṃ pavakkhāmi, paccayaṃ pavakkhāmi, samudayaṃ pavakkhāmi, ācikkhissāmi desissāmi paññapessāmi paṭṭhapessāmi vivarissāmi vibhajissāmi uttānīkarissāmi pakāsissāmī ’ti – taṃ te pavakkhāmi.
Yathā pajānan ti yathā pajānanto ājānanto vijānanto paṭivijānanto paṭivijjhanto na itihītihaṃ na itikirāya na paramparāya na piṭakasampadānena na takkahetu na nayahetu na ākāraparivitakkena na diṭṭhinijjhānakhantiyā sāmaṃ sayaṃ abhiññātaṃ attapaccakkhadhammaṃ taṃ kathayissāmī ’ti – taṃ te pavakkhāmi yathā pajānaṃ.
Upadhinidānā pabhavanti dukkhā ti – Upadhī ti dasa upadhī: taṇhūpadhi diṭṭhūpadhi kilesūpadhi kammūpadhi duccaritūpadhi, āhārūpadhi paṭighūpadhi, catasso upādinnadhātuyo upadhī, cha ajjhattikāni āyatanāni upadhī, chaviññāṇakāyaṃ upadhī, sabbampi dukkhaṃ dukkhamanatthena upadhi, ime vuccanti dasa upadhī. Dukkhā ti jātidukkhaṃ jarādukkhaṃ vyādhidukkhaṃ maraṇadukkhaṃ sokaparidevadukkhadomanassupāyāsadukkhaṃ nerayikaṃ dukkhaṃ —pe— diṭṭhivyasanaṃ dukkhaṃ. Yesaṃ dhammānaṃ ādito samudāgamanaṃ paññāyati, atthaṅgamato nirodho paññāyati, kammanissitaṃ vipākaṃ, vipākanissitaṃ kammaṃ, nāmanissitaṃ rūpaṃ, rūpanissitaṃ nāmaṃ, jātiyā anugataṃ, jarāya anusaṭaṃ, byādhinā abhibhūtaṃ, maraṇena abbhāhataṃ, dukkhe patiṭṭhitaṃ, atāṇaṃ alenaṃ asaraṇaṃ asaraṇībhūtaṃ, ime vuccanti dukkhā. Ime dukkhā upadhinidānā upadhihetukā upadhipaccayā upadhikāraṇā honti, pabhavanti sambhavanti jāyanti sañjāyanti nibbattanti pātubhavantī ’ti – upadhinidānā pabhavanti dukkhā.
Ye keci lokasmiṃ anekarūpā ti – Ye kecī ti sabbena sabbaṃ sabbathā sabbaṃ asesaṃ nissesaṃ pariyādiyanavacanametaṃ ‘ye kecī ’ti. Lokasmin ti apāyaloke manussaloke devaloke khandhaloke dhātuloke āyatanaloke. Anekarūpā ti anekavidhā nānappakārā dukkhā ’ti – ye keci lokasmiṃ anekarūpā.
Tenāha bhagavā:
“Dukkhassa ve maṃ pabhavaṃ apucchasi (mettagūti bhagavā) taṃ te pavakkhāmi yathā pajānaṃ
upadhinidānā pabhavanti dukkhā ye keci lokasmiṃ anekarūpā ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
(Đức Thế Tôn nói: “Này Mettagū,) quả thật ngươi đã hỏi Ta về nguồn sanh khởi của khổ. Ta sẽ tuyên thuyết về điều ấy cho ngươi theo như điều Ta nhận biết. Các khổ phát khởi đều có căn nguyên là mầm tái sanh, bất kể loại nào ở thế gian, với nhiều hình thức.”
Yo ve avidvā upadhiṃ karoti punappunaṃ dukkhamupeti mando tasmā pajānaṃ upadhiṃ na kayirā
dukkhassa jātippabhavānupassī.
“Thật vậy, kẻ nào, (do) không biết, rồi tạo ra mầm tái sanh, là kẻ ngu, (sẽ) đi đến khổ lần này rồi lần khác. Vì thế, người có sự quán xét về sự sanh ra và phát khởi của khổ, trong khi biết, không nên tạo ra mầm tái sanh.”
1051. Những ai vì vô minh,
Tác thành các sanh y,
Kẻ ngu tạo đau khổ,
Tiếp tục được sanh khởi,
Do vậy kẻ hiểu biết,
Không nên tạo sanh y,
Vì thấy sự sanh khởi,
Của sanh và đau khổ.
(Kinh Tập, chương V)
Yo ve avidvā upadhiṃ karotī ti – Yo ti yo yādiso yathāyutto yathāvihito yathāpakāro yaṃṭhānappatto yaṃdhammasamannāgato khattiyo vā brāhmaṇo vā vesso vā suddo vā gahaṭṭho vā pabbajito vā devo vā manusso vā. Avidvā ti avijjāgato aññāṇī avibhāvī duppañño. Upadhiṃ karotī ti taṇhūpadhiṃ karoti, diṭṭhūpadhiṃ karoti, kilesūpadhiṃ karoti, kammūpadhiṃ karoti, duccaritūpadhiṃ karoti, āhārūpadhiṃ karoti, paṭighūpadhiṃ karoti, catasso upādinnadhātuyo upadhiṃ karoti, cha ajjhattikāni āyatanāni upadhiṃ karoti, chaviññāṇakāyaṃ upadhiṃ karoti, janeti sañjaneti nibbattetī ’ti – yo ve avidvā upadhiṃ karoti.
Punappunaṃ dukkhamupeti mando ti [punappunaṁ dukkhamupetīti ] punappunaṃ jātidukkhaṃ jarādukkhaṃ vyādhidukkhaṃ maraṇadukkhaṃ sokaparidevadukkhadomanassupāyāsadukkhaṃ eti samupeti upagacchati gaṇhāti parāmasati abhinivisati. Mando ti mando moho avidvā avijjāgato aññāṇī avibhāvī duppañño ’ti – punappunaṃ dukkhamupeti mando.
Tasmā pajānaṃ upadhiṃ na kayirā ti – Tasmā ti taṃkāraṇā taṃhetu tappaccayā tannidānā evaṃ ādīnavaṃ sampassamāno upadhīsū ’ti – tasmā. Pajānan ti pajānanto ājānanto vijānanto paṭivijānanto paṭivijjhanto, ‘sabbe saṅkhārā aniccā ’ti pajānanto ājānanto vijānanto paṭivijānanto paṭivijjhanto, ‘sabbe saṅkhārā dukkhā ’ti —pe— ‘sabbe dhammā anattā ’ti —pe— ‘yaṃ kiñci samudayadhammaṃ sabbaṃ taṃ nirodhadhamman ’ti pajānanto ājānanto vijānanto paṭivijānanto paṭivijjhanto. Upadhiṃ na kayirā ti taṇhūpadhiṃ na kareyya, diṭṭhūpadhiṃ na kareyya, kilesūpadhiṃ na kareyya, kammūpadhiṃ na kareyya, duccaritūpadhiṃ na kareyya, āhārūpadhiṃ na kareyya, paṭighūpadhiṃ na kareyya, catasso upādinnadhātuyo upadhiṃ na kareyya, cha ajjhattikāni āyatanāni upadhiṃ na kareyya, chaviññāṇakāyaṃ upadhiṃ na kareyya, na janeyya na sañjaneyya na nibbatteyya nābhinibbatteyyā ’ti – tasmā pajānaṃ upadhiṃ na kayirā.
Dukkhassā ti jātidukkhassa jarādukkhassa vyādhidukkhassa maraṇadukkhassa sokaparidevadukkhadomanassupāyāsadukkhassa. Pabhavānupasasī ti dukkhassa mūlānupassī hetānupassī nidānānupassī sambhavānupassī pabhavānupassī samuṭṭhānānupassī āhārānupassī ārammaṇānupassī paccayānupassī samudayānupassī. Anupassanā vuccati paññāya paññī pajānanā —pe— amoho dhammavicayo sammādiṭṭhi. Imāya anupassanāya paññāya upeto hoti samupeto upagato samupagato upapanno samupapanno samannāgato, so vuccati anupassī ’ti – dukkhassa jātippabhavānupassī.
Tenāha bhagavā:
“Yo ve avidvā upadhiṃ karoti punappunaṃ dukkhamupeti mando tasmā pajānaṃ upadhiṃ na kayirā dukkhassa jātippabhavānupassī ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Thật vậy, kẻ nào, (do) không biết, rồi tạo ra mầm tái sanh, là kẻ ngu, (sẽ) đi đến khổ lần này rồi lần khác. Vì thế, người có sự quán xét về sự sanh ra và phát khởi của khổ, trong khi biết, không nên tạo ra mầm tái sanh.”
Yaṃ taṃ apucchimha akittayī no aññaṃ taṃ pucchāma tadiṅgha brūhi kathannu dhīrā vitaranti oghaṃ jātijaraṃ sokapariddavañca taṃ me munī sādhu viyākarohi tathā hi te vidito esa dhammo.
“Điều nào chúng tôi đã hỏi ngài, ngài đã giải thích cho chúng tôi. Chúng tôi hỏi ngài điều khác, vậy xin ngài hãy trả lời điều ấy. Làm thế nào các bậc sáng trí vượt qua dòng lũ, sanh và già, sầu muộn và than vãn? Thưa bậc hiền trí, xin ngài hãy khéo léo giảng rõ điều ấy cho tôi, bởi vì pháp này đã được ngài biết đúng theo bản thể.”
Mettagu:
1052. Ðiều chúng con đã hỏi,
Ngài đã đáp chúng rồi,
Nay xin hỏi câu khác,
Mong Ngài giải đáp cho,
Thế nào bậc Hiền trí,
Vượt khỏi dòng nước mạnh,
Vượt khỏi sanh và già,
Cùng sầu muộn than khóc,
Mong rằng bậc ẩn sĩ,
Hãy khéo trả lời con,
Ðúng như Ngài đã biết,
Pháp nhĩ là như vậy?
(Kinh Tập, chương V)
Yaṃ taṃ apucchimha akittayī no ti yaṃ taṃ apucchimha ayācimha ajjhesimha pasādimha. Akittayī no ti kittitaṃ ācikkhitaṃ desitaṃ paññapitaṃ paṭṭhapitaṃ vivaritaṃ vibhattaṃ uttānīkataṃ pakāsitan ’ti – yaṃ taṃ apucchimha akittayī no.
Aññaṃ taṃ pucchāma tadiṅgha brūhī ti aññaṃ taṃ pucchāma, aññaṃ taṃ yācāma, aññaṃ taṃ ajjhesāma, aññaṃ taṃ pasādema, uttariṃ taṃ pucchāma. Tadiṅga brūhī ti taṃ iṅgha brūhi ācikkha desehi paññapehi paṭṭhapehi vivara vibhaja uttānīkarohi pakāsehī ’ti – aññaṃ taṃ pucchāma tadiṅgha brūhi.
Kathannu dhīrā vitaranti oghaṃ jātijaraṃ sokapariddavañcā ti – Kathannū ti saṃsayapucchā vimatipucchā dveḷhapucchā anekaṃsapucchā: ‘evannu kho na nu kho kiṃ nu kho kathannu kho ’ti – kathannu. Dhīrā ti dhīrā paṇḍitā paññāvanto buddhimanto ñāṇino vibhāvino medhāvino. Oghan ti kāmoghaṃ bhavoghaṃ diṭṭhoghaṃ avijjoghaṃ. Jātī ti yā tesaṃ tesaṃ sattānaṃ tamhi tamhi sattanikāye jāti sañjāti okkanti abhinibbatti khandhānaṃ pātubhāvo āyatanānaṃ paṭilābho. Jarā ti yā tesaṃ tesaṃ sattānaṃ tamhi tamhi sattanikāye jarā jīraṇatā khaṇḍiccaṃ pāliccaṃ valittacatā āyuno saṃhāni indriyānaṃ paripāko. Soko ti ñātivyasanena vā phuṭṭhassa bhogavyasanena vā phuṭṭhassa rogavyasanena vā phuṭṭhassa sīlavyasanena vā phuṭṭhassa diṭṭhivyasanena vā phuṭṭhassa aññataraññatarena vā vyasanena samannāgatassa aññataraññatarena vā dukkhadhammena phuṭṭhassa soko socanā socitattaṃ antosoko antoparisoko antodāho antoparidāho cetaso parijjhāyanā domanassaṃ sokasallaṃ.
Paridevo ti ñātivyasanena vā phuṭṭhassa bhogavyasanena vā phuṭṭhassa rogavyasanena vā phuṭṭhassa sīlavyasanena vā phuṭṭhassa diṭṭhivyasanena vā phuṭṭhassa aññataraññatarena vā vyasanena samannāgatassa aññataraññatarena vā dukkhadhammena phuṭṭhassa ādevo paridevo ādevanā paridevanā ādevitattaṃ paridevitattaṃ vācā palāpo vippalāpo lālappo lālappanā lālāppitattaṃ.
Kathannu dhīrā vitaranti oghaṃ jātijaraṃ sokapariddavañcā ti dhīrā kathaṃ oghañca jātiñca jarañca dukkhañca sokaparidevañca taranti uttaranti pataranti samatikkamanti vītivattantī ’ti – kathannu dhīrā vitaranti oghaṃ jātijaraṃ sokapariddavañca.
Taṃ me munī sādhu viyākarohī ti – Tan ti yaṃ pucchāmi, yaṃ yācāmi, yaṃ ajjhesāmi, yaṃ pasādemi. Munī ti monaṃ vuccati ñāṇaṃ, yā paññā pajānanā —pe— amoho dhammavicayo sammādiṭṭhi. Bhagavā tena ñāṇena samannāgato muni monappatto.
Tīṇi moneyyāni: kāyamoneyyaṃ, vacīmoneyyaṃ, manomoneyyaṃ. Katamaṃ kāyamoneyyaṃ? Tividhānaṃ kāyaduccaritānaṃ pahānaṃ kāyamoneyyaṃ, tividhaṃ kāyasucaritaṃ kāyamoneyyaṃ, kāyārammaṇaṃ ñāṇaṃ kāyamoneyyaṃ, kāyapariññā kāyamoneyyaṃ, pariññāsahagato maggo kāyamoneyyaṃ, kāye chandarāgappahānaṃ kāyamoneyyaṃ, kāyasaṃkhāranirodho catutthajjhānasamāpatti kāyamoneyyaṃ. Idaṃ kāyamoneyyaṃ.
Katamaṃ vacīmoneyyaṃ? Catubbidhānaṃ vacīduccaritānaṃ pahānaṃ vacīmoneyyaṃ, catubbidhaṃ vacīsucaritaṃ vacīmoneyyaṃ, vācārammaṇaṃ ñāṇaṃ vacīmoneyyaṃ, vācāpariññā vacīmoneyyaṃ, pariññāsahagato maggo vacīmoneyyaṃ, vācāya chandarāgappahānaṃ vacīmoneyyaṃ, vācāsaṃkhāranirodho dutiyajjhānasamāpatti vacīmoneyyaṃ, pariññāsahagato maggo vacīmoneyyaṃ, vācāya chandarāgappahānaṃ vacīmoneyyaṃ, vācāsaṃkhāranirodho tatiyajjhānasamāpatti vacīmoneyyaṃ. Idaṃ vacīmoneyyaṃ.
Katamaṃ manomoneyyaṃ? Tividhānaṃ manoduccaritānaṃ pahānaṃ manomoneyyaṃ, tividhaṃ manosucaritaṃ manomoneyyaṃ, cittārammaṇaṃ ñāṇaṃ manomoneyyaṃ, cittapariññā manomoneyyaṃ, pariññāsahagato maggo manomoneyyaṃ, citte chandarāgappahānaṃ manomoneyyaṃ, cittasaṅkhāranirodho saññāvedayitanirodhasamāpatti manomoneyyaṃ. Idaṃ manomoneyyaṃ.
7. “Kāyamuniṃ vācāmuniṃ manomunimanāsavaṃ, muniṃ moneyyasampannaṃ āhu sabbappahāyinaṃ.
7. (Chư Phật) đã nói bậc hiền trí về thân, bậc hiền trí về khẩu, bậc hiền trí về ý, bậc không còn lậu hoặc, bậc hiền trí thành tựu hiền trí hạnh là bậc có sự dứt bỏ tất cả.
8. Kāyamuniṃ vācāmuniṃ manomunimanāsavaṃ, muniṃ moneyyasampannaṃ āhu ninhātapāpakan ”ti.
8. (Chư Phật) đã nói bậc hiền trí về thân, bậc hiền trí về khẩu, bậc hiền trí về ý, bậc không còn lậu hoặc, bậc hiền trí thành tựu hiền trí hạnh là bậc có điều ác đã được rửa sạch.
Imehi tīhi moneyyehi dhammehi samannāgatā. Cha munino: agāramunino anagāramunino sekhamunino asekhamunino paccekamunino munimunino.
Katame agāramunino? Ye te agārikā diṭṭhapadā viññātasāsanā, ime agāramunino. Katame anagāramunino? Ye te pabbajitā diṭṭhapadā viññātasāsanā, ime anagāramunino. Satta sekhā sekhamunino. Arahanto asekhamunino. Paccekabuddhā paccekamunino. Munimunino vuccanti tathāgatā arahanto sammāsambuddhā.
9. “Na monena muni hoti mūḷharūpo aviddasu, yo ca tulaṃva paggayha varamādāya paṇḍito.
9. Kẻ có dáng vẻ khờ khạo, ngu dốt, dầu với trạng thái im lặng cũng không trở thành bậc hiền trí. Nhưng người nào, tựa như người nắm lấy cái cân rồi chọn lấy vật quý giá, là người sáng suốt.
10. Pāpāni parivajjeti sa munī tena so muni, yo munāti ubho loke muni tena pavuccati.
10. Người lánh xa hẳn các điều ác, người ấy là bậc hiền trí, do việc ấy người ấy trở thành bậc hiền trí. Người nào hiểu rõ cả hai thế giới, do việc ấy được gọi là bậc hiền trí.
11. Asataṃ satañca ñatvā dhammaṃ ajjhattaṃ bahiddhā ca sabbaloke, devamanussehi pūjito yo saṅgajālamaticca so munī ”ti.
11. Vị đã biết được bản chất của những kẻ xấu và của những người tốt, nội phần và ngoại phần, ở tất cả thế gian, vị được tôn vinh bởi chư Thiên và nhân loại, vị đã vượt qua sự quyến luyến và mạng lưới (tham ái và tà kiến), vị ấy là bậc hiền trí.”
Sādhu viyākarohī ti taṃ sādhu ācikkha desehi paññapehi paṭṭhapehi vivara vibhaja uttānīkarohi pakāsehī ’ti – taṃ me munī sādhu viyākarohi.
Tathā hi te vidito esa dhammo ti tathā hi te vidito tulito tīrito vibhūto vibhāvito esa dhammo ’ti – tathā hi to vidito esa dhammo.
Tenāha so brāhmaṇo:
“Yaṃ taṃ apucchimha akittayī no aññaṃ taṃ pucchāma tadiṅgha brūhi, kathannu dhīrā vitaranti oghaṃ jātijaraṃ sokapariddavañca, taṃ me munī sādhu viyākarohi tathā hi te vidito esa dhammo ”ti.
Vì thế, vị Bà-la-môn ấy đã nói rằng:
“Điều nào chúng tôi đã hỏi ngài, ngài đã giải thích cho chúng tôi.
Chúng tôi hỏi ngài điều khác, vậy xin ngài hãy trả lời điều ấy.
Làm thế nào các bậc sáng trí vượt qua dòng lũ,
sanh và già, sầu muộn và than vãn?
Thưa bậc hiền trí, xin ngài hãy khéo léo giảng rõ điều ấy cho tôi,
bởi vì pháp này đã được ngài biết đúng theo bản thể.”
Kittayissāmi te dhammaṃ (mettagūti bhagavā) diṭṭhe dhamme anitīhaṃ yaṃ viditvā sato caraṃ tare loke visattikaṃ.
(Đức Thế Tôn nói: “Này Mettagū,)
Ta sẽ giải thích cho ngươi Giáo Pháp,
về pháp đã được thấy, không phải do nghe nói lại.
Sau khi hiểu pháp ấy, vị có niệm, trong khi sống,
có thể vượt qua sự vướng mắc ở thế gian.”
Thế Tôn:
1053. Thế Tôn trả lời rằng:
Hỡi này Mêt-ta-gu,
Ta sẽ nói cho Ông,
Pháp thiết thực hiện tại,
Không do trao truyền lại,
Sau khi biết pháp ấy,
Vị ấy sống chánh niệm,
Vượt tham ái ở đời.
(Kinh Tập, chương V)
Kittayissāmi te dhamman ti – Dhamman ti ādikalyāṇaṃ majjhekalyāṇaṃ pariyosānakalyāṇaṃ sātthaṃ savyañjanaṃ kevalaparipuṇṇaṃ parisuddhaṃ brahmacariyaṃ, cattāro satipaṭṭhāne cattāro sammappadhāne cattāro iddhipāde pañcindriyāni pañca balāni sattabojjhaṅge ariyaṃ aṭṭhaṅgikaṃ maggaṃ nibbānañca nibbānagāminiñca paṭipadaṃ kittayissāmi, ācikkhissāmi desessāmi paññapessāmi paṭṭhapessāmi vivarissāmi vibhajissāmi uttānīkarissāmi pakāsessāmī ’ti – kittayissāmi te dhammaṃ. Mettagūti bhagavā ti bhagavā taṃ brāhmaṇaṃ nāmena ālapati.
Diṭṭhe dhamme anitīhan ti – Diṭṭhe dhamme ti diṭṭhe dhamme ñāte dhamme tulite dhamme tīrite dhamme vibhūte dhamme vibhāvite dhamme, ‘sabbe saṅkhārā aniccā ’ti —pe— yaṃ kiñci samudayadhammaṃ sabbaṃ taṃ nirodhadhammanti diṭṭhe dhamme ñāte dhamme tulite dhamme tīrite dhamme vibhūte dhamme vibhāvite dhamme ’ti evampi ‘diṭṭhe dhamme.’
Athavā dukkhe diṭṭhe dukkhaṃ kittayissāmi, samudaye diṭṭhe samudayaṃ kittayissāmi, nirodhe diṭṭhe nirodhaṃ kittayissāmi, magge diṭṭhe maggaṃ kittayissāmī ’ti evampi ‘diṭṭhe dhamme.’ Athavā diṭṭhe dhamme sandiṭṭhikaṃ akālikaṃ ehipassikaṃ opanayikaṃ paccattaṃ veditabbaṃ viññūhī ’ti evampi ‘diṭṭhe dhamme.’ Anitīhan ti na itihītihaṃ na itikirāya na paramparāya na piṭakasampadāya na takkahetu na nayahetu na ākāraparivitakkena na diṭṭhinijjhānakhantiyā sāmaṃ sayaṃ abhiññātaṃ attapaccakkhaṃ dhammaṃ, taṃ kathayissāmī ’ti – diṭṭhe dhamme anitīhaṃ.
Yaṃ viditvā sato caran ti yaṃ viditaṃ katvā tulayitvā tīrayitvā vibhāvayitvā vibhūtaṃ katvā, ‘sabbe saṅkhārā aniccā ’ti viditaṃ katvā tulayitvā tīrayitvā vibhāvayitvā vibhūtaṃ katvā, ‘sabbe saṅkhārā dukkhā ’ti —pe— ‘sabbe dhammā anattā ’ti —pe— ‘yaṃ kiñci samudayadhammaṃ sabbaṃ taṃ nirodhadhamman ’ti viditaṃ katvā tulayitvā tīrayitvā vibhāvayitvā vibhūtaṃ katvā. Sato ti catūhi kāraṇehi sato: kāye kāyānupassanāsatipaṭṭhānaṃ bhāvento sato —pe— so vuccati ‘sato.’ Caran ti caranto viharanto iriyanto vattento pālento yapento yāpento ’ti – yaṃ viditvā sato caraṃ.
Tare loke visattikan ti visattikā vuccati taṇhā, ‘yo rāgo sārāgo —pe— abhijjhā lobho akusalamūlaṃ.Visattikā ti kenaṭṭhena visattikā? Visatāti visattikā, visālāti visattikā, visaṭāti visattikā visamāti visattikā, visakkatīti visattikā, visaṃharatīti visattikā, visaṃvādikāti visattikā, visamūlāti visattikā, visaphalāti visattikā, visaparibhogāti visattikā. Visālā vā pana sā taṇhā rūpe sadde gandhe rase phoṭṭhabbe kule gaṇe āvāse lābhe yase pasaṃsāyaṃ sukhe cīvare piṇḍapāte senāsane gilānapaccayabhesajjaparikkhāre kāmadhātuyā rūpadhātuyā arūpadhātuyā kāmabhave rūpabhave arūpabhave –– saññābhave asaññābhave nevasaññānāsaññābhave, ekavokārabhave catuvokārabhave pañcavokārabhave, atīte anāgate paccuppanne, diṭṭhasutamutaviññātabbesu dhammesu visaṭā vitthātā ’ti – visattikā. Loke ti apāyaloke manussaloke devaloke khandhaloke dhātuloke āyatanaloke. Tare loke visattikan ti loke vesā visattikā lokevetaṃ visattikaṃ sato tareyya, uttareyya patareyya samatikkameyya vītivatteyyā ’ti – tare loke visattikaṃ.
Tenāha bhagavā: “Kittiyissāmi te dhammaṃ (mettagūti bhagavā) diṭṭhe dhamme anitīhaṃ yaṃ viditvā sato caraṃ tare loke visattikan ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
(Đức Thế Tôn nói: “Này Mettagū,)
Ta sẽ giải thích cho ngươi Giáo Pháp,
về pháp đã được thấy, không phải do nghe nói lại.
Sau khi hiểu pháp ấy, vị có niệm, trong khi sống,
có thể vượt qua sự vướng mắc ở thế gian.”
Taṃ cāhaṃ abhinandāmi mahesi dhammamuttamaṃ yaṃ viditvā sato caraṃ tare loke visattikaṃ.
“Và tôi thích thú về điều ấy,
thưa bậc đại ẩn sĩ, về Giáo Pháp tối thượng ấy.
Sau khi hiểu pháp ấy, vị có niệm, trong khi sống,
có thể vượt qua sự vướng mắc ở thế gian.”
Mettagu:
1054. Thưa bậc Ðại ẩn sĩ,
Con hết sức hoan hỷ,
Chánh pháp vô thượng ấy,
Sau khi biết pháp ấy,
Sống gìn giữ chánh niệm,
Vượt tham ái ở đời.
(Kinh Tập, chương V)
Taṃ cāhaṃ abhinandāmī ti – Tan ti tuyhaṃ vacanaṃ byappathaṃ desanaṃ anusāsanaṃ anusiṭṭhiṃ. Abhinandāmī ti nandāmi modāmi anumodāmi icchāmi sādiyāmi yācāmi patthayāmi pihayāmi abhijappāmī ’ti – tañcāhaṃ abhinandāmi.
Mahesi dhammamuttaman ti – Mahesī ti mahesi bhagavā, mahantaṃ sīlakkhandhaṃ esi gavesi pariyesī ’ti mahesi, mahantaṃ samādhikkhandhaṃ – mahantaṃ paññākkhandhaṃ – mahantaṃ vimuttikkhandhaṃ – mahantaṃ vimuttiñāṇadassanakkhandhaṃ esi gavesi pariyesī ’ti – mahesi.
Mahato tamokāyassa padālanaṃ esi gavesi pariyesīti mahesi. Mahato vipallāsassa pabhedanaṃ esi gavesi pariyesīti mahesi. Mahato taṇhāsallassa abbūhanaṃ esi gavesi pariyesīti mahesi. Mahato diṭṭhisaṅghāṭassa viniveṭhanaṃ esi gavesi pariyesīti mahesi. Mahato mānadhajassa pātanaṃ esi gavesi pariyesīti mahesi. Mahato abhisaṅkhārassa vūpasamaṃ esi gavesi pariyesīti mahesi. Mahato oghassa nittharaṇaṃ esi gavesi pariyesīti mahesi. Mahato bhārassa nikkhepanaṃ esi gavesi pariyesīti mahesi. Mahato saṃsāravaṭṭassa ucchedaṃ esi gavesi pariyesīti mahesi. Mahato santāpassa nibbāpanaṃ esi gavesi pariyesīti mahesi. Mahato pariḷāhassa paṭippassaddhiṃ esi gavesi pariyesīti mahesi. Mahato dhammadhajassa ussāpanaṃ esi gavesi pariyesīti mahesi. Mahante satipaṭṭhāne – mahante sammappadhāne – mahante iddhipāde – mahantāni indriyāni – mahantāni balāni – mahante bojjhaṅge – mahantaṃ ariyaṃ aṭṭhaṅgikaṃ maggaṃ – mahantaṃ paramatthaṃ amataṃ nibbānaṃ esi gavesi pariyesīti mahesi. Mahesakkhehi vā sattehi esito gavesito pariyesito ‘kahaṃ buddho, kahaṃ bhagavā, kahaṃ devadevo, kahaṃ narāsabho’ ti – mahesi.
