Tiểu Phẩm đọc online – Tập I
Tạng Luật (VINAYAPIṬAKA)
Dịch Việt: Tỳ khưu Indacanda Nguyệt Thiên
Nguồn: https://www.budsas.org
Tập I
Giới thiệu
[01a] CULLAVAGGA I (TIỂU PHẨM 1)
I. CHƯƠNG HÀNH SỰ (KAMMAKKHANDHAKAṂ):
1. Hành sự khiển trách (Tajjanīyakammaṃ):
[1] Câu chuyện về các tỳ khưu nhóm Paṇḍuka và Lohitaka
[3] Thực thi hành sự khiển trách
[4] Hành sự khiển trách không đúng Pháp, không đúng Luật
[16] Hành sự khiển trách đúng Pháp, đúng Luật
[28] Thực thi hành sự khiển trách nếu muốn
[34] Mười tám phận sự của vị tỳ khưu thực thi hành sự khiển trách
[36] Hành sự khiển trách không nên thu hồi
[39] Hành sự khiển trách nên được thu hồi
[42] Thu hồi hành sự khiển trách
2. Hành sự chỉ dạy (Niyassakammaṃ):
[43] Câu chuyện về tỳ khưu Seyyasaka
[44] Thực thi hành sự chỉ dạy
[45] Hành sự chỉ dạy không đúng Pháp, không đúng Luật
[57] Hành sự chỉ dạy đúng Pháp, đúng Luật
[69] Thực thi hành sự chỉ dạy nếu muốn
[75] Mười tám phận sự của vị tỳ khưu thực thi hành sự chỉ dạy
[77] Hành sự chỉ dạy không nên thu hồi
[80] Hành sự chỉ dạy nên được thu hồi
[83] Thu hồi hành sự chỉ dạy
3. Hành sự xua đuổi (Pabbājanīyakammaṃ):
[84] Câu chuyện về các tỳ khưu Assaji và Punabbasuka
[87] Thực thi hành sự xua đuổi
[89] Hành sự xua đuổi không đúng Pháp, không đúng Luật
[93] Hành sự xua đuổi đúng Pháp, đúng Luật
[105] Thực thi hành sự xua đuổi nếu muốn
[119] Mười tám phận sự của vị tỳ khưu thực thi hành sự xua đuổi
[122] Hành sự xua đuổi không nên thu hồi
[125] Hành sự xua đuổi nên được thu hồi
[128] Thu hồi hành sự xua đuổi
[01b] 4. Hành sự hòa giải (Paṭisāraṇīyakammaṃ):
[129] Câu chuyện về tỳ khưu Sudhamma
[134] Thực thi hành sự hòa giải
[135] Hành sự hòa giải không đúng Pháp, không đúng Luật
[147] Hành sự hòa giải đúng Pháp, đúng Luật
[159] Thực thi hành sự hòa giải nếu muốn
[163] Mười tám phận sự của vị tỳ khưu thực thi hành sự hòa giải
[164] Cách thức yêu cầu thứ lỗi của vị tỳ khưu Sudhamma
[167] Hành sự hòa giải không nên thu hồi
[170] Hành sự hòa giải nên được thu hồi
[173] Thu hồi hành sự hòa giải
5. Hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội
(Āpattiyā adassane ukkhepanīyakammaṃ):
[174] Câu chuyện về tỳ khưu Channa
[175] Thực thi hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội
[176] Hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội không đúng Pháp, không đúng Luật
[188] Hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội đúng Pháp, đúng Luật
[200] Thực thi hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội nếu muốn
[206] Bốn mươi ba phận sự của vị tỳ khưu thực thi hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội
[208] Hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội không nên thu hồi
[216] Hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội nên được thu hồi
[224] Thu hồi hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội
6. Hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi
(Āpattiyā appaṭikamme ukkhepanīyakammaṃ):
[225] Câu chuyện về tỳ khưu Channa
[226] Thực thi hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi
[227] Hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi không đúng Pháp, không đúng Luật
[239] Hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi tội đúng Pháp, đúng Luật
[251] Thực thi hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi nếu muốn
[257] Bốn mươi ba phận sự của vị tỳ khưu thực thi hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi
[259] Hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi không nên thu hồi
[267] Hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi nên được thu hồi
[275] Thu hồi hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi
7. Hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác
(Pāpikāya diṭṭhiyā appaṭinissagge ukkhepanīyakammaṃ):
[276] Câu chuyện về tỳ khưu Ariṭṭha
[277] Giảng về sự tai hại của dục tình
[278] Thực thi hành sự án treo trong việc không chịu từ bỏ tà kiến ác
[279] Hành sự án treo trong việc không chịu từ bỏ tà kiến ác không đúng Pháp, không đúng Luật
[291] Hành sự án treo trong việc không chịu từ bỏ tà kiến ác đúng Pháp, đúng Luật
[303] Thực thi hành sự án treo trong việc không chịu từ bỏ tà kiến ác nếu muốn
[309] Mười tám phận sự của vị tỳ khưu thực thi hành sự án treo trong việc không chịu từ bỏ tà kiến ác
[312] Hành sự án treo trong việc không chịu từ bỏ tà kiến ác không nên thu hồi
[315] Hành sự án treo trong việc không chịu từ bỏ tà kiến ác nên được thu hồi
[318] Thu hồi hành sự án treo trong việc không chịu từ bỏ tà kiến ác
[319] Bài kệ tóm lược
[02] II. CHƯƠNG PARIVĀSA (PARIVĀSAKKHANDHAKAṂ):
1. Phận sự của vị thực hànhparivāsa(Parivāsikavattaṃ):
[320] Câu chuyện về vị thực hành parivāsa
[322] Chín mươi bốn phận sự của vị thực hành parivāsa
[331] Ba sự đứt đêm của vị thực hành parivāsa
[332] Sự ngưng hành phạt parivāsa, sự ngưng phận sự
[333] Sự thọ trì lại hành phạt parivāsa, sự thọ trì lại phận sự
2. Phận sự của vị xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu
(Mūlāya paṭikassanārahavattaṃ):
[334] Câu chuyện về các vị xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu
[336] Phận sự của vị xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu
3. Phận sự của vị xứng đáng hành phạtmānatta(Mānattārahavattaṃ):
[344] Câu chuyện về các vị xứng đáng hành phạt mānatta
[345] Phận sự của vị xứng đáng hành phạt mānatta
4. Phận sự của vị thực hànhmānatta(Mānattacārikavattaṃ):
[354] Câu chuyện về các vị thực hành mānatta
[356] Phận sự của vị thực hành mānatta
[365] Bốn sự đứt đêm của vị thực hành mānatta
[366] Sự ngưng hành phạt mānatta, sự ngưng phận sự
[367] Sự thọ trì lại hành phạt mānatta, sự thọ trì lại phận sự
5. Phận sự của vị xứng đáng sự giải tội (Abbhānārahavattaṃ):
[368] Câu chuyện về vị tỳ khưu xứng đáng sự giải tội
[370] Phận sự của vị xứng đáng sự giải tội
[376] Bài kệ tóm lược
[03a] III. CHƯƠNG TÍCH LŨY TỘI (SAMUCCAYAKKHANDHAKAṂ):
[377] Câu chuyện về tỳ khưu Udāyi
[378] Việc cầu xin hành phạt mānatta của tội không có che giấu
[379] Việc ban cho hành phạt mānatta của tội không có che giấu
[381] Cầu xin sự giải tội
[382] Tuyên ngôn giải tội
[384] Hành phạt parivāsa của tội che dấu một ngày
[387] Hành phạt mānatta của tội che dấu một ngày
[389] Việc giải tội
[393] Hành phạt parivāsa của tội che dấu năm ngày
[395] Sự phạm thêm một tội không có che giấu
[396] Việc cầu xin sự (thực hành) trở lại từ đầu của tội không có che dấu
[397] Việc ban cho sự (thực hành) trở lại từ đầu của tội không có che dấu
[398] Lại phạm thêm một tội không có che giấu
[402] Việc ban cho hành phạt mānatta của ba tội
[404] Lại phạm thêm một tội không có che giấu
[409] Hoàn thành hành phạt mānatta, lại phạm thêm tội thứ năm
[414] Ban cho sự giải tội
[416] Việc cầu xin hành phạt parivāsa nửa tháng
[417] Việc ban cho hành phạt parivāsa nửa tháng
[421] Việc ban cho hành phạt parivāsa kết hợp (samodhānaparivāsa), v.v…
[03b] [440] Câu chuyện về vị tỳ khưu phạm nhiều tội
[444] Việc ban cho hành phạt parivāsa kết hợp với giá trị (agghena samodhānaparivāsa) của tội che giấu dài ngày nhất
[446] Câu chuyện về vị tỳ khưu phạm hai tội che giấu hai tháng chỉ xin hành phạt cho một tội
[447] Việc cầu xin hành phạt parivāsa hai tháng cho tội còn lại
[449] Giảng về các trường hợp thực hành parivāsa hai tháng
[456] Giảng về trường hợp phạm tội che giấu hai tháng mà chỉ cầu xin hành phạt parivāsa một tháng
[466] Câu chuyện về vị tỳ khưu phạm nhiều tội
[467] Việc ban cho hành phạt parivāsa hoàn toàn trong sạch (suddhantaparivāsa)
[471] Câu chuyện về vị tỳ khưu hoàn tục, v.v… Hành phạt parivāsa không có hiệu quả
[480] Sự (thực hành) trở lại từ đầu, v.v… không có tác dụng đối với vị hoàn tục, v.v…
[489] Giảng về hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây
[508] Giảng về trường hợp vị phạm tội, hoàn tục, v.v… rồi lại tu lên bậc trên
[529] Giảng về trường hợp vị đang thực hành parivāsa, hoàn tục, v.v… rồi lại tu lên bậc trên
[555] Giảng về trường hợp hai vị phạm tội
[566] Không được trong sạch với các tội
[575] Được trong sạch với các tội
[584] Bài kệ tóm lược
[04] IV. CHƯƠNG DÀN XẾP (SAMATHAKKHANDHAKAṂ):
1. Hành xử Luật với sự hiện diện (Sammukhāvinayo):
[585] Câu chuyện về các tỳ khưu nhóm Lục Sư
[586] Trường hợp không đúng Pháp
[588] Trường hợp đúng Pháp
2. Hành xử Luật bằng sự ghi nhớ (Sativinayo):
[589] Câu chuyện về ngài Dabba Mallaputta
[592] Chỉ định vị phân bố sàng tọa và sắp xếp các bữa ăn
[594] Câu chuyện về các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka
[595] Câu chuyện gia chủ là người có bữa ăn ngon, chuyện tỳ khưu ni Mettiyā
[597] Việc ban cho cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ
[599] Năm sự ban cho đúng Pháp của cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ
3. Hành xử Luật khi không điên cuồng (Amūḷhavinayo):
[600] Câu chuyện về tỳ khưu Gagga
[601] Việc ban cho cách hành xử Luật khi không điên cuồng
[602] Việc ban cho không đúng Pháp của cách hành xử Luật khi không điên cuồng
[605] Việc ban cho đúng Pháp của cách hành xử Luật khi không điên cuồng
4. Việc phán xử theo tội đã được thừa nhận (Paṭiññātakaraṇaṃ):
[608] Câu chuyện về các tỳ khưu nhóm Lục Sư
[609] Sự phán xử theo tội đã được thừa nhận không đúng Pháp
[610] Sự phán xử theo tội đã được thừa nhận đúng Pháp
5. Thuận theo số đông (Yebhuyyasikā):
[611] Chỉ định vị phân phát thẻ
[612] Sự phân phát thẻ không đúng Pháp
[613] Sự phân phát thẻ đúng Pháp
6. Theo tội của vị ấy (Tassapāpiyasikā):
[614] Câu chuyện về tỳ khưu Upavāḷa
[615] Năm sự thực thi đúng Pháp của hành sự theo tội của vị ấy
[616] Hành sự theo tội của vị ấy không đúng Pháp, không đúng Luật
[617] Hành sự theo tội của vị ấy đúng Pháp, đúng Luật
[618] Thực thi hành sự theo tội của vị ấy nếu muốn
[624] Phận sự của vị tỳ khưu thực thi hành sự theo tội của vị ấy
7. Cách dùng cỏ che lấp (Tiṇavatthārakaṃ):
[626] Giải quyết bằng cách dùng cỏ che lấp
[627] Sự sám hối (desanā) theo cách dùng cỏ che lấp
8. Sự tranh tụng:
[632] Câu chuyện về tỳ khưu Channa. Bốn loại tranh tụng
[633] Giảng về bốn loại tranh tụng
[637] Nguyên nhân của sự tranh tụng liên quan đến tranh cãi
[641] Nguyên nhân của sự tranh tụng liên quan đến khiển trách
[648] Nguyên nhân của sự tranh tụng liên quan đến tội
[649] Nguyên nhân của sự tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ
[650] Sự tranh tụng có thể là tốt, có thể là xấu, có thể là không tốt không xấu
[664] Giảng về sự liên quan
9. Chỉ định cách dàn xếp sự tranh tụng:
[672] Sự tranh tụng liên quan đến tranh cãi được lắng dịu bởi hai cách dàn xếp
[675] Chỉ định vị tỳ khưu hội đủ mười điều kiện làm đại biểu
[681] Ba cách phân phát thẻ
[682] Sự tranh tụng liên quan đến khiển trách được lắng dịu bởi bốn cách dàn xếp
[683] Hành xử Luật bằng sự ghi nhớ
[685] Hành xử Luật khi không điên cuồng
[687] Hành xử theo tội của vị ấy
[689] Sự tranh tụng liên quan đến tội được lắng dịu bởi ba cách dàn xếp
[691] Hành xử bằng cách dùng cỏ che lấp
[694] Sự tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ được lắng dịu bởi một cách dàn xếp
[05] CULLAVAGGA II (TIỂU PHẨM 2)
V. CHƯƠNG CÁC TIỂU SỰ (KHUDDAKAVATTHUKKHANDHAKAṂ):
1. Tụng phẩm thứ nhất và thứ nhì:
[1] Câu chuyện về các tỳ khưu nhóm Lục Sư: Trong khi tắm.
[12] Đeo hoa tai. Đeo xâu chuỗi
[13] Việc để tóc dài. Việc chải tóc. v.v…
[15] Việc nhìn nét mặt ở gương soi, v.v… Việc thoa dầu khuôn mặt, v.v…
[19] Việc xem lễ hội. Việc ngâm nga Pháp theo âm điệu ca hát với sự kéo dài-
[21] Thuyết giảng với giọng có âm điệu. Áo choàng có phủ lông ở phía ngoài
[23] Việc thọ dụng xoài. v.v… Năm cách làm cho (trái cây) đúng phép sa-môn.
[26] Chuyện tỳ khưu bị rắn cắn. Kinh Rắn Chúa
[28] Việc cắt bỏ dương vật
[29] Bình bát bằng gỗ đàn hương. Chuyện sáu vị giáo chủ
[31] Câu chuyện trưởng lão Piṇḍolabhāradvāja
[34] Giảng về bình bát. Vòng đế bình bát. Bảo quản và sử dụng bình bát
[55] Việc sử dụng cán dao. Việc may y. Giảng về tấm y mẫu
[70] Cho phép túi đựng thuốc, dây mang vai, túi mang dép
[72] Việc lược nước. Đồ lược nước hai lớp. Lều chống muỗi
[78] Chuyện Jīvaka Komārabhacca. Giảng về đường kinh hành và nhà tắm hơi
[90] Giảng về người không nên được đảnh lễ
[91] Trong nhà tắm hơi
[94] Giếng nước. Hồ nước tắm. Hồ trữ nước
[103] Việc lìa xa tọa cụ. Ngủ ở giường có rãi hoa
[106] Thảm len. Gối kê được rắc dầu thơm. Giá đỡ bình bát
[109] Việc sinh hoạt chung chạ như ăn, uống, ngủ, v.v…
[110] Câu chuyện Vaḍḍha Licchavī liên quan đến ngài Dabba Mallaputta
[112] Việc úp ngược bình bát
[116] Việc mở lại bình bát
[120] Câu chuyện vương tử Bodhi. Việc trải tấm thảm bằng vải
2. Tụng phẩm thứ ba:
[126] Câu chuyện bà Visākhā mẹ của Migāra
[131] Chuyện liên quan đến ô dù
[135] Câu chuyện vị tỳ khưu mang cây gậy và sợi dây
[136] Đồng ý về (việc sử dụng) gậy. Đồng ý về (việc sử dụng) dây
[144] Câu chuyện vị tỳ khưu có tật nhai lại. Nhặt thức ăn bị rơi vãi
[146] Câu chuyện vị tỳ khưu có móng dài. Việc liên quan đến móng (tay chân)
[149] Việc liên quan đến râu tóc
[157] Việc lấy ráy tai
[159] Việc tích trữ đồ vật làm bằng đồng
[160] Thuốc cao. Ngồi ôm đầu gối. Vải băng bó
[163] Việc không buộc dây thắt lưng. Các dây thắt lưng. Khóa thắt lưng
[166] Hột nút, cái nơ buộc
[169] Sử dụng y phục của kẻ tại gia. Túi quàng ở hai vai
[172] Việc nhai gỗ chà răng. Điều lợi ích
[176] Việc đốt đám lửa lớn. Việc tạo nên ngọn lửa nghịch chiều để ngăn lửa
[178] Việc trèo lên cây
[180] Việc chuyển đổi lời dạy của đức Phật sang dạng có niêm luật
[181] Việc giải đoán điềm lành dữ . Kiến thức nhảm nhí. Việc hắt hơi
[187] Việc ăn tỏi
[189] Liên quan đến nhà vệ sinh
[195] Hành động xấu xa của các tỳ khưu nhóm Lục Sư
[196] Quy định về đồ vật bằng kim loại, bằng gỗ, và bằng gốm sứ
[197] Bài kệ tóm lược
[06] VI. CHƯƠNG SÀNG TỌA (SENĀSANAKKHANDHAKAṂ):
1. Tụng phẩm thứ nhất:
[198] Ở thành Rājagaha. Câu chuyện nhà đại phú
[201] Sự dâng cúng trú xá (vihāra). Bài kệ về sự dâng cúng trú xá
[205] Chuyện liên quan đến trú xá: Cánh cửa, Khóa, Mái lợp, Cửa sổ
[208] Cho phép giường nằm. Các loại giường ghế
[218] Liên quan đến gối, nệm, v.v…
[222] Trang hoàng trú xá: Việc sơn màu trắng, đỏ, đen, v.v… Hình ảnh gợi cảm
[227] Việc kiến thiết trú xá: Nền, Lan can để vịn, Màn che, Ba loại phòng, v.v…
[235] Việc xây dựng: Hội trường, Nhà nước uống, Mái che chỗ nước uống, v.v…
[237] Hàng rào của trú xá. Cổng rào của trú xá
[239] Nhà để đốt lửa. Hàng rào của tu viện. Cổng của tu viện. Năm loại mái che
2. Tụng phẩm thứ nhì:
[241] Câu chuyện gia chủ Anāthapiṇḍika: Nghe danh đức Phật
[246] Câu chuyện dạ xoa Sīvaka. Bài kệ của dạ xoa Sīvaka
[250] Thuyết Pháp theo thứ lớp. Pháp nhãn của Anāthapiṇḍika
[255] Thỉnh đức Phật an cư (mùa mưa) ở Sāvatthi. Việc xây dựng Jetavana
[258] Việc xây dựng công trình mới
[260] Chuyện giành chỗ trú xá
[261] Chỗ ngồi tốt nhất. Nước uống tốt nhất. Vật thực tốt nhất
[262] Câu chuyện chim đa đa, khỉ, và voi
[263] Bài kệ về sự kính trọng
[264] Mười hạng không nên được đảnh lễ. Ba hạng nên được đảnh lễ
[267] Các chỗ ngồi cao và rộng đã được sắp xếp bởi gia chủ
[269] Dâng cúng Jetavana. Bài kệ về sự dâng cúng trú xá
[272] Sự bảo đứng dậy khi chưa ăn xong. Sự xâm chiếm chỗ nằm ngồi
[276] Câu chuyện về các tỳ khưu nhóm Mười Bảy Sư. Việc lôi ra khỏi trú xá
[277] Chỉ định vị phân phối sàng tọa. Cách thức phân phối sàng tọa
3. Tụng phẩm thứ ba:
[283] Câu chuyện về tỳ khưu Upananda chiếm giữ hai chỗ trú ngụ
[284] Sự ngợi khen về Luật. Giảng về việc ngồi, ghế ngồi
[291] Xử lý các vật dụng không được phép dùng
[292] Sự phân tán sàng tọa thuộc về hội chúng, năm vật không thể phân tán
[293] Câu chuyện về các tỳ khưu nhóm Assaji và Punabbasuka, năm vật không thể phân chia
[295] Câu chuyện về các tỳ khưu ở Āḷavī. Giảng về việc cho phép công trình mới
[309] Sử dụng đồ đạc của nơi này ở nơi khác. Việc di chuyển vật dụng
[312] Việc trao đổi vật dụng
[314] Vật chùi chân. Việc bước lên chỗ nằm ngồi với chân chưa rửa
[320] Cho phép ống nhổ. Bảo quản nền tường
[325] Các loại bữa ăn dâng đến hội chúng
[326] Chỉ định vị sắp xếp bữa ăn. Cách thức sắp xếp bữa ăn
[329] Chỉ định vị phân bố sàng tọa. Chỉ định vị giữ kho đồ đạc, v.v…
[331] Chỉ định vị phân chia vật linh tinh. Cách thức phân chia vật linh tinh
[334] Chỉ định các công việc khác. Chỉ định vị quản trị các sa di
[336] Bài kệ tóm lược
[07] VII. CHƯƠNG CHIA RẼ HỘI CHÚNG (SAṄGHABHEDAKKHANDHAKAṂ):
1. Tụng phẩm thứ nhất:
[337] Câu chuyện Mahānāma và Anuruddha dòng Sākya, công việc gia đình
[340] Câu chuyện Anuruddha dòng Sākya và đức vua Bhaddiya dòng Sākya
[341] Câu chuyện bảy vị xuất gia
[344] Câu chuyện bốn vị dòng Sākya. Câu chuyện về tỳ khưu Bhaddiya
[347] Bài kệ cảm hứng
[349] Câu chuyện Devadatta và hoàng tử Ajātasattu
[350] Câu chuyện thiên tử Kakudha và ngài Mahāmoggallāna
[352] Giảng về năm hạng đạo sư
[359] Devadatta được lợi lộc. Ví dụ về cây chuối, cây tre, cây sậy, con lừa cái
2. Tụng phẩm thứ nhì:
[361] Devadatta xin cai quản hội chúng tỳ khưu
[362] Hành sự công bố về Devadatta
[366] Câu chuyện hoàng tử Ajātasattu. Sự ra sức giết chết cha
[368] Việc sai người giết bậc Đạo Sư của Devadatta. Sự hóa độ những người ấy
[372] Việc làm Như Lai chảy máu của Devadatta. Giảng về năm hạng đạo sư
[377] Việc thả voi Nāḷāgiri của Devadatta. Voi Nāḷāgiri được thuần phục
[382] Devadatta mất lợi lộc. Devadatta yêu cầu năm sự việc
[387] Devadatta tuyên bố sẽ hành lễ Uposatha (Bố Tát) riêng
[388] Bài kệ cảm hứng
3. Tụng phẩm thứ ba:
[389] Tiến hành chia rẽ hội chúng
[391] Sāriputta và Moggallāna thu phục năm trăm tỳ khưu từ Devadatta
[394] Sự ứa ra máu nóng từ miệng của Devadatta
[396] Câu chuyện về các con long tượng
[398] Tám điều kiện để làm vị sứ giả
[401] Nghiệp quả của tám điều phi Pháp và ba điều phi Pháp của Devadatta
[404] Câu hỏi của trưởng lão Upāli: Sự bất đồng trong hội chúng. Sự chia rẽ hội chúng. Chỉ có tỳ khưu mới chia rẽ hội chúng
[405] Thế nào gọi là hội chúng bị chia rẽ?
[406] Thế nào gọi là hội chúng được hợp nhất?
[407] Nghiệp quả của kẻ chia rẽ hội chúng và của vị làm hợp nhất hội chúng đã bị chia rẽ
[411] Thế nào là kẻ chia rẽ hội chúng phải gánh chịu sự bất hạnh?
[412] Thế nào là kẻ chia rẽ hội chúng không phải gánh chịu sự bất hạnh?
[413] Bài kệ tóm lược
[08] VIII. CHƯƠNG PHẬN SỰ (VATTAKKHANDHAKAṂ):
1. Phận sự của tỳ khưu vãng lai (Āgantuka):
[414] Câu chuyện về các tỳ khưu vãng lai
[415] Phận sự của vị vãng lai
2. Phận sự của tỳ khưu thường trú (Āvāsika):
[416] Câu chuyện về các tỳ khưu thường trú
[417] Phận sự của vị thường trú
3. Phận sự của vị xuất hành (Gamika):
[418] Câu chuyện về các tỳ khưu xuất hành
[419] Phận sự của vị xuất hành
4. Phận sự tùy hỷ:
[420] Cho phép sự tùy hỷ ở chỗ thọ thực
[421] Các câu chuyện xảy ra ở chỗ thọ thực
5. Phận sự ở chỗ thọ thực:
[424] Câu chuyện về các tỳ khưu nhóm Lục Sư
[425] Phận sự khi đi đến chỗ thọ thực, lúc thọ thực, và khi đi về lại tu viện
6. Phận sự của vị đi khất thực:
[426] Câu chuyện về vị tỳ khưu đi khất thực
[427] Phận sự của vị đi khất thực
7. Phận sự của vị ngụ ở rừng:
[428] Câu chuyện về vị tỳ khưu ở rừng
[429] Phận sự của vị ngụ ở rừng
8. Phận sự ở nơi cư ngụ:
[430] Câu chuyện về các tỳ khưu nhóm Lục Sư
[431] Phận sự ở nơi cư ngụ
9. Phận sự ở nhà tắm:
[432] Câu chuyện về các tỳ khưu nhóm Lục Sư
[433] Phận sự ở nhà tắm
10. Phận sự ở nhà vệ sinh:
[434] Câu chuyện về vị tỳ khưu dòng dõi bà-la-môn
[435] Vào nhà vệ sinh theo thứ tự đi đến
[436] Câu chuyện về các tỳ khưu nhóm Lục Sư
[437] Phận sự ở nhà vệ sinh
11. Phận sự đối với thầy tế độ:
[438] Câu chuyện về các vị đệ tử (saddhivihārika)
[439] Phận sự đối với thầy tế độ
12. Phận sự đối với đệ tử:
[440] Câu chuyện về các thầy tế độ
[441] Phận sự đối với vị đệ tử
13. Phận sự đối với thầy dạy học:
[442] Câu chuyện về các học trò (antevāsika)
[443] Phận sự đối với thầy dạy học
14. Phận sự đối với học trò:
[444] Câu chuyện về các thầy dạy học
[445] Phận sự đối với học trò
[446] Bài kệ tóm lược
[09] IX. CHƯƠNG ĐÌNH CHỈ GIỚI BỔNPĀTIMOKKHA (PĀTIMOKKHAṬṬHAPANAKKHANDHAKAṂ):
1. Tụng phẩm thứ nhất:
[447] Câu chuyện trưởng lão Ānanda thỉnh đức Thế Tôn tuyên đọc giới bổn
[449] Tám pháp kỳ diệu phi thường trong biển cả
[457] Tám pháp kỳ diệu phi thường trong Pháp và Luật
[466] Sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha của vị phạm tội
[467] Câu chuyện về các tỳ khưu nhóm Lục Sư
[468] Các tiêu đề của sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha
[469] Giảng giải và phân tích các tiêu đề của sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha
[489] Giảng về sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha đúng Pháp
2. Tụng phẩm thứ nhì:
[499] Các câu hỏi của Upāli: Áp dụng sự hành xử
[500] Nên quán xét bản thân bao nhiêu pháp trước khi khiển trách vị khác?
[506] Sự ân hận của vị khiển trách không đúng Pháp
[507] Sự không ân hận của vị bị khiển trách không đúng Pháp
[508] Sự không ân hận của vị khiển trách đúng Pháp
[509] Sự ân hận của vị bị khiển trách đúng Pháp
[510] Nên tác ý nội tâm bao nhiêu pháp trước khi khiển trách vị khác?
[511] Vị tỳ khưu bị khiển trách nên an trú bao nhiêu pháp?
[512] Bài kệ tóm lược
[10] X. CHƯƠNG TỲ KHƯU NI (BHIKKHUNĪKHANDHAKAṂ):
1. Tụng phẩm thứ nhất:
[513] Câu chuyện bà Mahāpajāpati Gotamī cầu xin việc xuất gia
[515] Câu chuyện trưởng lão Ānanda cầu xin việc xuất gia cho phụ nữ
[516] Tám Trọng Pháp
[518] Giảng về sự tồn tại không lâu dài của Phạm hạnh
[519] Sự tu lên bậc trên của các tỳ khưu ni
[521] Câu chuyện bà Mahāpajāpati Gotamī cầu xin đặc ân
[523] Giảng về các đặc điểm để xác định Pháp và Luật
[524] Việc đọc tụng giới bổn Pātimokkha cho các tỳ khưu ni
[526] Sự sám hối tội. Sự ghi nhận tội. Sự thực thi hành sự cho các tỳ khưu ni
[532] Câu chuyện về tỳ khưu ni đệ tử của trưởng lão ni Uppalavaṇṇā
2. Tụng phẩm thứ nhì:
[533] Câu chuyện về các tỳ khưu nhóm Lục Sư: Việc không cần đảnh lễ
[534] Câu chuyện về các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư: Cho phép đình chỉ việc giáo giới
[537] Giảng giải về sự đình chỉ việc giáo giới
[553] Các câu chuyện về tỳ khưu ni: Việc mang dây buộc thân loại dài
[556] Việc thoa dầu ở mặt, v.v… Việc mặc y toàn màu xanh đậm, v.v…
[559] Câu chuyện vị tỳ khưu ni lâm chung
[561] Câu chuyện người đàn bà ngoại tình và việc mang đi bào thai bằng bình bát
[563] Việc nhìn chăm chú vào vật biểu tượng nam tánh
[564] Sự san sẻ vật thực
[571] Sự cho phép về các vật dụng dành riêng cho người nữ: y nội trợ, v.v…
3. Tụng phẩm thứ ba:
[573] Hai mươi bốn pháp chướng ngại
[574] Sự cho phép người nữ được tu lên bậc trên ở hội chúng tỳ khưu ni trước rồi ở hội chúng tỳ khưu sau.
[575] Chỉ định vị giảng giải: Chỉ định cho chính mình. Chỉ định cho người khác
[578] Sự tu lên bậc trên ở hội chúng tỳ khưu ni
[579] Sự tu lên bậc trên ở hội chúng tỳ khưu
[581] Sự chỉ dạy
[582] Quy định chỗ ngồi
[584] Giảng về lễ Pavāraṇā (Tự Tứ) ở hai hội chúng
[590] Việc cấm tỳ khưu ni đình chỉ lễ Uposatha (Bố Tát), v.v… của tỳ khưu
[591] Việc cho phép tỳ khưu đình chỉ lễ Uposatha, v.v… của tỳ khưu ni
[592] Vịệc di chuyển bằng xe, v.v…
[595] Sự tu lên bậc trên thông qua người đại diện: Câu chuyện Aḍḍhakāsī
[597] Tỳ khưu ni không nên cư ngụ ở trong rừng. Chỗ ở của tỳ khưu ni
[599] Chỉ định vị cộng sự với tỳ khưu ni có con trai
[600] Chỉ định vị cộng sự với tỳ khưu ni là vị đang thực hành mānatta
[601] Không có việc từ bỏ học giới đối với tỳ khưu ni
[602] Cô ni sinh hoạt trong khu vực của ngoại đạo
[604] Không được ngồi thế kiết già
[607] Bột phấn thoa. Việc tắm, v.v…
[613] Bài kệ tóm lược
[11] XI. CHƯƠNG LIÊN QUAN NĂM TRĂM VỊ (PĀÑCASATIKAKKHANDHAKAṂ):
[614] Nguyên nhân của cuộc kết tập lần thứ nhất: Câu chuyện trưởng lão Mahākassapa và Subhadda
[615] Chỉ định năm trăm tỳ khưu
[616] Việc sửa chữa những nơi bị hư hỏng
[617] Quả vị A-la-hán của trưởng lão Ānanda
[618] Kết tập về điều học Pārājika: Sự trả lời về Luật của trưởng lão Upāli
[619] Kết tập về kinh Brahmajāla (Phạm Võng), v.v… Sự trả lời về Pháp của trưởng lão Ānanda
[620] Giảng về các điều học nhỏ nhặt và ít quan trọng
[621] Sự quyết định không thêm vào và không bỏ bớt
[622] Giảng về các tội dukkaṭa (tác ác) của đại đức Ānanda
[623] Câu chuyện trưởng lão Purāṇa
[624] Việc áp đặt hình phạt Phạm Thiên (Brahmadaṇḍa) cho tỳ khưu Channa
[625] Câu chuyện vua Udena: Sự dâng cúng năm trăm thượng y
[627] Trưởng lão Channa thể nhập trạng thái A-la-hán
[629] Bài kệ tóm lược
[12] XII. CHƯƠNG LIÊN QUAN BẢY TRĂM VỊ (SATTASATIKKHANDHAKAṂ):
1. Tụng phẩm thứ nhất:
[630] Câu chuyện về các tỳ khưu dòng dõi Vajji: Việc truyền bá mười sự việc
[631] Câu chuyện về các tỳ khưu dòng dõi Vajji và trưởng lão Yasa
[634] Bốn vật làm ô nhiễm đối với mặt trăng và mặt trời. Bốn điều làm ô nhiễm đối với sa-môn và bà-la-môn
[637] Câu chuyện thôn trưởng Maṇicūḷaka
[638] Câu chuyện Upananda dòng dõi Sākya
[639] Trở lại câu chuyện về các tỳ khưu dòng dõi Vajji và trưởng lão Yasa
[640] Câu chuyện về trưởng lão Sambhūta Sāṇavāsī. Câu chuyện về các tỳ khưu ở Pāvā
[641] Câu chuyện về trưởng lão Revata
[642] Sự hỏi và trả lời mười sự việc
2. Tụng phẩm thứ nhì:
[643] Các tỳ khưu Vajji chuẩn bị vật dụng để mua chuộc trưởng lão Revata
[644] Tư tưởng suy tầm của trưởng lão Sāḷha
[645] Câu chuyện về trưởng lão Uttara, thị giả của trưởng lão Revata
[646] Việc mong muốn dàn xếp sự tranh tụng của hội chúng
[647] Câu chuyện về trưởng lão của hội chúng: Sabbakāmī
[648] Câu hỏi của trưởng lão Sambhūta Sāṇavāsī
[649] Giải quyết sự tranh tụng bằng đại biểu: Chỉ định các tỳ khưu
[650] Câu chuyện về trưởng lão Ajita, chọn địa điểm kết tập
[651] Giải quyết mười sự việc
[663] Cuộc kết tập về Luật liên quan đến bảy trăm vị
[664] Bài kệ tóm lược
PHẦN GIỚI THIỆU
*****
Cullavagga (Tiểu Phẩm) là phần thứ nhì của bộ Khandhaka (Hợp Phần) thuộc Vinayapiṭaka (Tạng Luật). Cũng tương tợ như Mahāvagga (Đại Phẩm), Cullavagga (Tiểu Phẩm) gồm các vấn đề có liên quan đã được sắp xếp thành từng chương, cụ thể gồm có 12 chương:
1. Chương đầu là chương Hành Sự đề cập đến bảy loại hành sự nhằm mục đích nhắc nhở và cảnh tỉnh vị tỳ khưu có những hành vi không đúng với Pháp không đúng với Luật hầu tạo điều kiện cho vị ấy có cơ hội phục thiện và sửa đổi. Bảy hành sự ấy là hành sự khiển trách, hành sự chỉ dạy, hành sự xua đuổi, hành sự hòa giải, và 3 loại hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội, trong việc không sửa chữa lỗi, và trong việc không từ bỏ tà kiến ác.
2. Chương 2 giảng giải về cách thức phục hồi cho vị tỳ khưu phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) từ lúc khởi đầu cho đến khi kết thúc trải qua các giai đoạn parivāsa, mānatta, mūlāya paṭikassanaṃ nếu vi phạm lại tội ấy hoặc tội tương tợ trong thời gian thực thi hành phạt, và cuối cùng là phần giải tội abbhāna để phục hồi phẩm vị trước đây cho vị tỳ khưu phạm tội.
3. Chương 3 giảng giải về các trường hợp đặc biệt của vị tỳ khưu trong khi đang thực thi các hành phạt để thoát khỏi tội saṅghādisesa lại tiếp tục vi phạm tội ấy nữa hoặc các tội tương tợ cùng nhóm.
4. Chương 4 giảng giải về bảy cách dàn xếp là cách hành xử Luật với sự hiện diện, hành xử Luật bằng sự ghi nhớ, hành xử Luật khi không điên cuồng, việc phán xử theo tội đã được thừa nhận, thuận theo số đông, theo tội của vị ấy, cách dùng cỏ che lấp đối với bốn loại tranh tụng là sự tranh tụng là liên quan đến tranh cãi, sự tranh tụng liên quan đến khiển trách, sự tranh tụng liên quan đến tội, và sự tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ.
5. Chương 5 là chương các Tiểu Sự đề cập đến nhiều vấn đề có liên quan đến sự sinh hoạt hàng ngày của vị tỳ khưu về nhiều khía cạnh khác nhau như cách phục sức, thuyết Pháp, các vật dụng, v.v…
6. Chương 6 là chương Sàng Tọa thuật lại việc dâng cúng 60 trú xá đầu tiên của một nhà đại phú ở thành Rājagaha cho đến sự cúng dường một tu viện hoàn chỉnh của ông Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Độc) và các vấn đề liên quan như việc xây dựng, cách thức sử dụng, và các sự phân công trong việc quản lý tu viện.
7. Chương thứ 7 là chương Chia Rẽ Hội Chúng bắt đầu với câu chuyện dài giới thiệu sự sinh hoạt trong một gia đình tiêu biểu của dòng họ Sākya (Thích Ca) tiếp đến sự xuất gia của sáu thanh niên thuộc dòng họ này trong đó có Devadatta về sau là người khởi xướng và tiến hành việc chia rẽ hội chúng. Chương này được kết thúc với những câu hỏi của trưởng lão Upāli để xác định những điểm khác biệt giữa sự bất đồng trong hội chúng là việc thường xảy ra trong tập thể và sự chia rẽ hội chúng là việc có tính chất nghiêm trọng. Nghiệp quả xấu dành cho kẻ chia rẽ hội chúng và phước báu của vị làm hợp nhất hội chúng đã bị chia rẽ cũng được đề cập đến ở chương này.
8. Chương thứ 8 giảng giải về 14 phận sự trong đời sống xuất gia. Cuộc sống của vị tỳ khưu được mô tả đầy đủ trong chương này bắt đầu với phận sự của vị tỳ khưu vãng lai, thường trú, hoặc chuẩn bị ra đi, luôn cả phận sự của vị tỳ khưu đối với chỗ trú ngụ ở trong rừng hoặc ở trong tu viện. Các phận sự thường nhật như đi khất thực, phận sự ở nhà ăn, tùy hỷ phước báu của thí chủ, việc sử dụng nhà tắm, nhà vệ sinh đều được mô tả chi tiết. Ngoài ra còn quy định các phận sự tương tác giữa thầy tế độ và thầy dạy học đối với các đệ tử hoặc học trò có liên hệ nữa. Cuộc sống chung có được tốt đẹp hay không chính là do sự nhận thức và thực hành các phận sự này của hàng xuất gia điển hình là các vị tỳ khưu.
9. Chương thứ 9 là chương Đình Chỉ Giới Bổn Pātimokkha, trình bày nguyên do việc đức Thế Tôn đã thuyết giảng về tám pháp kỳ diệu phi thường trong biển cả để so sánh với tính chất đặc biệt của Pháp và Luật mà Ngài đã tuyên thuyết, đồng thời có liên quan đến việc giao phó trách nhiệm đọc tụng giới bổn Pātimokkha cho các tỳ khưu kể từ thời điểm ấy trở đi. Phương thức đình chỉ giới bổn Pātimokkha nhằm để bảo vệ sự trong sạch của hội chúng bằng cách loại ra những tỳ khưu phạm tội nhưng vẫn che giấu hoặc tỏ ra không hay biết. Đặc biệt chương này còn đề cập đến nhiều chi tiết tế nhị trong việc khiển trách tội của vị tỳ khưu nguyên cáo và thái độ thích hợp của vị tỳ khưu bị cáo hầu giữ được hòa khí của hai bên.
10. Chương thứ 10 đề cập việc xuất gia của tỳ khưu ni với đầy đủ chi tiết bắt đầu với việc cầu xin xuất gia của bà Mahāpajāpati Gotamī sau đó đã được tu lên bậc trên do sự chấp thuận tám Trọng Pháp, kế đến là năm trăm công nương dòng Sākya được xuất gia với hội chúng tỳ khưu, tiếp nữa là tiến trình tu lên bậc trên với cả hai hội chúng: với hội chúng tỳ khưu ni trước rồi với hội chúng tỳ khưu sau. Trong trường hợp đặc biệt, hành sự tu lên bậc trên ở hội chúng tỳ khưu có thể được tiến hành với sự hiện diện của vị tỳ khưu ni là người đại diện. Ngoài ra, một số vấn đề nảy sinh có tính cách cá biệt của phái nữ cũng được kết tập ở chương này. Nghiên cứu kỹ lưỡng về chương này có thể nắm được nét chung về sự sinh hoạt của tỳ khưu ni vào thời bấy giờ.
11. Chương thứ 11 nói về cuộc kết tập Tam Tạng lần thứ nhất ở Ấn Độ. Ngoài những sử liệu liên quan đến công việc kết tập lời dạy của đức Phật gồm có phần duyên khởi, việc chuẩn bị và tiến hành, chương này còn đề cập đến lời tuyên bố của đại đức Purāṇa về việc vị ấy chỉ ghi nhận những lời dạy do chính bản thân đã được nghe trực tiếp từ kim khẩu của đức Thế Tôn, về việc các vị trưởng lão quyết định không thêm vào và không bỏ bớt bất cứ điều học nào, sự tuân thủ của đại đức Ānanda đối với các bậc trưởng lão, và cách thức áp dụng hình phạt Brahma (Phạm đàn).
12. Chương thứ 12 nói về lần kết tập Tam Tạng lần thứ nhì ở Ấn Độ với phần duyên khởi ở Vesālī vào khoảng 100 năm sau khi đức Phật Vô Dư Niết Bàn. Các chi tiết về tiến trình vận động của cả hai phe trong cuộc tranh tụng này giúp cho độc giả biết được vài nét khái quát trong đời sống sinh hoạt tinh thần vào thời bấy giờ. Đây là sự kiện chia phe nhóm thứ hai sau lần ở Kosambī được ghi chép lại, tiếc rằng sử liệu này dừng ở thời điểm kết thúc của lần kết tập này mà không tiết lộ thêm chi tiết nào về sự phân chia tông phái về sau này.
*
Chúng tôi khởi đầu việc nghiên cứu phần Pāli văn của Tam Tạng với tập Cullavagga (Tiểu Phẩm) do nhu cầu tìm tòi tư liệu dẫn chứng về sự hình thành tu viện thời đức Phật. Chúng tôi chợt nảy ra ý kiến ghi lại bằng tiếng Việt ngõ hầu giúp cho độc giả người Việt có cơ hội biết thêm về những lời dạy cao quý của đức Phật trong những trang sách còn được khép lại. Việc này đã đem lại cho chúng tôi niềm hoan hỷ khi nghĩ rằng việc học tập của bản thân có thể đem lại phần nào lợi ích cho người khác. Phần lời Việt được hoàn tất trong thời gian khoảng gần hai tháng. Thời gian đó quá ngắn đối với số lượng công việc quá lớn lao trong lúc vừa phải đọc sách tham khảo, tra cứu từ điển, và thực hiện việc ghi lại bằng máy vi tính. Lời văn tiếng Việt được chúng tôi sử dụng rất gần với cấu trúc của câu văn Pāli nhằm làm nổi bật cấu trúc văn phạm của loại ngôn ngữ này theo phong cách cổ điển đã được đa số các nhà học giả phương Tây áp dụng. Điều này sẽ thuận tiện cho việc hiệu đính về sau và có thể hữu ích cho các độc giả đang nghiên cứu lời dạy của Đức Phật dựa vào văn bản gốc.
Do những vấn đề đã trình bày ở trên, chúng tôi mong mỏi sẽ nhận được những lời chỉ dạy của các bậc cao minh và các sự khuyến khích góp ý của quý độc giả. Tuy đã nỗ lực kiểm tra lại nhiều lần nhưng chúng tôi biết rằng bản dịch này vẫn còn nhiều sai sót, xin quý độc giả đánh dấu cho những điểm cần sửa chữa và tùy duyên chuyển đến chúng tôi qua địa chỉ email: dinda@u.washington.edu để chúng tôi dễ dàng trong việc hiệu đính hầu đem lại lợi ích thiết thực chung cho tất cả. Xin thành tâm cảm tạ.
Bản dịch của chúng tôi được thực hiện và trình bày theo văn bản Pāli La tinh từ Compact Disk BUDSIR IV của trường đại học Mahidol ở thủ đô Bangkok, Thái Lan. Phần mục lục chúng tôi thực hiện theo các chữ số đánh dấu ở đầu mỗi vấn đề; trình bày theo cách này sẽ giúp quý vị tiết kiệm được thời gian trong việc xác định vấn đề cần tham khảo.
Xin chân thành ghi nhận công đức của Thượng Toạ Tiến Sĩ Bửu Chánh về CD Tam Tạng BUDSIR IV, Ven. Bodhinando (Canada), Đại Đức Hộ Phạm, Đại Đức Giác Hạnh, và Đại Đức Tâm An về CD Tam Tạng Chattha Saṅgāyana và các bản dịch Anh ngữ cũng như những sự động viên và ý kiến đóng góp trong thời gian chúng tôi thực hiện bản dịch này.
Công đức này xin dâng đến Hòa Thượng trụ trì và chư Tăng chùa Sri Jayawardhanaramaya, Colombo, Tích Lan đã bảo bọc và tạo điều kiện thuận lợi cho chúng tôi trong công việc học tập và nghiên cứu Phật Pháp trong thời gian qua.
Mong sao hết thảy chúng sanh đều được tiến hóa trong ánh hào quang của Chánh Pháp.
Colombo, ngày 15 tháng 09 năm 2003
Bhikkhu Indacanda(Trương đình Dũng)
(Hiệu đính lần thứ nhất hoàn tất ngày 30/07/2004)
I. CHƯƠNG HÀNH SỰ
(KAMMAKKHANDHAKAṂ)
1. HÀNH SỰ KHIỂN TRÁCH (TAJJANĪYAKAMMAṂ):
[1] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi (Xá Vệ), Jetavana (Kỳ Viên, tu viện của ông Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Độc). Chính vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Paṇḍuka và Lohitaka, [1] bản thân vốn là những vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng, lại còn đi đến gặp các tỳ khưu khác cũng là những vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng, rồi nói như vầy:
– Này các đại đức, các ngài đừng để vị ấy đánh bại. Các ngài hãy mạnh dạn và lớn tiếng phản bác lại. Các ngài trí tuệ hơn, kinh nghiệm hơn, học rộng hơn, và nổi bật hơn vị đó. Chớ có sợ vị đó. Chúng tôi sẽ về phe với các ngài mà.
Chính vì thế mà những sự xung đột chưa sanh đã sanh khởi và những sự xung đột đã sanh càng phát triển nhiều hơn nữa.
Các tỳ khưu ít ham muốn, tự biết đủ, khiêm tốn, có hối hận, ưa thích sự học tập, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Vì sao các tỳ khưu nhóm Paṇḍuka và Lohitaka, bản thân vốn là những vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng, lại còn đi đến gặp các tỳ khưu khác cũng là những vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng, rồi nói như vầy: “Này các đại đức, các ngài đừng để vị ấy đánh bại. Các ngài hãy mạnh dạn và lớn tiếng phản bác lại. Các ngài trí tuệ hơn, kinh nghiệm hơn, học rộng hơn, và nổi bật hơn vị đó. Chớ có sợ vị đó. Chúng tôi sẽ về phe với các ngài mà;” chính vì thế mà những sự xung đột chưa sanh đã sanh khởi và những sự xung đột đã sanh càng phát triển nhiều hơn nữa?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
[2] Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội chúng tỳ khưu lại và hỏi các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu nhóm Paṇḍuka và Lohitaka, bản thân vốn là những vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng, lại còn đi đến gặp các tỳ khưu khác cũng là những vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng, rồi nói như vầy: “Này các đại đức, các ngài đừng để vị ấy đánh bại. Các ngài hãy mạnh dạn và lớn tiếng phản bác lại. Các ngài trí tuệ hơn, kinh nghiệm hơn, học rộng hơn, và nổi bật hơn vị đó. Chớ có sợ vị đó. Chúng tôi sẽ về phe với các ngài mà;” chính vì thế mà những sự xung đột chưa sanh đã sanh khởi và những sự xung đột đã sanh càng phát triển nhiều hơn nữa, có đúng không vậy?
– Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
– Này các tỳ khưu, thật không đúng đắn cho những kẻ rồ dại ấy, thật không hợp lẽ, không tốt đẹp, không xứng pháp sa-môn, không được phép, không nên làm. Này các tỳ khưu, vì sao những kẻ rồ dại ấy bản thân vốn là những kẻ thường gây nên các sự xung đột, …(như trên)…, và tranh tụng trong hội chúng lại còn đi đến gặp các tỳ khưu khác cũng là những kẻ thường gây nên các sự xung đột, …(như trên)…, và tranh tụng trong hội chúng, rồi nói như vầy: “Này các đại đức, các ngài đừng để vị ấy đánh bại. Các ngài hãy mạnh dạn và lớn tiếng phản bác lại. Các ngài trí tuệ hơn, kinh nghiệm hơn, học rộng hơn, và nổi bật hơn vị đó. Chớ có sợ vị đó. Chúng tôi sẽ về phe với các ngài mà;” chính vì thế mà những sự xung đột chưa sanh đã sanh khởi và những sự xung đột đã sanh càng phát triển nhiều hơn nữa? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. Này các tỳ khưu, hơn nữa chính sự việc này đem lại sự không có niềm tin ở những kẻ chưa có đức tin và làm thay đổi (niềm tin) của một số người đã có đức tin.
[3] Sau đó, đức Thế Tôn đã khiển trách các tỳ khưu nhóm Paṇḍuka và Lohitaka bằng nhiều phương thức. Ngài đã chê trách về sự khó khăn trong việc cấp dưỡng, sự khó khăn trong việc ăn uống, sự tầm cầu quá nhiều, sự không biết đủ, sự kết phe nhóm, sự biếng nhác; và bằng nhiều phương thức ngài đã ngợi khen về sự dễ dàng trong việc cấp dưỡng, sự dễ dàng trong việc ăn uống, sự ít tầm cầu, sự biết đủ, sự từ khước, sự tiết chế, sự thân thiện, sự không gom góp, sự ra sức nỗ lực. Ngài đã thuyết Pháp thoại thích đáng và phù hợp cho các tỳ khưu rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, chính vì điều ấy hội chúng hãy thực thi hành sự khiển trách đối với các tỳ khưu nhóm Paṇḍuka và Lohitaka. Và này các tỳ khưu, nên thực thi như vầy: Trước hết, các tỳ khưu Paṇḍuka và Lohitaka cần được quở trách; sau khi quở trách cần được nhắc nhở; sau khi nhắc nhở cần xác định tội; sau khi xác định tội, hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Các tỳ khưu nhóm Paṇḍuka và Lohitaka này, bản thân vốn là những vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng, lại còn đi đến gặp các tỳ khưu khác cũng là những vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng, rồi nói như vầy: ‘Này các đại đức, các ngài đừng để vị ấy đánh bại. Các ngài hãy mạnh dạn và lớn tiếng phản bác lại. Các ngài trí tuệ hơn, kinh nghiệm hơn, học rộng hơn, và nổi bật hơn vị đó. Chớ có sợ vị đó. Chúng tôi sẽ về phe với các ngài mà;’ chính vì thế mà những sự xung đột chưa sanh đã sanh khởi và những sự xung đột đã sanh càng phát triển nhiều hơn nữa. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên thực thi hành sự khiển trách đối với các tỳ khưu nhóm Paṇḍuka và Lohitaka. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Các tỳ khưu nhóm Paṇḍuka và Lohitaka này, bản thân vốn là những vị thường gây nên các sự xung đột, …(như trên)…, và tranh tụng trong hội chúng, lại còn đi đến gặp các tỳ khưu khác cũng là những vị thường gây nên các sự xung đột, …(như trên)…, và tranh tụng trong hội chúng, rồi nói như vầy: ‘Này các đại đức, các ngài đừng để vị ấy đánh bại. Các ngài hãy mạnh dạn và lớn tiếng phản bác lại. Các ngài trí tuệ hơn, kinh nghiệm hơn, học rộng hơn, và nổi bật hơn vị đó. Chớ có sợ vị đó. Chúng tôi sẽ về phe với các ngài mà;’ chính vì thế mà những sự xung đột chưa sanh đã sanh khởi và những sự xung đột đã sanh càng phát triển nhiều hơn nữa. Hội chúng thực thi hành sự khiển trách đối với các tỳ khưu nhóm Paṇḍuka và Lohitaka. Đại đức nào đồng ý việc thực thi hành sự khiển trách đối với các tỳ khưu nhóm Paṇḍuka và Lohitaka xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Các tỳ khưu nhóm Paṇḍuka và Lohitaka này, bản thân vốn là những vị thường gây nên các sự xung đột, …(như trên)…, và tranh tụng trong hội chúng, lại còn đi đến gặp các tỳ khưu khác cũng là những vị thường gây nên các sự xung đột, …(như trên)…, và tranh tụng trong hội chúng, rồi nói như vầy: ‘Này các đại đức, các ngài đừng để vị ấy đánh bại. Các ngài hãy mạnh dạn và lớn tiếng phản bác lại. Các ngài trí tuệ hơn, kinh nghiệm hơn, học rộng hơn, và nổi bật hơn vị đó. Chớ có sợ vị đó. Chúng tôi sẽ về phe với các ngài mà;’ chính vì thế mà những sự xung đột chưa sanh đã sanh khởi và những sự xung đột đã sanh càng phát triển nhiều hơn nữa. Hội chúng thực thi hành sự khiển trách đối với các tỳ khưu nhóm Paṇḍuka và Lohitaka. Đại đức nào đồng ý việc thực thi hành sự khiển trách đối với các tỳ khưu nhóm Paṇḍuka và Lohitaka xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Các tỳ khưu nhóm Paṇḍuka và Lohitaka này, bản thân vốn là những vị thường gây nên các sự xung đột, …(như trên)…, và tranh tụng trong hội chúng, lại còn đi đến gặp các tỳ khưu khác cũng là những vị thường gây nên các sự xung đột, …(như trên)…, và tranh tụng trong hội chúng, rồi nói như vầy: ‘Này các đại đức, các ngài đừng để vị ấy đánh bại. Các ngài hãy mạnh dạn và lớn tiếng phản bác lại. Các ngài trí tuệ hơn, kinh nghiệm hơn, học rộng hơn, và nổi bật hơn vị đó. Chớ có sợ vị đó. Chúng tôi sẽ về phe với các ngài mà;’ chính vì thế mà những sự xung đột chưa sanh đã sanh khởi và những sự xung đột đã sanh càng phát triển nhiều hơn nữa. Hội chúng thực thi hành sự khiển trách đối với các tỳ khưu nhóm Paṇḍuka và Lohitaka. Đại đức nào đồng ý việc thực thi hành sự khiển trách đối với các tỳ khưu nhóm Paṇḍuka và Lohitaka xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Hành sự khiển trách đối với các tỳ khưu nhóm Paṇḍuka và Lohitaka đã được hội chúng thực thi. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
[4] Này các tỳ khưu, hành sự khiển trách là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất khi hội đủ ba điều kiện: Được thực thi thiếu sự hiện diện,[2] được thực thi thiếu sự tra hỏi, được thực thi với sự không thừa nhận (appaṭiññāya kataṃ). Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này hành sự khiển trách là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất.