Dhammamuttaman ti dhammamuttamaṃ vuccati amataṃ nibbānaṃ, yo so sabbasaṅkhārasamatho sabbūpadhipaṭinissaggo taṇhakkhayo virāgo nirodho nibbānaṃ. Uttaman ti aggaṃ seṭṭhaṃ viseṭṭhaṃ pāmokkhaṃ uttamaṃ pavaraṃ dhamman ’ti – mahesi dhammamuttamaṃ.
Yaṃ viditvā sato caran ti yaṃ viditaṃ katvā tulayitvā tīrayitvā vibhāvayitvā vibhūtaṃ katvā, ‘sabbe saṅkhārā aniccā ’ti viditaṃ katvā tulayitvā tīrayitvā vibhāvayitvā vibhūtaṃ katvā, ‘sabbe saṅkhārā dukkhā ’ti –pe– ‘sabbe dhammā anattā ’ti —pe— ‘yaṃ kiñci samudayadhammaṃ sabbaṃ taṃ nirodhadhamman ’ti viditaṃ katvā tulayitvā tīrayitvā vibhāvayitvā vibhūtaṃ katvā. Sato ti catūhi kāraṇehi sato: kāye kāyānupassanāsatipaṭṭhānaṃ bhāvento sato, vedanāsu vedanānupassanā –pe– citte cittānupassanā –pe– dhamme dhammānupassanāsatipaṭṭhānaṃ bhāvento sato, so vuccati sato. Caran ti caranto viharanto irīyanto vattento pālento yapento yāpento ’ti – yaṃ viditvā sato caraṃ.
Tare loke visattikan ti visattikā vuccati taṇhā, yo rāgo sārāgo —pe—, abhijjhā lobho akusalamūlaṃ.Visattikā ti kenaṭṭhena visattikā? —pe— visaṭā vitthatā ’ti – visattikā. Loke ti apāyaloke —pe— āyatanaloke. Tare loke visattikan ti loke vesā visattikā lokevetaṃ visattikaṃ sato tareyya, uttareyya patareyya samatikkameyya vītivatteyyā ’ti – tare loke visattikaṃ.
Tenāha so brāhmaṇo: “Taṃ cāhaṃ abhinandāmi mahesi dhammamuttamaṃ, yaṃ viditvā sato caraṃ tare loke visattikan ”ti.
Vì thế, vị Bà-la-môn ấy đã nói rằng:
“Và tôi thích thú về điều ấy,
thưa bậc đại ẩn sĩ, về Giáo Pháp tối thượng ấy.
Sau khi hiểu pháp ấy, vị có niệm, trong khi sống,
có thể vượt qua sự vướng mắc ở thế gian.”
Yaṃ kiñci sampajānāsi (mettagūti bhagavā) uddhaṃ adho tiriyaṃ cāpi majjhe etesu nandiñca nivesanañca panujja viññāṇaṃ bhave na tiṭṭhe.
(Đức Thế Tôn nói: “Này Mettagū,) bất cứ điều gì mà ngươi tự mình nhận biết, bên trên, bên dưới, luôn cả bề ngang và khoảng giữa, ngươi hãy xua đi sự vui thích, sự chấp chặt, và tâm thức liên quan đến các pháp ấy; không nên trụ lại ở hữu.”
Thế Tôn:
1055. Thế Tôn đáp lại rằng:
Hỡi này Mêt-ta-gu,
Phàm Ông rõ biết gì,
Trên dưới, ngang ở giữa,
Hãy từ bỏ hoan hỷ,
Hãy từ bỏ trú xứ,
Chớ để cho ý thức,
An trú trên sanh hữu.
(Kinh Tập, chương V)
Yaṃ kiñci sampajānāsī ti yaṃ kiñci pajānāsi ājānāsi vijānāsi paṭivijānāsi paṭivijjhasī ’ti – yaṃ kiñci sampajānāsi. Mettagūti bhagavā ti bhagavā taṃ brāhmaṇaṃ nāmena ālapati. Bhagavā ti gāravādhivacanametaṃ —pe— sacchikā paññatti, yadidaṃ bhagavā ’ti – mettagūti bhagavā.
Uddhaṃ adho tiriyañcāpi majjhe ti – Uddhaṃ vuccati anāgataṃ, adho vuccati atītaṃ, tiriyaṃcāpi majjhe ti paccuppannaṃ. Uddhan ti devaloko, adho ti nirayaloko, tiriyañ cāpi majjhe ti manussaloko. Athavā uddhan ti kusalā dhammā, adho ti akusalā dhammā, tiriyaṃ cāpi majjhe ti abyākatā dhammā. Uddhan ti arūpadhātu, adho ti kāmadhātu, tiriyaṃ cāpi majjhe ti rūpadhātu. Uddhan ti sukhā vedanā, adho ti dukkhā vedanā, tiriyaṃ cāpi majjhe ti adukkhamasukhā vedanā. Uddhan ti uddhaṃ pādatalā, adho ti adho kesamatthakā, tiriyaṃ cāpi majjhe ti vemajjhe ’ti – uddhaṃ adho tiriyaṃ cāpi majjhe.
Etesu nandiñca nivesanañca panujja viññāṇaṃ bhave na tiṭṭhe ti – Etesū ti ācikkhitesu desitesu paññapitesu paṭṭhapitesu vivaritesu vibhajitesu uttānīkatesu pakāsitesu. Nandi vuccati taṇhā, yo rāgo sārāgo —pe— abhijjhā lobho akusalamūlaṃ. Nivesanan ti dve nivesanā: taṇhānivesanā ca diṭṭhinivesanā ca. Katamā taṇhānivesanā? Yāvatā taṇhāsaṅkhātena —pe— ayaṃ taṇhānivesanā. Katamā diṭṭhinivesanā? Vīsativatthukā sakkāyadiṭṭhi —pe— ayaṃ diṭṭhinivesanā. Panujja viññāṇan ti puññābhisaṅkhārasahagataṃ viññāṇaṃ, apuññābhisaṅkhārasahagataṃ viññāṇaṃ, āneñjābhisaṅkhārasahagataṃ viññāṇaṃ, etesu nandiñca nivesanañca abhisaṅkhārasahagatañca viññāṇaṃ nujja panujja nuda panuda jaha pajaha vinodehi byantīkarohi anabhāvaṃ gamehī ’ti – etesu nandiñca nivesanañca panujja viññāṇaṃ.
Bhave na tiṭṭhe ti – Bhavā ti dve bhavā: kammabhavo ca paṭisandhiko ca punabbhavo. Katamo kammabhavo? Puññābhisaṅkhāro apuññābhisaṅkhāro āneñjābhisaṅkhāro, ayaṃ kammabhavo. Katamo paṭisandhiko punabbhavo? Paṭisandhiko rūpaṃ vedanā saññā saṅkhārā viññāṇaṃ, ayaṃ paṭisandhiko punabbhavo. Bhave na tiṭṭhe ti nandiñca nivesanañca abhisaṅkhārasahagataṃ viññāṇañca kammabhavañca paṭisandhikañca punabbhavaṃ pajahanto vinodento byantīkaronto anabhāvaṃ gamento kammabhave na tiṭṭheyya, paṭisandhike punabbhave na tiṭṭheyya, na santiṭṭheyyā ’ti – panujja viññāṇaṃ bhave na tiṭṭhe.
Tenāha bhagavā: “Yaṃ kiñci sampajānāsi (mettagūti bhagavā) uddhaṃ adho tiriyañcāpi majjhe, etesu nandiñca nivesanañca panujja viññāṇaṃ bhave na tiṭṭhe ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
(Đức Thế Tôn nói: “Này Mettagū,) bất cứ điều gì mà ngươi tự mình nhận biết, bên trên, bên dưới, luôn cả bề ngang và khoảng giữa, ngươi hãy xua đi sự vui thích, sự chấp chặt, và tâm thức liên quan đến các pháp ấy; không nên trụ lại ở hữu.”
Evaṃvihārī sato appamatto bhikkhu caraṃ hitvā mamāyitāni, jātiṃ jaraṃ sokapariddavañca idheva vidvā pajaheyya dukkhaṃ.
An trú như vậy, có niệm, không xao lãng, vị tỳ khưu, trong khi sống, sau khi từ bỏ các vật đã được chấp là của ta, là vị hiểu biết, ngay tại nơi này, có thể dứt bỏ khổ đau, sanh, già, sầu muộn và than vãn.
1056. An trú vậy, chánh niệm,
Tỷ-kheo không phóng dật,
Sau khi bỏ sở hành,
Ðưa đến ngã, sở hữu.
Ðối với sanh và già,
Sầu muộn và than khóc,
Ở đây, biết được vậy,
Hãy từ bỏ đau khổ.
(Kinh Tập, chương V)
Evaṃvihārī sato appamatto ti – Evaṃvihārī ti nandiñca nivesanañca abhisaṅkhārasahagataviññāṇañca kammabhavañca paṭisandhikañca punabbhavaṃ pajahanto vinodento byantīkaronto anabhāvaṃ gamento ’ti – evaṃvihārī. Sato ti catūhi kāraṇehi sato: kāye kāyānupassanāsatipaṭṭhānaṃ bhāvento —pe— so vuccati sato. Appamatto ti sakkaccakārī sātaccakārī aṭṭhitakārī anolīnavuttī anikkhittachando anikkhittadhuro appamatto kusalesu dhammesu, kathāhaṃ aparipūraṃ vā sīlakkhandhaṃ paripūreyyaṃ, paripūraṃ vā sīlakkhandhaṃ tattha tattha paññāya anugaṇheyyan ’ti yo tattha chando ca vāyāmo ca ussāho ca ussoḷhī ca appaṭivānī ca sati ca sampajaññañca ātappaṃ padhānaṃ adhiṭṭhānaṃ anuyogo appamatto appamādo kusalesu dhammesu, kathāhaṃ aparipūraṃ vā samādhikkhandhaṃ —pe— paññākkhandhaṃ —pe— vimuttikkhandhaṃ —pe— vimuttiñāṇadassanakkhandhaṃ paripūreyyaṃ, paripūraṃ vā vimuttiñāṇadassanakkhandhaṃ tattha tattha paññāya anugaṇheyyan ’ti yo tattha chando ca vāyāmo ca ussāho ca ussoḷhī ca appaṭivānī ca sati ca sampajaññañca ātappaṃ padhānaṃ adhiṭṭhānaṃ anuyogo appamatto appamādo kusalesu dhammesu, kathāhaṃ abhiññātaṃ vā dukkhaṃ parijāneyyaṃ, appahīne vā kilese pajaheyyaṃ, abhāvitaṃ vā maggaṃ bhāveyyaṃ, asacchikataṃ vā nirodhaṃ sacchikareyyan ’ti yo tattha chando ca vāyāmo ca ussāho ca ussoḷhī ca appaṭivānī ca sati ca sampajaññañca ātappaṃ padhānaṃ adhiṭṭhānaṃ anuyogo appamatto appamādo kusalesu dhammesū ’ti – evaṃvihārī sato appamatto.
Bhikkhu caraṃ hitvā mamāyitānī ti – Bhikkhū ti puthujjanakalyāṇako vā bhikkhu sekho vā bhikkhu. Caran ti caranto viharanto irīyanto vattento pālento yapento yāpento. Mamāyitānī ti dve mamattā: taṇhāmamattaṃ ca diṭṭhimamattaṃ ca. —pe— idaṃ taṇhāmamattaṃ. —pe— idaṃ diṭṭhimamattaṃ. Taṇhāmamattaṃ pahāya diṭṭhimamattaṃ paṭinissajitvā mamatte jahitvā cajitvā pajahitvā pariccajitvā vinodetvā byantīkaritvā anabhāvaṃ gametvā ’ti – bhikkhu caraṃ hitvā mamāyitāni.
Jātiṃ jaraṃ sokapariddavaṃ ca idheva vidvā pajaheyya dukkhan ti – Jātī ti yā tesaṃ tesaṃ sattānaṃ tamhi tamhi sattanikāye jāti sañjāti okkanti abhinibbatti khandhānaṃ pātubhāvo āyatanānaṃ paṭilābho. Jarā ti yā tesaṃ tesaṃ sattānaṃ tamhi tamhi sattanikāye jarā jīraṇatā khaṇḍiccaṃ pāliccaṃ valittacatā āyuno saṃhāni indriyānaṃ paripāko. Soko ti ñātibyasanena vā phuṭṭhassa —pe—. Paddarivan ti ñātibyasanena vā phuṭṭhassa —pe—. Idhā ti imissā diṭṭhiyā —pe— imasmiṃ loke. Vidvā ti vijjāgato ñāṇī vibhāvī medhāvī. Dukkhan ti jātidukkhaṃ —pe— domanassupāyāsadukkhaṃ. Jāti jaraṃ sokapariddavañca idheva vidvā pajaheyya dukkhan ti vijjāgato ñāṇī vibhāvī medhāvī idheva jātiñca jarañca sokapariddavañca dukkhañca pajaheyya vinodeyya byantīkareyya anabhāvaṃ gameyyā ’ti – jātiṃ jaraṃ sokapariddavañca idheva vidvā pajaheyya dukkhaṃ.
Tenāha bhagavā: “Evaṃvihārī sato appamatto bhikkhu caraṃ hitvā mamāyitāni jātiṃ jaraṃ sokapariddavañca idheva vidvā pajaheyya dukkhan ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“An trú như vậy, có niệm, không xao lãng,
vị tỳ khưu, trong khi sống, sau khi từ bỏ các vật đã được chấp là của ta,
là vị hiểu biết, ngay tại nơi này, có thể dứt bỏ khổ đau,
sanh, già, sầu muộn và than vãn.”
Etābhinandāmi vaco mahesino sukittitaṃ gotama nūpadhīkaṃ, addhā hi bhagavā pahāsi dukkhaṃ tathā hi te vidito esa dhammo.
Tôi thích thú lời nói này của bậc đại ẩn sĩ, đã khéo được trình bày, thưa ngài Gotama, không liên quan đến mầm tái sanh, bởi vì đức Thế Tôn đương nhiên đã dứt bỏ khổ, bởi vì pháp này đã được ngài biết đúng theo bản thể. Mettagu:
1057. Con cảm thấy hoan hỉ,
Lời nói bậc Ðại sĩ;
Ðoạn tận được sanh y,
Ðược Ngài khéo tuyên thuyết.
Chắc chắn đức Thế Tôn,
Ðã đoạn tận đau khổ,
Vì pháp này được Ngài,
Rõ biết là như vậy.
(Kinh Tập, chương V)
Etābhinandāmi vaco mahesino ti – Etan ti tuyhaṃ vacanaṃ byappathaṃ desanaṃ anusiṭṭhiṃ. Abhinandāmī ti nandāmi abhinandāmi modāmi anumodāmi icchāmi sādiyāmi patthayāmi pihayāmi abhijappāmi. Mahesino ti mahesi bhagavā mahantaṃ sīlakkhandhaṃ esi gavesi pariyesīti mahesi. —pe— kahaṃ narāsabhoti mahesī ’ti – etābhinandāmi vaco mahesino.
Sukittitaṃ gotama nūpadhīkan ti – Sukittitan ti sukittitaṃ su-ācikkhitaṃ sudesitaṃ supaññapitaṃ supaṭṭhapitaṃ suvivaritaṃ suvibhajitaṃ su-uttānīkataṃ supakāsitan ’ti – sukittitaṃ.
Gotama nūpadhīkan ti upadhī vuccanti kilesā ca khandhā ca abhisaṅkhārā ca. Upadhipahānaṃ upadhivūpasamaṃ upadhipaṭinissaggaṃ upadhipaṭippassaddhiṃ amataṃ nibbānan ’ti – sukittitaṃ gotamanūpadhīkaṃ.
Addhā hi bhagavā pahāsi dukkhan ti – Addhā ti ekaṃsavacanaṃ nissaṃsayavacanaṃ nikkaṅkhāvacanaṃ advejjhavacanaṃ adveḷhakavacanaṃ niyogavacanaṃ apannakavacanaṃ avatthānavacanametaṃ ‘addhā ’ti. Bhagavā ti gāravādhivacanametaṃ —pe— sacchikā paññatti, yadidaṃ bhagavā ’ti. Pahāsi dukkhan ti jātidukkhaṃ jarādukkhaṃ vyādhidukkhaṃ maraṇadukkhaṃ sokaparidevadukkhadomanassupāyāsadukkhaṃ pahāsi pajahi vinodesi byantīkarosi anabhāvaṃ gamesī ’ti – addhā hi bhagavā pahāsi dukkhaṃ.
Tathā hi te vidito esa dhammo ti tathā hi te vidito tulito tīrito vibhūto vibhāvito esa dhammo ’ti – tathā hi te vidito esa dhammo.
Tenāha so brāhmaṇo:
“Etābhinandāmi vaco mahesino sukittitaṃ gotama nūpadhīkaṃ, addhā hi bhagavā pahāsi dukkhaṃ tathā hi te vidito esa dhammo ”ti.
Vì thế, vị Bà-la-môn ấy đã nói rằng:
“Tôi thích thú lời nói này của bậc đại ẩn sĩ, đã khéo được trình bày, thưa ngài Gotama, không liên quan đến mầm tái sanh, bởi vì đức Thế Tôn đương nhiên đã dứt bỏ khổ, bởi vì pháp này đã được ngài biết đúng theo bản thể.”
Te cāpi nūna pajaheyyu dukkhaṃ ye tvaṃ munī aṭṭhitaṃ ovadeyya, taṃ taṃ namassāmi samecca nāgaṃ
appeva maṃ bhagavā aṭṭhitaṃ ovadeyya.
Và thưa bậc hiền trí, những người nào được ngài giáo huấn không ngừng nghỉ, những người ấy chắc chắn có thể dứt bỏ khổ đau. Vì thế, thưa bậc long tượng, sau khi gặp ngài, con[1] xin kính lễ ngài. Mong sao đức Thế Tôn sẽ giáo huấn con không ngừng nghỉ.
[1] Từ đoạn này trở đi, nhân xưng đại danh từ “tôi” của các vị Bà-la-môn sẽ được ghi là “con” theo ý kiến chủ quan của người dịch, nghĩ rằng đến lúc này, các vị Bà-la-môn đã có niềm tin với đức Phật nên có sự khiêm nhường hơn so với trước đây khi mới gặp (ND).
1058. Những vị ấy hãy đoạn,
Hãy từ bỏ đau khổ,
Những người ấy được Ngài
Thường thường dạy, giáo hóa.
Con xin đảnh lễ Ngài,
Hãy đến, bậc Long tượng,
Mong Thế Tôn thường hằng,
Giáo hóa dạy dỗ con.
(Kinh Tập, chương V)
Te cāpi nūna pajaheyyu dukkhan ti – Te cāpī ti khattiyā ca brāhmaṇā ca vessā ca suddā ca gahaṭṭhā ca pabbajitā ca devā ca manussā ca. Pajaheyyu dukkhan ti jātidukkhaṃ jarādukkhaṃ vyādhidukkhaṃ maraṇadukkhaṃ sokaparidevadukkhadomanassupāyāsadukkhaṃ pajaheyyuṃ vinodeyyuṃ byantīkareyyuṃ anabhāvaṃ gameyyun ’ti – te cāpi nūna pajaheyyu dukkhaṃ.
Ye tvaṃ munī aṭṭhitaṃ ovadeyyā ti – Ye ti khattiye ca brāhmaṇe ca vesse ca sudde ca gahaṭṭhe ca pabbajite ca deve ca manusse ca. Tvan ti bhagavantaṃ bhaṇati. Munī ti monaṃ vuccati ñāṇaṃ, —pe— saṅgajālamaticca so muni. Aṭṭhitaṃ ovadeyyā ti aṭṭhitaṃ ovadeyya sakkaccaṃ ovadeyya, abhiṇhaṃ ovadeyya, punappunaṃ ovadeyya, anusāseyyā ’ti – ye tvaṃ munī aṭṭhitaṃ ovadeyya.
Taṃ taṃ namassāmi samecca nāgan ti – Tan ti bhagavantaṃ bhaṇati. Namassāmī ti kāyena vā namassāmi, vācāya vā namassāmi, cittena vā namassāmi anvatthapaṭipattiyā vā namassāmi, dhammānudhammapaṭipattiyā vā namassāmi, sakkaromi garukaromi mānemi pūjemi. Sameccā ti samecca abhisamecca samāgantvā abhisamāgantvā sammukhā taṃ namassāmi. Nāgan ti nāgo ca bhagavā āguṃ na karotīti nāgo, na gacchatīti nāgo, na āgacchatīti nāgo. Kathaṃ bhagavā āguṃ na karotīti nāgo? Āgu vuccati pāpakā akusalā dhammā saṅkilesikā ponobhavikā sadarā dukkhavipākā āyatiṃ jarāmaraṇīyā.
12. “Āguṃ na karoti kiñci loke (sabhiyāti bhagavā) sabbasaṃyoge visajja bandhanāni, sabbattha na sajjatī vimutto nāgo tādī pavuccate tathattā ”ti. Evaṃ bhagavā āguṃ na karotīti nāgo.
12. (Đức Thế Tôn nói: “Này Sabhiya,) vị không làm bất cứ điều tội lỗi nào ở thế gian, sau khi tháo gở tất cả các sự ràng buộc (và) các sự trói buộc, không bám víu vào bất cứ nơi đâu, đã được giải thoát, vị tự tại, có bản thể như thế, được gọi là ‘bậc Long Tượng.’”
‘Đức Thế Tôn không làm điều tội lỗi’ là bậc long tượng – nghĩa là như vậy
Kathaṃ bhagavā na gacchatīti nāgo? Bhagavā na chandāgatiṃ gacchati, na dosāgatiṃ gacchati, na mohāgatiṃ gacchati, na bhayāgatiṃ gacchati, na rāgavasena gacchati, na dosavasena gacchati, na mohavasena gacchati, na mānavasena gacchati, na diṭṭhivasena gacchati, na uddhaccavasena gacchati, na vicikicchāvasena gacchati, na anusayavasena gacchati, na vaggehi dhammehi sāyati nīyyati vuyhati saṃharīyati. Evaṃ bhagavā na gacchatī ’ti nāgo.
Kathaṃ bhagavā na āgacchatīti nāgo? Sotāpattimaggena ye kilesā pahīnā te kilese na puneti na pacceti na paccāgacchati. Sakadāgāmimaggena –anāgāmimaggena – arahattamaggena ye kilesā pahīnā te kilese na puneti na pacceti na paccāgacchati. Evaṃ [bhagavā ] na āgacchatīti nāgo ’ti – taṃ taṃ namassāmi samecca nāgaṃ.
Appeva maṃ bhagavā aṭṭhitaṃ ovadeyyā ti appeva maṃ bhagavā aṭṭhitaṃ ovadeyya, sakkaccaṃ ovadeyya, abhiṇhaṃ ovadeyya, punappunaṃ ovadeyya, anusāseyyā ’ti – appeva maṃ bhagavā aṭṭhitaṃ ovadeyya.
Tenāha so brāhmaṇo:
“Te cāpi nūna pajaheyyu dukkhaṃ ye tvaṃ munī aṭṭhitaṃ ovadeyya, taṃ taṃ namassāmi samecca nāgaṃ ppeva maṃ bhagavā aṭṭhitaṃ ovadeyyā ”ti.
Vì thế, vị Bà-la-môn ấy đã nói rằng:
“Và thưa bậc hiền trí, những người nào được ngài giáo huấn không ngừng nghỉ, những người ấy chắc chắn có thể dứt bỏ khổ đau. Vì thế, thưa bậc long tượng, sau khi gặp ngài, con xin kính lễ ngài. Mong sao đức Thế Tôn sẽ giáo huấn con không ngừng nghỉ.”
Yaṃ brāhmaṇaṃ vedaguṃ ābhijaññā akiñcanaṃ kāmabhave asattaṃ, addhā hi so oghamimaṃ atāri
tiṇṇo ca pāraṃ akhilo akaṅkho.
Vị Bà-la-môn nào mà ngươi có thể biết rõ là bậc đã đạt được sự hiểu biết, không còn vướng bận, không bị dính mắc ở dục và hữu, vị ấy đương nhiên đã vượt qua dòng lũ này, và đã vượt qua đến bờ kia, không còn trụ chắn (ô nhiễm), không còn nghi ngờ.
Thế Tôn:
1059. Vị Bà-la-môn nào,
Ðược thắng tri, có trí,
Không có sở hữu gì,
Không ái luyến dục hữu,
Chắc chắn vị như vậy,
Vượt qua bộc lưu này,
Ðã đến được bờ kia,
Không cứng cỏi không nghỉ.
(Kinh Tập, chương V)
Yaṃ brāhmaṇaṃ vedaguṃ ābhijaññā ti – Brāhmaṇo ti sattannaṃ dhammānaṃ bāhitattā brāhmaṇo: sakkāyadiṭṭhi bāhitā hoti, vicikicchā bāhitā hoti, sīlabbataparāmāso bāhito hoti, rāgo bāhito hoti, doso bāhito hoti, moho bāhito hoti, māno bāhito hoti. Bāhitāssa honti pāpakā akusalā dhammā saṅkilesikā ponobhavikā sadarā dukkhavipākā āyatiṃ jātijarāmaraṇīyā.
13. “Bāhetvā sabbapāpakāni (sabhiyāti bhagavā) vimalo sādhu samāhito ṭhitatto, saṃsāramaticca kevalī so asito tādī pavuccate sa brahmā.”
13. (Đức Thế Tôn nói: “Này Sabhiya,) sau khi loại trừ tất cả các điều ác, là người không còn vết nhơ, tốt lành, định tĩnh, có bản thân vững chãi, vị ấy đã vượt qua luân hồi, có sự toàn hảo, không nương nhờ, tự tại, vị ấy được gọi là Bà-la-môn.”
Vedagū ti vedo vuccati catusu maggesu ñāṇaṃ —pe— sabbavedamaticca vedagū so. Ābhijaññā ti abhijāneyya ājāneyya vijāneyya paṭivijāneyya paṭivijjheyyā ’ti – yaṃ brāhmaṇaṃ vedaguṃ ābhijaññā.
Akiñcanaṃ kāmabhave asattan ti – Akiñcanan ti rāgakiñcanaṃ dosakiñcanaṃ mohakiñcanaṃ mānakiñcanaṃ diṭṭhikiñcanaṃ kilesakiñcanaṃ duccaritakiñcanaṃ. Yassete kiñcanā pahīnā samucchinnā vūpasantā paṭippassaddhā abhabbuppattikā ñāṇagginā daḍḍhā, so vuccati akiñcano. Kāmā ti uddānato dve kāmā: vatthukāmā ca kilesakāmā ca. —pe— Ime vuccanti vatthukāmā. —pe— Ime vuccanti kilesakāmā. Bhavā ti dve bhavā: kammabhavo ca paṭisandhiko ca punabbhavo. —pe— ayaṃ paṭisandhiko punabbhavo.
Akiñcanaṃ kāmabhave asattan ti akiñcanaṃ puggalaṃ kāmabhave ca asattaṃ alaggaṃ alaggitaṃ apaḷibuddhaṃ nikkhantaṃ nissaṭaṃ vippamuttaṃ visaṃyuttaṃ vimariyādīkatena cetasā viharantan ’ti – akiñcanaṃ kāmabhave asattaṃ.
Addhā hi so oghamimaṃ atārī ti – Addhā ti ekaṃsavacanaṃ –pe– avatthāpanavacanametaṃ ‘addhā ’ti. Oghan ti kāmoghaṃ bhavoghaṃ diṭṭhoghaṃ avijjoghaṃ. Atārī ti atari uttari patari samatikkami vītivattayī ’ti – addhā hi so oghamimaṃ atāri.