[5] Này các tỳ khưu, hành sự khiển trách là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất khi hội đủ ba điều kiện khác nữa: Được thực thi với tội không vi phạm, được thực thi với tội vi phạm đưa đến việc không sám hối được,[3] được thực thi với tội đã được sám hối. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này hành sự khiển trách là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất.
[6] Này các tỳ khưu, hành sự khiển trách là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất khi hội đủ ba điều kiện khác nữa: Được thực thi khi chưa quở trách, được thực thi khi chưa nhắc nhở, được thực thi khi chưa xác định tội. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này hành sự khiển trách là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất.
[7] Này các tỳ khưu, hành sự khiển trách là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất khi hội đủ ba điều kiện khác nữa: Được thực thi thiếu sự hiện diện, được thực thi không theo Pháp, được thực thi bởi phe nhóm. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này hành sự khiển trách là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất.
[8] Này các tỳ khưu, hành sự khiển trách là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất khi hội đủ ba điều kiện khác nữa: Được thực thi thiếu sự tra hỏi, được thực thi không theo Pháp, được thực thi bởi phe nhóm. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này hành sự khiển trách là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất.
[9] Này các tỳ khưu, hành sự khiển trách là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất khi hội đủ ba điều kiện khác nữa: Được thực thi với sự không thừa nhận, được thực thi không theo Pháp, được thực thi bởi phe nhóm. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này hành sự khiển trách là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất.
[10] Này các tỳ khưu, hành sự khiển trách là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất khi hội đủ ba điều kiện khác nữa: Được thực thi với tội không vi phạm, được thực thi không theo Pháp, được thực thi bởi phe nhóm. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này hành sự khiển trách là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất.
[11] Này các tỳ khưu, hành sự khiển trách là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất khi hội đủ ba điều kiện khác nữa: Được thực thi với tội vi phạm đưa đến việc không sám hối được, được thực thi không theo Pháp, được thực thi bởi phe nhóm. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này hành sự khiển trách là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất.
[12] Này các tỳ khưu, hành sự khiển trách là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất khi hội đủ ba điều kiện khác nữa: Được thực thi với tội đã được sám hối, được thực thi không theo Pháp, được thực thi bởi phe nhóm. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này hành sự khiển trách là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất.
[13] Này các tỳ khưu, hành sự khiển trách là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất khi hội đủ ba điều kiện khác nữa: Được thực thi khi chưa quở trách, được thực thi không theo Pháp, được thực thi bởi phe nhóm. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này hành sự khiển trách là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất.
[14] Này các tỳ khưu, hành sự khiển trách là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất khi hội đủ ba điều kiện khác nữa: Được thực thi khi chưa nhắc nhở, được thực thi không theo Pháp, được thực thi bởi phe nhóm. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này hành sự khiển trách là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất.
[15] Này các tỳ khưu, hành sự khiển trách là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất khi hội đủ ba điều kiện khác nữa: Được thực thi khi chưa xác định tội, được thực thi không theo Pháp, được thực thi bởi phe nhóm. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này hành sự khiển trách là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất.
Dứt mười hai trường hợp về hành sự không đúng Pháp.
[16] Này các tỳ khưu, hành sự khiển trách là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, được hoàn tất tốt đẹp khi hội đủ ba điều kiện: Được thực thi với sự hiện diện, được thực thi từ sự tra hỏi, được thực thi do sự thừa nhận (paṭiññāya kataṃ). Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này hành sự khiển trách là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, được hoàn tất tốt đẹp.
[17] Này các tỳ khưu, hành sự khiển trách là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, được hoàn tất tốt đẹp khi hội đủ ba điều kiện khác nữa: Được thực thi với tội vi phạm, được thực thi với tội vi phạm đưa đến việc sám hối được, được thực thi với tội chưa được sám hối. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này hành sự khiển trách là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, được hoàn tất tốt đẹp.
[18] Này các tỳ khưu, hành sự khiển trách là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, được hoàn tất tốt đẹp khi hội đủ ba điều kiện khác nữa: Được thực thi sau khi đã quở trách, được thực thi sau khi đã nhắc nhở, được thực thi sau khi đã xác định tội. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này hành sự khiển trách là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, được hoàn tất tốt đẹp.
[19] Này các tỳ khưu, hành sự khiển trách là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, được hoàn tất tốt đẹp khi hội đủ ba điều kiện khác nữa: Được thực thi với sự hiện diện, được thực thi đúng theo Pháp, được thực thi với sự hợp nhất. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này hành sự khiển trách là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, được hoàn tất tốt đẹp.
[20] Này các tỳ khưu, hành sự khiển trách là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, được hoàn tất tốt đẹp khi hội đủ ba điều kiện khác nữa: Được thực thi từ sự tra hỏi, được thực thi đúng theo Pháp, được thực thi với sự hợp nhất. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này hành sự khiển trách là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, được hoàn tất tốt đẹp.
[21] Này các tỳ khưu, hành sự khiển trách là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, được hoàn tất tốt đẹp khi hội đủ ba điều kiện khác nữa: Được thực thi do sự thừa nhận, được thực thi đúng theo Pháp, được thực thi với sự hợp nhất. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này hành sự khiển trách là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, được hoàn tất tốt đẹp.
[22] Này các tỳ khưu, hành sự khiển trách là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, được hoàn tất tốt đẹp khi hội đủ ba điều kiện khác nữa: Được thực thi với tội vi phạm, được thực thi đúng theo Pháp, được thực thi với sự hợp nhất. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này hành sự khiển trách là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, được hoàn tất tốt đẹp.
[23] Này các tỳ khưu, hành sự khiển trách là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, được hoàn tất tốt đẹp khi hội đủ ba điều kiện khác nữa: Được thực thi với tội vi phạm đưa đến việc sám hối được, được thực thi đúng theo Pháp, được thực thi với sự hợp nhất. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này hành sự khiển trách là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, được hoàn tất tốt đẹp.
[24] Này các tỳ khưu, hành sự khiển trách là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, được hoàn tất tốt đẹp khi hội đủ ba điều kiện khác nữa: Được thực thi với tội chưa được sám hối, được thực thi đúng theo Pháp, được thực thi với sự hợp nhất. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này hành sự khiển trách là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, được hoàn tất tốt đẹp.
[25] Này các tỳ khưu, hành sự khiển trách là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, được hoàn tất tốt đẹp khi hội đủ ba điều kiện khác nữa: Được thực thi sau khi đã quở trách, được thực thi đúng theo Pháp, được thực thi với sự hợp nhất. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này hành sự khiển trách là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, được hoàn tất tốt đẹp.
[26] Này các tỳ khưu, hành sự khiển trách là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, được hoàn tất tốt đẹp khi hội đủ ba điều kiện khác nữa: Được thực thi sau khi đã nhắc nhở, được thực thi đúng theo Pháp, được thực thi với sự hợp nhất. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này hành sự khiển trách là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, được hoàn tất tốt đẹp.
[27] Này các tỳ khưu, hành sự khiển trách là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, được hoàn tất tốt đẹp khi hội đủ ba điều kiện khác nữa: Được thực thi sau khi đã xác định tội, được thực thi đúng theo Pháp, được thực thi với sự hợp nhất. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này hành sự khiển trách là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, được hoàn tất tốt đẹp.
Dứt mười hai trường hợp về hành sự đúng Pháp.
[28]Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự khiển trách đối với vị tỳ khưu hội đủ ba đặc tính: Vị thường gây nên sự xung đột, thường gây nên sự cãi cọ, thường gây nên sự tranh luận, thường gây nên sự nói chuyện nhảm nhí, thường gây nên sự tranh tụng trong hội chúng; vị ngu si, thiếu kinh nghiệm, phạm nhiều tội, chưa được làm cho thoát (tội); vị năng thân cận người tại gia, sống không nghiêm chỉnh lẫn lộn cùng người tại gia. Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự khiển trách đối với vị tỳ khưu hội đủ ba đặc tính này.
[29] Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự khiển trách đối với vị tỳ khưu hội đủ ba đặc tính khác nữa: Vị bị hư hỏng về giới thuộc tăng thượng giới, vị bị hư hỏng về hạnh kiểm thuộc tăng thượng hạnh, vị bị hư hỏng về tri kiến thuộc tri kiến sái quấy.[4] Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự khiển trách đối với vị tỳ khưu hội đủ ba đặc tính này.
[30] Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự khiển trách đối với vị tỳ khưu hội đủ ba đặc tính khác nữa: Vị chê bai đức Phật, vị chê bai đức Pháp, vị chê bai đức Tăng. Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự khiển trách đối với vị tỳ khưu hội đủ ba đặc tính này.
[31] Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự khiển trách đối với ba hạng tỳ khưu: Hạng thường gây nên sự xung đột, …(như trên)…, và tranh tụng trong hội chúng; hạng ngu si, thiếu kinh nghiệm, phạm nhiều tội, chưa được làm cho thoát (tội); hạng năng thân cận người tại gia, sống không nghiêm chỉnh lẫn lộn cùng người tại gia. Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự khiển trách đối với ba hạng tỳ khưu này.
[32] Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự khiển trách đối với ba hạng tỳ khưu khác nữa: Hạng bị hư hỏng về giới thuộc tăng thượng giới, hạng bị hư hỏng về hạnh kiểm thuộc tăng thượng hạnh, hạng bị hư hỏng về tri kiến thuộc tri kiến sái quấy. Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự khiển trách đối với ba hạng tỳ khưu này.
[33] Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự khiển trách đối với đối với ba hạng tỳ khưu khác nữa: Hạng chê bai đức Phật, hạng chê bai đức Pháp, hạng chê bai đức Tăng. Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự khiển trách đối với ba hạng tỳ khưu này.
Dứt sáu trường hợp nếu muốn.
[34] Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu thực thi hành sự khiển trách nên làm phận sự một cách nghiêm chỉnh. Trong trường hợp này, các phận sự nghiêm chỉnh ấy là: Không nên ban phép tu lên bậc trên, không nên ban cho phép nương nhờ, không nên bảo sa di phục vụ, không nên chấp nhận sự chỉ định giảng dạy tỳ khưu ni, không nên giảng dạy tỳ khưu ni dầu đã được chỉ định, không nên tái phạm tội đã được hội chúng thực thi hành sự khiển trách, hoặc tội tương tợ, hoặc tội nghiêm trọng hơn tội ấy, không nên chỉ trích hành sự, không nên chỉ trích các vị thực thi hành sự, đối với vị tỳ khưu trong sạch không nên đình chỉ lễ Uposatha (Bố Tát), không nên đình chỉ lễ Pavāraṇā (Tự Tứ), không nên sai bảo, không nên cáo tội, không nên thỉnh ý (để buộc tội), không nên quở trách, không nên nhắc nhở, (và) không nên cấu kết các tỳ khưu với các tỳ khưu.
Dứt mười tám phận sự thuộc hành sự khiển trách.
[35] Sau đó, hội chúng đã thực thi hành sự khiển trách đối với các tỳ khưu nhóm Paṇḍuka và Lohitaka. Khi được hội chúng thực thi hành sự khiển trách, các Vị ấy làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, rồi đi đến gặp các tỳ khưu và nói như vầy:
– Bạch chư đại đức, được hội chúng thực thi hành sự khiển trách chúng tôi làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, giờ chúng tôi nên thực hành như thế nào?
Các tỳ khưu đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, như vậy hội chúng hãy thu hồi hành sự khiển trách đối với các tỳ khưu nhóm Paṇḍuka và Lohitaka.
[36] Này các tỳ khưu, hành sự khiển trách không nên thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện: Vị ban phép tu lên bậc trên, ban cho phép nương nhờ, bảo sa di phục vụ, chấp nhận sự chỉ định giảng dạy tỳ khưu ni, giảng dạy tỳ khưu ni khi đã được chỉ định. Này các tỳ khưu, hành sự khiển trách không nên thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện này.
[37] Này các tỳ khưu, hành sự khiển trách không nên thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện khác nữa: Vị tái phạm tội đã được hội chúng thực thi hành sự khiển trách, hoặc tội tương tợ, hoặc tội nghiêm trọng hơn tội ấy, vị chỉ trích hành sự, chỉ trích các vị thực thi hành sự. Này các tỳ khưu, hành sự khiển trách không nên thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện này.
[38] Này các tỳ khưu, hành sự khiển trách không nên thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ tám điều kiện: Vị đình chỉ lễ Uposatha, đình chỉ lễ Pavāraṇā của vị tỳ khưu trong sạch, vị sai bảo, cáo tội, thỉnh ý (để buộc tội), quở trách, nhắc nhở (vị tỳ khưu trong sạch), vị cấu kết các tỳ khưu với các tỳ khưu. Này các tỳ khưu, hành sự khiển trách không nên thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ tám điều kiện này.
Dứt mười tám trường hợp không nên thu hồi.
[39]Này các tỳ khưu, hành sự khiển trách nên được thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện: Vị không ban phép tu lên bậc trên, không ban cho phép nương nhờ, không bảo sa di phục vụ, không chấp nhận sự chỉ định giảng dạy tỳ khưu ni, không giảng dạy tỳ khưu ni dầu đã được chỉ định. Này các tỳ khưu, hành sự khiển trách nên được thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện này.
[40] Này các tỳ khưu, hành sự khiển trách nên được thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện khác nữa: Vị không tái phạm tội đã được hội chúng thực thi hành sự khiển trách, hoặc tội tương tợ, hoặc tội nghiêm trọng hơn tội ấy, vị không chỉ trích hành sự, không chỉ trích các vị thực thi hành sự, Này các tỳ khưu, hành sự khiển trách nên được thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện này.
[41] Này các tỳ khưu, hành sự khiển trách nên được thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ tám điều kiện: Vị không đình chỉ lễ Uposatha, không đình chỉ lễ Pavāraṇā của vị tỳ khưu trong sạch, vị không sai bảo, không cáo tội, không thỉnh ý (để buộc tội), không quở trách, không nhắc nhở (vị tỳ khưu trong sạch), vị không cấu kết các tỳ khưu với các tỳ khưu. Này các tỳ khưu, hành sự khiển trách nên được thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ tám điều kiện này.
Dứt mười tám trường hợp nên thu hồi.
[42] Và này các tỳ khưu, nên thu hồi như vầy: Này các tỳ khưu, các tỳ khưu nhóm Paṇḍuka và Lohitaka ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu trưởng thượng, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên nói như vầy:
“Bạch chư đại đức, được hội chúng thực thi hành sự khiển trách, chúng tôi làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi; giờ chúng tôi thỉnh cầu sự thu hồi hành sự khiển trách.”
Nên thỉnh cầu đến lần thứ nhì. Nên thỉnh cầu đến lần thứ ba.
Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Khi được hội chúng thực thi hành sự khiển trách, các tỳ khưu nhóm Paṇḍuka và Lohitaka này làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, giờ thỉnh cầu sự thu hồi hành sự khiển trách. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên thu hồi hành sự khiển trách đối với các tỳ khưu nhóm Paṇḍuka và Lohitaka. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Được hội chúng thực thi hành sự khiển trách, các tỳ khưu nhóm Paṇḍuka và Lohitaka này làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, giờ thỉnh cầu sự thu hồi hành sự khiển trách. Hội chúng thu hồi hành sự khiển trách đối với các tỳ khưu nhóm Paṇḍuka và Lohitaka. Đại đức nào đồng ý việc thu hồi hành sự khiển trách đối với các tỳ khưu nhóm Paṇḍuka và Lohitaka xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. …(như trên)… Đại đức nào đồng ý việc thu hồi hành sự khiển trách đối với các tỳ khưu nhóm Paṇḍuka và Lohitaka xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Được hội chúng thực thi hành sự khiển trách, các tỳ khưu nhóm Paṇḍuka và Lohitaka này làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, giờ thỉnh cầu sự thu hồi hành sự khiển trách. Hội chúng thu hồi hành sự khiển trách đối với các tỳ khưu nhóm Paṇḍuka và Lohitaka. Đại đức nào đồng ý việc thu hồi hành sự khiển trách đối với các tỳ khưu nhóm Paṇḍuka và Lohitaka xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Hành sự khiển trách đối với các tỳ khưu nhóm Paṇḍuka và Lohitaka đã được hội chúng thu hồi. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
Dứt hành sự khiển trách là phần thứ nhất.
2. HÀNH SỰ CHỈ DẠY (NIYASSAKAMMAṂ):
[43] Vào lúc bấy giờ, đại đức Seyyasaka là vị ngu si, thiếu kinh nghiệm, phạm nhiều tội, chưa được làm cho thoát (tội), là vị năng thân cận người tại gia, sống không nghiêm chỉnh lẫn lộn cùng người tại gia; hơn nữa, các tỳ khưu bị mệt mỏi khi cho hành phạt parivāsa,[5] cho trở lại (hành phạt) từ đầu, cho hành phạt mānatta,[6]rồi cho giải tội nữa.[7] Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Vì sao đại đức Seyyasaka là vị ngu si, thiếu kinh nghiệm, phạm nhiều tội, chưa được làm cho thoát (tội), là vị năng thân cận người tại gia, sống không nghiêm chỉnh lẫn lộn cùng người tại gia lại khiến các tỳ khưu bị mệt mỏi khi cho hành phạt parivāsa, cho trở lại (hành phạt) từ đầu, cho hành phạt mānatta,rồi cho giải tội nữa?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
[44] Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội chúng tỳ khưu lại và hỏi các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu Seyyasaka là kẻ ngu si, thiếu kinh nghiệm, phạm nhiều tội, chưa được làm cho thoát (tội), là kẻ năng thân cận người tại gia, sống không nghiêm chỉnh lẫn lộn cùng người tại gia khiến các tỳ khưu bị mệt mỏi khi cho hành phạt parivāsa, cho trở lại (hành phạt) từ đầu, cho hành phạt mānatta,rồi cho giải tội nữa, có đúng không vậy?
– Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
– Này các tỳ khưu, thật không đúng đắn cho kẻ rồ dại ấy, thật không hợp lẽ, không tốt đẹp, không xứng pháp sa-môn, không được phép, không nên làm. Này các tỳ khưu, vì sao kẻ rồ dại ấy là kẻ ngu si, khờ khạo, phạm nhiều tội, chưa được làm cho thoát (tội), là kẻ năng thân cận người tại gia, sống không nghiêm chỉnh lẫn lộn cùng người tại gia lại khiến các tỳ khưu bị mệt mỏi khi cho hành phạt parivāsa, cho trở lại (hành phạt) từ đầu, cho hành phạt mānatta,rồi cho giải tội nữa? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin, …(như trên)…
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, chính vì điều ấy hội chúng hãy thực thi hành sự chỉ dạy đối với tỳ khưu Seyyasaka rằng: “Ngươi cần phải thực hành sự nương nhờ.” Và này các tỳ khưu, nên thực thi như vầy: Trước hết, tỳ khưu Seyyasaka cần được quở trách; sau khi quở trách cần được nhắc nhở; sau khi nhắc nhở cần xác định tội; sau khi xác định tội, hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ khưu Seyyasaka này là vị ngu si, thiếu kinh nghiệm, phạm nhiều tội, chưa được làm cho thoát (tội), là vị năng thân cận người tại gia, sống không nghiêm chỉnh lẫn lộn cùng người tại gia khiến các tỳ khưu bị mệt mỏi khi cho vị ấy hành phạt parivāsa, cho trở lại (hành phạt) từ đầu, cho hành phạt mānatta, rồi cho giải tội nữa. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên thực thi hành sự chỉ dạy đối với tỳ khưu Seyyasaka rằng: ‘Ngươi cần phải thực hành sự nương nhờ.’ Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ khưu Seyyasaka này là vị ngu si, thiếu kinh nghiệm, phạm nhiều tội, chưa được làm cho thoát (tội), là vị năng thân cận người tại gia, sống không nghiêm chỉnh lẫn lộn cùng người tại gia khiến các tỳ khưu bị mệt mỏi khi cho vị ấy hành phạt parivāsa, cho trở lại (hành phạt) từ đầu, cho hành phạt mānatta, rồi cho giải tội nữa. Hội chúng thực thi hành sự chỉ dạy đối với tỳ khưu Seyyasaka rằng: ‘Ngươi cần phải thực hành sự nương nhờ.’ Đại đức nào đồng ý việc thực thi hành sự chỉ dạy đối với đại đức Seyyasaka rằng: ‘Ngươi cần phải thực hành sự nương nhờ’ xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. …(như trên)… xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ khưu Seyyasaka này là vị ngu si, thiếu kinh nghiệm, phạm nhiều tội, chưa được làm cho thoát (tội); là vị năng thân cận người tại gia, sống không nghiêm chỉnh lẫn lộn cùng người tại gia khiến các tỳ khưu bị mệt mỏi khi cho vị ấy hành phạt parivāsa, cho trở lại (hành phạt) từ đầu, cho hành phạt mānatta, rồi cho giải tội nữa. Hội chúng thực thi hành sự chỉ dạy đối với tỳ khưu Seyyasaka rằng: ‘Ngươi cần phải thực hành sự nương nhờ.’ Đại đức nào đồng ý việc thực thi hành sự chỉ dạy đối với đại đức Seyyasaka rằng: ‘Ngươi cần phải thực hành sự nương nhờ’ xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Hành sự chỉ dạy đối với đại đức Seyyasaka rằng: ‘Ngươi cần phải thực hành sự nương nhờ’ đã được hội chúng thực thi. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
[45] Này các tỳ khưu, hành sự chỉ dạy là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất khi hội đủ ba điều kiện: Được thực thi thiếu sự hiện diện, được thực thi thiếu sự tra hỏi, được thực thi với sự không thừa nhận. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này hành sự chỉ dạy là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất.
[46] Này các tỳ khưu, hành sự chỉ dạy là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất khi hội đủ ba điều kiện khác nữa: Được thực thi với tội không vi phạm, được thực thi với tội vi phạm đưa đến việc không sám hối được, được thực thi với tội đã được sám hối. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này hành sự chỉ dạy là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất.
[47] Này các tỳ khưu, hành sự chỉ dạy là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất khi hội đủ ba điều kiện khác nữa: Được thực thi khi chưa quở trách, được thực thi khi chưa nhắc nhở, được thực thi khi chưa xác định tội. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này hành sự chỉ dạy là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất.
[48] Này các tỳ khưu, hành sự chỉ dạy là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất khi hội đủ ba điều kiện khác nữa: Được thực thi thiếu sự hiện diện, được thực thi không theo Pháp, được thực thi bởi phe nhóm. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này hành sự chỉ dạy là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất.
[49] Này các tỳ khưu, hành sự chỉ dạy là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất khi hội đủ ba điều kiện khác nữa: Được thực thi thiếu sự tra hỏi, được thực thi không theo Pháp, được thực thi bởi phe nhóm. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này hành sự chỉ dạy là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất.
[50] Này các tỳ khưu, hành sự chỉ dạy là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất khi hội đủ ba điều kiện khác nữa: Được thực thi với sự không thừa nhận, được thực thi không theo Pháp, được thực thi bởi phe nhóm. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này hành sự chỉ dạy là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất.
[51] Này các tỳ khưu, hành sự chỉ dạy là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất khi hội đủ ba điều kiện khác nữa: Được thực thi với tội không vi phạm, được thực thi không theo Pháp, được thực thi bởi phe nhóm. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này hành sự chỉ dạy là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất.
[52] Này các tỳ khưu, hành sự chỉ dạy là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất khi hội đủ ba điều kiện khác nữa: Được thực thi với tội vi phạm đưa đến việc không sám hối được, được thực thi không theo Pháp, được thực thi bởi phe nhóm. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này hành sự chỉ dạy là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất.
[53] Này các tỳ khưu, hành sự chỉ dạy là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất khi hội đủ ba điều kiện khác nữa: Được thực thi với tội đã được sám hối, được thực thi không theo Pháp, được thực thi bởi phe nhóm. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này hành sự chỉ dạy là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất.
[54] Này các tỳ khưu, hành sự chỉ dạy là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất khi hội đủ ba điều kiện khác nữa: Được thực thi khi chưa quở trách, được thực thi không theo Pháp, được thực thi bởi phe nhóm. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này hành sự chỉ dạy là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất.
[55] Này các tỳ khưu, hành sự chỉ dạy là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất khi hội đủ ba điều kiện khác nữa: Được thực thi khi chưa nhắc nhở, được thực thi không theo Pháp, được thực thi bởi phe nhóm. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này hành sự chỉ dạy là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất.
[56] Này các tỳ khưu, hành sự chỉ dạy là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất khi hội đủ ba điều kiện khác nữa: Được thực thi khi chưa xác định tội, được thực thi không theo Pháp, được thực thi bởi phe nhóm. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này hành sự chỉ dạy là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất.
Dứt mười hai trường hợp về hành sự không đúng Pháp.
[57] Này các tỳ khưu, hành sự chỉ dạy là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, được hoàn tất tốt đẹp khi hội đủ ba điều kiện: Được thực thi với sự hiện diện, được thực thi từ sự tra hỏi, được thực thi do sự thừa nhận. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này hành sự chỉ dạy là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, được hoàn tất tốt đẹp.
[58] Này các tỳ khưu, hành sự chỉ dạy là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, được hoàn tất tốt đẹp khi hội đủ ba điều kiện khác nữa: Được thực thi với tội vi phạm, được thực thi với tội vi phạm đưa đến việc sám hối được, được thực thi với tội chưa được sám hối. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này hành sự chỉ dạy là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, được hoàn tất tốt đẹp.
[59] Này các tỳ khưu, hành sự chỉ dạy là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, được hoàn tất tốt đẹp khi hội đủ ba điều kiện khác nữa: Được thực thi sau khi đã quở trách, được thực thi sau khi đã nhắc nhở, được thực thi sau khi đã xác định tội. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này hành sự chỉ dạy là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, được hoàn tất tốt đẹp.
[60] Này các tỳ khưu, hành sự chỉ dạy là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, được hoàn tất tốt đẹp khi hội đủ ba điều kiện khác nữa: Được thực thi với sự hiện diện, được thực thi đúng theo Pháp, được thực thi với sự hợp nhất. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này hành sự chỉ dạy là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, được hoàn tất tốt đẹp.
[61] Này các tỳ khưu, hành sự chỉ dạy là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, được hoàn tất tốt đẹp khi hội đủ ba điều kiện khác nữa: Được thực thi từ sự tra hỏi, được thực thi đúng theo Pháp, được thực thi với sự hợp nhất. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này hành sự chỉ dạy là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, được hoàn tất tốt đẹp.
[62] Này các tỳ khưu, hành sự chỉ dạy là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, được hoàn tất tốt đẹp khi hội đủ ba điều kiện khác nữa: Được thực thi do sự thừa nhận, được thực thi đúng theo Pháp, được thực thi với sự hợp nhất. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này hành sự chỉ dạy là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, được hoàn tất tốt đẹp.
[63] Này các tỳ khưu, hành sự chỉ dạy là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, được hoàn tất tốt đẹp khi hội đủ ba điều kiện khác nữa: Được thực thi với tội vi phạm, được thực thi đúng theo Pháp, được thực thi với sự hợp nhất. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này hành sự chỉ dạy là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, được hoàn tất tốt đẹp.
[64] Này các tỳ khưu, hành sự chỉ dạy là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, được hoàn tất tốt đẹp khi hội đủ ba điều kiện khác nữa: Được thực thi với tội vi phạm đưa đến việc sám hối được, được thực thi đúng theo Pháp, được thực thi với sự hợp nhất. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này hành sự chỉ dạy là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, được hoàn tất tốt đẹp.
[65] Này các tỳ khưu, hành sự chỉ dạy là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, được hoàn tất tốt đẹp khi hội đủ ba điều kiện khác nữa: Được thực thi với tội chưa được sám hối, được thực thi đúng theo Pháp, được thực thi với sự hợp nhất. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này hành sự chỉ dạy là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, được hoàn tất tốt đẹp.
[66] Này các tỳ khưu, hành sự chỉ dạy là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, được hoàn tất tốt đẹp khi hội đủ ba điều kiện khác nữa: Được thực thi sau khi đã quở trách, được thực thi đúng theo Pháp, được thực thi với sự hợp nhất. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này hành sự chỉ dạy là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, được hoàn tất tốt đẹp.
[67] Này các tỳ khưu, hành sự chỉ dạy là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, được hoàn tất tốt đẹp khi hội đủ ba điều kiện khác nữa: Được thực thi sau khi đã nhắc nhở, được thực thi đúng theo Pháp, được thực thi với sự hợp nhất. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này hành sự chỉ dạy là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, được hoàn tất tốt đẹp.
[68] Này các tỳ khưu, hành sự chỉ dạy là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, được hoàn tất tốt đẹp khi hội đủ ba điều kiện khác nữa: Được thực thi sau khi đã xác định tội, được thực thi đúng theo Pháp, được thực thi với sự hợp nhất. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này hành sự chỉ dạy là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, được hoàn tất tốt đẹp.
Dứt mười hai trường hợp về hành sự đúng Pháp.
[69] Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự chỉ dạy đối với vị tỳ khưu hội đủ ba đặc tính: Vị thường gây nên sự xung đột, thường gây nên sự cãi cọ, thường gây nên sự tranh luận, thường gây nên sự nói chuyện nhảm nhí, thường gây nên sự tranh tụng trong hội chúng; vị ngu si, thiếu kinh nghiệm, phạm nhiều tội, chưa được làm cho thoát (tội); vị năng thân cận người tại gia, sống không nghiêm chỉnh lẫn lộn cùng người tại gia. Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự chỉ dạy đối với vị tỳ khưu hội đủ ba đặc tính này.
[70] Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự chỉ dạy đối với vị tỳ khưu hội đủ ba đặc tính khác nữa: Vị bị hư hỏng về giới thuộc tăng thượng giới, vị bị hư hỏng về hạnh kiểm thuộc tăng thượng hạnh, vị bị hư hỏng về tri kiến thuộc tri kiến sái quấy. Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự chỉ dạy đối với vị tỳ khưu hội đủ ba đặc tính này.
[71] Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự chỉ dạy đối với vị tỳ khưu hội đủ ba đặc tính khác nữa: là vị chê bai đức Phật, là vị chê bai đức Pháp, là vị chê bai đức Tăng. Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự chỉ dạy đối với vị tỳ khưu hội đủ ba đặc tính này.
[72] Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự chỉ dạy đối với ba hạng tỳ khưu: Hạng thường gây nên sự xung đột, thường gây nên sự cãi cọ, thường gây nên sự tranh luận, thường gây nên sự nói chuyện nhảm nhí, thường gây nên sự tranh tụng trong hội chúng; hạng ngu si, thiếu kinh nghiệm, phạm nhiều tội, chưa được làm cho thoát (tội); hạng năng thân cận người tại gia, sống không nghiêm chỉnh lẫn lộn cùng người tại gia. Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự chỉ dạy đối với ba hạng tỳ khưu này.
[73] Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự chỉ dạy đối với ba hạng tỳ khưu khác nữa: Hạng bị hư hỏng về giới thuộc tăng thượng giới, hạng bị hư hỏng về hạnh kiểm thuộc tăng thượng hạnh, hạng bị hư hỏng về tri kiến thuộc tri kiến sái quấy. Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự chỉ dạy đối với ba hạng tỳ khưu này.
[74] Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự chỉ dạy đối với ba hạng tỳ khưu khác nữa: Hạng chê bai đức Phật, hạng chê bai đức Pháp, hạng chê bai đức Tăng. Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự chỉ dạy đối với ba hạng tỳ khưu này.
Dứt sáu trường hợp nếu muốn.
[75] Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu thực thi hành sự chỉ dạy nên làm phận sự một cách nghiêm chỉnh. Trong trường hợp này, các phận sự nghiêm chỉnh ấy là: Không nên ban phép tu lên bậc trên, không nên ban cho phép nương nhờ, không nên bảo sa di phục vụ, không nên chấp nhận sự chỉ định giảng dạy tỳ khưu ni, không nên giảng dạy tỳ khưu ni dầu đã được chỉ định, không nên tái phạm tội đã được hội chúng thực thi hành sự chỉ dạy, hoặc tội tương tợ, hoặc tội nghiêm trọng hơn tội ấy, không nên chỉ trích hành sự, không nên chỉ trích các vị thực thi hành sự, đối với vị tỳ khưu trong sạch không nên đình chỉ lễ Uposatha, không nên đình chỉ lễ Pavāraṇā, không nên sai bảo, không nên cáo tội, không nên thỉnh ý (để buộc tội), không nên quở trách, không nên nhắc nhở, (và) không nên cấu kết các tỳ khưu với các tỳ khưu.
Dứt mười tám phận sự thuộc hành sự chỉ dạy.
[76]Sau đó, hội chúng đã thực thi hành sự chỉ dạy đối với tỳ khưu Seyyasaka rằng: “Ngươi cần phải thực hành sự nương nhờ.” Khi được hội chúng thực thi hành sự chỉ dạy, vị ấy trong khi thân cận, trong khi quan hệ, trong khi gần gũi bạn tốt, trong khi nhờ họ đọc tụng, trong khi đặt câu hỏi, đã trở thành vị nghe nhiều, kinh điển được truyền thừa, rành rẽ về Pháp, rành rẽ về Luật, rành rẽ các đầu đề, là vị có trí tuệ, có khả năng, thông minh, khiêm nhường, có hối hận, ưa thích sự học tập. Vị ấy làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, rồi đi đến gặp các tỳ khưu và nói như vầy:
– Bạch chư đại đức, được hội chúng thực thi hành sự chỉ dạy, tôi làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, giờ tôi nên thực hành như thế nào?
Các vị tỳ khưu đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, như vậy thì hội chúng hãy thu hồi hành sự chỉ dạy đối với tỳ khưu Seyyasaka.
[77]Này các tỳ khưu, hành sự chỉ dạy không nên thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện: Vị ban phép tu lên bậc trên, ban cho phép nương nhờ, bảo sa di phục vụ, chấp nhận sự chỉ định giảng dạy tỳ khưu ni, giảng dạy tỳ khưu ni khi đã được chỉ định. Này các tỳ khưu, hành sự chỉ dạy không nên thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện này.
[78] Này các tỳ khưu, hành sự chỉ dạy không nên thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện khác nữa: Vị tái phạm tội đã được hội chúng thực thi hành sự chỉ dạy, hoặc tội tương tợ, hoặc tội nghiêm trọng hơn tội ấy, vị chỉ trích hành sự, chỉ trích các vị thực thi hành sự. Này các tỳ khưu, hành sự chỉ dạy không nên thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện này.
[79] Này các tỳ khưu, hành sự chỉ dạy không nên thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ tám điều kiện: Vị đình chỉ lễ Uposatha, đình chỉ lễ Pavāraṇā của vị tỳ khưu trong sạch, vị sai bảo, cáo tội, thỉnh ý (để buộc tội), quở trách, nhắc nhở (vị tỳ khưu trong sạch), vị cấu kết các tỳ khưu với các tỳ khưu. Này các tỳ khưu, hành sự chỉ dạy không nên thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ tám điều kiện này.
Dứt mười tám trường hợp không nên thu hồi.
[80]Này các tỳ khưu, hành sự chỉ dạy nên được thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện: Vị không ban phép tu lên bậc trên, không ban cho phép nương nhờ, không bảo sa di phục vụ, không chấp nhận sự chỉ định giảng dạy tỳ khưu ni, không giảng dạy tỳ khưu ni dầu đã được chỉ định. Này các tỳ khưu, hành sự chỉ dạy nên được thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện này.
[81] Này các tỳ khưu, hành sự chỉ dạy nên được thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện khác nữa: Vị không tái phạm tội đã được hội chúng thực thi hành sự chỉ dạy, hoặc tội tương tợ, hoặc tội nghiêm trọng hơn tội ấy, vị không chỉ trích hành sự, không chỉ trích các vị thực thi hành sự, Này các tỳ khưu, hành sự chỉ dạy nên được thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện này.
[82] Này các tỳ khưu, hành sự chỉ dạy nên được thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ tám điều kiện: Vị không đình chỉ lễ Uposatha, không đình chỉ lễ Pavāraṇā của vị tỳ khưu trong sạch, vị không sai bảo, không cáo tội, không thỉnh ý (để buộc tội), không quở trách, không nhắc nhở (vị tỳ khưu trong sạch), vị không cấu kết các tỳ khưu với các tỳ khưu. Này các tỳ khưu, hành sự chỉ dạy nên được thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ tám điều kiện này.
Dứt mười tám trường hợp nên được thu hồi.
[83] Và này các tỳ khưu, nên thu hồi như vầy: Này các tỳ khưu, tỳ khưu Seyyasaka ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu trưởng thượng, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên nói như vầy:
“Bạch chư đại đức, được hội chúng thực thi hành sự chỉ dạy, tôi làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi; giờ tôi thỉnh cầu sự thu hồi hành sự chỉ dạy.”
Nên thỉnh cầu đến lần thứ nhì. Nên thỉnh cầu đến lần thứ ba.
Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Được hội chúng thực thi hành sự chỉ dạy, tỳ khưu Seyyasaka này làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, giờ thỉnh cầu sự thu hồi hành sự chỉ dạy. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên thu hồi hành sự chỉ dạy đối với tỳ khưu Seyyasaka. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Được hội chúng thực thi hành sự chỉ dạy, tỳ khưu Seyyasaka này làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, giờ thỉnh cầu sự thu hồi hành sự chỉ dạy. Hội chúng thu hồi hành sự chỉ dạy đối với tỳ khưu Seyyasaka. Đại đức nào đồng ý việc thu hồi hành sự chỉ dạy đối với tỳ khưu Seyyasaka xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Được hội chúng thực thi hành sự chỉ dạy, tỳ khưu Seyyasaka này làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, giờ thỉnh cầu sự thu hồi hành sự chỉ dạy. Hội chúng thu hồi hành sự chỉ dạy đối với tỳ khưu Seyyasaka. Đại đức nào đồng ý việc thu hồi hành sự chỉ dạy đối với tỳ khưu Seyyasaka xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Được hội chúng thực thi hành sự chỉ dạy, tỳ khưu Seyyasaka này làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, giờ thỉnh cầu sự thu hồi hành sự chỉ dạy. Hội chúng thu hồi hành sự chỉ dạy đối với tỳ khưu Seyyasaka. Đại đức nào đồng ý việc thu hồi hành sự chỉ dạy đối với tỳ khưu Seyyasaka xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Hành sự chỉ dạy đối với tỳ khưu Seyyasaka đã được hội chúng thu hồi. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
Dứt hành sự chỉ dạy là phần thứ nhì.
3. HÀNH SỰ XUA ĐUỔI (PABBĀJANĪYAKAMMAṂ):
[84] Vào lúc bấy giờ, các vị nhóm Assaji và Punabbasuka[8] thường trú tại vùng Kiṭāgiri là những tỳ khưu tồi, không biết hổ thẹn. Họ hành xử sai nguyên tắc có hình thức như vầy: Họ trồng bông hoa hoặc bảo kẻ khác trồng, họ tưới hoặc bảo kẻ khác tưới, họ hái hoặc bảo kẻ khác hái, họ kết lại hoặc bảo kẻ khác kết lại, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm tràng hoa kết một mặt, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm tràng hoa kết hai mặt, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm thảm hoa, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm vòng hoa, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm vòng hoa đội đầu, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm vòng hoa đeo tai, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm vòng hoa che ngực. Họ đem tặng hoặc bảo kẻ khác đem tặng tràng hoa kết một mặt, tràng hoa kết hai mặt, thảm hoa, vòng hoa, vòng hoa đội đầu, vòng hoa đeo tai, vòng hoa che ngực cho những nữ gia chủ, các cô tiểu thơ, những cô gái trẻ, các cô dâu, những cô tớ gái của các gia đình. Họ cùng với những nữ gia chủ, các cô tiểu thơ, những cô gái trẻ, các cô dâu, những cô tớ gái của các gia đình ăn chung trong một đĩa, uống chung trong một cốc, ngồi chung trên một chỗ ngồi, nằm chung trên một giường, nằm chung một tấm trải, nằm chung một tấm đắp, nằm chung một tấm trải và tấm đắp. Họ ăn sái giờ, họ uống rượu, họ đeo dây chuyền, xức nước hoa và phấn thơm, họ nhảy múa, họ ca hát, họ tấu đàn, họ vui đùa. Họ lại còn nhảy múa, ca hát, tấu đàn, vui đùa cùng với người nữ đang nhảy múa; họ lại còn nhảy múa, ca hát, tấu đàn, vui đùa cùng với người nữ đang ca hát; họ lại còn nhảy múa, ca hát, tấu đàn, vui đùa cùng với người nữ đang tấu đàn; họ lại còn nhảy múa, ca hát, tấu đàn, vui đùa cùng với người nữ đang vui đùa. Họ còn tiêu khiển cờ tám ô vuông, cờ mười ô vuông, họ chơi với bàn cờ tưởng tượng ở trên không, họ chơi lối sắp vòng tròn, họ chơi lối rút quân cờ, họ chơi ném xúc xắc, họ chơi đánh gậy, họ chơi trò vẽ bằng tay, họ chơi trò sấp ngữa, họ chơi trò thổi kèn bằng lá cây, họ chơi trò uốn dẻo, họ chơi trò nhào lộn, họ chơi trò dùng lá cọ giả làm cối xay gió, họ chơi trò đo lường, họ chơi trò đua xe, họ thi bắn cung, họ chơi trò đố chữ, họ chơi trò đoán ý, họ chơi trò nhái điệu bộ, họ tập cỡi voi, họ tập cỡi ngựa, họ tập điều khiển xe, họ tập bắn cung, họ tập đao kiếm, họ chạy phía trước voi, họ chạy phía trước ngựa, họ chạy đi chạy lại phía trước xe; họ huýt sáo, họ vỗ tay, họ vật lộn, họ dùng tay đánh nhau. Họ trải y ca-sa hai lớp ở giữa nhà rồi mời cô vũ nữ rằng: “Này cô em, hãy nhảy ở đây này,” họ còn vỗ tay tán thưởng. Họ hành xử sai nguyên tắc theo nhiều cách.
[85] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đã trải qua mùa (an cư) mưa ở xứ Kāsi, trong khi đi đến thành Sāvatthi để diện kiến đức Thế Tôn, đã trú tại vùng Kiṭāgiri. Khi ấy vào buổi sáng, vị tỳ khưu ấy đã mặc y, cầm y bát, và đi vào vùng Kiṭāgiri để khất thực. Vị ấy có phong cách chững chạc, mắt nhìn xuống, với vẻ chăm chú khi đi tới bước lui, lúc nhìn ngắm, khi cử động co duổi. Dân chúng sau khi nhìn thấy vị tỳ khưu ấy đã nói như vầy:
– Người này là ai mà trông giống như kẻ ngu trong nhóm người ngu, giống như kẻ khờ trong nhóm người khờ, giống như kẻ ngớ ngẩn trong nhóm người ngớ ngẩn vậy? Khi gã đi đến, ai mà chịu bố thí đồ ăn đây? Trong khi các ngài thuộc nhóm Assaji và Punabbasuka của chúng ta thì lịch thiệp, thân thiện, nói năng hòa nhã, luôn cười xã giao, luôn mời mọc đến thăm viếng, không có hợm hĩnh, khuôn mặt lại rạng rỡ, luôn mở đầu câu chuyện; chính vì thế, đồ ăn khất thực nên được cúng dường đến các ngài.
Có nam cư sĩ nọ đã nhìn thấy vị tỳ khưu ấy đang đi khất thực ở vùng Kiṭāgiri, sau khi thấy đã đi đến gần vị tỳ khưu ấy, sau khi đến đã đảnh lễ vị tỳ khưu ấy và nói điều này:
– Thưa ngài, đồ khất thực có nhận được chưa vậy?
– Này đạo hữu, đồ khất thực chưa có nhận được.
– Thưa ngài, xin thỉnh. Chúng ta sẽ đi về nhà.
Rồi nam cư sĩ ấy đã dẫn vị tỳ khưu ấy về nhà, dâng thức ăn, và nói điều này:
– Thưa ngài, ngài sẽ đi đâu?
– Này đạo hữu, giờ ta sẽ đi Sāvatthi để diện kiến đức Thế Tôn.
– Thưa ngài, như thế thì xin ngài đê đầu đảnh lễ ở chân của đức Thế Tôn với lời thăm hỏi của con và xin ngài hãy thưa như vầy: “Bạch ngài, sự sinh sống ở vùng Kiṭāgiri đã bị hủ hóa. Các vị nhóm Assaji và Punabbasuka thường trú tại vùng Kiṭāgiri là những tỳ khưu tồi, không biết hổ thẹn. Họ hành xử sai nguyên tắc có hình thức như vầy: Họ trồng bông hoa hoặc bảo kẻ khác trồng, họ tưới hoặc bảo kẻ khác tưới, họ hái hoặc bảo kẻ khác hái, họ kết lại hoặc bảo kẻ khác kết lại, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm tràng hoa kết một mặt, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm tràng hoa kết hai mặt, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm thảm hoa, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm vòng hoa, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm vòng hoa đội đầu, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm vòng hoa đeo tai, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm vòng hoa che ngực. Họ đem tặng hoặc bảo kẻ khác đem tặng tràng hoa kết một mặt, tràng hoa kết hai mặt, thảm hoa, vòng hoa, vòng hoa đội đầu, vòng hoa đeo tai, vòng hoa che ngực cho những nữ gia chủ, các cô tiểu thơ, những cô gái trẻ, các cô dâu, những cô tớ gái của các gia đình. Họ cùng với những nữ gia chủ, các cô tiểu thơ, những cô gái trẻ, các cô dâu, những cô tớ gái của các gia đình ăn chung trong một đĩa, uống chung trong một cốc, ngồi chung trên một chỗ ngồi, nằm chung trên một giường, nằm chung một tấm trải, nằm chung một tấm đắp, nằm chung một tấm trải và tấm đắp. Họ ăn sái giờ, họ uống rượu, họ đeo dây chuyền, xức nước hoa và phấn thơm, họ nhảy múa, họ ca hát, họ tấu đàn, họ vui đùa. Họ lại còn nhảy múa, ca hát, tấu đàn, vui đùa cùng với người nữ đang nhảy múa; họ lại còn nhảy múa, ca hát, tấu đàn, vui đùa cùng với người nữ đang ca hát; họ lại còn nhảy múa, ca hát, tấu đàn, vui đùa cùng với người nữ đang tấu đàn; họ lại còn nhảy múa, ca hát, tấu đàn, vui đùa cùng với người nữ đang vui đùa. Họ còn tiêu khiển cờ tám ô vuông, cờ mười ô vuông, họ chơi với bàn cờ tưởng tượng ở trên không, họ chơi lối sắp vòng tròn, họ chơi lối rút quân cờ, họ chơi ném xúc xắc, họ chơi đánh gậy, họ chơi trò vẽ bằng tay, họ chơi trò sấp ngữa, họ chơi trò thổi kèn bằng lá cây, họ chơi trò uốn dẻo, họ chơi trò nhào lộn, họ chơi trò dùng lá cọ giả làm cối xay gió, họ chơi trò đo lường, họ chơi trò đua xe, họ thi bắn cung, họ chơi trò đố chữ, họ chơi trò đoán ý, họ chơi trò nhái điệu bộ, họ tập cỡi voi, họ tập cỡi ngựa, họ tập điều khiển xe, họ tập bắn cung, họ tập đao kiếm, họ chạy phía trước voi, họ chạy phía trước ngựa, họ chạy đi chạy lại phía trước xe; họ huýt sáo, họ vỗ tay, họ vật lộn, họ dùng tay đánh nhau. Họ trải y ca-sa hai lớp ở giữa nhà rồi mời cô vũ nữ rằng: ‘Này cô em, hãy nhảy ở đây này,’ họ còn vỗ tay tán thưởng. Họ hành xử sai nguyên tắc theo nhiều cách. Bạch ngài, những người trước đây ngưỡng mộ, có niềm tin, bây giờ không còn ngưỡng mộ, mất niềm tin. Những tập quán cúng dường đến hội chúng trước đây giờ cũng đã bị gián đoạn. Các tỳ khưu tốt ra đi, còn các tỳ khưu tồi cư ngụ. Bạch ngài, lành thay nếu đức Thế Tôn có thể phái các tỳ khưu đến vùng Kiṭāgiri, như vậy sự sinh sống ở vùng Kiṭāgiri có thể tồn tại.”
– Này đạo hữu, được rồi.
Vị tỳ khưu ấy sau khi lắng nghe nam cư sĩ ấy đã ra đi về hướng thành Sāvatthi. Tuần tự, vị ấy đã đến thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên.
[86] Điều này đã trở thành thông lệ của chư Phật Thế Tôn là niềm nở đối với các tỳ khưu đi đến. Khi ấy, đức Thế Tôn đã nói với vị tỳ khưu ấy điều này:
– Này tỳ khưu, sức khỏe có khá không? Mọi việc có được tốt đẹp không? Ngươi đi đến đường xa có được ít mệt nhọc không? Và này tỳ khưu, ngươi từ đâu đến vậy?
– Bạch Thế Tôn, sức khỏe khá. Bạch Thế Tôn, mọi việc tốt đẹp. Bạch ngài, con đi đường xa không mệt lắm. Bạch ngài, con đây đã trải qua mùa (an cư) mưa ở xứ Kāsi, trong khi đi đến thành Sāvatthi để diện kiến đức Thế Tôn, đã trú tại vùng Kiṭāgiri. Bạch ngài, khi ấy vào buổi sáng con đã mặc y, cầm y bát, đi vào vùng Kiṭāgiri để khất thực. Bạch ngài, có nam cư sĩ nọ đã nhìn thấy con đang đi khất thực ở vùng Kiṭāgiri, sau khi thấy đã đi đến gần con, sau khi đến đã đảnh lễ con và nói điều này: “Thưa ngài, đồ khất thực có nhận được chưa vậy?” “Này đạo hữu, đồ khất thực chưa có nhận được.” “Thưa ngài, xin thỉnh. Chúng ta sẽ đi về nhà.” Bạch ngài, sau đó nam cư sĩ ấy đã dẫn con về nhà, dâng thức ăn, rồi đã nói điều này: “Thưa ngài, ngài sẽ đi đâu?” “Này đạo hữu, giờ ta sẽ đi Sāvatthi để diện kiến đức Thế Tôn.” “Thưa ngài, như thế thì xin ngài đê đầu đảnh lễ ở chân của đức Thế Tôn với lời thăm hỏi của con và xin ngài hãy thưa như vầy: “Bạch ngài, sự sinh sống ở vùng Kiṭāgiri đã bị hủ hóa. Các vị nhóm Assaji và Punabbasuka thường trú tại vùng Kiṭāgiri là những tỳ khưu tồi, không biết hổ thẹn. Họ hành xử sai nguyên tắc có hình thức như vầy: Họ trồng bông hoa hoặc bảo kẻ khác trồng, …(như trên)… Họ hành xử sai nguyên tắc theo nhiều cách. Bạch ngài, những người trước đây ngưỡng mộ, có niềm tin, bây giờ không còn ngưỡng mộ, mất niềm tin. Những tập quán cúng dường đến hội chúng trước đây giờ cũng đã bị gián đoạn. Các tỳ khưu tốt ra đi, còn các tỳ khưu tồi cư ngụ. Bạch ngài, lành thay nếu đức Thế Tôn có thể phái các tỳ khưu đến vùng Kiṭāgiri, như vậy sự sinh sống ở vùng Kiṭāgiri có thể tồn tại.” Bạch Thế Tôn, con từ xứ đó đi đến.
[87] Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội chúng tỳ khưu lại và hỏi các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, nghe nói các vị nhóm Assaji và Punabbasuka thường trú tại vùng Kiṭāgiri là những tỳ khưu tồi, không biết hổ thẹn. Họ hành xử sai nguyên tắc có hình thức như vầy: Họ trồng bông hoa hoặc bảo kẻ khác trồng, … (như trên) … . Họ hành xử sai nguyên tắc theo nhiều cách. Những người trước đây ngưỡng mộ, có niềm tin, bây giờ không còn ngưỡng mộ, mất niềm tin. Những tập quán cúng dường đến hội chúng trước đây giờ cũng đã bị gián đoạn. Các tỳ khưu tốt ra đi, còn các tỳ khưu tồi cư ngụ, có đúng không vậy?
– Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
– Này các tỳ khưu, thật không đúng đắn cho những kẻ rồ dại ấy, … (như trên) … Này các tỳ khưu, vì sao những kẻ rồ dại ấy lại hành xử sai nguyên tắc có hình thức như thế? Họ trồng bông hoa hoặc bảo kẻ khác trồng, họ tưới hoặc bảo kẻ khác tưới, họ hái hoặc bảo kẻ khác hái, họ kết lại hoặc bảo kẻ khác kết lại, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm tràng hoa kết một mặt, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm tràng hoa kết hai mặt, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm thảm hoa, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm vòng hoa, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm vòng hoa đội đầu, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm vòng hoa đeo tai, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm vòng hoa che ngực. Họ đem tặng hoặc bảo kẻ khác đem tặng tràng hoa kết một mặt, tràng hoa kết hai mặt, thảm hoa, vòng hoa, vòng hoa đội đầu, vòng hoa đeo tai, vòng hoa che ngực cho những nữ gia chủ, các cô tiểu thơ, những cô gái trẻ, các cô dâu, những cô tớ gái của các gia đình. Họ cùng với những nữ gia chủ, các cô tiểu thơ, những cô gái trẻ, các cô dâu, những cô tớ gái của các gia đình ăn chung trong một đĩa, uống chung trong một cốc, ngồi chung trên một chỗ ngồi, nằm chung trên một giường, nằm chung một tấm trải, nằm chung một tấm đắp, nằm chung một tấm trải và tấm đắp. Họ ăn sái giờ, họ uống rượu, họ đeo dây chuyền, xức nước hoa và phấn thơm, họ nhảy múa, họ ca hát, họ tấu đàn, họ vui đùa. Họ lại còn nhảy múa, ca hát, tấu đàn, vui đùa cùng với người nữ đang nhảy múa; họ lại còn nhảy múa, ca hát, tấu đàn, vui đùa cùng với người nữ đang ca hát; họ lại còn nhảy múa, ca hát, tấu đàn, vui đùa cùng với người nữ đang tấu đàn; họ lại còn nhảy múa, ca hát, tấu đàn, vui đùa cùng với người nữ đang vui đùa. Họ còn tiêu khiển cờ tám ô vuông, cờ mười ô vuông, họ chơi với bàn cờ tưởng tượng ở trên không, họ chơi lối sắp vòng tròn, họ chơi lối rút quân cờ, họ chơi ném xúc xắc, họ chơi đánh gậy, họ chơi trò vẽ bằng tay, họ chơi trò sấp ngữa, họ chơi trò thổi kèn bằng lá cây, họ chơi trò uốn dẻo, họ chơi trò nhào lộn, họ chơi trò dùng lá cọ giả làm cối xay gió, họ chơi trò đo lường, họ chơi trò đua xe, họ thi bắn cung, họ chơi trò đố chữ, họ chơi trò đoán ý, họ chơi trò nhái điệu bộ, họ tập cỡi voi, họ tập cỡi ngựa, họ tập điều khiển xe, họ tập bắn cung, họ tập đao kiếm, họ chạy phía trước voi, họ chạy phía trước ngựa, họ chạy đi chạy lại phía trước xe; họ huýt sáo, họ vỗ tay, họ vật lộn, họ dùng tay đánh nhau. Họ trải y ca-sa hai lớp ở giữa nhà rồi mời cô vũ nữ rằng: “Này cô em, hãy nhảy ở đây này,” họ còn vỗ tay tán thưởng. Họ hành xử sai nguyên tắc theo nhiều cách. Những người trước đây ngưỡng mộ, có niềm tin, bây giờ không còn ngưỡng mộ, mất niềm tin. Những tập quán cúng dường đến hội chúng trước đây giờ cũng đã bị gián đoạn. Các tỳ khưu tốt ra đi, còn các tỳ khưu tồi cư ngụ. Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)… và làm thay đổi (niềm tin) của một số người đã có đức tin.