Tiṇṇo ca pāraṃ akhilo akaṅkho ti – Tiṇṇo ti kāmoghaṃ tiṇṇo, bhavoghaṃ tiṇṇo, diṭṭhoghaṃ tiṇṇo, avijjoghaṃ tiṇṇo, saṃsārapathaṃ tiṇṇo, uttiṇṇo nittiṇṇo atikkanto samatikkanto vītivatto, so vutthavāso ciṇṇacaraṇo gataddho gatadiso gatakoṭiko pālitabrahmacariyo uttamadiṭṭhippatto bhāvitamaggo pahīnakileso paṭividdhākuppo sacchikatanirodho. Dukkhaṃ tassa pariññātaṃ, samudayo pahīno, maggo bhāvito, nirodho sacchikato, abhiññeyyaṃ abhiññātaṃ, pariññeyyaṃ pariññātaṃ, pahātabbaṃ pahīnaṃ, bhāvetabbaṃ bhāvitaṃ, sacchikātabbaṃ sacchikataṃ. So ukkhittapaligho saṅkiṇṇaparikho abbūḷhesiko niraggalo ariyo pannadhajo pannabhāro visaññutto pañcaṅgavippahīno chaḷaṅgasamannāgato ekārakkho caturapasseno panuṇṇapaccekasacco samavayasaṭṭhesano anāvilasaṅkappo passaddhakāyasaṅkhāro suvimuttacitto suvimuttapañño kevalī vusitavā uttamapuriso paramapuriso paramappattipatto.
So neva ācināti na apacināti, apacinitvā ṭhito; neva pajahati na upādiyati, pajahitvā ṭhito; neva visineti na ussineti, visinetvā ṭhito; neva dhūpeti na sandhupeti, vidhupetvā ṭhito. Asekhena sīlakkhandhena samannāgatattā ṭhito. –– Asekhena samādhikkhandhena —pe— paññākkhandhena —pe— vimuttikkhandhena —pe— vimuttiñāṇadassanakkhandhena samannāgatattā ṭhito. Saccaṃ sampaṭipādiyitvā ṭhito. Ejaṃ samatikkamitvā ṭhito. Kilesaggiṃ pariyādiyitvā ṭhito. Aparigamanatāya ṭhito, kathaṃ samādāya ṭhito, muttipaṭisevanatāya ṭhito. Mettāya pārisuddhiyā ṭhito, karuṇāya —pe— muditāya —pe— upekkhāya pārisuddhiyā ṭhito, accantapārisuddhiyā ṭhito, atammayatāya pārisuddhiyā ṭhito, vimuttattā ṭhito, saṃtusitattā ṭhito, khandhapariyante ṭhito, dhātupariyante ṭhito, āyatanapariyante ṭhito, gatipariyante ṭhito, upapattipariyante ṭhito, paṭisandhipariyante ṭhito, bhavapariyante ṭhito, saṃsārapariyante ṭhito, vaṭṭapariyante ṭhito, antime bhave ṭhito, antime samussaye ṭhito, antimadehadharo arahā.
14. “Tassāyaṃ pacchimakoṭi – carimoyaṃ samussayo,jātimaraṇasaṃsāro – natthi tassa punabbhavo ”ti.
14. “Đối với vị ấy, đây là lần cuối cùng, thân xác này là sau chót, sự sanh tử luân hồi, việc sanh ra lần nữa không có đối với vị ấy.”
Tiṇṇo ca pāran ti pāraṃ vuccati amataṃ nibbānaṃ yo so sabbasaṅkhārasamatho sabbūpadhipaṭinissaggo taṇhakkhayo virāgo nirodho nibbānaṃ. So pāragato pārappatto antagato antappatto koṭigato koṭippatto pariyantagato pariyantappatto vosānagato vosānappatto tāṇagato tāṇappatto lenagato lenappatto saraṇagato saraṇappatto abhayagato abhayappatto accutagato accutappatto amatagato amatappatto nibbānagato nibbānappatto so vutthavāso ciṇṇacaraṇo —pe— jātimaraṇasaṃsāro natthi tassa punabbhavo ’ti – tiṇṇo ca pāraṃ.
Akhilo ti rāgo khilo, doso khilo, moho khilo, kodho khilo, upanāho khilo —pe— sabbākusalābhisaṅkhārā khilā. Yassete khilā pahīnā samucchinnā vūpasantā paṭippassaddhā abhabbuppattikā ñāṇagginā daḍḍhā, so vuccati akhilo.
Akaṅkho ti dukkhe kaṅkhā, dukkhasamudaye kaṅkhā, dukkhanirodhe kaṅkhā, dukkhanirodhagāmiṇiyā paṭipadāya kaṅkhā, pubbante kaṅkhā, aparante kaṅkhā, pubbantāparante kaṅkhā, idappaccayatāpaṭiccasamuppannesu dhammesu kaṅkhā. Yā evarūpā kaṅkhā kaṅkhāyanā kaṅkhāyitattaṃ vimati vicikicchā dveḷhakaṃ dvedhāpatho saṃsayo anekaṃsagāho āsappanā parisappanā apariyogāhanā thambhitattaṃ cittassa manovilekho. Yassete kaṅkhā pahīnā samucchinnā vūpasantā paṭippassaddhā abhabbuppattikā ñāṇagginā daḍḍhā, so vuccati akaṅkho ’ti – tiṇṇo ca pāraṃ akhilo akaṅkho.
Tenāha bhagavā: “Yaṃ brāhmaṇaṃ vedaguṃ ābhijaññā akiñcanaṃ kāmabhave asattaṃ, addhā hi so oghamimaṃ atāri tiṇṇo ca pāraṃ akhilo akaṅkho ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
Vị Bà-la-môn nào mà ngươi có thể biết rõ là bậc đã đạt được sự hiểu biết, không còn vướng bận, không bị dính mắc ở dục và hữu, vị ấy đương nhiên đã vượt qua dòng lũ này, và đã vượt qua đến bờ kia, không còn trụ chắn (ô nhiễm), không còn nghi ngờ.”
Vidvā ca yo vedagū naro idha bhavābhave saṅgamimaṃ visajja, so vītataṇho anīgho nirāso atāri so jātijaranti brūmi.
Và người nào ở nơi này, có sự hiểu biết, là bậc đã đạt được sự hiểu biết, sau khi tháo gỡ sự quyến luyến này ở hữu và phi hữu, người ấy có tham ái đã được xa lìa, không còn phiền muộn, không có mong cầu, Ta nói rằng, người ấy đã vượt qua sanh và già.
1060. Người ấy sau khi biết,
Thông suốt được Thánh điển,
Không dính ái triền này,
Về hữu và phi hữu,
Vị ấy ly tham ái,
Không phiền lụy không cầu,
Ta nói rằng vị ấy,
Ðã vượt khỏi sanh già.
(Kinh Tập, chương V)
Vidvā ca yo vedagū naro idhā ti – Vidvā ti vidvā vijjāgato ñāṇī vibhāvī medhāvī. Yo ti yo yādiso —pe— devo vā manusso vā. Vedagū ti vedā vuccanti catusu maggesu ñāṇaṃ paññā paññindriyaṃ paññābalaṃ dhammavicayasambojjhaṅgo vīmaṃsā vipassanā sammādiṭṭhi. Tehi vedehi jātijarāmaraṇassa antagato antappatto koṭigato koṭippatto pariyantagato pariyantappatto vosānagato vosānappatto tāṇagato tāṇappatto lenagato lenappatto saraṇagato saraṇappatto abhayagato abhayappatto accutagato accutappatto amatagato amatappatto nibbānagato nibbānappatto. Vedānaṃ vā antagato ’ti vedagū, vedehi vā antagato ’ti vedagū, sattannaṃ vā dhammānaṃ viditattā vedagū: sakkāyadiṭṭhi viditā hoti, vicikicchā – sīlabbataparāmāso – rāgo – doso – moho – māno vidito hoti. Viditāssa honti pāpakā akusalā dhammā saṃkilesikā ponobhavikā sadarā dukkhavipākā āyatiṃ jātijarāmaraṇīyā.
15. “Vedāni viceyya kevalāni (sabhiyāti bhagavā) samaṇānaṃ yāni patthī brāhmaṇānaṃ sabbavedanāsu vītarāgo sabbaṃ vedamaticca vedagū so ”ti.
15. (Đức Thế Tôn nói: “Này Sabhiya,) vị đã hiểu rõ toàn bộ các loại kiến thức thuộc về các Sa-môn, thuộc về các Bà-la-môn, vị đã xa lìa sự luyến ái ở tất cả các cảm thọ, vị đã vượt qua mọi kiến thức, vị ấy là ‘bậc đã đạt được sự hiểu biết.”
Naro ti satto naro māṇavo poso puggalo jīvo jāgū jantu indagu hindagu manujo. Idhā ti imissā diṭṭhiyā –pe– imasmiṃ manussaloke ’ti – vidvā ca yo vedagū naro idha.
Bhavābhave saṅgamimaṃ visajjā ti – Bhavābhave ti bhavābhave kammabhave punabbhave, kāmabhave kammabhave kāmabhave punabbhave, rūpabhave kammabhave rūpabhave punabbhave, arūpabhave kammabhave arūpabhave punabbhave punappunabhave, punappunagatiyā punappunaupapattiyā punappunapaṭisandhiyā punappunaattabhāvābhinibbattiyā. Saṅgā ti sattasaṅgā: rāgasaṅgo dosasaṅgo mohasaṅgo mānasaṅgo diṭṭhisaṅgo kilesasaṅgo duccaritasaṅgo. Visajjā ti saṅge vossajitvā vā visajja. Athavā, saṅge baddhe vibaddhe ābaddhe lagge laggite paḷibuddhe bandhane phoṭayitvā vā visajja, yathā vayhaṃ vā rathaṃ vā sakaṭaṃ vā sandamānikaṃ vā sajjaṃ visajjaṃ karonti vikopenti, evameva saṅge vossajitvā visajja athavā saṅge baddhe vibaddhe ābaddhe lagge laggite paḷibuddhe bandhane phoṭayitvā vā visajjā ’ti – bhavābhave saṅgamimaṃ visajja.
So vītataṇho anīgho nirāso atāri so jātijaranti brūmī ti – Taṇhā ti rūpataṇhā –pe– dhammataṇhā, yassesā taṇhā pahīnā samucchinnā vūpasantā paṭippassaddhā abhabbuppattikā ñāṇagginā daḍḍhā, so vuccati vītataṇho vigatataṇho cattataṇho vantataṇho muttataṇho pahīnataṇho paṭinissaṭṭhataṇho vītarāgo cattarāgo pahīnarāgo paṭinissaṭṭharāgo nicchāto nibbuto sītibhūto sukhapaṭisaṃvedī brahmabhūtena attanā viharatī ’ti – so vītataṇho.
Anīgho ti rāgo nīgho, doso nīgho, moho nīgho, kodho nīgho, upanāho —pe— sabbākusalābhisaṅkhārā nīghā. Yassete nīghā pahīnā samucchinnā vūpasantā paṭippassaddhā abhabbuppattikā ñāṇagginā daḍḍhā, so vuccati anīgho. Nirāso ti āsā vuccati taṇhā, yo rāgo sārāgo —pe— abhijjhā lobho akusalamūlaṃ. Yassesā āsā taṇhā pahīnā samucchinnā vūpasantā paṭippassaddhā abhabbuppattikā ñāṇagginā daḍḍhā, so vuccati nirāso. Jātī ti yā tesaṃ tesaṃ sattānaṃ tamhi tamhi sattanikāye jāti sañjāti okkanti abhinibbatti khandhānaṃ pātubhāvo āyatanānaṃ paṭilābho. Jarā ti yā tesaṃ tesaṃ sattānaṃ tamhi tamhi sattanikāye jarā jīraṇatā khaṇḍiccaṃ pāliccaṃ valittacatā āyuno saṃhāni indriyānaṃ paripāko.
So vītataṇho anīgho nirāso atāri so jātijaranti brūmī ti yo so vītataṇho ca anīgho ca nirāso ca so kho jātijarāmaraṇaṃ atari uttari patari samatikkami vītivattayī ’ti brūmi ācikkhāmi desemi paññapemi paṭṭhapemi vivarāmi vibhajāmi uttānīkaromi pakāsemī ’ti – so vītataṇho anīgho nirāso atāri so jātijaranti brūmi.
Tenāha bhagavā: “Vidvā ca yo vedagū naro idha bhavābhave saṅgamimaṃ visajja, so vītataṇho anīgho nirāso atāri so jātijaranti brūmī ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Và người nào ở nơi này, có sự hiểu biết, là bậc đã đạt được sự hiểu biết, sau khi tháo gỡ sự quyến luyến này ở hữu và phi hữu, người ấy có tham ái đã được xa lìa, không còn phiền muộn, không có mong cầu, Ta nói rằng, người ấy đã vượt qua sanh và già.”
Saha gāthāpariyosānā —pe— “Satthā me bhante bhagavā, sāvakohamasmī ”ti
Cùng với lúc kết thúc câu kệ ngôn, –nt– “Bạch ngài, đức Thế Tôn là bậc đạo sư của con, con là người đệ tử.”
Mettagūsuttaniddeso catuttho.
Diễn Giải Kinh Mettagū là thứ tư.
5. DHOTAKASUTTANIDDESO – DIỄN GIẢI KINH DHOTAKA
(VI) Câu hỏi của thanh niên Dhotaka:
Pucchāmi taṃ bhagavā brūhi metaṃ (iccāyasmā dhotako) vācābhikaṅkhāmi mahesi tuyhaṃ, tava sutvāna nigghosaṃ sikkhe nibbānamattano.
(Tôn giả Dhotaka nói rằng:) “Thưa đức Thế Tôn, con hỏi ngài. Xin ngài hãy trả lời con về điều này. Thưa bậc đại ẩn sĩ, con mong mỏi lời nói của ngài. Sau khi lắng nghe lời tuyên bố của ngài, con có thể học tập về sự diệt tắt cho bản thân.”
Dhotaka:
1061. Tôn giả Dhô-ta-ka:
Con xin hỏi Thế Tôn,
Mong Ngài trả lời cho,
Con chờ đợi lời Ngài,
Kính thưa bậc Ðại sĩ,
Nghe lời Ngài tuyên bố,
Chúng con sẽ tự mình,
Học tập giới Niết-bàn.
(Kinh Tập, chương V)
Pucchāmi taṃ bhagavā brūhi metan ti – Pucchā ti tisso pucchā: adiṭṭhajotanā pucchā, diṭṭhasaṃsandanā pucchā vimaticchedanā pucchā, —pe— Imā tisso pucchā. —pe—nibbānapucchā. Pucchāmi tan ti: pucchāmi taṃ, yācāmi taṃ, ajjhesāmi taṃ, pasādemi taṃ, kathayassu me ’ti – pucchāmi taṃ. Bhagavā ti gāravādhivacanametaṃ —pe— sacchikā paññatti, yadidaṃ ‘bhagavā ’ti. Brūhi metan ti brūhi ācikkhāhi desehi paññapehi paṭṭhapehi vivara vibhaja uttānīkarohi pakāsehī ’ti – pucchāmi taṃ bhagavā brūhi metaṃ.
Iccāyasmā dhotako ti – Iccā ti padasandhi —pe— Āyasmā ti piyavacanaṃ garuvacanaṃ sagāravasappatissādhivacanametaṃ ‘āyasmā ’ti. Dhotako ti tassa brāhmaṇassa nāmaṃ saṅkhā samaññā paññatti vohāro nāmaṃ nāmakammaṃ nāmadheyyaṃ nirutti byañjanaṃ abhilāpo ’ti – iccāyasmā dhotako.
Vācābhikaṅkhāmi mahesi tuyhan ti tuyhaṃ vacanaṃ byappathaṃ desanaṃ anusiṭṭhiṃ kaṅkhāmi abhikaṅkhāmi icchāmi sādiyāmi patthayāmi pihayāmi abhijappāmi. Mahesī ti mahesī bhagavā, mahantaṃ sīlakkhandhaṃ esi gavesi pariyesī ’ti mahesī. —pe— kahaṃ narāsabhoti mahesī ’ti – vācābhikaṅkhāmi mahesi tuyhaṃ.
Tava sutvāna nigghosan ti tuyhaṃ vacanaṃ byappathaṃ desanaṃ anusiṭṭhiṃ sutvā suṇitvā uggahetvā upadhārayitvā upalakkhayitvā ’ti – tava sutvāna nigghosaṃ.
Sikkhe nibbānamattano ti – Sikkhā ti tisso sikkhā: adhisīlasikkhā adhicittasikkhā adhipaññāsikkhā. —pe— Ayaṃ adhipaññāsikkhā. Nibbānamatto ti attano rāgassa nibbāpanāya,dosassa nibbāpanāya, mohassa nibbāpanāya, kodhassa nibbāpanāya upanāhassa nibbāpanāya, —pe— sabbākusalābhisaṅkhārānaṃ samāya upasamāya vūpasamāya nibbāpanāya paṭinissaggāya paṭippassaddhiyā adhisīlampi sikkheyya, adhicittampi sikkheyya, adhipaññampi sikkheyya. Imā tisso sikkhāyo āvajjanto sikkheyya, jānanto sikkheyya, passanto sikkheyya, paccavekkhanto sikkheyya, cittaṃ adhiṭṭhahanto sikkheyya, saddhāya adhimuccanto sikkheyya, viriyaṃ paggaṇhanto sikkheyya, satiṃ upaṭṭhapento sikkheyya, cittaṃ samādahanto sikkheyya, paññāya pajānanto sikkheyya, abhiññeyyaṃ abhijānanto sikkheyya, pariññeyyaṃ parijānanto sikkheyya, pahātabbaṃ pajahanto sikkheyya, bhāvetabbaṃ bhāvento sikkheyya, sacchikātabbaṃ sacchikaronto sikkheyya, ācareyya samācareyya samādāya vatteyyā ’ti – sikkhe nibbānamattano.
Tenāha so brāhmaṇo: “Pucchāmi taṃ bhagavā brūhi metaṃ (iccāyasmā dhotako) vācābhikaṅkhāmi mahesi tuyhaṃ, tava sutvāna nigghosaṃ sikkhe nibbānamattano ”ti.
Vì thế, vị Bà-la-môn ấy đã nói rằng:
(Tôn giả Dhotaka nói rằng:) “Thưa đức Thế Tôn, con hỏi ngài. Xin ngài hãy trả lời con về điều này. Thưa bậc đại ẩn sĩ, con mong mỏi lời nói của ngài. Sau khi lắng nghe lời tuyên bố của ngài, con có thể học tập về sự diệt tắt cho bản thân.”
Tena hātappaṃ karohi (dhotakāti bhagavā) idheva nipako sato, ito sutvāna nigghosaṃ sikkhe nibbānamattano.
(Đức Thế Tôn nói: “Này Dhotaka,) chính vì điều ấy ngươi hãy thực hiện sự nhiệt tâm, ngay tại nơi này, hãy là người có sự chín chắn, có niệm. Sau khi lắng nghe lời tuyên bố từ nơi đây, nên học tập về sự diệt tắt cho bản thân.” Thế Tôn:
1062. Thế Tôn đáp lại rằng:
Hỡi này Dhô-ta-ka,
Ở đây Ông nhiệt tâm,
Sáng suốt và chánh niệm,
Từ đây, nghe tuyên bố,
Tự học tập Niết-bàn.
(Kinh Tập, chương V)
Tena hātappaṃ karohī ti ātappaṃ karohi, ussāhaṃ karohi, ussoḷhiṃ karohi, thāmaṃ karohi, dhitiṃ karohi, viriyaṃ karohi, chandaṃ janehi sañjanehi upaṭṭhapehi samuṭṭhapehi nibbattehi abhinibbattehī ’ti – tena hātappaṃ karohi.
Dhotakāti bhagavā ti bhagavā taṃ brāhmaṇaṃ nāmena ālapati. Bhagavā ti gāravādhivacanametaṃ —pe— sacchikā paññatti, yadidaṃ ‘bhagavā ’ti – dhotakāti bhagavā.
Idheva nipako sato ti – Idhā ti imissā diṭṭhiyā imissā khantiyā imissā ruciyā imasmiṃ ādāye imasmiṃ dhamme imasmiṃ vinaye imasmiṃ dhammavinaye imasmiṃ pāvacane imasmiṃ brahmacariye imasmiṃ satthusāsane imasmiṃ attabhāve imasmiṃ manussaloke. Nipako ti nipako paṇḍito paññavā buddhimā ñāṇī vibhāvī medhāvī. Sato ti catūhi kāraṇehi sato: kāye kāyānupassanāsatipaṭṭhānaṃ bhāvento sato —pe— so vuccati sato ’ti – idheva nipako sato.
Ito sutvāna nigghosan ti ito mayhaṃ vacanaṃ byappathaṃ desanaṃ anusiṭṭhiṃ sutvā suṇitvā uggahetvā upadhārayitvā upalakkhayitvā ’ti – ito sutvāna nigghosaṃ.
Sikkhe nibbānamattano ti – Sikkhā ti tisso sikkhā: adhisīlasikkhā adhicittasikkhā adhipaññāsikkhā —pe— Ayaṃ adhipaññāsikkhā. Nibbānamattano ti attano rāgassa nibbāpanāya, dosassa nibbāpanāya, mohassa nibbāpanāya, kodhassa nibbāpanāya, upanāhassa nibbāpanāya —pe— sabbā kusalābhisaṅkhārānaṃ samāya upasamāya vūpasamāya nibbāpanāya paṭinissaggāya paṭippassaddhiyā adhisīlampi sikkheyya, adhicittampi sikkheyya, adhipaññampi sikkheyya, imā tisso sikkhāyo āvajjanto sikkheyya, jānanto sikkheyya, —pe— sacchikātabbaṃ sacchikaronto sikkheyya, ācareyya samācareyya samādāya vatteyyā ’ti – sikkhe nibbānamattano.
Tenāha bhagavā: “Tena hātappaṃ karohi (dhotakāti bhagavā) idheva nipako sato, ito sutvāna nigghosaṃ sikkhe nibbānamattano ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng: (Đức Thế Tôn nói: “Này Dhotaka,) chính vì điều ấy ngươi hãy thực hiện sự nhiệt tâm, ngay tại nơi này, hãy là người có sự chín chắn, có niệm. Sau khi lắng nghe lời tuyên bố từ nơi đây, nên học tập về sự diệt tắt cho bản thân.”
Passāmahaṃ devamanussaloke akiñcanaṃ brāhmaṇaṃ iriyamānaṃ taṃ taṃ namassāmi samantacakkhu pamuñca maṃ sakka kathaṃkathāhi.
“Con nhìn thấy ở thế giới của chư Thiên và loài người vị Bà-la-môn, không còn vướng bận, đang sinh hoạt (trong bốn oai nghi). Vì thế, thưa bậc Toàn Nhãn, con xin kính lễ ngài. Thưa vị dòng Sakya, xin ngài hãy giải thoát cho con khỏi các nỗi nghi hoặc.”
Dhotaka:
1063. Con thấy ở thế giới,
Chư Thiên và loài Người,
Sở hành của Phạm chí,
Không một gì sở hữu.
Con đảnh lễ chính Ngài,
Bậc có mắt cùng khắp,
Kính thưa bậc Thích tử,
Hãy giải thoát cho con,
Tất cả mọi nghi ngờ.
(Kinh Tập, chương V)
Passāmahaṃ devamanussaloke ti – Devā ti tayo devā: sammutidevā uppattidevā visuddhidevā. Katame sammutidevā? Sammutidevā vuccanti rājāno ca rājakumārā ca deviyo ca, ime vuccanti sammutidevā. Katame uppattidevā? Uppattidevā vuccanti catummahārājikā devā tāvatiṃsā devā yāmā devā tusitā devā nimmāṇaratī devā paranimmitavasavattī devā brahmakāyikā devā, ye ca devā taduttariṃ, ime vuccanti uppattidevā. Katame visuddhidevā? Visuddhidevā vuccanti tathāgatasāvakā arahanto khīṇāsavā, ye ca paccekasambuddhā, ime vuccanti visuddhidevā. Bhagavā sammutidevānaṃ ca uppattidevānaṃ ca visuddhidevānaṃ ca devo ca atidevo ca devātidevo ca sīhasīho nāganāgo gaṇigaṇī munimunī rājarājā. Passāmahaṃ devamanussaloke ti manussaloke devaṃ passāmi atidevaṃ passāmi devātidevaṃ passāmi dakkhāmi olokemi nijjhāyāmi upaparikkhāmī ’ti – passāmahaṃ devamanussaloke.
Akiñcanaṃ brāhmaṇaṃ iriyamānan ti – Akiñcanan ti rāgakiñcanaṃ dosakiñcanaṃ mohakiñcanaṃ mānakiñcanaṃ diṭṭhikiñcanaṃ kilesakiñcanaṃ duccaritakiñcanaṃ, te kiñcanā buddhassa bhagavato pahīnā ucchinnamūlā tālāvatthukatā anabhāvakatā āyatiṃ anuppādadhammā, tasmā buddho akiñcano. Brāhmaṇo ti bhagavā sattannaṃ dhammānaṃ bāhitattā brāhmaṇo: sakkāyadiṭṭhi bāhitā hoti, vicikicchā bāhitā hoti, sīlabbataparāmāso bāhito hoti, rāgo bāhito hoti, doso bāhito hoti, moho bāhito hoti, māno bāhito hoti, bāhitāssa honti pāpakā akusalā dhammā saṅkilesikā ponobhavikā sadarā dukkhavipākā āyatiṃ jātijarāmaraṇīyā.
1. “Bāhetvā sabbapāpakāni (sabhiyāti bhagavā) vimalo sādhu samāhito ṭhitatto, saṃsāramaticca kevalī so asito tādī pavuccate sa brahmā. ”
1. (Đức Thế Tôn nói: “Này Sabhiya,) sau khi loại trừ tất cả các điều ác, là người không còn vết nhơ, tốt lành, định tĩnh, có bản thân vững chãi, vị ấy đã vượt qua luân hồi, có sự toàn hảo, không nương nhờ, tự tại, vị ấy được gọi là Bà-la-môn.”
Iriyamānan ti carantaṃ viharantaṃ irīyantaṃ vattentaṃ pālentaṃ yapentaṃ yāpentan ’ti – akiñcanaṃ brāhmaṇaṃ iriyamānaṃ.
Taṃ taṃ namassāmi samantacakkhū ti – Tan ti bhagavantaṃ bhaṇati. Namassāmī ti kāyena vā namassāmi, vācāya vā namassāmi, cittena vā namassāmi, anvatthapaṭipattiyā vā namassāmi, dhammānudhammapaṭipattiyā vā namassāmi, sakkaromi garukaromi mānemi pūjemi. Samantacakkhū ti samantacakkhu vuccati sabbaññutañāṇaṃ, bhagavā sabbaññutañāṇena upeto samupeto upagato samupagato uppanno sampanno samannāgato.
2. “Na tassa addiṭṭhamidatthi kiñci atho aviññātamajānitabbaṃ sabbaṃ abhiññāsi yadatthi neyyaṃ tathāgato tena samantacakkhū ”ti. Taṃ taṃ namassāmi samantacakkhu.
2. “Đối với Ngài, không có bất cứ điều gì ở nơi đây là không được nhìn thấy, không được nhận thức, hoặc không thể biết được. Điều nào có thể biết được, Ngài đã biết rõ tất cả, vì thế đức Như Lai là bậc Toàn Nhãn.”
‘Vì thế, thưa bậc Toàn Nhãn, con xin kính lễ ngài’ là như thế.
Pamuñca maṃ sakka kathaṃkathāhī ti – Sakkā ti sakko bhagavā sakyakulā pabbajito ’tipi sakko. Athavā aḍḍho mahaddhano dhanavā ’tipi sakko, tassimāni dhanāni, seyyathīdaṃ: saddhādhanaṃ sīladhanaṃ hiridhanaṃ ottappadhanaṃ sutadhanaṃ cāgadhanaṃ paññādhanaṃ satipaṭṭhānadhanaṃ sammappadhānadhanaṃ iddhipādadhanaṃ indriyadhanaṃ baladhanaṃ bojjhaṅgadhanaṃ maggadhanaṃ phaladhanaṃ nibbānadhanaṃ, imehi anekavidhehi dhanaratanehi aḍḍho mahādhano dhanavā ’tipi sakko..