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo Sāriputta và Moggallāna rằng:
– Này Sāriputta và Moggallāna, hai ngươi hãy đi đến vùng Kiṭāgiri rồi hãy thực thi hành sự xua đuổi ra khỏi vùng Kiṭāgiri đối với các tỳ khưu nhóm Assaji và Punabbasuka, các vị này là những đệ tử của hai ngươi.
– Bạch ngài, các tỳ khưu nhóm Assaji và Punabbasuka thì dữ tợn và thô lỗ, làm thế nào chúng con thực thi hành sự xua đuổi ra khỏi vùng Kiṭāgiri đối với các tỳ khưu ấy được?
– Này Sāriputta và Moggallāna, chính vì điều ấy hai ngươi hãy đi cùng với nhiều vị tỳ khưu.
– Bạch ngài, xin vâng. Sāriputta và Moggallāna đã trả lời đức Thế Tôn.
[88] – Và này các tỳ khưu, nên thực thi như vầy: Trước hết, các tỳ khưu nhóm Assaji và Punabbasuka cần được quở trách; sau khi quở trách cần được nhắc nhở; sau khi nhắc nhở cần xác định tội; sau khi xác định tội, hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Các tỳ khưu nhóm Assaji và Punabbasuka này là những kẻ làm hư hỏng các gia đình và có các hành động sai trái. Những hành động sai trái của họ không những được thấy rõ mà còn được nghe đồn nữa. Các gia đình bị hư hỏng vì họ không những được thấy rõ mà còn được nghe đồn nữa. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên thực thi hành sự xua đuổi ra khỏi vùng Kiṭāgiri đối với các tỳ khưu nhóm Assaji và Punabbasuka rằng: ‘Các tỳ khưu nhóm Assaji và Punabbasuka không được cư ngụ tại vùng Kiṭāgiri.’ Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Các tỳ khưu nhóm Assaji và Punabbasuka này là những kẻ làm hư hỏng các gia đình và có các hành động sai trái. Những hành động sai trái của họ không những được thấy rõ mà còn được nghe đồn nữa. Các gia đình bị hư hỏng vì họ không những được thấy rõ mà còn được nghe đồn nữa. Hội chúng thực thi hành sự xua đuổi ra khỏi vùng Kiṭāgiri đối với các tỳ khưu nhóm Assaji và Punabbasuka rằng: ‘Các tỳ khưu nhóm Assaji và Punabbasuka không được cư ngụ tại vùng Kiṭāgiri.’ Đại đức nào đồng ý việc thực thi hành sự xua đuổi ra khỏi vùng Kiṭāgiri đối với các tỳ khưu nhóm Assaji và Punabbasuka rằng: ‘Các tỳ khưu nhóm Assaji và Punabbasuka không được cư ngụ tại vùng Kiṭāgiri’ xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Các tỳ khưu nhóm Assaji và Punabbasuka này là những kẻ làm hư hỏng các gia đình và có các hành động sai trái. Những hành động sai trái của họ không những được thấy rõ mà còn được nghe đồn nữa. Các gia đình bị hư hỏng vì họ không những được thấy rõ mà còn được nghe đồn nữa. Hội chúng thực thi hành sự xua đuổi ra khỏi vùng Kiṭāgiri đối với các tỳ khưu nhóm Assaji và Punabbasuka rằng: ‘Các tỳ khưu nhóm Assaji và Punabbasuka không được cư ngụ tại vùng Kiṭāgiri.’ Đại đức nào đồng ý việc thực thi hành sự xua đuổi ra khỏi vùng Kiṭāgiri đối với các tỳ khưu nhóm Assaji và Punabbasuka rằng: ‘Các tỳ khưu nhóm Assaji và Punabbasuka không được cư ngụ tại vùng Kiṭāgiri’ xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Các tỳ khưu nhóm Assaji và Punabbasuka này là những kẻ làm hư hỏng các gia đình và có các hành động sai trái. Những hành động sai trái của họ không những được thấy rõ mà còn được nghe đồn nữa. Các gia đình bị hư hỏng vì họ không những được thấy rõ mà còn được nghe đồn nữa. Hội chúng thực thi hành sự xua đuổi ra khỏi vùng Kiṭāgiri đối với các tỳ khưu nhóm Assaji và Punabbasuka rằng: ‘Các tỳ khưu nhóm Assaji và Punabbasuka không được cư ngụ tại vùng Kiṭāgiri.’ Đại đức nào đồng ý việc thực thi hành sự xua đuổi ra khỏi vùng Kiṭāgiri đối với các tỳ khưu nhóm Assaji và Punabbasuka rằng: ‘Các tỳ khưu nhóm Assaji và Punabbasuka không được cư ngụ tại vùng Kiṭāgiri’ xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Hành sự xua đuổi ra khỏi vùng Kiṭāgiri đối với các tỳ khưu nhóm Assaji và Punabbasuka rằng: ‘Các tỳ khưu nhóm Assaji và Punabbasuka không được cư ngụ tại vùng Kiṭāgiri’ đã được hội chúng thực thi. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
[89]Này các tỳ khưu, hành sự xua đuổi là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất khi hội đủ ba điều kiện: Được thực thi thiếu sự hiện diện, được thực thi thiếu sự tra hỏi, được thực thi với sự không thừa nhận. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này hành sự xua đuổi là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất.
[90] Này các tỳ khưu, hành sự xua đuổi là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất khi hội đủ ba điều kiện khác nữa: Được thực thi với tội không vi phạm, được thực thi với tội vi phạm đưa đến việc không sám hối được, được thực thi với tội đã được sám hối. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này hành sự xua đuổi là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất.
[91] Này các tỳ khưu, hành sự xua đuổi là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất khi hội đủ ba điều kiện khác nữa: Được thực thi khi chưa quở trách, được thực thi khi chưa nhắc nhở, được thực thi khi chưa xác định tội. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này …(như trên)…
[92] Này các tỳ khưu, hành sự xua đuổi …(như trên)… hội đủ ba điều kiện khác nữa: Được thực thi thiếu sự hiện diện, được thực thi không theo Pháp, được thực thi bởi phe nhóm. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này hành sự xua đuổi …(như trên)… Được thực thi thiếu sự tra hỏi, được thực thi không theo Pháp, được thực thi bởi phe nhóm. …(như trên)… Được thực thi với sự không thừa nhận, được thực thi không theo Pháp, được thực thi bởi phe nhóm …(như trên)… Được thực thi với tội không vi phạm, được thực thi không theo Pháp, được thực thi bởi phe nhóm …(như trên)… Được thực thi với tội vi phạm đưa đến việc không sám hối được, được thực thi không theo Pháp, được thực thi bởi phe nhóm …(như trên)… Được thực thi với tội đã được sám hối, được thực thi không theo Pháp, được thực thi bởi phe nhóm …(như trên)… Được thực thi khi chưa quở trách, được thực thi không theo Pháp, được thực thi bởi phe nhóm …(như trên)… Được thực thi khi chưa nhắc nhở, được thực thi không theo Pháp, được thực thi bởi phe nhóm …(như trên)… Được thực thi khi chưa xác định tội, được thực thi không theo Pháp, được thực thi bởi phe nhóm. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này hành sự xua đuổi là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất.
Dứt mười hai trường hợp về hành sự không đúng Pháp.
[93] Này các tỳ khưu, hành sự xua đuổi là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, được hoàn tất tốt đẹp khi hội đủ ba điều kiện: Được thực thi với sự hiện diện, được thực thi từ sự tra hỏi, được thực thi do sự thừa nhận. …(như trên)…
[94] Này các tỳ khưu, hành sự xua đuổi là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, được hoàn tất tốt đẹp khi hội đủ ba điều kiện khác nữa: Được thực thi với tội vi phạm, được thực thi với tội vi phạm đưa đến việc sám hối được, được thực thi với tội chưa được sám hối. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này hành sự xua đuổi là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, được hoàn tất tốt đẹp.
[95] Này các tỳ khưu, hành sự xua đuổi là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, được hoàn tất tốt đẹp khi hội đủ ba điều kiện khác nữa: Được thực thi sau khi đã quở trách, được thực thi sau khi đã nhắc nhở, được thực thi sau khi đã xác định tội. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này hành sự xua đuổi …(như trên)…
[96] Này các tỳ khưu, hành sự xua đuổi là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, được hoàn tất tốt đẹp khi hội đủ ba điều kiện khác nữa: Được thực thi với sự hiện diện, được thực thi đúng theo Pháp, được thực thi với sự hợp nhất. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này hành sự xua đuổi là hành sự đúng Pháp, …(như trên)…
[97] Này các tỳ khưu, hành sự xua đuổi …(như trên)… hội đủ ba điều kiện khác nữa: Được thực thi từ sự tra hỏi, được thực thi đúng theo Pháp, được thực thi với sự hợp nhất. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này hành sự xua đuổi …(như trên)…
[98] Này các tỳ khưu, …(như trên)… ba điều kiện khác nữa: Được thực thi do sự thừa nhận, được thực thi đúng theo Pháp, được thực thi với sự hợp nhất. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này hành sự xua đuổi là hành sự đúng Pháp, …(như trên)…
[99] Này các tỳ khưu, hành sự xua đuổi …(như trên)… hội đủ ba điều kiện khác nữa: Được thực thi với tội vi phạm, được thực thi đúng theo Pháp, được thực thi với sự hợp nhất. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này hành sự xua đuổi …(như trên)…
[100] Này các tỳ khưu, hành sự xua đuổi …(như trên)… hội đủ ba điều kiện khác nữa: Được thực thi với tội vi phạm đưa đến việc sám hối được, được thực thi đúng theo Pháp, được thực thi với sự hợp nhất. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này hành sự xua đuổi …(như trên)…
[101] Này các tỳ khưu, hành sự xua đuổi …(như trên)… hội đủ ba điều kiện khác nữa: Được thực thi với tội chưa được sám hối, được thực thi đúng theo Pháp, được thực thi với sự hợp nhất. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này hành sự xua đuổi …(như trên)…
[102] Này các tỳ khưu, hành sự xua đuổi …(như trên)… hội đủ ba điều kiện khác nữa: Được thực thi sau khi đã quở trách, được thực thi đúng theo Pháp, được thực thi với sự hợp nhất. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này hành sự xua đuổi …(như trên)…
[103] Này các tỳ khưu, hành sự xua đuổi …(như trên)… hội đủ ba điều kiện khác nữa: Được thực thi sau khi đã nhắc nhở, được thực thi đúng theo Pháp, được thực thi với sự hợp nhất. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này hành sự xua đuổi …(như trên)…
[104] Này các tỳ khưu, …(như trên)… ba điều kiện khác nữa: Được thực thi sau khi đã xác định tội, được thực thi đúng theo Pháp, được thực thi với sự hợp nhất. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này hành sự xua đuổi là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, được hoàn tất tốt đẹp.
Dứt mười hai trường hợp về hành sự đúng Pháp.
[105]Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự xua đuổi đối với vị tỳ khưu hội đủ ba đặc tính: Vị thường gây nên sự xung đột, thường gây nên sự cãi cọ, thường gây nên sự tranh luận, thường gây nên sự nói chuyện nhảm nhí, thường gây nên sự tranh tụng trong hội chúng; vị ngu si, thiếu kinh nghiệm, phạm nhiều tội, chưa được làm cho thoát (tội); vị năng thân cận người tại gia, sống không nghiêm chỉnh lẫn lộn cùng người tại gia. Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự xua đuổi đối với vị tỳ khưu hội đủ ba đặc tính này.
[106] Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự xua đuổi đối với vị tỳ khưu hội đủ ba đặc tính khác nữa: Vị bị hư hỏng về giới thuộc tăng thượng giới, vị bị hư hỏng về hạnh kiểm thuộc tăng thượng hạnh, vị bị hư hỏng về tri kiến thuộc tri kiến sái quấy. Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự xua đuổi đối với vị tỳ khưu hội đủ ba đặc tính này.
[107] Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự xua đuổi đối với vị tỳ khưu hội đủ ba đặc tính khác nữa: Vị chê bai đức Phật, vị chê bai đức Pháp, vị chê bai đức Tăng. Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự xua đuổi đối với vị tỳ khưu hội đủ ba đặc tính này.
[108] Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự xua đuổi đối với vị tỳ khưu hội đủ ba đặc tính khác nữa: Vị có sự đùa giỡn bằng thân, vị có sự đùa giỡn bằng khẩu, vị có sự đùa giỡn bằng thân và khẩu. Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự xua đuổi đối với vị tỳ khưu hội đủ ba đặc tính này.
[109] Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự xua đuổi đối với vị tỳ khưu hội đủ ba đặc tính khác nữa: Vị có sở hành sai trái bằng thân, vị có sở hành sai trái bằng khẩu, vị có sở hành sai trái bằng thân và khẩu. Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự xua đuổi đối với vị tỳ khưu hội đủ ba đặc tính này.
[110] Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự xua đuổi đối với vị tỳ khưu hội đủ ba đặc tính khác nữa: Vị gây sự tổn hại bằng thân (kāyikena upaghātikena samannāgato hoti), vị gây sự tổn hại bằng khẩu, vị gây sự tổn hại bằng thân và khẩu. Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự xua đuổi đối với vị tỳ khưu hội đủ ba đặc tính này.
[111] Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự xua đuổi đối với vị tỳ khưu hội đủ ba đặc tính khác nữa: Vị có sự nuôi mạng sai trái bằng thân, vị có sự nuôi mạng sai trái bằng khẩu, vị có sự nuôi mạng sai trái bằng thân và khẩu. Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự xua đuổi đối với vị tỳ khưu hội đủ ba đặc tính này.
[112] Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự xua đuổi đối với ba hạng tỳ khưu: Hạng thường gây nên sự xung đột, thường gây nên sự cãi cọ, thường gây nên sự tranh luận, thường gây nên sự nói chuyện nhảm nhí, thường gây nên sự tranh tụng trong hội chúng; hạng ngu si, thiếu kinh nghiệm, phạm nhiều tội, chưa được làm cho thoát (tội); hạng năng thân cận người tại gia, sống không nghiêm chỉnh lẫn lộn cùng người tại gia. Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự xua đuổi đối với ba hạng tỳ khưu này.
[113] Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự xua đuổi đối với ba hạng tỳ khưu khác nữa: Hạng bị hư hỏng về giới thuộc tăng thượng giới, hạng bị bị hư hỏng về hạnh kiểm thuộc tăng thượng hạnh, hạng bị hư hỏng về tri kiến thuộc tri kiến sái quấy. Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự xua đuổi đối với ba hạng tỳ khưu này.
[114] Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự xua đuổi đối với ba hạng tỳ khưu khác nữa: Hạng chê bai đức Phật, hạng chê bai đức Pháp, hạng chê bai đức Tăng. Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự xua đuổi đối với ba hạng tỳ khưu này.
[115] Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự xua đuổi đối với ba hạng tỳ khưu khác nữa: Hạng có sự đùa giỡn bằng thân, hạng có sự đùa giỡn bằng khẩu, hạng có sự đùa giỡn bằng thân và khẩu. Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự xua đuổi đối với ba hạng tỳ khưu này.
[116] Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự xua đuổi đối với ba hạng tỳ khưu khác nữa: Hạng có sở hành sai trái bằng thân, hạng có sở hành sai trái bằng khẩu, hạng có sở hành sai trái bằng thân và khẩu. Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự xua đuổi đối với ba hạng tỳ khưu này.
[117] Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự xua đuổi đối với ba hạng tỳ khưu khác nữa: Hạng gây sự tổn hại bằng thân, hạng gây sự tổn hại bằng khẩu, hạng gây sự tổn hại bằng thân và khẩu. Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự xua đuổi đối với ba hạng tỳ khưu này.
[118] Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự xua đuổi đối với ba hạng tỳ khưu khác nữa: Hạng có sự nuôi mạng sai trái bằng thân, hạng có sự nuôi mạng sai trái bằng khẩu, hạng có sự nuôi mạng sai trái bằng thân và khẩu. Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự xua đuổi đối với ba hạng tỳ khưu này.
Dứt mười bốn trường hợp nếu muốn.
[119] Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu thực thi hành sự xua đuổi nên làm phận sự một cách nghiêm chỉnh. Trong trường hợp này, các phận sự nghiêm chỉnh ấy là: Không nên ban phép tu lên bậc trên, không nên ban cho phép nương nhờ, không nên bảo sa di phục vụ, không nên chấp nhận sự chỉ định giảng dạy tỳ khưu ni, không nên giảng dạy tỳ khưu ni dầu đã được chỉ định, không nên tái phạm tội đã được hội chúng thực thi hành sự xua đuổi, hoặc tội tương tợ, hoặc tội nghiêm trọng hơn tội ấy, không nên chỉ trích hành sự, không nên chỉ trích các vị thực thi hành sự, đối với vị tỳ khưu trong sạch không nên đình chỉ lễ Uposatha, không nên đình chỉ lễ Pavāraṇā, không nên sai bảo, không nên cáo tội, không nên thỉnh ý (để buộc tội), không nên quở trách, không nên nhắc nhở, (và) không nên cấu kết các tỳ khưu với các tỳ khưu.
Dứt mười tám phận sự thuộc hành sự xua đuổi.
[120]Sau đó, hội chúng tỳ khưu dẫn đầu là Sāriputta và Moggallāna đã đi đến vùng Kiṭāgiri và đã thực thi hành sự xua đuổi ra khỏi vùng Kiṭāgiri đối với các tỳ khưu nhóm Assaji và Punabbasuka rằng: : “Các tỳ khưu nhóm Assaji và Punabbasuka không được cư ngụ tại vùng Kiṭāgiri.” Khi được hội chúng thực thi hành sự xua đuổi, các vị ấy không làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, không trở nên thu thúc, không làm bổn phận để sửa đổi, không làm cho các tỳ khưu hài lòng, họ mắng chửi, họ nói xấu, họ bị sa đọa do có sự thiên vị vì thương, do có sự thiên vị vì ghét, do có sự thiên vị vì si mê, do có sự thiên vị vì sợ hãi, họ còn bỏ đi, họ còn hoàn tục nữa. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Vì sao các tỳ khưu nhóm Assaji và Punabbasuka khi được hội chúng thực thi hành sự xua đuổi lại không làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, không trở nên thu thúc, không làm bổn phận để sửa đổi, không làm cho các tỳ khưu hài lòng, họ lại mắng chửi, họ lại nói xấu, họ bị sa đọa do có sự thiên vị vì thương, do có sự thiên vị vì ghét, do có sự thiên vị vì si mê, do có sự thiên vị vì sợ hãi, họ lại còn bỏ đi, họ lại còn hoàn tục nữa?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
[121] Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội chúng tỷ kheo lại và hỏi các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, nghe nói khi được hội chúng thực thi hành sự xua đuổi, các tỳ khưu nhóm Assaji và Punabbasuka không làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, không trở nên thu thúc, không làm bổn phận để sửa đổi, không làm cho các tỳ khưu hài lòng, họ mắng chửi, họ nói xấu, họ bị sa đọa do có sự thiên vị vì thương, do có sự thiên vị vì ghét, do có sự thiên vị vì si mê, do có sự thiên vị vì sợ hãi, họ còn bỏ đi, họ còn hoàn tục nữa, có đúng không vậy?
– Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
– Này các tỳ khưu, thật không đúng đắn cho những kẻ rồ dại ấy, …(như trên)… Này các tỳ khưu, vì sao những kẻ rồ dại ấy khi được hội chúng thực thi hành sự xua đuổi, lại không làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, không trở nên thu thúc, không làm bổn phận để sửa đổi, không làm cho các tỳ khưu hài lòng, họ lại mắng chửi, họ lại nói xấu, họ bị sa đọa do có sự thiên vị vì thương, do có sự thiên vị vì ghét, do có sự thiên vị vì si mê, do có sự thiên vị vì sợ hãi, họ lại còn bỏ đi, họ lại còn hoàn tục nữa? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)…
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, như vậy thì hội chúng hãy thu hồi hành sự xua đuổi.
[122]Này các tỳ khưu, hành sự xua đuổi không nên thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện: Vị ban phép tu lên bậc trên, ban cho phép nương nhờ, bảo sa di phục vụ, chấp nhận sự chỉ định giảng dạy tỳ khưu ni, giảng dạy tỳ khưu ni khi đã được chỉ định. Này các tỳ khưu, hành sự xua đuổi không nên thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện này.
[123] Này các tỳ khưu, hành sự xua đuổi không nên thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện khác nữa: Vị tái phạm tội đã được hội chúng thực thi hành sự xua đuổi, hoặc tội tương tợ, hoặc tội nghiêm trọng hơn tội ấy, vị chỉ trích hành sự, chỉ trích các vị thực thi hành sự. Này các tỳ khưu, hành sự xua đuổi không nên thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện này.
[124] Này các tỳ khưu, hành sự xua đuổi không nên thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ tám điều kiện: Vị đình chỉ lễ Uposatha, đình chỉ lễ Pavāraṇā của vị tỳ khưu trong sạch, vị sai bảo, cáo tội, thỉnh ý (để buộc tội), quở trách, nhắc nhở (vị tỳ khưu trong sạch), vị cấu kết các tỳ khưu với các tỳ khưu. Này các tỳ khưu, hành sự xua đuổi không nên thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ tám điều kiện này.
Dứt mười tám trường hợp không nên thu hồi thuộc hành sự xua đuổi.
[125]Này các tỳ khưu, hành sự xua đuổi nên được thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện: Vị không ban phép tu lên bậc trên, không ban cho phép nương nhờ, không bảo sa di phục vụ, không chấp nhận sự chỉ định giảng dạy tỳ khưu ni, không giảng dạy tỳ khưu ni dầu đã được chỉ định. Này các tỳ khưu, hành sự xua đuổi nên được thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện này.
[126] Này các tỳ khưu, hành sự xua đuổi nên được thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện khác nữa: Vị không tái phạm tội đã được hội chúng thực thi hành sự xua đuổi, hoặc tội tương tợ, hoặc tội nghiêm trọng hơn tội ấy, vị không chỉ trích hành sự, không chỉ trích các vị thực thi hành sự, Này các tỳ khưu, hành sự xua đuổi nên được thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện này.
[127] Này các tỳ khưu, hành sự xua đuổi nên được thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ tám điều kiện: Vị không đình chỉ lễ Uposatha, không đình chỉ lễ Pavāraṇā của vị tỳ khưu trong sạch, vị không sai bảo, không cáo tội, không thỉnh ý (để buộc tội), không quở trách, không nhắc nhở (vị tỳ khưu trong sạch), vị không cấu kết các tỳ khưu với các tỳ khưu. Này các tỳ khưu, hành sự xua đuổi nên được thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ tám điều kiện này.
Dứt mười tám trường hợp nên thu hồi thuộc hành sự xua đuổi.
[128] Và này các tỳ khưu, nên thu hồi như vầy: Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu đã được thực thi hành sự xua đuổi ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các vị tỳ khưu trưởng thượng, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên nói như vầy:
“Bạch các ngài, được hội chúng thực thi hành sự xua đuổi, tôi làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi; giờ tôi thỉnh cầu sự thu hồi hành sự xua đuổi.”
Nên thỉnh cầu đến lần thứ nhì. Nên thỉnh cầu đến lần thứ ba.
Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Được hội chúng thực thi hành sự xua đuổi, vị tỳ khưu này tên (như vầy) làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, giờ thỉnh cầu sự thu hồi hành sự xua đuổi. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên thu hồi hành sự xua đuổi đối với vị tỳ khưu tên (như vầy). Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Được hội chúng thực thi hành sự xua đuổi, vị tỳ khưu này tên (như vầy) làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, giờ thỉnh cầu sự thu hồi hành sự xua đuổi. Hội chúng thu hồi hành sự xua đuổi đối với vị tỳ khưu tên (như vầy). Đại đức nào đồng ý việc thu hồi hành sự xua đuổi đối với vị tỳ khưu tên (như vầy) xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: …(như trên)…
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Được hội chúng thực thi hành sự xua đuổi, vị tỳ khưu này tên (như vầy) làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, giờ thỉnh cầu sự thu hồi hành sự xua đuổi. Hội chúng thu hồi hành sự xua đuổi đối với vị tỳ khưu tên (như vầy). Đại đức nào đồng ý việc thu hồi hành sự xua đuổi đối với vị tỳ khưu tên (như vầy) xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Hành sự xua đuổi đối với vị tỳ khưu tên (như vầy) đã được hội chúng thu hồi. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
Dứt hành sự xua đuổi là phần thứ ba.
[1] Hai vị này là các vị đứng đầu trong nhóm Lục Sư. Thứ tự được ngài Buddhaghosa trình bày là hai vị Paṇḍuka và Lohitaka ở thành Sāvatthi, hai vị Mettiya và Bhummajaka ở thành Rājagaha, hai vị Assaji và Punabbasuka ở vùng Kiṭāgiri.
[2] Chú giải giải thích: “Được thực hiện không có đủ sự hiện diện của hội chúng, của Pháp, của Luậṭ, và vị bị khiển trách.” Xem phần giải thích ở chương IV, [672].
[3] Là tội pārājika (bất cộng trụ) hoặc saṅghādisesa (tăng tàng).
[4] Adhisīla (tăng thượng giới) gồm bốn tội pārājika và mười ba tội saṅghādisesa, ajjhācāra (tăng thượng hạnh) là tội thuộc năm nhóm tội còn lại của giới bổn Pātimokkha, atidiṭṭhi là không theo chánh kiến và chấp thủ tà kiến (ghi theo lời giải thích của ngài Buddhaghosa).
[5] Parivāsa đã được các vị tiền bối dịch là: phép sống riêng, biệt trú, v.v… Theo thiển ý, chúng tôi muốn giữ nguyên vì đây là từ có tính cách chuyên môn, khó tìm được từ tương đương. Hơn nữa, nhớ được các từ chuyên môn này sẽ có ích lợi khi giao tiếp với các vị học giả học Phật người nước ngoài.
[6] Từ mānatta đã được dịch là: phép hoan hỷ, hoặc tự hối, v.v…
[7] Khi đề cập đến việc làm cho thoát tội saṅghādisesa, ba từ chuyên môn cần ghi nhớ: parivāsa, mānatta, abbhāna (đã được dịch là giải tội, hoặc phục vị, v.v… Chúng tôi tạm sử dụng từ giải tội để ghi nhận sự kết thúc việc làm cho thoát tội).
[8] Hai vị này là các vị đứng đầu trong nhóm Lục Sư. Xem thêm cước chú 1 ở trên.
I. CHƯƠNG HÀNH SỰ (tt)
(KAMMAKKHANDHAKAṂ)
4. HÀNH SỰ HÒA GIẢI (PAṬISĀRAṆĪYAKAMMAṂ):
[129] Vào lúc bấy giờ, đại đức Sudhamma là vị thường trú, là vị trông nom công trình mới, là vị thường xuyên thọ lãnh vật thực của gia chủ Citta ở làng Macchikāsaṇḍa. Mỗi khi gia chủ Citta có ý muốn thỉnh mời hội chúng, hoặc nhóm, hoặc cá nhân, gia chủ không thỉnh mời hội chúng, hoặc nhóm, hoặc cá nhân khi chưa hỏi qua ý kiến của đại đức Sudhamma. Vào lúc bấy giờ, nhiều vị tỳ khưu trưởng lão như đại đức Sāriputta, đại đức Mahāmoggallāna, đại đức Mahākaccāna, đại đức Mahākoṭṭhika, đại đức Mahākappina, đại đức Mahācunda, đại đức Anuruddha, đại đức Revata, đại đức Upāli, đại đức Ānanda, và đại đức Rāhula đang đi du hành trong xứ Kāsi và đã đến ngụ tại Macchikāsaṇḍa.
[130] Gia chủ Citta đã nghe rằng: “Nghe nói các vị tỳ khưu trưởng lão đã đi đến Macchikāsaṇḍa.” Khi ấy, gia chủ Citta đã đi đến gặp các vị tỳ khưu trưởng lão, sau khi đến đã đảnh lễ các vị tỳ khưu trưởng lão rồi ngồi xuống ở một bên. Đại đức Sāriputta đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho gia chủ Citta đang ngồi một bên bằng bài Pháp thoại. Sau đó, khi đã được đại đức Sāriputta chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi bằng bài Pháp thoại, gia chủ Citta đã nói với các vị tỳ khưu trưởng lão điều này:
– Bạch các ngài, xin các trưởng lão hãy nhận lời con về bữa ăn dành cho các vị khách vào ngày mai.
Các vị tỳ khưu trưởng lão đã nhận lời bằng thái độ im lặng.
[131] Sau đó, khi hiểu được sự nhận lời của các vị tỳ khưu trưởng lão, gia chủ Citta đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ các vị tỳ khưu trưởng lão, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi đã đi đến gặp đại đức Sudhamma, sau khi đến đã đảnh lễ đại đức Sudhamma rồi đứng ở một bên. Khi đã đứng một bên, gia chủ Citta đã nói với đại đức Sudhamma điều này:
– Thưa ngài, xin ngài đại đức Sudhamma nhận lời con về bữa ăn vào ngày mai cùng với các vị trưởng lão.
Khi ấy, đại đức Sudhamma (nghĩ rằng): “Trước đây, gia chủ Citta này mỗi khi có ý muốn thỉnh mời hội chúng, hoặc nhóm, hoặc cá nhân, gia chủ không thỉnh mời hội chúng, hoặc nhóm, hoặc cá nhân khi chưa hỏi qua ý kiến của ta. Giờ đây, ông ta không hỏi ý ta mà đã thỉnh mời các vị tỳ khưu trưởng lão; giờ đây, gia chủ Citta này đã hư hỏng, hờ hững, ngó bộ không còn gắn bó với ta nữa” nên đã nói với gia chủ Citta điều này:
– Này gia chủ, thôi đi. Ta không nhận lời.
Đến lần thứ nhì, gia chủ Citta đã nói với đại đức Sudhamma điều này:
– Thưa ngài, xin ngài đại đức Sudhamma nhận lời con về bữa ăn vào ngày mai cùng với các vị trưởng lão.
– Này gia chủ, thôi đi. Ta không nhận lời.
Đến lần thứ ba, gia chủ Citta đã nói với đại đức Sudhamma điều này:
– Thưa ngài, xin ngài đại đức Sudhamma nhận lời con về bữa ăn vào ngày mai cùng với các vị trưởng lão.
– Này gia chủ, thôi đi. Ta không nhận lời.
Khi ấy, gia chủ Citta (nghĩ rằng): “Điều gì sẽ ảnh hưởng đến ta khi ngài Sudhamma nhận lời hay không nhận lời?” nên đã đảnh lễ đại đức Sudhamma, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi.
[132]Sau khi đêm ấy trôi qua, gia chủ Citta đã cho người chuẩn bị thức ăn thượng hạng loại cứng loại mềm cho các vị tỳ khưu trưởng lão. Rồi đại đức Sudhamma (nghĩ rằng): “Có lẽ ta nên xem qua sự chuẩn bị cho các vị tỳ khưu trưởng lão của gia chủ Citta như thế nào?” nên vào buổi sáng đã mặc y, cầm y bát, đi đến nhà của gia chủ Citta, sau khi đến đã ngồi xuống trên chỗ ngồi được sắp đặt sẵn. Khi ấy, gia chủ Citta đã đi đến gặp đại đức Sudhamma, sau khi đến đã đảnh lễ đại đức Sudhamma rồi ngồi xuống ở một bên. Đại đức Sudhamma đã nói với gia chủ Citta đang ngồi một bên điều này:
– Này gia chủ, thức ăn loại cứng loại mềm này đã được ngươi chuẩn bị thật là đầy đủ. Còn một thứ ở đây chưa có, đó là bánh mè.
– Thưa ngài, trong khi rất nhiều điều được tìm thấy trong lời dạy cao quý của đức Phật, vậy mà ngài đại đức Sudhamma chỉ nói đến một điều, đó là “Bánh mè.” Thưa ngài, trong thời quá khứ, các thương buôn người phương nam đã đi đến xứ sở phía đông để buôn bán. Từ xứ ấy, họ đã đem đi một con gà mái. Thưa ngài, sau đó con gà mái ấy đã được cho ở chung với con quạ. Nó đã sanh ra con gà con. Thưa ngài, khi con gà con ấy muốn kêu tiếng kêu của con quạ thì nó kêu: “quạ quạ tục tục;” khi nào nó muốn kêu tiếng kêu của con gà mái thì nó kêu: “tục tục quạ quạ.” Thưa ngài, cũng tương tợ như thế, trong khi rất nhiều điều được tìm thấy trong lời dạy quý báu của đức Phật, vậy mà ngài đại đức Sudhamma chỉ nói đến một điều, đó là “Bánh mè.”
– Này gia chủ, ngươi mắng nhiếc ta. Này gia chủ, ngươi nói xấu ta. Này gia chủ, đây là trú xứ của ngươi, ta sẽ bỏ đi khỏi trú xứ này.
– Thưa ngài, con không có mắng nhiếc, con không có nói xấu ngài đại đức Sudhamma. Thưa ngài, xin ngài đại đức Sudhamma hãy cư ngụ ở làng Macchikāsaṇḍa, trong khu rừng xoài khả ái. Con sẽ ra sức cho ngài đại đức Sudhamma về vật dụng là y phục, vật thực, chỗ trú ngụ, và thuốc men khi bị bệnh.
Đến lần thứ nhì, đại đức Sudhamma đã nói với gia chủ Citta điều này:
– Này gia chủ, ngươi mắng nhiếc ta. Này gia chủ, ngươi nói xấu ta. Này gia chủ, đây là chỗ ở của ngươi, ta sẽ bỏ đi khỏi trú xứ này.
– Thưa ngài, con không có mắng nhiếc, con không có nói xấu ngài đại đức Sudhamma. Thưa ngài, xin ngài đại đức Sudhamma hãy cư ngụ ở làng Macchikāsaṇḍa, trong khu rừng xoài khả ái. Con sẽ ra sức cho ngài đại đức Sudhamma về vật dụng là y phục, vật thực, chỗ trú ngụ, và thuốc men khi bị bệnh.
Đến lần thứ ba, đại đức Sudhamma đã nói với gia chủ Citta điều này:
– Này gia chủ, ngươi mắng nhiếc ta. Này gia chủ, ngươi nói xấu ta. Này gia chủ, đây là chỗ ở của ngươi, ta sẽ bỏ đi khỏi trú xứ này.
– Thưa ngài, ngài đại đức Sudhamma sẽ đi đâu?
– Này gia chủ, ta sẽ đi đến Sāvatthi để diện kiến đức Thế Tôn.
– Thưa ngài, như vậy điều gì ngài đã nói và điều gì con đã nói, tất cả các điều ấy xin ngài hãy trình lên đức Thế Tôn. Thưa ngài, việc ngài đại đức Sudhamma sẽ trở lại Macchikāsaṇḍa một lần nữa là điều không có gì lạ thường cả.
[133]Sau đó, đại đức Sudhamma đã dọn dẹp chỗ trú ngụ rồi cầm y bát đi đến Sāvatthi. Tuần tự, đại đức Sudhamma đã đi đến Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, đại đức Sudhamma đã trình lên đức Thế Tôn tất cả điều gì bản thân đã nói và điều gì gia chủ Citta đã nói.
[134] Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
– Này kẻ rồ dại, thật là không đúng đắn, không hợp lẽ, không tốt đẹp, không xứng pháp sa-môn, không được phép, không nên làm. Này kẻ rồ dại, vì sao ngươi lại chỉ trích một cách thậm tệ, lại khinh bỉ một cách thậm tệ gia chủ Citta là người thí chủ có niềm tin đã được an trú, là người thí chủ, là người thực hiện sự hộ độ cho hội chúng? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)…
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, như vậy thì hội chúng hãy thực thi hành sự hòa giải đối với tỳ khưu Sudhamma rằng: “Ngươi nên yêu cầu gia chủ Citta thứ lỗi.” Và này các tỳ khưu, nên thực thi như vầy: Trước hết, tỳ khưu Sudhamma cần được quở trách; sau khi quở trách cần được nhắc nhở; sau khi nhắc nhở cần xác định tội; sau khi xác định tội, hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ khưu Sudhamma này chỉ trích một cách thậm tệ, khinh bỉ một cách thậm tệ gia chủ Citta là người thí chủ có niềm tin đã được an trú, là người thí chủ, là người thực hiện sự hộ độ cho hội chúng. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên thực thi hành sự hòa giải đối với tỳ khưu Sudhamma rằng: ‘Ngươi nên yêu cầu gia chủ Citta thứ lỗi.’ Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ khưu Sudhamma này chỉ trích một cách thậm tệ, khinh bỉ một cách thậm tệ gia chủ Citta là người thí chủ có niềm tin đã được an trú, là người thí chủ, là người thực hiện sự hộ độ cho hội chúng. Hội chúng thực thi hành sự hòa giải đối với tỳ khưu Sudhamma rằng: ‘Ngươi nên yêu cầu gia chủ Citta thứ lỗi.’ Đại đức nào đồng ý việc thực thi hành sự hòa giải đối với tỳ khưu Sudhamma rằng: ‘Ngươi nên yêu cầu gia chủ Citta thứ lỗi’ xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: …(như trên)…
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ khưu Sudhamma này chỉ trích một cách thậm tệ, khinh bỉ một cách thậm tệ gia chủ Citta là người thí chủ có niềm tin đã được an trú, là người thí chủ, là người thực hiện sự hộ độ cho hội chúng. Hội chúng thực thi hành sự hòa giải đối với tỳ khưu Sudhamma rằng: ‘Ngươi nên yêu cầu gia chủ Citta thứ lỗi.’ Đại đức nào đồng ý việc thực thi hành sự hòa giải đối với tỳ khưu Sudhamma rằng: ‘Ngươi nên yêu cầu gia chủ Citta thứ lỗi’ xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Hành sự hòa giải đối với tỳ khưu Sudhamma rằng: ‘Ngươi nên yêu cầu gia chủ Citta thứ lỗi’ đã được hội chúng thực thi. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
[135]Này các tỳ khưu, hành sự hòa giải là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất khi hội đủ ba điều kiện: Được thực thi thiếu sự hiện diện, được thực thi thiếu sự tra hỏi, được thực thi với sự không thừa nhận. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này hành sự hòa giải là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất.
[136] Này các tỳ khưu, hành sự hòa giải là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất khi hội đủ ba điều kiện khác nữa: Được thực thi với tội không vi phạm, được thực thi với tội vi phạm đưa đến việc không sám hối được, được thực thi với tội đã được sám hối. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này hành sự hòa giải là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất.
[137] Này các tỳ khưu, hành sự hòa giải là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất khi hội đủ ba điều kiện khác nữa: Được thực thi khi chưa quở trách, được thực thi khi chưa nhắc nhở, được thực thi khi chưa xác định tội. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này hành sự hòa giải là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất.
[138] Này các tỳ khưu, hành sự hòa giải là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất khi hội đủ ba điều kiện khác nữa: Được thực thi thiếu sự hiện diện, được thực thi không theo Pháp, được thực thi bởi phe nhóm. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này …(như trên)…
[139] Này các tỳ khưu, hành sự hòa giải là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất khi hội đủ ba điều kiện khác nữa: Được thực thi thiếu sự tra hỏi, được thực thi không theo Pháp, được thực thi bởi phe nhóm. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này hành sự hòa giải là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất.
[140] Này các tỳ khưu, hành sự hòa giải là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất khi hội đủ ba điều kiện khác nữa: Được thực thi với sự không thừa nhận, được thực thi không theo Pháp, được thực thi bởi phe nhóm. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này hành sự hòa giải là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất.
[141] Này các tỳ khưu, hành sự hòa giải là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất khi hội đủ ba điều kiện khác nữa: Được thực thi với tội không vi phạm, được thực thi không theo Pháp, được thực thi bởi phe nhóm. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này hành sự hòa giải là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất.
[142] Này các tỳ khưu, hành sự hòa giải là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất khi hội đủ ba điều kiện khác nữa: Được thực thi với tội vi phạm đưa đến việc không sám hối được, được thực thi không theo Pháp, được thực thi bởi phe nhóm. …(như trên)…
[143] Này các tỳ khưu, …(như trên)… ba điều kiện khác nữa: Được thực thi với tội đã được sám hối, được thực thi không theo Pháp, được thực thi bởi phe nhóm. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này hành sự hòa giải là hành sự không đúng Pháp, …(như trên)…
[144] Này các tỳ khưu, …(như trên)… ba điều kiện khác nữa: Được thực thi khi chưa quở trách, được thực thi không theo Pháp, được thực thi bởi phe nhóm. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này hành sự hòa giải là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất.
[145] Này các tỳ khưu, hành sự hòa giải là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất khi hội đủ ba điều kiện khác nữa: Được thực thi khi chưa nhắc nhở, được thực thi không theo Pháp, được thực thi bởi phe nhóm. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này hành sự hòa giải là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất.
[146] Này các tỳ khưu, hành sự hòa giải là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất khi hội đủ ba điều kiện khác nữa: Được thực thi khi chưa xác định tội, được thực thi không theo Pháp, được thực thi bởi phe nhóm. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này hành sự hòa giải là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất.
Dứt mười hai trường hợp về hành sự không đúng Pháp thuộc hành sự hòa giải.
[147] Này các tỳ khưu, hành sự hòa giải là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, được hoàn tất tốt đẹp khi hội đủ ba điều kiện: Được thực thi với sự hiện diện, được thực thi từ sự tra hỏi, được thực thi do sự thừa nhận. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này hành sự hòa giải là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, được hoàn tất tốt đẹp.
[148] Này các tỳ khưu, hành sự hòa giải là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, được hoàn tất tốt đẹp khi hội đủ ba điều kiện khác nữa: Được thực thi với tội vi phạm, được thực thi với tội vi phạm đưa đến việc sám hối được, được thực thi với tội chưa được sám hối. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này hành sự hòa giải là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, được hoàn tất tốt đẹp.
[149] Này các tỳ khưu, hành sự hòa giải là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, được hoàn tất tốt đẹp khi hội đủ ba điều kiện khác nữa: Được thực thi sau khi đã quở trách, được thực thi sau khi đã nhắc nhở, được thực thi sau khi đã xác định tội. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này hành sự hòa giải …(như trên)…
[150] Này các tỳ khưu, …(như trên)… ba điều kiện khác nữa: Được thực thi với sự hiện diện, được thực thi đúng theo Pháp, được thực thi với sự hợp nhất. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này hành sự hòa giải …(như trên)…
[151] Này các tỳ khưu, …(như trên)… ba điều kiện khác nữa: Được thực thi từ sự tra hỏi, được thực thi đúng theo Pháp, được thực thi với sự hợp nhất. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này …(như trên)…
[152] Này các tỳ khưu, …(như trên)… ba điều kiện khác nữa: Được thực thi do sự thừa nhận, được thực thi đúng theo Pháp, được thực thi với sự hợp nhất. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này …(như trên)…
[153] Này các tỳ khưu, …(như trên)… ba điều kiện khác nữa: Được thực thi với tội vi phạm, được thực thi đúng theo Pháp, được thực thi với sự hợp nhất. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này …(như trên)…
[154] Này các tỳ khưu, …(như trên)… ba điều kiện khác nữa: Được thực thi với tội vi phạm đưa đến việc sám hối được, được thực thi đúng theo Pháp, được thực thi với sự hợp nhất. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này …(như trên)…
[155] Này các tỳ khưu, …(như trên)… ba điều kiện khác nữa: Được thực thi với tội chưa được sám hối, được thực thi đúng theo Pháp, được thực thi với sự hợp nhất. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này …(như trên)…
[156] Này các tỳ khưu, …(như trên)… ba điều kiện khác nữa: Được thực thi sau khi đã quở trách, được thực thi đúng theo Pháp, được thực thi với sự hợp nhất. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này …(như trên)…
[157] Này các tỳ khưu, …(như trên)… ba điều kiện khác nữa: Được thực thi sau khi đã nhắc nhở, được thực thi đúng theo Pháp, được thực thi với sự hợp nhất. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này hành sự hòa giải là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, được hoàn tất tốt đẹp.
[158] Này các tỳ khưu, hành sự hòa giải là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, được hoàn tất tốt đẹp khi hội đủ ba điều kiện khác nữa: Được thực thi sau khi đã xác định tội, được thực thi đúng theo Pháp, được thực thi với sự hợp nhất. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này hành sự hòa giải là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, được hoàn tất tốt đẹp.
Dứt mười hai trường hợp về hành sự đúng Pháp thuộc hành sự hòa giải.
[159] Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự hòa giải đối với vị tỳ khưu hội đủ năm đặc tính: Vị ra sức làm cho các người tại gia bị mất lợi lộc, vị ra sức làm cho các người tại gia bị mất lợi ích, vị ra sức làm cho các người tại gia bị mất chỗ ở, vị mắng nhiếc nói xấu các người tại gia, vị chia rẽ các người tại gia với các người tại gia. Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự hòa giải đối với vị tỳ khưu hội đủ năm đặc tính này.
[160] Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự hòa giải đối với vị tỳ khưu hội đủ năm đặc tính khác nữa: Vị chê bai đức Phật trước (mặt) các người tại gia, vị chê bai đức Pháp trước (mặt) các người tại gia, vị chê bai đức Tăng trước (mặt) các người tại gia, vị chỉ trích các người tại gia một cách thậm tệ và khinh bỉ các người tại gia một cách thậm tệ, vị không thực hiện điều hứa hẹn hợp lý đối với các người tại gia. Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự hòa giải đối với vị tỳ khưu hội đủ năm đặc tính này.
[161] Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự hòa giải đối với năm hạng tỳ khưu: Hạng ra sức làm cho các người tại gia bị mất lợi lộc, hạng ra sức làm cho các người tại gia bị mất lợi ích, hạng ra sức làm cho các người tại gia bị mất chỗ ở, hạng mắng nhiếc nói xấu các người tại gia, hạng chia rẽ các người tại gia với các người tại gia. Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự hòa giải đối với năm hạng tỳ khưu này.
[162] Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự hòa giải đối với năm hạng tỳ khưu khác nữa: Hạng chê bai đức Phật trước (mặt) các người tại gia, hạng chê bai đức Pháp trước (mặt) các người tại gia, hạng chê bai đức Tăng trước (mặt) các người tại gia, hạng chỉ trích các người tại gia một cách thậm tệ và khinh bỉ các người tại gia một cách thậm tệ, hạng không thực hiện điều hứa hẹn hợp lý đối với các người tại gia. Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự hòa giải đối với năm hạng tỳ khưu này.
Dứt bốn trường hợp nếu muốn.
[163] Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu thực thi hành sự hòa giải nên làm phận sự một cách nghiêm chỉnh. Trong trường hợp này, các phận sự nghiêm chỉnh ấy là: Không nên ban phép tu lên bậc trên, không nên ban cho phép nương nhờ, không nên bảo sa di phục vụ, không nên chấp nhận sự chỉ định giảng dạy tỳ khưu ni, không nên giảng dạy tỳ khưu ni dầu đã được chỉ định, không nên tái phạm tội đã được hội chúng thực thi hành sự hòa giải, hoặc tội tương tợ, hoặc tội nghiêm trọng hơn tội ấy, không nên chỉ trích hành sự, không nên chỉ trích các vị thực thi hành sự, đối với vị tỳ khưu trong sạch không nên đình chỉ lễ Uposatha, không nên đình chỉ hành lễ Pavāraṇā, không nên sai bảo, không nên cáo tội, không nên thỉnh ý (để buộc tội), không nên quở trách, không nên nhắc nhở, (và) không nên cấu kết các tỳ khưu với các tỳ khưu.
Dứt mười tám phận sự thuộc hành sự hòa giải.
[164]Sau đó, hội chúng đã thực thi hành sự hòa giải đối với tỳ khưu Sudhamma rằng: “Ngươi nên yêu cầu gia chủ Citta thứ lỗi.” Khi được hội chúng thực thi hành sự hòa giải, vị ấy đã đi đến Macchikāsaṇḍa nhưng vì xấu hổ không thể yêu cầu gia chủ Citta thứ lổi. Vị ấy đã quay trở lại Sāvatthi lần nữa. Các tỳ khưu đã nói như vầy:
– Này đại đức Sudhamma, đại đức đã yêu cầu gia chủ Citta thứ lỗi chưa?
– Này các đại đức, trong trường hợp này tôi đã đi đến Macchikāsaṇḍa nhưng vì xấu hổ không thể yêu cầu gia chủ Citta thứ lổi.
Các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, như vậy thì hội chúng hãy cho sứ giả cùng đi với tỳ khưu Sudhamma để yêu cầu gia chủ Citta thứ lỗi. Và này các tỳ khưu, nên ban cho như vầy: Trước tiên, vị tỳ khưu cần được yêu cầu; sau khi yêu cầu, hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên cho vị tỳ khưu tên (như vầy) làm sứ giả cùng đi với tỳ khưu Sudhamma để yêu cầu gia chủ Citta thứ lỗi. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Hội chúng cho vị tỳ khưu tên (như vầy) làm sứ giả cùng đi với tỳ khưu Sudhamma để yêu cầu gia chủ Citta thứ lỗi. Đại đức nào đồng ý việc cho vị tỳ khưu tên (như vầy) làm sứ giả cùng đi với tỳ khưu Sudhamma để yêu cầu gia chủ Citta thứ xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Vị tỳ khưu tên (như vầy) là sứ giả cùng đi với tỳ khưu Sudhamma để yêu cầu gia chủ Citta thứ lỗi đã được hội chúng cho phép. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
[165]Này các tỳ khưu, tỳ khưu Sudhamma ấy và vị tỳ khưu sứ giả cùng đi nên đi đến Macchikāsaṇḍa và nên yêu cầu gia chủ Citta thứ lỗi rằng:
– Này gia chủ, hãy thứ lỗi. Tôi đang làm cho người hoan hỷ.
Nếu được nói như vậy mà vị ấy thứ lỗi, như thế việc ấy là tốt đẹp. Nếu vị ấy không thứ lỗi, vị tỳ khưu sứ giả cùng đi nên nói rằng:
– Này gia chủ, hãy thứ lỗi cho vị tỳ khưu này. Vị ấy đang làm cho người hoan hỷ.
Nếu được nói như vậy mà vị ấy thứ lỗi, như thế việc ấy là tốt đẹp. Nếu vị ấy không thứ lỗi, vị tỳ khưu sứ giả cùng đi nên nói rằng:
– Này gia chủ, hãy thứ lỗi cho vị tỳ khưu này. Tôi đang làm cho người hoan hỷ.
Nếu được nói như vậy mà vị ấy thứ lỗi, như thế việc ấy là tốt đẹp. Nếu vị ấy không thứ lỗi, vị tỳ khưu sứ giả cùng đi nên nói rằng:
– Này gia chủ, hãy thứ lỗi cho vị tỳ khưu này vì lời nói của hội chúng.
Nếu được nói như vậy mà vị ấy thứ lỗi, như thế việc ấy là tốt đẹp. Nếu vị ấy không thứ lỗi, vị tỳ khưu sứ giả cùng đi không nên dẫn tỳ khưu Sudhamma đi khỏi tầm nhìn, không nên dẫn đi khỏi tầm nghe của gia chủ Citta, nên bảo đắp thượng y một bên vai, bảo ngồi chồm hổm, bảo chắp tay lên, và bảo sám hối tội ấy.
[166] Sau đó, đại đức Sudhamma và sứ giả cùng đi đã đi đến Macchikāsaṇḍa và yêu cầu gia chủ Citta thứ lỗi. Vị ấy làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, rồi đi đến gặp các tỳ khưu và nói như vầy:
– Bạch chư đại đức, được hội chúng thực thi hành sự khiển trách tôi làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, giờ tôi nên thực hành như thế nào?
Các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, như vậy thì hội chúng hãy thu hồi hành sự hòa giải đối với tỳ khưu Sudhamma.
[167]Này các tỳ khưu, hành sự hòa giải không nên thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện: Vị ban phép tu lên bậc trên, ban cho phép nương nhờ, bảo sa di phục vụ, chấp nhận sự chỉ định giảng dạy tỳ khưu ni, giảng dạy tỳ khưu ni khi đã được chỉ định. Này các tỳ khưu, hành sự hòa giải không nên thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện này.
[168] Này các tỳ khưu, hành sự hòa giải không nên thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện khác nữa: Vị tái phạm tội đã được hội chúng thực thi hành sự hòa giải, hoặc tội tương tợ, hoặc tội nghiêm trọng hơn tội ấy, vị chỉ trích hành sự, chỉ trích các vị thực thi hành sự. Này các tỳ khưu, hành sự hòa giải không nên thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện này.
[169] Này các tỳ khưu, hành sự hòa giải không nên thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ tám điều kiện: Vị đình chỉ lễ Uposatha, đình chỉ lễ Pavāraṇā của vị tỳ khưu trong sạch, vị sai bảo, cáo tội, thỉnh ý (để buộc tội), quở trách, nhắc nhở (vị tỳ khưu trong sạch), vị cấu kết các tỳ khưu với các tỳ khưu. Này các tỳ khưu, hành sự hòa giải không nên thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ tám điều kiện này.
Dứt mười tám trường hợp không nên thu hồi thuộc hành sự hòa giải.
[170]Này các tỳ khưu, hành sự hòa giải nên được thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện: Vị không ban phép tu lên bậc trên, không ban cho phép nương nhờ, không bảo sa di phục vụ, không chấp nhận sự chỉ định giảng dạy tỳ khưu ni, không giảng dạy tỳ khưu ni dầu đã được chỉ định. Này các tỳ khưu, hành sự hòa giải nên được thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện này.
[171] Này các tỳ khưu, hành sự hòa giải nên được thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện khác nữa: Vị không tái phạm tội đã được hội chúng thực thi hành sự hòa giải, hoặc tội tương tợ, hoặc tội nghiêm trọng hơn tội ấy, vị không chỉ trích hành sự, không chỉ trích các vị thực thi hành sự, Này các tỳ khưu, hành sự hòa giải nên được thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện này.
[172] Này các tỳ khưu, hành sự hòa giải nên được thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ tám điều kiện: Vị không đình chỉ lễ Uposatha, không đình chỉ lễ Pavāraṇā của vị tỳ khưu trong sạch, vị không sai bảo, không cáo tội, không thỉnh ý (để buộc tội), không quở trách, không nhắc nhở (vị tỳ khưu trong sạch), vị không cấu kết các tỳ khưu với các tỳ khưu. Này các tỳ khưu, hành sự hòa giải nên được thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ tám điều kiện này.
Dứt mười tám trường hợp nên được thu hồi thuộc hành sự hòa giải.
[173] Và này các tỳ khưu, nên thu hồi như vầy: Này các tỳ khưu, tỳ khưu Sudhamma ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu trưởng thượng, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên nói như vầy:
“Bạch các ngài, được hội chúng thực thi hành sự hòa giải, tôi làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi; giờ tôi thỉnh cầu sự thu hồi hành sự hòa giải.”
Nên thỉnh cầu đến lần thứ nhì. Nên thỉnh cầu đến lần thứ ba.
Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Được hội chúng thực thi hành sự hòa giải, tỳ khưu Sudhamma này làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, giờ thỉnh cầu sự thu hồi hành sự hòa giải. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên thu hồi hành sự hòa giải đối với tỳ khưu Sudhamma. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Được hội chúng thực thi hành sự hòa giải, tỳ khưu Sudhamma này làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, giờ thỉnh cầu sự thu hồi hành sự hòa giải. Hội chúng thu hồi hành sự hòa giải đối với tỳ khưu Sudhamma. Đại đức nào đồng ý việc thu hồi hành sự hòa giải đối với tỳ khưu Sudhamma xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Được hội chúng thực thi hành sự hòa giải, tỳ khưu Sudhamma này làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, giờ thỉnh cầu sự thu hồi hành sự hòa giải. Hội chúng thu hồi hành sự hòa giải đối với tỳ khưu Sudhamma. Đại đức nào đồng ý việc thu hồi hành sự hòa giải đối với tỳ khưu Sudhamma xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Được hội chúng thực thi hành sự hòa giải, tỳ khưu Sudhamma này làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, giờ thỉnh cầu sự thu hồi hành sự hòa giải. Hội chúng thu hồi hành sự hòa giải đối với tỳ khưu Sudhamma. Đại đức nào đồng ý việc thu hồi hành sự hòa giải đối với tỳ khưu Sudhamma xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Hành sự hòa giải đối với tỳ khưu Sudhamma đã được hội chúng thu hồi. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
Dứt hành sự hòa giải là phần thứ tư.
5. HÀNH SỰ ÁN TREO TRONG VIỆC KHÔNG NHÌN NHẬN TỘI
(ĀPATTIYĀ ADASSANE UKKHEPANĪYAKAMMAṂ):
[174] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại Kosambī tu viện Ghosita. Vào lúc bấy giờ, đại đức Channa sau khi phạm tội lại không muốn nhìn nhận tội. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Vì sao đại đức Channa sau khi phạm tội lại không muốn nhìn nhận tội?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
[175] Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội chúng tỳ khưu lại và hỏi các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu Channa sau khi phạm tội lại không muốn nhìn nhận tội, có đúng không vậy?
– Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
– Thật không đúng đắn, …(như trên)… Này các tỳ khưu, vì sao kẻ rồ dại này sau khi phạm tội lại không muốn nhìn nhận tội? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)…
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, như vậy thì hội chúng hãy thực thi hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội đối với tỳ khưu Channa (tức là) việc không cùng thọ hưởng với hội chúng (asambhogaṃ saṅghena). Và này các tỳ khưu, nên thực thi như vầy: Trước hết, tỳ khưu Channa cần được quở trách; sau khi quở trách cần được nhắc nhở; sau khi nhắc nhở cần xác định tội; sau khi xác định tội, hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ khưu Channa này sau khi phạm tội lại không muốn nhìn nhận tội. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên thực thi hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội đối với tỳ khưu Channa (tức là) việc không cùng thọ hưởng với hội chúng. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ khưu Channa này sau khi phạm tội lại không muốn nhìn nhận tội. Hội chúng thực thi hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội đối với tỳ khưu Channa (tức là) việc không cùng thọ hưởng với hội chúng. Đại đức nào đồng ý việc thực thi hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội đối với tỳ khưu Channa (tức là) việc không cùng thọ hưởng với hội chúng xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: …(như trên)…
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ khưu Channa này sau khi phạm tội lại không muốn nhìn nhận tội. Hội chúng thực thi hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội đối với tỳ khưu Channa (tức là) việc không cùng thọ hưởng với hội chúng. Đại đức nào đồng ý việc thực thi hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội đối với tỳ khưu Channa (tức là) việc không cùng thọ hưởng với hội chúng xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội đối với tỳ khưu Channa (tức là) việc không cùng thọ hưởng với hội chúng đã được hội chúng thực thi. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
Và này các tỳ khưu, hãy thông báo cho tất cả các trú xứ rằng:
“Tỳ khưu Channa đã được hội chúng thực thi hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội (tức là) việc không cùng thọ hưởng với hội chúng.”
[176]Này các tỳ khưu, hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất khi hội đủ ba điều kiện: Được thực thi thiếu sự hiện diện, được thực thi thiếu sự tra hỏi, được thực thi với sự không thừa nhận. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất.
[177] Này các tỳ khưu, hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất khi hội đủ ba điều kiện khác nữa: Được thực thi với tội không vi phạm, được thực thi với tội vi phạm đưa đến việc không sám hối được, được thực thi với tội đã được sám hối. …(như trên)…
[178] Này các tỳ khưu, …(như trên) … Được thực thi khi chưa quở trách, được thực thi khi chưa nhắc nhở, được thực thi khi chưa xác định tội. …(như trên)…
[179] Này các tỳ khưu, …(như trên) … Được thực thi thiếu sự hiện diện, được thực thi không theo Pháp, được thực thi bởi phe nhóm. …(như trên)…
[180] Này các tỳ khưu, …(như trên) … Được thực thi thiếu sự tra hỏi, được thực thi không theo Pháp, được thực thi bởi phe nhóm. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này …(như trên)…
[181] Này các tỳ khưu, …(như trên) … hội đủ ba điều kiện khác nữa: Được thực thi với sự không thừa nhận, được thực thi không theo Pháp, được thực thi bởi phe nhóm. …(như trên)…
[182] Này các tỳ khưu, …(như trên) … ba điều kiện khác nữa: Được thực thi với tội không vi phạm, được thực thi không theo Pháp, được thực thi bởi phe nhóm. …(như trên)…
[183] Này các tỳ khưu, …(như trên) … ba điều kiện khác nữa: Được thực thi với tội vi phạm đưa đến việc không sám hối được, được thực thi không theo Pháp, được thực thi bởi phe nhóm. …(như trên)…
[184] Này các tỳ khưu, …(như trên) … ba điều kiện khác nữa: Được thực thi với tội đã được sám hối, được thực thi không theo Pháp, được thực thi bởi phe nhóm. …(như trên)…
[185] Này các tỳ khưu, …(như trên) … ba điều kiện khác nữa: Được thực thi khi chưa quở trách, được thực thi không theo Pháp, được thực thi bởi phe nhóm. …(như trên)…
[186] Này các tỳ khưu, …(như trên) … ba điều kiện khác nữa: Được thực thi khi chưa nhắc nhở, được thực thi không theo Pháp, được thực thi bởi phe nhóm. …(như trên)…
[187] Này các tỳ khưu, hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất khi hội đủ ba điều kiện khác nữa: Được thực thi khi chưa xác định tội, được thực thi không theo Pháp, được thực thi bởi phe nhóm. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất.
Dứt mười hai trường hợp về hành sự không đúng Pháp
thuộc hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội.
[188] Này các tỳ khưu, hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, được hoàn tất tốt đẹp khi hội đủ ba điều kiện: Được thực thi với sự hiện diện, được thực thi từ sự tra hỏi, được thực thi do sự thừa nhận. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, được hoàn tất tốt đẹp.
[189] Này các tỳ khưu, hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, được hoàn tất tốt đẹp khi hội đủ ba điều kiện khác nữa: Được thực thi với tội vi phạm, được thực thi với tội vi phạm đưa đến việc sám hối được, được thực thi với tội chưa được sám hối. …(như trên)…
[190] Này các tỳ khưu, …(như trên) … ba điều kiện khác nữa: Được thực thi sau khi đã quở trách, được thực thi sau khi đã nhắc nhở, được thực thi sau khi đã xác định tội. …(như trên)…
[191] Này các tỳ khưu, …(như trên) … ba điều kiện khác nữa: Được thực thi với sự hiện diện, được thực thi đúng theo Pháp, được thực thi với sự hợp nhất. …(như trên)…
[192] Này các tỳ khưu, …(như trên) … ba điều kiện khác nữa: Được thực thi từ sự tra hỏi, được thực thi đúng theo Pháp, được thực thi với sự hợp nhất. …(như trên)…
[193] Này các tỳ khưu, …(như trên) … ba điều kiện khác nữa: Được thực thi do sự thừa nhận, được thực thi đúng theo Pháp, được thực thi với sự hợp nhất. …(như trên)…
[194] Này các tỳ khưu, …(như trên) … ba điều kiện khác nữa: Được thực thi với tội vi phạm, được thực thi đúng theo Pháp, được thực thi với sự hợp nhất. …(như trên)…
[195] Này các tỳ khưu, …(như trên) … ba điều kiện khác nữa: Được thực thi với tội vi phạm đưa đến việc sám hối được, được thực thi đúng theo Pháp, được thực thi với sự hợp nhất. …(như trên)…
[196] Này các tỳ khưu, …(như trên) … ba điều kiện khác nữa: Được thực thi với tội chưa được sám hối, được thực thi đúng theo Pháp, được thực thi với sự hợp nhất. …(như trên)…
[197] Này các tỳ khưu, …(như trên) … ba điều kiện khác nữa: Được thực thi sau khi đã quở trách, được thực thi đúng theo Pháp, được thực thi với sự hợp nhất. …(như trên)…
[198] Này các tỳ khưu, …(như trên) … ba điều kiện khác nữa: Được thực thi sau khi đã nhắc nhở, được thực thi đúng theo Pháp, được thực thi với sự hợp nhất. …(như trên)…
[199] Này các tỳ khưu, …(như trên) … ba điều kiện khác nữa: Được thực thi sau khi đã xác định tội, được thực thi đúng theo Pháp, được thực thi với sự hợp nhất. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, được hoàn tất tốt đẹp.
Dứt mười hai trường hợp về hành sự đúng Pháp
thuộc hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội.
[200]Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội đối với vị tỳ khưu hội đủ ba đặc tính: Vị thường gây nên sự xung đột, thường gây nên sự cãi cọ, thường gây nên sự tranh luận, thường gây nên sự nói chuyện nhảm nhí, thường gây nên sự tranh tụng trong hội chúng; vị ngu si, thiếu kinh nghiệm, phạm nhiều tội, chưa được làm cho thoát (tội); vị năng thân cận người tại gia, sống không nghiêm chỉnh lẫn lộn cùng người tại gia. Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội đối với vị tỳ khưu hội đủ ba đặc tính này.
[201] Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội đối với vị tỳ khưu hội đủ ba đặc tính khác nữa: Vị bị hư hỏng về giới thuộc tăng thượng giới, vị bị hư hỏng về hạnh kiểm thuộc tăng thượng hạnh, vị bị hư hỏng về tri kiến thuộc tri kiến sái quấy. Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội đối với vị tỳ khưu hội đủ ba đặc tính này.
[202] Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội đối với vị tỳ khưu hội đủ ba đặc tính khác nữa: Vị chê bai đức Phật, vị chê bai đức Pháp, vị chê bai đức Tăng. Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội đối với vị tỳ khưu hội đủ ba đặc tính này.
[203] Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội đối với ba hạng tỳ khưu: Hạng thường gây nên sự xung đột, thường gây nên sự cãi cọ, thường gây nên sự tranh luận, thường gây nên sự nói chuyện nhảm nhí, thường gây nên sự tranh tụng trong hội chúng; hạng ngu si, thiếu kinh nghiệm, phạm nhiều tội, chưa được làm cho thoát (tội); hạng năng thân cận người tại gia, sống không nghiêm chỉnh lẫn lộn cùng người tại gia. Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội đối với ba hạng tỳ khưu này.
[204] Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội đối với ba hạng tỳ khưu khác nữa: Hạng bị hư hỏng về giới thuộc tăng thượng giới, hạng bị hư hỏng về hạnh kiểm thuộc tăng thượng hạnh, hạng bị hư hỏng về tri kiến thuộc tri kiến sái quấy. Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội đối với ba hạng tỳ khưu này.
[205] Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội đối với ba hạng tỳ khưu khác nữa: Hạng chê bai đức Phật, hạng chê bai đức Pháp, hạng chê bai đức Tăng. Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội đối với ba hạng tỳ khưu này.
Dứt sáu trường hợp nếu muốn
thuộc hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội.
[206] Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu thực thi hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội nên làm phận sự một cách nghiêm chỉnh. Trong trường hợp này, các phận sự nghiêm chỉnh ấy là: Không nên ban phép tu lên bậc trên, không nên ban cho phép nương nhờ, không nên bảo sa di phục vụ, không nên chấp nhận sự chỉ định giảng dạy tỳ khưu ni, không nên giảng dạy tỳ khưu ni dầu đã được chỉ định, không nên tái phạm tội đã được hội chúng thực thi hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội, hoặc tội tương tợ, hoặc tội nghiêm trọng hơn tội ấy, không nên chỉ trích hành sự, không nên chỉ trích các vị thực thi hành sự, không nên thừa nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, sự chắp tay, hành động thích hợp, sự sửa soạn chỗ ngồi, sự sửa soạn chỗ nằm, nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân, sự tiếp rước y bát, sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của vị tỳ khưu trong sạch, không nên bôi nhọ vị tỳ khưu trong sạch với sự hư hỏng về giới, không nên bôi nhọ với sự hư hỏng về hạnh kiểm, không nên bôi nhọ với sự hư hỏng về tri kiến, không nên bôi nhọ với sự hư hỏng về nuôi mạng, không chia rẽ các tỳ khưu với các tỳ khưu, không nên đeo vật biểu hiện của người tại gia, không nên đeo vật biểu hiện của kẻ ngoại đạo, không nên phục vụ các ngoại đạo, nên phục vụ các tỳ khưu, nên học tập trong việc học tập của tỳ khưu, không nên ngụ trong chỗ ở chung một mái che, không nên ngụ nơi không phải là chỗ ở nhưng chung một mái che, không nên ngụ trong chỗ ở hoặc nơi không phải là chỗ ở chung một mái che cùng với vị tỳ khưu trong sạch, nên đứng dậy từ chỗ ngồi khi thấy vị tỳ khưu trong sạch, không nên sĩ nhục vị tỳ khưu trong sạch dầu ở trong tu viện hay ở ngoài, đối với vị tỳ khưu trong sạch không nên đình chỉ lễ Uposatha, không nên đình chỉ lễ Pavāraṇā, không nên sai bảo, không nên cáo tội, không nên thỉnh ý (để buộc tội), không nên quở trách, không nên nhắc nhở, (và) không nên cấu kết các tỳ khưu với các tỳ khưu.
Dứt bốn mươi ba phận sự thuộc hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội.
[207] Sau đó, hội chúng đã thực thi hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội đối với tỳ khưu Channa (tức là) việc không cùng thọ hưởng với hội chúng. Vị ấy khi được hội chúng thực thi hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội đã đi từ trú xứ ấy đến trú xứ khác. Tại đó, các tỳ khưu đã không đảnh lễ, đã không đứng dậy, đã không chắp tay, đã không làm hành động thích hợp, đã không tôn trọng, đã không cung kính, đã không sùng bái, đã không cúng dường. Vị ấy trong khi không được các tỳ khưu tôn trọng, cung kính, sùng bái, cúng dường, (cảm thấy) không được tôn trọng nên đã đi từ trú xứ ấy đến trú xứ khác. Ngay tại nơi đó, các tỳ khưu cũng đã không đảnh lễ, đã không đứng dậy, đã không chắp tay, đã không làm hành động thích hợp, đã không tôn trọng, đã không cung kính, đã không sùng bái, đã không cúng dường. Vị ấy trong khi không được các tỳ khưu tôn trọng, cung kính, sùng bái, cúng dường, (cảm thấy) không được tôn trọng nên đã đi từ trú xứ ấy đến trú xứ khác. Ngay tại nơi đó, các tỳ khưu cũng đã không đảnh lễ, đã không đứng dậy, đã không chắp tay, đã không làm hành động thích hợp, đã không tôn trọng, đã không cung kính, đã không sùng bái, đã không cúng dường. Vị ấy trong khi không được các tỳ khưu tôn trọng, cung kính, sùng bái, cúng dường, (cảm thấy) không được tôn trọng nên đã quay trở về lại Kosambī. Vị ấy làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, rồi đi đến gặp các tỳ khưu và nói như vầy:
– Bạch chư đại đức, được hội chúng thực thi hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội, tôi làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, giờ tôi nên thực hành như thế nào?
Các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, như vậy thì hội chúng hãy thu hồi hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội đối với tỳ khưu Channa.
[208]Này các tỳ khưu, hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội không nên thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện: Vị ban phép tu lên bậc trên, ban cho phép nương nhờ, bảo sa di phục vụ, chấp nhận sự chỉ định giảng dạy tỳ khưu ni, giảng dạy tỳ khưu ni khi đã được chỉ định. Này các tỳ khưu, hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội không nên thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện này.
[209] Này các tỳ khưu, hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội không nên thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện khác nữa: Vị tái phạm tội đã được hội chúng thực thi hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội, hoặc tội tương tợ, hoặc tội nghiêm trọng hơn tội ấy, vị chỉ trích hành sự, chỉ trích các vị thực thi hành sự. Này các tỳ khưu, hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội không nên thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện này.
[210] Này các tỳ khưu, hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội không nên thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện khác nữa: Vị thừa nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, sự chắp tay, hành động thích hợp, sự sửa soạn chỗ ngồi của vị tỳ khưu trong sạch. Này các tỳ khưu, hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội không nên thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện này.
[211] Này các tỳ khưu, hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội không nên thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện khác nữa: Vị thừa nhận sự sửa soạn chỗ nằm, nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân, sự tiếp rước y bát, sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của vị tỳ khưu trong sạch. Này các tỳ khưu, hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội không nên thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện này.
[212] Này các tỳ khưu, hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội không nên thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện khác nữa: Vị bôi nhọ vị tỳ khưu trong sạch với sự hư hỏng về giới, bôi nhọ với sự hư hỏng về hạnh kiểm, bôi nhọ với sự hư hỏng về tri kiến, bôi nhọ với sự hư hỏng về nuôi mạng, chia rẽ các tỳ khưu với các tỳ khưu. Này các tỳ khưu, hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội không nên thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện này.
[213] Này các tỳ khưu, hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội không nên thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện khác nữa: Vị đeo vật biểu hiện của người tại gia, đeo vật biểu hiện của kẻ ngoại đạo, phục vụ các ngoại đạo, không phục vụ các tỳ khưu, không học tập trong việc học tập của tỳ khưu. Này các tỳ khưu, hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội không nên thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện này.
[214] Này các tỳ khưu, hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội không nên thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện khác nữa: Vị ngụ trong chỗ ở chung một mái che, ngụ nơi không phải là chỗ ở nhưng chung một mái che, ngụ trong chỗ ở hoặc nơi không phải là chỗ ở nhưng chung một mái che cùng với vị tỳ khưu trong sạch, không đứng dậy từ chỗ ngồi khi thấy vị tỳ khưu trong sạch, sĩ nhục vị tỳ khưu trong sạch dầu ở trong tu viện hay ở ngoài. Này các tỳ khưu, hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội không nên thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện này.
[215] Này các tỳ khưu, hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội không nên thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ tám điều kiện: Vị đình chỉ lễ Uposatha, đình chỉ lễ Pavāraṇā của vị tỳ khưu trong sạch, vị sai bảo, cáo tội, thỉnh ý (để buộc tội), quở trách, nhắc nhở (vị tỳ khưu trong sạch), vị cấu kết các tỳ khưu với các tỳ khưu. Này các tỳ khưu, hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội không nên thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ tám điều kiện này.
Dứt bốn mươi ba trường hợp không nên thu hồi
thuộc hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội.
[216]Này các tỳ khưu, hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội nên được thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện: Vị không ban phép tu lên bậc trên, không ban cho phép nương nhờ, không bảo sa di phục vụ, không chấp nhận sự chỉ định giảng dạy tỳ khưu ni, không giảng dạy tỳ khưu ni dầu đã được chỉ định. Này các tỳ khưu, hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội nên được thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện này.
[217] Này các tỳ khưu, hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội nên được thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện khác nữa: Vị không tái phạm tội đã được hội chúng thực thi hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội, hoặc tội tương tợ, hoặc tội nghiêm trọng hơn tội ấy, vị không chỉ trích hành sự, không chỉ trích các vị thực thi hành sự, Này các tỳ khưu, hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội nên được thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện này.
[218] Này các tỳ khưu, hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội nên được thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện khác nữa: Vị không thừa nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, sự chắp tay, hành động thích hợp, sự sửa soạn chỗ ngồi của vị tỳ khưu trong sạch. Này các tỳ khưu, hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội nên được thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện này.
[219] Này các tỳ khưu, hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội nên được thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện khác nữa: Vị không thừa nhận sự sửa soạn chỗ nằm, nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân, sự tiếp rước y bát, sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của vị tỳ khưu trong sạch. Này các tỳ khưu, hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội nên được thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện này.
[220] Này các tỳ khưu, hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội nên được thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện khác nữa: Vị không bôi nhọ vị tỳ khưu trong sạch với sự hư hỏng về giới, không bôi nhọ với sự hư hỏng về hạnh kiểm, không bôi nhọ với sự hư hỏng về tri kiến, không bôi nhọ với sự hư hỏng về nuôi mạng, không chia rẽ các tỳ khưu với các tỳ khưu. Này các tỳ khưu, hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội nên được thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện này.
[221] Này các tỳ khưu, hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội nên được thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện khác nữa: Vị không đeo vật biểu hiện của người tại gia, không đeo vật biểu hiện của kẻ ngoại đạo, không phục vụ các ngoại đạo, vị phục vụ các tỳ khưu, học tập trong việc học tập của tỳ khưu. Này các tỳ khưu, hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội nên được thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện này.
[222] Này các tỳ khưu, hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội nên được thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện khác nữa: Vị không ngụ trong chỗ ở chung một mái che, không ngụ nơi không phải là chỗ ở nhưng chung một mái che, không ngụ trong chỗ ở hoặc nơi không phải là chỗ ở nhưng chung một mái che cùng với vị tỳ khưu trong sạch, vị đứng dậy từ chỗ ngồi khi thấy vị tỳ khưu trong sạch, không sĩ nhục vị tỳ khưu trong sạch dầu ở trong tu viện hay ở ngoài. Này các tỳ khưu, hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội nên được thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện này.
[223] Này các tỳ khưu, hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội nên được thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ tám điều kiện: Vị không đình chỉ lễ Uposatha, không đình chỉ lễ Pavāraṇā của vị tỳ khưu trong sạch, vị không sai bảo, không cáo tội, không thỉnh ý (để buộc tội), không quở trách, không nhắc nhở (vị tỳ khưu trong sạch), vị không cấu kết các tỳ khưu với các tỳ khưu. Này các tỳ khưu, hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội nên được thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ tám điều kiện này.
Dứt bốn mươi ba trường hợp nên được thu hồi
thuộc hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội.
[224] Và này các tỳ khưu, nên thu hồi như vầy: Này các tỳ khưu, tỳ khưu Channa ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu trưởng thượng, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên nói như vầy:
“Bạch các ngài, được hội chúng thực thi hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội, tôi làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi; giờ tôi thỉnh cầu sự thu hồi hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội.”
Nên thỉnh cầu đến lần thứ nhì. Nên thỉnh cầu đến lần thứ ba.
Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Được hội chúng thực thi hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội, tỳ khưu Channa này làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, giờ thỉnh cầu sự thu hồi hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên thu hồi hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội đối với tỳ khưu Channa. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Được hội chúng thực thi hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội, tỳ khưu Channa này làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, giờ thỉnh cầu sự thu hồi hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội. Hội chúng thu hồi hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội đối với tỳ khưu Channa. Đại đức nào đồng ý việc thu hồi hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội đối với tỳ khưu Channa xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: …(như trên)…
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Được hội chúng thực thi hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội, tỳ khưu Channa này làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, giờ thỉnh cầu sự thu hồi hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội. Hội chúng thu hồi hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội đối với tỳ khưu Channa. Đại đức nào đồng ý việc thu hồi hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội đối với tỳ khưu Channa xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội đối với tỳ khưu Channa đã được hội chúng thu hồi. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
Dứt hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội là phần thứ năm.
6. HÀNH SỰ ÁN TREO TRONG VIỆC KHÔNG SỬA CHỮA LỖI
(ĀPATTIYĀ APPAṬIKAMME UKKHEPANĪYAKAMMAṂ):
[225] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại Kosambī tu viện Ghosita. Vào lúc bấy giờ, đại đức Channa sau khi phạm tội lại không muốn sửa chữa lỗi. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Vì sao đại đức Channa sau khi phạm tội lại không muốn sửa chữa lỗi?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội chúng tỳ khưu lại và hỏi các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu Channa sau khi phạm tội lại không muốn sửa chữa lỗi, có đúng không vậy?
– Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
– Thật không đúng đắn, …(như trên)… không nên làm. Này các tỳ khưu, vì sao kẻ rồ dại này sau khi phạm tội lại không muốn sửa chữa lỗi? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)…
Sau khi khiển trách, …(như trên)… ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, như vậy thì hội chúng hãy thực thi hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi đối với tỳ khưu Channa (tức là) việc không cùng thọ hưởng với hội chúng.
[226] Và này các tỳ khưu, nên thực thi như vầy: Trước hết, tỳ khưu Channa cần được quở trách; sau khi quở trách cần được nhắc nhở; sau khi nhắc nhở cần xác định tội; sau khi xác định tội, hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ khưu Channa này sau khi phạm tội lại không muốn sửa chữa lỗi. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên thực thi hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi đối với tỳ khưu Channa (tức là) việc không cùng thọ hưởng với hội chúng. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ khưu Channa này sau khi phạm tội lại không muốn sửa chữa lỗi. Hội chúng thực thi hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi đối với tỳ khưu Channa (tức là) việc không cùng thọ hưởng với hội chúng. Đại đức nào đồng ý việc thực thi hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi đối với tỳ khưu Channa (tức là) việc không cùng thọ hưởng với hội chúng xin im lặng, vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: …(như trên)…
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ khưu Channa này sau khi phạm tội lại không muốn sửa chữa lỗi. Hội chúng thực thi hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi đối với tỳ khưu Channa (tức là) việc không cùng thọ hưởng với hội chúng. Đại đức nào đồng ý việc thực thi hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi đối với tỳ khưu Channa (tức là) việc không cùng thọ hưởng với hội chúng xin im lặng, vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi đối với tỳ khưu Channa (tức là) việc không cùng thọ hưởng với hội chúng đã được hội chúng thực thi. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
Và này các tỳ khưu, hãy thông báo cho tất cả các trú xứ rằng:
“Tỳ khưu Channa đã được hội chúng thực thi hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi (tức là) việc không cùng thọ hưởng với hội chúng.”
[227]Này các tỳ khưu, hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất khi hội đủ ba điều kiện: Được thực thi thiếu sự hiện diện, được thực thi thiếu sự tra hỏi, được thực thi với sự không thừa nhận. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất.
[228] Này các tỳ khưu, hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất khi hội đủ ba điều kiện khác nữa: Được thực thi với tội không vi phạm, được thực thi với tội vi phạm đưa đến việc không sám hối được, được thực thi với tội đã được sám hối. …(như trên)…
[229] Này các tỳ khưu, …(như trên)… ba điều kiện khác nữa: Được thực thi khi chưa quở trách, được thực thi khi chưa nhắc nhở, được thực thi khi chưa xác định tội. …(như trên)…
[230] Này các tỳ khưu, …(như trên)… ba điều kiện khác nữa: Được thực thi thiếu sự hiện diện, được thực thi không theo Pháp, được thực thi bởi phe nhóm. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này …(như trên)…
[231] Này các tỳ khưu, …(như trên)… ba điều kiện khác nữa: Được thực thi thiếu sự tra hỏi, được thực thi không theo Pháp, được thực thi bởi phe nhóm. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này …(như trên)…
[232] Này các tỳ khưu, …(như trên)… ba điều kiện khác nữa: Được thực thi với sự không thừa nhận, được thực thi không theo Pháp, được thực thi bởi phe nhóm. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này …(như trên)…
[233] Này các tỳ khưu, …(như trên)… ba điều kiện khác nữa: Được thực thi với tội không vi phạm, được thực thi không theo Pháp, được thực thi bởi phe nhóm. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này …(như trên)…
[234] Này các tỳ khưu, …(như trên)… ba điều kiện khác nữa: Được thực thi với tội vi phạm đưa đến việc không sám hối được, được thực thi không theo Pháp, được thực thi bởi phe nhóm. …(như trên)…
[235] Này các tỳ khưu, …(như trên)… ba điều kiện khác nữa: Được thực thi với tội đã được sám hối, được thực thi không theo Pháp, được thực thi bởi phe nhóm. …(như trên)…
[236] Này các tỳ khưu, …(như trên)… ba điều kiện khác nữa: Được thực thi khi chưa quở trách, được thực thi không theo Pháp, được thực thi bởi phe nhóm. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này …(như trên)…
[237] Này các tỳ khưu, …(như trên)… ba điều kiện khác nữa: Được thực thi khi chưa nhắc nhở, được thực thi không theo Pháp, được thực thi bởi phe nhóm. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này …(như trên)…
[238] Này các tỳ khưu, hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất khi hội đủ ba điều kiện khác nữa: Được thực thi khi chưa xác định tội, được thực thi không theo Pháp, được thực thi bởi phe nhóm. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất.
Dứt mười hai trường hợp về hành sự không đúng Pháp
thuộc hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi.
[239] Này các tỳ khưu, hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, được hoàn tất tốt đẹp khi hội đủ ba điều kiện: Được thực thi với sự hiện diện, được thực thi từ sự tra hỏi, được thực thi do sự thừa nhận. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, được hoàn tất tốt đẹp.
[240] Này các tỳ khưu, hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, được hoàn tất tốt đẹp khi hội đủ ba điều kiện khác nữa: Được thực thi với tội vi phạm, được thực thi với tội vi phạm đưa đến việc sám hối được, được thực thi với tội chưa được sám hối. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, được hoàn tất tốt đẹp.
[241] Này các tỳ khưu, hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, được hoàn tất tốt đẹp khi hội đủ ba điều kiện khác nữa: Được thực thi sau khi đã quở trách, được thực thi sau khi đã nhắc nhở, được thực thi sau khi đã xác định tội. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, được hoàn tất tốt đẹp.
[242] Này các tỳ khưu, hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, được hoàn tất tốt đẹp khi hội đủ ba điều kiện khác nữa: Được thực thi với sự hiện diện, được thực thi đúng theo Pháp, được thực thi với sự hợp nhất. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, được hoàn tất tốt đẹp.
[243] Này các tỳ khưu, …(như trên)… ba điều kiện khác nữa: Được thực thi từ sự tra hỏi, được thực thi đúng theo Pháp, được thực thi với sự hợp nhất. …(như trên)…
[244] Này các tỳ khưu, …(như trên)… ba điều kiện khác nữa: Được thực thi do sự thừa nhận, được thực thi đúng theo Pháp, được thực thi với sự hợp nhất. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này …(như trên)…
[245] Này các tỳ khưu, …(như trên)… ba điều kiện khác nữa: Được thực thi với tội vi phạm, được thực thi đúng theo Pháp, được thực thi với sự hợp nhất. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này …(như trên)…
[246] Này các tỳ khưu, …(như trên)… ba điều kiện khác nữa: Được thực thi với tội vi phạm đưa đến việc sám hối được, được thực thi đúng theo Pháp, được thực thi với sự hợp nhất. …(như trên)…
[247] Này các tỳ khưu, …(như trên)… ba điều kiện khác nữa: Được thực thi với tội chưa được sám hối, được thực thi đúng theo Pháp, được thực thi với sự hợp nhất. …(như trên)…
[248] Này các tỳ khưu, …(như trên)… ba điều kiện khác nữa: Được thực thi sau khi đã quở trách, được thực thi đúng theo Pháp, được thực thi với sự hợp nhất. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này …(như trên)…
[249] Này các tỳ khưu, …(như trên)… ba điều kiện khác nữa: Được thực thi sau khi đã nhắc nhở, được thực thi đúng theo Pháp, được thực thi với sự hợp nhất. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này …(như trên)…
[250] Này các tỳ khưu, …(như trên)… ba điều kiện khác nữa: Được thực thi sau khi đã xác định tội, được thực thi đúng theo Pháp, được thực thi với sự hợp nhất. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, được hoàn tất tốt đẹp.
Dứt mười hai trường hợp về hành sự đúng Pháp
thuộc hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi.
[251] Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi đối với vị tỳ khưu hội đủ ba đặc tính: Vị thường gây nên sự xung đột, thường gây nên sự cãi cọ, thường gây nên sự tranh luận, thường gây nên sự nói chuyện nhảm nhí, thường gây nên sự tranh tụng trong hội chúng; vị ngu si, thiếu kinh nghiệm, phạm nhiều tội, chưa được làm cho thoát (tội); vị năng thân cận người tại gia, sống không nghiêm chỉnh lẫn lộn cùng người tại gia. Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi đối với vị tỳ khưu hội đủ ba đặc tính này.
[252] Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi đối với vị tỳ khưu hội đủ ba đặc tính khác nữa: Vị bị hư hỏng về giới thuộc tăng thượng giới, vị bị hư hỏng về hạnh kiểm thuộc tăng thượng hạnh, vị bị hư hỏng về tri kiến thuộc tri kiến sái quấy. Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi đối với vị tỳ khưu hội đủ ba đặc tính này.
[253] Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi đối với vị tỳ khưu hội đủ ba đặc tính khác nữa: Vị chê bai đức Phật, vị chê bai đức Pháp, vị chê bai đức Tăng. Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi đối với vị tỳ khưu hội đủ ba đặc tính này.
[254] Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi đối với ba hạng tỳ khưu: Hạng thường gây nên sự xung đột, thường gây nên sự cãi cọ, thường gây nên sự tranh luận, thường gây nên sự nói chuyện nhảm nhí, thường gây nên sự tranh tụng trong hội chúng; hạng ngu si, thiếu kinh nghiệm, phạm nhiều tội, chưa được làm cho thoát (tội); hạng năng thân cận người tại gia, sống không nghiêm chỉnh lẫn lộn cùng người tại gia. Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi đối với ba hạng tỳ khưu này.
[255] Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi đối với ba hạng tỳ khưu khác nữa: Hạng bị hư hỏng về giới thuộc tăng thượng giới, hạng bị hư hỏng về hạnh kiểm thuộc tăng thượng hạnh, hạng bị hư hỏng về tri kiến thuộc tri kiến sái quấy. Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi đối với ba hạng tỳ khưu này.
[256] Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi đối với ba hạng tỳ khưu khác nữa: Hạng chê bai đức Phật, hạng chê bai đức Pháp, hạng chê bai đức Tăng. Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi đối với ba hạng tỳ khưu này.
Dứt sáu trường hợp nếu muốn
thuộc hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi.
[257] Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu thực thi hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi nên làm phận sự một cách nghiêm chỉnh. Trong trường hợp này, các phận sự nghiêm chỉnh ấy là: Không nên ban phép tu lên bậc trên, không nên ban cho phép nương nhờ, không nên bảo sa di phục vụ, không nên chấp nhận sự chỉ định giảng dạy tỳ khưu ni, không nên giảng dạy tỳ khưu ni dầu đã được chỉ định, không nên tái phạm tội đã được hội chúng thực thi hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi, hoặc tội tương tợ, hoặc tội nghiêm trọng hơn tội ấy, không nên chỉ trích hành sự, không nên chỉ trích các vị thực thi hành sự, không nên thừa nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, sự chắp tay, hành động thích hợp, sự sửa soạn chỗ ngồi, sự sửa soạn chỗ nằm, nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân, sự tiếp rước y bát, sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của vị tỳ khưu trong sạch, không nên bôi nhọ vị tỳ khưu trong sạch với sự hư hỏng về giới, không nên bôi nhọ với sự hư hỏng về hạnh kiểm, không nên bôi nhọ với sự hư hỏng về tri kiến, không nên bôi nhọ với sự hư hỏng về nuôi mạng, không nên chia rẽ các tỳ khưu với các tỳ khưu, không nên đeo vật biểu hiện của người tại gia, không nên đeo vật biểu hiện của kẻ ngoại đạo, không nên phục vụ các ngoại đạo, nên phục vụ các tỳ khưu, nên học tập trong việc học tập của tỳ khưu, không nên ngụ trong chỗ ở chung một mái che, không nên ngụ nơi không phải là chỗ ở nhưng chung một mái che, không nên ngụ trong chỗ ở hoặc nơi không phải là chỗ ở chung một mái che cùng với vị tỳ khưu trong sạch, nên từ chỗ ngồi đứng dậy khi thấy vị tỳ khưu trong sạch, không nên sĩ nhục vị tỳ khưu trong sạch dầu ở trong tu viện hay ở ngoài, đối với vị tỳ khưu trong sạch không nên đình chỉ lễ Uposatha, không nên đình chỉ lễ Pavāraṇā, không nên sai bảo, không nên cáo tội, không nên thỉnh ý (để buộc tội), không nên quở trách, không nên nhắc nhở, (và) không nên cấu kết các tỳ khưu với các tỳ khưu.
Dứt bốn mươi ba phận sự thuộc hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi.
[258] Sau đó, hội chúng đã thực thi hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi đối với tỳ khưu Channa (tức là) việc không cùng thọ hưởng với hội chúng. Vị ấy khi được hội chúng thực thi hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi đã đi từ trú xứ ấy đến trú xứ khác. Tại đó, các tỳ khưu đã không đảnh lễ, đã không đứng dậy, đã không chắp tay, đã không làm hành động thích hợp, đã không tôn trọng, đã không cung kính, đã không sùng bái, đã không cúng dường. Vị ấy trong khi không được các tỳ khưu tôn trọng, cung kính, sùng bái, cúng dường, (cảm thấy) không được tôn trọng nên đã đi từ trú xứ ấy đến trú xứ khác. Ngay tại nơi đó, các tỳ khưu cũng đã không đảnh lễ, đã không đứng dậy, đã không chắp tay, đã không làm hành động thích hợp, đã không tôn trọng, đã không cung kính, đã không sùng bái, đã không cúng dường. Vị ấy trong khi không được các tỳ khưu tôn trọng, cung kính, sùng bái, cúng dường, (cảm thấy) không được tôn trọng nên đã đi từ trú xứ ấy đến trú xứ khác. Ngay tại nơi đó, các tỳ khưu cũng đã không đảnh lễ, đã không đứng dậy, đã không chắp tay, đã không làm hành động thích hợp, đã không tôn trọng, đã không cung kính, đã không sùng bái, đã không cúng dường. Vị ấy trong khi không được các tỳ khưu tôn trọng, cung kính, sùng bái, cúng dường, (cảm thấy) không được tôn trọng nên đã quay trở về lại Kosambī. Vị ấy làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, rồi đi đến gặp các tỳ khưu và nói như vầy:
– Bạch chư đại đức, được hội chúng thực thi hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi, tôi làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, giờ tôi nên thực hành như thế nào?
Các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, như vậy thì hội chúng hãy thu hồi hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi đối với tỳ khưu Channa.
[259]Này các tỳ khưu, hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi không nên thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện: Vị ban phép tu lên bậc trên, ban cho phép nương nhờ, bảo sa di phục vụ, chấp nhận sự chỉ định giảng dạy tỳ khưu ni, giảng dạy tỳ khưu ni khi đã được chỉ định. Này các tỳ khưu, hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi không nên thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện này.
[260] Này các tỳ khưu, hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi không nên thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện khác nữa: Vị tái phạm tội đã được hội chúng thực thi hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi, hoặc tội tương tợ, hoặc tội nghiêm trọng hơn tội ấy, vị chỉ trích hành sự, chỉ trích các vị thực thi hành sự. …(như trên)…
[261] Này các tỳ khưu, …(như trên)… năm điều kiện khác nữa: Vị thừa nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, sự chắp tay, hành động thích hợp, sự sửa soạn chỗ ngồi của vị tỳ khưu trong sạch. …(như trên)…
[262] Này các tỳ khưu, …(như trên)… năm điều kiện khác nữa: Vị thừa nhận sự sửa soạn chỗ nằm, nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân, sự tiếp rước y bát, sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của vị tỳ khưu trong sạch. …(như trên)…
[263] Này các tỳ khưu, …(như trên)… năm điều kiện khác nữa: Vị bôi nhọ vị tỳ khưu trong sạch với sự hư hỏng về giới, bôi nhọ với sự hư hỏng về hạnh kiểm, bôi nhọ với sự hư hỏng về tri kiến, bôi nhọ với sự hư hỏng về nuôi mạng, chia rẽ các tỳ khưu với các tỳ khưu. …(như trên)…
[264] Này các tỳ khưu, …(như trên)… năm điều kiện khác nữa: Vị đeo vật biểu hiện của người tại gia, đeo vật biểu hiện của kẻ ngoại đạo, phục vụ các ngoại đạo, không phục vụ các tỳ khưu, không học tập trong việc học tập của tỳ khưu. …(như trên)…
[265] Này các tỳ khưu, …(như trên)… năm điều kiện khác nữa: Vị ngụ trong chỗ ở chung một mái che, ngụ nơi không phải là chỗ ở nhưng chung một mái che, ngụ trong chỗ ở hoặc nơi không phải là chỗ ở nhưng chung một mái che cùng với vị tỳ khưu trong sạch, không đứng dậy từ chỗ ngồi khi thấy vị tỳ khưu trong sạch, sĩ nhục vị tỳ khưu trong sạch dầu ở trong tu viện hay ở ngoài. Này các tỳ khưu, hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi không nên thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện này.
[266] Này các tỳ khưu, hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi không nên thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ tám điều kiện: Vị đình chỉ lễ Uposatha, đình chỉ lễ Pavāraṇā của vị tỳ khưu trong sạch, vị sai bảo, cáo tội, thỉnh ý (để buộc tội), quở trách, nhắc nhở (vị tỳ khưu trong sạch), vị cấu kết các tỳ khưu với các tỳ khưu. Này các tỳ khưu, hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi không nên thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ tám điều kiện này.
Dứt bốn mươi ba trường hợp không nên thu hồi
thuộc hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi.
[267] Này các tỳ khưu, hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi nên được thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện: Vị không ban phép tu lên bậc trên, không ban cho phép nương nhờ, không bảo sa di phục vụ, không chấp nhận sự chỉ định giảng dạy tỳ khưu ni, không giảng dạy tỳ khưu ni dầu đã được chỉ định. Này các tỳ khưu, hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi nên được thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện này.
[268] Này các tỳ khưu, hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi nên được thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện khác nữa: Vị không tái phạm tội đã được hội chúng thực thi hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi, hoặc tội tương tợ, hoặc tội nghiêm trọng hơn tội ấy, vị không chỉ trích hành sự, không chỉ trích các vị thực thi hành sự. …(như trên)…
[269] Này các tỳ khưu, …(như trên)… năm điều kiện khác nữa: Vị không thừa nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, sự chắp tay, hành động thích hợp, sự sửa soạn chỗ ngồi của vị tỳ khưu trong sạch. …(như trên)…
[270] Này các tỳ khưu, …(như trên)… năm điều kiện khác nữa: Vị không thừa nhận sự sửa soạn chỗ nằm, nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân, sự tiếp rước y bát, sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của vị tỳ khưu trong sạch. …(như trên)…
[271] Này các tỳ khưu, …(như trên)… năm điều kiện khác nữa: Vị không bôi nhọ vị tỳ khưu trong sạch với sự hư hỏng về giới, không bôi nhọ với sự hư hỏng về hạnh kiểm, không bôi nhọ với sự hư hỏng về tri kiến, không bôi nhọ với sự hư hỏng về nuôi mạng, không chia rẽ các tỳ khưu với các tỳ khưu. …(như trên)…
[272] Này các tỳ khưu, …(như trên)… năm điều kiện khác nữa: Vị không đeo vật biểu hiện của người tại gia, không đeo vật biểu hiện của kẻ ngoại đạo, không phục vụ các ngoại đạo, vị phục vụ các tỳ khưu, học tập trong việc học tập của tỳ khưu. …(như trên)…
[273] Này các tỳ khưu, …(như trên)… năm điều kiện khác nữa: Vị không ngụ trong chỗ ở chung một mái che, không ngụ nơi không phải là chỗ ở nhưng chung một mái che, không ngụ trong chỗ ở hoặc nơi không phải là chỗ ở nhưng chung một mái che cùng với vị tỳ khưu trong sạch, đứng dậy từ chỗ ngồi khi thấy vị tỳ khưu trong sạch, không sĩ nhục vị tỳ khưu trong sạch dầu ở trong tu viện hay ở ngoài. Này các tỳ khưu, hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi nên được thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện này.
[274] Này các tỳ khưu, hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi nên được thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ tám điều kiện: Vị không đình chỉ lễ Uposatha, không đình chỉ lễ Pavāraṇā của vị tỳ khưu trong sạch, vị không sai bảo, không cáo tội, không thỉnh ý (để buộc tội), không quở trách, không nhắc nhở (vị tỳ khưu trong sạch), vị không cấu kết các tỳ khưu với các tỳ khưu. Này các tỳ khưu, hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi nên được thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ tám điều kiện này.
Dứt bốn mươi ba trường hợp nên thu hồi
thuộc hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi.
[275] Và này các tỳ khưu, nên thu hồi như vầy: Này các tỳ khưu, tỳ khưu Channa ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu trưởng thượng, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên nói như vầy:
“Bạch các ngài, được hội chúng thực thi hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi, tôi làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi; giờ tôi thỉnh cầu sự thu hồi hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi.”
Nên thỉnh cầu đến lần thứ nhì. Nên thỉnh cầu đến lần thứ ba.
Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Được hội chúng thực thi hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi, tỳ khưu Channa này làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, giờ thỉnh cầu sự thu hồi hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên thu hồi hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi đối với tỳ khưu Channa. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Được hội chúng thực thi hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi, tỳ khưu Channa này làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, giờ thỉnh cầu sự thu hồi hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi. Hội chúng thu hồi hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi đối với tỳ khưu Channa. Đại đức nào đồng ý việc thu hồi hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi đối với tỳ khưu Channa xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: …(như trên)…
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Được hội chúng thực thi hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi, tỳ khưu Channa này làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, giờ thỉnh cầu sự thu hồi hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi. Hội chúng thu hồi hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi đối với tỳ khưu Channa. Đại đức nào đồng ý việc thu hồi hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi đối với tỳ khưu Channa xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi đối với tỳ khưu Channa đã được hội chúng thu hồi. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
Dứt hành sự án treo trong việc không sửa chữa lỗi là phần thứ sáu.
7. HÀNH SỰ ÁN TREO TRONG VIỆC KHÔNG TỪ BỎ TÀ KIẾN ÁC
(PĀPIKĀYA DIṬṬHIYĀ APPAṬINISSAGGE UKKHEPANĪYAKAMMAṂ):
[276]Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu tên Ariṭṭha trước đây là người huấn luyện chim ưng đã sanh khởi tà kiến ác như vầy: “Theo như ta hiểu về Pháp đã được đức Thế Tôn thuyết giảng thì những pháp chướng ngại được đức Thế Tôn đề cập không có khả năng đem lại sự chướng ngại cho người thực hành.”
Nhiều vị tỳ khưu đã nghe rằng:
– Nghe nói tỳ khưu tên Ariṭṭha trước đây là người huấn luyện chim ưng đã sanh khởi tà kiến ác như vầy: “Theo như ta hiểu về Pháp đã được đức Thế Tôn thuyết giảng thì những pháp chướng ngại được đức Thế Tôn đề cập không có khả năng đem lại sự chướng ngại cho người thực hành.”
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã đi đến gặp tỳ khưu Ariṭṭha trước đây là người huấn luyện chim ưng, sau khi đến đã nói với tỳ khưu Ariṭṭha trước đây là người huấn luyện chim ưng điều này:
– Này đại đức Ariṭṭha, nghe nói đại đức đã sanh khởi tà kiến ác như vầy: “Theo như ta hiểu về Pháp đã được đức Thế Tôn thuyết giảng thì những pháp chướng ngại được đức Thế Tôn đề cập không có khả năng đem lại sự chướng ngại cho người thực hành,” có đúng không vậy?
– Này các đại đức, đúng như vậy. Theo như tôi hiểu về Pháp đã được đức Thế Tôn thuyết giảng thì những pháp chướng ngại được đức Thế Tôn đề cập không có khả năng đem lại sự chướng ngại cho người thực hành.
– Này đại đức Ariṭṭha, chớ có nói như thế. Chớ có vu khống đức Thế Tôn bởi vì việc vu khống đức Thế Tôn là không tốt. Bởi vì đức Thế Tôn không có nói như thế. Này đại đức Ariṭṭha, đức Thế Tôn đã giảng giải bằng nhiều phương thức rằng các pháp chướng ngại có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành. Đức Thế Tôn đã giảng giải rằng dục tình chỉ có chút ít khoái lạc, nhiều khổ đau, nhiều ưu phiền, ở đó điều bất lợi còn nhiều hơn. Dục tình đã được đức Thế Tôn giảng giải như là bộ xương, nhiều khổ đau, nhiều ưu phiền, ở đó điều bất lợi còn nhiều hơn. Dục tình đã được đức Thế Tôn giảng giải như là miếng thịt …(như trên)… Dục tình đã được đức Thế Tôn giảng giải như là cây đuốc cỏ …(như trên)… Dục tình đã được đức Thế Tôn giảng giải như là hố than cháy rực …(như trên)… Dục tình đã được đức Thế Tôn giảng giải như là giấc mơ …(như trên)… Dục tình đã được đức Thế Tôn giảng giải như là vật vay mượn …(như trên)… Dục tình đã được đức Thế Tôn giảng giải như là trái trên cây …(như trên)… Dục tình đã được đức Thế Tôn giảng giải như là lò sát sanh …(như trên)… Dục tình đã được đức Thế Tôn giảng giải như là mũi lao nhọn …(như trên)… Dục tình đã được đức Thế Tôn giảng giải như là đầu rắn độc, nhiều khổ đau, nhiều ưu phiền, ở đó điều bất lợi còn nhiều hơn.
Khi được các vị tỳ khưu ấy nói như thế, tỳ khưu Ariṭṭha trước đây là người huấn luyện chim ưng do có sự ngoan cố, chấp giữ, và bảo thủ tà kiến ác ấy nên vẫn phát biểu giống như thế:
– Này các đại đức, theo như tôi hiểu về Pháp đã được đức Thế Tôn thuyết giảng thì những pháp chướng ngại được đức Thế Tôn đề cập không có khả năng đem lại sự chướng ngại cho người thực hành.
Bởi vì các vị tỳ khưu ấy không thể giúp cho tỳ khưu Ariṭṭha trước đây là người huấn luyện chim ưng thoát khỏi tà kiến ác ấy, sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
[277] Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội chúng tỳ khưu lại và hỏi tỳ khưu Ariṭṭha trước đây là người huấn luyện chim ưng rằng:
– Này Ariṭṭha, nghe nói tà kiến ác đã sanh khởi ở ngươi như vầy: “Theo như ta hiểu về Pháp đã được đức Thế Tôn thuyết giảng thì những pháp chướng ngại được đức Thế Tôn đề cập không có khả năng đem lại sự chướng ngại cho người thực hành,” có đúng không vậy?
– Bạch ngài, đúng như vậy. Theo như con hiểu về Pháp đã được đức Thế Tôn thuyết giảng thì những pháp chướng ngại được đức Thế Tôn đề cập không có khả năng đem lại sự chướng ngại cho người thực hành.
– Này kẻ rồ dại, vì sao ngươi lại hiểu Pháp được ta thuyết giảng là như thế? Này kẻ rồ dại, không phải ta đã giảng giải bằng nhiều phương thức rằng các pháp chướng ngại có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành hay sao? Dục tình đã được ta giảng giải là chỉ có chút ít khoái lạc, nhiều khổ đau, nhiều ưu phiền, ở đó điều bất lợi còn nhiều hơn. Dục tình đã được ta giảng giải như là bộ xương, nhiều khổ đau, nhiều ưu phiền, ở đó điều bất lợi còn nhiều hơn. Dục tình đã được ta giảng giải như là miếng thịt …(như trên)… Dục tình đã được ta giảng giải như là cây đuốc cỏ …(như trên)… Dục tình đã được ta giảng giải như là hố than cháy rực …(như trên)… Dục tình đã được ta giảng giải như là giấc mơ …(như trên)… Dục tình đã được ta giảng giải như là vật vay mượn …(như trên)… Dục tình đã được ta giảng giải như là trái trên cây …(như trên)… Dục tình đã được ta giảng giải như là lò sát sanh …(như trên)… Dục tình đã được ta giảng giải như là mũi lao nhọn …(như trên)… Dục tình đã được ta giảng giải như là đầu rắn độc, nhiều khổ đau, nhiều ưu phiền, ở đó điều bất lợi còn nhiều hơn. Này kẻ rồ dại, hơn nữa ngươi không những vu khống ta do sự hiểu biết sai lạc của bản thân mà ngươi còn làm tổn hại chính bản thân và tích lũy vô số điều bất thiện nữa. Này kẻ rồ dại, chính điều ấy sẽ đem lại cho ngươi sự thất bại và khổ đau lâu dài. Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin, …(như trên)…
Sau khi khiển trách, …(như trên)… ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, như vậy thì hội chúng hãy thực thi hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác đối với tỳ khưu Ariṭṭha (tức là) việc không cùng thọ hưởng với hội chúng.
[278] Và này các tỳ khưu, nên thực thi như vầy: Trước hết, tỳ khưu Ariṭṭha cần được quở trách; sau khi quở trách cần được nhắc nhở; sau khi nhắc nhở cần xác định tội; sau khi xác định tội, hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ khưu Ariṭṭha này, trước đây là người huấn luyện chim ưng, đã sanh khởi tà kiến ác như vầy: ‘Theo như ta hiểu về Pháp đã được đức Thế Tôn thuyết giảng thì những pháp chướng ngại được đức Thế Tôn đề cập không có khả năng đem lại sự chướng ngại cho người thực hành.’ Vị ấy không chịu từ bỏ tà kiến ác ấy. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên thực thi hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác đối với tỳ khưu Ariṭṭha trước đây là người huấn luyện chim ưng (tức là) việc không cùng thọ hưởng với hội chúng. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ khưu Ariṭṭha này, trước đây là người huấn luyện chim ưng, đã sanh khởi tà kiến ác như vầy: ‘Theo như ta hiểu về Pháp đã được đức Thế Tôn thuyết giảng thì những pháp chướng ngại được đức Thế Tôn đề cập không có khả năng đem lại sự chướng ngại cho người thực hành.’ Vị ấy không chịu từ bỏ tà kiến ác ấy. Hội chúng thực thi hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác đối với tỳ khưu Ariṭṭha trước đây là người huấn luyện chim ưng (tức là) việc không cùng thọ hưởng với hội chúng. Đại đức nào đồng ý việc thực thi hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác đối với tỳ khưu Ariṭṭha trước đây là người huấn luyện chim ưng (tức là) việc không cùng thọ hưởng với hội chúng xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: …(như trên)…
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ khưu Ariṭṭha này trước đây là người huấn luyện chim ưng đã sanh khởi tà kiến ác như vầy: ‘Theo như ta hiểu về Pháp đã được đức Thế Tôn thuyết giảng thì những pháp chướng ngại được đức Thế Tôn đề cập không có khả năng đem lại sự chướng ngại cho người thực hành.’ Vị ấy không chịu từ bỏ tà kiến ác ấy. Hội chúng thực thi hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác đối với tỳ khưu Ariṭṭha trước đây là người huấn luyện chim ưng (tức là) việc không cùng thọ hưởng với hội chúng. Đại đức nào đồng ý việc thực thi hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác đối với tỳ khưu Ariṭṭha trước đây là người huấn luyện chim ưng (tức là) việc không cùng thọ hưởng với hội chúng xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác đối với tỳ khưu Ariṭṭha trước đây là người huấn luyện chim ưng (tức là) việc không cùng thọ hưởng với hội chúng đã được hội chúng thực thi. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
Và này các tỳ khưu, hãy thông báo cho tất cả các trú xứ rằng:
“Tỳ khưu Ariṭṭha trước đây là người huấn luyện chim ưng đã được hội chúng thực thi hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác (tức là) việc không cùng thọ hưởng với hội chúng.”