Athavā sakko pahū visavī alamatto sūro vīro vikkanto abhīru acchambhī anutrāsī apalāyī, pahīnabhayabheravo vigatalomahaṃso ’tipi sakko. Kathaṃkathā vuccati vicikicchā, dukkhe kaṅkhā, dukkhasamudaye kaṅkhā, dukkhanirodhe kaṅkhā, dukkhanirodhagāminiyā paṭipadāya kaṅkhā, pubbante kaṅkhā, aparante kaṅkhā, pubbantāparante kaṅkhā, idappaccayatāpaṭiccasamuppannesu dhammesu kaṅkhā. Yā evarūpā kaṅkhā kaṅkhāyanā kaṅkhāyitattaṃ vimati vicikicchā dveḷhakaṃ dvedhāpatho saṃsayo anekaṃsagāho āsappanā parisappanā apariyogāhanā thambhitattaṃ cittassa manovilekho. Pamuñca maṃ sakka kathaṃkathāhī ti muñca maṃ, pamuñca maṃ, mocehi maṃ, pamocehi maṃ, uddhara maṃ, samuddhara maṃ, uṭṭhāpehi maṃ, kathaṃkathāsallato ’ti – pamuñca maṃ sakka kathaṃkathāhi.
Tenāha so brāhmaṇo: “Passāmahaṃ deva manussaloke akiñcanaṃ brāhmaṇaṃ irīyamānaṃ, taṃ taṃ namassāmi samantacakkhu pamuñca maṃ sakka kathaṃkathāhī ”ti.
Vì thế, vị Bà-la-môn ấy đã nói rằng:
“Con nhìn thấy ở thế giới của chư Thiên và loài người vị Bà-la-môn, không còn vướng bận, đang sinh hoạt (trong bốn oai nghi). Vì thế, thưa bậc Toàn Nhãn, con xin kính lễ ngài. Thưa vị dòng Sakya, xin ngài hãy giải thoát cho con khỏi các nỗi nghi hoặc.”
Nāhaṃ sahissāmi pamocanāya kathaṃkathiṃ dhotaka kañci loke dhammañca seṭṭhaṃ ājānamāno evaṃ tuvaṃ oghamimaṃ taresi.
“Ta sẽ không có khả năng về việc giúp cho giải thoát bất cứ người nào ở thế gian có nỗi nghi hoặc, này Dhotaka.
Nhưng trong khi biết rõ Giáo Pháp tối thượng, như vậy ngươi có thể vượt qua dòng lũ này.”
Thế Tôn:
1064. Hỡi này Dhô-ta-ka,
Ta sẽ không đi đến,
Giải thoát cho một ai,
Có nghi ngờ ở đời,
Khi pháp được Ông biết,
Là tối thượng tối thắng,
Như vậy Ông vượt khỏi,
Dòng nước chảy mạnh này.
(Kinh Tập, chương V)
Nāhaṃ sahissāmi pamocanāyā ti nāhaṃ taṃ sakkomi muñcituṃ, pamuñcituṃ mocetuṃ pamocetuṃ uddharituṃ samuddharituṃ uṭṭhāpetuṃ samuṭṭhāpetuṃ kathaṃkathāsallato ’ti – evampi ‘nāhaṃ sahissāmi pamocanāya.’ Athavā na īhāmi, na samīhāmi, na ussahāmi, na vāyamāmi, na ussāhaṃ karomi, na ussoḷhiṃ karomi, na thāmaṃ karomi, na dhitiṃ karomi, na viriyaṃ karomi, na chandaṃ janemi, na sañjanemi, na nibbattemi, na abhinibbattemi, assaddhe puggale acchandake kusīte hīnaviriye appaṭipajjamāne dhammadesanāyā ’ti – evampi ‘nāhaṃ sahissāmi pamocanāya.’
Athavā natthañño koci mocetā, te yadi moceyyuṃ, sakena thāmena sakena balena sakena viriyena sakena parakkamena sakena purisathāmena [sakena purisabalena sakena purisaviriyena sakena purisaparakkamena] attanā sammāpaṭipadaṃ anulomapaṭipadaṃ apaccanīkapaṭipadaṃ anvatthapaṭipadaṃ dhammānudhammapaṭipadaṃ paṭipajjamānā moceyyun ’ti – evampi ‘nāhaṃ sahissāmi pamocanāya.’
Hoặc là, không có kẻ nào khác là người cứu thoát. Nếu những người ấy có thể cứu thoát, thì họ có thể cứu thoát bằng sức mạnh của mình, bằng năng lực của mình, bằng sự tinh tấn của mình, bằng sự nỗ lực của mình, bằng sức mạnh nam nhân của mình, bằng năng lực nam nhân của mình, bằng sự tinh tấn nam nhân của mình, bằng sự nỗ lực nam nhân của mình, trong khi bản thân họ thực hành sự thực hành đúng đắn, sự thực hành phù hợp, sự thực hành không trái ngược, sự thực hành đưa đến lợi ích, sự thực hành đúng pháp và thuận pháp; – Ta sẽ không có khả năng về việc giúp cho giải thoát’ còn là như vậy.
Vuttaṃ hetaṃ bhagavatā:
“So vata cunda, attanā palipapalipanno paraṃ palipapalipannaṃ uddharissatīti netaṃ ṭhānaṃ vijjati. So vata cunda, attanā adanto avinīto aparinibbuto paraṃ damessati vinessati parinibbāpessatīti netaṃ ṭhānaṃ vijjatī ”ti.
Evampi ‘nāhaṃ sahissāmi pamocanāya.’
Bởi vì điều này đã được đức Thế Tôn nói đến:
“Này Cunda, thật vậy kẻ ấy, tự thân đã bị lún ở bãi lầy, sẽ nâng lên kẻ khác đã bị lún ở bãi lầy, sự kiện này không thể có được. Này Cunda, thật vậy kẻ ấy, tự thân không được thuần phục, không được huấn luyện, không được hoàn toàn tịch diệt, sẽ thuần phục, sẽ huấn luyện, sẽ giúp cho kẻ khác hoàn toàn tịch diệt, sự kiện này không thể có được.”
‘Ta sẽ không có khả năng về việc giúp cho giải thoát’ còn là như vậy.
Vuttampi hetaṃ bhagavatā:
3. “Attanāva kataṃ pāpaṃ attanā saṅkilissati attanā akataṃ pāpaṃ attanāva visujjhati suddhi asuddhi paccattaṃ nāññamañño visodhaye ”ti.
Evampi ‘nāhaṃ sahissāmi pamocanāya.’
Bởi vì điều này đã được đức Thế Tôn nói đến:
3. “Việc ác đã được làm bởi chính bản thân, trở thành ô nhiễm bởi bản thân. Việc ác đã không được làm bởi bản thân, trở thành trong sạch bởi chính bản thân. Trong sạch (hay) không trong sạch tùy thuộc vào bản thân, không ai có thể làm cho người khác trở thành trong sạch.”
‘Ta sẽ không có khả năng về việc giúp cho giải thoát’ còn là như vậy.
Vuttaṃ hetaṃ bhagavatā:
“Evameva kho brāhmaṇa, tiṭṭhateva nibbānaṃ tiṭṭhati nibbānagāmimaggo tiṭṭhāmahaṃ samādapetā, atha ca pana mama sāvakā mayā evaṃ ovadiyamānā evaṃ anusāsiyamānā appekacce accantaniṭṭhaṃ nibbānaṃ ārādhenti, ekacce nārādhenti. Ettha kyāhaṃ brāhmaṇa, karomi maggakkhāyī brāhmaṇa tathāgato, maggaṃ buddhā ācikkhanti, attanā paṭipajjamānā muñceyyun ”ti.
Evampi ‘nāhaṃ sahissāmi pamocanāya.’
Bởi vì điều này đã được đức Thế Tôn nói đến: “Này Bà-la-môn, tương tợ y như thế, Niết Bàn quả là có thật, con đường đưa đến Niết Bàn là có thật, ta là người chỉ dẫn là có thật, và hơn nữa các đệ tử của ta, trong khi được ta giáo huấn như vậy, trong khi được chỉ dạy như vậy, một số đệ tử đạt đến mục đích tột cùng là Niết Bàn, một số không đạt đến. Này Bà-la-môn, ở đây ta làm được điều gì? Này Bà-la-môn, Như Lai là người chỉ đường. Chư Phật chỉ ra con đường. Chúng sanh, trong khi tự thân thực hành, thì có thể giải thoát.”
‘Ta sẽ không có khả năng về việc giúp cho giải thoát’ còn là như vậy.
Kathaṃkathiṃ dhotaka kañci loke ti kathaṃkathiṃ puggalaṃ sakaṅkhaṃ savilekhaṃ sadveḷhakaṃ savicikicchaṃ. Kañcī ti kañci khattiyaṃ vā brāhmaṇaṃ vā vessaṃ vā suddaṃ vā gahaṭṭhaṃ vā pabbajitaṃ vā devaṃ vā manussaṃ vā. Loke ti apāyaloke —pe—āyatanaloke ’ti – kathaṃkathiṃ dhotaka kañci loke.
Dhammañca seṭṭhaṃ ājānamāno ti dhammaṃ seṭṭhaṃ vuccati amataṃ nibbānaṃ yo so sabbasaṅkhārasamatho sabbūpadhipaṭinissaggo taṇhakkhayo virāgo nirodho nibbānaṃ. Seṭṭhan ti aggaṃ seṭṭhaṃ viseṭṭhaṃ pāmokkhaṃ uttamaṃ pavaraṃ dhammaṃ. Ājānamāno ti ājānamāno vijānamāno paṭivijānamāno paṭivijjhamāno ’ti – dhammañca seṭṭhaṃ ājānamāno.
Evaṃ tuvaṃ oghamimaṃ taresī ti evaṃ tvaṃ kāmoghaṃ bhavoghaṃ diṭṭhoghaṃ avijjoghaṃ tareyyāsi uttareyyāsi patareyyāsi samatikkameyyāsi vītivatteyyāsī ’ti – evaṃ tuvaṃ oghamimaṃ taresi.
Tenāha bhagavā: “Nāhaṃ sahissāmi pamocanāya (dhotakāti bhagavā) kathaṃkathiṃ dhotaka kañci loke, dhammañca seṭṭhaṃ ājānamāno evaṃ tuvaṃ oghamimaṃ taresī ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng: (Đức Thế Tôn nói: “Này Dhotaka,) Ta sẽ không có khả năng về việc giúp cho giải thoát bất cứ người nào ở thế gian có nỗi nghi hoặc, này Dhotaka. Nhưng trong khi biết rõ Giáo Pháp tối thượng, như vậy ngươi có thể vượt qua dòng lũ này.”
Anusāsa brahme karuṇāyamāno (iccāyasmā dhotako) vivekadhammaṃ yamahaṃ vijaññaṃ, yathāhaṃ ākāsova abyāpajjamāno idheva santo asito careyyaṃ.
(Tôn giả Dhotaka nói rằng:) “Thưa đấng Phạm Thiên, xin ngài hãy từ mẫn chỉ dạy pháp viễn ly để con có thể nhận thức được pháp ấy, theo đó, con ví như hư không, không bị xáo trộn, con có thể sống ở chính nơi này, được an tịnh, không nương nhờ.”
Dhotaka:
1065. Hãy giáo hóa, từ mẫn,
Ôi bậc đại Phạm thiên,
Ðể con được rõ biết,
Pháp viễn ly vô thượng,
Như vậy con sẽ sống,
Như trời không áp bức,
Sở hành ở đời này,
An tịnh và độc lập.
(Kinh Tập, chương V)
Anusāsa brahme karuṇāyamāno ti – Anusāsa brahme ti anusāsa brahme, anugaṇha brahme, anukampa brahme ’ti – anusāsa brahme. Karuṇāyamāno ti karuṇāyamāno anuddayamāno anurakkhamāno anugaṇhamāno anukampamāno ’ti – anusāsa brahme karuṇāyamāno.
Vivekadhammaṃ yamahaṃ vijaññan ti vivekadhammaṃ vuccati amataṃ nibbānaṃ. Yo so sabbasaṅkhārasamatho sabbūpadhipaṭinissaggo taṇhakkhayo virāgo nirodho nibbānaṃ. Yamahaṃ vijaññanti yamahaṃ jāneyyaṃ ājāneyyaṃ vijāneyyaṃ paṭivijāneyyaṃ paṭivijjheyyaṃ adhigaccheyyaṃ phasseyyaṃ sacchikareyyan ’ti – vivekadhammaṃ yamahaṃ vijaññaṃ.
Yathāhaṃ ākāsova abyāpajjamāno ti yathā ākāso na pajjati na gaṇhāti na bajjhati na paḷibajjhati evaṃ āpajjamāno agaṇhamāno abajjhamāno apaḷibajjhamāno ’ti – evampi ‘ākāsova abyāpajjamāno.’ Yathā ākāso na rajjati lākhāya vā haliddiyā vā nīliyā vā mañjeṭṭhāya vā, evaṃ arajjamāno adussamāno amuyhamāno akilissamāno ’ti – evampi ‘ākāsova abyāpajjamāno.’ Yathā ākāso na kuppati, na byāpajjati, na patitthiyati na paṭihaññati, evaṃ akuppamāno abyāpajjamāno apatitthiyamāno apaṭihaññamāno ’ti – evampi ‘ākāsova abyāpajjamāno.’
Idheva santo asito careyyan ti – Idheva santo ti idheva santo samāno, idheva nisinno samāno, imasmiṃ yeva āsane nisinno samāno, imissāyeva parisāya nisinno samāno ’ti – evampi ‘idheva santo.’ Athavā idheva santo upasanto vūpasanto nibbuto paṭippassaddho ’ti – evampi ‘idheva santo.’ Asito ti dve nissayā: taṇhānissayo ca diṭṭhinissayo ca, —pe— ayaṃ taṇhānissayo —pe— ayaṃ diṭṭhinissayo. Taṇhānissayaṃ pahāya diṭṭhinissayaṃ paṭinissajitvā cakkhuṃ anissito, sotaṃ anissito, ghānaṃ anissito, jivhaṃ anissito, kāyaṃ anissito, manaṃ anissito. Rūpe – sadde – gandhe – rase – phoṭṭhabbe – dhamme – kulaṃ gaṇaṃ āvāsaṃ lābhaṃ yasaṃ pasaṃsaṃ sukhaṃ cīvaraṃ piṇḍapātaṃ senāsanaṃ gilānapaccayabhesajjaparikkhāraṃ kāmadhātuṃ rūpadhātuṃ arūpadhātuṃ kāmabhavaṃ rūpabhavaṃ arūpabhavaṃ saññābhavaṃ asaññābhavaṃ nevasaññānāsaññābhavaṃ ekavokārabhavaṃ catuvokārabhavaṃ pañcavokārabhavaṃ atītaṃ anāgataṃ paccuppannaṃ diṭṭhaṃ sutaṃ mutaṃ viññātaṃ sabbe dhamme asito anissito anallīno anupagato anajjhosito anadhimutto nikkhanto nissaṭo vippamutto visaṃyutto vimariyādīkatena cetasā [viharatīti asito ]. Careyyan ti careyyaṃ vihareyyaṃ irīyeyyaṃ vatteyyaṃ pāleyyaṃ yapeyyaṃ yāpeyyan ’ti – idheva santo asito careyyaṃ.
Tenāha so brāhmaṇo: “Anusāsa brahme, karuṇāyamāno vivekadhammaṃ yamahaṃ vijaññaṃ, yathāhaṃ ākāsova abyāpajjamāno idheva santo asito careyyan ”ti.
Vì thế, vị Bà-la-môn ấy đã nói rằng: “Thưa đấng Phạm Thiên, xin ngài hãy từ mẫn chỉ dạy pháp viễn ly để con có thể nhận thức được pháp ấy, theo đó, con ví như hư không, không bị xáo trộn, con có thể sống ở chính nơi này, được an tịnh, không nương nhờ.”
Kittayissāmi te santiṃ (dhotakāti bhagavā) diṭṭhe dhamme anītihaṃ, yaṃ viditvā sato caraṃ tare loke visattikaṃ.
(Đức Thế Tôn nói: “Này Dhotaka,)
Ta sẽ giải thích cho ngươi về sự an tịnh,
về pháp đã được thấy, không phải do nghe nói lại;
sau khi hiểu pháp ấy, vị có niệm, trong khi sống,
có thể vượt qua sự vướng mắc ở thế gian.”
Thế Tôn:
1066. Thế Tôn liền nói rằng:
Hỡi này Dho-ta-ka,
Ta sẽ giảng cho Ông,
Pháp tịch tịnh hiện tại;
Không do xưa truyền lại,
Sau khi biết pháp này,
Hãy sống, giữa chánh niệm
Vượt tham ái ở đời.
(Kinh Tập, chương V)
Kittayissāmi te santin ti rāgassa santiṃ dosassa santiṃ mohassa santiṃ kodhassa santiṃ upanāhassa – makkhassa – paḷāsassa – issāya – macchariyassa – māyāya – sāṭheyyassa – thambhassa – sārambhassa – mānassa – atimānassa – madassa – pamādassa – sabbakilesānaṃ – sabbaduccaritānaṃ – sabbadarathānaṃ – sabbapariḷāhānaṃ – sabbasantāpānaṃ – sabbākusalābhisaṅkhārānaṃ santiṃ upasantiṃ vūpasantiṃ nibbutiṃ paṭippassaddhiṃ kittayissāmi, pakittayissāmi ācikkhissāmi desissāmi paññapessāmi paṭṭhapessāmi vivarissāmi vibhajissāmi uttānīkarissāmi pakāsessāmī ’ti – kittayissāmi te santiṃ.
Dhotakāti bhagavā ti – Dhotakā ti bhagavā taṃ brāhmaṇaṃ nāmena ālapati. Bhagavā ti gāravādhivacanametaṃ —pe— sacchikā paññatti, yadidaṃ bhagavā ’ti – dhotakāti bhagavā.
Diṭṭhe dhamme anītihan ti – Diṭṭhe dhamme ti diṭṭhe dhamme ñāte dhamme tulite dhamme tīrite dhamme vibhūte dhamme vibhāvite dhamme ‘sabbe saṅkhārā aniccā ’ti —pe— ‘yaṃ kiñci samudayadhammaṃ sabbaṃ taṃ nirodhadhamman ’ti diṭṭhe dhamme ñāte dhamme tulite dhamme tīrite dhamme vibhāvite dhamme vibhūte dhamme ’ti – evampi ‘diṭṭhe dhamme.’
Athavā dukkhe diṭṭhe dukkhaṃ kathayissāmi, samudaye diṭṭhe samudayaṃ kathayissāmi, nirodhe diṭṭhe nirodhaṃ kathayissāmi, magge diṭṭhe maggaṃ kathayissāmī ’ti – evampi ‘diṭṭhe dhamme.’ Athavā ‘sandiṭṭhikaṃ akālikaṃ ehipassikaṃ opanayikaṃ paccattaṃ veditabbaṃ viññūhī ’ti – evampi ‘diṭṭhe dhamme.’ Anītihan ti na itihitihaṃ na itikirāya na paramparāya na piṭakasampadāya na takkahetu na nayahetu na ākāraparivitakkena na diṭṭhinijjhānakkhantiyā sāmaṃ sayamabhiññātaṃ attapaccakkhadhammaṃ taṃ kathayissāmī ’ti – diṭṭhe dhamme anītihaṃ.
Yaṃ viditvā sato caran ti yaṃ viditaṃ katvā tulayitvā tīrayitvā vibhāvayitvā vibhūtaṃ katvā, ‘sabbe saṅkhārā aniccā ’ti viditaṃ katvā tulayitvā tīrayitvā vibhāvayitvā vibhūtaṃ katvā, ‘sabbe saṅkhārā dukkhā ’ti –pe– ‘sabbe dhammā anattā ’ti —pe— ‘yaṃ kiñci samudayadhammaṃ sabbaṃ taṃ nirodhadhamman ’ti viditaṃ katvā tulayitvā tīrayitvā vibhāvayitvā vibhūtaṃ katvā. Sato ti catūhi kāraṇehi sato: kāye kāyānupassanāsatipaṭṭhānaṃ bhāvento sato, –pe– so vuccati sato. Caran ti caranto viharanto irīyanto vattento pālento yapento yāpento ’ti – yaṃ viditvā sato caraṃ.
Tare loke visattikan ti visattikā vuccati taṇhā. Yo rāgo sārāgo —pe— abhijjhā lobho akusalamūlaṃ. Visattikā ti kenaṭṭhena visattikā? —pe— visaṭā vitthatā ’ti – visattikā. Loke ti apāyaloke —pe— āyatanaloke. Tare loke visattikan ti loke vesā visattikā lokevetaṃ visattikaṃ sato tareyya uttareyya patareyya samatikkameyya vītivatteyyā ’ti – tare loke visattikaṃ.
Tenāha bhagavā: “Kittayissāmi te santiṃ (dhotakāti bhagavā) diṭṭhe dhamme anītihaṃ yaṃ viditvā sato caraṃ tare loke visattikan ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
(Đức Thế Tôn nói: “Này Dhotaka,)
Ta sẽ giải thích cho ngươi về sự an tịnh,
về pháp đã được thấy, không phải do nghe nói lại;
sau khi hiểu pháp ấy, vị có niệm, trong khi sống,
có thể vượt qua sự vướng mắc ở thế gian.”
Tañcāhaṃ abhinandāmi mahesī santimuttamaṃ yaṃ viditvā sato caraṃ tare loke visattikaṃ.
“Và con thích thú về điều ấy,
thưa bậc đại ẩn sĩ, về sự an tịnh tối thượng;
sau khi hiểu pháp ấy, vị có niệm, trong khi sống,
có thể vượt qua sự vướng mắc ở thế gian.”
Dhotaka:
1067. Con cảm thấy hoan hỷ,
Pháp bậc Ðại sĩ giảng,
Pháp tịch tịnh vô thượng;
Sau khi biết pháp này,
Con sẽ sống chánh niệm,
Vượt tham ái ở đời.
(Kinh Tập, chương V)
Tañcāhaṃ abhinandāmī ti – Tan ti tuyhaṃ vacanaṃ byappathaṃ desanaṃ anusiṭṭhiṃ nandāmi, abhinandāmi modāmi anumodāmi icchāmi sādiyāmi patthayāmi pihayāmi abhijappāmī ’ti – tañcāhaṃ abhinandāmi.
Mahesī santimuttaman ti – Mahesī ti mahesī bhagavā mahantaṃ sīlakkhandhaṃ esi gavesi pariyesī ’ti mahesī, mahantaṃ samādhikkhandhaṃ —pe— kahaṃ narāsabho ’ti mahesī. Santimuttaman ti santi vuccati amataṃ nibbānaṃ, yo so sabbasaṅkhārasamatho sabbūpadhipaṭinissaggo taṇhakkhayo virāgo nirodho nibbānaṃ. Uttaman ti aggaṃ seṭṭhaṃ viseṭṭhaṃ pāmokkhaṃ uttamaṃ pavaran ’ti – mahesī santimuttamaṃ.
Yaṃ viditvā sato caran ti yaṃ viditaṃ katvā —pe— ‘sabbe saṅkhārā aniccā ’ti viditaṃ katvā tulayitvā tīrayitvā vibhāvayitvā vibhūtaṃ katvā, ‘sabbe saṅkhārā dukkhā ’ti –pe– ‘sabbe dhammā anattā ’ti –pe– ‘yaṃ kiñci samudayadhammaṃ sabbaṃ taṃ nirodhadhamman ’ti viditaṃ katvā tulayitvā tīrayitvā vibhāvayitvā vibhūtaṃ katvā. Sato ti catūhi kāraṇehi sato: kāye kāyānupassanāsatipaṭṭhānaṃ bhāvento sato, –pe– so vuccati sato. Caran ti caranto –pe– yāpento ’ti – yaṃ viditvā sato caraṃ.
Tare loke visattikan ti visattikā vuccati taṇhā. Yo rāgo sārāgo —pe— abhijjhā lobho akusalamūlaṃ. Visattikā ti kenaṭṭhena visattikā? —pe— visaṭā vitthatā ’ti – visattikā. Loke ti apāyaloke —pe— āyatanaloke. Tare loke visattikan ti loke vesā visattikā lokevetaṃ visattikaṃ sato tareyya, uttareyya –pe– vītivatteyyā ’ti – tare loke visattikaṃ.
Tenāha so brāhmaṇo:
“Tañcāhaṃ abhinandāmi mahesī santimuttamaṃ, yaṃ viditvā sato caraṃ tare loke visattikan ”ti.
Vì thế, vị Bà-la-môn ấy đã nói rằng:
“Và con thích thú về điều ấy,
thưa bậc đại ẩn sĩ, về sự an tịnh tối thượng;
sau khi hiểu pháp ấy, vị có niệm, trong khi sống,
con có thể vượt qua sự vướng mắc ở thế gian.”
Yaṃ kiñci sampajānāsi (dhotakāti bhagavā) uddhaṃ adho tiriyañcāpi majjhe, etaṃ viditvā saṅgoti loke
bhavābhavāya mākāsi taṇhaṃ.
(Đức Thế Tôn nói: “Này Dhotaka,) bất cứ điều gì mà ngươi tự mình nhận biết, ở bên trên, bên dưới, luôn cả bề ngang và khoảng giữa, sau khi hiểu điều này là ‘sự quyến luyến’ ở thế gian, ngươi chớ tạo ra tham ái ở hữu và phi hữu.”
Thế Tôn:
1068. Thế Tôn lời đáp lại:
Hỡi này Dho-ta-ka,
Phàm Ông rõ biết gì,
Cao, thấp, ngang, chặng giữa,
Sau khi được rõ biết,
Tham ái này ở đời,
Chớ tạo nên khát ái
Với hữu và phi hữu.
(Kinh Tập, chương V)
Yaṃ kiñci sampajānāsī ti yaṃ kiñci sampajānāsi ājānāsi vijānāsi paṭivijānāsi paṭivijjhasī ’ti – yaṃ kiñci sampajānāsi. Dhotakāti bhagavā ti – Dhotakā ti bhagavā taṃ brāhmaṇaṃ nāmena ālapati. Bhagavā ti gāravādhivacanametaṃ —pe— sacchikā paññatti, yadidaṃ bhagavā ’ti – dhotakāti bhagavā.
Uddhaṃ adho tiriyañcāpi majjhe ti – Uddhan ti anāgataṃ, adho ti atītaṃ, tiriyañcāpi majjhe ti paccuppannaṃ. Uddhan ti devaloko, adho ti apāyaloko, tiriyañcāpi majjhe ti manussaloko. Athavā uddhan ti kusalā dhammā, adho ti akusalā dhammā, tiriyaṃ cāpi majjhe ti abyākatā dhammā. Uddhan ti arūpadhātu, adho ti kāmadhātu, tiriyañcāpi majjhe ti rūpadhātu. Uddhan ti sukhā vedanā, adho ti dukkhā vedanā, tiriyañcāpi majjhe ti adukkhamasukhā vedanā. Uddhan ti uddhaṃ pādatalā, adho ti adho kesamatthakā, tiriyañcāpi majjhe ti vemajjhe ’ti – uddhaṃ adho tiriyañcāpi majjhe.
Etaṃ viditvā saṅgoti loke ti saṅgo eso lagganaṃ etaṃ bandhanaṃ etaṃ paḷibodho esoti ñatvā jānitvā tulayitvā tīrayitvā vibhāvayitvā vibhūtaṃ katvā ’ti – etaṃ viditvā saṅgoti loke.
Bhavābhavāya mākāsi taṇhan ti – Taṇhā ti rūpataṇhā saddataṇhā –pe– dhammataṇhā. Bhavābhāvāyā ti bhavābhavāya kammabhavāya punabbhavāya, kāmabhavāya kammabhavāya kāmabhavāya punabbhavāya, rūpabhavāya kammabhavāya rūpabhavāya punabbhavāya, arūpabhavāya kammabhavāya arūpabhavāya punabbhavāya, punappunabhavāya, punappunagatiyā punappunauppattiyā punappunapaṭisandhiyā punappunaattabhāvābhinibbattiyā taṇhaṃ mākāsi, mā janesi mā sañjanesi mā nibbattesi mābhinibbattesi, pajaha vinodehi byantīkarohi anabhāvaṃ gamehī ’ti – bhavābhavāya mākāsi taṇhanti.