[279]Này các tỳ khưu, hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất khi hội đủ ba điều kiện: Được thực thi thiếu sự hiện diện, được thực thi thiếu sự tra hỏi, được thực thi với sự không thừa nhận. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất.
[280] Này các tỳ khưu, …(như trên)… ba điều kiện khác nữa: Được thực thi với tội không vi phạm, được thực thi với tội vi phạm đưa đến việc không sám hối được, được thực thi với tội đã được sám hối. …(như trên)…
[281] Này các tỳ khưu, …(như trên)… ba điều kiện khác nữa: Được thực thi khi chưa quở trách, được thực thi khi chưa nhắc nhở, được thực thi khi chưa xác định tội. …(như trên)…
[282] Này các tỳ khưu, …(như trên)… ba điều kiện khác nữa: Được thực thi thiếu sự hiện diện, được thực thi không theo Pháp, được thực thi bởi phe nhóm. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này …(như trên)…
[283] Này các tỳ khưu, …(như trên)… ba điều kiện khác nữa: Được thực thi thiếu sự tra hỏi, được thực thi không theo Pháp, được thực thi bởi phe nhóm. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này …(như trên)…
[284] Này các tỳ khưu, …(như trên)… ba điều kiện khác nữa: Được thực thi với sự không thừa nhận, được thực thi không theo Pháp, được thực thi bởi phe nhóm. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này …(như trên)…
[285] Này các tỳ khưu, …(như trên)… ba điều kiện khác nữa: Được thực thi với tội không vi phạm, được thực thi không theo Pháp, được thực thi bởi phe nhóm. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này …(như trên)…
[286] Này các tỳ khưu, …(như trên)… ba điều kiện khác nữa: Được thực thi với tội vi phạm đưa đến việc không sám hối được, được thực thi không theo Pháp, được thực thi bởi phe nhóm. …(như trên)…
[287] Này các tỳ khưu, …(như trên)… ba điều kiện khác nữa: Được thực thi với tội đã được sám hối, được thực thi không theo Pháp, được thực thi bởi phe nhóm. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này …(như trên)…
[288] Này các tỳ khưu, …(như trên)… ba điều kiện khác nữa: Được thực thi khi chưa quở trách, được thực thi không theo Pháp, được thực thi bởi phe nhóm. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này …(như trên)…
[289] Này các tỳ khưu, …(như trên)… ba điều kiện khác nữa: Được thực thi khi chưa nhắc nhở, được thực thi không theo Pháp, được thực thi bởi phe nhóm. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này …(như trên)…
[290] Này các tỳ khưu, …(như trên)… ba điều kiện khác nữa: Được thực thi khi chưa xác định tội, được thực thi không theo Pháp, được thực thi bởi phe nhóm. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất.
Dứt mười hai trường hợp về hành sự không đúng Pháp
thuộc hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác.
[291] Này các tỳ khưu, hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, được hoàn tất tốt đẹp khi hội đủ ba điều kiện: Được thực thi với sự hiện diện, được thực thi từ sự tra hỏi, được thực thi do sự thừa nhận. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, được hoàn tất tốt đẹp.
[292] Này các tỳ khưu, hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, được hoàn tất tốt đẹp khi hội đủ ba điều kiện khác nữa: Được thực thi với tội vi phạm, được thực thi với tội vi phạm đưa đến việc sám hối được, được thực thi với tội chưa được sám hối. …(như trên)…
[293] Này các tỳ khưu, …(như trên)… ba điều kiện khác nữa: Được thực thi sau khi đã quở trách, được thực thi sau khi đã nhắc nhở, được thực thi sau khi đã xác định tội. …(như trên)…
[294] Này các tỳ khưu, …(như trên)… ba điều kiện khác nữa: Được thực thi với sự hiện diện, được thực thi đúng theo Pháp, được thực thi với sự hợp nhất. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này …(như trên)…
[295] Này các tỳ khưu, …(như trên)… ba điều kiện khác nữa: Được thực thi từ sự tra hỏi, được thực thi đúng theo Pháp, được thực thi với sự hợp nhất. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này …(như trên)…
[296] Này các tỳ khưu, …(như trên)… ba điều kiện khác nữa: Được thực thi do sự thừa nhận, được thực thi đúng theo Pháp, được thực thi với sự hợp nhất. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này …(như trên)…
[297] Này các tỳ khưu, …(như trên)… ba điều kiện khác nữa: Được thực thi với tội vi phạm, được thực thi đúng theo Pháp, được thực thi với sự hợp nhất. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này …(như trên)…
[298] Này các tỳ khưu, …(như trên)… ba điều kiện khác nữa: Được thực thi với tội vi phạm đưa đến việc sám hối được, được thực thi đúng theo Pháp, được thực thi với sự hợp nhất. …(như trên)…
[299] Này các tỳ khưu, …(như trên)… ba điều kiện khác nữa: Được thực thi với tội chưa được sám hối, được thực thi đúng theo Pháp, được thực thi với sự hợp nhất. …(như trên)…
[300] Này các tỳ khưu, …(như trên)… ba điều kiện khác nữa: Được thực thi sau khi đã quở trách, được thực thi đúng theo Pháp, được thực thi với sự hợp nhất. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này …(như trên)…
[301] Này các tỳ khưu, …(như trên)… ba điều kiện khác nữa: Được thực thi sau khi đã nhắc nhở, được thực thi đúng theo Pháp, được thực thi với sự hợp nhất. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này …(như trên)…
[302] Này các tỳ khưu, hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, được hoàn tất tốt đẹp khi hội đủ ba điều kiện khác nữa: Được thực thi sau khi đã xác định tội, được thực thi đúng theo Pháp, được thực thi với sự hợp nhất. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, được hoàn tất tốt đẹp.
Dứt mười hai trường hợp về hành sự đúng Pháp
thuộc hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác.
[303] Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác đối với vị tỳ khưu hội đủ ba đặc tính: Vị thường gây nên sự xung đột, thường gây nên sự cãi cọ, thường gây nên sự tranh luận, thường gây nên sự nói chuyện nhảm nhí, thường gây nên sự tranh tụng trong hội chúng; vị ngu si, thiếu kinh nghiệm, phạm nhiều tội, chưa được làm cho thoát (tội); vị năng thân cận người tại gia, sống không nghiêm chỉnh lẫn lộn cùng người tại gia. Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác đối với vị tỳ khưu hội đủ ba đặc tính này.
[304] Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác đối với vị tỳ khưu hội đủ ba đặc tính khác nữa: Vị bị hư hỏng về giới thuộc tăng thượng giới, vị bị hư hỏng về hạnh kiểm thuộc tăng thượng hạnh, vị bị hư hỏng về tri kiến thuộc tri kiến sái quấy. Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác đối với vị tỳ khưu hội đủ ba đặc tính này.
[305] Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác đối với vị tỳ khưu hội đủ ba đặc tính khác nữa: Vị chê bai đức Phật, vị chê bai đức Pháp, vị chê bai đức Tăng. Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác đối với vị tỳ khưu hội đủ ba đặc tính này.
[306] Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác đối với ba hạng tỳ khưu: Hạng thường gây nên sự xung đột, thường gây nên sự cãi cọ, thường gây nên sự tranh luận, thường gây nên sự nói chuyện nhảm nhí, thường gây nên sự tranh tụng trong hội chúng; hạng ngu si, thiếu kinh nghiệm, phạm nhiều tội, chưa được làm cho thoát (tội); hạng năng thân cận người tại gia, sống không nghiêm chỉnh lẫn lộn cùng người tại gia. Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác đối với ba hạng tỳ khưu này.
[307] Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác đối với ba hạng tỳ khưu khác nữa: Hạng bị hư hỏng về giới thuộc tăng thượng giới, hạng bị hư hỏng về hạnh kiểm thuộc tăng thượng hạnh, hạng bị hư hỏng về tri kiến thuộc tri kiến sái quấy. Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác đối với ba hạng tỳ khưu này.
[308] Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác đối với ba hạng tỳ khưu khác nữa: Hạng chê bai đức Phật, hạng chê bai đức Pháp, hạng chê bai đức Tăng. Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác đối với ba hạng tỳ khưu này.
Dứt sáu trường hợp nếu muốn
thuộc hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác.
[309] Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu thực thi hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác nên làm phận sự một cách nghiêm chỉnh. Trong trường hợp này, các phận sự nghiêm chỉnh ấy là: Không nên ban phép tu lên bậc trên, không nên ban cho phép nương nhờ, không nên bảo sa di phục vụ, không nên chấp nhận sự chỉ định giảng dạy tỳ khưu ni, không nên giảng dạy tỳ khưu ni dầu đã được chỉ định, không nên tái phạm tội đã được hội chúng thực thi hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác, hoặc tội tương tợ, hoặc tội nghiêm trọng hơn tội ấy, không nên chỉ trích hành sự, không nên chỉ trích các vị thực thi hành sự, đối với vị tỳ khưu trong sạch không nên đình chỉ lễ Uposatha, không nên đình chỉ lễ Pavāraṇā, không nên sai bảo, không nên cáo tội, không nên thỉnh ý (để buộc tội), không nên quở trách, không nên nhắc nhở, (và) không nên cấu kết các tỳ khưu với các tỳ khưu.
Dứt mười tám phận sự thuộc hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác.
[310] Sau đó, hội chúng đã thực thi hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác đối với tỳ khưu Ariṭṭha trước đây là người huấn luyện chim ưng (tức là) việc không cùng thọ hưởng với hội chúng. Khi được hội chúng thực thi hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác, vị ấy đã hoàn tục.
Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Vì sao tỳ khưu Ariṭṭha trước đây là người huấn luyện chim ưng khi được hội chúng thực thi hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác lại hoàn tục?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
[311] Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội chúng tỳ khưu lại và hỏi các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu Ariṭṭha trước đây là người huấn luyện chim ưng khi được hội chúng thực thi hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác lại hoàn tục, có đúng không vậy?
– Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
– …(như trên)… Này các tỳ khưu, vì sao kẻ rồ dại ấy khi được hội chúng thực thi hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác lại hoàn tục? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)…
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, như vậy thì hội chúng hãy thu hồi hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác.
[312]Này các tỳ khưu, hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác không nên thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện: Vị ban phép tu lên bậc trên, ban cho phép nương nhờ, bảo sa di phục vụ, chấp nhận sự chỉ định giảng dạy tỳ khưu ni, giảng dạy tỳ khưu ni khi đã được chỉ định. Này các tỳ khưu, hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác không nên thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện này.
[313] Này các tỳ khưu, hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác không nên thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện khác nữa: Vị tái phạm tội đã được hội chúng thực thi hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác, hoặc tội tương tợ, hoặc tội nghiêm trọng hơn tội ấy, vị chỉ trích hành sự, chỉ trích các vị thực thi hành sự. Này các tỳ khưu, hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác không nên thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện này.
[314] Này các tỳ khưu, hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác không nên thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ tám điều kiện: Vị đình chỉ lễ Uposatha, đình chỉ lễ Pavāraṇā của vị tỳ khưu trong sạch, vị sai bảo, cáo tội, thỉnh ý (để buộc tội), quở trách, nhắc nhở (vị tỳ khưu trong sạch), vị cấu kết các tỳ khưu với các tỳ khưu. Này các tỳ khưu, hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác không nên thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ tám điều kiện này.
Dứt mười tám trường hợp không nên thu hồi
thuộc hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác.
[315]Này các tỳ khưu, hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác nên được thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện: Vị không ban phép tu lên bậc trên, không ban cho phép nương nhờ, không bảo sa di phục vụ, không chấp nhận sự chỉ định giảng dạy tỳ khưu ni, không giảng dạy tỳ khưu ni dầu đã được chỉ định. Này các tỳ khưu, hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác nên được thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện này.
[316] Này các tỳ khưu, hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác nên được thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện khác nữa: Vị không tái phạm tội đã được hội chúng thực thi hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác, hoặc tội tương tợ, hoặc tội nghiêm trọng hơn tội ấy, vị không chỉ trích hành sự, không chỉ trích các vị thực thi hành sự, Này các tỳ khưu, hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác nên được thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện này.
[317] Này các tỳ khưu, hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác nên được thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ tám điều kiện: Vị không đình chỉ lễ Uposatha, không đình chỉ lễ Pavāraṇā của vị tỳ khưu trong sạch, không sai bảo, không cáo tội, không thỉnh ý (để buộc tội), không quở trách, không nhắc nhở (vị tỳ khưu trong sạch), vị không cấu kết các tỳ khưu với các tỳ khưu. Này các tỳ khưu, hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác nên được thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ tám điều kiện này.
Dứt mười tám trường hợp nên thu hồi
thuộc hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác.
[318] Và này các tỳ khưu, nên thu hồi như vầy: Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu đã được hội chúng thực thi hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu trưởng thượng, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên trình với hội chúng như vầy:
“Bạch các ngài, được hội chúng thực thi hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác, tôi làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi; giờ tôi thỉnh cầu sự thu hồi hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác.”
Nên thỉnh cầu đến lần thứ nhì. Nên thỉnh cầu đến lần thứ ba.
Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Được hội chúng thực thi hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác, vị tỳ khưu này tên (như vầy) làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, giờ thỉnh cầu sự thu hồi hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên thu hồi hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác đối với vị tỳ khưu tên (như vầy). Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Được hội chúng thực thi hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác, tỳ khưu này tên (như vầy) làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, giờ thỉnh cầu sự thu hồi hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác. Hội chúng thu hồi hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác đối với vị tỳ khưu tên (như vầy). Đại đức nào đồng ý việc thu hồi hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác đối với vị tỳ khưu tên (như vầy) xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: …(như trên)…
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Được hội chúng thực thi hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác, tỳ khưu này tên (như vầy) làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, giờ thỉnh cầu sự thu hồi hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác. Hội chúng thu hồi hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác đối với vị tỳ khưu tên (như vầy). Đại đức nào đồng ý việc thu hồi hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác đối với vị tỳ khưu tên (như vầy) xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác đối với vị tỳ khưu tên (như vầy) đã được hội chúng thu hồi. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
Dứt hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác là phần thứ bảy.
Dứt Chương Hành Sự là chương thứ nhất.
Trong chương này có bảy sự kiện.
*******
Tóm lược chương này:
[319]
Các tỳ khưu thuộc nhóm
tên là Paṇḍuka
và Lohitaka,
bản thân tạo xung đột,
lại đi đến các vị
có sở hành như thế,
và gây ra xung đột
chưa sanh, họ tạo nên,
đã sanh, làm lớn chuyện.
Thiện tỳ khưu, thiểu dục,
phàn nàn bậc Pháp Chủ,
vị duy trì Chánh Pháp,
đức Phật bậc tự tại,
bậc Tối Thượng cho phép
làm hành sự khiển trách
ngài là bậc Chiến Thắng
ở thành Sāvatthi.
Việc ấy được thực thi
thiếu đi sự hiện diện,
khi chưa được tra hỏi,
với sự không thừa nhận.
Việc ấy được thực thi
khi không có phạm tội,
tội không sám hối được,
tội đã được sám hối.
Việc ấy được thực thi
khi chưa được quở trách,
khi chưa được nhắc nhở,
khi chưa xác định tội.
Việc ấy được thực thi
thiếu đi sự hiện diện,
không theo đúng phương thức,
và chính bởi phe nhóm.
Việc ấy được thực thi
khi chưa được tra hỏi,
không theo đúng phương thức,
và chính bởi phe nhóm.
Việc ấy được thực thi
với sự không thừa nhận,
không theo đúng phương thức,
và chính bởi phe nhóm.
Việc ấy được thực thi
khi không có phạm tội,
không theo đúng phương thức,
và chính bởi phe nhóm.
Việc ấy được thực thi
tội không sám hối được,
không theo đúng phương thức,
và chính bởi phe nhóm.
Và cũng như thế ấy
với tội đã sám hối,
không theo đúng phương thức,
và chính bởi phe nhóm.
Và cũng như thế ấy
khi chưa được quở trách,
không theo đúng phương thức,
và chính bởi phe nhóm.
Và cũng như thế ấy
khi chưa được nhắc nhở,
không theo đúng phương thức,
và chính bởi phe nhóm.
Và cũng như thế ấy
khi chưa xác định tội,
không theo đúng phương thức,
và chính bởi phe nhóm.
Với trường hợp không đúng,
đúng cách được nghiệm ra.
Khi hội chúng thích hợp
nên thực thi hành sự
khiển trách đến vị ấy,
vị thường gây xung đột,
ngu si, sống chung đụng.
Hội chúng nên thực thi
về hành sự khiển trách
vị thiếu tăng thượng giới,
vị thiếu tăng thượng hạnh,
và kiến thức sái quấy.
Hội chúng nên thực thi
về hành sự khiển trách
tỳ khưu chê bai Phật,
đức Pháp, và đức Tăng.
Hội chúng nên thực thi
về hành sự khiển trách
hạng thường gây xung đột,
ngu si, sống chung đụng.
Cũng y như thế ấy
hạng thiếu tăng thượng giới,
vị thiếu tăng thượng hạnh,
và kiến thức sái quấy,
hạng chê bai đức Phật,
đức Pháp, và đức Tăng.
Bị hành sự khiển trách,
các phận sự đúng đắn
phải làm là như vầy:
Vị thực thi hành sự
không cho tu bậc trên,
không ban phép nương nhờ,
không sa di phục vụ,
không giáo giới các ni
cho dù được chỉ định,
không phạm lại tội ấy,
tội tương tợ như vậy,
hoặc nghiêm trọng hơn thế,
không chỉ trích hành sự,
và các vị kết tội,
không được phép đình chỉ
lễ Uposatha,
lễ Pavāraṇā
của tỳ khưu trong sạch,
sai bảo, việc cáo tội,
việc thỉnh ý, quở trách,
nhắc nhở, tạo bè phái,
các việc như thế ấy
là không được thực hành.
Không thu hồi hành sự
với năm điều kiện này:
Vị cho tu bậc trên,
ban cho phép nương nhờ,
để sa di phục vụ,
giáo giới tỳ khưu ni
cho dù được chỉ định,
vị phạm lại tội ấy,
tội tương tợ như vậy,
hoặc nghiêm trọng hơn thế,
vị chỉ trích hành sự,
luôn các vị thực thi
không nên được thu hồi.
Lễ Uposatha,
lễ Pavāraṇā,
sai bảo, việc cáo tội,
việc thỉnh ý, quở trách,
nhắc nhở, tạo bè phái,
vị phạm tám điều này,
không nên thu hồi lại
hành sự khiển trách được.
Với trường hợp không đúng,
đúng cách được nghiệm ra.
Seyyasa ngu si,
là vị phạm nhiều tội,
lại còn sống chung đụng,
vị Chánh Đẳng Chánh Giác
là bậc đại hiền triết
đã cho phép thực thi
về hành sự chỉ dạy.
Các tỳ khưu thuộc nhóm
hai vị Assaji
Punabbasukā
ở Kiṭāgiri
không thu thúc, còn làm
việc sai trái các loại.
Bậc Chánh Đẳng Chánh Giác,
ban hành sự xua đuổi,
ngài là đấng Chiến Thắng
ở thành Sāvatthi.
Vị Sudhamma ở
Macchikāsaṇḍa
thường trú của Citta.
Sudhamma mắng nhiếc
đến gia chủ Citta.
Vì câu chuyện sanh ra,
đấng Thiện Thệ cho phép
làm hành sự hòa giải.
Bậc Chiến Thắng tối thượng
đã cho phép án treo
trong việc không thấy tội
với tỳ khưu Channa
ở thành Kosambī
do không nhìn nhận tội.
Channa không sửa đổi
với chính tội lỗi ấy,
vị lãnh đạo cho phép
về hành sự án treo
trong việc không sửa chữa.
Ariṭṭha đã khởi
tà kiến ác, thiếu trí,
bậc Chiến Thắng cho phép
về hành sự án treo
do không bỏ ác kiến.
Giống hành sự chỉ dạy,
xua đuổi, và hòa giải,
không nhìn nhận, sửa chữa,
không từ bỏ tà kiến.
Việc đùa giỡn sai trái,
sở hành làm tổn hại,
và nuôi mạng sái quấy,
các điều phụ trội này
thuộc hành sự xua đuổi.
Mất lợi lộc, chê bai
tức là hai nhóm năm,
có tên “hai nhóm năm,”
các điều phụ trội này
thuộc hành sự hòa giải.
Việc khiển trách, nương nhờ,
thuộc hai hành sự ấy
được qui định tương tợ.
Trong xua đuổi, hòa giải,
là có điều phụ trội.
Ba hành sự án treo,
được phân tích tương tợ.
Theo đúng ở phương thức
của hành sự khiển trách,
các hành sự còn lại
như vậy được nghiệm ra.
II. CHƯƠNG PARIVĀSA
(PARIVĀSIKAKKHANDHAKAṂ):
1. PHẬN SỰ CỦA VỊ HÀNH PARIVĀSA (PARIVĀSIKAVATTAṂ):
[320]Lúc bấy giờ, đức Phật Thế tôn ngự tại Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu hành parivāsa tiếp nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, sự chắp tay, hành động thích hợp, sự sửa soạn chỗ ngồi, sự sửa soạn chỗ nằm, nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân, sự tiếp rước y bát, sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các tỳ khưu trong sạch. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Vì sao các tỳ khưu hành parivāsa lại tiếp nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, sự chắp tay, hành động thích hợp, sự sửa soạn chỗ ngồi, sự sửa soạn chỗ nằm, nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân, sự tiếp rước y bát, sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các tỳ khưu trong sạch?
Sau đó, các vị ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
[321] Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội chúng tỳ khưu lại và hỏi các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu hành parivāsa tiếp nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, sự chắp tay, hành động thích hợp, sự sửa soạn chỗ ngồi, sự sửa soạn chỗ nằm, nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân, sự tiếp rước y bát, sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các tỳ khưu trong sạch, có đúng không vậy?
– Bạch Thế Tôn, đúng vậy,
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
– Này các tỳ khưu, tại sao các tỳ khưu hành parivāsa lại tiếp nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, sự chắp tay, hành động thích hợp, sự sửa soạn chỗ ngồi, sự sửa soạn chỗ nằm, nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân, sự tiếp rước y bát, sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các tỳ khưu trong sạch? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin, …(như trên)…
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, các tỳ khưu hành parivāsa không nên tiếp nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, sự chắp tay, hành động thích hợp, sự sửa soạn chỗ ngồi, sự sửa soạn chỗ nằm, nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân, sự tiếp rước y bát, sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các tỳ khưu trong sạch; vị nào tiếp nhận thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Này các tỳ khưu, ta cho phép việc đảnh lễ, việc đứng dậy, việc chắp tay, hành động thích hợp, việc sửa soạn chỗ ngồi, việc sửa soạn chỗ nằm, nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân, việc tiếp rước y bát, việc kỳ cọ lưng trong khi tắm giữa các tỳ khưu hành parivāsa với nhau được tính theo thâm niên.
Này các tỳ khưu, ta cho phép năm sự việc là lễ Uposatha, lễ Pavāraṇā, y tắm mưa, sự phân chia (vật cúng dường), bữa thọ trai được tính theo thâm niên cho các tỳ khưu hành parivāsa. [1] Này các tỳ khưu, như vậy thì ta sẽ quy định phận sự cho các tỳ khưu hành parivāsa, các tỳ khưu hành parivāsa nên thực hành theo như thế.
[322] Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hành parivāsa nên thực hành phận sự một cách nghiêm chỉnh. Trong trường hợp này, các phận sự nghiêm chỉnh ấy là: Không nên ban phép tu lên bậc trên, không nên ban cho phép nương nhờ, không nên bảo sa di phục vụ, không nên chấp nhận sự chỉ định giảng dạy tỳ khưu ni, không nên giảng dạy tỳ khưu ni dầu đã được chỉ định, hội chúng đã cho hành phạt parivāsa với tội nào thì không nên tái phạm tội ấy, hoặc tội tương tợ, hoặc tội nghiêm trọng hơn tội ấy, không nên chỉ trích hành sự, không nên chỉ trích các vị thực thi hành sự, đối với tỳ khưu trong sạch không nên đình chỉ lễ Uposatha, không nên đình chỉ lễ Pavāraṇā, không nên sai bảo, không nên cáo tội, không nên thỉnh ý (để buộc tội), không nên quở trách, không nên nhắc nhở, (và) không nên cấu kết các tỷ khưu với các tỳ khưu.
[323] Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hành parivāsa không nên đi phía trước, không nên ngồi phía trước vị tỳ khưu trong sạch. Nên cho vị ấy chỗ ngồi cuối cùng, chỗ nằm cuối cùng, trú xá cuối cùng của hội chúng và vị ấy nên chấp nhận việc ấy. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hành parivāsa không nên đi đến các gia đình với vị tỳ khưu trong sạch làm vị sa-môn đi trước hoặc làm sa-môn thị giả, không nên thọ trì pháp (đầu đà) cư ngụ ở trong rừng, không nên thọ trì pháp (đầu đà) hành khất thực, không vì lý do đó mà cho người đem lại vật thực (nghĩ rằng): “Chớ để họ biết về mình.”
[324] Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hành parivāsa là vị vãng lai nên trình báo (về hành phạt đang thọ đến các tỳ khưu ở trú xứ đó), nên trình báo đến vị vãng lai (khác), nên trình báo trong lễ Uposatha, nên trình báo trong lễ Pavāraṇā. Nếu bị bệnh, người đại diện nên trình báo giùm.
[325] Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hành parivāsa ở chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ không có tỳ khưu, trừ phi (cùng đi) với vị tỳ khưu trong sạch, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hành parivāsa ở chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỳ khưu, trừ phi (cùng đi) với vị tỳ khưu trong sạch, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hành parivāsa ở chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỳ khưu, trừ phi (cùng đi) với vị tỳ khưu trong sạch, trừ phi có nguy hiểm.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hành parivāsa ở nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ không có tỳ khưu, trừ phi (cùng đi) với vị tỳ khưu trong sạch, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hành parivāsa ở nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỳ khưu, trừ phi (cùng đi) với vị tỳ khưu trong sạch, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hành parivāsa ở nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỳ khưu, trừ phi (cùng đi) với vị tỳ khưu trong sạch, trừ phi có nguy hiểm.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hành parivāsa ở chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ không có tỳ khưu, trừ phi (cùng đi) với vị tỳ khưu trong sạch, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hành parivāsa ở chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỳ khưu, trừ phi (cùng đi) với vị tỳ khưu trong sạch, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hành parivāsa ở chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỳ khưu, trừ phi (cùng đi) với vị tỳ khưu trong sạch, trừ phi có nguy hiểm.
[326] Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hành parivāsa ở chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ có tỳ khưu nếu các tỳ khưu ở nơi ấy là không đồng cộng trú,[2] trừ phi (cùng đi) với vị tỳ khưu trong sạch, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hành parivāsa ở chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nếu các tỳ khưu ở nơi ấy là không đồng cộng trú, trừ phi (cùng đi) với vị tỳ khưu trong sạch, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hành parivāsa ở chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nếu các tỳ khưu ở nơi ấy là không đồng cộng trú, trừ phi (cùng đi) với vị tỳ khưu trong sạch, trừ phi có nguy hiểm.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hành parivāsa ở nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ có tỳ khưu nếu các tỳ khưu ở nơi ấy là không đồng cộng trú, trừ phi (cùng đi) với vị tỳ khưu trong sạch, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hành parivāsa ở nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nếu các tỳ khưu ở nơi ấy là không đồng cộng trú, trừ phi (cùng đi) với vị tỳ khưu trong sạch, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hành parivāsa ở nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nếu các tỳ khưu ở nơi ấy là không đồng cộng trú, trừ phi (cùng đi) với vị tỳ khưu trong sạch, trừ phi có nguy hiểm.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hành parivāsa ở chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ có tỳ khưu nếu các tỳ khưu ở nơi ấy là không đồng cộng trú, trừ phi (cùng đi) với vị tỳ khưu trong sạch, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hành parivāsa ở chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nếu các tỳ khưu ở nơi ấy là không đồng cộng trú, trừ phi (cùng đi) với vị tỳ khưu trong sạch, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hành parivāsa ở chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nếu các tỳ khưu ở nơi ấy là không đồng cộng trú, trừ phi (cùng đi) với vị tỳ khưu trong sạch, trừ phi có nguy hiểm.
[327] Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hành parivāsa ở chỗ trú ngụ có tỳ khưu có thể đi đến chỗ trú ngụ có tỳ khưu nếu các tỳ khưu ở nơi ấy là đồng cộng trú và biết được rằng “Ta có thể đi đến nội trong ngày nay.” Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hành parivāsa ở chỗ trú ngụ có tỳ khưu có thể đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nếu các tỳ khưu ở nơi ấy là đồng cộng trú và biết được rằng “Ta có thể đi đến nội trong ngày nay.” Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hành parivāsa ở chỗ trú ngụ có tỳ khưu có thể đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nếu các tỳ khưu ở nơi ấy là đồng cộng trú và biết được rằng “Ta có thể đi đến nội trong ngày nay.”
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hành parivāsa ở nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu có thể đi đến chỗ trú ngụ có tỳ khưu nếu các tỳ khưu ở nơi ấy là đồng cộng trú và biết được rằng “Ta có thể đi đến nội trong ngày nay.” Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hành parivāsa ở nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu có thể đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nếu các tỳ khưu ở nơi ấy là đồng cộng trú và biết được rằng “Ta có thể đi đến nội trong ngày nay.” Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hành parivāsa ở nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu có thể đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nếu các tỳ khưu ở nơi ấy là đồng cộng trú và biết được rằng “Ta có thể đi đến nội trong ngày nay.”
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hành parivāsa ở chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu có thể đi đến chỗ trú ngụ có tỳ khưu nếu các tỳ khưu ở nơi ấy là đồng cộng trú và biết được rằng “Ta có thể đi đến nội trong ngày nay.” Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hành parivāsa ở chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu có thể đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nếu các tỳ khưu ở nơi ấy là đồng cộng trú và biết được rằng “Ta có thể đi đến nội trong ngày nay.” Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hành parivāsa ở chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu có thể đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nếu các tỳ khưu ở nơi ấy là đồng cộng trú và biết được rằng “Ta có thể đi đến nội trong ngày nay.”
[328] Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hành parivāsa cùng với vị tỳ khưu trong sạch không nên cư ngụ chung trong chỗ trú ngụ cùng một mái che, không nên cư ngụ chung trong nơi không phải là chỗ trú ngụ cùng một mái che, không nên cư ngụ trong chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ cùng một mái che. Khi thấy vị tỳ khưu trong sạch nên từ chỗ ngồi đứng dậy. Vị tỳ khưu trong sạch nên được mời chỗ ngồi. Không nên ngồi chung một chỗ ngồi với vị tỳ khưu trong sạch, không nên ngồi trên chỗ ngồi cao (trong khi vị kia) ngồi ở chỗ ngồi thấp, không nên ngồi trên chỗ ngồi (trong khi vị kia) ngồi ở trên nền đất, không nên đi kinh hành chung một đường kinh hành (với vị tỳ khưu trong sạch), không nên đi kinh hành ở đường kinh hành cao (trong khi vị kia) đi kinh hành ở đường kinh hành thấp, không nên đi kinh hành ở đường kinh hành (trong khi vị kia) đi kinh hành ở trên mặt đất.
[329] Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hành parivāsa cùng với vị tỳ khưu hành parivāsa thâm niên hơn …(như trên)… cùng với vị tỳ khưu xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu …(như trên)… cùng với vị tỳ khưu xứng đáng hành mānatta…(như trên)… cùng với vị tỳ khưu thực hành mānatta…(như trên)… cùng với vị tỳ khưu xứng đáng sự giải tội không nên cư ngụ chung trong chỗ trú ngụ cùng một mái che, không nên cư ngụ chung trong nơi không phải là chỗ trú ngụ cùng một mái che, không nên cư ngụ trong chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ cùng một mái che, không nên ngồi chung một chỗ ngồi, không nên ngồi trên chỗ ngồi cao (trong khi vị kia) ngồi ở chỗ ngồi thấp, không nên ngồi trên chỗ ngồi (trong khi vị kia) ngồi ở trên nền đất, không nên đi kinh hành chung một đường kinh hành, không nên đi kinh hành ở đường kinh hành cao (trong khi vị kia) đi kinh hành ở đường kinh hành thấp, không nên đi kinh hành ở đường kinh hành (trong khi vị kia) đi kinh hành ở trên mặt đất.
[330] Này các tỳ khưu, nếu vị thứ tư là vị hành parivāsa thì (nhóm ấy) không thể ban cho hành phạt parivāsa, không thể cho (thực hành) trở lại từ đầu, không thể ban cho hành phạt mānatta, nếu là vị thứ hai mươi thì (nhóm ấy) không thể giải tội; việc làm ấy không phải là hành sự và không nên thực hành.
Dứt chín mươi bốn phận sự của vị hành parivāsa.
[331] Khi ấy, đại đức Upāli đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, đại đức Upāli đã nói với đức Thế Tôn rằng:
– Bạch ngài, vị tỳ khưu hành parivāsa có bao nhiêu sự đứt đêm?
– Này Upāli, vị tỳ khưu hành parivāsa có ba sự đứt đêm: sự cư ngụ chung (với các hạng tỳ khưu đã nêu trong phần phận sự ở trên), sự cư ngụ tách rời (chỉ có một mình), sự không trình báo (cho các tỳ khưu vãng lai, v.v…).[3] Này Upāli, đây là ba sự đứt đêm của vị tỳ khưu hành parivāsa.
[332] Vào lúc bấy giờ, hội chúng tỳ khưu đông đảo đã tụ hội tại Sāvatthi. Các tỳ khưu hành parivāsa không thể hoàn thành hành phạt parivāsa. Các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép ngưng hành phạt parivāsa. Và này các tỳ khưu, nên ngưng như vầy: Vị tỳ khưu hành parivāsa nên đi đến một vị tỳ khưu, đắp y thượng y một bên vai, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên nói như vầy: “Tôi ngưng hành phạt parivāsa.” Hành phạt parivāsa đã được ngưng lại. “Tôi ngưng (thực hành) phận sự.” Hành phạt parivāsa đã được ngưng lại.
[333]Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ở Sāvatthi đã ra đi nơi này nơi nọ. Các tỳ khưu hành parivāsa có thể hoàn thành hành phạt parivāsa. Các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép thọ trì lại hành phạt parivāsa. Và này các tỳ khưu, nên thọ trì lại như vầy: Vị tỳ khưu hành parivāsa nên đi đến một vị tỳ khưu, đắp y thượng y một bên vai, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên nói như vầy: “Tôi thọ trì lại hành phạt parivāsa.” Hành phạt parivāsa đã được thọ trì lại. “Tôi thọ trì lại phận sự.” Hành phạt parivāsa đã được thọ trì lại.
Dứt phận sự của vị hành parivāsa.
2. PHẬN SỰ CỦA VỊ XỨNG ĐÁNG (THỰC HÀNH) TRỞ LẠI TỪ ĐẦU
(MŪLĀYA PAṬIKASSANĀRAHAVATTAṂ):
[334]Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu tiếp nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, sự chắp tay, hành động thích hợp, sự sửa soạn chỗ ngồi, sự sửa soạn chỗ nằm, nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân, sự tiếp rước y bát, sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các tỳ khưu trong sạch. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Vì sao các tỳ khưu xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu lại tiếp nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, sự chắp tay, hành động thích hợp, sự sửa soạn chỗ ngồi, sự sửa soạn chỗ nằm, nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân, sự tiếp rước y bát, sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các tỳ khưu trong sạch?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
[335] Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội chúng tỳ khưu lại và hỏi các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu tiếp nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, …(như trên)…, sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các tỳ khưu trong sạch, có đúng không vậy?
– Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
– Này các tỳ khưu, tại sao các tỳ khưu xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu lại tiếp nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, …(như trên)…, sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các tỳ khưu trong sạch? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)…
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, các tỳ khưu xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu không nên tiếp nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, …(như trên)…, sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các tỳ khưu trong sạch; vị nào tiếp nhận thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Này các tỳ khưu, ta cho phép việc đảnh lễ, việc đứng dậy, …(như trên)…, việc kỳ cọ lưng trong khi tắm giữa các tỳ khưu xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu với nhau được tính theo thâm niên. Này các tỳ khưu, ta cho phép năm sự việc là lễ Uposatha, lễ Pavāraṇā, y tắm mưa, sự phân chia (vật cúng dường), bữa thọ trai được tính theo thâm niên cho các tỳ khưu xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu.
Này các tỳ khưu, như vậy thì ta sẽ quy định phận sự cho các tỳ khưu xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu, các tỳ khưu xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu nên thực hành theo như thế.
[336] Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu nên thực hành phận sự một cách nghiêm chỉnh. Trong trường hợp này, các phận sự nghiêm chỉnh ấy là: Không nên ban phép tu lên bậc trên, không nên ban cho phép nương nhờ, không nên bảo sa di phục vụ, không nên chấp nhận sự chỉ định giảng dạy tỳ khưu ni, không nên giảng dạy tỳ khưu ni dầu đã được chỉ định, xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu với tội nào thì không nên tái phạm tội ấy, hoặc tội tương tợ, hoặc tội nghiêm trọng hơn tội ấy, không nên chỉ trích hành sự, không nên chỉ trích các vị thực thi hành sự, đối với tỳ khưu trong sạch không nên đình chỉ lễ Uposatha, không nên đình chỉ lễ Pavāraṇā, không nên sai bảo, không nên cáo tội, không nên thỉnh ý (để buộc tội), không nên quở trách, không nên nhắc nhở, (và) không nên cấu kết các tỷ khưu với các tỳ khưu.
[337] Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu không nên đi phía trước, không nên ngồi phía trước vị tỳ khưu trong sạch. Nên cho vị ấy chỗ ngồi cuối cùng, chỗ nằm cuối cùng, trú xá cuối cùng của hội chúng và vị ấy nên chấp nhận việc ấy. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu không nên đi đến các gia đình với vị tỳ khưu trong sạch làm vị sa-môn đi trước hoặc làm sa-môn thị giả, không nên thọ trì pháp (đầu đà) cư ngụ ở trong rừng, không nên thọ trì pháp (đầu đà) hành khất thực, không vì lý do đó mà cho người đem lại vật thực (nghĩ rằng): “Chớ để họ biết về mình.”
[338] Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu ở chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ không có tỳ khưu, trừ phi (cùng đi) với vị tỳ khưu trong sạch, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu ở chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỳ khưu, trừ phi (cùng đi) với vị tỳ khưu trong sạch, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu ở chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỳ khưu, trừ phi (cùng đi) với vị tỳ khưu trong sạch, trừ phi có nguy hiểm.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu ở nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ không có tỳ khưu …(như trên)… không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỳ khưu …(như trên)… không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỳ khưu, trừ phi (cùng đi) với vị tỳ khưu trong sạch, trừ phi có nguy hiểm.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu ở chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ không có tỳ khưu …(như trên)… không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỳ khưu …(như trên)… không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỳ khưu, trừ phi (cùng đi) với vị tỳ khưu trong sạch, trừ phi có nguy hiểm.
[339] Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu ở chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ có tỳ khưu …(như trên)… không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu …(như trên)… không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nếu các tỳ khưu ở nơi ấy là không đồng cộng trú, trừ phi (cùng đi) với vị tỳ khưu trong sạch, trừ phi có nguy hiểm.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu ở nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ có tỳ khưu …(như trên)… không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu …(như trên)… không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nếu các tỳ khưu ở nơi ấy là không đồng cộng trú, trừ phi (cùng đi) với vị tỳ khưu trong sạch, trừ phi có nguy hiểm.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu ở chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ có tỳ khưu …(như trên)… không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu …(như trên)… không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nếu các tỳ khưu ở nơi ấy là không đồng cộng trú, trừ phi (cùng đi) với vị tỳ khưu trong sạch, trừ phi có nguy hiểm.
[340] Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu ở chỗ trú ngụ có tỳ khưu có thể đi đến chỗ trú ngụ có tỳ khưu …(như trên)… nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu …(như trên)… chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nếu các tỳ khưu ở nơi ấy là đồng cộng trú và biết được rằng “Ta có thể đi đến nội trong ngày nay.”
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu ở nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu có thể đi đến chỗ trú ngụ có tỳ khưu …(như trên)… nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu …(như trên)… chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nếu các tỳ khưu ở nơi ấy là đồng cộng trú và biết được rằng “Ta có thể đi đến nội trong ngày nay.”
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu ở chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu có thể đi đến chỗ trú ngụ có tỳ khưu …(như trên)… nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu …(như trên)… chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nếu các tỳ khưu ở nơi ấy là đồng cộng trú và biết được rằng “Ta có thể đi đến nội trong ngày nay.”
[341] Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu cùng với vị tỳ khưu trong sạch không nên cư ngụ chung trong chỗ trú ngụ cùng một mái che, không nên cư ngụ chung trong nơi không phải là chỗ trú ngụ cùng một mái che, không nên cư ngụ trong chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ cùng một mái che. Khi thấy vị tỳ khưu trong sạch nên từ chỗ ngồi đứng dậy. Vị tỳ khưu trong sạch nên được mời chỗ ngồi. Không nên ngồi chung một chỗ ngồi với vị tỳ khưu trong sạch, không nên ngồi trên chỗ ngồi cao (trong khi vị kia) ngồi ở chỗ ngồi thấp, không nên ngồi trên chỗ ngồi (trong khi vị kia) ngồi ở trên nền đất, không nên đi kinh hành chung một đường kinh hành (với vị tỳ khưu trong sạch), không nên đi kinh hành ở đường kinh hành cao (trong khi vị kia) đi kinh hành ở đường kinh hành thấp, không nên đi kinh hành ở đường kinh hành (trong khi vị kia) đi kinh hành ở trên mặt đất.
[342] Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu cùng với vị tỳ khưu hành parivāsa …(như trên)… cùng với vị tỳ khưu xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu nhưng thâm niên hơn …(như trên)… cùng với vị tỳ khưu xứng đáng hành mānatta …(như trên)… cùng với vị tỳ khưu thực hành mānatta …(như trên)… cùng với vị tỳ khưu xứng đáng sự giải tội không nên cư ngụ chung trong chỗ trú ngụ cùng một mái che, không nên cư ngụ chung trong nơi không phải là chỗ trú ngụ cùng một mái che, không nên cư ngụ trong chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ cùng một mái che, không nên ngồi chung một chỗ ngồi, không nên ngồi trên chỗ ngồi cao (trong khi vị kia) ngồi ở chỗ ngồi thấp, không nên ngồi trên chỗ ngồi (trong khi vị kia) ngồi ở trên nền đất, không nên đi kinh hành chung một đường kinh hành, không nên đi kinh hành ở đường kinh hành cao (trong khi vị kia) đi kinh hành ở đường kinh hành thấp, không nên đi kinh hành ở đường kinh hành (trong khi vị kia) đi kinh hành ở trên mặt đất.
[343] Này các tỳ khưu, nếu vị thứ tư là vị xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu thì (nhóm ấy) không thể ban cho hành phạt parivāsa, không thể cho (thực hành) trở lại từ đầu, không thể ban cho hành phạt mānatta, nếu là vị thứ hai mươi thì (nhóm ấy) không thể giải tội; việc làm ấy không phải là hành sự và không nên thực hành.
Dứt phận sự của vị xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu.
3. PHẬN SỰ CỦA VỊ XỨNG ĐÁNG HÀNH MĀNATTA
(MĀNATTĀRAHAVATTAṂ):
[344] Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu xứng đáng hành mānatta tiếp nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, sự chắp tay, hành động thích hợp, sự sửa soạn chỗ ngồi, sự sửa soạn chỗ nằm, nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân, sự tiếp rước y bát, sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các tỳ khưu trong sạch. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Vì sao các tỳ khưu xứng đáng hành mānatta lại tiếp nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, …(như trên)…, sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các tỳ khưu trong sạch?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu xứng đáng hành mānatta tiếp nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, …(như trên)…, sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các tỳ khưu trong sạch, có đúng không vậy?
– Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
– Này các tỳ khưu, tại sao các tỳ khưu xứng đáng hành mānatta lại tiếp nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, …(như trên)… sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các tỳ khưu trong sạch? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)…
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, các tỳ khưu xứng đáng hành mānatta không nên tiếp nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, …(như trên)…, sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các tỳ khưu trong sạch; vị nào tiếp nhận thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Này các tỳ khưu, ta cho phép việc đảnh lễ, việc đứng dậy, …(như trên)… việc kỳ cọ lưng trong khi tắm giữa các tỳ khưu xứng đáng hành mānatta với nhau được tính theo thâm niên. Này các tỳ khưu, ta cho phép năm sự việc là lễ Uposatha, lễ Pavāraṇā, y tắm mưa, sự phân chia (vật cúng dường), bữa thọ trai được tính theo thâm niên cho các tỳ khưu xứng đáng hành mānatta.
Này các tỳ khưu, như vậy thì ta sẽ quy định phận sự cho các tỳ khưu xứng đáng hành mānatta, các tỳ khưu xứng đáng hành mānatta nên thực hành theo như thế.
[345] Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu xứng đáng hành mānatta nên thực hành phận sự một cách nghiêm chỉnh. Trong trường hợp này, các phận sự nghiêm chỉnh ấy là: Không nên ban phép tu lên bậc trên, không nên ban cho phép nương nhờ, không nên bảo sa di phục vụ, không nên chấp nhận sự chỉ định giảng dạy tỳ khưu ni, không nên giảng dạy tỳ khưu ni dầu đã được chỉ định, xứng đáng hành mānatta với tội nào thì không nên tái phạm tội ấy, hoặc tội tương tợ, hoặc tội nghiêm trọng hơn tội ấy, không nên chỉ trích hành sự, không nên chỉ trích các vị thực thi hành sự, đối với tỳ khưu trong sạch không nên đình chỉ lễ Uposatha, không nên đình chỉ lễ Pavāraṇā, không nên sai bảo, không nên cáo tội, không nên thỉnh ý (để buộc tội), không nên quở trách, không nên nhắc nhở, (và) không nên cấu kết các tỷ khưu với các tỳ khưu.
[346] Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu xứng đáng hành mānatta không nên đi phía trước, không nên ngồi phía trước vị tỳ khưu trong sạch. Nên cho vị ấy chỗ ngồi cuối cùng, chỗ nằm cuối cùng, trú xá cuối cùng của hội chúng và vị ấy nên chấp nhận việc ấy. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu xứng đáng hành mānatta không nên đi đến các gia đình với vị tỳ khưu trong sạch làm vị sa-môn đi trước hoặc làm sa-môn thị giả, không nên thọ trì pháp (đầu đà) cư ngụ ở trong rừng, không nên thọ trì pháp (đầu đà) hành khất thực, không vì lý do đó mà cho người đem lại vật thực (nghĩ rằng): “Chớ để họ biết về mình.”
[347] Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu xứng đáng hành mānatta là vị vãng lai nên trình báo (về hành phạt đang thọ đến các tỳ khưu ở trú xứ đó), nên trình báo đến vị vãng lai (khác), nên trình báo trong lễ Uposatha, nên trình báo trong lễ Pavāraṇā. Nếu bị bệnh, người đại diện nên trình báo giùm.
[348] Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu xứng đáng hành mānatta ở chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ không có tỳ khưu, trừ phi (cùng đi) với vị tỳ khưu trong sạch, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu xứng đáng hành mānatta ở chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỳ khưu, trừ phi (cùng đi) với vị tỳ khưu trong sạch, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu xứng đáng hành mānatta ở chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỳ khưu, trừ phi (cùng đi) với vị tỳ khưu trong sạch, trừ phi có nguy hiểm.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu xứng đáng hành mānatta ở nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ không có tỳ khưu …(như trên)… không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỳ khưu …(như trên)… không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỳ khưu, trừ phi (cùng đi) với vị tỳ khưu trong sạch, trừ phi có nguy hiểm.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu xứng đáng hành mānatta ở chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ không có tỳ khưu …(như trên)… không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỳ khưu …(như trên)… không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỳ khưu, trừ phi (cùng đi) với vị tỳ khưu trong sạch, trừ phi có nguy hiểm.
[349] Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu xứng đáng hành mānatta ở chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ có tỳ khưu …(như trên)… không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu …(như trên)… không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nếu các tỳ khưu ở nơi ấy là không đồng cộng trú, trừ phi (cùng đi) với vị tỳ khưu trong sạch, trừ phi có nguy hiểm.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu xứng đáng hành mānatta ở nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ có tỳ khưu …(như trên)… không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu …(như trên)… không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nếu các tỳ khưu ở nơi ấy là không đồng cộng trú, trừ phi (cùng đi) với vị tỳ khưu trong sạch, trừ phi có nguy hiểm.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu xứng đáng hành mānatta ở chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ có tỳ khưu …(như trên)… không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu …(như trên)… không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nếu các tỳ khưu ở nơi ấy là không đồng cộng trú, trừ phi (cùng đi) với vị tỳ khưu trong sạch, trừ phi có nguy hiểm.
[350] Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu xứng đáng hành mānatta ở chỗ trú ngụ có tỳ khưu có thể đi đến chỗ trú ngụ có tỳ khưu …(như trên)… nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu …(như trên)… chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nếu các tỳ khưu ở nơi ấy là đồng cộng trú và biết được rằng “Ta có thể đi đến nội trong ngày nay.”
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu xứng đáng hành mānatta ở nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu có thể đi đến chỗ trú ngụ có tỳ khưu …(như trên)… nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu …(như trên)… chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nếu các tỳ khưu ở nơi ấy là đồng cộng trú và biết được rằng “Ta có thể đi đến nội trong ngày nay.”
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu xứng đáng hành mānatta ở chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu có thể đi đến chỗ trú ngụ có tỳ khưu …(như trên)… nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu …(như trên)… chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nếu các tỳ khưu ở nơi ấy là đồng cộng trú và biết được rằng “Ta có thể đi đến nội trong ngày nay.”
[351] Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu xứng đáng hành mānatta cùng với vị tỳ khưu trong sạch không nên cư ngụ chung trong chỗ trú ngụ cùng một mái che, không nên cư ngụ chung trong nơi không phải là chỗ trú ngụ cùng một mái che, không nên cư ngụ trong chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ cùng một mái che. Khi thấy vị tỳ khưu trong sạch nên từ chỗ ngồi đứng dậy. Vị tỳ khưu trong sạch nên được mời chỗ ngồi. Không nên ngồi chung một chỗ ngồi với vị tỳ khưu trong sạch, không nên ngồi trên chỗ ngồi cao (trong khi vị kia) ngồi ở chỗ ngồi thấp, không nên ngồi trên chỗ ngồi (trong khi vị kia) ngồi ở trên nền đất, không nên đi kinh hành chung một đường kinh hành (với vị tỳ khưu trong sạch), không nên đi kinh hành ở đường kinh hành cao (trong khi vị kia) đi kinh hành ở đường kinh hành thấp, không nên đi kinh hành ở đường kinh hành (trong khi vị kia) đi kinh hành ở trên mặt đất.
[352] Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu xứng đáng hành mānatta cùng với vị tỳ khưu hành parivāsa …(như trên)… cùng với vị tỳ khưu xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu…(như trên)… cùng với vị tỳ khưu xứng đáng hành mānatta nhưng thâm niên hơn …(như trên)… cùng với vị tỳ khưu thực hành mānatta …(như trên)… cùng với vị tỳ khưu xứng đáng sự giải tội không nên cư ngụ chung trong chỗ trú ngụ cùng một mái che, không nên cư ngụ chung trong nơi không phải là chỗ trú ngụ cùng một mái che, không nên cư ngụ trong chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ cùng một mái che, không nên ngồi chung một chỗ ngồi, không nên ngồi trên chỗ ngồi cao (trong khi vị kia) ngồi ở chỗ ngồi thấp, không nên ngồi trên chỗ ngồi (trong khi vị kia) ngồi ở trên nền đất, không nên đi kinh hành chung một đường kinh hành, không nên đi kinh hành ở đường kinh hành cao (trong khi vị kia) đi kinh hành ở đường kinh hành thấp, không nên đi kinh hành ở đường kinh hành (trong khi vị kia) đi kinh hành ở trên mặt đất.
[353] Này các tỳ khưu, nếu vị thứ tư là vị xứng đáng hành mānatta thì (nhóm ấy) không thể ban cho hành phạt parivāsa, không thể cho trở lại (hành phạt) từ đầu, không thể ban cho hành phạt mānatta, nếu là vị thứ hai mươi thì (nhóm ấy) không thể giải tội; việc làm ấy không phải là hành sự và không nên thực hành.
Dứt phận sự của vị xứng đáng hành mānatta.
4. PHẬN SỰ CỦA VỊ THỰC HÀNH MĀNATTA
(MĀNATTACĀRIKAVATTAṂ):
[354] Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu thực hành mānatta tiếp nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, sự chắp tay, hành động thích hợp, sự sửa soạn chỗ ngồi, sự sửa soạn chỗ nằm, nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân, sự tiếp rước y bát, sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các tỳ khưu trong sạch. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Vì sao các tỳ khưu thực hành mānatta lại tiếp nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, …(như trên)…, sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các tỳ khưu trong sạch?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
[355] Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội chúng tỳ khưu lại và hỏi các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu thực hành mānatta tiếp nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, …(như trên)…, sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các tỳ khưu trong sạch, có đúng không vậy?
– Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
– Này các tỳ khưu, tại sao các tỳ khưu thực hành mānatta lại tiếp nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, …(như trên)… sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các tỳ khưu trong sạch? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)…
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, các tỳ khưu thực hành mānatta không nên tiếp nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, …(như trên)…, sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các tỳ khưu trong sạch; vị nào tiếp nhận thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Này các tỳ khưu, ta cho phép việc đảnh lễ, việc đứng dậy, …(như trên)… việc kỳ cọ lưng trong khi tắm giữa các tỳ khưu thực hành mānatta với nhau được tính theo thâm niên. Này các tỳ khưu, ta cho phép năm sự việc là lễ Uposatha, lễ Pavāraṇā, y tắm mưa, sự phân chia (vật cúng dường), bữa thọ trai được tính theo thâm niên cho các tỳ khưu thực hành mānatta.
Này các tỳ khưu, như vậy thì ta sẽ quy định phận sự cho các tỳ khưu thực hành mānatta, các tỳ khưu thực hành mānatta nên thực hành theo như thế.
[356] Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu thực hành mānatta nên thực hành phận sự một cách nghiêm chỉnh. Trong trường hợp này, các phận sự nghiêm chỉnh ấy là: Không nên ban phép tu lên bậc trên, không nên ban cho phép nương nhờ, không nên bảo sa di phục vụ, không nên chấp nhận sự chỉ định giảng dạy tỳ khưu ni, không nên giảng dạy tỳ khưu ni dầu đã được chỉ định, hội chúng đã cho hành phạt mānatta với tội nào thì không nên tái phạm tội ấy, hoặc tội tương tợ, hoặc tội nghiêm trọng hơn tội ấy, không nên chỉ trích hành sự, không nên chỉ trích các vị thực thi hành sự, đối với tỳ khưu trong sạch không nên đình chỉ lễ Uposatha, không nên đình chỉ lễ Pavāraṇā, không nên sai bảo, không nên cáo tội, không nên thỉnh ý (để buộc tội), không nên quở trách, không nên nhắc nhở, (và) không nên cấu kết các tỷ khưu với các tỳ khưu.
[357] Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu thực hành mānatta không nên đi phía trước, không nên ngồi phía trước vị tỳ khưu trong sạch. Nên cho vị ấy chỗ ngồi cuối cùng, chỗ nằm cuối cùng, trú xá cuối cùng của hội chúng và vị ấy nên chấp nhận việc ấy. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu thực hành mānatta không nên đi đến các gia đình với vị tỳ khưu trong sạch làm vị sa-môn đi trước hoặc làm sa-môn thị giả, không nên thọ trì pháp (đầu đà) cư ngụ ở trong rừng, không nên thọ trì pháp (đầu đà) hành khất thực, không vì lý do đó mà cho người đem lại vật thực (nghĩ rằng): “Chớ để họ biết về mình.”
[358] Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu thực hành mānatta là vị vãng lai nên trình báo (về hành phạt đang thọ đến các tỳ khưu ở trú xứ đó), nên trình báo đến vị vãng lai (khác), nên trình báo trong lễ Uposatha, nên trình báo trong lễ Pavāraṇā, nên trình báo mỗi ngày. Nếu bị bệnh, người đại diện nên trình báo giùm.
[359] Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu thực hành mānatta ở chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ không có tỳ khưu, trừ phi (cùng đi) với vị tỳ khưu trong sạch, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu thực hành mānatta ở chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỳ khưu, trừ phi (cùng đi) với vị tỳ khưu trong sạch, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu thực hành mānatta ở chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỳ khưu, trừ phi (cùng đi) với vị tỳ khưu trong sạch, trừ phi có nguy hiểm.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu thực hành mānatta ở nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ không có tỳ khưu …(như trên)… không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỳ khưu …(như trên)… không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỳ khưu, trừ phi (cùng đi) với vị tỳ khưu trong sạch, trừ phi có nguy hiểm.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu thực hành mānatta ở chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ không có tỳ khưu …(như trên)… không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỳ khưu …(như trên)… không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỳ khưu, trừ phi (cùng đi) với vị tỳ khưu trong sạch, trừ phi có nguy hiểm.
[360] Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu thực hành mānatta ở chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ có tỳ khưu …(như trên)… không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu …(như trên)… không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nếu các tỳ khưu ở nơi ấy là không đồng cộng trú, trừ phi (cùng đi) với vị tỳ khưu trong sạch, trừ phi có nguy hiểm.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu thực hành mānatta ở nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ có tỳ khưu …(như trên)… không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu …(như trên)… không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nếu các tỳ khưu ở nơi ấy là không đồng cộng trú, trừ phi (cùng đi) với vị tỳ khưu trong sạch, trừ phi có nguy hiểm.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu thực hành mānatta ở chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ có tỳ khưu …(như trên)… không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu …(như trên)… không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nếu các tỳ khưu ở nơi ấy là không đồng cộng trú, trừ phi (cùng đi) với vị tỳ khưu trong sạch, trừ phi có nguy hiểm.
[361] Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu thực hành mānatta ở chỗ trú ngụ có tỳ khưu có thể đi đến chỗ trú ngụ có tỳ khưu …(như trên)… nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu …(như trên)… chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nếu các tỳ khưu ở nơi ấy là đồng cộng trú và biết được rằng “Ta có thể đi đến nội trong ngày nay.”
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu thực hành mānatta ở nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu có thể đi đến chỗ trú ngụ có tỳ khưu …(như trên)… nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu …(như trên)… chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nếu các tỳ khưu ở nơi ấy là đồng cộng trú và biết được rằng “Ta có thể đi đến nội trong ngày nay.”
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu thực hành mānatta ở chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu có thể đi đến chỗ trú ngụ có tỳ khưu …(như trên)… nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu …(như trên)… chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nếu các tỳ khưu ở nơi ấy là đồng cộng trú và biết được rằng “Ta có thể đi đến nội trong ngày nay.”
[362] Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu thực hành mānatta cùng với vị tỳ khưu trong sạch không nên cư ngụ chung trong chỗ trú ngụ cùng một mái che, không nên cư ngụ chung trong nơi không phải là chỗ trú ngụ cùng một mái che, không nên cư ngụ trong chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ cùng một mái che. Khi thấy vị tỳ khưu trong sạch nên từ chỗ ngồi đứng dậy. Vị tỳ khưu trong sạch nên được mời chỗ ngồi. Không nên ngồi chung một chỗ ngồi với vị tỳ khưu trong sạch, không nên ngồi trên chỗ ngồi cao (trong khi vị kia) ngồi ở chỗ ngồi thấp, không nên ngồi trên chỗ ngồi (trong khi vị kia) ngồi ở trên nền đất, không nên đi kinh hành chung một đường kinh hành (với vị tỳ khưu trong sạch), không nên đi kinh hành ở đường kinh hành cao (trong khi vị kia) đi kinh hành ở đường kinh hành thấp, không nên đi kinh hành ở đường kinh hành (trong khi vị kia) đi kinh hành ở trên mặt đất.
[363] Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu thực hành mānatta cùng với vị tỳ khưu hành parivāsa …(như trên)… cùng với vị tỳ khưu xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu…(như trên)… cùng với vị tỳ khưu xứng đáng hành mānatta …(như trên)… cùng với vị tỳ khưu thực hành mānatta nhưng thâm niên hơn…(như trên)… cùng với vị tỳ khưu xứng đáng sự giải tội không nên cư ngụ chung trong chỗ trú ngụ cùng một mái che, không nên cư ngụ chung trong nơi không phải là chỗ trú ngụ cùng một mái che, không nên cư ngụ trong chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ cùng một mái che, không nên ngồi chung một chỗ ngồi, không nên ngồi trên chỗ ngồi cao (trong khi vị kia) ngồi ở chỗ ngồi thấp, không nên ngồi trên chỗ ngồi (trong khi vị kia) ngồi ở trên nền đất, không nên đi kinh hành chung một đường kinh hành, không nên đi kinh hành ở đường kinh hành cao (trong khi vị kia) đi kinh hành ở đường kinh hành thấp, không nên đi kinh hành ở đường kinh hành (trong khi vị kia) đi kinh hành ở trên mặt đất.
[364] Này các tỳ khưu, nếu vị thứ tư là vị thực hành mānatta thì (nhóm ấy) không thể ban cho hành phạt parivāsa, không thể cho (thực hành) trở lại từ đầu, không thể ban cho hành phạt mānatta, nếu là vị thứ hai mươi thì (nhóm ấy) không thể giải tội; việc làm ấy không phải là hành sự và không nên thực hành.
[365] Khi ấy, đại đức Upāli đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, đại đức Upāli đã nói với đức Thế Tôn rằng:
– Bạch ngài, vị tỳ khưu thực hành mānatta có bao nhiêu sự đứt đêm?
– Này Upāli, vị tỳ khưu thực hành mānatta có bốn sự đứt đêm: sự cư ngụ chung (với các hạng tỳ khưu đã nêu trong phần phận sự ở trên), sự cư ngụ riêng rẽ (chỉ có một mình), sự không trình báo (cho các tỳ khưu vãng lai, v.v…), sự thực hành ở nhóm thiếu (nhân sự). Này Upāli, đây là bốn sự đứt đêm của vị tỳ khưu thực hành mānatta.
[366] Vào lúc bấy giờ, hội chúng tỳ khưu đông đảo đã tụ hội tại Sāvatthi. Các tỳ khưu thực hành mānatta không thể hoàn thành hành phạt mānatta. Các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép ngưng hành phạt mānatta. Và này các tỳ khưu, nên ngưng như vầy: Vị tỳ khưu thực hành mānatta nên đi đến một vị tỳ khưu, đắp y thượng y một bên vai, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên nói như vầy: “Tôi ngưng hành phạt mānatta.” Hành phạt mānatta đã được ngưng lại. “Tôi ngưng (thực hành) phận sự.” Hành phạt mānatta đã được ngưng lại.
[367]Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ở Sāvatthi đã ra đi nơi này nơi nọ. Các tỳ khưu thực hành mānatta có thể hoàn thành hành phạt mānatta. Các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép thọ trì lại hành phạt mānatta. Và này các tỳ khưu, nên thọ trì lại như vầy: Vị tỳ khưu thực hành mānatta nên đi đến một vị tỳ khưu, đắp y thượng y một bên vai, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên nói như vầy: “Tôi thọ trì lại hành phạt mānatta.” Hành phạt mānatta đã được thọ trì lại. “Tôi thọ trì lại phận sự.” Hành phạt mānatta đã được thọ trì lại.
Dứt phận sự của vị thực hành mānatta.
5. PHẬN SỰ CỦA VỊ XỨNG ĐÁNG SỰ GIẢI TỘI
(ABBHĀNĀRAHAVATTAṂ):
[368] Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu xứng đáng sự giải tội tiếp nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, …(như trên)…, sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các tỳ khưu trong sạch. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Vì sao các tỳ khưu xứng đáng sự giải tội lại tiếp nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, …(như trên)…, sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các tỳ khưu trong sạch?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
[369] Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội chúng tỳ khưu lại và hỏi các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu xứng đáng sự giải tội tiếp nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, …(như trên)…, sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các tỳ khưu trong sạch, có đúng không vậy?
– Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
– Này các tỳ khưu, tại sao các tỳ khưu xứng đáng sự giải tội lại tiếp nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, …(như trên)…, sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các tỳ khưu trong sạch? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)…
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, các tỳ khưu xứng đáng sự giải tội không nên tiếp nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, …(như trên)…, sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các tỳ khưu trong sạch; vị nào tiếp nhận thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Này các tỳ khưu, ta cho phép việc đảnh lễ, việc đứng dậy, …(như trên)… việc kỳ cọ lưng trong khi tắm giữa các tỳ khưu xứng đáng sự giải tội với nhau được tính theo thâm niên. Này các tỳ khưu, ta cho phép năm sự việc là lễ Uposatha, lễ Pavāraṇā, y tắm mưa, sự phân chia (vật cúng dường), bữa thọ trai được tính theo thâm niên cho các tỳ khưu xứng đáng sự giải tội. Này các tỳ khưu, như vậy thì ta sẽ quy định phận sự cho các tỳ khưu xứng đáng sự giải tội, các tỳ khưu xứng đáng sự giải tội nên thực hành theo như thế.
[370] Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu xứng đáng sự giải tội nên thực hành phận sự một cách nghiêm chỉnh. Trong trường hợp này, các phận sự nghiêm chỉnh ấy là: Không nên ban phép tu lên bậc trên, không nên ban cho phép nương nhờ, không nên bảo sa di phục vụ, …(như trên)… (và) không nên cấu kết các tỷ khưu với các tỳ khưu. (Phận sự của vị xứng đáng hành mānatta, của vị thực hành mānatta, của vị xứng đáng sự giải tội được giải thích giống như phận sự của vị xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu).
[371] Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu xứng đáng sự giải tội không nên đi phía trước, không nên ngồi phía trước vị tỳ khưu trong sạch. Nên cho vị ấy chỗ ngồi cuối cùng, chỗ nằm cuối cùng, trú xá cuối cùng của hội chúng và vị ấy nên chấp nhận việc ấy. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu xứng đáng sự giải tội không nên đi đến các gia đình với vị tỳ khưu trong sạch làm vị sa-môn đi trước hoặc làm sa-môn thị giả, không nên thọ trì pháp (đầu đà) cư ngụ ở trong rừng, không nên thọ trì pháp (đầu đà) hành khất thực, không vì lý do đó mà cho người đem lại vật thực (nghĩ rằng): “Chớ để họ biết về mình.”
[372] Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu xứng đáng sự giải tội ở chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ không có tỳ khưu, trừ phi (cùng đi) với vị tỳ khưu trong sạch, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu xứng đáng sự giải tội ở chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỳ khưu, trừ phi (cùng đi) với vị tỳ khưu trong sạch, trừ phi có nguy hiểm. …(như trên)… (Phần dưới đây nên được giải thích tương tợ).
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu xứng đáng sự giải tội ở chỗ trú ngụ có tỳ khưu có thể đi đến chỗ trú ngụ có tỳ khưu …(như trên)… nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu …(như trên)… chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nếu các tỳ khưu ở nơi ấy là đồng cộng trú và biết được rằng “Ta có thể đi đến nội trong ngày nay.”
[373] Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu xứng đáng sự giải tội cùng với vị tỳ khưu trong sạch không nên cư ngụ chung trong chỗ trú ngụ cùng một mái che, không nên cư ngụ chung trong nơi không phải là chỗ trú ngụ cùng một mái che, không nên cư ngụ trong chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ cùng một mái che. Khi thấy vị tỳ khưu trong sạch nên từ chỗ ngồi đứng dậy. Vị tỳ khưu trong sạch nên được mời chỗ ngồi. Không nên ngồi chung một chỗ ngồi với vị tỳ khưu trong sạch, không nên ngồi trên chỗ ngồi cao (trong khi vị kia) ngồi ở chỗ ngồi thấp, không nên ngồi trên chỗ ngồi (trong khi vị kia) ngồi ở trên nền đất. Không nên đi kinh hành chung một đường kinh hành (với vị tỳ khưu trong sạch), không nên đi kinh hành ở đường kinh hành cao (trong khi vị kia) đi kinh hành ở đường kinh hành thấp, không nên đi kinh hành ở đường kinh hành (trong khi vị kia) đi kinh hành ở trên mặt đất.
[374] Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu xứng đáng sự giải tội cùng với vị tỳ khưu hành parivāsa …(như trên)… cùng với vị tỳ khưu xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu…(như trên)… cùng với vị tỳ khưu xứng đáng hành mānatta …(như trên)… cùng với vị tỳ khưu thực hành mānatta …(như trên)… cùng với vị tỳ khưu xứng đáng sự giải tội nhưng thâm niên hơn không nên cư ngụ chung trong chỗ trú ngụ cùng một mái che, không nên cư ngụ chung trong nơi không phải là chỗ trú ngụ cùng một mái che, không nên cư ngụ trong chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ cùng một mái che, không nên ngồi chung một chỗ ngồi, không nên ngồi trên chỗ ngồi cao (trong khi vị kia) ngồi ở chỗ ngồi thấp, không nên ngồi trên chỗ ngồi (trong khi vị kia) ngồi ở trên nền đất, không nên đi kinh hành chung một đường kinh hành, không nên đi kinh hành ở đường kinh hành cao (trong khi vị kia) đi kinh hành ở đường kinh hành thấp, không nên đi kinh hành ở đường kinh hành (trong khi vị kia) đi kinh hành ở trên mặt đất.
[375] Này các tỳ khưu, nếu vị thứ tư là vị xứng đáng sự giải tội thì thì (nhóm ấy) không thể ban cho hành phạt parivāsa, không thể cho (thực hành) trở lại từ đầu, không thể ban cho hành phạt mānatta, nếu là vị thứ hai mươi thì (nhóm ấy) không thể giải tội; việc làm ấy không phải là hành sự và không nên thực hành.
Dứt phận sự của vị xứng đáng sự giải tội.
Dứt Chương Parivāsa là chương thứ hai.
Trong chương này có năm sự kiện.
*******
Tóm lược chương này:
[376]
Các vị (bị phạm tội)
hành parivāsa
tiếp nhận sự đảnh lễ,
sự đứng dậy, chắp tay,
sự hành động thích hợp,
sắp xếp chỗ ngồi, nằm,
nước rửa chân, ghế kê,
tấm chà chân, rước bát,
kỳ cọ lưng khi tắm
của tỳ khưu trong sạch,
các vị tốt phiền não,
vị tiếp nhận tác ác.
Có năm điều khác nữa
được tính theo thâm niên:
lễ Uposatha,
lễ Pavāraṇā,
y tắm, vật cúng dường,
bữa ăn (là thứ năm).
Phận sự cần nghiêm chỉnh,
khi vị ấy (cùng đi)
với tỳ khưu trong sạch.
Là điều bị hạn chế:
không (sa-môn) đi trước
hay thị giả đi sau,
cư ngụ ở trong rừng,
việc đem lại thức ăn,
trình báo đến vị khách,
lễ Uposatha,
lễ Pavāraṇā,
và nhờ vị sứ giả.
Vị ấy có thể đi
nơi nào có tỳ khưu,
không ngụ chung mái che,
đứng dậy, và mời thỉnh,
và cũng y như thế
chỗ ngồi phải thấp hơn,
luôn cả lối kinh hành.
Đối với vị thâm niên,
kinh hành trên mặt đất,
không đi lối kinh hành.
Không là việc thực hành,
những lúc bị đứt đêm,
và vì sự toàn hảo,
việc ngưng, thọ trì lại.
Phận sự vị (phạm tội)
hành parivāsa,
vị hành lại từ đầu,
vị xứng mānatta,
vị hành mānatta,
vị xứng đáng giải tội,
được phân tích tương tợ
theo như phương pháp ấy.
Còn có ba điều nữa
cho vị (bị phạm tội)
hành parivāsa,
bốn điều cho các vị
thực hành mānatta,
không thực hành đúng đắn,
và các sự đứt đêm.
Phải trình báo hàng ngày
cho vị mānatta.
Hai hành phạt còn lại
cũng thực hành tương tợ
như ba hành phạt kia.
[1] Ngài Buddhaghosa giải thích là theo thứ tự thâm niên so với các tỳ khưu trong sạch.
[2] Hai nền tảng của việc không đồng cộng trú: Tự bản thân thực hiện việc không đồng cộng trú cho bản thân hoặc là hội chúng hợp nhất ban án treo vị ấy trong việc không nhìn nhận tội, hoặc trong việc không sửa chữa lỗi, hoặc trong việc không từ bỏ tà kiến ác (Đại Phẩm – Mahāvagga, chương X, [240]).
[3] Lời giải thích trong ngoặc đơn dựa vào Chú Giải Samantapāsādikā của ngài Buddhaghosa.
III. CHƯƠNG TÍCH LŨY TỘI
(SAMUCCAYAKKHANDHAKAṂ)
[377] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, đại đức Udāyi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Vị ấy đã kể lại cho các tỳ khưu rằng:
– Này các đại đức, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu; vậy tôi nên thực hành như thế nào?
Các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, vì việc ấy hội chúng hãy ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu đến tỳ khưu Udāyi.
[378] Và này các tỳ khưu, nên ban cho như vầy: Này các tỳ khưu, tỳ khưu Udāyi ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu trưởng thượng, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên nói như vầy:
“Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Bạch các ngài, tôi đây cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu.
Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Bạch các ngài, tôi đây cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu lần thứ nhì.
Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Bạch các ngài, tôi đây cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu lần thứ ba.”
[379] Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ khưu Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu đến tỳ khưu Udāyi. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ khưu Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu đến tỳ khưu Udāyi. Đại đức nào đồng ý việc ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu đến tỳ khưu Udāyi xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ khưu Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu đến tỳ khưu Udāyi. Đại đức nào đồng ý việc ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu đến tỳ khưu Udāyi xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ khưu Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu đến tỳ khưu Udāyi. Đại đức nào đồng ý việc ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu đến tỳ khưu Udāyi xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu đã được hội chúng ban cho tỳ khưu Udāyi. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
[380] Với hành phạt mānatta đã được hoàn tất, vị ấy đã kể lại cho các tỳ khưu rằng:
– Này các đại đức, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Tôi đây đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu đến tôi đây. Tôi đây đã hoàn tất hành phạt mānatta, vậy tôi nên thực hành như thế nào?
Các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, vì việc ấy hội chúng hãy giải tội cho tỳ khưu Udāyi.
[381] Và này các tỳ khưu, nên giải tội như vầy: Này các tỳ khưu, tỳ khưu Udāyi ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu trưởng thượng, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên nói như vầy:
“Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Tôi đây đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu đến tôi đây. Bạch các ngài, tôi đây đã hoàn tất hành phạt mānatta, giờ cầu xin hội chúng sự giải tội.
Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Tôi đây đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu đến tôi đây. Bạch các ngài, tôi đây đã hoàn tất hành phạt mānatta, giờ cầu xin hội chúng sự giải tội lần thứ nhì.
Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Tôi đây đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu đến tôi đây. Bạch các ngài, tôi đây đã hoàn tất hành phạt mānatta, giờ cầu xin hội chúng sự giải tội lần thứ ba.”
[382] Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ khưu Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu đến tỳ khưu Udāyi. Vị ấy đã hoàn tất hành phạt mānatta, giờ cầu xin hội chúng sự giải tội. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên giải tội cho tỳ khưu Udāyi. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ khưu Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu đến tỳ khưu Udāyi. Vị ấy đã hoàn tất hành phạt mānatta, giờ cầu xin hội chúng sự giải tội. Hội chúng giải tội cho tỳ khưu Udāyi. Đại đức nào đồng ý sự giải tội cho tỳ khưu Udāyi xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ khưu Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu đến tỳ khưu Udāyi. Vị ấy đã hoàn tất hành phạt mānatta, giờ cầu xin hội chúng sự giải tội. Hội chúng giải tội cho tỳ khưu Udāyi. Đại đức nào đồng ý sự giải tội cho tỳ khưu Udāyi xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ khưu Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu đến tỳ khưu Udāyi. Vị ấy đã hoàn tất hành phạt mānatta, giờ cầu xin hội chúng sự giải tội. Hội chúng giải tội cho tỳ khưu Udāyi. Đại đức nào đồng ý sự giải tội cho tỳ khưu Udāyi xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Tỳ khưu Udāyi đã được hội chúng giải tội. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
[383] Vào lúc bấy giờ, đại đức Udāyi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Vị ấy đã kể lại cho các tỳ khưu rằng:
– Này các đại đức, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày; vậy tôi nên thực hành như thế nào?
Các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, vì việc ấy hội chúng hãy ban cho hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày đến tỳ khưu Udāyi.
[384] Và này các tỳ khưu, nên ban cho như vầy: Này các tỳ khưu, tỳ khưu Udāyi ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu trưởng thượng, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên nói như vầy:
“Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Bạch các ngài, tôi đây cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày.”
Nên cầu xin đến lần thứ nhì. Nên cầu xin đến lần thứ ba.
[385] Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ khưu Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày đến tỳ khưu Udāyi. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ khưu Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày đến tỳ khưu Udāyi. Đại đức nào đồng ý việc ban cho hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày đến tỳ khưu Udāyi xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: …(như trên)…
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ khưu Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày đến tỳ khưu Udāyi. Đại đức nào đồng ý việc ban cho hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày đến tỳ khưu Udāyi xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày đã được hội chúng ban cho tỳ khưu Udāyi. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
[386] Với hành phạt parivāsa đã được hoàn thành, vị ấy đã kể lại cho các tỳ khưu rằng:
– Này các đại đức, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Tôi đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày đến tôi đây. Tôi đây đã hoàn thành hành phạt parivāsa, vậy tôi nên thực hành như thế nào?
Các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, vì việc ấy hội chúng hãy ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày đến tỳ khưu Udāyi.
[387] Và này các tỳ khưu, nên ban cho như vầy: Này các tỳ khưu, tỳ khưu Udāyi ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu trưởng thượng, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên nói như vầy:
“Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Tôi đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày đến tôi đây. Bạch các ngài, tôi đây đã hoàn thành hành phạt parivāsa, giờ cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày.”
Nên cầu xin đến lần thứ nhì. Nên cầu xin đến lần thứ ba.
[388] Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ khưu Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày đến tỳ khưu Udāyi. Vị ấy đã hoàn thành hành phạt parivāsa, giờ cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày đến tỳ khưu Udāyi. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ khưu Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày đến tỳ khưu Udāyi. Vị ấy đã hoàn thành hành phạt parivāsa, giờ cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Hội chúng ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày đến tỳ khưu Udāyi. Đại đức nào đồng ý việc ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày đến tỳ khưu Udāyi xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: …(như trên)…
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ khưu Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày đến tỳ khưu Udāyi. Vị ấy đã hoàn thành hành phạt parivāsa, giờ cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Hội chúng ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày đến tỳ khưu Udāyi. Đại đức nào đồng ý việc ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày đến tỳ khưu Udāyi xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày đã được hội chúng ban cho tỳ khưu Udāyi. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
[389] Với hành phạt mānatta đã được hoàn tất, vị ấy đã kể lại cho các tỳ khưu rằng:
– Này các đại đức, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Tôi đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày đến tôi đây. Với hành phạt parivāsa đã được hoàn thành, tôi đây đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Hội chúng đã ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày đến tôi đây. Tôi đây đã hoàn tất hành phạt mānatta, vậy tôi nên thực hành như thế nào?
Các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, vì việc ấy hội chúng hãy giải tội cho tỳ khưu Udāyi.
[390] Và này các tỳ khưu, nên giải tội như vầy: Này các tỳ khưu, tỳ khưu Udāyi ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu trưởng thượng, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên nói như vầy:
“Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Tôi đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày đến tôi đây. Với hành phạt parivāsa đã được hoàn thành, tôi đây đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Hội chúng đã ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày đến tôi đây. Bạch các ngài, tôi đây đã hoàn tất hành phạt mānatta, giờ cầu xin hội chúng sự giải tội.
…(như trên)… giờ cầu xin hội chúng sự giải tội lần thứ nhì.
Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Tôi đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày đến tôi đây. Với hành phạt parivāsa đã được hoàn thành, tôi đây đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Hội chúng đã ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày đến tôi đây. Bạch các ngài, tôi đây đã hoàn tất hành phạt mānatta, giờ cầu xin hội chúng sự giải tội lần thứ ba.”
[391] Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ khưu Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày đến tỳ khưu Udāyi. Với hành phạt parivāsa đã được hoàn thành, vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Hội chúng đã ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày đến tỳ khưu Udāyi. Vị ấy đã hoàn tất hành phạt mānatta, giờ cầu xin hội chúng sự giải tội. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên giải tội cho tỳ khưu Udāyi. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ khưu Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày đến tỳ khưu Udāyi. Với hành phạt parivāsa đã được hoàn thành, vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Hội chúng đã ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày đến tỳ khưu Udāyi. Vị ấy đã hoàn tất hành phạt mānatta, giờ cầu xin hội chúng sự giải tội. Hội chúng giải tội cho tỳ khưu Udāyi. Đại đức nào đồng ý sự giải tội cho tỳ khưu Udāyi xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: …(như trên)…
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ khưu Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày đến tỳ khưu Udāyi. Với hành phạt parivāsa đã được hoàn thành, vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Hội chúng đã ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày đến tỳ khưu Udāyi. Vị ấy đã hoàn tất hành phạt mānatta, giờ cầu xin hội chúng sự giải tội. Hội chúng giải tội cho tỳ khưu Udāyi. Đại đức nào đồng ý sự giải tội cho tỳ khưu Udāyi xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Tỳ khưu Udāyi đã được hội chúng giải tội. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
[392] Vào lúc bấy giờ, đại đức Udāyi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu hai ngày. …(như trên)… đã được che giấu ba ngày. …(như trên)… đã được che giấu bốn ngày. …(như trên)… đã được che giấu năm ngày. Vị ấy đã kể lại cho các tỳ khưu rằng:
– Này các đại đức, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu hai ngày. …(như trên)… đã được che giấu ba ngày. …(như trên)… đã được che giấu bốn ngày. …(như trên)… đã được che giấu năm ngày; vậy tôi nên thực hành như thế nào?
Các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, vì việc ấy hội chúng hãy ban cho hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến tỳ khưu Udāyi.
[393] Và này các tỳ khưu, nên ban cho như vầy: Này các tỳ khưu, tỳ khưu Udāyi ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu trưởng thượng, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên nói như vầy:
“Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Bạch các ngài, tôi đây cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày.”
Nên cầu xin đến lần thứ nhì. Nên cầu xin đến lần thứ ba.
[394] Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ khưu Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến tỳ khưu Udāyi. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ khưu Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến tỳ khưu Udāyi. Đại đức nào đồng ý việc ban cho hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến tỳ khưu Udāyi xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: …(như trên)…
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ khưu Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến tỳ khưu Udāyi. Đại đức nào đồng ý việc ban cho hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến tỳ khưu Udāyi xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đã được hội chúng ban cho tỳ khưu Udāyi. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
[395] Trong khi thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Vị ấy đã kể lại cho các tỳ khưu rằng:
– Này các đại đức, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Tôi đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến tôi đây. Trong khi thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đây đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu; vậy tôi nên thực hành như thế nào?
Các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, vì việc ấy hội chúng hãy cho tỳ khưu Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu.
[396] Và này các tỳ khưu, nên cho (thực hành) trở lại từ đầu như vầy: Này các tỳ khưu, tỳ khưu Udāyi ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu trưởng thượng, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên nói như vầy:
“Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Bạch các ngài, tôi đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến tôi đây. Trong khi thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đây đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Bạch các ngài, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đây cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu.”
Nên cầu xin đến lần thứ nhì. Nên cầu xin đến lần thứ ba.
[397] Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ khưu Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến tỳ khưu Udāyi. Trong khi thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên cho tỳ khưu Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ khưu Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến tỳ khưu Udāyi. Trong khi thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng cho tỳ khưu Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Đại đức nào đồng ý việc (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu của tỳ khưu Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: …(như trên)…
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ khưu Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến tỳ khưu Udāyi. Trong khi thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng cho tỳ khưu Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Đại đức nào đồng ý việc (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu của tỳ khưu Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Tỳ khưu Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, đã được hội chúng cho (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
[398] Với hành phạt parivāsa đã được hoàn thành và xứng đáng hành phạt mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Vị ấy đã kể lại cho các tỳ khưu rằng:
– Này các đại đức, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Tôi đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến tôi đây. Trong khi thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đây đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đây đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã cho tôi đây, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Với hành phạt parivāsa đã được hoàn thành và xứng đáng hành phạt mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đây đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu; vậy tôi nên thực hành như thế nào?
Các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, vì việc ấy hội chúng hãy cho tỳ khưu Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu.
[399] Và này các tỳ khưu, nên cho (thực hành) trở lại từ đầu như vầy: Này các tỳ khưu, tỳ khưu Udāyi ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu trưởng thượng, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên nói như vầy:
“Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Tôi đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến tôi đây. Trong khi thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đây đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đây đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã cho tôi đây, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Với hành phạt parivāsa đã được hoàn thành và xứng đáng hành phạt mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đây đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đây cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu.”
Nên cầu xin đến lần thứ nhì. Nên cầu xin đến lần thứ ba.
[400] Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ khưu Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến vị ấy. Trong khi thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã cho vị ấy, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Với hành phạt parivāsa đã được hoàn thành và xứng đáng hành phạt mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên cho tỳ khưu Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ khưu Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến vị ấy. Trong khi thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã cho vị ấy, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Với hành phạt parivāsa đã được hoàn thành và xứng đáng hành phạt mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng cho tỳ khưu Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Đại đức nào đồng ý việc (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu của tỳ khưu Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: …(như trên)…
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: …(như trên)…
Tỳ khưu Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, đã được hội chúng cho (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
[401]Với hành phạt parivāsa đã được hoàn thành, vị ấy đã kể lại cho các tỳ khưu rằng:
– Này các đại đức, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Tôi đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến tôi đây. Trong khi thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đây đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đây đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã cho tôi đây, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Với hành phạt parivāsa đã được hoàn thành và xứng đáng hành phạt mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đây đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đây đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã cho tôi đây, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Tôi đây có hành phạt parivāsa đã được hoàn thành, vậy tôi nên thực hành như thế nào?
Các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, vì việc ấy hội chúng hãy ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội đến tỳ khưu Udāyi.
[402] Và này các tỳ khưu, nên ban cho như vầy: Này các tỳ khưu, tỳ khưu Udāyi ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu trưởng thượng, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên nói như vầy:
“Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Tôi đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến tôi đây. Trong khi thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đây đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đây đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã cho tôi đây, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Với hành phạt parivāsa đã được hoàn thành và xứng đáng hành phạt mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đây đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đây đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã cho tôi đây, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Bạch các ngài, tôi đây có hành phạt parivāsa đã được hoàn thành, giờ cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội.”
Nên cầu xin đến lần thứ nhì. Nên cầu xin đến lần thứ ba.
[403] Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ khưu Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến vị ấy. Trong khi thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã cho vị ấy, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Với hành phạt parivāsa đã được hoàn thành và xứng đáng hành phạt mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã cho tỳ khưu Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Vị ấy có hành phạt parivāsa đã được hoàn thành, giờ cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội đến tỳ khưu Udāyi. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ khưu Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến vị ấy. Trong khi thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã cho vị ấy, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Với hành phạt parivāsa đã được hoàn thành và xứng đáng hành phạt mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã cho tỳ khưu Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Vị ấy có hành phạt parivāsa đã được hoàn thành, giờ cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội. Hội chúng ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội đến tỳ khưu Udāyi. Đại đức nào đồng ý việc ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội đến tỳ khưu Udāyi xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: …(như trên)…
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: …(như trên)…
Hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội đã được hội chúng ban cho tỳ khưu Udāyi. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
[404] Trong khi thực hành mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Vị ấy đã kể lại cho các tỳ khưu rằng:
– Này các đại đức, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Tôi đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến tôi đây. Trong khi thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đây đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đây đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã cho tôi đây, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Với hành phạt parivāsa đã được hoàn thành và xứng đáng hành phạt mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đây đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đây đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã cho tôi đây, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Tôi đây có hành phạt parivāsa đã được hoàn thành nên đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội. Hội chúng đã cho đến tôi đây hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội. Trong khi thực hành mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đây đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu; vậy tôi nên thực hành như thế nào?
Các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, vì việc ấy hội chúng hãy cho tỳ khưu Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu, rồi ban cho hành phạt mānatta sáu đêm.
[405] Và này các tỳ khưu, nên cho (thực hành) trở lại từ đầu như vầy: Này các tỳ khưu, tỳ khưu Udāyi ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu trưởng thượng, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên nói như vầy:
“Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Tôi đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến tôi đây. Trong khi thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đây đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đây đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã cho tôi đây, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Với hành phạt parivāsa đã được hoàn thành và xứng đáng hành phạt mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đây đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đây đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã cho tôi đây, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Tôi đây có hành phạt parivāsa đã được hoàn thành nên đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội. Hội chúng đã cho hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội đến tôi đây. Trong khi thực hành mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đây đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Bạch các ngài, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đây cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu.”
Nên cầu xin đến lần thứ nhì. Nên cầu xin đến lần thứ ba.
[406] Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ khưu Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến vị ấy. Trong khi thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã cho vị ấy, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Với hành phạt parivāsa đã được hoàn thành và xứng đáng hành phạt mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã cho tỳ khưu Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Vị ấy có hành phạt parivāsa đã được hoàn thành nên đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội. Hội chúng đã ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội đến tỳ khưu Udāyi. Trong khi thực hành mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên cho tỳ khưu Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ khưu Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến vị ấy. Trong khi thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã cho vị ấy, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Với hành phạt parivāsa đã được hoàn thành và xứng đáng hành phạt mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã cho tỳ khưu Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Vị ấy có hành phạt parivāsa đã được hoàn thành nên đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội. Hội chúng đã ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội đến tỳ khưu Udāyi. Trong khi thực hành mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Đại đức nào đồng ý việc (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu của tỳ khưu Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: …(như trên)…
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: …(như trên)…
Tỳ khưu Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, đã được hội chúng cho (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
[407] Và này các tỳ khưu, nên ban cho hành phạt mānatta sáu đêm như vầy: Này các tỳ khưu, tỳ khưu Udāyi ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu trưởng thượng, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên nói như vầy:
“Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. …(như trên)… Tôi đây có hành phạt parivāsa đã được hoàn thành nên đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội. Hội chúng đã cho hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội đến tôi đây. Trong khi thực hành mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đây đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đây đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã cho tôi đây, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được trở lại (từ đầu) của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Bạch các ngài, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đây cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu.”
Nên cầu xin đến lần thứ nhì. Nên cầu xin đến lần thứ ba.
[408] Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ khưu Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. …(như trên)… Vị ấy có hành phạt parivāsa đã được hoàn thành nên đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội. Hội chúng đã ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội đến tỳ khưu Udāyi. Trong khi thực hành mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã cho tỳ khưu Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho tỳ khưu Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che dấu. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ khưu Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. …(như trên)… Vị ấy có hành phạt parivāsa đã được hoàn thành nên đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội. Hội chúng đã ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội đến tỳ khưu Udāyi. Trong khi thực hành mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã cho tỳ khưu Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Đại đức nào đồng ý việc ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu đến tỳ khưu Udāyi xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: …(như trên)…
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: …(như trên)…
Hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che dấu, đã được hội chúng ban cho tỳ khưu Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
[409] Với hành phạt mānatta đã được hoàn tất và xứng đáng sự giải tội, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Vị ấy đã kể lại cho các tỳ khưu rằng:
– Này các đại đức, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. …(như trên)… Với hành phạt mānatta đã được hoàn tất và xứng đáng sự giải tội, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đây đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu; vậy tôi nên thực hành như thế nào?
Các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, vì việc ấy hội chúng hãy cho tỳ khưu Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu, rồi ban cho hành phạt mānatta sáu đêm.
[410] Và này các tỳ khưu, nên cho (thực hành) trở lại từ đầu như vầy: …(như trên)…
[411] Và này các tỳ khưu, nên ban cho hành phạt mānatta như vầy: …(như trên)…
(Hội chúng) ban cho …(như trên)…
Hành phạt sáu đêm mānatta của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu đã được hội chúng ban cho tỳ khưu Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
[412] Với hành phạt mānatta đã được hoàn tất, vị ấy đã kể lại cho các tỳ khưu rằng:
– Này các đại đức, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. …(như trên)… Tôi đây có hành phạt mānatta đã được hoàn tất, vậy tôi nên thực hành như thế nào?
Các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, vì việc ấy hội chúng hãy giải tội cho tỳ khưu Udāyi.
[413] Và này các tỳ khưu, nên giải tội như vầy: Này các tỳ khưu, tỳ khưu Udāyi ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu trưởng thượng, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên nói như vầy:
“Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Tôi đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến tôi đây. Trong khi thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đây đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đây đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã cho tôi đây, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Với hành phạt parivāsa đã được hoàn thành và xứng đáng hành phạt mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đây đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đây đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã cho tôi đây, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Với hành phạt parivāsa đã được hoàn thành, tôi đây đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội. Hội chúng đã ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội đến tôi đây. Trong khi thực hành mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đây đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đây đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã cho tôi đây, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đây đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu đến tôi đây, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng. Với hành phạt mānatta đã được hoàn tất và xứng đáng sự giải tội, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đây đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đây đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã cho tôi đây, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đây đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu đến tôi đây, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng. Bạch các ngài, tôi đây có hành phạt mānatta đã được hoàn tất, giờ cầu xin hội chúng sự giải tội.”
Nên cầu xin đến lần thứ nhì. Nên cầu xin đến lần thứ ba.
[414] Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ khưu Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến tỳ khưu Udāyi. Trong khi thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã cho tỳ khưu Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Với hành phạt parivāsa đã được hoàn thành và xứng đáng hành phạt mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã cho tỳ khưu Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Với hành phạt parivāsa đã được hoàn thành, vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội. Hội chúng đã ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội đến tỳ khưu Udāyi. Trong khi thực hành mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã cho tỳ khưu Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã ban cho tỳ khưu Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Với hành phạt mānatta đã được hoàn tất và xứng đáng sự giải tội, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã cho tỳ khưu Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã ban cho tỳ khưu Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Vị ấy có hành phạt mānatta đã được hoàn tất, giờ cầu xin hội chúng sự giải tội. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên giải tội cho tỳ khưu Udāyi. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ khưu Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. …(như trên)… Vị ấy có hành phạt mānatta đã được hoàn tất, giờ cầu xin hội chúng sự giải tội. Hội chúng giải tội cho tỳ khưu Udāyi. Đại đức nào đồng ý sự giải tội cho tỳ khưu Udāyi xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: …(như trên)…
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: …(như trên)…
Tỳ khưu Udāyi đã được hội chúng giải tội. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
[415] Vào lúc bấy giờ, đại đức Udāyi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nửa tháng. Vị ấy đã kể lại cho các tỳ khưu rằng:
– Này các đại đức, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nửa tháng; vậy tôi nên thực hành như thế nào?
Các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, vì việc ấy hội chúng hãy ban cho hành phạt parivāsa nửa tháng của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nửa tháng đến tỳ khưu Udāyi.
[416] Và này các tỳ khưu, nên ban cho như vầy: Này các tỳ khưu, tỳ khưu Udāyi ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu trưởng thượng, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên nói như vầy:
“Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nửa tháng. Bạch các ngài, tôi đây cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa nửa tháng của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nửa tháng.”
Nên cầu xin đến lần thứ nhì. Nên cầu xin đến lần thứ ba.
[417] Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ khưu Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nửa tháng. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa nửa tháng của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nửa tháng. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho hành phạt parivāsa nửa tháng của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nửa tháng đến tỳ khưu Udāyi. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ khưu Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nửa tháng. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa nửa tháng của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nửa tháng. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa nửa tháng của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nửa tháng đến tỳ khưu Udāyi. Đại đức nào đồng ý việc ban cho hành phạt parivāsa nửa tháng của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nửa tháng đến tỳ khưu Udāyi xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: …(như trên)…
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: …(như trên)…
Hành phạt parivāsa nửa tháng của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nửa tháng đã được hội chúng ban cho tỳ khưu Udāyi. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
[418] Trong khi thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Vị ấy đã kể lại cho các tỳ khưu rằng:
– Này các đại đức, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nửa tháng. Tôi đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa nửa tháng của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nửa tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa nửa tháng của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nửa tháng đến tôi đây. Trong khi thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đây đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày; vậy tôi nên thực hành như thế nào?
Các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, vì việc ấy hội chúng hãy cho cho tỳ khưu Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày, rồi hãy ban cho hành phạt parivāsa kết hợp (samodhānaparivāsa) với tội trước đây.
[419] Và này các tỳ khưu, nên cho (thực hành) trở lại từ đầu như vầy: Này các tỳ khưu, tỳ khưu Udāyi ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu trưởng thượng, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên nói như vầy:
“Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nửa tháng. Tôi đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa nửa tháng của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nửa tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa nửa tháng của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nửa tháng đến tôi đây. Trong khi thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đây đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Bạch các ngài, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đây cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày.”
Nên cầu xin đến lần thứ nhì. Nên cầu xin đến lần thứ ba.
[420] Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ khưu Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nửa tháng. Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa nửa tháng của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nửa tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa nửa tháng của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nửa tháng đến tỳ khưu Udāyi. Trong khi thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên cho tỳ khưu Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ khưu Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nửa tháng. Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa nửa tháng của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nửa tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa nửa tháng của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nửa tháng đến tỳ khưu Udāyi. Trong khi thực hành parivāsa, dầu ở vào giai đoạn nửa chừng, vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng cho tỳ khưu Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Đại đức nào đồng ý việc (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày của tỳ khưu Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: …(như trên)…
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: …(như trên)…
Tỳ khưu Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, đã được hội chúng cho (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
[421] Và này các tỳ khưu, nên ban cho hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây như vầy: Này các tỳ khưu, tỳ khưu Udāyi ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu trưởng thượng, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên nói như vầy:
“Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nửa tháng. Tôi đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa nửa tháng của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nửa tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa nửa tháng của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nửa tháng đến tôi đây. Trong khi thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đây đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đây đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã cho tôi đây, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Bạch các ngài, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đây cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày.”
Nên cầu xin đến lần thứ nhì. Nên cầu xin đến lần thứ ba.
[422] Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ khưu Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nửa tháng. Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa nửa tháng của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nửa tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa nửa tháng của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nửa tháng đến tỳ khưu Udāyi. Trong khi thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã cho tỳ khưu Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho tỳ khưu Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ khưu Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nửa tháng. Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa nửa tháng của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nửa tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa nửa tháng của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nửa tháng đến tỳ khưu Udāyi. Trong khi thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã cho tỳ khưu Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến tỳ khưu Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng. Đại đức nào đồng ý việc ban cho hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến tỳ khưu Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: …(như trên)…
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: …(như trên)…
Hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đã được hội chúng ban cho tỳ khưu Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
[423] Với hành phạt parivāsa đã được hoàn thành và xứng đáng hành phạt mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Vị ấy đã kể lại cho các tỳ khưu rằng:
– Này các đại đức, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nửa tháng. …(như trên)… Với hành phạt parivāsa đã được hoàn thành và xứng đáng hành phạt mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đây đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày; vậy tôi nên thực hành như thế nào?
Các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, vì việc ấy hội chúng hãy cho tỳ khưu Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày, rồi hãy ban cho hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây.
[424] Và này các tỳ khưu, nên cho (thực hành) trở lại từ đầu như vầy: …(như trên)…
[425] Và này các tỳ khưu, nên ban cho hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây như vầy: …(như trên)…
(Hội chúng) ban cho …(như trên)…
Hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đã được hội chúng ban cho tỳ khưu Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
[426]Với hành phạt parivāsa đã được hoàn thành, vị ấy đã kể lại cho các tỳ khưu rằng:
– Này các đại đức, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nửa tháng. …(như trên)… Tôi đây có hành phạt parivāsa đã được hoàn thành, vậy tôi nên thực hành như thế nào?
Các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, vì việc ấy hội chúng hãy ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội đến tỳ khưu Udāyi.
[427] Và này các tỳ khưu, nên ban cho như vầy: Này các tỳ khưu, tỳ khưu Udāyi ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu trưởng thượng, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên nói như vầy:
“Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nửa tháng. …(như trên)… Bạch các ngài, tôi đây có hành phạt parivāsa đã được hoàn thành, giờ cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội.”
Nên cầu xin đến lần thứ nhì. Nên cầu xin đến lần thứ ba.
[428] Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ khưu Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nửa tháng. …(như trên)… Vị ấy có hành phạt parivāsa đã được hoàn thành, giờ cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội đến tỳ khưu Udāyi. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ khưu Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nửa tháng. …(như trên)… Vị ấy có hành phạt parivāsa đã được hoàn thành, giờ cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội. Hội chúng ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội đến tỳ khưu Udāyi. Đại đức nào đồng ý việc ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội đến tỳ khưu Udāyi xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: …(như trên)…
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: …(như trên)…
Hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội đã được hội chúng ban cho tỳ khưu Udāyi. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
[429] Trong khi thực hành mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Vị ấy đã kể lại cho các tỳ khưu rằng:
– Này các đại đức, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nửa tháng. …(như trên)… Trong khi thực hành mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đây đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày; vậy tôi nên thực hành như thế nào?
Các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, vì việc ấy hội chúng hãy cho tỳ khưu Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày, rồi hãy ban cho hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây, (sau đó) hãy ban cho hành phạt mānatta sáu đêm.
[430] Và này các tỳ khưu, nên cho (thực hành) trở lại từ đầu như vầy: …(như trên)…
[431] Và này các tỳ khưu, nên ban cho hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây như vầy: …(như trên)…
[432] Và này các tỳ khưu, nên ban cho hành phạt mānatta sáu đêm như vầy: …(như trên)…
(Hội chúng) ban cho …(như trên)…
Hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, có che dấu năm ngày, đã được hội chúng ban cho tỳ khưu Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
[433] Với hành phạt mānatta đã được hoàn tất và xứng đáng sự giải tội, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Vị ấy đã kể lại cho các tỳ khưu rằng:
– Này các đại đức, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nửa tháng. …(như trên)… Với hành phạt mānatta đã được hoàn tất và xứng đáng sự giải tội, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đây đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày; vậy tôi nên thực hành như thế nào?
Các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, vì việc ấy hội chúng hãy cho tỳ khưu Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày, rồi hãy ban cho hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây, (sau đó) hãy ban cho hành phạt mānatta sáu đêm.
[434] Và này các tỳ khưu, nên cho (thực hành) trở lại từ đầu như vầy: …(như trên)…
[435] Và này các tỳ khưu, nên ban cho hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây như vầy: …(như trên)…
[436] Và này các tỳ khưu, nên ban cho hành phạt mānatta sáu đêm như vầy…(như trên)…
(Hội chúng) ban cho …(như trên)…
Hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đã được hội chúng ban cho tỳ khưu Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
[437] Với hành phạt mānatta đã được hoàn tất, vị ấy đã kể lại cho các tỳ khưu rằng:
– Này các đại đức, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nửa tháng….(như trên)… Tôi đây có hành phạt mānatta đã được hoàn tất, vậy tôi nên thực hành như thế nào?
Các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, vì việc ấy hội chúng hãy giải tội cho tỳ khưu Udāyi.
[438] Và này các tỳ khưu, nên giải tội như vầy: Này các tỳ khưu, tỳ khưu Udāyi ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu trưởng thượng, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên nói như vầy:
“Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nửa tháng. Tôi đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa nửa tháng của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nửa tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa nửa tháng của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nửa tháng đến tôi đây. Trong khi thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đây đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đây đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã cho tôi đây, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến tôi đây, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng. Với hành phạt parivāsa đã được hoàn thành và xứng đáng hành phạt mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đây đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đây đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã cho tôi đây, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến tôi đây, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng. Với hành phạt parivāsa đã được hoàn thành, tôi đây đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội. Hội chúng đã ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội đến tôi đây. Trong khi thực hành mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đây đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đây đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã cho tôi đây, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến tôi đây, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng. Với hành phạt parivāsa đã được hoàn thành, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đây đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến tôi đây, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng. Với hành phạt mānatta đã được hoàn tất và xứng đáng sự giải tội, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đây đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đây đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã cho tôi đây, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến tôi đây, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng. Với hành phạt parivāsa đã được hoàn thành, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đây đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến tôi đây, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng. Bạch các ngài, tôi đây có hành phạt mānatta đã được hoàn tất, giờ cầu xin hội chúng sự giải tội.”
Nên cầu xin đến lần thứ nhì. Nên cầu xin đến lần thứ ba.
[439] Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ khưu Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nửa tháng. Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa nửa tháng của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nửa tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa nửa tháng của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nửa tháng đến tỳ khưu Udāyi. Trong khi thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã cho tỳ khưu Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến tỳ khưu Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng. Với hành phạt parivāsa đã được hoàn thành và xứng đáng hành phạt mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã cho tỳ khưu Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Với hành phạt parivāsa đã được hoàn thành và xứng đáng hành phạt mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã cho tỳ khưu Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến tỳ khưu Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng. Với hành phạt parivāsa đã được hoàn thành, vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội. Hội chúng đã ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội đến tỳ khưu Udāyi. Trong khi thực hành mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã cho tỳ khưu Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến tỳ khưu Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng. Với hành phạt parivāsa đã được hoàn thành, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến tỳ khưu Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng. Với hành phạt mānatta đã được hoàn tất và xứng đáng sự giải tội, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã cho tỳ khưu Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến tỳ khưu Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng. Với hành phạt parivāsa đã được hoàn thành, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến tỳ khưu Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng. Vị ấy có hành phạt mānatta đã được hoàn tất, giờ cầu xin hội chúng sự giải tội. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên giải tội cho tỳ khưu Udāyi. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ khưu Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nửa tháng. …(như trên)… Vị ấy có hành phạt mānatta đã được hoàn tất, giờ cầu xin hội chúng sự giải tội. Hội chúng giải tội cho tỳ khưu Udāyi. Đại đức nào đồng ý sự giải tội cho tỳ khưu Udāyi xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: …(như trên)…
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: …(như trên)…
Tỳ khưu Udāyi đã được hội chúng giải tội. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
Tội xuất tinh được đầy đủ.
II. CHƯƠNG TÍCH LŨY TỘI (tt)
(SAMUCCAYAKKHANDHAKAṂ)
[440] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đã phạm nhiều tội saṅghādisesa: một tội đã được che giấu một ngày, một tội đã được che giấu hai ngày, một tội đã được che giấu ba ngày, một tội đã được che giấu bốn ngày, một tội đã được che giấu năm ngày, một tội đã được che giấu sáu ngày, một tội đã được che giấu bảy ngày, một tội đã được che giấu tám ngày, một tội đã được che giấu chín ngày, một tội đã được che giấu mười ngày. Vị ấy đã kể lại cho các tỳ khưu rằng:
– Này các đại đức, tôi đã phạm nhiều tội saṅghādisesa: một tội đã được che giấu một ngày, …(như trên)… một tội đã được che giấu mười ngày; vậy tôi nên thực hành như thế nào?
Các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, như vậy tội nào trong số các tội ấy đã được che giấu mười ngày thì hội chúng hãy ban cho vị tỳ khưu ấy hành phạt parivāsa kết hợp với giá trị (agghena samodhānaparivāsa) của tội ấy.
[441] Và này các tỳ khưu, nên ban cho như vầy: Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu trưởng thượng, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên nói như vầy:
“Bạch các ngài, tôi đã phạm nhiều tội saṅghādisesa: một tội đã được che giấu một ngày, …(như trên)… một tội đã được che giấu mười ngày. Bạch các ngài, tội nào trong số các tội ấy đã được che giấu mười ngày tôi đây cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp với giá trị của tội ấy.”
Nên cầu xin đến lần thứ nhì. Nên cầu xin đến lần thứ ba.
[442] Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này tên (như vầy) đã phạm nhiều tội saṅghādisesa: một tội đã được che giấu một ngày, …(như trên)… một tội đã được che giấu mười ngày. Tội nào trong số các tội ấy đã được che giấu mười ngày, vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp với giá trị của tội ấy. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho hành phạt parivāsa kết hợp với giá trị của tội đã được che giấu mười ngày trong số các tội ấy đến tỳ khưu tên (như vầy). Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này tên (như vầy) đã phạm nhiều tội saṅghādisesa: một tội đã được che giấu một ngày, …(như trên)… một tội đã được che giấu mười ngày. Tội nào trong số các tội ấy đã được che giấu mười ngày, vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp với giá trị của tội ấy. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa kết hợp với giá trị của tội đã được che giấu mười ngày trong số các tội ấy đến tỳ khưu tên (như vầy). Đại đức nào đồng ý với việc ban cho hành phạt parivāsa kết hợp với giá trị của tội đã được che giấu mười ngày trong số các tội ấy đến tỳ khưu tên (như vầy) xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: …(như trên)…
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: …(như trên)…
Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa kết hợp với giá trị của tội đã được che giấu mười ngày trong số các tội ấy đến tỳ khưu tên (như vầy). Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
[443] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đã phạm nhiều tội saṅghādisesa: một tội đã được che giấu một ngày, hai tội đã được che giấu hai ngày, ba tội đã được che giấu ba ngày, bốn tội đã được che giấu bốn ngày, năm tội đã được che giấu năm ngày, sáu tội đã được che giấu sáu ngày, bảy tội đã được che giấu bảy ngày, tám tội đã được che giấu tám ngày, chín tội đã được che giấu chín ngày, mười tội đã được che giấu mười ngày. Vị ấy đã kể lại cho các tỳ khưu rằng:
– Này các đại đức, tôi đã phạm nhiều tội saṅghādisesa: một tội đã được che giấu một ngày, …(như trên)… mười tội đã được che giấu mười ngày; vậy tôi nên thực hành như thế nào?
Các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, như vậy những tội nào trong số các tội ấy đã được che giấu dài ngày nhất thì hội chúng hãy ban cho hành phạt parivāsa kết hợp với giá trị của các tội ấy đến vị tỳ khưu ấy.
[444] Và này các tỳ khưu, nên ban cho như vầy: Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu trưởng thượng, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên nói như vầy:
“Bạch các ngài, tôi đã phạm nhiều tội saṅghādisesa: một tội đã được che giấu một ngày, …(như trên)… mười tội đã được che giấu mười ngày. Bạch các ngài, những tội nào trong số các tội ấy đã được che giấu dài ngày nhất tôi đây cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp với giá trị của những tội ấy.”
Nên cầu xin đến lần thứ nhì. Nên cầu xin đến lần thứ ba.