Tenāha bhagavā:
“Yaṃ kiñci sampajānāsi (dhotakāti bhagavā) uddhaṃ adho tiriyaṃ cāpi majjhe, etaṃ viditvā saṅgoti loke bhavābhavāya mākāsi taṇhan ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
(Đức Thế Tôn nói: “Này Dhotaka,) bất cứ điều gì mà ngươi tự mình nhận biết, ở bên trên, bên dưới, luôn cả bề ngang và khoảng giữa, sau khi hiểu điều này là ‘sự quyến luyến’ ở thế gian, ngươi chớ tạo ra tham ái ở hữu và phi hữu.”
Saha gāthāpariyosānā —pe— “Satthā me bhante bhagavā sāvakohamasmī ”ti.
Cùng với lúc kết thúc câu kệ ngôn, –nt– “Bạch ngài, đức Thế Tôn là bậc đạo sư của con, con là người đệ tử.”
Dhotakasuttaniddeso pañcamo.
Diễn Giải Kinh Dhotaka là thứ năm.
6. UPASĪVASUTTANIDDESO – DIỄN GIẢI KINH UPASĪVA
(VII) Câu hỏi của thanh niên Upasiva
Eko ahaṃ sakka, mahantamoghaṃ (iccāyasmā upasīvo) anissito no visahāmi tārituṃ ārammaṇaṃ brūhi samantacakkhu yaṃ nissito oghamimaṃ tareyyaṃ.
(Tôn giả Upasīva nói rằng:) “Thưa vị dòng Sakya, một mình con, không nương tựa (nơi nào), con không có khả năng vượt qua dòng lũ lớn. Thưa bậc Toàn Nhãn, xin ngài hãy nói về đối tượng, được nương tựa vào nơi ấy, con có thể vượt qua dòng lũ này.”
Upasiva:
1069. Tôn giả U-pa-si-va:
Kính thưa bậc Thích tử,
Một mình, không y chỉ,
Con không thể vượt khỏi,
Dòng nước lớn mạnh này,
Kính thưa bậc Biến nhãn,
Hãy nói cho sở duyên,
Y chỉ sở duyên này,
Có thể vượt qua khỏi,
Dòng nước chảy mạnh này.
(Kinh Tập, chương V)
Eko ahaṃ sakka mahantamoghan ti – Eko ti puggalo vā me dutiyo natthi, dhammo vā me dutiyo natthi, yaṃ vā puggalaṃ nissāya, dhammaṃ vā nissāya mahantaṃ kāmoghaṃ bhavoghaṃ diṭṭhoghaṃ avijjoghaṃ tareyyaṃ uttareyyaṃ patareyyaṃ samatikkameyyaṃ vītivatteyyan ’ti – eko. Sakkā ti sakko, bhagavā ‘sakyakulā pabbajito ’tipi sakko. Athavā ‘aḍḍho mahaddhano dhanavā ’tipi sakko. Tassimāni dhanāni, seyyathīdaṃ: saddhādhanaṃ sīladhanaṃ hiridhanaṃ ottappadhanaṃ sutadhanaṃ cāgadhanaṃ paññādhanaṃ satipaṭṭhānadhanaṃ —pe— nibbānadhanaṃ, imehi anekehi dhanaratanehi aḍḍho mahaddhano dhanavā ’tipi sakko. Athavā sakko pahū visavī alamatto sūro vīro vikkanto abhīru acchambhī anutrāsī apalāyī pahīnabhayabheravo vigatalomahaṃso ’tipi sakko ’ti – eko ahaṃ sakka mahantamoghaṃ.
Iccāyasmā upasīvo ti – Iccā ti padasandhi —pe—. Āyasmā ti piyavacanaṃ —pe—. Upasīvo ti tassa brāhmaṇassa nāmaṃ —pe— abhilāpo ’ti – iccāyasmā upasīvo.
Anissito no visahāmi tāritun ti – Anissito ti puggalaṃ vā anissito, dhammaṃ vā anissito, no visahāmi, na ussahāmi, na sakkomi, na paṭibalo, mahantaṃ kāmoghaṃ bhavoghaṃ diṭṭhoghaṃ avijjoghaṃ tarituṃ uttarituṃ patarituṃ samatikkamituṃ vītivattitun ’ti – anissito no visahāmi tārituṃ.
Ārammaṇaṃ brūhi samantacakkhū ti – Ārammaṇan ti ālambanaṃ nissayaṃ upanissayaṃ. Brūhī ti ācikkhāhi desehi paññapehi paṭṭhapehi vivarāhi vibhajāhi uttānīkarohi pakāsehi. Samantacakkhū ti samantacakkhu vuccati sabbaññutañāṇaṃ, bhagavā tena sabbaññutañāṇena upeto samupeto upagato samupagato upapanno sampanno samannāgato.
“Na tassa addiṭṭhamidhatthi kiñci atho aviññātamajānitabbaṃ, sabbaṃ abhiññāsi yadatthi neyyaṃ tathāgato tena samantacakkhū ”ti.– ‘ārammaṇaṃ brūhi samantacakkhu.’
2. “Đối với Ngài, không có bất cứ điều gì ở nơi đây là không được nhìn thấy, không được nhận thức, hoặc không thể biết được. Điều nào có thể biết được, Ngài đã biết rõ tất cả, vì thế đức Như Lai là bậc Toàn Nhãn.”
– ‘Thưa bậc Toàn Nhãn, xin ngài hãy nói về đối tượng’ là như thế.
Yaṃ nissito oghamimaṃ tareyyan ti – Yaṃ nissito ti yaṃ puggalaṃ vā nissito, dhammaṃ vā nissito, mahantaṃ kāmoghaṃ bhavoghaṃ diṭṭhoghaṃ avijjoghaṃ tareyyaṃ uttareyyaṃ patareyyaṃ samatikkameyyaṃ vītivatteyyan ’ti – yaṃ nissito oghamimaṃ tareyyaṃ.
Tenāha so brāhmaṇo: “Eko ahaṃ sakka mahantamoghaṃ (iccāyasmā upasīvo) anissito no visahāmi tārituṃ ārammaṇaṃ brūhi samantacakkhu yaṃ nissito oghamimaṃ tareyyan ”ti.
Vì thế, vị Bà-la-môn ấy đã nói rằng:
(Tôn giả Upasīva nói rằng:) “Thưa vị dòng Sakya, một mình con, không nương tựa (nơi nào), con không có khả năng vượt qua dòng lũ lớn. Thưa bậc Toàn Nhãn, xin ngài hãy nói về đối tượng, được nương tựa vào nơi ấy, con có thể vượt qua dòng lũ này.”
Ākiñcaññaṃ pekkhamāno satīmā (upasīvāti bhagavā) natthīti nissāya tarassu oghaṃ kāme pahāya virato kathāhi taṇhakkhayaṃ nattamahābhipassa.
(Đức Thế Tôn nói: “Này Upasīva,) trong khi xem xét về Vô Sở Hữu Xứ, có niệm, nương tựa vào (ý niệm) ‘không có gì,’ ngươi hãy vượt qua dòng lũ. Sau khi dứt bỏ các dục, đã xa lánh hẳn các điều nghi hoặc, ngươi hãy quán sát sự cạn kiệt của tham ái, đêm và ngày.”
Thế Tôn:
1070. Ðây lời dạy Thế Tôn:
Này U-pa-si-va,
Biết gìn giữ chánh niệm,
Không mong đợi vật gì,
Ông sẽ vượt bộc lưu,
Nương tựa: “không có gì “,
Ngày đêm ngươi nhận thấy,
Ðoạn dục, ly nghi ngờ,
Ái diệt là Niết-bàn.
(Kinh Tập, chương V)
Ākiñcaññaṃ pekkhamāno satīmā ti so brāhmaṇo pakatiyā ākiñcaññāyatanasamāpattilābhī santaṃ yeva nissayaṃ na jānāti ‘ayaṃ me nissayo ’ti. Tassa bhagavā nissayaṃ ca ācikkhati, uttariñca niyyānapathaṃ. Ākiñcaññāyatanasamāpattiṃ sato samāpajjitvā tato vuṭṭhahitvā tattha jāte cittacetasike dhamme aniccato pekkhamāno dukkhato – rogato – gaṇḍato – sallato – aghato – ābādhato – parato – palokato – ītito – uppaddavato – bhayato – upassaggato – calato – pabhaṅguto – addhuvato – atāṇato – alenato – asaraṇato –– asaraṇībhūtato – rittato – tucchato – suññato – anattato – ādīnavato – viparināmadhammato – asārakato – aghamūlato – vadhakato – vibhavato – sāsavato – saṅkhatato – mārāmisato – jātidhammato – jarādhammato – vyādhidhammato – maraṇadhammato – sokaparidevadukkhadomanassupāyāsadhammato – saṅkilesikadhammato – samudayadhammato – atthaṅgamato – assādato – ādīnavato – nissaraṇato – pekkhamāno dakkhamāno olokayamāno nijjhāyamāno upaparikkhamāno. Satimā ti yā sati anussati paṭissati —pe— sammāsati, ayaṃ vuccati sati. Imāya satiyā upeto hoti —pe— samannāgato, so vuccati satimā ’ti – ākiñcaññaṃ pekkhamāno satīmā.
Upasīvāti bhagavā ti – Upasīvā ti bhagavā taṃ brāhmaṇaṃ nāmena ālapati. Bhagavā ti gāravādhivacanametaṃ —pe— sacchikā paññatti, yadidaṃ bhagavā ’ti – upasīvāti bhagavā.
Natthīti nissāya tarassu oghan ti – Natthi kiñcī ti ākiñcaññāyatanasamāpatti. Kiṃkāraṇā natthi kiñcī ti ākiñcaññāyatanasamāpatti. Viññāṇañcāyatanasamāpattiṃ sato samāpajjitvā tato vuṭṭhahitvā taññeva viññāṇaṃ abhāveti vyabhāveti antaradhāpeti ‘natthi kiñcī ’ti passati, taṃkāraṇā ‘natthi kiñcī ’ti ākiñcaññāyatanasamāpatti, taṃ nissāya upanissāya ālambanaṃ karitvā kāmoghaṃ bhavoghaṃ diṭṭhoghaṃ avijjoghaṃ tarassu uttarassu patarassu samatikkamassu vītivattassū ’ti – natthīti nissāya tarassu oghaṃ.
Kāme pahāya virato kathāhī ti – Kāmā ti uddānato dve kāmā: vatthukāmā ca kilesakāmā ca. —pe— Ime vuccanti vatthukāmā. —pe— Ime vuccanti kilesakāmā. Kāme pahāyā ti vatthukāme parijānitvā kilesakāme pahāya pajahitvā vinodetvā byantīkaritvā anabhāvaṃ gametvā ’ti – kāme pahāya. Virato kathāhī ti kathaṃkathā vuccati vicikicchā, dukkhe kaṅkhā, —pe— thambhitattaṃ cittassa manovilekho. Kathaṃkathāya ārato virato paṭivirato nikkhanto nissaṭo vippayutto visaṃyutto vimariyādīkatena cetasā viharatī ’ti – evampi ‘virato kathāhi.’ Athavā dvattiṃsāya tiracchānakathāya ārato virato paṭivirato nikkhanto nissaṭo vippayutto visaṃyutto vimariyādīkatena cetasā viharatī ’ti – evampi ‘virato kathāhī ’ti – kāme pahāya virato kathāhi.
Taṇhakkhayaṃ nattamahābhipassā ti – Taṇhā ti rūpataṇhā, —pe— dhammataṇhā. Nattaṃ vuccati ratti, aho ti divaso, rattiñca divā ca taṇhakkhayaṃ rāgakkhayaṃ dosakkhayaṃ mohakkhayaṃ gatikkhayaṃ upapattikkhayaṃ paṭisandhikkhayaṃ bhavakkhayaṃ saṃsārakkhayaṃ vaṭṭakkhayaṃ passa, abhipassa dakkha olokaya nijjhāya upaparikkhā ’ti – taṇhakkhayaṃ nattamahābhipassa.
Tenāha bhagavā: “Ākiñcaññaṃ pekkhamāno satīmā (upasīvāti bhagavā) natthīti nissāya tarassu oghaṃ, kāme pahāya virato kathāhi taṇhakkhayaṃ nattamahābhipassā ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
(Đức Thế Tôn nói: “Này Upasīva,) trong khi xem xét về Vô Sở Hữu Xứ, có niệm, nương tựa vào (ý niệm) ‘không có gì,’ ngươi hãy vượt qua dòng lũ. Sau khi dứt bỏ các dục, đã xa lánh hẳn các điều nghi hoặc, ngươi hãy quán sát sự cạn kiệt của tham ái, đêm và ngày.”
Sabbesu kāmesu yo vītarāgo (iccāyasmā upasīvo) ākiñcaññaṃ nissito hitvamaññaṃ saññāvimokkhe paramedhimutto tiṭṭhe nu so tattha anānuyāyī.
(Tôn giả Upasīva nói rằng:): “Vị nào đã xa lìa sự luyến ái ở tất cả các dục, đã nương tựa vào Vô Sở Hữu Xứ sau khi từ bỏ pháp (chứng đắc) khác,[1] đã thiên về sự giải-thoát-do-tưởng cao nhất, phải chăng vị ấy có thể trụ lại ở nơi ấy, không đi tiếp nữa?”
[1] Pháp (chứng đắc) khác: nói đến sáu loại chứng đắc thấp hơn (SnA. ii, 593-594), tức là sự chứng đắc bốn tầng thiền Sắc Giới và hai tầng thiền Không Vô Biên Xứ và Thức Vô Biên Xứ thuộc Vô Sắc Giới (ND).
Upasiva:
1071. U-pa-si-va nói:
Ai là người ly tham,
Ðối với tất cả dục,
Y chỉ không có gì,
Từ bỏ mọi gì khác,
Ðược giải thoát hoàn toàn,
Tưởng giải thoát tối thượng,
Tại đấy vị ấy trú,
Không tiếp tục đi tới.
(Kinh Tập, chương V)
Sabbesu kāmesu yo vītarāgo ti – Sabbesū ti sabbena sabbaṃ sabbathā sabbaṃ asesaṃ nissesaṃ pariyādiyanavacanametaṃ ‘sabbesū ’ti. Kāmesū ti – Kāmā ti uddānato dve kāmā: vatthukāmā ca kilesakāmā ca. —pe—. Ime vuccanti vatthukāmā. —pe— Ime vuccanti kilesakāmā. Sabbesu kāmesu yo vītarāgo ti sabbesu kāmesu yo vītarāgo vigatarāgo cattarāgo vantarāgo muttarāgo pahīnarāgo paṭinissaṭṭharāgo vikkhambhanato ’ti – sabbesu kāmesu yo vītarāgo.
Iccāyasmā upasīvo ti – Iccā ti padasandhi —pe—. Āyasmā ti piyavacanaṃ —pe—. Upasīvo ti tassa brāhmaṇassa nāmaṃ —pe— abhilāpo ’ti – iccāyasmā upasīvo.
Ākiñcaññaṃ nissito hitvamaññan ti heṭṭhimā cha samāpattiyo hitvā cajitvā pariccajitvā atikkamitvā samatikkamitvā vītivattitvā ākiñcaññāyatanasamāpattiṃ nissito assito allīno upagato samupagato ajjhosito adhimutto ’ti – ākiñcaññaṃ nissito hitva maññaṃ.
Saññāvimokkhe paramedhimutto ti saññāvimokkhā vuccanti sattasaññāsamāpattiyo, yāvatā saññāsamāpattī, tāsaṃ ākiñcaññāyatanasamāpattivimokkho aggo ca seṭṭho ca viseṭṭho ca pāmokkho ca uttamo ca pavaro ca, parame agge seṭṭhe viseṭṭhe pāmokkhe uttame pavare adhimuttivimokkhena adhimutto tatrādhimutto [tadadhimutto ] taccarito tabbahulo taggaruko tanninno tappoṇo tappabbhāro tadadhimutto tadadhipateyyo ’ti – saññāvimokkhe paramedhimutto.
Tiṭṭhe nu so tattha anānuyāyī ti – Tiṭṭhe nū ti saṃsayapucchā vimatipucchā dveḷhakapucchā anekaṃsapucchā. evaṃ nu kho na nu kho kinnu kho kathannu kho ’ti – tiṭṭhe nu. Tatthā ti ākiñcaññāyatane. Anānuyāyī ti anānuyāyī aviccamāno, avigacchamāno anantaradhāyamāno aparihāyamāno. Athavā arajjamāno adussamāno amuyhamāno akilissamāno ’ti – tiṭṭhe nu so tattha anānuyāyī.
Tenāha so brāhmaṇo: “Sabbesu kāmesu yo vītarāgo (iccāyasmā upasīvo) ākiñcaññaṃ nissito itvamaññaṃ, saññāvimokkhe paramedhimutto tiṭṭhe nu so tattha anānuyāyī ”ti.
Vì thế, vị Bà-la-môn ấy đã nói rằng:
(Tôn giả Upasīva nói rằng:): “Vị nào đã xa lìa sự luyến ái ở tất cả các dục, đã nương tựa vào Vô Sở Hữu Xứ sau khi từ bỏ pháp (chứng đắc) khác, đã thiên về sự giải-thoát-do-tưởng cao nhất, phải chăng vị ấy có thể trụ lại ở nơi ấy, không đi tiếp nữa?”
Sabbesu kāmesu yo vītarāgo (upasīvāti bhagavā) ākiñcaññaṃ nissito hitvamaññaṃ, saññāvimokkhe aramedhimutto tiṭṭheyya so tattha anānuyāyī.
Thế Tôn:
1072. Thế Tôn nói như sau:
Này U-pa-si-va,
Ai hoàn toàn ly tham,
Ðối với tất cả dục,
Y chỉ không có gì,
Từ bỏ mọi gì khác,
Ðược giải thoát hoàn toàn,
Tương giải thoát tối thượng,
Tại đấy, vị ấy trú,
Không tiếp tục đi tới.
(Kinh Tập, chương V)
Sabbesu kāmesu so vītarāgo ti – Sabbesū ti sabbena sabbaṃ sabbathā sabbaṃ asesaṃ nissesaṃ pariyādiyanavacanametaṃ ‘sabbesū ’ti. Kāmesū ti – Kāmā ti uddānato dve kāmā: vatthukāmā ca kilesakāmā ca. —pe—. Ime vuccanti vatthukāmā. —pe— Ime vuccanti kilesakāmā. Sabbesu kāmesu yo vītarāgo ti sabbesu kāmesu yo vītarāgo —pe— paṭinissaṭṭharāgo vikkhambhanato ’ti – sabbesu kāmesu yo vītarāgo.
Upasīvāti bhagavā ti – Upasīvā ti bhagavā taṃ brāhmaṇaṃ nāmena ālapati. Bhagavā ti gāravādhivacanametaṃ —pe— sacchikā paññatti, yadidaṃ bhagavā ’ti – upasīvāti bhagavā.
Ākiñcaññaṃ nissito hitvamaññan ti heṭṭhimā cha samāpattiyo hitvā cajitvā pariccajitvā atikkamitvā samatikkamitvā vītivattitvā ākiñcaññāyatanasamāpattiṃ nissito assito allīno upagato samupagato ajjhosito adhimutto ’ti – ākiñcaññaṃ nissito hitvamaññaṃ.
Saññāvimokkhe paramedhimutto ti saññāvimokkhā vuccanti sattasaññāsamāpattiyo, yāvatā saññāsamāpattī tāsaṃ ākiñcaññāyatanasamāpattivimokkho aggo ca seṭṭho ca viseṭṭho ca pāmokkho ca uttamo ca pavaro ca, parame agge seṭṭhe viseṭṭhe pāmokkhe uttame pavare adhimuttivimokkhenādhimutto tatrādhimutto tadadhimutto —pe— tadadhipateyyo ’ti – saññāvimokkhe paramedhimutto.
Tiṭṭheyya so tattha anānuyāyī ti – Tiṭṭheyyā ti tiṭṭheyya saṭṭhikappasahassāni. Tatthā ti ākiñcaññāyatane. Anānuyāyī ti anānuyāyī aviccamāno avigacchamāno anantaradhāyamāno aparihāyamāno. Athavā arajjamāno adussamāno amuyhamāno akilissamāno ’ti – tiṭṭheyya so tattha anānuyāyī.
Tenāha bhagavā:
“Sabbesu kāmesu yo vītarāgo (upasīvāti bhagavā) ākiñcaññaṃ nissito hitvamaññaṃ, saññāvimokkhe aramedhimutto tiṭṭheyya so tattha anānuyāyī ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng: (Đức Thế Tôn nói: “Này Upasīva,) vị nào đã xa lìa sự luyến ái ở tất cả các dục, đã nương tựa vào Vô Sở Hữu Xứ sau khi từ bỏ pháp (chứng đắc) khác, đã thiên về sự giải-thoát-do-tưởng cao nhất, vị ấy có thể trụ lại ở nơi ấy, không đi tiếp nữa.”
Tiṭṭhe ce so tattha anānuyāyī pūgampi vassānaṃ samantacakkhu, tattheva so sītisiyā vimutto cavetha viññāṇaṃ tathāvidhassa.
(Tôn giả Upasīva nói rằng:) “Nếu vị ấy trụ lại ở nơi ấy, không đi tiếp nữa, thậm chí một số năm, thưa bậc Toàn Nhãn, ngay tại chỗ ấy, vị ấy có thể có sự mát mẻ, được giải thoát, có phải thức của vị thuộc hạng như thế ấy có thể diệt tắt?”
Upasiva:
1073. Nếu vị ấy tại đấy,
An trú không đi tiếp,
Trong một số nhiều năm,
Ôi bậc có biến nhãn!
Nếu vị ấy tại đấy,
Ðược mát lạnh giải thoát,
Với vị được như vậy,
Còn có thức hay không?
(Kinh Tập, chương V)
Tiṭṭhe ce so tattha anānuyāyī ti sace so tiṭṭheyya saṭṭhikappasahassāni. Tatthā ti ākiñcaññāyatane. Anānuyāyī ti anānuyāyī aviccamāno avigacchamāno anantaradhāyamāno aparihāyamāno. Athavā arajjamāno adussamāno amuyhamāno akilissamāno ’ti – tiṭṭhe ce so tattha anānuyāyī.
Pūgampi vassānaṃ samantacakkhū ti – Pūgampi vassānan ti pūgampi vassānaṃ bahūni vassāni bahūni vassasatāni bahūni vassasahassāni bahūni vassasatasahassāni bahūni kappāni bahūni kappasatāni bahūni kappasahassāni bahūni kappasatasahassāni. Samantacakkhū ti samantacakkhu vuccati sabbaññutañāṇaṃ, —pe— tathāgato tena samantacakkhū ’ti – pūgampi vassānaṃ samantacakkhu.
Tattheva so sītisiyā vimutto cavetha viññāṇaṃ tathāvidhassā ti tattheva so sītībhāvamanuppatto nicco dhuvo sassato aviparināmadhammo sassatisamaṃ tatheva tiṭṭheyya. Athavā tassa viññāṇaṃ caveyya ucchijjeyya nasseyya vinasseyya na bhaveyya punabbhavapaṭisandhiviññāṇaṃ nibbatteyya kāmadhātuyā vā rūpadhātuyā vā arūpadhātuyā vā ’ti ākiñcaññāyatanaṃ samāpannassa sassatañca ucchedañca pucchati udāhu tattheva anupādisesāya nibbānadhātuyā parinibbāyeyya. Athavā tassa viññāṇaṃ caveyya, puna paṭisandhiviññāṇaṃ nibbatteyya kāmadhātuyā vā rūpadhātuyā vā arūpadhātuyā vā ’ti ākiñcaññāyatanaṃ upapannassa parinibbānañca paṭisandhiñca pucchati. Tathāvidhassā ti tathāvidhassa tādisassa tassaṇṭhitassa tappakārassa tappaṭibhāgassa ākiñcaññāyatanaṃ upapannassā ’ti – tattheva so sītisiyā vimutto cavetha viññāṇaṃ tathāvidhassa.
Tenāha so brāhmaṇo: “Tiṭṭhe ce so tattha anānuyāyī pūgampi vassānaṃ samantacakkhu, tattheva so sītisiyā vimutto cavetha viññāṇaṃ tathāvidhassā ”ti.
Vì thế, vị Bà-la-môn ấy đã nói rằng:
(Tôn giả Upasīva nói rằng:) “Nếu vị ấy trụ lại ở nơi ấy, không đi tiếp nữa, thậm chí một số năm, thưa bậc Toàn Nhãn, ngay tại chỗ ấy, vị ấy có thể có sự mát mẻ, được giải thoát, có phải thức của vị thuộc hạng như thế ấy có thể diệt tắt?”
Acci yathā vātavegena khittā (upasīvāti bhagavā) atthaṃ paleti na upeti saṅkhaṃ evaṃ munī nāmakāyā vimutto atthaṃ paleti na upeti saṅkhaṃ.
Thế Tôn:
1074. Ðây lời Thế Tôn nói:
Hỡi U-pa-si-va!
Cũng giống như ngọn lửa,
Bị sức gió mạnh thổi,
Ði đến chỗ tận cùng,
Không có thể ước lượng,
Cũng vậy, vị ẩn sĩ,
Ðược giải thoát danh thân,
Ði đến chỗ tận cùng,
Không có thể ước lượng.
(Kinh Tập, chương V)
Acci yathā vātavegena khittā ti – Acci vuccati jālasikhā. Vātā ti puratthimā vātā, pacchimā vātā, uttarā vātā, dakkhiṇā vātā, sarajā vātā, arajā vātā, sītā vātā, uṇhā vātā, parittā vātā, adhimattā vātā, kāḷavātā, verambhavātā, pakkhavātā, supaṇṇavātā, tālapaṇṇavātā, vidhūpanavātā. Vātavegena khittā ti vātavegena khittā ukkhittā nunnā panunnā khambhitā vikkhambhitā ’ti – acci yathā vātavegena khittā. Upasīvāti bhagavā ti – Upasīvā ti bhagavā taṃ brāhmaṇaṃ nāmena ālapati. Bhagavā ti gāravādhivacanametaṃ –pe– sacchikā paññatti, yadidaṃ bhagavā ’ti – upasīvāti bhagavā.
Atthaṃ paleti na upeti saṅkhan ti – Atthaṃ paletī ti atthaṃ paleti, atthaṃ gameti, atthaṃ gacchati, nirujjhati, vūpasamati, paṭippassambhati. Na upeti saṅkhan ti saṅkhaṃ na upeti, uddesaṃ na upeti, gaṇanaṃ na upeti, paṇṇattiṃ na upeti, puratthimaṃ vā disaṃ gato, pacchimaṃ vā disaṃ gato, uttaraṃ vā disaṃ gato, dakkhiṇaṃ vā disaṃ gato, uddhaṃ vā gato, adho vā gato, tiriyaṃ vā gato, vidisaṃ vā gatoti so hetu natthi, paccayo natthi, kāraṇaṃ natthi yena saṅkhaṃ gaccheyyā ’ti – atthaṃ paleti na upeti saṅkhaṃ.
Evaṃ munī nāmakāyā vimutto ti – Evan ti opammasampaṭipādanaṃ. Munī ti monaṃ vuccati ñāṇaṃ, —pe— saṅgajālamaticca so muni. Nāmakāyā vimutto ti so muni pakatiyā pubbeva rūpakāyā vimutto, tadaṅgasamatikkamā vikkhambhanappahānena pahīno, tassa munino bhavantaṃ āgamma cattāro ariyamaggā paṭiladdhā honti, catunnaṃ ariyamaggānaṃ paṭiladdhattā nāmakāyo ca rūpakāyo ca pariññātā honti, nāmakāyassa ca rūpakāyassa ca pariññātattā nāmakāyā ca rūpakāyā ca mutto vimutto suvimutto accantaṃ anupādāvimokkhenā ’ti – evaṃ munī nāmākāyā vimutto.
Atthaṃ paleti na upeti saṅkhan ti – Atthaṃ paletī ti anupādisesāya nibbānadhātuyā parinibbāyati. Na upeti saṅkhan ti anupādisesāya nibbānadhātuyā parinibbuto saṅkhaṃ na upeti, uddesaṃ na upeti, gaṇanaṃ na upeti, paṇṇattiṃ na upeti, khattiyoti vā brāhmaṇoti vā vessoti vā suddoti vā gahaṭṭhoti vā pabbajitoti vā devoti vā manussoti vā rūpīti vā arūpīti vā saññīti vā asaññīti vā nevasaññīnāsaññīti vā so hetu natthi, paccayo natthi, kāraṇaṃ natthi, yena saṅkhaṃ gaccheyyā ’ti – atthaṃ paleti na upeti saṅkhaṃ.
Tenāha bhagavā: “Acci yathā vātavegena khittā (upasīvāti bhagavā) atthaṃ paleti na upeti saṅkhaṃ, evaṃ munī nāmakāyā vimutto atthaṃ paleti na upeti saṅkhan ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
(Đức Thế Tôn nói: “Này Upasīva,) giống như ngọn lửa đã bị dập tắt bởi lực đẩy của làn gió, thời đi đến sự chấm dứt, không đạt đến danh xưng; tương tự như vậy, vị hiền trí đã được giải thoát khỏi danh thân thời đi đến sự chấm dứt, không đạt đến danh xưng.”
Atthaṃ gato so uda vā so natthi udāhu ve sassatiyā arogo, taṃ me munī sādhu viyākarohi tathā hi te vidito esa dhammo.
“Có phải vị ấy đi đến sự chấm dứt hay vị ấy không có (hiện hữu), hay là vị ấy thật sự ở vào trạng thái trường tồn, vô bệnh? Thưa bậc hiền trí, xin ngài hãy giải thích tường tận điều ấy cho con, bởi vì pháp này đã được ngài biết đúng theo bản thể.”
Upasiva:
1075. Vị đi đến tận cùng,
Có phải không hiện hữu,
Hai vị ấy thường hằng,
Ðạt được sự không bệnh,
Lành thay, bậc ẩn sĩ,
Hãy trả lời cho con,
Có vậy, con hiểu được,
Pháp như thật Ngài giảng.
(Kinh Tập, chương V)
Atthaṃ gato so uda vā so natthī ti so atthaṃ gato udāhu natthi, so niruddho ucchinno vinaṭṭho ’ti – atthaṃ gato so uda vā so natthi.
Udāhu ve sassatiyā arogo ti udāhu nicco dhuvo sassato aviparināmadhammo sassatisamaṃ tatheva tiṭṭheyyā ’ti – udāhu ve sassatiyā arogo.
Taṃ me munī sādhu viyākarohī ti – Tan ti yaṃ pucchāmi, yaṃ yācāmi, yaṃ ajjhesāmi, yaṃ pasādemi. Munī ti monaṃ vuccati ñāṇaṃ, —pe— saṅgajālamaticca so muni. Sādhu viyākarohī ti sādhu ācikkhāhi desehi paññapehi paṭṭhapehi vivarāhi vibhajāhi uttānīkarohi pakāsehī ’ti – taṃ me munī sādhu viyākarohi.
Tathā hi te vidito esa dhammo ti tathā hi te vidito tulito tīrito vibhūto vibhāvito esa dhammo ’ti – tathā hi te vidito esa dhammo.
Tenāha so brāhmaṇo: “Atthaṃ gato so uda vā so natthi udāhu ve sassatiyā arogo, taṃ me munī sādhu viyākarohi tathā hi te vidito esa dhammo ”ti.
Vì thế, vị Bà-la-môn ấy đã nói rằng:
“Có phải vị ấy đi đến sự chấm dứt hay vị ấy không có (hiện hữu), hay là vị ấy thật sự ở vào trạng thái trường tồn, vô bệnh? Thưa bậc hiền trí, xin ngài hãy giải thích tường tận điều ấy cho con, bởi vì pháp này đã được ngài biết đúng theo bản thể.”
Atthaṃ gatassa na pamāṇamatthi (upasīvāti bhagavā) yena naṃ vajju taṃ tassa natthi, sabbesu dhammesu samūhatesu samūhatā vādapathāpi sabbe.
(Đức Thế Tôn nói: “Này Upasīva,) đối với vị đã đi đến sự chấm dứt, thì không có sự ước lượng. Với điều nào người ta có thể nói về vị ấy, thì điều ấy không còn có đối với vị ấy. Khi tất cả các pháp đã được bứng lên hoàn toàn, ngay cả đường lối của lời nói cũng được bứng lên hoàn toàn.”
Thế Tôn:
1076. Thế Tôn nói như sau:
Hỡi U-pa-si-va,
Người đi đến tận cùng,
Không thể còn ước lượng,
Với gì, nói đến nó,
Không còn có cái ấy,
Khi tất cả các pháp,
Ðã được nhổ hẳn lên,
Mọi con đường nói phô,
Ðược nhổ lên sạch hết.
(Kinh Tập, chương V)
Atthaṃ gatassa na pamāṇamatthī ti – Atthaṃ gatassā ti anupādisesāya nibbānadhātuyā parinibbutassa rūpapamāṇaṃ natthi, vedanāpamāṇaṃ natthi, saññāpamāṇaṃ natthi, saṅkhārapamāṇaṃ natthi, viññāṇapamāṇaṃ natthi. Natthi na santi na saṃvijjati nūpalabbhati pahīnaṃ samucchinnaṃ vūpasantaṃ paṭippassaddhaṃ abhabbuppattikaṃ ñāṇagginā daḍḍhan ’ti – atthaṃ gatassa na pamāṇamatthi. Upasīvāti bhagavā ti – Upasīvā ti bhagavā taṃ brāhmaṇaṃ nāmena ālapati. Bhagavā ti gāravādhivacanametaṃ –pe– sacchikā paññatti, yadidaṃ bhagavā ’ti – upasīvāti bhagavā.
Yena naṃ vajju taṃ tassa natthī ti yena rāgena vadeyyuṃ, yena dosena vadeyyuṃ, yena mohena vadeyyuṃ, yena mānena vadeyyuṃ, yāya diṭṭhiyā vadeyyuṃ, yena uddhaccena vadeyyuṃ, yāya vicikicchāya vadeyyuṃ, yehi anusayehi vadeyyuṃ, rattoti vā duṭṭhoti vā mūḷhoti vā vinibaddhoti vā parāmaṭṭhoti vā vikkhepagatoti vā aniṭṭhaṅgatoti vā thāmagatoti vā te abhisaṅkhārā pahīnā, abhisaṅkhārānaṃ pahīnattā gatiyā yena vadeyyuṃ nerayikoti vā tiracchānayonikoti vā pettivisayikoti vā manussoti vā devoti vā rūpīti vā arūpīti vā saññīti vā asaññīti vā nevasaññīnāsaññīti vā so hetu natthi, paccayo natthi, kāraṇaṃ natthi, yena vadeyyuṃ katheyyuṃ bhaṇeyyuṃ dīpeyyuṃ vohareyyun ’ti – yena naṃ vajju taṃ tassa natthi.
Sabbesu dhammesu samūhatesū ti sabbesu dhammesu sabbesu khandhesu sabbesu āyatanesu sabbesu dhātusu sabbāsu gatisu sabbāsu upapattisu sabbāsu paṭisandhisu sabbesu bhavesu sabbesu saṃsāresu sabbesu vaṭṭesu ūhatesu samūhatesu uddhatesu samuddhatesu uppāṭitesu samuppāṭitesu pahīnesu samucchinnesu vūpasantesu paṭippassaddhesu abhabbuppattikesu ñāṇagginā daḍḍhesū ’ti – sabbesu dhammesu samūhatesu.
Samūhatā vādapathāpi sabbe ti vādapathā vuccanti kilesā ca khandhā ca abhisaṅkhārā ca, tassa vādā ca vādapathā ca adhivacanāni ca adhivacanapathā ca niruttī ca niruttipathā ca paññattī ca paññattipathā ca ūhatā samūhatā uddhatā samuddhatā uppāṭitā samuppāṭitā pahīnā samucchinnā vūpasantā paṭippassaddhā abhabbuppattikā ñāṇagginā daḍḍhā ’ti – samūhatā vādapathāpi sabbe.
Tenāha bhagavā: “Atthaṃ gatassa na pamāṇamatthi (upasīvāti bhagavā)yena naṃ vajju taṃ tassa natthi, sabbesu dhammesu samūhatesu samūhatā vādapathāpi sabbe ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
(Đức Thế Tôn nói: “Này Upasīva,) đối với vị đã đi đến sự chấm dứt, thì không có sự ước lượng. Với điều nào người ta có thể nói về vị ấy, thì điều ấy không còn có đối với vị ấy. Khi tất cả các pháp đã được bứng lên hoàn toàn, ngay cả đường lối của lời nói cũng được bứng lên hoàn toàn.”
Saha gāthāpariyosānā –pe– pañjaliko namassamāno nisinno hoti: “Satthā me bhante bhagavā sāvakohamasmī ”ti
Cùng với lúc kết thúc câu kệ ngôn, –nt– (vị ấy) đã ngồi xuống, chắp tay lên, cúi lạy đức Thế Tôn (nói rằng): “Bạch ngài, đức Thế Tôn là bậc đạo sư của con, con là người đệ tử.”
Upasīvasuttaniddeso chaṭṭho.
Diễn Giải Kinh Upasīva là thứ sáu.
7. NANDASUTTANIDDESO – DIỄN GIẢI KINH NANDA
(VIII) Các câu hỏi của thanh niên Nanda:
Santi loke munayo (iccāyasmā nando) janā vadanti tayidaṃ kathaṃsu, ñāṇūpapannaṃ no muniṃ vadanti udāhu ve jīvitenūpapannaṃ.
(Tôn giả Nanda nói rằng:) “‘Các bậc hiền trí hiện hữu ở thế gian,’ mọi người nói như thế; theo ngài, điều này (có ý nghĩa) thế nào? Họ nói người đã thành tựu về trí là bậc hiền trí, hay là người đã thực sự thành tựu về lối sống?”
Nanda:
1077. Tôn giả Nan-da nói:
Quần chúng có nói rằng:
Có ẩn sĩ ở đời,
Ngài nghĩ như thế nào?
Chúng gọi là ẩn sĩ
Vị có đầy đủ trí?
Hay vị đầy đủ mạng?
(Kinh Tập, chương V)
Santi loke munayo ti – Santī ti santi saṃvijjanti atthi upalabbhanti. Loke ti apāyaloke —pe— āyatanaloke. Munayo ti munināmakā ājīvakā nigaṇṭhā jaṭilā tāpasā ’ti – santi loke munayo. Iccāyasmā nando ti – Iccā ti padasandhi –pe– Āyasmā ti piyavacanaṃ –pe– Nando ti tassa brāhmaṇassa nāmaṃ –pe– abhilāpo ’ti – iccāyasmā nando.
Janā vadanti tayidaṃ kathaṃsū ti – Janā ti khattiyā ca brāhmaṇā ca vessā ca suddā ca gahaṭṭhā ca pabbajitā ca devā ca manussā ca. Vadantī ti kathenti bhaṇanti dīpayanti voharanti. Tayidaṃ kathaṃsū ti saṃsayapucchā vimatipucchā dveḷhapucchā anekaṃsapucchā, evannu kho na nu kho kinnu kho kathannu kho ’ti – janā vadanti tayidaṃ kathaṃsu.
Ñāṇūpapannaṃ no muniṃ vadantī ti aṭṭhasamāpattiñāṇena vā pañcābhiññāñāṇena vā upetaṃ samupetaṃ upagataṃ samupagataṃ upapannaṃ sampannaṃ samannāgataṃ muniṃ vadanti kathenti bhaṇanti dīpayanti voharantī ’ti – ñāṇūpapannaṃ no muniṃ vadanti.
Udāhu ve jīvitenūpapannan ti udāhu anekavidhalūkhajīvitānuyogena upetaṃ samupetaṃ upagataṃ samupagataṃ upapannaṃ sampannaṃ samannāgataṃ muniṃ vadanti kathenti bhaṇanti dīpayanti voharantī ’ti – udāhu ve jīvitenūpapannaṃ.
Tenāha so brāhmaṇo: “Santi loke munayo (iccāyasmā nando) janā vadanti tayidaṃ kathaṃsu, ñāṇūpapannaṃ no muniṃ vadanti udāhu ve jīvitenūpapannan ”ti.
Vì thế, vị Bà-la-môn ấy đã nói rằng:
(Tôn giả Nanda nói rằng:) “‘Các bậc hiền trí hiện hữu ở thế gian,’ mọi người nói như thế; theo ngài, điều này (có ý nghĩa) thế nào? Họ nói người đã thành tựu về trí là bậc hiền trí, hay là người đã thực sự thành tựu về lối sống?”
Na diṭṭhiyā na sutiyā na ñāṇena munīdha nanda kusalā vadanti, visenikatvā anīghā nirāsā caranti ye te munayoti brūmi.
“Không phải do thấy, không phải do nghe, không phải do trí, mà các bậc thiện xảo ở nơi đây gọi là bậc hiền trí. Những người nào sau khi tiêu diệt đạo binh (ô nhiễm), sống không phiền muộn, không mong cầu, Ta nói rằng những người ấy là các bậc hiền trí.”
Thế Tôn:
1078. Các bậc thiện nói rằng:
Ở đời này Nan-da,
Không phải vì tri kiến,
Vì truyền thống, vì trí
Ðược gọi là ẩn sĩ,
Ta chỉ gọi ẩn sĩ,
Những ai diệt quân lực,
Không phiền não, không cầu.
(Kinh Tập, chương V)
Na diṭṭhiyā na sutiyā na ñāṇenā ti – Na diṭṭhiyā ti na diṭṭhasuddhiyā. Na sutiyā ti na sutasuddhiyā. Na ñāṇenā ti napi aṭṭhasamāpattiñāṇena, napi pañcābhiññāñāṇena, napi micchāñāṇenā ’ti – na diṭṭhiyā na sutiyā na ñāṇena.
Munīdha nanda kusalā vadantī ti – Kusalā ti ye te khandhakusalā dhātukusalā āyatanakusalā paṭiccasamuppādakusalā satipaṭṭhānakusalā sammappadhānakusalā iddhipādakusalā indriyakusalā balakusalā bojjhaṅgakusalā maggakusalā phalakusalā nibbānakusalā, te kusalā diṭṭhasuddhiyā vā sutasuddhiyā vā aṭṭhasamāpattiñāṇena vā pañcābhiññāñāṇena vā micchāñāṇena vā diṭṭhena vā sutena vā upetaṃ samupetaṃ upagataṃ samupagataṃ uppannaṃ sampannaṃ samannāgataṃ muniṃ na vadanti na kathenti na bhaṇanti na dīpayanti na voharantī ’ti – munīdha nanda kusalā vadanti.
Visenikatvā anīghā nirāsā caranti ye te munayoti brūmī ti – Senā vuccati mārasenā, kāyaduccaritaṃ mārasenā, vacīduccaritaṃ mārasenā, manoduccaritaṃ mārasenā, rāgo mārasenā, doso mārasenā, moho mārasenā, kodho mārasenā, upanāho – makkho – paḷāso – issā – macchariyaṃ – māyā – sāṭheyyaṃ – thambho – sārambho – māno – atimāno – mado – pamādo – sabbe kilesā – sabbe duccaritā – sabbe darathā – sabbe pariḷāhā – sabbe santāpā – sabbākusalābhisaṅkhārā mārasenā.
Vuttaṃ hetaṃ bhagavatā:
1. “Kāmā te paṭhamā senā dutiyā arati vuccati tatiyā khuppipāsā te catutthī taṇhā pavuccati.
Bởi vì, điều này đã được đức Thế Tôn nói đến:
1. Các dục là đạo binh thứ nhất của ngươi, thứ nhì nói đến là sự không thích thú, thứ ba của ngươi là đói và khát, thứ tư gọi là tham ái.
2. Pañcamī thīnamiddhaṃ te chaṭṭhā bhiru pavuccati sattamī vicikicchā te makkho thambho te aṭṭhamā.
2. Thứ năm của ngươi là dã dượi và buồn ngủ, thứ sáu gọi là sự khiếp đảm, thứ bảy của ngươi là hoài nghi, thứ tám của ngươi là gièm pha, bướng bỉnh.
3. Lābho siloko sakkāro micchāladdho ca yo yaso yo cattānaṃ samukkaṃse pare ca avajānati.
3. Lợi lộc, danh tiếng, tôn vinh, và danh vọng nào đã đạt được sai trái, kẻ nào đề cao bản thân và khi dễ những người khác, –
4. Esā namuci te senā kaṇhassābhippahāriṇī na naṃ asūro jināti jetvā ca labhate sukhan ”ti.
4. – này Namuci, chúng là đạo binh của ngươi, là toán xung kích của Kaṇha. Kẻ khiếp nhược không chiến thắng nó, và vị đã chiến thắng thì đạt được sự an lạc.
Yato catuhi ariyamaggehi sabbā ca mārasenā, sabbe ca paṭisenikarā kilesā jitā ca parājitā ca bhaggā vippaluggā parammukhā, tena vuccanti visenikatvā. Anīghā ti rāgo nīgho, doso nīgho, moho nīgho, kodho nīgho, upanāho nīgho —pe— sabbākusalābhisaṅkhārā nīghā. Yesaṃ ete nīghā pahīnā samucchinnā vūpasantā paṭippassaddhā abhabbuppattikā ñāṇagginā daḍḍhā, te vuccati anīghā. Nirāsā ti āsā vuccati taṇhā, yo rāgo sārāgo —pe— abhijjhā lobho akusalamūlaṃ. Yesaṃ esā āsā taṇhā pahīnā samucchinnā vūpasantā paṭippassaddhā abhabbuppattikā ñāṇagginā daḍḍhā, te vuccanti nirāsā. Ye ti arahanto khīṇāsavā. Visenikatvā anīghā nirāsā caranti ye te munayoti brūmī ti ye te viseniṃ katvā anīghā ca nirāsā ca caranti viharanti irīyanti vattenti pālenti yapenti yāpenti, te loke munayoti brūmi, ācikkhāmi desemi paññapemi paṭṭhapemi vivarāmi vibhajāmi uttānīkaromi pakāsemī ’ti – visenikatvā anīghā nirāsā caranti ye te munayoti brūmi.
Tenāha bhagavā: “Na diṭṭhiyā na sutiyā na ñāṇena munīdha nanda kusalā vadanti, viseni katvā anīghā nirāsā caranti ye te munayoti brūmī ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Không phải do thấy, không phải do nghe, không phải do trí, mà các bậc thiện xảo ở nơi đây gọi là bậc hiền trí. Những người nào sau khi tiêu diệt đạo binh (ô nhiễm), sống không phiền muộn, không mong cầu, Ta nói rằng những người ấy là các bậc hiền trí.”
Ye kecime samaṇabrāhmaṇā se (iccāyasmā nando) diṭṭhena sutenāpi vadanti suddhiṃ sīlabbatenāpi vadanti suddhiṃ anekarūpena vadanti suddhiṃ kaccissu te bhagavā tattha yatā carantā atāru jātiñca jarañca mārisa pucchāmi taṃ bhagavā brūhi metaṃ.
(Tôn giả Nanda nói rằng:) “Bất cứ những Sa-môn và Bà-la-môn nào nói rằng sự trong sạch là do thấy và do nghe, nói rằng sự trong sạch là do giới và phận sự, nói rằng sự trong sạch là do nhiều hình thức, có phải những vị ấy, thưa đức Thế Tôn, trong khi sống kiềm chế ở nơi ấy, họ đã vượt qua sanh và già, thưa ngài? Con hỏi ngài, thưa đức Thế Tôn, xin ngài hãy trả lời con về điều này.”
Nanda:
1079. Tôn giả Nan-đa thưa:
Có Sa-môn, Phạm chí,
Nói rằng sự thanh tịnh
Là nhờ thấy, nhờ nghe;
Có người lại nói rằng:
Thanh tịnh do giới cấm;
Có người lại nói rằng:
Thanh tịnh do nhiều pháp.
Bạch Thế Tôn, như vậy,
Là sở hành của chúng,
Vậy Ngài nghĩ thế nào,
Chúng có thể vượt qua,
Sanh và già thưa Ngài,
Con kính hỏi Thế Tôn,
Mong Ngài trả lời con.
(Kinh Tập, chương V)
Ye kecime samaṇabrāhmaṇā se ti – Ye kecī ti sabbena sabbaṃ sabbathā sabbaṃ asesaṃ nissesaṃ pariyādiyanavacanametaṃ ‘ye kecī ’ti. Samaṇā ti ye keci ito bahiddhā pabbajjūpagatā paribbājakasamāpannā. Brāhmaṇā ti ye keci bhovādikā ’ti – ye kecime samaṇabrāhmaṇā se. Iccāyasmā nando ti – Iccā ti padasandhi –pe–. Āyasmā ti piyavacanaṃ –pe– Nando ti tassa brāhmaṇassa nāmaṃ –pe– abhilāpo ’ti – iccāyasmā nando.
Diṭṭhena sutenāpi vadanti suddhin ti diṭṭhenapi suddhiṃ visuddhiṃ parisuddhiṃ muttiṃ vimuttiṃ parimuttiṃ vadanti kathenti bhaṇanti dīpayanti voharanti. Sutenapi suddhiṃ visuddhiṃ parisuddhiṃ muttiṃ vimuttiṃ parimuttiṃ vadanti kathenti bhaṇanti dīpayanti voharanti. Diṭṭhena sutenapi suddhiṃ visuddhiṃ parisuddhiṃ muttiṃ vimuttiṃ parimuttiṃ vadanti kathenti bhaṇanti dīpayanti voharantī ’ti – diṭṭhena sutenāpi vadanti suddhiṃ.
Sīlabbatenāpi vadanti suddhin ti sīlenapi suddhiṃ visuddhiṃ parisuddhiṃ muttiṃ vimuttiṃ parimuttiṃ vadanti kathenti bhaṇanti dīpayanti voharanti. Vatenapi suddhiṃ visuddhiṃ parisuddhiṃ muttiṃ vimuttiṃ parimuttiṃ vadanti kathenti bhaṇanti dīpayanti voharanti. Sīlabbatenāpi suddhiṃ visuddhiṃ parisuddhiṃ muttiṃ vimuttiṃ parimuttiṃ vadanti kathenti bhaṇanti dīpayanti voharantī ’ti – sīlabbatenāpi vadanti suddhiṃ.
Anekarūpena vadanti suddhin ti anekavidhavata kotuhalamaṅgalena suddhiṃ visuddhiṃ parisuddhiṃ muttiṃ vimuttiṃ parimuttiṃ vadanti kathenti bhaṇanti dīpayanti voharantī ’ti – anekarūpena vadanti suddhiṃ.
Kaccissu te bhagavā tattha yatā carantā ti – Kaccissū ti saṃsayapucchā vimatipucchā dveḷhakapucchā anekaṃsapucchā evannu kho na nu kho kinnu kho kathannu kho ’ti – kaccissu. Te ti diṭṭhigatikā. Bhagavā ti gāravādhivacanametaṃ —pe— sacchikā paññatti, yadidaṃ bhagavā ’ti – kaccissu te bhagavā. Tattha yatā carantā ti – Tatthā ti sakāya diṭṭhiyā sakāya khantiyā sakāya ruciyā sakāya laddhiyā. Yatā ti yatā paṭiyatā guttā gopitā saṃvutā. Carantā ti carantā viharantā irīyantā vattentā pālentā yapentā yāpentā ’ti – kaccissu te bhagavā tattha yatā carantā.
Atāru jātiñca jarañca mārisā ti jātijarāmaraṇaṃ atariṃsu uttariṃsu patariṃsu samatikkamiṃsu vītivattiṃsu. Mārisā ti piyavacanaṃ garuvacanaṃ sagāravasappatissādhivacanametaṃ mārisā ’ti – atāru jātiñca jarañca mārisa.
Pucchāmi taṃ bhagavā brūhi metan ti – Pucchāmi tan ti pucchāmi taṃ, yācāmi taṃ, ajjhesāmi taṃ, pasādemi taṃ, kathayassu me ’ti – pucchāmi taṃ. Bhagavā ti gāravādhivacanametaṃ —pe— sacchikā paññatti, yadidaṃ ‘bhagavā ’ti. Brūhi metan ti brūhi ācikkhāhi desehi paññapehi paṭṭhapehi vivarāhi vibhajāhi uttānīkarohi pakāsehī ’ti – pucchāmi taṃ bhagavā brūhi metaṃ.
Tenāha so brāhmaṇo: “Ye kecime samaṇabrāhmaṇā se (iccāyasmā nando) diṭṭhena sutenāpi vadanti suddhiṃ, sīlabbatenāpi vadanti suddhiṃ, anekarūpena vadanti suddhiṃ, kaccissu te bhagavā tattha yatā carantā atāru jātiñca jarañca mārisa, pucchāmi taṃ bhagavā brūhi metan ”ti.
Vì thế, vị Bà-la-môn ấy đã nói rằng:
(Tôn giả Nanda nói rằng:) “Bất cứ những Sa-môn và Bà-la-môn nào nói rằng sự trong sạch là do thấy và do nghe, nói rằng sự trong sạch là do giới và phận sự, nói rằng sự trong sạch là do nhiều hình thức, có phải những vị ấy, thưa đức Thế Tôn, trong khi sống kiềm chế ở nơi ấy, họ đã vượt qua sanh và già, thưa ngài? Con hỏi ngài, thưa đức Thế Tôn, xin ngài hãy trả lời con về điều này.”
Ye kecime samaṇabrāhmaṇā se (nandāti bhagavā) diṭṭhena sutenāpi vadanti suddhiṃ sīlabbatenāpi vadanti suddhiṃ anekarūpena vadanti suddhiṃ, kiñcāpi te tattha yatā caranti nātariṃsu jātijaranti brūmi.
(Đức Thế Tôn nói: “Này Nanda,) bất cứ những vị Sa-môn và Bà-la-môn nào nói rằng sự trong sạch là do thấy và do nghe, nói rằng sự trong sạch là do giới và phận sự, nói rằng sự trong sạch là do nhiều hình thức, mặc dầu những vị ấy, trong khi sống kiềm chế ở nơi ấy, Ta nói rằng: ‘Họ đã không vượt qua sanh và già.’”
Thế Tôn:
1080. Thế Tôn nói: Nan-đa!
Sa-môn, Phạm chí này,
Nói rằng sự thanh tịnh
Là nhờ thấy, nhờ nghe;
Có người lại nói rằng:
Thanh tịnh do giới cấm;
Có người lại nói rằng:
Thanh tịnh do nhiều pháp.
Dầu chúng ở tại đây,
Với sở hành như vậy,
Ta nói chúng không vượt,
Khỏi sanh và khỏi già.
(Kinh Tập, chương V)
Ye kecime samaṇabrāhmaṇā se ti – Ye kecī ti sabbena sabbaṃ sabbathā sabbaṃ asesaṃ nissesaṃ pariyādiyanavacanametaṃ ‘ye kecī ’ti. Samaṇā ti ye keci ito bahiddhā pabbajjūpagatā paribbājakasamāpannā. Brāhmaṇā ti ye keci bhovādikā ’ti – ye kecime samaṇabrāhmaṇā se. Nandāti bhagavā ti – Nandā ti bhagavā taṃ brāhmaṇaṃ nāmena ālapati. Bhagavā ti gāravādhivacanametaṃ –pr– sacchikā paññatti, yadidaṃ bhagavā ’ti – nandāti bhagavā.
Diṭṭhena sutenāpi vadanti suddhin ti diṭṭhenapi suddhiṃ visuddhiṃ parisuddhiṃ muttiṃ vimuttiṃ parimuttiṃ vadanti kathenti bhaṇanti dīpayanti voharanti. Sutenapi suddhiṃ visuddhiṃ parisuddhiṃ muttiṃ vimuttiṃ parimuttiṃ vadanti kathenti bhaṇanti dīpayanti voharanti. Diṭṭhena sutenapi suddhiṃ visuddhiṃ parisuddhiṃ muttiṃ vimuttiṃ parimuttiṃ vadanti kathenti bhaṇanti dīpayanti voharantī ’ti – diṭṭhena sutenāpi vadanti suddhiṃ.
Sīlabbatenāpi vadanti suddhin ti sīlenapi suddhiṃ visuddhiṃ parisuddhiṃ muttiṃ vimuttiṃ parimuttiṃ vadanti kathenti bhaṇanti dīpayanti voharanti. Vatenapi suddhiṃ visuddhiṃ parisuddhiṃ muttiṃ vimuttiṃ parimuttiṃ vadanti kathenti bhaṇanti dīpayanti voharanti. Sīlabbatenāpi suddhiṃ visuddhiṃ parisuddhiṃ muttiṃ vimuttiṃ parimuttiṃ vadanti kathenti bhaṇanti, dīpayanti voharantī ’ti – sīlabbatenāpi vadanti suddhiṃ.