[445] Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này tên (như vầy) đã phạm nhiều tội saṅghādisesa: một tội đã được che giấu một ngày, …(như trên)… mười tội đã được che giấu mười ngày. Những tội nào trong số các tội ấy đã được che giấu dài ngày nhất, vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp với giá trị của những tội ấy. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho hành phạt parivāsa kết hợp với giá trị của những tội đã được che giấu dài ngày nhất trong số các tội ấy đến tỳ khưu tên (như vầy). Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này tên (như vầy) đã phạm nhiều tội saṅghādisesa: một tội đã được che giấu một ngày, …(như trên)… mười tội đã được che giấu mười ngày. Những tội nào trong số các tội ấy đã được che giấu dài ngày nhất, vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp với giá trị của những tội ấy. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa kết hợp với giá trị của những tội đã được che giấu dài ngày nhất trong số các tội ấy đến tỳ khưu tên (như vầy). Đại đức nào đồng ý với việc ban cho hành phạt parivāsa kết hợp với giá trị của những tội đã được che giấu dài ngày nhất trong số các tội ấy đến tỳ khưu tên (như vầy) xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: …(như trên)…
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: …(như trên)…
Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa kết hợp với giá trị của những tội đã được che giấu dài ngày nhất trong số các tội ấy đến tỳ khưu tên (như vầy). Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
[446]Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Vị ấy đã khởi ý rằng: “Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng?” Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Pháp hổ thẹn đã xuất hiện ở vị ấy trong khi thực hành parivāsa: “Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Ta đây đã khởi ý rằng: ‘Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng?’ Ta đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng đến ta đây. Pháp hổ thẹn đã xuất hiện ở ta đây trong khi thực hành parivāsa, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của luôn cả tội kia đã được che giấu hai tháng?”
Vị ấy đã kể lại cho các tỳ khưu rằng:
– Này các đại đức, tôi đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Tôi đây đã khởi ý rằng: “Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng?” Tôi đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng đến tôi đây. Pháp hổ thẹn đã xuất hiện ở tôi đây trong khi thực hành parivāsa: “Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Ta đây đã khởi ý rằng: ‘Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng?’ Ta đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng đến ta đây. Pháp hổ thẹn đã xuất hiện ở ta đây trong khi thực hành parivāsa, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của luôn cả tội kia đã được che giấu hai tháng?” Vậy tôi nên thực hành như thế nào?
Các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, vì việc ấy hội chúng hãy ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của luôn cả tội kia đã được che giấu hai tháng đến vị tỳ khưu ấy.
[447] Và này các tỳ khưu, nên ban cho như vầy: Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu trưởng thượng, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên nói như vầy:
“Bạch các ngài, tôi đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Tôi đây đã khởi ý rằng: ‘Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng?’ Tôi đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng đến tôi đây. Pháp hổ thẹn đã xuất hiện ở tôi đây trong khi thực hành parivāsa: ‘Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Ta đây đã khởi ý rằng: ‘Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng?’ Ta đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng đến ta đây. Pháp hổ thẹn đã xuất hiện ở ta đây trong khi thực hành parivāsa, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của luôn cả tội kia đã được che giấu hai tháng?’ Bạch các ngài, tôi đây cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của luôn cả tội kia đã được che giấu hai tháng.”
Nên cầu xin đến lần thứ nhì. Nên cầu xin đến lần thứ ba.
[448] Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này tên (như vầy) đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Vị ấy đã khởi ý rằng: ‘Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng?’ Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Pháp hổ thẹn đã xuất hiện ở vị ấy trong khi thực hành parivāsa: ‘Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Ta đây đã khởi ý rằng: ‘Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng?’ Ta đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng đến ta đây. Pháp hổ thẹn đã xuất hiện ở ta đây trong khi thực hành parivāsa, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của luôn cả tội kia đã được che giấu hai tháng?’ Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của luôn cả tội kia đã được che giấu hai tháng. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của luôn cả tội kia đã được che giấu hai tháng đến tỳ khưu tên (như vầy). Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này tên (như vầy) đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Vị ấy đã khởi ý rằng: ‘Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng?’ Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Pháp hổ thẹn đã xuất hiện ở vị ấy trong khi thực hành parivāsa: ‘Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Ta đây đã khởi ý rằng: ‘Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng?’ Ta đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng đến ta đây. Pháp hổ thẹn đã xuất hiện ở ta đây trong khi thực hành parivāsa, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của luôn cả tội kia đã được che giấu hai tháng?’ Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của luôn cả tội kia đã được che giấu hai tháng. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của luôn cả tội kia đã được che giấu hai tháng đến tỳ khưu tên (như vầy). Đại đức nào đồng ý với việc ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của luôn cả tội kia đã được che giấu hai tháng đến tỳ khưu tên (như vầy) xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: …(như trên)…
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: …(như trên)…
Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của luôn cả tội kia đã được che giấu hai tháng đến tỳ khưu tên (như vầy). Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
Này các tỳ khưu, sau khi xác định điều ấy, vị tỳ khưu ấy nên thực hành parivāsa hai tháng.
[449]Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Vị ấy khởi ý như vầy: “Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng, hay ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng?” Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Pháp hổ thẹn đã xuất hiện ở vị ấy trong khi thực hành parivāsa: “Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Ta đây đã khởi ý rằng: ‘Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng?’ Ta đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng đến ta đây. Pháp hổ thẹn đã xuất hiện ở ta đây trong khi thực hành parivāsa, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của luôn cả tội kia đã được che giấu hai tháng?” Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của luôn cả tội kia đã được che giấu hai tháng. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của luôn cả tội kia đã được che giấu hai tháng đến vị ấy.
Này các tỳ khưu, sau khi xác định điều ấy, vị tỳ khưu ấy nên thực hành parivāsa hai tháng.
[450]Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng; một tội vị ấy nhận biết, một tội vị ấy không nhận biết. Tội mà vị ấy nhận biết, vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của tội ấy đã được che giấu hai tháng. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của tội ấy đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Trong khi thực hành parivāsa, vị ấy nhận biết được tội kia. Vị ấy nghĩ như vầy: “Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng; một tội ta đã nhận biết, một tội ta đã không nhận biết. Tội mà ta đã nhận biết, ta đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của tội ấy đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của tội ấy đã được che giấu hai tháng đến ta đây. Trong khi thực hành parivāsa, ta đây nhận biết được luôn cả tội kia, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của luôn cả tội kia đã được che giấu hai tháng?” Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của luôn cả tội kia đã được che giấu hai tháng. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của luôn cả tội kia đã được che giấu hai tháng đến vị ấy.
Này các tỳ khưu, sau khi xác định điều ấy, vị tỳ khưu ấy nên thực hành parivāsa hai tháng.
[451]Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng; một tội vị ấy nhớ, một tội vị ấy không nhớ. Tội mà vị ấy nhớ, vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của tội ấy đã được che giấu hai tháng. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của tội ấy đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Trong khi thực hành parivāsa, vị ấy nhớ được luôn cả tội kia. Vị ấy nghĩ như vầy: “Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng; một tội ta đã nhớ, một tội ta đã không nhớ. Tội mà ta đã nhớ, ta đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của tội ấy đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của tội ấy đã được che giấu hai tháng đến ta đây. Trong khi thực hành parivāsa, ta đây nhớ được luôn cả tội kia, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của luôn cả tội kia đã được che giấu hai tháng?” Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của luôn cả tội kia đã được che giấu hai tháng. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của luôn cả tội kia đã được che giấu hai tháng đến vị ấy.
Này các tỳ khưu, sau khi xác định điều ấy, vị tỳ khưu ấy nên thực hành parivāsa hai tháng.
[452]Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng; một tội không có nghi ngờ, một tội có nghi ngờ. Với tội không có nghi ngờ, vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của tội ấy đã được che giấu hai tháng. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của tội ấy đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Trong khi thực hành parivāsa, vị ấy không còn nghi ngờ luôn cả tội kia. Vị ấy nghĩ như vầy: “Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng; một tội không có nghi ngờ, một tội có nghi ngờ. Với tội không có nghi ngờ, ta đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của tội ấy đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của tội ấy đã được che giấu hai tháng đến ta đây. Trong khi thực hành parivāsa, ta đây không còn nghi ngờ luôn cả tội kia, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của luôn cả tội kia đã được che giấu hai tháng?” Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của luôn cả tội kia đã được che giấu hai tháng. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của luôn cả tội kia đã được che giấu hai tháng đến vị ấy.
Này các tỳ khưu, sau khi xác định điều ấy, vị tỳ khưu ấy nên thực hành parivāsa hai tháng.
[453]Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng; một tội đã được che giấu có chủ tâm (jānapaṭicchannā), một tội đã được che giấu không có chủ tâm (ajānapaṭicchannā). Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của các tội ấy đã được che giấu hai tháng. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của các tội ấy đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Trong khi vị ấy đang thực hành parivāsa, có vị tỳ khưu khác đi đến là vị nghe nhiều, kinh điển được truyền thừa, rành rẽ về Pháp, rành rẽ về Luật, rành rẽ về các đầu đề, là bậc trí tuệ, có khả năng, thông minh, khiêm nhường, có hối hận, ưa thích sự học tập. Vị ấy nói như vầy:
– Này các đại đức, vị tỳ khưu này đã phạm tội gì? Vì sao vị tỳ khưu này thực hành parivāsa?
Các vị ấy trả lời như vầy:
– Này đại đức, vị tỳ khưu này đã phạm hai tội saṅghādisesa che giấu hai tháng; một tội đã được che giấu có chủ tâm, một tội đã được che giấu không có chủ tâm. Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của các tội ấy đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của các tội ấy đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Này đại đức, vị tỳ khưu này đã phạm các tội ấy. Vị tỳ khưu này thực hành parivāsa vì các tội ấy.
Vị ấy nói như vầy:
– Này các đại đức, tội nào đã được che giấu có chủ tâm, việc ban cho hành phạt parivāsa của tội ấy là hợp lý; sự hợp lý đem lại kết quả. Này các đại đức, còn tội nào đã được che giấu không có chủ tâm, việc ban cho hành phạt parivāsa của tội ấy là không hợp lý; sự không hợp lý không đem lại kết quả. Này các đại đức, đối với tội này vị tỳ khưu xứng đáng hành phạt mānatta.
[454]Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng; một tội đã được che giấu có ghi nhớ, một tội đã được che giấu không có ghi nhớ. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của các tội ấy đã được che giấu hai tháng. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của các tội ấy đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Trong khi vị ấy đang thực hành parivāsa, có vị tỳ khưu khác đi đến là vị nghe nhiều, kinh điển được truyền thừa, rành rẽ về Pháp, rành rẽ về Luật, rành rẽ về các đầu đề, là bậc trí tuệ, có khả năng, thông minh, khiêm nhường, có hối hận, ưa thích sự học tập. Vị ấy nói như vầy:
– Này các đại đức, vị tỳ khưu này đã phạm tội gì? Vì sao vị tỳ khưu này thực hành parivāsa?
Các vị ấy trả lời như vầy:
– Này đại đức, vị tỳ khưu này đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng; một tội đã được che giấu có ghi nhớ, một tội đã được che giấu không có ghi nhớ. Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của các tội ấy đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của các tội ấy đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Này đại đức, vị tỳ khưu này đã phạm các tội ấy. Vị tỳ khưu này thực hành parivāsa vì các tội ấy.
Vị ấy nói như vầy:
– Này các đại đức, tội nào đã được che giấu có ghi nhớ, việc ban cho hành phạt parivāsa của tội ấy là hợp lý; sự hợp lý đem lại kết quả. Này các đại đức, còn tội nào đã được che giấu không có ghi nhớ, việc ban cho hành phạt parivāsa của tội ấy là không hợp lý; sự không hợp lý không đem lại kết quả. Này các đại đức, đối với tội này vị tỳ khưu xứng đáng hành phạt mānatta.
[455]Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng; một tội đã được che giấu không có nghi ngờ, một tội đã được che giấu có nghi ngờ. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của các tội ấy đã được che giấu hai tháng. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của các tội ấy đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Trong khi vị ấy đang thực hành parivāsa, có vị tỳ khưu khác đi đến là vị nghe nhiều, kinh điển được truyền thừa, rành rẽ về Pháp, rành rẽ về Luật, rành rẽ về các đầu đề, là bậc trí tuệ, có khả năng, thông minh, khiêm nhường, có hối hận, ưa thích sự học tập. Vị ấy nói như vầy:
– Này các đại đức, vị tỳ khưu này đã phạm tội gì? Vì sao vị tỳ khưu này thực hành parivāsa?
Các vị ấy trả lời như vầy:
– Này đại đức, vị tỳ khưu này đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng; một tội đã được che giấu không có nghi ngờ, một tội đã được che giấu có nghi ngờ. Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của các tội ấy đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của các tội ấy đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Này đại đức, vị tỳ khưu này đã phạm các tội ấy. Vị tỳ khưu này thực hành parivāsa vì các tội ấy.
Vị ấy nói như vầy:
– Này các đại đức, tội nào đã được che giấu không có nghi ngờ, việc ban cho hành phạt parivāsa của tội ấy là hợp lý; sự hợp lý đem lại kết quả. Này các đại đức, còn tội nào đã được che giấu có nghi ngờ, việc ban cho hành phạt parivāsa của tội ấy là không hợp lý; sự không hợp lý không đem lại kết quả. Này các đại đức, đối với tội này vị tỳ khưu xứng đáng hành phạt mānatta.
[456]Này các tỳ khưu, có vị tỳ khưu nọ đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Vị ấy đã khởi ý rằng: “Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng?” Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Pháp hổ thẹn đã xuất hiện ở vị ấy trong khi thực hành parivāsa: “Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Ta đây đã khởi ý rằng: ‘Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng?’ Ta đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng đến ta đây. Pháp hổ thẹn đã xuất hiện ở ta đây trong khi thực hành parivāsa, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa luôn cả tháng kia của hai tội đã được che giấu hai tháng?”
Vị ấy đã kể lại cho các tỳ khưu rằng:
– Này các đại đức, tôi đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Tôi đây đã khởi ý rằng: “Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng?” Tôi đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng đến tôi đây. Pháp hổ thẹn đã xuất hiện ở tôi đây trong khi thực hành parivāsa: “Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Ta đây đã khởi ý rằng: ‘Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng?’ Ta đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng đến ta đây. Pháp hổ thẹn đã xuất hiện ở ta đây trong khi thực hành parivāsa, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa luôn cả tháng kia của hai tội đã được che giấu hai tháng?” Vậy tôi nên thực hành như thế nào?
Các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, vì việc ấy hội chúng hãy ban cho hành phạt parivāsa luôn cả tháng kia của hai tội đã được che giấu hai tháng đến vị tỳ khưu ấy.
[457] Và này các tỳ khưu, nên ban cho như vầy: Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu trưởng thượng, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên nói như vầy:
“Bạch các ngài, tôi đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Tôi đã khởi ý rằng: ‘Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng?’ Tôi đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng đến tôi đây. Pháp hổ thẹn đã xuất hiện ở tôi đây trong khi thực hành parivāsa: ‘Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Ta đây đã khởi ý rằng: ‘Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng?’ Ta đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng đến ta đây. Pháp hổ thẹn đã xuất hiện ở ta đây trong khi thực hành parivāsa, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa luôn cả tháng kia của hai tội đã được che giấu hai tháng?’ Bạch các ngài, tôi đây cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa luôn cả tháng kia của hai tội đã được che giấu hai tháng.”
Nên cầu xin đến lần thứ nhì. Nên cầu xin đến lần thứ ba.
[458] Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này tên (như vầy) đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Vị ấy đã khởi ý rằng: ‘Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng?’ Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Pháp hổ thẹn đã xuất hiện ở vị ấy trong khi thực hành parivāsa: ‘Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Ta đây đã khởi ý rằng: ‘Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng?’ Ta đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng đến ta đây. Pháp hổ thẹn đã xuất hiện ở ta đây trong khi thực hành parivāsa, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa luôn cả tháng kia của hai tội đã được che giấu hai tháng?’ Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa luôn cả tháng kia của hai tội đã được che giấu hai tháng. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho hành phạt parivāsa luôn cả tháng kia của hai tội đã được che giấu hai tháng đến tỳ khưu tên (như vầy). Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này tên (như vầy) đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Vị ấy đã khởi ý rằng: ‘Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng, hay là nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng?’ Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Pháp hổ thẹn đã xuất hiện ở vị ấy trong khi thực hành parivāsa: ‘Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Ta đây đã khởi ý rằng: ‘Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng?’ Ta đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng đến ta đây. Pháp hổ thẹn đã xuất hiện ở ta đây trong khi thực hành parivāsa, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa luôn cả tháng kia của hai tội đã được che giấu hai tháng?’ Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa luôn cả tháng kia của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa luôn cả tháng kia của hai tội đã được che giấu hai tháng đến tỳ khưu tên (như vầy). Đại đức nào đồng ý với việc ban cho hành phạt parivāsa luôn cả tháng kia của hai tội đã được che giấu hai tháng đến tỳ khưu tên (như vầy) xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: …(như trên)…
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: …(như trên)…
Hành phạt parivāsa luôn cả tháng kia của hai tội đã được che giấu hai tháng đã được hội chúng ban cho tỳ khưu tên (như vầy). Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy nên xác định từ trước và nên thực hành parivāsa hai tháng.
[459]Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Vị ấy nghĩ như vầy: “Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng?” Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Pháp hổ thẹn đã xuất hiện ở vị ấy trong khi thực hành parivāsa: “Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Ta đây đã khởi ý rằng: ‘Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng?’ Ta đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng đến ta đây. Pháp hổ thẹn đã xuất hiện ở ta đây trong khi thực hành parivāsa, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa luôn cả tháng kia của hai tội đã được che giấu hai tháng?” Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa luôn cả tháng kia của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa luôn cả tháng kia của hai tội đã được che giấu hai tháng đến vị ấy.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy nên xác định từ trước và nên thực hành parivāsa hai tháng.
[460]Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng; một tháng vị ấy nhận biết, tháng kia vị ấy không nhận biết. Tháng mà vị ấy nhận biết, vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa tháng ấy của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa tháng ấy, là tháng vị ấy nhận biết, của hai tội đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Trong khi thực hành parivāsa, vị ấy nhận biết luôn cả tháng kia. Vị ấy nghĩ như vầy: “Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng; một tháng ta đã nhận biết, tháng kia ta đã không nhận biết. Tháng mà ta đã nhận biết, ta đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa tháng ấy của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa tháng ấy, là tháng ta nhận biết, của hai tội đã được che giấu hai tháng đến ta đây. Trong khi thực hành parivāsa, ta đây nhận biết luôn cả tháng kia, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa luôn cả tháng kia của hai tội đã được che giấu hai tháng?” Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa luôn cả tháng kia của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa luôn cả tháng kia của hai tội đã được che giấu hai tháng đến vị ấy.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy nên xác định từ trước và nên thực hành parivāsa hai tháng.
[461]Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng; một tháng vị ấy nhớ, tháng kia vị ấy không nhớ. Tháng mà vị ấy nhớ, vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa tháng ấy của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa tháng ấy, là tháng vị ấy nhớ, của hai tội đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Trong khi thực hành parivāsa, vị ấy nhớ được tháng kia. Vị ấy nghĩ như vầy: “Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng; một tháng ta đã nhớ, tháng kia ta đã không nhớ. Tháng mà ta đã nhớ, ta đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa tháng ấy của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa tháng ấy, là tháng ta đã nhớ, của hai tội đã được che giấu hai tháng đến ta đây. Trong khi thực hành parivāsa, ta đây nhớ được luôn cả tháng kia, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa luôn cả tháng kia của hai tội đã được che giấu hai tháng?” Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa luôn cả tháng kia của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa luôn cả tháng kia của hai tội đã được che giấu hai tháng đến vị ấy.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy nên xác định từ trước và nên thực hành parivāsa hai tháng.
[462]Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng; một tháng không có nghi ngờ, một tháng có nghi ngờ. Tháng không có nghi ngờ, vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa tháng ấy của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa tháng ấy, là tháng không có nghi ngờ, của hai tội đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Trong khi thực hành parivāsa, vị ấy không còn nghi ngờ luôn cả tháng kia. Vị ấy nghĩ như vầy: “Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng; một tháng không có nghi ngờ, một tháng có nghi ngờ. Tháng không có nghi ngờ, ta đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa tháng ấy của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa tháng ấy, là tháng không có nghi ngờ, của hai tội đã được che giấu hai tháng đến ta đây. Trong khi thực hành parivāsa, ta đây không còn nghi ngờ luôn cả tháng kia, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa luôn cả tháng kia của hai tội đã được che giấu hai tháng?” Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa luôn cả tháng kia của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa luôn cả tháng kia của hai tội đã được che giấu hai tháng đến vị ấy.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy nên xác định từ trước và nên thực hành parivāsa hai tháng.
[463]Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng; một tháng đã được che giấu có chủ tâm, một tháng đã được che giấu không có chủ tâm. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Trong khi vị ấy đang thực hành parivāsa, có vị tỳ khưu khác đi đến là vị nghe nhiều, kinh điển được truyền thừa, rành rẽ về Pháp, rành rẽ về Luật, rành rẽ về các đầu đề, là bậc trí tuệ, có khả năng, thông minh, khiêm nhường, có hối hận, ưa thích sự học tập. Vị ấy nói như vầy:
– Này các đại đức, vị tỳ khưu này đã phạm tội gì? Vì sao vị tỳ khưu này thực hành parivāsa?
Các vị ấy trả lời như vầy:
– Này đại đức, vị tỳ khưu này đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng; một tháng đã được che giấu có chủ tâm, một tháng đã được che giấu không có chủ tâm. Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của hai tội ấy đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của hai tội ấy đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Này đại đức, vị tỳ khưu này đã phạm các tội ấy. Vị tỳ khưu này thực hành parivāsa vì các tội ấy.
Vị ấy nói như vầy:
– Này các đại đức, tháng nào đã được che giấu có chủ tâm, việc ban cho hành phạt parivāsa của tháng ấy là hợp lý; sự hợp lý đem lại kết quả. Này các đại đức, còn tháng nào đã được che giấu không có chủ tâm, việc ban cho hành phạt parivāsa của tháng ấy là không hợp lý; sự không hợp lý không đem lại kết quả. Này các đại đức, đối với tháng này vị tỳ khưu xứng đáng hành phạt mānatta.
[464]Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng; một tháng đã được che giấu có ghi nhớ, một tháng đã được che giấu không có ghi nhớ. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Trong khi vị ấy đang thực hành parivāsa, có vị tỳ khưu khác đi đến là vị nghe nhiều, kinh điển được truyền thừa, rành rẽ về Pháp, rành rẽ về Luật, rành rẽ về các đầu đề, là bậc trí tuệ, có khả năng, thông minh, khiêm nhường, có hối hận, ưa thích sự học tập. Vị ấy nói như vầy:
– Này các đại đức, vị tỳ khưu này đã phạm tội gì? Vì sao vị tỳ khưu này thực hành parivāsa?
Các vị ấy trả lời như vầy:
– Này đại đức, vị tỳ khưu này đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng; một tháng đã được che giấu có ghi nhớ, một tháng đã được che giấu không có ghi nhớ. Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của hai tội ấy đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của hai tội ấy đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Này đại đức, vị tỳ khưu này đã phạm các tội ấy. Vị tỳ khưu này thực hành parivāsa vì các tội ấy.
Vị ấy nói như vầy:
– Này các đại đức, tháng nào đã được che giấu có ghi nhớ, việc ban cho hành phạt parivāsa của tháng ấy là hợp lý; sự hợp lý đem lại kết quả. Này các đại đức, còn tháng nào đã được che giấu không có ghi nhớ, việc ban cho hành phạt parivāsa của tháng ấy là không hợp lý; sự không hợp lý không đem lại kết quả. Này các đại đức, đối với tháng này vị tỳ khưu xứng đáng hành phạt mānatta.
[465] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng; một tháng đã được che giấu không có nghi ngờ, một tháng đã được che giấu có nghi ngờ. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Trong khi vị ấy đang thực hành parivāsa, có vị tỳ khưu khác đi đến là vị nghe nhiều, kinh điển được truyền thừa, rành rẽ về Pháp, rành rẽ về Luật, rành rẽ về các đầu đề, là bậc trí tuệ, có khả năng, thông minh, khiêm nhường, có hối hận, ưa thích sự học tập. Vị ấy nói như vầy:
– Này các đại đức, vị tỳ khưu này đã phạm tội gì? Vì sao vị tỳ khưu này thực hành parivāsa?
Các vị ấy trả lời như vầy:
– Này đại đức, vị tỳ khưu này đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng; một tháng đã được che giấu không có nghi ngờ, một tháng đã được che giấu có nghi ngờ. Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của hai tội ấy đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của hai tội ấy đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Này đại đức, vị tỳ khưu này đã phạm các tội ấy. Vị tỳ khưu này thực hành parivāsa vì các tội ấy.
Vị ấy nói như vầy:
– Này các đại đức, tháng nào đã được che giấu không có nghi ngờ, việc ban cho hành phạt parivāsa của tháng ấy là hợp lý; sự hợp lý đem lại kết quả. Này các đại đức, còn tháng nào đã được che giấu có nghi ngờ, việc ban cho hành phạt parivāsa của tháng ấy là không hợp lý; sự không hợp lý không đem lại kết quả. Này các đại đức, đối với tháng này vị tỳ khưu xứng đáng hành phạt mānatta.
[466] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ phạm nhiều tội saṅghādisesa. Vị ấy không biết số lượng của các tội, không biết số lượng của các đêm (đã dấu), không nhớ số lượng của các tội, không nhớ số lượng của các đêm (đã dấu), có nghi ngờ về số lượng của các tội, có nghi ngờ về số lượng của các đêm (đã dấu). Vị ấy đã kể lại cho các tỳ khưu rằng:
– Này các đại đức, tôi đã phạm nhiều tội saṅghādisesa. Tôi không biết số lượng của các tội, không biết số lượng của các đêm (đã dấu), không nhớ số lượng của các tội, không nhớ số lượng của các đêm (đã dấu), có nghi ngờ về số lượng của các tội, có nghi ngờ về số lượng của các đêm (đã dấu); vậy tôi nên thực hành như thế nào?
Các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, vì việc ấy hội chúng hãy ban cho hành phạt parivāsa hoàn toàn trong sạch (suddhantaparivāsa) [1] của các tội ấy đến vị tỳ khưu ấy.
[467] Và này các tỳ khưu, nên ban cho như vầy: Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu trưởng thượng, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên nói như vầy:
“Bạch các ngài, tôi đã phạm nhiều tội saṅghādisesa. Tôi không biết số lượng của các tội, không biết số lượng của các đêm (đã dấu), không nhớ số lượng của các tội, không nhớ số lượng của các đêm (đã dấu), có nghi ngờ về số lượng của các tội, có nghi ngờ về số lượng của các đêm (đã dấu). Bạch các ngài, tôi cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hoàn toàn trong sạch của các tội ấy.”
Nên cầu xin đến lần thứ nhì. Nên cầu xin đến lần thứ ba.
[468] Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này tên (như vầy) đã phạm nhiều tội saṅghādisesa. Vị ấy không biết số lượng của các tội, không biết số lượng của các đêm (đã dấu), không nhớ số lượng của các tội, không nhớ số lượng của các đêm (đã dấu), có nghi ngờ về số lượng của các tội, có nghi ngờ về số lượng của các đêm (đã dấu). Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hoàn toàn trong sạch của các tội ấy. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho hành phạt parivāsa hoàn toàn trong sạch của các tội ấy đến tỳ khưu tên (như vầy). Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này tên (như vầy) đã phạm nhiều tội saṅghādisesa. Vị ấy không biết số lượng của các tội, không biết số lượng của các đêm (đã dấu), không nhớ số lượng của các tội, không nhớ số lượng của các đêm (đã dấu), có nghi ngờ về số lượng của các tội, có nghi ngờ về số lượng của các đêm (đã dấu). Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hoàn toàn trong sạch của các tội ấy. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa hoàn toàn trong sạch của các tội ấy đến tỳ khưu tên (như vầy). Đại đức nào đồng ý với việc ban cho hành phạt parivāsa hoàn toàn trong sạch của các tội ấy đến tỳ khưu tên (như vầy) xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: …(như trên)…
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: …(như trên)…
Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hoàn toàn trong sạch của các tội ấy đến tỳ khưu tên (như vầy). Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
[469] Và này các tỳ khưu, hành phạt parivāsa hoàn toàn trong sạch nên được ban cho như vầy; hành phạt parivāsa nên được ban cho như vầy.
Này các tỳ khưu, thế nào là hành phạt parivāsa hoàn toàn trong sạch nên được ban cho?
Vị không biết số lượng của các tội, không biết số lượng của các đêm (đã dấu), không nhớ số lượng của các tội, không nhớ số lượng của các đêm (đã dấu), có nghi ngờ về số lượng của các tội, có nghi ngờ về số lượng của các đêm (đã dấu) thì hành phạt parivāsa hoàn toàn trong sạch nên được ban cho.
Vị biết số lượng của các tội, không biết số lượng của các đêm (đã dấu), nhớ số lượng của các tội, không nhớ số lượng của các đêm (đã dấu), không có nghi ngờ về số lượng của các tội, có nghi ngờ về số lượng của các đêm (đã dấu) thì hành phạt parivāsa hoàn toàn trong sạch nên được ban cho.
Vị biết một phần số lượng của các tội một phần không biết, không biết số lượng của các đêm, nhớ một phần số lượng của các tội một phần không nhớ, không nhớ số lượng của các đêm, có nghi ngờ về một phần số lượng của các tội một phần không có nghi ngờ, có nghi ngờ về số lượng của các đêm thì hành phạt parivāsa hoàn toàn trong sạch nên được ban cho.
Vị không biết số lượng của các tội, biết một phần số lượng của các đêm một phần không biết, không nhớ số lượng của các tội, nhớ một phần số lượng của các đêm một phần không nhớ, có nghi ngờ về số lượng của các tội, (có nghi ngờ về một phần số lượng của các đêm một phần không có nghi ngờ thì hành phạt parivāsa hoàn toàn trong sạch nên được ban cho.
Vị biết số lượng của các tội, biết một phần số lượng của các đêm một phần không biết, nhớ số lượng của các tội, nhớ một phần số lượng của các đêm một phần không nhớ, không có nghi ngờ về số lượng của các tội, có nghi ngờ về một phần số lượng của các đêm một phần không có nghi ngờ thì hành phạt parivāsa hoàn toàn trong sạch nên được ban cho.
Vị biết một phần số lượng của các tội một phần không biết, biết một phần số lượng của các đêm một phần không biết, nhớ một phần số lượng của các tội một phần không nhớ, nhớ một phần số lượng của các đêm một phần không nhớ, có nghi ngờ về một phần số lượng của các tội một phần không có nghi ngờ, có nghi ngờ về một phần số lượng của các đêm một phần không có nghi ngờ thì hành phạt parivāsa hoàn toàn trong sạch nên được ban cho.
Này các tỳ khưu, hành phạt parivāsa hoàn toàn trong sạch nên được ban cho như thế.
[470] Và này các tỳ khưu, thế nào là hành phạt parivāsa nên được ban cho?
Vị biết số lượng của các tội, biết số lượng của các đêm (đã dấu), nhớ số lượng của các tội, nhớ số lượng của các đêm (đã dấu), không có nghi ngờ về số lượng của các tội, không có nghi ngờ về số lượng của các đêm (đã dấu) thì hành phạt parivāsa nên được ban cho.
Vị không biết số lượng của các tội, biết số lượng của các đêm (đã dấu), không nhớ số lượng của các tội, nhớ số lượng của các đêm (đã dấu), có nghi ngờ về số lượng của các tội, không có nghi ngờ về số lượng của các đêm (đã dấu) thì hành phạt parivāsa nên được ban cho.
Vị biết một phần số lượng của các tội một phần không biết, biết số lượng của các đêm (đã dấu), nhớ một phần số lượng của các tội một phần không nhớ, nhớ số lượng của các đêm (đã dấu), có nghi ngờ về một phần số lượng của các tội một phần không có nghi ngờ, không có nghi ngờ về số lượng của các đêm (đã dấu) thì hành phạt parivāsa nên được ban cho.
Này các tỳ khưu, hành phạt parivāsa nên được ban cho như thế.
Dứt hành phạt parivāsa.
[471] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ trong lúc thực hành parivāsa đã hoàn tục. Vị ấy đã trở lại và cầu xin sự tu lên bậc trên. Các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
[472] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa lại hoàn tục. Này các tỳ khưu, hành phạt parivāsa không có tác dụng đối với vị hoàn tục. Nhưng nếu vị ấy tu lên bậc trên lại, chính việc ban cho hành phạt parivāsa trước đây được áp dụng lại cho vị ấy. Hành phạt parivāsa nào đã được ban cho (là đã được) ban cho một cách đúng đắn. Phần hành phạt parivāsa nào đã được hoàn thành (là đã được) hoàn thành một cách đúng đắn. Nên thực hành parivāsa phần còn lại.
[473] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa lại xuống sa di. Này các tỳ khưu, hành phạt parivāsa không có tác dụng đối với vị sa di. Nhưng nếu vị ấy tu lên bậc trên lại, chính việc ban cho hành phạt parivāsa trước đây được áp dụng lại cho vị ấy. Hành phạt parivāsa nào đã được ban cho (là đã được) ban cho một cách đúng đắn. Phần hành phạt parivāsa nào đã được hoàn thành (là đã được) hoàn thành một cách đúng đắn. Nên thực hành parivāsa phần còn lại.
[474] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa lại bị điên. Này các tỳ khưu, hành phạt parivāsa không có tác dụng đối với vị bị điên. Nhưng nếu vị ấy hết bị điên, chính việc ban cho hành phạt parivāsa trước đây được áp dụng lại cho vị ấy. Hành phạt parivāsa nào đã được ban cho (là đã được) ban cho một cách đúng đắn. Phần hành phạt parivāsa nào đã được hoàn thành (là đã được) hoàn thành một cách đúng đắn. Nên thực hành parivāsa phần còn lại.
[475] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa bị loạn trí. Này các tỳ khưu, hành phạt parivāsa không có tác dụng đối với vị bị loạn trí. Nhưng nếu vị ấy hết bị loạn trí, chính việc ban cho hành phạt parivāsa trước đây được áp dụng lại cho vị ấy. Hành phạt parivāsa nào đã được ban cho (là đã được) ban cho một cách đúng đắn. Phần hành phạt parivāsa nào đã được hoàn thành (là đã được) hoàn thành một cách đúng đắn. Nên thực hành parivāsa phần còn lại.
[476] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa bị thọ khổ hành hạ (vedanaṭṭo). Này các tỳ khưu, hành phạt parivāsa không có tác dụng đối với vị bị thọ khổ hành hạ. Nhưng nếu vị ấy hết bị thọ khổ hành hạ, chính việc ban cho hành phạt parivāsa trước đây được áp dụng lại cho vị ấy. Hành phạt parivāsa nào đã được ban cho (là đã được) ban cho một cách đúng đắn. Phần hành phạt parivāsa nào đã được hoàn thành (là đã được) hoàn thành một cách đúng đắn. Nên thực hành parivāsa phần còn lại.
[477] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa lại bị án treo về việc không nhìn nhận tội. Này các tỳ khưu, hành phạt parivāsa không có tác dụng đối với vị bị án treo. Nhưng nếu vị ấy được phục hồi lại, chính việc ban cho hành phạt parivāsa trước đây được áp dụng lại cho vị ấy. Hành phạt parivāsa nào đã được ban cho (là đã được) ban cho một cách đúng đắn. Phần hành phạt parivāsa nào đã được hoàn thành (là đã được) hoàn thành một cách đúng đắn. Nên thực hành parivāsa phần còn lại.
[478] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa lại bị án treo về việc không sửa chữa lỗi. Này các tỳ khưu, hành phạt parivāsa không có tác dụng đối với vị bị án treo về việc không sửa chữa lỗi. Nhưng nếu vị ấy được phục hồi lại, chính việc ban cho hành phạt parivāsa trước đây được áp dụng lại cho vị ấy. Hành phạt parivāsa nào đã được ban cho (là đã được) ban cho một cách đúng đắn. Phần hành phạt parivāsa nào đã được hoàn thành (là đã được) hoàn thành một cách đúng đắn. Nên thực hành parivāsa phần còn lại.
[479] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa lại bị án treo về việc không từ bỏ tà kiến ác. Này các tỳ khưu, hành phạt parivāsa không có tác dụng đối với vị bị án treo về việc không từ bỏ tà kiến ác. Nhưng nếu vị ấy được phục hồi lại, chính việc ban cho hành phạt parivāsa trước đây được áp dụng lại cho vị ấy. Hành phạt parivāsa nào đã được ban cho (là đã được) ban cho một cách đúng đắn. Phần hành phạt parivāsa nào đã được hoàn thành (là đã được) hoàn thành một cách đúng đắn. Nên thực hành parivāsa phần còn lại.
[480] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu là vị xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu lại hoàn tục. Này các tỳ khưu, hành phạt parivāsa không có tác dụng đối với vị hoàn tục. Nhưng nếu vị ấy tu lên bậc trên lại, chính việc ban cho hành phạt parivāsa trước đây được áp dụng lại cho vị ấy. Hành phạt parivāsa nào đã được ban cho (là đã được) ban cho một cách đúng đắn, Hành phạt parivāsa nào đã được hoàn thành (là đã được) hoàn thành một cách đúng đắn. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu.
[481] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu là vị xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu lại xuống sa di. …(như trên)… bị điên. …(như trên)… bị loạn trí. …(như trên)… bị thọ khổ hành hạ. …(như trên)… bị án treo về việc không nhìn nhận tội. …(như trên)… bị án treo về việc không sửa chữa lỗi. …(như trên)… bị án treo về việc không từ bỏ tà kiến ác. Này các tỳ khưu, sự (thực hành) trở lại từ đầu không có tác dụng đối với vị bị án treo. Nhưng nếu vị ấy được phục hồi lại, chính việc ban cho hành phạt parivāsa trước đây được áp dụng lại cho vị ấy. Hành phạt parivāsa nào đã được ban cho (là đã được) ban cho một cách đúng đắn. Hành phạt parivāsa nào đã được hoàn thành (là đã được) hoàn thành một cách đúng đắn. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu.
[482] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu xứng đáng hành phạt mānatta lại hoàn tục. Này các tỳ khưu, hành phạt mānatta không có tác dụng đối với vị hoàn tục. Nhưng nếu vị ấy tu lên bậc trên lại, chính việc ban cho hành phạt parivāsa trước đây được áp dụng lại cho vị ấy. Hành phạt parivāsa nào đã được ban cho (là đã được) ban cho một cách đúng đắn. Hành phạt parivāsa nào đã được hoàn thành (là đã được) hoàn thành một cách đúng đắn. Hành phạt mānatta nên được ban cho đến vị ấy.
[483] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu xứng đáng hành phạt mānatta lại xuống sa di. …(như trên)… bị điên. …(như trên)… bị loạn trí. …(như trên)… bị thọ khổ hành hạ. …(như trên)… bị án treo về việc không nhìn nhận tội. …(như trên)… bị án treo về việc không sửa chữa lỗi. …(như trên)… bị án treo về việc không từ bỏ tà kiến ác. Này các tỳ khưu, hành phạt mānatta không có tác dụng đối với vị bị án treo. Nhưng nếu vị ấy được phục hồi lại, chính việc ban cho hành phạt parivāsa trước đây được áp dụng lại cho vị ấy. Hành phạt parivāsa nào đã được ban cho (là đã được) ban cho một cách đúng đắn. Hành phạt parivāsa nào đã được hoàn thành (là đã được) hoàn thành một cách đúng đắn. Hành phạt mānatta nên được ban cho đến vị ấy.
[484] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu đang thực hành hành phạt mānatta lại hoàn tục. Này các tỳ khưu, việc thực hành hành phạt mānatta không có tác dụng đối với vị hoàn tục. Nhưng nếu vị ấy tu lên bậc trên lại, chính việc ban cho hành phạt parivāsa trước đây được áp dụng lại cho vị ấy. Hành phạt parivāsa nào đã được ban cho (là đã được) ban cho một cách đúng đắn. Hành phạt parivāsa nào đã được hoàn thành (là đã được) hoàn thành một cách đúng đắn. Hành phạt mānatta nào đã được ban cho (là đã được) ban cho một cách đúng đắn. Phần hành phạt mānatta nào đã được hoàn tất (là đã được) hoàn tất một cách đúng đắn. Nên thực hành phần còn lại.
[485] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu đang thực hành hành phạt mānatta lại xuống sa di. …(như trên)… bị điên. …(như trên)… bị loạn trí. …(như trên)… bị thọ khổ hành hạ. …(như trên)… bị án treo về việc không nhìn nhận tội. …(như trên)… bị án treo về việc không sửa chữa lỗi. …(như trên)… bị án treo về việc không từ bỏ tà kiến ác. Này các tỳ khưu, việc thực hành hành phạt mānatta không có tác dụng đối với vị bị án treo. Nhưng nếu vị ấy được phục hồi lại, chính việc ban cho hành phạt parivāsa trước đây được áp dụng lại cho vị ấy. Hành phạt parivāsa nào đã được ban cho (là đã được) ban cho một cách đúng đắn. Hành phạt parivāsa nào đã được hoàn thành (là đã được) hoàn thành một cách đúng đắn. Hành phạt mānatta nào đã được ban cho (là đã được) ban cho một cách đúng đắn. Phần hành phạt mānatta nào đã được hoàn tất (là đã được) hoàn tất một cách đúng đắn. Nên thực hành phần còn lại.
[486] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu xứng đáng sự giải tội lại hoàn tục. Này các tỳ khưu, sự giải tội không có tác dụng đối với vị hoàn tục. Nhưng nếu vị ấy tu lên bậc trên lại, chính việc ban cho hành phạt parivāsa trước đây được áp dụng lại cho vị ấy. Hành phạt parivāsa nào đã được ban cho (là đã được) ban cho một cách đúng đắn. Hành phạt parivāsa nào đã được hoàn thành (là đã được) hoàn thành một cách đúng đắn. Hành phạt mānatta nào đã được ban cho (là đã được) ban cho một cách đúng đắn. Hành phạt mānatta nào đã được hoàn tất (là đã được) hoàn tất một cách đúng đắn. Vị tỳ khưu ấy nên được giải tội.
[487] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu xứng đáng sự giải tội lại xuống sa di. …(như trên)… bị điên. …(như trên)… bị loạn trí. …(như trên)… bị thọ khổ hành hạ. …(như trên)… bị án treo về việc không nhìn nhận tội. …(như trên)… bị án treo về việc không sửa chữa lỗi. …(như trên)… bị án treo về việc không từ bỏ tà kiến ác. Này các tỳ khưu, sự giải tội không có tác dụng đối với vị bị án treo. Nhưng nếu vị ấy được phục hồi lại, chính việc ban cho hành phạt parivāsa trước đây được áp dụng lại cho vị ấy. Hành phạt parivāsa nào đã được ban cho (là đã được) ban cho một cách đúng đắn. Hành phạt parivāsa nào đã được hoàn thành (là đã được) hoàn thành một cách đúng đắn. Hành phạt mānatta nào đã được ban cho (là đã được) ban cho một cách đúng đắn. Hành phạt mānatta nào đã được hoàn tất (là đã được) hoàn tất một cách đúng đắn. Vị tỳ khưu ấy nên được giải tội.
Bốn mươi trường hợp được đầy đủ.
[488] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định (parimāṇāyo), không có che giấu. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu.
[489] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định, có che giấu. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.
[490] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định, có che giấu và không có che giấu. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.
[491] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội saṅghādisesa chưa được xác định (aparimāṇāyo), không có che giấu. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu.
[492] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội saṅghādisesa chưa được xác định, có che giấu. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.
[493] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội saṅghādisesa chưa được xác định có che giấu và không có che giấu. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.
[494] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định và chưa được xác định, không có che giấu. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu.
[495] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định và chưa được xác định, có che giấu. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.
[496] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định và chưa được xác định, có che giấu và không có che giấu. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.
[497] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu xứng đáng hành phạt mānatta …(như trên)…
[498] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu đang thực hành hành phạt mānatta …(như trên)…
[499] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu xứng đáng sự giải tội, đang ở vào giai đoạn giữa chừng, lại phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định, không có che giấu. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu.
[500] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu xứng đáng sự giải tội, đang ở vào giai đoạn giữa chừng, lại phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định, có che giấu. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.
[501] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu xứng đáng sự giải tội, đang ở vào giai đoạn giữa chừng, lại phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định, có che giấu và không có che giấu. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.
[502] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu xứng đáng sự giải tội, đang ở vào giai đoạn giữa chừng, lại phạm nhiều tội saṅghādisesa chưa được xác định, không có che giấu. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu.
[503] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu xứng đáng sự giải tội, đang ở vào giai đoạn giữa chừng, lại phạm nhiều tội saṅghādisesa chưa được xác định, có che giấu. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.
[504] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu xứng đáng sự giải tội, đang ở vào giai đoạn giữa chừng, lại phạm nhiều tội saṅghādisesa chưa được xác định, có che giấu và không có che giấu. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.
[505] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu xứng đáng sự giải tội, đang ở vào giai đoạn giữa chừng, lại phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định và chưa được xác định, không có che giấu. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu.
[506] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu xứng đáng sự giải tội, đang ở vào giai đoạn giữa chừng, lại phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định và chưa được xác định, có che giấu. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.
[507] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu xứng đáng sự giải tội, đang ở vào giai đoạn giữa chừng, lại phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định và chưa được xác định, có che giấu và không có che giấu. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.
Ba mươi sáu trường hợp được đầy đủ.
[508] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa, không có che giấu, rồi hoàn tục. Vị ấy đã tu lên bậc trên lại và không giấu giếm các tội ấy. Này các tỳ khưu, hành phạt mānatta nên được ban cho vị tỳ khưu ấy.
[509] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa, không có che giấu, rồi hoàn tục. Vị ấy đã tu lên bậc trên lại và giấu giếm các tội ấy. Này các tỳ khưu, nên ban cho hành phạt parivāsa theo nhóm các tội đã được che giấu như thế trong thời gian sau này đến vị tỳ khưu ấy rồi nên ban cho hành phạt mānatta.
[510] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa, có che giấu, rồi hoàn tục. Vị ấy đã tu lên bậc trên lại và không giấu giếm các tội ấy. Này các tỳ khưu, nên ban cho hành phạt parivāsa theo nhóm các tội đã được che giấu như thế trong thời gian trước đây đến vị tỳ khưu ấy, rồi nên ban cho hành phạt mānatta.
[511] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa, có che giấu, rồi hoàn tục. Vị ấy đã tu lên bậc trên lại và giấu giếm các tội ấy. Này các tỳ khưu, nên ban cho hành phạt parivāsa theo nhóm các tội đã được che giấu như thế trong thời gian trước đây và thời gian sau này đến vị tỳ khưu ấy, rồi nên ban cho hành phạt mānatta.
[512]Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa. Các tội của vị ấy có che giấu và không có che giấu. Vị ấy đã hoàn tục rồi tu lên bậc trên lại. Các tội nào vị ấy đã giấu giếm trước đây, về sau này vị ấy không giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy đã không giấu giếm trước đây, về sau này vị ấy cũng không giấu giếm. Này các tỳ khưu, nên ban cho hành phạt parivāsa theo nhóm các tội đã được che giấu như thế trong thời gian trước đây đến vị tỳ khưu ấy, rồi nên ban cho hành phạt mānatta.
[513] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa. Các tội của vị ấy có che giấu và không có che giấu. Vị ấy đã hoàn tục rồi tu lên bậc trên lại. Các tội nào vị ấy đã giấu giếm trước đây, về sau này vị ấy không giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy đã không giấu giếm trước đây, về sau này vị ấy giấu giếm các tội ấy. Này các tỳ khưu, nên ban cho hành phạt parivāsa theo nhóm các tội đã được che giấu như thế trong thời gian trước đây và thời gian sau này đến vị tỳ khưu ấy, rồi nên ban cho hành phạt mānatta.
[514] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa. Các tội của vị ấy có che giấu và không có che giấu. Vị ấy đã hoàn tục rồi tu lên bậc trên lại. Các tội nào vị ấy đã giấu giếm trước đây, về sau này vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy đã không giấu giếm trước đây, về sau này vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Này các tỳ khưu, nên ban cho hành phạt parivāsa theo nhóm các tội đã được che giấu như thế trong thời gian trước đây và thời gian sau này đến vị tỳ khưu ấy, rồi nên ban cho hành phạt mānatta.
[515] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa. Các tội của vị ấy có che giấu và không có che giấu. Vị ấy đã hoàn tục rồi tu lên bậc trên lại. Các tội nào vị ấy đã giấu giếm trước đây, về sau này vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy đã không giấu giếm trước đây, về sau này vị ấy giấu giếm các tội ấy. Này các tỳ khưu, nên ban cho hành phạt parivāsa theo nhóm các tội đã được che giấu như thế trong thời gian trước đây và thời gian sau này đến vị tỳ khưu ấy, rồi nên ban cho hành phạt mānatta.
[516]Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa. Một số tội vị ấy nhận biết, một số tội vị ấy không nhận biết. Các tội nào vị ấy nhận biết, vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy không nhận biết vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Vị ấy đã hoàn tục rồi tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy nhận biết và đã giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy nhận biết và không giấu giếm; các tội nào trước đây vị ấy không nhận biết và đã không giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy nhận biết và không giấu giếm. Này các tỳ khưu, nên ban cho hành phạt parivāsa theo nhóm các tội đã được che giấu như thế trong thời gian trước đây đến vị tỳ khưu ấy, rồi nên ban cho hành phạt mānatta.
[517] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa. Một số tội vị ấy nhận biết, một số tội vị ấy không nhận biết. Các tội nào vị ấy nhận biết, vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy không nhận biết, vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Vị ấy đã hoàn tục rồi tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy nhận biết và đã giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy nhận biết và không giấu giếm; các tội nào trước đây vị ấy không nhận biết và đã không giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy nhận biết và giấu giếm. Này các tỳ khưu, nên ban cho hành phạt parivāsa theo nhóm các tội đã được che giấu như thế trong thời gian trước đây và thời gian sau này đến vị tỳ khưu ấy, rồi nên ban cho hành phạt mānatta.
[518] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa. Một số tội vị ấy nhận biết, một số tội vị ấy không nhận biết. Các tội nào vị ấy nhận biết, vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy không nhận biết, vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Vị ấy đã hoàn tục rồi tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy nhận biết và đã giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy nhận biết và giấu giếm; các tội nào trước đây vị ấy không nhận biết và đã không giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy nhận biết và không giấu giếm. Này các tỳ khưu, nên ban cho hành phạt parivāsa theo nhóm các tội đã được che giấu như thế trong thời gian trước đây và thời gian sau này đến vị tỳ khưu ấy, rồi nên ban cho hành phạt mānatta.
[519] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa. Một số tội vị ấy nhận biết, một số tội vị ấy không nhận biết. Các tội nào vị ấy nhận biết, vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy không nhận biết, vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Vị ấy đã hoàn tục rồi tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy nhận biết và đã giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy nhận biết và giấu giếm; các tội nào trước đây vị ấy không nhận biết và đã không giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy nhận biết và giấu giếm. Này các tỳ khưu, nên ban cho hành phạt parivāsa theo nhóm các tội đã được che giấu như thế trong thời gian trước đây và thời gian sau này đến vị tỳ khưu ấy, rồi nên ban cho hành phạt mānatta.
[520]Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa. Một số tội vị ấy nhớ, một số tội vị ấy không nhớ. Các tội nào vị ấy nhớ, vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy không nhớ, vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Vị ấy đã hoàn tục rồi tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy nhớ và đã giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy nhớ và không giấu giếm; các tội nào trước đây vị ấy không nhớ và đã không giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy nhớ và không giấu giếm. Này các tỳ khưu, nên ban cho hành phạt parivāsa theo nhóm các tội đã được che giấu như thế trong thời gian trước đây đến vị tỳ khưu ấy, rồi nên ban cho hành phạt mānatta.
[521] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa. Một số tội vị ấy nhớ, một số tội vị ấy không nhớ. Các tội nào vị ấy nhớ, vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy không nhớ, vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Vị ấy đã hoàn tục rồi tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy đã nhớ và đã giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy nhớ và không giấu giếm; các tội nào trước đây vị ấy đã không nhớ và đã không giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy nhớ và giấu giếm. Này các tỳ khưu, nên ban cho hành phạt parivāsa theo nhóm các tội đã được che giấu như thế trong thời gian trước đây và thời gian sau này đến vị tỳ khưu ấy, rồi nên ban cho hành phạt mānatta.
[522] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa. Một số tội vị ấy nhớ, một số tội vị ấy không nhớ. Các tội nào vị ấy nhớ, vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy không nhớ, vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Vị ấy đã hoàn tục rồi tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy đã nhớ và đã giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy nhớ và giấu giếm; các tội nào trước đây vị ấy đã không nhớ và đã không giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy nhớ và không giấu giếm. Này các tỳ khưu, nên ban cho hành phạt parivāsa theo nhóm các tội đã được che giấu như thế trong thời gian trước đây và thời gian sau này đến vị tỳ khưu ấy, rồi nên ban cho hành phạt mānatta.
[523] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa. Một số tội vị ấy nhớ, một số tội vị ấy không nhớ. Các tội nào vị ấy nhớ, vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy không nhớ, vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Vị ấy đã hoàn tục rồi tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy đã nhớ và đã giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy nhớ và giấu giếm; các tội nào trước đây vị ấy đã không nhớ và đã không giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy nhớ và giấu giếm. Này các tỳ khưu, nên ban cho hành phạt parivāsa theo nhóm các tội đã được che giấu như thế trong thời gian trước đây và thời gian sau này đến vị tỳ khưu ấy, rồi nên ban cho hành phạt mānatta.
[524]Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa. Một số tội vị ấy không có nghi ngờ, một số tội vị ấy có nghi ngờ. Các tội nào vị ấy không có nghi ngờ, vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy có nghi ngờ, vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Vị ấy đã hoàn tục rồi tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy đã không có nghi ngờ và đã giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và không giấu giếm; các tội nào trước đây vị ấy đã có nghi ngờ và đã không giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và không giấu giếm. Này các tỳ khưu, nên ban cho hành phạt parivāsa theo nhóm các tội đã được che giấu như thế trong thời gian trước đây đến vị tỳ khưu ấy, rồi nên ban cho hành phạt mānatta.
[525] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa. Một số tội vị ấy không có nghi ngờ, một số tội vị ấy có nghi ngờ. Các tội nào vị ấy không có nghi ngờ, vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy có nghi ngờ, vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Vị ấy đã hoàn tục rồi tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy đã không có nghi ngờ và đã giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và không giấu giếm; các tội nào trước đây vị ấy đã có nghi ngờ và đã không giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và giấu giếm. Này các tỳ khưu, nên ban cho hành phạt parivāsa theo nhóm các tội đã được che giấu như thế trong thời gian trước đây và thời gian sau này đến vị tỳ khưu ấy, rồi nên ban cho hành phạt mānatta.
[526] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa. Một số tội vị ấy không có nghi ngờ, một số tội vị ấy có nghi ngờ. Các tội nào vị ấy không có nghi ngờ, vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy có nghi ngờ, vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Vị ấy đã hoàn tục rồi tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy đã không có nghi ngờ và đã giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và giấu giếm; các tội nào trước đây vị ấy đã có nghi ngờ và đã không giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và không giấu giếm. Này các tỳ khưu, nên ban cho hành phạt parivāsa theo nhóm các tội đã được che giấu như thế trong thời gian trước đây và thời gian sau này đến vị tỳ khưu ấy, rồi nên ban cho hành phạt mānatta.