Anekarūpena vadanti suddhin ti anekavidhavatakotūhalamaṅgalena suddhiṃ visuddhiṃ parisuddhiṃ muttiṃ vimuttiṃ parimuttiṃ vadanti kathenti bhaṇanti dīpayanti voharantī ’ti – anekarūpena vadanti suddhiṃ.
Kiñcāpi te tattha yatā carantī ti – Kiñcāpī ti padasandhi padasaṃsaggo padapāripūri akkharasamavāyo byañjanasiliṭṭhatā padānupubbatāpetaṃ ‘kiñcāpī ’ti. Te ti diṭṭhigatikā. Tatthā ti sakāya diṭṭhiyā sakāya khantiyā sakāya ruciyā sakāya laddhiyā. Yatā ti yatā paṭiyatā guttā gopitā rakkhitā saṃvutā. Carantī ti caranti viharanti irīyanti vattenti pālenti yapenti yāpentī ’ti – kiñcāpi te tattha yatā caranti.
Nātariṃsu jātijaranti brūmī ti jātijarāmaraṇaṃ na tariṃsu, na uttariṃsu na patariṃsu, na samatikkamiṃsu, na vītivattiṃsu, jātijarāmaraṇā anikkhantā anissaṭā anatikkantā asamatikkantā avītivattā antojātijarāmaraṇe parivattenti, antosaṃsārapathe parivattenti, jātiyā anugatā, jarāya anusaṭā, byādhinā abhibhūtā, maraṇena abbhāhatā, atāṇā alenā asaraṇā asaraṇībhūtā ’ti brūmi ācikkhāmi desemi paññapemi paṭṭhapemi vivarāmi vibhajāmi uttānīkaromi pakāsemī ’ti – nātariṃsu jātijaranti brūmi.
Tenāha bhagavā: “Ye kecime samaṇabrāhmaṇā se (nandāti bhagavā) diṭṭhena sutenāpi vadanti suddhiṃ sīlabbatenāpi vadanti suddhiṃ anekarūpena vadanti suddhiṃ kiñcāpi te tattha yatā caranti nātariṃsu jātijaranti brūmī ”ti.
Ye kecime samaṇabrāhmaṇā se (iccāyasmā nando) diṭṭhena sutenāpi vadanti suddhiṃ sīlabbatenāpi vadanti suddhiṃ anekarūpena vadanti suddhiṃ.
Te ce munī brūsi anoghatiṇṇe atha ko carahi devamanussaloke, atāri jātiñca jarañca mārisa pucchāmi taṃ bhagavā brūhi metaṃ.
(Tôn giả Nanda nói rằng:) “Bất cứ những vị Sa-môn và Bà-la-môn nào nói rằng sự trong sạch là do thấy và do nghe, nói rằng sự trong sạch là do giới và phận sự, nói rằng sự trong sạch là do nhiều hình thức.
Thưa bậc hiền trí, nếu ngài nói những vị ấy là không vượt qua dòng lũ, vậy giờ đây, thưa ngài, người nào ở thế giới chư Thiên và nhân loại đã vượt qua sanh và già? Con hỏi ngài, thưa đức Thế Tôn, xin ngài hãy trả lời con về điều này.”
Nan-da:
1081. Tôn giả Nan-đa thưa:
Sa-môn, Phạm chí này,
Nói rằng sự thanh tịnh
Là nhờ thấy, nhờ nghe;
Có người lại nói rằng:
Thanh tịnh do giới cấm;
Có người lại nói rằng:
Thanh tịnh do nhiều pháp.Thưa ẩn sĩ, Ngài nói:Chúng không vượt bộc lưu,Vậy ai có thể được,Giữa thế giới Trời, Người,Có thể vượt qua được,Sanh và già, thưa Ngài,Con xin hỏi Thế TônMong Ngài trả lời con.
(Kinh Tập, chương V)
Ye kecime samaṇabrāhmaṇā se ti – Ye kecī ti sabbena sabbaṃ sabbathā sabbaṃ asesaṃ nissesaṃ pariyādiyanavacanametaṃ ‘ye kecī ’ti. Samaṇā ti ye keci ito bahiddhā pabbajjūpagatā paribbājakasamāpannā. Brāhmaṇā ti ye keci bhovādikā ’ti – ye kecime samaṇabrāhmaṇā se. Iccāyasmā nando ti —pe—
Diṭṭhena sutenāpi vadanti suddhin ti diṭṭhenapi suddhiṃ visuddhiṃ parisuddhiṃ muttiṃ vimuttiṃ parimuttiṃ vadanti kathenti bhaṇanti dīpayanti voharanti. Sutenapi suddhiṃ visuddhiṃ parisuddhiṃ muttiṃ vimuttiṃ parimuttiṃ vadanti kathenti bhaṇanti dīpayanti voharanti. Diṭṭhena sutenapi suddhiṃ visuddhiṃ parisuddhiṃ muttiṃ vimuttiṃ parimuttiṃ vadanti kathenti bhaṇanti dīpayanti voharantī ’ti – diṭṭhena sutenāpi vadanti suddhiṃ.
Sīlabbatenāpi vadanti suddhin ti sīlenapi suddhiṃ visuddhiṃ parisuddhiṃ muttiṃ vimuttiṃ parimuttiṃ vadanti kathenti bhaṇanti dīpayanti voharanti. Vatenapi suddhiṃ visuddhiṃ parisuddhiṃ muttiṃ vimuttiṃ parimuttiṃ vadanti kathenti bhaṇanti dīpayanti voharanti. Sīlabbatenāpi suddhiṃ visuddhiṃ parisuddhiṃ muttiṃ vimuttiṃ parimuttiṃ vadanti kathenti bhaṇanti dīpayanti voharan ’ti – sīlabbatenāpi vadanti suddhiṃ.
Anekarūpena vadanti suddhin ti anekavidhavatakotūhalamaṅgalena suddhiṃ visuddhiṃ parisuddhiṃ muttiṃ vimuttiṃ parimuttiṃ vadanti, kathenti bhaṇanti dīpayanti voharantī ’ti – anekarūpena vadanti suddhiṃ.
Te ce munī brūsi anoghatiṇṇe ti – Te ce ti diṭṭhigatike. Munī ti monaṃ vuccati ñāṇaṃ, —pe— saṅgajālamaticca so muni. Brūsi anoghatiṇṇe ti kāmoghaṃ bhavoghaṃ diṭṭhoghaṃ avijjoghaṃ atiṇṇe anatikkante asamatikkante avītivatte antojātijarāmaraṇe parivattente antosaṃsārapathe parivattente, jātiyā anugate jarāya anusaṭe byādhinā abhibhūte maraṇena abbhāhate atāṇe alene asaraṇe asaraṇībhūte. Brūsī ti brūsi ācikkhasi desesi paññapesi paṭṭhapesi vivarasi vibhajasi uttānīkarosi pakāsesī ’ti – te ce munī brūsi anoghatiṇṇe.
Atha ko carahi devamanussaloke, atāri jātiñca jarañca mārisā ti atha ko eso sadevake loke samārake sabrahmake sassamaṇabrāhmaṇiyā pajāya sadevamanussāya jātijarāmaraṇaṃ atari uttari patari samatikkami vītivattayi. Mārisā ti piyavacanaṃ garuvacanaṃ sagāravasappatissādhivacanametaṃ mārisā ’ti – atha ko carahi devamanussaloke atāri jātiñca jarañca mārisa.
Pucchāmi taṃ bhagavā brūhi metan ti – Pucchāmi tan ti pucchāmi taṃ, yācāmi taṃ, ajjhesāmi taṃ, pasādemi taṃ. Bhagavā ti gāravādhivacanametaṃ —pe— sacchikā paññatti, yadidaṃ bhagavā ’ti. Brūhi metan ti brūhi ācikkhāhi desehi paññapehi paṭṭhapehi vivarāhi vibhajāhi uttānīkarohi pakāsehī ’ti – pucchāmi taṃ bhagavā brūhi metaṃ.
Tenāha so brāhmaṇo: “Ye kecime samaṇabrāhmaṇā se (iccāyasmā nando) diṭṭhena sutenāpi vadanti suddhiṃ sīlabbatenāpi vadanti suddhiṃ anekarūpena vadanti suddhiṃ.
Te ce munī brūsi anoghatiṇṇe atha ko carahi devamanussaloke, atāri jātiñca jarañca mārisa pucchāmi taṃ bhagavā brūhi metan ”ti.
Vì thế, vị Bà-la-môn ấy đã nói rằng:
(Tôn giả Nanda nói rằng:) “Bất cứ những vị Sa-môn và Bà-la-môn nào nói rằng sự trong sạch là do thấy và do nghe, nói rằng sự trong sạch là do giới và phận sự, nói rằng sự trong sạch là do nhiều hình thức.
Thưa bậc hiền trí, nếu ngài nói những vị ấy là không vượt qua dòng lũ, vậy giờ đây, thưa ngài, người nào ở thế giới chư Thiên và nhân loại đã vượt qua sanh và già? Con hỏi ngài, thưa đức Thế Tôn, xin ngài hãy trả lời con về điều này.”
Nāhaṃ sabbe samaṇabrāhmaṇā se (nandāti bhagavā) jātijarāya nivutāti brūmi, ye sīdha diṭṭhaṃ va sutaṃ mutaṃ vā sīlabbataṃ vāpi pahāya sabbaṃ anekarūpampi pahāya sabbaṃ taṇhaṃ pariññāya anāsavā se te ve narā oghatiṇṇāti brūmi.
(Đức Thế Tôn nói: “Này Nanda,) Ta không nói rằng tất cả các vị Sa-môn và Bà-la-môn đều bị bao trùm bởi sanh và già. Ở đây, những vị nào đã dứt bỏ điều đã được thấy, hoặc đã được nghe, hoặc đã được cảm giác, hoặc thậm chí tất cả giới và phận sự, hoặc đã dứt bỏ mọi hình thức nhiều loại, đã biết toàn diện về tham ái, không còn lậu hoặc, Ta nói rằng ‘những con người ấy thật sự đã vượt qua dòng lũ.’”
Thế Tôn:
1082. Thế Tôn nói: Nan-đa
Ta không nói tất cả,
Sa-môn, Bà-la-môn
Bị sanh già che lấp.
Những ai ở đời này,
Ðoạn tận khắp tất cả,
Ðiều được nghe được thấy,
Ðược cảm tưởng, giới cấm,
Và đoạn nhiều pháp khác,
Liễu tri ái, vô lậu,
Ta nói những người ấy,
Vượt qua được bộc lưu.
(Kinh Tập, chương V)
Nāhaṃ sabbe samaṇabrāhmaṇā se nandāti bhagavā jātijarāya nivutāti brūmī ti nāhaṃ nanda, sabbe samaṇabrāhmaṇā jātijarāya āvutā nivutā ovutā pihitā paṭicchannā paṭikujjitāti vadāmi. Atthi te samaṇabrāhmaṇā yesaṃ jāti ca jarāmaraṇañca pahīnā ucchinnamūlā tālāvatthukatā anabhāvakatā āyatiṃ anuppādadhammāti brūmi ācikkhāmi desemi paññapemi paṭṭhapemi vivarāmi vibhajāmi uttānīkaromi pakāsemī ’ti – nāhaṃ sabbe samaṇabrāhmaṇā se nandāti bhagavā jātijarāya nivutāti brūmi.
Ye sīdha diṭṭhaṃva sutaṃ mutaṃ vā sīlabbataṃ vāpi pahāya sabban ti ye sabbā diṭṭhasuddhiyo pahāya jahitvā pajahitvā vinodetvā byantīkaritvā anabhāvaṃ gametvā, ye sabbā sutasuddhiyo pahāya —pe— ye sabbā mutasuddhiyo pahāya —pe— ye sabbā diṭṭhasutamutasuddhiyo pahāya —pe— ye sabbā sīlasuddhiyo pahāya —pe— ye sabbā vatasuddhiyo pahāya —pe— ye sabbā sīlabbatasuddhiyo pahāya jahitvā pajahitvā vinodetvā byantīkaritvā anabhāvaṃ gametvā ’ti – ye sīdha diṭṭhaṃ va sutaṃ mutaṃ vā sīlabbataṃ vāpi pahāya sabbaṃ.
Anekarūpampi pahāya sabban ti anekavidhavatakotūhalamaṅgalena suddhiṃ visuddhiṃ parisuddhiṃ muttiṃ vimuttiṃ parimuttiṃ pahāya jahitvā pajahitvā vinodetvā byantīkaritvā anabhāvaṃ gametvā ’ti – anekarūpampi pahāya sabbaṃ.
Taṇhaṃ pariññāya anāsavā se te ve narā oghatiṇṇāti brūmī ti – Taṇhā ti rūpataṇhā saddataṇhā gandhataṇhā rasataṇhā phoṭṭhabbataṇhā dhammataṇhā. Taṇhaṃ pariññāyā ti taṇhaṃ tīhi pariññāhi parijānitvā ñātapariññāya tīraṇapariññāya pahānapariññāya.
Katamā ñātapariññā? Taṇhaṃ jānāti ayaṃ rūpataṇhā, ayaṃ saddataṇhā, ayaṃ gandhataṇhā, ayaṃ rasataṇhā, ayaṃ phoṭṭhabbataṇhā, ayaṃ dhammataṇhā ’ti jānāti1 passati. Ayaṃ ñātapariññā.
Katamā tīraṇapariññā? Evaṃ ñātaṃ katvā taṇhaṃ tīreti aniccato dukkhato rogato gaṇḍato —pe— nissaraṇato tīreti. Ayaṃ tīraṇapariññā.
Katamā pahānapariññā? Evaṃ tīrayitvā taṇhaṃ pajahati vinodeti byantīkaroti anabhāvaṃ gameti. Vuttaṃ hetaṃ bhagavatā: “Yo bhikkhave, taṇhāya chandarāgo taṃ pajahatha, evaṃ sā taṇhā pahīnā bhavissati ucchinnamūlā tālāvatthukatā anabhāvakatā āyatiṃ anuppādadhammā ”ti. Ayaṃ pahānapariññā.
Taṇhaṃ pariññāyā ti taṇhaṃ imāhi tīhi pariññāhi parijānitvā. Anāsavā se ti cattāro āsavā: kāmāsavo bhavāsavo diṭṭhāsavo avijjāsavo. Yesaṃ ime āsavā pahīnā ucchinnamūlā tālāvatthukatā anabhāvakatā āyatiṃ anuppādadhammā, te vuccanti anāsavā arahanto khīṇāsavā.
Taṇhaṃ pariññāya anāsavā se te ve narā oghatiṇṇāti brūmī ti ye taṇhaṃ pariññāya anāsavā te kāmoghaṃ tiṇṇā, bhavoghaṃ tiṇṇā, diṭṭhoghaṃ tiṇṇā, avijjoghaṃ tiṇṇā, sabbasaṃsārapathaṃ tiṇṇā uttiṇṇā nittiṇṇā atikkantā samatikkantā vītivattāti brūmi ācikkhāmi desemi paññapemi paṭṭhapemi vivarāmi vibhajāmi uttānīkaromi pakāsemī ’ti – taṇhaṃ pariññāya anāsavā se te ve narā oghatiṇṇāti brūmi.
Tenāha bhagavā: “Nāhaṃ sabbe samaṇabrāhmaṇā se (nandāti bhagavā) jātijarāya nivutāti brūmi, ye sīdha diṭṭhaṃ va sutaṃ mutaṃ vā sīlabbataṃ vāpi pahāya sabbaṃ anekarūpampi pahāya sabbaṃ taṇhaṃ pariññāya anāsavā se te ve narā oghatiṇṇāti brūmī ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
(Đức Thế Tôn nói: “Này Nanda,) Ta không nói rằng tất cả các vị Sa-môn và Bà-la-môn đều bị bao trùm bởi sanh và già. Ở đây, những vị nào đã dứt bỏ điều đã được thấy, hoặc đã được nghe, hoặc đã được cảm giác, hoặc thậm chí tất cả giới và phận sự, hoặc đã dứt bỏ mọi hình thức nhiều loại, đã biết toàn diện về tham ái, không còn lậu hoặc, Ta nói rằng ‘những con người ấy thật sự đã vượt qua dòng lũ.’”
Etābhinandāmi vaco mahesino (iccāyasmā nando) sukittitaṃ gotama nūpadhīkaṃ yesīdha diṭṭhaṃ va sutaṃ mutaṃ vā sīlabbataṃ vāpi pahāya sabbaṃ anekarūpampi pahāya sabbaṃ, taṇhaṃ pariññāya anāsavā se ahampi te oghatiṇṇāti brūmī.
(Tôn giả Nanda nói rằng:) “Thưa ngài Gotama, con thích thú lời nói này của bậc đại ẩn sĩ, đã khéo được trình bày, không liên quan đến mầm tái sanh. Ở đây, những vị nào đã dứt bỏ điều đã được thấy, hoặc đã được nghe, hoặc đã được cảm giác, hoặc thậm chí tất cả giới và phận sự, hoặc đã dứt bỏ mọi hình thức nhiều loại, đã biết toàn diện về tham ái, không còn lậu hoặc, con cũng nói rằng ‘những vị ấy đã vượt qua dòng lũ.’”
Nanda:
1083. Con cảm thấy hoan hỷ,
Lời Ðại sĩ Cù-đàm,
Ðược Ngài khéo thuyết giảng,
Về chấm dứt sanh y,
Những ai ở đời này,
Ðoạn tận khắp tất cả,
Ðiều được nghe, được thấy,
Ðược cảm tưởng, giới cấm,
Và đoạn nhiều pháp khác,
Liễu tri ái, vô lậu,
Ta nói những người ấy,
Vượt qua khỏi bộc lưu.
(Kinh Tập, chương V)
Etābhinandāmi vaco mahesino ti – Etan ti tuyhaṃ vacanaṃ byappathaṃ desanaṃ anusiṭṭhiṃ nandāmi abhinandāmi modāmi anumodāmi icchāmi sādiyāmi patthayāmi pihayāmi abhijappāmi. Mahesino ti mahesī bhagavā mahantaṃ sīlakkhandhaṃ esi gavesi pariyesī ’ti mahesī —pe— kahaṃ narāsabhoti mahesī ’ti – etābhinandāmi vaco mahesino.
Sukittitaṃ gotama nūpadhīkan ti – Sukittitan ti svācikkhitaṃ sudesitaṃ supaññapitaṃ supaṭṭhapitaṃ suvivaṭaṃ suvibhattaṃ suuttānīkataṃ supakāsitaṃ. Gotama nūpadhīkan ti upadhī vuccanti kilesā ca khandhā ca abhisaṅkhārā ca, upadhipahānaṃ upadhivūpasamaṃ upadhipaṭinissaggaṃ upadhipaṭippassaddhiṃ amataṃ nibbānan ’ti – sukittitaṃ gotama nūpadhīkaṃ.
Ye sīdha diṭṭhaṃ va sutaṃ mutaṃ vā sīlabbataṃ vāpi pahāya sabban ti ye sabbā diṭṭhasuddhiyo pahāya jahitvā pajahitvā vinodetvā byantīkaritvā anabhāvaṃ gametvā, ye sabbā sutasuddhiyo —pe— ye sabbā mutasuddhiyo —pe— ye sabbā diṭṭhasutamutasuddhiyo —pe— ye sabbā sīlasuddhiyo —pe— ye sabbā vatasuddhiyo —pe— ye sabbā sīlabbatasuddhiyo pahāya jahitvā pajahitvā vinodetvā byantīkaritvā anabhāvaṃ gametvā ’ti – ye sīdha diṭṭhaṃ va sutaṃ mutaṃ vā sīlabbataṃ vāpi pahāya sabbaṃ.
Anekarūpampi pahāya sabban ti anekavidhavatakotūhalamaṅgalena suddhiṃ visuddhiṃ parisuddhiṃ muttiṃ vimuttiṃ parimuttiṃ pahāya jahitvā pajahitvā vinodetvā byantīkaritvā anabhāvaṃ gametvā ’ti – anekarūpampi pahāya sabbaṃ.
Taṇhaṃ pariññāya anāsavā se ahampi te oghatiṇṇāti brūmī ti – Taṇhā ti rūpataṇhā saddataṇhā gandhataṇhā rasataṇhā phoṭṭhabbataṇhā dhammataṇhā. Taṇhaṃ pariññāyā ti taṇhaṃ tīhi pariññāhi parijānitvā ñātapariññāya tīraṇapariññāya pahānapariññāya.
Katamā ñātapariññā? Taṇhaṃ jānāti, ayaṃ rūpataṇhā, ayaṃ saddataṇhā, ayaṃ gandhataṇhā, ayaṃ rasataṇhā, ayaṃ phoṭṭhabbataṇhā, ayaṃ dhammataṇhā ’ti jānāti1 passati, ayaṃ ñātapariññā.
Katamā tīraṇapariññā? Evaṃ ñātaṃ katvā taṇhaṃ tīreti aniccato dukkhato rogato gaṇḍato sallato aghato ābādhato parato palokato ītito upaddavato bhayato upassaggato calato pabhaṅguto addhuvato atāṇato alenato asaraṇato asaraṇībhūtato rittato tucchato suññato anattato ādīnavato vipariṇāmadhammato asārakato aghamūlato vadhakato vibhavato sāsavato saṅkhatato mārāmisato jātidhammato jarādhammato vyādhidhammato maraṇadhammato sokaparidevadukkhadomanassupāyāsadhammato saṅkilesadhammato samudayato atthaṅgamato assādato ādīnavato nissaraṇato tīreti, ayaṃ tīraṇapariññā.
Katamā pahānapariññā? Evaṃ tīrayitvā taṇhaṃ pajahati vinodeti byantīkaroti anabhāvaṃ gameti, ayaṃ pahānapariññā.
Taṇhaṃ pariññāyā ti taṇhaṃ imāhi tīhi pariññāhi parijānitvā. Anāsavā ti cattāro āsavā: kāmāsavo bhavāsavo diṭṭhāsavo avijjāsavo. Yesaṃ ime āsavā pahīnā ucchinnamūlā tālāvatthukatā anabhāvakatā āyatiṃ anuppādadhammā, te vuccanti anāsavā arahanto khīṇāsavā.
Taṇhaṃ pariññāya anāsavā se ahampi te oghatiṇṇāti brūmī ti ye taṇhaṃ pariññāya anāsavā ahampi te kāmoghaṃ tiṇṇā, bhavoghaṃ tiṇṇā, diṭṭhoghaṃ tiṇṇā, avijjoghaṃ tiṇṇā, sabbasaṃsārapathaṃ tiṇṇā uttiṇṇā nittiṇṇā atikkantā samatikkantā vītivattāti brūmi vadāmī ’ti – taṇhaṃ pariññāya anāsavā se ahampi te oghatiṇṇāti brūmi.
Tenāha so brāhmaṇo: “Etābhinandāmi vaco mahesino sukittitaṃ gotama nūpadhīkaṃ, yesīdha diṭṭhaṃ va sutaṃ mutaṃ vā sīlabbataṃ vāpi pahāya sabbaṃ anekarūpampi pahāya sabbaṃ taṇhaṃ pariññāya anāsavā seahampi te oghatiṇṇāti brūmī ”ti.
Vì thế, vị Bà-la-môn ấy đã nói rằng:
(Tôn giả Nanda nói rằng:) “Thưa ngài Gotama, con thích thú lời nói này của bậc đại ẩn sĩ, đã khéo được trình bày, không liên quan đến mầm tái sanh. Ở đây, những vị nào đã dứt bỏ điều đã được thấy, hoặc đã được nghe, hoặc đã được cảm giác, hoặc thậm chí tất cả giới và phận sự, hoặc đã dứt bỏ mọi hình thức nhiều loại, đã biết toàn diện về tham ái, không còn lậu hoặc, con cũng nói rằng ‘những vị ấy đã vượt qua dòng lũ.’”
Nandasuttaniddeso Sattamo.
Diễn Giải Kinh Nanda là thứ bảy.
8. HEMAKASUTTANIDDESO – DIỄN GIẢI KINH HEMAKA
(IX) Các câu hỏi của thanh niên Hemaka:
Yeme pubbe viyākaṃsu – (iccāyasmā hemako) huraṃ gotamasāsanā iccāsi iti bhavissati sabbaṃ taṃ itihītihaṃ, sabbaṃ taṃ takkavaḍḍhanaṃ nāhaṃ tattha abhiramiṃ.
(Tôn giả Hemaka nói rằng:) “Những người nào trước đây đã giải thích cho con khác với lời dạy của Gotama (nói rằng): ‘Đã là như vầy, sẽ là như vầy,’ mọi điều ấy đều do nghe nói lại theo truyền thống, mọi điều ấy đều là sự tăng trưởng suy nghĩ, con không thích thú về điều ấy.
Hemaka:
1084. Tôn giả He-ma-ka:
Những ai trong thời trước,
Ðã trả lời cho con,
Về lời dạy Cù-đàm,
Trước đã như thế nào,
Sau sẽ là như vậy,
Tất cả đều truyền thống,
Tất cả tăng suy tư.
(Kinh Tập, chương V)
Yeme pubbe viyākaṃsū ti – Ye ti yo ca bāvarī brāhmaṇo, ye caññe tassa ācariyā, te sakaṃ diṭṭhiṃ sakaṃ khantiṃ sakaṃ ruciṃ sakaṃ laddhiṃ sakaṃ ajjhāsayaṃ sakaṃ adhippāyaṃ vyākaṃsu ācikkhiṃsu desayiṃsu paññāpiṃsu paṭṭhapiṃsu vivariṃsu vibhajiṃsu uttānīakaṃsu pakāsesun ’ti – ye me pubbe viyākaṃsu. Iccāyasmā hemako ti – Iccā ti padasandhi –– padānupubbatāpetaṃ ‘iccā ’ti. Āyasmā ti piyavacanaṃ –pe– Hemako ti tassa brāhmaṇassa nāmaṃ –pe– abhilāpo ’ti – iccāyasmā hemako.
Huraṃ gotamasāsanā ti huraṃ gotamasāsanā, paraṃ gotamasāsanā, pure gotamasāsanā, paṭhamataraṃ gotamasāsanā buddhasāsanā jinasāsanā tathāgatasāsanā, devadevasāsanā, arahantasāsanā ’ti – huraṃ gotamasāsanā.
Iccāsi iti bhavissatī ti evaṃ kira āsi, evaṃ kira bhavissatī ’ti – iccāsi iti bhavissati.
Sabbaṃ taṃ itihītihan ti sabbaṃ taṃ itihītihaṃ, itikirāya, paramparāya piṭakasampadāya takkahetu nayahetu ākāraparivitakkena diṭṭhinijjhānakkhantiyā na sāmaṃ sayamabhiññātaṃ na attapaccakkhadhammaṃ kathayiṃsū ’ti – sabbaṃ taṃ itihītihaṃ.
Sabbaṃ taṃ takkavaḍḍhanan ti sabbaṃ taṃ takkavaḍḍhanaṃ vitakkavaḍḍhanaṃ saṅkappavaḍḍhanaṃ kāmavitakkavaḍḍhanaṃ vyāpādavitakkavaḍḍhanaṃ vihiṃsāvitakkavaḍḍhanaṃ ñātivitakkavaḍḍhanaṃ janapadavitakkavaḍḍhanaṃ amarāvitakkavaḍḍhanaṃ parānuddayatā paṭisaṃyuttavitakkavaḍḍhanaṃ lābhasakkārasilokapaṭisaṃyuttavitakkavaḍḍhanaṃ anavaññattipaṭisaṃyuttavitakkavaḍḍhanan ’ti – sabbaṃ taṃ takkavaḍḍhanaṃ.
Nāhaṃ tattha abhiramin ti nāhaṃ tattha abhiramiṃ na vindiṃ nādhigacchiṃ na paṭilabhin ’ti – nāhaṃ tattha abhiramiṃ.
Tenāha so brāhmaṇo: “Ye me pubbe viyākaṃsu (iccāyasmā hemako) huraṃ gotamasāsanā, iccāsi iti bhavissati sabbaṃ taṃ itihītihaṃ, sabbaṃ taṃ takkavaḍḍhanaṃ nāhaṃ tattha abhiramin ”ti.
Vì thế, vị Bà-la-môn ấy đã nói rằng:
(Tôn giả Hemaka nói rằng:) “Những người nào trước đây đã giải thích cho con khác với lời dạy của Gotama (nói rằng): ‘Đã là như vầy, sẽ là như vầy,’ mọi điều ấy đều do nghe nói lại theo truyền thống, mọi điều ấy đều là sự tăng trưởng suy nghĩ, con không thích thú về điều ấy.
Tvaṃ ca me dhammamakkhāhi taṇhānigghātanaṃ muni, yaṃ viditvā sato caraṃ tare loke visattikaṃ.
Và xin ngài hãy nói ra cho con về pháp diệt trừ tham ái, thưa bậc hiền trí; sau khi hiểu pháp ấy, con có niệm, trong khi sống, có thể vượt qua sự vướng mắc ở thế gian.”1085. Ðây, con không hoan hỷ,
Ngài nói Pháp cho con,
Ôi mong bậc ẩn sĩ,
Nói Pháp đoạn khát ái,
Biết xong, sống chánh niệm,
Vượt ái trước ở đời.
(Kinh Tập, chương V)
Tvaṃ ca me dhammamakkhāhī ti – Tvan ti bhagavantaṃ bhaṇati. Dhammamakkhāhī ti – Dhamman ti ādikalyāṇaṃ majjhekalyāṇaṃ pariyosānakalyāṇaṃ sātthaṃ savyañjanaṃ kevalaparipuṇṇaṃ parisuddhaṃ brahmacariyaṃ, cattāro satipaṭṭhāne cattāro sammappadhāne cattāro iddhipāde pañcindriyāni pañcabalāni sattabojjhaṅge ariyaṃ aṭṭhaṅgikaṃ maggaṃ nibbānañca nibbānagāminiñca paṭipadaṃ akkhāhi ācikkhāhi desehi paññapehi paṭṭhapehi vivarāhi vibhajāhi uttānīkarohi pakāsehī ’ti – tvaṃ ca me dhammamakkhāhi.
Taṇhā nigghātanaṃ munī ti – Taṇhā ti rūpataṇhā, —pe— dhammataṇhā. Taṇhānigghātanaṃ taṇhāpahānaṃ taṇhāvūpasamaṃ taṇhāpaṭinissaggaṃ taṇhāpaṭippassaddhiṃ amataṃ nibbānaṃ. Munī ti monaṃ vuccati ñāṇaṃ, —pe— saṅgajālamaticca so munī ’ti – taṇhā nigghātanaṃ muni.
Yaṃ viditvā sato caran ti yaṃ viditaṃ katvā tulayitvā tīrayitvā vibhāvayitvā vibhūtaṃ katvā, ‘sabbe saṅkhārā aniccā ’ti viditaṃ katvā tulayitvā tīrayitvā vibhāvayitvā vibhūtaṃ katvā, ‘sabbe saṅkhārā dukkhā ’ti —pe— ‘sabbe dhammā anattā ’ti —pe— ‘yaṃ kiñci samudayadhammaṃ sabbaṃ taṃ nirodhadhamman ’ti viditaṃ katvā tulayitvā tīrayitvā vibhāvayitvā vibhūtaṃ katvā. Sato ti catūhi kāraṇehi sato: kāye kāyānupassanāsatipaṭṭhānaṃ bhāvento sato, —pe— so vuccati sato. Caran ti caranto viharanto irīyanto vattento pālento yapento yāpento ’ti – yaṃ viditvā sato caraṃ.
Tare loke visattikan ti visattikā vuccati taṇhā, yo rāgo sārāgo —pe— abhijjhā lobho akusalamūlaṃ.Visattikā ti kenaṭṭhena visattikā? —pe— visaṭā vitthatā ’ti – visattikā. Loke ti apāyaloke manussaloke devaloke khandhaloke dhātuloke āyatanaloke. Tare loke visattikan ti loke vesā visattikā loke vetaṃ visattikaṃ sato tareyyaṃ, uttareyyaṃ patareyyaṃ samatikkameyyaṃ vītivatteyyan ’ti – tare loke visattikaṃ.
Tenāha so brāhmaṇo: “Tvaṃ ca me dhammamakkhāhi taṇhānigghātanaṃ muni, yaṃ viditvā sato caraṃ tare loke visattikan ”ti.
Vì thế, vị Bà-la-môn ấy đã nói rằng: Và xin ngài hãy nói ra cho con về pháp diệt trừ tham ái, thưa bậc hiền trí; sau khi hiểu pháp ấy, con có niệm, trong khi sống, có thể vượt qua sự vướng mắc ở thế gian.”
Idha diṭṭhasutamuta – viññātesu piyarūpesu (hemaka) chandarāgavinodanaṃ nibbānapadamaccutaṃ.
“Ở đây, sự xua đi mong muốn và luyến ái ở các vật có vẻ đáng yêu đã được thấy, đã được nghe, đã được cảm giác, đã được nhận thức, này Hemaka, là vị thế Niết Bàn, Bất Hoại.”
Thế Tôn:
1086. He-ma-ka ở đây,
Ðối các Pháp khả ái,
Ðược nghe và được thấy,
Ðược cảm tưởng, nhận thức,
Tẩy sạch ước muốn tham,
Là Niết-bàn, bất tử.
(Kinh Tập, chương V)
Idha diṭṭhasutamutaviññātesū ti – Diṭṭhan ti cakkhunā diṭṭhaṃ. Sutan ti sotena sutaṃ. Mutan ti ghānena ghāyitaṃ jivhāya sāyitaṃ kāyena phuṭṭhaṃ. Viññātan ti manasā viññātan ’ti – idha diṭṭhasutamutaviññātesu.
Piyarūpesu hemakā ti kiñca loke piyarūpaṃ sātarūpaṃ? Cakkhuṃ loke piyarūpaṃ sātarūpaṃ, sotaṃ loke piyarūpaṃ sātarūpaṃ, ghānaṃ loke piyarūpaṃ sātarūpaṃ, jivhā loke piyarūpaṃ sātarūpaṃ, kāyo loke iyarūpaṃ sātarūpaṃ, mano loke piyarūpaṃ sātarūpaṃ; rūpā loke piyarūpaṃ sātarūpaṃ, saddā loke – gandhā loke – rasā loke – phoṭṭhabbā loke – dhammā loke piyarūpaṃ sātarūpaṃ; cakkhuviññāṇaṃ loke piyarūpaṃ sātarūpaṃ, sotaviññāṇaṃ loke – ghānaviññāṇaṃ loke – jivhāviññāṇaṃ loke – kāyaviññāṇaṃ loke – manoviññāṇaṃ loke piyarūpaṃ sātarūpaṃ; –– cakkhusamphasso loke piyarūpaṃ sātarūpaṃ, sotakāyasamphasso loke – ghānakāyasamphasso loke – jivhākāyasamphasso loke – kāyasamphasso loke – manosamphasso loke piyarūpaṃ sātarūpaṃ; cakkhusamphassajā vedanā loke piyarūpaṃ sātarūpaṃ –pe– sotasamphassajā vedanā – ghānasamphassajā vedanā – jivhāsamphassajā vedanā – kāyasamphassajā vedanā – manosamphassajā vedanā loke piyarūpaṃ sātarūpaṃ; rūpasaññā loke – saddasaññā loke –pe– gandhasaññā loke – rasasaññā loke – phoṭṭhabbasaññā loke – dhammasaññā loke piyarūpaṃ sātarūpaṃ; rūpasañcetanā loke –pe– saddasañcetanā loke – gandhasañcetanā loke – rasasañcetanā loke – phoṭṭhabbasañcetanā loke – dhammasañcetanā loke piyarūpaṃ sātarūpaṃ; rūpataṇhā loke –pe– saddataṇhā loke –pe– gandhataṇhā loke – rasataṇhā loke – phoṭṭhabbataṇhā loke – dhammataṇhā loke piyarūpaṃ sātarūpaṃ; rūpavitakko loke –pe– saddavitakko loke – gandhavitakko loke – rasavitakko loke – phoṭṭhabbavitakko loke – dhammavitakko loke piyarūpaṃ sātarūpaṃ; rūpavicāro loke piyarūpaṃ sātarūpaṃ, saddavicāro loke –pe– gandhavicāro loke – rasavicāro loke – phoṭṭhabbavicāro loke – dhammavicāro loke piyarūpaṃ sātarūpan ’ti – piyarūpesu hemaka.
Chandarāgavinodanan ti – Chandarāgo ti yo kāmesu kāmacchando kāmarāgo kāmanandi kāmataṇhā kāmasineho kāmapariḷāho kāmamucchā kāmajjhosānaṃ kāmogho kāmayogo kāmupādānaṃ kāmacchandanīvaraṇaṃ. Chandarāgavinodanan ti chandarāgappahānaṃ chandarāgavūpasamaṃ chandarāgapaṭinissaggaṃ chandarāgapaṭippassaddhiṃ amataṃ nibbānan ’ti – chandarāgavinodanaṃ.
Nibbānapadamaccutan ti nibbānapadaṃ tāṇapadaṃ lenapadaṃ saraṇapadaṃ abhayapadaṃ. Accutan ti niccaṃ dhuvaṃ sassataṃ avipariṇāmadhamman ’ti – nibbānapadamaccutaṃ.
Tenāha bhagavā: “Idha diṭṭhasutamuta- viññātesu piyarūpesu (hemaka) chandarāgavinodanaṃ nibbānapadamaccutan ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Ở đây, sự xua đi mong muốn và luyến ái ở các vật có vẻ đáng yêu đã được thấy, đã được nghe, đã được cảm giác, đã được nhận thức, này Hemaka, là vị thế Niết Bàn, Bất Hoại.”
Etadaññāya ye satā diṭṭhadhammābhinibbutā, upasantā ca te sadā tiṇṇā loke visattikaṃ.
“Sau khi hiểu thông điều này, những người nào có niệm, đã nhận thức được Giáo Pháp, đã được diệt tắt, và những người ấy luôn luôn yên tịnh, họ đã vượt qua sự vướng mắc ở thế gian.”
1087. Biết vậy, giữ chánh niệm,
Hiện tại, đạt mát lạnh,
Vị ấy thường an tịnh,
Vượt chấp trước ở đời.
(Kinh Tập, chương V)
Etadaññāya ye satā ti – Etan ti amataṃ nibbānaṃ, yo so sabbasaṅkhārasamatho sabbūpadhipaṭinissaggo taṇhakkhayo virāgo nirodho nibbānaṃ. Aññāyā ti aññāya jānitvā tulayitvā tīrayitvā vibhāvayitvā vibhūtaṃ katvā. ‘Sabbe saṅkhārā aniccā ’ti aññāya jānitvā tulayitvā tīrayitvā vibhāvayitvā vibhūtaṃ katvā, ‘sabbe saṅkhārā dukkhā ’ti –pe– ‘sabbe dhammā anattā ’ti –pe– ‘yaṃ kiñci samudayadhammaṃ sabbaṃ taṃ nirodhadhamman ’ti aññāya jānitvā tulayitvā tīrayitvā vibhāvayitvā vibhūtaṃ katvā. Ye ti arahanto khīṇāsavā. Satā ti catūhi kāraṇehi satā: kāye kāyānupassanāsatipaṭṭhānaṃ bhāvitattā satā –pe– te vuccanti satā ’ti – etadaññāya ye satā.
Diṭṭhadhammābhinibbutā ti – Diṭṭhadhammā ti diṭṭhadhammā ñātadhammā tulitadhammā tīritadhammā vibhūtadhammā vibhāvitadhammā. ‘Sabbe saṅkhārā aniccā ’ti diṭṭhadhammā –pe– ‘yaṃ kiñci samudayadhammaṃ sabbaṃ taṃ nirodhadhamman ’ti diṭṭhadhammā ñātadhammā tulitadhammā tīritadhammā vibhūtadhammā vibhāvitadhammā. Abhinibbutā ti rāgassa nibbāpitattā nibbutā, dosassa nibbāpitattā nibbutā, mohassa nibbāpitattā nibbutā, kodhassa –pe– upanāhassa –pe– sabbākusalābhisaṅkhārānaṃ santattā samitattā vūpasamitattā nijjhātattā nibbutattā vigatattā paṭippassaddhattā santā upasantā vūpasantā nibbutā paṭippassaddhā ’ti – diṭṭhadhammābhinibbutā.
Upasantā ca te sadā ti – Upasantā ti rāgassa upasamitattā nibbāpitattā upasantā –pe– dosassa – mohassa – kodhassa – upanāhassa –pe– sabbākusalābhisaṅkhārānaṃ santattā samitattā upasamitattā nijjhātattā nibbutattā vigatattā paṭippasaddhattā santā upasantā vūpasantā nibbutā paṭippassaddhā ’ti – upasantā. Te ti arahanto khīṇāsavā. Sadā ti sadā sabbadā sabbakālaṃ niccakālaṃ dhuvakālaṃ satataṃ samitaṃ abbokiṇṇaṃ poṅkhānupoṅkhaṃ udekodhikajātaṃ avīcisantatisahitaṃ phassitaṃ, purebhattaṃ pacchābhattaṃ purimayāmaṃ majjhimayāmaṃ pacchimayāmaṃ kāḷe juṇhe vasse hemante gimhe purime vayokhandhe majjhime vayokhandhe pacchime vayokhandhe ’ti – upasantā ca te sadā.
Tiṇṇā loke visattikan ti visattikā vuccati taṇhā, yo rāgo sārāgo –pe– abhijjhā lobho akusalamūlaṃ. Visattikā ti kenaṭṭhena visattikā? –pe– visaṭā vitthatā ’ti – visattikā. Loke ti apāyaloke –pe– āyatanaloke. Tiṇṇā loke visattikan ti loke vesā visattikā, lokevetaṃ visattikaṃ tiṇṇā uttiṇṇā nittiṇṇā atikkantā samatikkantā vītivattā ’ti – tiṇṇā loke visattikaṃ.
Tenāha bhagavā: “Etadaññāya ye satā diṭṭhadhammābhinibbutā upasantā ca te sadā tiṇṇā loke visattikan ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Sau khi hiểu thông điều này, những người nào có niệm, đã nhận thức được Giáo Pháp, đã được diệt tắt, và những người ấy luôn luôn yên tịnh, họ đã vượt qua sự vướng mắc ở thế gian.”
Saha gāthāpariyosānā –pe– “Satthā me bhante bhagavā, sāvakohamasmī ”ti.
Cùng với lúc kết thúc câu kệ ngôn, –nt– “Bạch ngài, đức Thế Tôn là bậc đạo sư của con, con là người đệ tử.”
Hemakasuttaniddeso samatto.
Diễn Giải Kinh Hemaka được hoàn tất.
9. TODEYYASUTTANIDDESO – DIỄN GIẢI KINH TODEYYA
(X) Câu hỏi của thanh niên Todeyya:
Yasmiṃ kāmā na vasanti – (iccāyasmā todeyyo) taṇhā yassa na vijjati, kathaṃkathā ca yo tiṇṇo vimokkho tassa kīdiso.
(Tôn giả Todeyya nói rằng:) “Ở người nào các dục không sinh tồn, đối với người nào tham ái không tìm thấy, và người nào đã vượt qua các nỗi nghi hoặc, sự giải thoát của người ấy là như thế nào?”
Todeyya:
1088. Tôn giả Tô-đê-ya:
Ai sống không dục vọng,
Ai sống không có ái,
Ai vượt khỏi nghi hoặc,
Giải thoát của vị ấy,
Giải thoát như thế nào?
(Kinh Tập, chương V)
Yasmiṃ kāmā na vasantī ti yasmiṃ kāmā na vasanti, na saṃvasanti na āvasanti na parivasantī ’ti – yasmiṃ kāmā na vasanti. Iccāyasmā todeyyo ti –pe–
Taṇhā yassa na vijjatī ti taṇhā yassa natthi, na santi na saṃvijjati nūpalabbhati ñāṇagginā daḍḍhā ’ti – taṇhā yassa na vijjati.
Kathaṃkathā ca yo tiṇṇo ti kathaṃkathā ca yo tiṇṇo uttiṇṇo nittiṇṇo atikkanto samatikkanto vītivatto ’ti – kathaṃkathā ca yo tiṇṇo.
Vimokkho tassa kīdiso ti vimokkho tassa kīdiso, kiṃsaṇṭhito kiṃpakāro kiṃpaṭibhāgo icchitabboti vimokkhaṃ pucchatī ’ti – vimokkho tassa kīdiso.
Tenāha so brāhmaṇo: “Yasmiṃ kāmā na vasanti (iccāyasmā todeyyo) taṇhā yassa na vijjati, kathaṃkathā ca yo tiṇṇo vimokkho tassa kīdiso ”ti
Vì thế, vị Bà-la-môn ấy đã nói rằng:
(Tôn giả Todeyya nói rằng:) “Ở người nào các dục không sinh tồn, đối với người nào tham ái không tìm thấy, và người nào đã vượt qua các nỗi nghi hoặc, sự giải thoát của người ấy là như thế nào?”
Yasmiṃ kāmā na vasanti (todeyyāti bhagavā) taṇhā yassa na vijjati, kathaṃkathā ca yo tiṇṇo vimokkho tassa nāparo.
(Đức Thế Tôn nói: “Này Todeyya,) ở người nào các dục không sinh tồn, đối với người nào tham ái không tìm thấy, và người nào đã vượt qua các nỗi nghi hoặc, đối với người ấy không có sự giải thoát nào khác nữa.”
Thế Tôn:
1089. Ðây lời nói Thế Tôn:
Hỡi nãy Tô-đê-ya,
Ai sống không dục vọng,
Ai sống không có ái,
Ai vượt khỏi nghi hoặc
Giải thoát của vị ấy
Không có gì là khác.
(Kinh Tập, chương V)
Yasmiṃ kāmā na vasantī ti – Yasmin ti yasmiṃ puggale arahante khīṇāsave. Kāmā ti uddānato dve kāmā: vatthukāmā ca kilesakāmā ca. –pe– Ime vuccanti vatthukāmā. –pe– Ime vuccanti kilesakāmā. Yasmiṃ kāmā na vasantī ti yasmiṃ kāmā na vasanti, na saṃvasanti, na āvasanti, na parivasantī ’ti – ‘yasmiṃ kāmā na vasanti. Todeyyāti bhagavā ti –pe–
Taṇhā yassa na vijjatī ti – Taṇhā ti rūpataṇhā saddataṇhā gandhataṇhā rasataṇhā phoṭṭhabbataṇhā dhammataṇhā. Yāssā ti arahato khīṇāsavassa. Taṇhā yassa na vijjatī ti taṇhā yassa natthi, na santi na saṃvijjati nūpalabbhati, pahīnā samucchinnā vūpasantā paṭippassaddhā abhabbuppattikā ñāṇagginā daḍḍhā ’ti – taṇhā yassa na vijjati.
Kathaṃkathā ca yo tiṇṇo ti kathaṃkathā vuccati vicikicchā, dukkhe kaṅkhā, –pe– thambhitattaṃ cittassa manovilekho. Yo ti yo so arahaṃ khīṇāsavo. Kathaṃkathā ca yo tiṇṇo ti kathaṃkathā ca yo tiṇṇo uttiṇṇo nittiṇṇo atikkanto samatikkanto vītivatto ’ti – kathaṃkathā ca yo tiṇṇo.
Vimokkho tassa nāparo ti natthi tassa aparo vimokkho, yena vimokkhena vimucceyya, vimutto so, kataṃ tassa vimokkhena karaṇīyan ’ti – vimokkho tassa nāparo.
Tenāha bhagavā: “Yasmiṃ kāmā na vasanti (todeyyāti bhagavā) taṇhā yassa na vijjati, kathaṃkathā ca yo tiṇṇo vimokkho tassa nāparo ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
(Đức Thế Tôn nói: “Này Todeyya,) ở người nào các dục không sinh tồn, đối với người nào tham ái không tìm thấy, và người nào đã vượt qua các nỗi nghi hoặc, đối với người ấy không có sự giải thoát nào khác nữa.”
Nirāsaso so uda āsasāno paññāṇavā so uda paññakappī, muniṃ ahaṃ sakka yathā vijaññaṃ taṃ me viyācikkha samantacakkhu.
“Vị ấy không còn mong ước, hay là (vị ấy) đang mong ước? Vị ấy có tuệ hay là có sự sắp đặt nhờ vào tuệ? Thưa vị dòng Sakya, để cho con có thể nhận biết về vị hiền trí, thưa bậc Toàn Nhãn, xin ngài hãy nói rõ điều ấy cho con.”
Todeyya:
1090. Vị sống không ước vọng
Hay sống có ước vọng,
Vị ấy có trí tuệ,
Hay tác thành trí tuệ,
Ôi kính bậc Biến nhãn,
Hãy trả lời con rõ,
Ðể con có thể biết,
Thế nào là ẩn sĩ,
Ôi kính bậc Thích tử.
(Kinh Tập, chương V)
Nirāsaso so uda āsasāno ti nittaṇho so udāhu sataṇho, rūpe āsiṃsati sadde – gandhe – rase – phoṭṭhabbe – kulaṃ – gaṇaṃ – āvāsalābhaṃ – yasaṃ – pasaṃsaṃ – sukhaṃ – cīvaraṃ – piṇḍapātaṃ – senāsanaṃ gilānapaccayabhesajjaparikkhāraṃ – kāmadhātuṃ – rūpadhātuṃ – arūpadhātuṃ – kāmabhavaṃ – rūpabhavaṃ – arūpabhavaṃ – saññābhavaṃ – asaññābhavaṃ – nevasaññānāsaññābhavaṃ – ekavokārabhavaṃ – catuvokārabhavaṃ – pañcavokārabhavaṃ – atītaṃ – anāgataṃ – paccuppannaṃ – diṭṭhasutamutaviññātabbe dhamme āsiṃsati icchati sādiyati pattheti piheti abhijappatī ’ti – nirāsaso so uda āsasāno.
Paññāṇavā so uda paññakappī ti – Paññāṇavā so ti paṇḍito paññavā buddhimā ñāṇī vibhāvī medhāvī. Uda paññakappī ti udāhu aṭṭhasamāpattiñāṇena vā pañcābhiññāñāṇena vā micchāñāṇena vā taṇhākappaṃ vā diṭṭhikappaṃ vā kappeti, janeti saṃjaneti nibbatteti abhinibbattetī ’ti – paññāṇavā so uda paññakappī.
Muniṃ ahaṃ sakka yathā vijaññan ti – Sakkā ti sakko bhagavā, sakyakulā pabbajito tipi sakko. Athavā aḍḍho mahaddhano dhanavā tipi sakko, tassimāni dhanāni seyyathīdaṃ: saddhādhanaṃ sīladhanaṃ hiridhanaṃ ottappadhanaṃ sutadhanaṃ cāgadhanaṃ paññādhanaṃ satipaṭṭhānadhanaṃ sammappadhānadhanaṃ iddhipādadhanaṃ indriyadhanaṃ baladhanaṃ bojjhaṅgadhanaṃ maggadhanaṃ phaladhanaṃ nibbānadhananti, tehi anekavidhehi dhanaratanehi aḍḍho mahaddhano dhanavātipi sakko. Athavā pahū visavī alamatto sūro vīro vikkanto abhīru acchambhī anutrāsī apalāyī pahīnabhayabheravo vigatalomahaṃsotipi sakko. Muniṃ ahaṃ sakka yathā vijaññan ti sakka, yathā ahaṃ muniṃ jāneyyaṃ ājāneyyaṃ vijāneyyaṃ paṭivijāneyyaṃ paṭivijjheyyan ’ti – muniṃ ahaṃ sakka yathā vijaññaṃ.
Taṃ me viyācikkha samantacakkhū ti – Tan ti yaṃ pucchāmi, yaṃ yācāmi, yaṃ ajjhesāmi, yaṃ pasādemi. Viyācikkhā ti ācikkhāhi desehi paññapehi paṭṭhapehi vivarāhi vibhajāhi uttānīkarohi pakāsehi. Samantacakkhū ti samantacakkhu vuccati sabbaññutañāṇaṃ –pe– tathāgato tena samantacakkhū ’ti – taṃ me viyācikkha samantacakkhu.
Tenāha so brāhmaṇo: “Nirāsaso so uda āsasāno paññāṇavā so uda paññakappī, muniṃ ahaṃ sakka athā vijaññaṃ taṃ me viyācikkha samantacakkhū ”ti.
Vì thế, vị Bà-la-môn ấy đã nói rằng:
“Vị ấy không còn mong ước, hay là (vị ấy) đang mong ước? Vị ấy có tuệ hay là có sự sắp đặt nhờ vào tuệ? Thưa vị dòng Sakya, để cho con có thể nhận biết về vị hiền trí, thưa bậc Toàn Nhãn, xin ngài hãy nói rõ điều ấy cho con.”
Nirāsaso so na so āsasāno paññāṇavā so na ca paññakappī, evampi todeyya, muniṃ vijāna akiñcanaṃ kāmabhave asattaṃ.
“Vị ấy không còn mong ước, vị ấy không mong ước. Vị ấy có tuệ và không có sự sắp đặt nhờ vào tuệ. Này Todeyya, ngươi hãy nhận biết về vị hiền trí là như vậy, là vị không còn vướng bận, không bị dính mắc ở dục và hữu.”
Thế Tôn:
1091. Vị sống không ước vọng,
Không có ước vọng nào,
Vị ấy có trí tuệ,
Không tác thành trí tuệ,
Như vậy, Tô-đê-ya,
Hãy biết bậc ẩn sĩ,
Không có sở hữu gì,
Không tham dính dục hữu.
(Kinh Tập, chương V)
Nirāsaso so na so āsasāno ti nittaṇho so na so sataṇho so rūpe nāsiṃsati, sadde – gandhe –pe– diṭṭhasutamutaviññātabbe dhamme nāsiṃsati na icchati na sādiyati na pattheti na piheti nābhijappatī ’ti – nirāsaso so na so āsasāno.
Paññāṇavā so na ca paññakappī ti – Paññāṇavā ti paṇḍito paññavā buddhimā ñāṇī vibhāvī medhāvī. Na ca paññakappī ti aṭṭhasamāpattiñāṇena vā pañcābhiññāñāṇena vā micchāñāṇena vā taṇhākappaṃ vā na kappeti, diṭṭhikappaṃ vā na kappeti, na janeti, na saṃjaneti, na nibbatteti, nābhinibbattetī ’ti – paññāṇavā so na ca paññakappī.
Evampi todeyya muniṃ vijānā ti – Munī ti monaṃ vuccati ñāṇaṃ –pe– saṅgajālamaticca so muni. Evampi todeyya muniṃ vijānā ti todeyya evaṃ muniṃ jāna paṭijāna paṭivijāna paṭivijjhā ’ti – evampi todeyya muniṃ vijāna.
Akiñcanaṃ kāmabhave asattan ti – Akiñcanan ti rāgakiñcanaṃ dosakiñcanaṃ mohakiñcanaṃ mānakiñcanaṃ diṭṭhikiñcanaṃ kilesakiñcanaṃ duccaritakiñcanaṃ. Yassetāni kiñcanāni pahīnāni samucchinnāni vūpasantāni paṭipassaddhāni, abhabbuppattikāni ñāṇagginā daḍḍhāni so vuccati akiñcano. Kāmā ti uddānato dve kāmā: vatthukāmā ca kilesakāmā ca –pe– ime vuccanti vatthukāmā –pe– ime vuccanti kilesakāmā. Bhavā ti dve bhavā kammabhavo ca paṭisandhiko ca punabbhavo –pe– ayaṃ paṭisandhiko punabbhavo.
Akiñcanaṃ kāmabhave asattan ti akiñcanaṃ puggalaṃ kāme ca bhave ca asattaṃ alaggaṃ alaggitaṃ apaḷibuddhaṃ nikkhantaṃ nissaṭaṃ vippamuttaṃ visaṃyuttaṃ vimariyādīkatena cetasā viharantan ’ti – akiñcanaṃ kāmabhave asattaṃ.
Tenāha bhagavā: “Nirāsaso so na so āsasāno paññāṇavā so na ca paññakappī evampi todeyya muniṃ vijāna akiñcanaṃ kāmabhave asattan ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Vị ấy không còn mong ước, vị ấy không mong ước. Vị ấy có tuệ và không có sự sắp đặt nhờ vào tuệ. Này Todeyya, ngươi hãy nhận biết về vị hiền trí là như vậy, là vị không còn vướng bận, không bị dính mắc ở dục và hữu.”
Saha gāthāpariyosānā –pe– “Satthā me bhante bhagavā, sāvakohamasmī ”ti.
Cùng với lúc kết thúc câu kệ ngôn, –nt– “Bạch ngài, đức Thế Tôn là bậc đạo sư của con, con là người đệ tử.”
Todeyyasuttaniddeso samatto.
Diễn Giải Kinh Todeyya được hoàn tất.