[527] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa. Một số tội vị ấy không có nghi ngờ, một số tội vị ấy có nghi ngờ. Các tội nào vị ấy không có nghi ngờ, vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy có nghi ngờ, vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Vị ấy đã hoàn tục rồi tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy đã không có nghi ngờ và đã giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và giấu giếm; các tội nào trước đây vị ấy đã có nghi ngờ và đã không giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và giấu giếm. Này các tỳ khưu, nên ban cho hành phạt parivāsa theo nhóm các tội đã được che giấu như thế trong thời gian trước đây và thời gian sau này đến vị tỳ khưu ấy, rồi nên ban cho hành phạt mānatta.
[528] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu sau khi phạm nhiều tội saṅghādisesa, không che giấu, rồi xuống sa di. …(như trên)… bị điên. …(như trên)… bị loạn trí. …(như trên)… (Phần dưới đây nên được giải thích tương tợ). …(như trên)… bị thọ khổ hành hạ. …(như trên)… Các tội của vị ấy có che giấu và không có che giấu. …(như trên)… Một số tội vị ấy nhận biết, một số tội vị ấy không nhận biết. …(như trên)… Một số tội vị ấy nhớ, một số tội vị ấy không nhớ. …(như trên)… Một số tội vị ấy không có nghi ngờ, một số tội vị ấy có nghi ngờ. Các tội nào vị ấy không có nghi ngờ, vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội vị ấy có nghi ngờ vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Vị ấy bị thọ khổ hành hạ. Sau khi đã trở lại hết bị thọ khổ hành hạ, các tội nào trước đây vị ấy đã không có nghi ngờ và đã giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và không giấu giếm; các tội nào trước đây vị ấy đã có nghi ngờ và đã không giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và không giấu giếm. …(như trên)… Các tội nào trước đây vị ấy đã không có nghi ngờ và đã giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và không giấu giếm; các tội nào trước đây vị ấy đã có nghi ngờ và đã không giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và giấu giếm. …(như trên)… Các tội nào trước đây vị ấy đã không có nghi ngờ và đã giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và giấu giếm; các tội nào trước đây vị ấy đã có nghi ngờ và đã không giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và không giấu giếm. …(như trên)… Các tội nào trước đây vị ấy đã không có nghi ngờ và đã giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và giấu giếm; các tội nào trước đây vị ấy đã có nghi ngờ và đã không giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và giấu giếm. Này các tỳ khưu, nên ban cho hành phạt parivāsa theo nhóm các tội đã được che giấu như thế trong thời gian trước đây và thời gian sau này đến vị tỳ khưu ấy, rồi nên ban cho hành phạt mānatta.
Dứt một trăm trường hợp mānatta.
[529] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội saṅghādisesa, không che giấu, rồi hoàn tục. Vị ấy đã tu lên bậc trên lại và không giấu giếm các tội ấy. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu.
[530] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội saṅghādisesa, không che giấu, rồi hoàn tục. Vị ấy đã tu lên bậc trên lại và giấu giếm các tội ấy. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.
[531] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội saṅghādisesa, có che giấu, rồi hoàn tục. Vị ấy đã tu lên bậc trên lại và không giấu giếm các tội ấy. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.
[532] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội saṅghādisesa, có che giấu, rồi hoàn tục. Vị ấy đã tu lên bậc trên lại và giấu giếm các tội ấy. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.
[533] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội saṅghādisesa. Các tội của vị ấy có che giấu, và không có che giấu. Vị ấy đã hoàn tục rồi đã tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy đã giấu giếm, sau này vị ấy không giấu giếm các tội ấy; các tội nào trước đây vị ấy đã không giấu giếm, sau này vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.
[534] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội saṅghādisesa. Các tội của vị ấy có che giấu, và không có che giấu. Vị ấy đã hoàn tục rồi đã tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy đã giấu giếm, sau này vị ấy không giấu giếm các tội ấy; các tội nào trước đây vị ấy đã không giấu giếm, sau này vị ấy giấu giếm các tội ấy. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.
[535] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội saṅghādisesa. Các tội của vị ấy có che giấu, và không có che giấu. Vị ấy đã hoàn tục rồi đã tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy đã giấu giếm, sau này vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào trước đây vị ấy đã không giấu giếm, sau này vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.
[536] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội saṅghādisesa. Các tội của vị ấy có che giấu, và không được che giấu. Vị ấy đã hoàn tục rồi đã tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy đã giấu giếm, sau này vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào trước đây vị ấy đã không giấu giếm, sau này vị ấy giấu giếm các tội ấy. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.
[537] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội saṅghādisesa. Một số tội vị ấy nhận biết, một số tội vị ấy không nhận biết. Các tội nào vị ấy nhận biết, vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy không nhận biết, vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Vị ấy đã hoàn tục rồi đã tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy đã nhận biết và đã giấu giếm, sau này vị ấy nhận biết và không giấu giếm các tội ấy; các tội nào trước đây vị ấy đã không nhận biết và đã không giấu giếm, sau này vị ấy nhận biết và không giấu giếm các tội ấy. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.
[538] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội saṅghādisesa. Một số tội vị ấy nhận biết, một số tội vị ấy không nhận biết. Các tội nào vị ấy nhận biết, vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy không nhận biết, vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Vị ấy đã hoàn tục rồi đã tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy đã nhận biết và đã giấu giếm, sau này vị ấy nhận biết và không giấu giếm các tội ấy; các tội nào trước đây vị ấy đã không nhận biết và đã không giấu giếm, sau này vị ấy nhận biết và giấu giếm các tội ấy. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.
[539] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội saṅghādisesa. Một số tội vị ấy nhận biết, một số tội vị ấy không nhận biết. Các tội nào vị ấy nhận biết, vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy không nhận biết, vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Vị ấy đã hoàn tục rồi đã tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy đã nhận biết và đã giấu giếm, sau này vị ấy nhận biết và giấu giếm các tội ấy; các tội nào trước đây vị ấy đã không nhận biết và đã không giấu giếm, sau này vị ấy nhận biết và không giấu giếm các tội ấy. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.
[540] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội saṅghādisesa. Một số tội vị ấy nhận biết, một số tội vị ấy không nhận biết. Các tội nào vị ấy nhận biết, vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy không nhận biết, vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Vị ấy đã hoàn tục rồi đã tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy đã nhận biết và đã giấu giếm, sau này vị ấy nhận biết và giấu giếm các tội ấy; các tội nào trước đây vị ấy đã không nhận biết và đã không giấu giếm, sau này vị ấy nhận biết và giấu giếm các tội ấy. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.
[541] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội saṅghādisesa. Một số tội vị ấy nhớ, một số tội vị ấy không nhớ. Các tội nào vị ấy nhớ, vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy không nhớ, vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Vị ấy đã hoàn tục rồi đã tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy đã nhớ và đã giấu giếm, sau này vị ấy nhớ và không giấu giếm các tội ấy; các tội nào trước đây vị ấy đã không nhớ và đã không giấu giếm, sau này vị ấy nhớ và không giấu giếm các tội ấy. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.
[542] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội saṅghādisesa. Một số tội vị ấy nhớ, một số tội vị ấy không nhớ. Các tội nào vị ấy nhớ, vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy không nhớ, vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Vị ấy đã hoàn tục rồi đã tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy đã nhớ và đã giấu giếm, sau này vị ấy nhớ và không giấu giếm các tội ấy; các tội nào trước đây vị ấy đã không nhớ và đã không giấu giếm, sau này vị ấy nhớ và giấu giếm các tội ấy. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.
[543] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội saṅghādisesa. Một số tội vị ấy nhớ, một số tội vị ấy không nhớ. Các tội nào vị ấy nhớ, vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy không nhớ, vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Vị ấy đã hoàn tục rồi đã tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy đã nhớ và đã giấu giếm, sau này vị ấy nhớ và giấu giếm các tội ấy; các tội nào trước đây vị ấy đã không nhớ và đã không giấu giếm, sau này vị ấy nhớ và không giấu giếm các tội ấy. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.
[544] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội saṅghādisesa. Một số tội vị ấy nhớ, một số tội vị ấy không nhớ. Các tội nào vị ấy nhớ, vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy không nhớ, vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Vị ấy đã hoàn tục rồi đã tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy đã nhớ và đã giấu giếm, sau này vị ấy nhớ và giấu giếm các tội ấy; các tội nào trước đây vị ấy đã không nhớ và đã không giấu giếm, sau này vị ấy nhớ và giấu giếm các tội ấy. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.
[545] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội saṅghādisesa. Một số tội vị ấy không có nghi ngờ, một số tội vị ấy có nghi ngờ. Các tội nào vị ấy không có nghi ngờ, vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy có nghi ngờ, vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Vị ấy đã hoàn tục rồi đã tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy đã không có nghi ngờ và đã giấu giếm, sau này vị ấy không có nghi ngờ và không giấu giếm các tội ấy; các tội nào trước đây vị ấy đã có nghi ngờ và đã không giấu giếm, sau này vị ấy không có nghi ngờ và không giấu giếm các tội ấy. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.
[546] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội saṅghādisesa. Một số tội vị ấy không có nghi ngờ, một số tội vị ấy có nghi ngờ. Các tội nào vị ấy không có nghi ngờ, vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy có nghi ngờ,vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Vị ấy đã hoàn tục rồi đã tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy đã không có nghi ngờ và đã giấu giếm, sau này vị ấy không có nghi ngờ và không giấu giếm các tội ấy; các tội nào trước đây vị ấy đã có nghi ngờ và đã không giấu giếm, sau này vị ấy không có nghi ngờ và giấu giếm các tội ấy. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.
[547] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội saṅghādisesa. Một số tội vị ấy không có nghi ngờ, một số tội vị ấy có nghi ngờ. Các tội nào vị ấy không có nghi ngờ, vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy có nghi ngờ, vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Vị ấy đã hoàn tục rồi đã tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy đã không có nghi ngờ và đã giấu giếm, sau này vị ấy không có nghi ngờ và giấu giếm các tội ấy; các tội nào trước đây vị ấy đã có nghi ngờ và đã không giấu giếm, sau này vị ấy không có nghi ngờ và không giấu giếm các tội ấy. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.
[548] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội saṅghādisesa. Một số tội vị ấy không có nghi ngờ, một số tội vị ấy có nghi ngờ. Các tội nào vị ấy không có nghi ngờ, vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy có nghi ngờ, vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Vị ấy đã hoàn tục rồi đã tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy đã không có nghi ngờ và đã giấu giếm, sau này vị ấy không có nghi ngờ và giấu giếm các tội ấy; các tội nào trước đây vị ấy đã có nghi ngờ và đã không giấu giếm, sau này vị ấy không có nghi ngờ và giấu giếm các tội ấy. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.
[549] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội saṅghādisesa, không che giấu, rồi xuống sa di. …(như trên)… bị điên. …(như trên)… bị loạn trí. …(như trên)… bị thọ khổ hành hạ. …(như trên)… Các tội của vị ấy có che giấu và không có che giấu (Phần dưới đây nên được giải thích tương tợ). …(như trên)… Một số tội vị ấy nhận biết, một số tội vị ấy không nhận biết. …(như trên)… Một số tội vị ấy nhớ, một số tội vị ấy không nhớ. …(như trên)… Một số tội vị ấy không có nghi ngờ, một số tội vị ấy có nghi ngờ. Các tội nào vị ấy không có nghi ngờ, vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy có nghi ngờ, vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Vị ấy bị thọ khổ hành hạ. Sau khi đã trở lại hết bị thọ khổ hành hạ, các tội nào trước đây vị ấy đã không có nghi ngờ và đã giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và không giấu giếm; các tội nào trước đây vị ấy đã có nghi ngờ và đã không giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và không giấu giếm. …(như trên)… Các tội nào trước đây vị ấy đã không có nghi ngờ và đã giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và không giấu giếm; các tội nào trước đây vị ấy đã có nghi ngờ và đã không giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và giấu giếm. …(như trên)… Các tội nào trước đây vị ấy đã không có nghi ngờ và đã giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và giấu giếm; các tội nào trước đây vị ấy đã có nghi ngờ và đã không giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và không giấu giếm. …(như trên)… Các tội nào trước đây vị ấy đã không có nghi ngờ và đã giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và giấu giếm; các tội nào trước đây vị ấy đã có nghi ngờ và đã không giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và giấu giếm. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.
[550] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu xứng đáng hành phạt mānatta …(như trên)…
[551] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu là vị đang thực hành hành phạt mānatta …(như trên)…
[552] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu xứng đáng sự giải tội, đang ở vào giai đoạn giữa chừng, lại phạm nhiều tội saṅghādisesa, có che giấu, rồi hoàn tục. …(như trên)… (Vị xứng đáng hành phạt mānatta, vị thực hành hành phạt mānatta, vị xứng đáng giải tội nên được giải thích như đã giải thích ở phần của vị thực hành parivāsa).
[553] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu xứng đáng sự giải tội, đang ở vào giai đoạn giữa chừng, lại phạm nhiều tội saṅghādisesa, không che giấu, rồi xuống sa di. …(như trên)… bị điên. …(như trên)… bị loạn trí. …(như trên)… bị thọ khổ hành hạ. …(như trên)… Các tội của vị ấy có che giấu và không có che giấu. …(như trên)… Một số tội vị ấy nhận biết, một số tội vị ấy không nhận biết. …(như trên)… Một số tội vị ấy nhớ, một số tội vị ấy không nhớ. …(như trên)… Một số tội vị ấy không có nghi ngờ, một số tội vị ấy có nghi ngờ. Các tội nào vị ấy không có nghi ngờ, vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội vị ấy có nghi ngờ, vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Vị ấy bị thọ khổ hành hạ. Sau khi đã trở lại hết bị thọ khổ hành hạ, các tội nào trước đây vị ấy đã không có nghi ngờ và đã giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và không giấu giếm; các tội nào trước đây vị ấy đã có nghi ngờ và đã không giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và không giấu giếm. …(như trên)… Các tội nào trước đây vị ấy đã không có nghi ngờ và đã giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và không giấu giếm; các tội nào trước đây vị ấy đã có nghi ngờ và đã không giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và giấu giếm. …(như trên)… Các tội nào trước đây vị ấy đã không có nghi ngờ và đã giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và giấu giếm; các tội nào trước đây vị ấy đã có nghi ngờ và đã không giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và không giấu giếm. …(như trên)… Các tội nào trước đây vị ấy đã không có nghi ngờ và đã giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và giấu giếm; các tội nào trước đây vị ấy đã có nghi ngờ và đã không giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và giấu giếm. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.
[554] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định, không che giấu, rồi hoàn tục. …(như trên)… chưa được xác định, không che giấu, rồi hoàn tục. …(như trên)… cùng một tội danh, không che giấu, rồi hoàn tục. …(như trên)… khác tội danh, không che giấu, rồi hoàn tục. …(như trên)… cùng nhóm phân loại (sabhāgā), không che giấu, rồi hoàn tục. …(như trên)… khác nhóm phân loại (visabhāgā), không che giấu, rồi hoàn tục. …(như trên)… riêng biệt (vavatthitā), không che giấu, rồi hoàn tục. …(như trên)… có liên quan (sambhinnā)[2], không che giấu, rồi hoàn tục. …(như trên)…
[555] Hai vị tỳ khưu phạm tội saṅghādisesa. Hai vị có quan điểm là tội saṅghādisesa trong tội saṅghādisesa. Một vị giấu giếm, một vị không giấu giếm. Vị nào giấu giếm, nên khuyên vị ấy sám hối tội dukkaṭa (tác ác) và nên ban cho hành phạt parivāsa theo như đã được che giấu đến vị ấy. Hành phạt mānatta nên được ban cho đến cả hai vị.
[556] Hai vị tỳ khưu phạm tội saṅghādisesa. Hai vị có nghi ngờ là tội saṅghādisesa. Một vị giấu giếm, một vị không giấu giếm. Vị nào giấu giếm, nên khuyên vị ấy sám hối tội dukkaṭa (tác ác) và nên ban cho hành phạt parivāsa theo như đã được che giấu đến vị ấy. Hành phạt mānatta nên được ban cho đến cả hai vị.
[557] Hai vị tỳ khưu phạm tội saṅghādisesa. Hai vị có quan điểm là tội lẫn lộn (missakadiṭṭhino) trong tội saṅghādisesa. Một vị giấu giếm, một vị không giấu giếm. Vị nào giấu giếm, nên khuyên vị ấy sám hối tội dukkaṭa (tác ác) và nên ban cho hành phạt parivāsa theo như đã được che giấu đến vị ấy. Hành phạt mānatta nên được ban cho đến cả hai vị.
[558] Hai vị tỳ khưu phạm tội lẫn lộn. Hai vị có quan điểm là tội saṅghādisesa trong tội lẫn lộn. Một vị giấu giếm, một vị không giấu giếm. Vị nào giấu giếm, nên khuyên vị ấy sám hối tội dukkaṭa (tác ác) và nên ban cho hành phạt parivāsa theo như đã được che giấu đến vị ấy. Hành phạt mānatta nên được ban cho đến cả hai vị.
[559] Hai vị tỳ khưu phạm tội lẫn lộn. Hai vị có quan điểm là tội lẫn lộn trong tội lẫn lộn. Một vị giấu giếm, một vị không giấu giếm. Vị nào giấu giếm, nên khuyên vị ấy sám hối tội dukkaṭa (tác ác) và nên ban cho hành phạt parivāsa theo như đã được che giấu đến vị ấy. Hành phạt mānatta nên được ban cho đến cả hai vị.
[560] Hai vị tỳ khưu phạm tội nhẹ (suddhakaṃ).[3] Hai vị có quan điểm là saṅghādisesa trong tội nhẹ. Một vị giấu giếm, một vị không giấu giếm. Vị nào giấu giếm, nên khuyên vị ấy sám hối tội dukkaṭa (tác ác). Cả hai vị nên được xử trí theo Pháp.
[561] Hai vị tỳ khưu phạm tội nhẹ. Hai vị có quan điểm là tội nhẹ trong tội nhẹ. Một vị giấu giếm, một vị không giấu giếm. Vị nào giấu giếm, nên khuyên vị ấy sám hối tội dukkaṭa (tác ác). Cả hai vị nên được xử trí theo Pháp.
[562] Hai vị tỳ khưu phạm tội saṅghādisesa. Hai vị có quan điểm là tội saṅghādisesa trong tội saṅghādisesa. Một vị (nghĩ rằng): “Ta sẽ trình báo;” vị kia (nghĩ rằng): “Ta sẽ không trình báo.” Vị ấy giấu giếm vào canh thứ nhất, giấu giếm vào canh thứ nhì, giấu giếm vào canh thứ ba, khi hừng đông đã ló dạng thì tội đã được giấu giếm. Vị nào giấu giếm, nên khuyên vị ấy sám hối tội dukkaṭa (tác ác) và nên ban cho hành phạt parivāsa theo như đã được che giấu đến vị ấy. Hành phạt mānatta nên được ban cho đến cả hai vị.
[563] Hai vị tỳ khưu phạm tội saṅghādisesa. Hai vị có quan điểm là tội saṅghādisesa trong tội saṅghādisesa. Hai vị trong khi đi (bàn bạc rằng): “Chúng ta sẽ trình báo.” Trên đường đi, pháp giả dối sanh khởi ở một vị (nghĩ rằng): “Ta sẽ không trình báo.” Vị ấy giấu giếm vào canh thứ nhất, giấu giếm vào canh thứ nhì, giấu giếm vào canh thứ ba, khi hừng đông đã ló dạng thì tội đã được giấu giếm. Vị nào giấu giếm, nên khuyên vị ấy sám hối tội dukkaṭa (tác ác) và nên ban cho hành phạt parivāsa theo như đã được che giấu đến vị ấy. Hành phạt mānatta nên được ban cho đến cả hai vị.
[564] Hai vị tỳ khưu phạm tội saṅghādisesa. Hai vị có quan điểm là tội saṅghādisesa trong tội saṅghādisesa. Hai vị bị điên. Về sau, khi hai vị hết bị điên, một vị giấu giếm, một vị không giấu giếm. Vị nào giấu giếm, nên khuyên vị ấy sám hối tội dukkaṭa (tác ác) và nên ban cho hành phạt parivāsa theo như đã được che giấu đến vị ấy. Hành phạt mānatta nên được ban cho đến cả hai vị.
[565] Hai vị tỳ khưu phạm tội saṅghādisesa. Trong khi giới bổn Pātimokkha được đọc tụng, hai vị phát biểu như vầy:
– Cho đến hôm nay chúng tôi mới biết được rằng: “Nghe nói pháp này cũng được truyền lại trong giới bổn (suttāgato), được chứa đựng trong giới bổn (suttapariyāpanno) và được đưa ra đọc tụng vào mỗi nửa tháng.”
Hai vị có quan điểm là tội saṅghādisesa trong tội saṅghādisesa. Một vị giấu giếm, một vị không giấu giếm. Vị nào giấu giếm, nên khuyên vị ấy sám hối tội dukkaṭa (tác ác) và nên ban cho hành phạt parivāsa theo như đã được che giấu đến vị ấy. Hành phạt mānatta nên được ban cho đến cả hai vị.
[566] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa: được xác định cũng có, chưa được xác định cũng có, cùng một tội danh cũng có, khác tội danh cũng có, cùng nhóm phân loại cũng có, khác nhóm phân loại cũng có, riêng biệt cũng có, có liên quan cũng có. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy đến vị ấy. Trong lúc thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy lại phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội. Hội chúng cho vị ấy, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của các tội, và ban cho hành phạt parivāsa kết hợp đúng Pháp bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì, rồi ban cho hành phạt mānatta không đúng Pháp, rồi giải tội không đúng Pháp. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy không được trong sạch với các tội ấy.
[567] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa: được xác định cũng có, chưa được xác định cũng có, cùng một tội danh cũng có, khác tội danh cũng có, cùng nhóm phân loại cũng có, khác nhóm phân loại cũng có, riêng biệt cũng có, có liên quan cũng có. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy đến vị ấy. Trong lúc thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy lại phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định, có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội. Hội chúng cho vị ấy, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của các tội, và ban cho hành phạt parivāsa kết hợp đúng Pháp bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì, rồi ban cho hành phạt mānatta không đúng Pháp, và giải tội không đúng Pháp. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy không được trong sạch với các tội ấy.
[568] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa: được xác định cũng có, chưa được xác định cũng có, cùng một tội danh cũng có, khác tội danh cũng có, cùng nhóm phân loại cũng có, khác nhóm phân loại cũng có, riêng biệt cũng có, có liên quan cũng có. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy đến vị ấy. Trong lúc thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy lại phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định, có che giấu và không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội. Hội chúng cho vị ấy, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của các tội, và ban cho hành phạt parivāsa kết hợp đúng Pháp bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì, rồi ban cho hành phạt mānatta không đúng Pháp, và giải tội không đúng Pháp. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy không được trong sạch với các tội ấy.
[569] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa: được xác định cũng có, chưa được xác định cũng có, cùng một tội danh cũng có, khác tội danh cũng có, cùng nhóm phân loại cũng có, khác nhóm phân loại cũng có, riêng biệt cũng có, có liên quan cũng có. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy đến vị ấy. Trong lúc thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy lại phạm nhiều tội saṅghādisesa chưa được xác định, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội. Hội chúng cho vị ấy, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của các tội, và ban cho hành phạt parivāsa kết hợp đúng Pháp bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì, rồi ban cho hành phạt mānatta không đúng Pháp, và giải tội không đúng Pháp. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy không được trong sạch với các tội ấy.
[570] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa: được xác định cũng có, chưa được xác định cũng có, cùng một tội danh cũng có, khác tội danh cũng có, cùng nhóm phân loại cũng có, khác nhóm phân loại cũng có, riêng biệt cũng có, có liên quan cũng có. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy đến vị ấy. Trong lúc thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy lại phạm nhiều tội saṅghādisesa chưa được xác định, có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội. Hội chúng cho vị ấy, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của các tội, và ban cho hành phạt parivāsa kết hợp đúng Pháp bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì, rồi ban cho hành phạt mānatta không đúng Pháp, và giải tội không đúng Pháp. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy không được trong sạch với các tội ấy.
[571] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa: được xác định cũng có, chưa được xác định cũng có, cùng một tội danh cũng có, khác tội danh cũng có, cùng nhóm phân loại cũng có, khác nhóm phân loại cũng có, riêng biệt cũng có, có liên quan cũng có. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy đến vị ấy. Trong lúc thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy lại phạm nhiều tội saṅghādisesa chưa được xác định, có che giấu và không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội. Hội chúng cho vị ấy, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của các tội, và ban cho hành phạt parivāsa kết hợp đúng Pháp bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì, rồi ban cho hành phạt mānatta không đúng Pháp, và giải tội không đúng Pháp. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy không được trong sạch với các tội ấy.
[572] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa: được xác định cũng có, chưa được xác định cũng có, cùng một tội danh cũng có, khác tội danh cũng có, cùng nhóm phân loại cũng có, khác nhóm phân loại cũng có, riêng biệt cũng có, có liên quan cũng có. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy đến vị ấy. Trong lúc thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy lại phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định và chưa được xác định, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội. Hội chúng cho vị ấy, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của các tội, và ban cho hành phạt parivāsa kết hợp đúng Pháp bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì, rồi ban cho hành phạt mānatta không đúng Pháp, và giải tội không đúng Pháp. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy không được trong sạch với các tội ấy.
[573] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa: được xác định cũng có, chưa được xác định cũng có, cùng một tội danh cũng có, khác tội danh cũng có, cùng nhóm phân loại cũng có, khác nhóm phân loại cũng có, riêng biệt cũng có, có liên quan cũng có. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy đến vị ấy. Trong lúc thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy lại phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định và chưa được xác định, có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội. Hội chúng cho vị ấy, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của các tội, và ban cho hành phạt parivāsa kết hợp đúng Pháp bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì, rồi ban cho hành phạt mānatta không đúng Pháp, và giải tội không đúng Pháp. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy không được trong sạch với các tội ấy.
[574] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa: được xác định cũng có, chưa được xác định cũng có, cùng một tội danh cũng có, khác tội danh cũng có, cùng nhóm phân loại cũng có, khác nhóm phân loại cũng có, riêng biệt cũng có, có liên quan cũng có. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy đến vị ấy. Trong lúc thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy lại phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định và chưa được xác định, có che giấu và không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội. Hội chúng cho vị ấy, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của các tội, và ban cho hành phạt parivāsa kết hợp đúng Pháp bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì, rồi ban cho hành phạt mānatta không đúng Pháp, và giải tội không đúng Pháp. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy không được trong sạch với các tội ấy.
Dứt chín trường hợp không được trong sạch từ căn bản.
[575] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa: được xác định cũng có, chưa được xác định cũng có, …(như trên)… riêng biệt cũng có, có liên quan cũng có. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy đến vị ấy. Trong lúc thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy lại phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định, không có che giấu. …(như trên)… được xác định, có che giấu. …(như trên)… được xác định, có che giấu và không có che giấu. …(như trên)… Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội. Hội chúng cho vị ấy, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của các tội, và ban cho hành phạt parivāsa kết hợp đúng Pháp bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì, rồi ban cho hành phạt mānatta đúng Pháp, và giải tội đúng Pháp. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy được trong sạch với các tội ấy.
[576] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa: được xác định cũng có, chưa được xác định cũng có, …(như trên)… riêng biệt cũng có, có liên quan cũng có. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy đến vị ấy. Trong lúc thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy lại phạm nhiều tội saṅghādisesa chưa được xác định, không có che giấu. …(như trên)… chưa được xác định, có che giấu. …(như trên)… chưa được xác định, có che giấu và không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội. Hội chúng cho vị ấy, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của các tội, và ban cho hành phạt parivāsa kết hợp đúng Pháp bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì, rồi ban cho hành phạt mānatta đúng Pháp, và giải tội đúng Pháp. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy được trong sạch với các tội ấy.
[577] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa: được xác định cũng có, chưa được xác định cũng có, …(như trên)… riêng biệt cũng có, có liên quan cũng có. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy đến vị ấy. Trong lúc thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy lại phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định và chưa được xác định, không có che giấu. …(như trên)… được xác định và chưa được xác định, có che giấu. …(như trên)… được xác định và chưa được xác định, có che giấu và không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội. Hội chúng cho vị ấy, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của các tội, và ban cho hành phạt parivāsa kết hợp đúng Pháp bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì, rồi ban cho hành phạt mānatta đúng Pháp, và giải tội đúng Pháp. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy được trong sạch với các tội ấy.
Dứt chín trường hợp được trong sạch từ căn bản.
[578]Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định cũng có, chưa được xác định cũng có, …(như trên)…, riêng biệt cũng có, có liên quan cũng có. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy đến vị ấy. Trong lúc thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy lại phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội. Hội chúng cho vị ấy, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của các tội, và ban cho hành phạt parivāsa kết hợp không đúng Pháp bằng hành sự không đúng Pháp, có thể sửa đổi, không đáng được duy trì. Trong khi biết rằng: “Ta đang thực hành parivāsa,” dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy lại phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định, không có che giấu. Tồn tại trên nền tảng đó, vị ấy nhớ lại các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội trước đây và nhớ lại các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội khác. Vị ấy (suy nghĩ) như sau: “Ta đã phạm nhiều tội saṅghādisesa: được xác định cũng có, chưa được xác định cũng có, …(như trên)… riêng biệt cũng có, có liên quan cũng có. Ta đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy đến ta đây. Trong lúc thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, ta đây đã phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, ta đây đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội. Hội chúng đã cho ta đây, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của các tội, và đã ban cho hành phạt parivāsa kết hợp không đúng Pháp bằng hành sự không đúng Pháp, có thể sửa đổi, không đáng được duy trì. Trong khi biết rằng: ‘Ta đang thực hành parivāsa,’ dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, ta đây đã phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định, không có che giấu. Tồn tại trên nền tảng đó, ta đây nhớ lại các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội trước đây và nhớ lại các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội khác, hay là ta nên cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội trước đây và của các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội khác, (nên cầu xin) hành phạt parivāsa kết hợp đúng Pháp bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì, (nên cầu xin) hành phạt mānatta đúng Pháp, và (nên cầu xin) sự giải tội đúng Pháp?” Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừngcủa các tội trước đây và của các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội khác, (cầu xin) hành phạt parivāsa kết hợp đúng Pháp bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì, (cầu xin) hành phạt mānatta đúng Pháp, và (cầu xin) sự giải tội đúng Pháp. Hội chúng cho vị ấy được (thực hành) trở lại từ đầu của các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội trước đây và của các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội khác, và ban cho hành phạt parivāsa kết hợp đúng Pháp bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì, rồi ban cho hành phạt mānatta đúng Pháp, và giải tội đúng Pháp. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy được trong sạch với các tội ấy.
[579] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa: được xác định cũng có, chưa được xác định cũng có, …(như trên)… riêng biệt cũng có, có liên quan cũng có. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy đến vị ấy. Trong lúc thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy lại phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định, có che giấu. …(như trên)… được xác định, có che giấu và không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội. Hội chúng cho vị ấy, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của các tội, và ban cho hành phạt parivāsa kết hợp không đúng Pháp bằng hành sự không đúng Pháp, có thể sửa đổi, không đáng được duy trì. Trong khi biết rằng: “Ta đang thực hành parivāsa,” dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy lại phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định, có che giấu và không có che giấu. Tồn tại trên nền tảng đó, vị ấy nhớ lại các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội trước đây và nhớ lại các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội khác. Vị ấy (suy nghĩ) như sau: “Ta đã phạm nhiều tội saṅghādisesa: được xác định cũng có, chưa được xác định cũng có, …(như trên)… riêng biệt cũng có, có liên quan cũng có. Ta đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy đến ta đây. Trong lúc thực hành parivāsa, dầu ở vào giai đoạn giữa chừng, ta đây đã phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định, có che giấu và không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, ta đây đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội. Hội chúng đã cho ta đây, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của các tội, và đã ban cho hành phạt parivāsa kết hợp không đúng Pháp bằng hành sự không đúng Pháp, có thể sửa đổi, không đáng được duy trì. Trong khi biết rằng: ‘Ta đang thực hành parivāsa,’ dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, ta đây đã phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định, có che giấu và không có che giấu. Tồn tại trên nền tảng đó, ta đây nhớ lại các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội trước đây và nhớ lại các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội khác, hay là ta nên cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội trước đây và của các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội khác, (nên cầu xin) hành phạt parivāsa kết hợp đúng Pháp bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì, (nên cầu xin) hành phạt mānatta đúng Pháp, và (nên cầu xin) sự giải tội đúng Pháp?” Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừngcủa các tội trước đây và của các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội khác, (cầu xin) sự hành parivāsa kết hợp đúng Pháp bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì, (cầu xin) hành phạt mānatta đúng Pháp, và (cầu xin) sự giải tội đúng Pháp. Hội chúng ban cho vị ấy được (thực hành) trở lại từ đầu của các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội trước đây và của các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội khác, và ban cho hành phạt parivāsa kết hợp đúng Pháp bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì, rồi ban cho hành phạt mānatta đúng Pháp, và giải tội đúng Pháp. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy được trong sạch với các tội ấy.
[580] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa: được xác định cũng có, chưa được xác định cũng có, cùng một tội danh cũng có, khác tội danh cũng có, cùng nhóm phân loại cũng có, khác nhóm phân loại cũng có, riêng biệt cũng có, có liên quan cũng có. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy đến vị ấy. Trong lúc thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy lại phạm nhiều tội saṅghādisesa chưa được xác định, không có che giấu. …(như trên)… chưa được xác định, có che giấu. …(như trên)… chưa được xác định, có che giấu và không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội. Hội chúng cho vị ấy, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của các tội, và ban cho hành phạt parivāsa kết hợp không đúng Pháp bằng hành sự không đúng Pháp, có thể sửa đổi, không đáng được duy trì. Trong khi biết rằng: “Ta đang thực hành parivāsa,”…(như trên)… ban cho hành phạt parivāsa kết hợp đúng Pháp, rồi ban cho hành phạt mānatta đúng Pháp, và giải tội đúng Pháp. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy được trong sạch với các tội ấy.
[581] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa: được xác định cũng có, chưa được xác định cũng có, …(như trên)… riêng biệt cũng có, có liên quan cũng có. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy đến vị ấy. Trong lúc thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy lại phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định và chưa được xác định, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội. Hội chúng cho vị ấy, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của các tội, và ban cho hành phạt parivāsa kết hợp không đúng Pháp bằng hành sự không đúng Pháp, có thể sửa đổi, không đáng được duy trì. Vị ấy, trong khi biết rằng: “Ta đang thực hành parivāsa” …(như trên)… ban cho hành phạt parivāsa kết hợp đúng Pháp, rồi ban cho hành phạt mānatta đúng Pháp, và giải tội đúng Pháp. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy được trong sạch với các tội ấy.
[582] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa: được xác định cũng có, chưa được xác định cũng có, …(như trên)… riêng biệt cũng có, có liên quan cũng có. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy đến vị ấy. Trong lúc thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy lại phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định và chưa được xác định, có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội. Hội chúng cho vị ấy, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của các tội, và ban cho hành phạt parivāsa kết hợp không đúng Pháp bằng hành sự không đúng Pháp, có thể sửa đổi, không đáng được duy trì. Trong khi biết rằng: “Ta đang thực hành parivāsa,” dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy lại phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định và chưa được xác định, có che giấu. Tồn tại trên nền tảng đó, vị ấy nhớ lại các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội trước đây và nhớ lại các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội khác. Vị ấy (suy nghĩ) như sau: “Ta đã phạm nhiều tội saṅghādisesa: được xác định cũng có, chưa được xác định cũng có, …(như trên)… riêng biệt cũng có, có liên quan cũng có. Ta đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy đến ta đây. Trong lúc thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, ta đây đã phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định và chưa được xác định, có che giấu. Ta đây đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng. Hội chúng đã cho ta đây, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của các tội, và đã ban cho hành phạt parivāsa kết hợp không đúng Pháp bằng hành sự không đúng Pháp, có thể sửa đổi, không đáng được duy trì. Trong khi biết rằng: ‘Ta đang thực hành parivāsa,’ dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, ta đây đã phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định và chưa được xác định, có che giấu. Tồn tại trên nền tảng đó, ta đây nhớ lại các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội trước đây và nhớ lại các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội khác, hay là ta nên cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội trước đây và của các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội khác, (nên cầu xin) hành phạt parivāsa kết hợp đúng Pháp bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì, (nên cầu xin) hành phạt mānatta đúng Pháp, và (nên cầu xin) sự giải tội đúng Pháp?” Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừngcủa các tội trước đây và của các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội khác, (cầu xin) sự hành parivāsa kết hợp đúng Pháp bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì, (cầu xin) hành phạt mānatta đúng Pháp, và (cầu xin) sự giải tội đúng Pháp. Hội chúng ban cho vị ấy được (thực hành) trở lại từ đầu của các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội trước đây và của các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội khác, và ban cho hành phạt parivāsa kết hợp đúng Pháp bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì, rồi ban cho hành phạt mānatta đúng Pháp, và giải tội đúng Pháp. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy được trong sạch với các tội ấy.
[583] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa: được xác định cũng có, chưa được xác định cũng có, …(như trên)… riêng biệt cũng có, có liên quan cũng có. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy đến vị ấy. Trong lúc thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy lại phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định và chưa được xác định, có che giấu và không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội. Hội chúng cho vị ấy, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của các tội, và ban cho hành phạt parivāsa kết hợp không đúng Pháp bằng hành sự không đúng Pháp, có thể sửa đổi, không đáng được duy trì. Trong khi biết rằng: “Ta đang thực hành parivāsa,” dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy lại phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định và chưa được xác định, có che giấu và không có che giấu. Tồn tại trên nền tảng đó, vị ấy nhớ lại các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội trước đây và nhớ lại các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội khác. Vị ấy (suy nghĩ) như sau: “Ta đã phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định cũng có, chưa được xác định cũng có, …(như trên)…, riêng biệt cũng có, có liên quan cũng có. Ta đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy đến ta đây. Trong lúc thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, ta đây đã phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định và chưa được xác định, có che giấu và không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, ta đây đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội. Hội chúng đã cho ta đây, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của các tội, và đã ban cho hành phạt parivāsa kết hợp không đúng Pháp bằng hành sự không đúng Pháp, có thể sửa đổi, không đáng được duy trì. Trong khi biết rằng: ‘Ta đang thực hành parivāsa,’ dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, ta đây đã phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định và chưa được xác định, có che giấu và không có che giấu. Tồn tại trên nền tảng đó, ta nhớ lại các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội trước đây và nhớ lại các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội khác, hay là ta nên cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội trước đây và của các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội khác, (nên cầu xin) hành phạt parivāsa kết hợp đúng Pháp bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì, (nên cầu xin) hành phạt mānatta đúng Pháp, và (nên cầu xin) sự giải tội đúng Pháp?” Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừngcủa các tội trước đây và của các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội khác, (cầu xin) hành phạt parivāsa kết hợp đúng Pháp bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì, (cầu xin) hành phạt mānatta đúng Pháp, và (cầu xin) sự giải tội đúng Pháp. Hội chúng ban cho vị ấy được (thực hành) trở lại từ đầu của các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội trước đây và của các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội khác, và ban cho hành phạt parivāsa kết hợp đúng Pháp bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì, rồi ban cho hành phạt mānatta đúng Pháp, và giải tội đúng Pháp. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy được trong sạch với các tội ấy.
Dứt Chương Tích Lũy Tội là chương thứ ba.
*******
Tóm lược chương này:
[584]
Không che giấu một ngày,
hai ngày, rồi ba ngày,
bốn ngày, và năm ngày,
nửa tháng, hoặc mười ngày,
bậc Đại Sĩ thuyết tội,
tội nhẹ, dầu hoàn tục
các tội vẫn xác định.
Có hai vị tỳ khưu
trường hợp này suy nghĩ
cả hai đều nghi ngờ,
nghĩ rằng tội lẫn lộn,
lẫn lộn và không lẫn,
suy nghĩ rằng tội nặng,
cũng thế nghĩ tội nhẹ,
rồi một vị giấu giếm,
vị kia không giấu giếm,
và rồi pháp giả dối,
bị điên, và sám hối,
mười tám lại từ đầu,
và rồi được trong sạch.
Các lời thuyết giảng này
để tồn tại Chánh Pháp
chính là sự ban cho
của các giáo thọ sư
của nhóm Vibhajja
thường trú ngôi Đại Tự
(Mahāvihāra)
làm rạng ngời hòn đảo
tên Tambapaṇṇi.
[1] Bản dịch Anh ngữ của Rhydavis và Oldenberg chú thích rằng: Buddhaghosa giải thích số lượng đêm thực hành suddhantaparivāsa nên tính từ lúc tu lên bậc trên đến ngày hôm ấy. Cách thức đang được áp dụng là xác định thời gian được trong sạch sau ngày tu lên bậc trên rồi thực hành suddhantaparivāsa cho thời gian còn lại. Lối giải thích này phù hợp với ý nghĩa của từ suddhanta = suddha + anta = thời điểm cuối khi được trong sạch
[2] Các tội saṅghādisesa 1, 5, 12, 13 là vavatthitā. Các nhóm tội (2, 3, 4), (6, 7, 8), (9, 10, 11) là sambhinnā. Sabhāgā và visabhāgā cũng tương tự tùy theo phương pháp phân loại.
[3] Ngài Buddhaghosa giải thích rằng sau tội saṅghādisesa là nhóm các tội nhẹ (lahukāpatti).
IV. CHƯƠNG DÀN XẾP
(SAMATHAKKHANDHAKAṂ)
1. HÀNH XỬ LUẬT VỚI SỰ HIỆN DIỆN (SAMMUKHĀVINAYO):
[585] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư thực thi các hành sự khiển trách, chỉ dạy, xua đuổi, hòa giải, án treo đối với các vị tỳ khưu không có hiện diện. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại thực thi các hành sự khiển trách, chỉ dạy, xua đuổi, hòa giải, án treo cho các tỳ khưu không có hiện diện?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
– Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu nhóm Lục Sư thực thi các hành sự khiển trách, chỉ dạy, xua đuổi, hòa giải, án treo cho các tỳ khưu không có hiện diện, có đúng không vậy?
– Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
– Này các tỳ khưu, thật không đúng đắn cho những kẻ rồ dại ấy, thật không hợp lẽ, không tốt đẹp, không xứng pháp sa-môn, không được phép, không nên làm. Này các tỳ khưu, vì sao những kẻ rồ dại ấy lại thực thi các hành sự khiển trách, chỉ dạy, xua đuổi, hòa giải, án treo cho các tỳ khưu không có hiện diện? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)…
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, không nên thực thi hành sự khiển trách, hoặc chỉ dạy, hoặc xua đuổi, hoặc hòa giải, hoặc án treo cho các tỳ khưu không có hiện diện; vị nào thực thi thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[586] Một người nói sai Pháp, nhiều người nói sai Pháp, hội chúng nói sai Pháp. Một người nói đúng Pháp, nhiều người nói đúng Pháp, hội chúng nói đúng Pháp.
[587] Một người nói sai Pháp khiến cho một người nói đúng Pháp biết được, khiến cho nhận thức được, khiến cho thấy được, khiến cho thấy rõ, khiến cho hiểu được, khiến cho hiểu rõ: “Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời dạy của bậc Đạo Sư, hãy chọn lấy điều này, hãy chấp nhận điều này.” Nếu sự tranh tụng ấy được giải quyết như thế là được giải quyết không đúng Pháp theo hình thức của cách hành xử Luật với sự hiện diện.
Một người nói sai Pháp khiến cho nhiều người nói đúng Pháp biết được, khiến cho nhận thức được, khiến cho thấy được, khiến cho thấy rõ, khiến cho hiểu được, khiến cho hiểu rõ: “Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời dạy của bậc Đạo Sư, hãy chọn lấy điều này, hãy chấp nhận điều này.” Nếu sự tranh tụng ấy được giải quyết như thế là được giải quyết không đúng Pháp theo hình thức của cách hành xử Luật với sự hiện diện.
Một người nói sai Pháp khiến cho hội chúng nói đúng Pháp biết được, khiến cho nhận thức được, khiến cho thấy được, khiến cho thấy rõ, khiến cho hiểu được, khiến cho hiểu rõ: “Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời dạy của bậc Đạo Sư, hãy chọn lấy điều này, hãy chấp nhận điều này.” Nếu sự tranh tụng ấy được giải quyết như thế là được giải quyết không đúng Pháp theo hình thức của cách hành xử Luật với sự hiện diện.
Nhiều người nói sai Pháp khiến cho một người nói đúng Pháp biết được, khiến cho nhận thức được, khiến cho thấy được, khiến cho thấy rõ, khiến cho hiểu được, khiến cho hiểu rõ: “Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời dạy của bậc Đạo Sư, hãy chọn lấy điều này, hãy chấp nhận điều này.” Nếu sự tranh tụng ấy được giải quyết như thế là được giải quyết không đúng Pháp theo hình thức của cách hành xử Luật với sự hiện diện.
Nhiều người nói sai Pháp khiến cho nhiều người nói đúng Pháp biết được, khiến cho nhận thức được, khiến cho thấy được, khiến cho thấy rõ, khiến cho hiểu được, khiến cho hiểu rõ: “Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời dạy của bậc Đạo Sư, hãy chọn lấy điều này, hãy chấp nhận điều này.” Nếu sự tranh tụng ấy được giải quyết như thế là được giải quyết không đúng Pháp theo hình thức của cách hành xử Luật với sự hiện diện.
Nhiều người nói sai Pháp khiến cho hội chúng nói đúng Pháp biết được, khiến cho nhận thức được, khiến cho thấy được, khiến cho thấy rõ, khiến cho hiểu được, khiến cho hiểu rõ: “Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời dạy của bậc Đạo Sư, hãy chọn lấy điều này, hãy chấp nhận điều này.” Nếu sự tranh tụng ấy được giải quyết như thế là được giải quyết không đúng Pháp theo hình thức của cách hành xử Luật với sự hiện diện.
Hội chúng nói sai Pháp khiến cho một người nói đúng Pháp biết được, khiến cho nhận thức được, khiến cho thấy được, khiến cho thấy rõ, khiến cho hiểu được, khiến cho hiểu rõ: “Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời dạy của bậc Đạo Sư, hãy chọn lấy điều này, hãy chấp nhận điều này.” Nếu sự tranh tụng ấy được giải quyết như thế là được giải quyết không đúng Pháp theo hình thức của cách hành xử Luật với sự hiện diện.
Hội chúng nói sai Pháp khiến cho nhiều người nói đúng Pháp biết được, khiến cho nhận thức được, khiến cho thấy được, khiến cho thấy rõ, khiến cho hiểu được, khiến cho hiểu rõ: “Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời dạy của bậc Đạo Sư, hãy chọn lấy điều này, hãy chấp nhận điều này.” Nếu sự tranh tụng ấy được giải quyết như thế là được giải quyết không đúng Pháp theo hình thức của cách hành xử Luật với sự hiện diện.
Hội chúng nói sai Pháp khiến cho hội chúng nói đúng Pháp biết được, khiến cho nhận thức được, khiến cho thấy được, khiến cho thấy rõ, khiến cho hiểu được, khiến cho hiểu rõ: “Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời dạy của bậc Đạo Sư, hãy chọn lấy điều này, hãy chấp nhận điều này.” Nếu sự tranh tụng ấy được giải quyết như thế là được giải quyết không đúng Pháp theo hình thức của cách hành xử Luật với sự hiện diện.
Dứt chín trường hợp của nửa phần tối.
[588] Một người nói đúng Pháp khiến cho một người nói sai Pháp biết được, khiến cho nhận thức được, khiến cho thấy được, khiến cho thấy rõ, khiến cho hiểu được, khiến cho hiểu rõ: “Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời dạy của bậc Đạo Sư, hãy chọn lấy điều này, hãy chấp nhận điều này.” Nếu sự tranh tụng ấy được giải quyết như thế là được giải quyết đúng Pháp theo cách hành xử Luật với sự hiện diện.
Một người nói đúng Pháp khiến cho nhiều người nói sai Pháp biết được, khiến cho nhận thức được, khiến cho thấy được, khiến cho thấy rõ, khiến cho hiểu được, khiến cho hiểu rõ: “Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời dạy của bậc Đạo Sư, hãy chọn lấy điều này, hãy chấp nhận điều này.” Nếu sự tranh tụng ấy được giải quyết như thế là được giải quyết đúng Pháp theo cách hành xử Luật với sự hiện diện.
Một người nói đúng Pháp khiến cho hội chúng nói sai Pháp biết được, khiến cho nhận thức được, khiến cho thấy được, khiến cho thấy rõ, khiến cho hiểu được, khiến cho hiểu rõ: “Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời dạy của bậc Đạo Sư, hãy chọn lấy điều này, hãy chấp nhận điều này.” Nếu sự tranh tụng ấy được giải quyết như thế là được giải quyết đúng Pháp theo cách hành xử Luật với sự hiện diện.
Nhiều người nói đúng Pháp khiến cho một người nói sai Pháp biết được, khiến cho nhận thức được, khiến cho thấy được, khiến cho thấy rõ, khiến cho hiểu được, khiến cho hiểu rõ: “Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời dạy của bậc Đạo Sư, hãy chọn lấy điều này, hãy chấp nhận điều này.” Nếu sự tranh tụng ấy được giải quyết như thế là được giải quyết đúng Pháp theo cách hành xử Luật với sự hiện diện.
Nhiều người nói đúng Pháp khiến cho nhiều người nói sai Pháp biết được, khiến cho nhận thức được, khiến cho thấy được, khiến cho thấy rõ, khiến cho hiểu được, khiến cho hiểu rõ: “Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời dạy của bậc Đạo Sư, hãy chọn lấy điều này, hãy chấp nhận điều này.” Nếu sự tranh tụng ấy được giải quyết như thế là được giải quyết đúng Pháp theo cách hành xử Luật với sự hiện diện.
Nhiều người nói đúng Pháp khiến cho hội chúng nói sai Pháp biết được, khiến cho nhận thức được, khiến cho thấy được, khiến cho thấy rõ, khiến cho hiểu được, khiến cho hiểu rõ: “Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời dạy của bậc Đạo Sư, hãy chọn lấy điều này, hãy chấp nhận điều này.” Nếu sự tranh tụng ấy được giải quyết như thế là được giải quyết đúng Pháp theo cách hành xử Luật với sự hiện diện.
Hội chúng nói đúng Pháp khiến cho một người nói sai Pháp biết được, khiến cho nhận thức được, khiến cho thấy được, khiến cho thấy rõ, khiến cho hiểu được, khiến cho hiểu rõ: “Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời dạy của bậc Đạo Sư, hãy chọn lấy điều này, hãy chấp nhận điều này.” Nếu sự tranh tụng ấy được giải quyết như thế là được giải quyết đúng Pháp theo cách hành xử Luật với sự hiện diện.
Hội chúng nói đúng Pháp khiến cho nhiều người nói sai Pháp biết được, khiến cho nhận thức được, khiến cho thấy được, khiến cho thấy rõ, khiến cho hiểu được, khiến cho hiểu rõ: “Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời dạy của bậc Đạo Sư, hãy chọn lấy điều này, hãy chấp nhận điều này.” Nếu sự tranh tụng ấy được giải quyết như thế là được giải quyết đúng Pháp theo cách hành xử Luật với sự hiện diện.
Hội chúng nói đúng Pháp khiến cho hội chúng nói sai Pháp biết được, khiến cho nhận thức được, khiến cho thấy được, khiến cho thấy rõ, khiến cho hiểu được, khiến cho hiểu rõ: “Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời dạy của bậc Đạo Sư, hãy chọn lấy điều này, hãy chấp nhận điều này.” Nếu sự tranh tụng ấy được giải quyết như thế là được giải quyết đúng Pháp theo cách hành xử Luật với sự hiện diện.
Dứt chín trường hợp của nửa phần sáng.
2. HÀNH XỬ LUẬT BẰNG SỰ GHI NHỚ (SATIVINAYO):
[589] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại Rājagaha, Veḷuvana (Trúc Lâm), nơi nuôi dưỡng các con sóc. Vào lúc bấy giờ, phẩm vị A-la-hán đã được đại đức Dabba Mallaputta chứng đạt vào lúc bảy tuổi. Vị ấy đã thành đạt tất cả những gì vị đệ tử cần phải chứng đạt. Và đối với vị ấy, không có bất cứ việc gì cao thượng hơn cần phải làm hoặc sự tích lũy thêm (các việc) đã làm.
[590] Khi ấy, đại đức Dabba Mallaputta trong lúc thiền tịnh ở nơi thanh vắng có ý nghĩ suy tầm như vầy đã sanh khởi: “Phẩm vị A-la-hán đã được ta chứng đạt vào lúc bảy tuổi. Ta đã thành đạt tất cả những gì vị đệ tử cần phải chứng đạt. Và đối với ta, không có bất cứ việc gì cao thượng hơn cần phải làm hoặc sự tích lũy thêm (các việc) đã làm. Vậy ta nên thực hiện việc phục vụ gì cho hội chúng?” Rồi điều này đã khởi đến cho đại đức Dabba Mallaputta: “Hay là ta nên phân bố chỗ cư ngụ và sắp xếp các bữa ăn cho hội chúng?”
[591] Sau đó vào buổi tối, đại đức Dabba Mallaputta đã xuất khỏi thiền tịnh và đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, đại đức Dabba Mallaputta đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, trường hợp con trong lúc thiền tịnh ở nơi thanh vắng có ý nghĩ suy tầm như vầy đã sanh khởi: “Phẩm vị A-la-hán đã được ta chứng đạt vào lúc bảy tuổi. Ta đã thành đạt tất cả những gì vị đệ tử cần phải chứng đạt. Và đối với ta, không có bất cứ việc gì cao thượng hơn cần phải làm hoặc sự tích lũy thêm (các việc) đã làm. Vậy ta nên thực hiện việc phục vụ gì cho hội chúng?” Bạch ngài, rồi điều này đã khởi đến cho con: “Hay là ta nên phân bố chỗ cư ngụ và sắp xếp các bữa ăn cho hội chúng?” Bạch ngài, con muốn phân bố chỗ cư ngụ và sắp xếp các bữa ăn cho hội chúng.
– Này Dabba, tốt lắm, tốt lắm! Chính vì điều ấy ngươi hãy phân bố chỗ cư ngụ và sắp xếp các bữa ăn cho hội chúng.
– Bạch ngài, xin vâng. Đại đức Dabba Mallaputta đã đáp lời đức Thế Tôn.
[592] Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các vị tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, chính vì điều ấy hội chúng hãy chỉ định Dabba Mallaputta là vị phân bố chỗ trú ngụ và là vị sắp xếp các bữa ăn. Và này các tỳ khưu, nên chỉ định như vầy: Trước hết, Dabba cần được yêu cầu. Sau khi yêu cầu, hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên chỉ định đại đức Dabba Mallaputta là vị phân bố chỗ trú ngụ và là vị sắp xếp các bữa ăn. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Hội chúng chỉ định đại đức Dabba Mallaputta là vị phân bố chỗ trú ngụ và là vị sắp xếp các bữa ăn. Đại đức nào đồng ý việc chỉ định đại đức Dabba Mallaputta là vị phân bố chỗ trú ngụ và là vị sắp xếp các bữa ăn xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Đại đức Dabba Mallaputta đã được hội chúng chỉ định là vị phân bố chỗ trú ngụ và là vị sắp xếp các bữa ăn. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
[593] Và khi đã được chỉ định, đại đức Dabba Mallaputta phân bố chỗ trú ngụ chung một khu vực cho các tỳ khưu có cùng sở hành. Vị ấy phân bố chỗ trú ngụ chung một khu vực cho các tỳ khưu chuyên về Kinh (nghĩ rằng): “Các vị sẽ tụng đọc Kinh với nhau.” Vị ấy phân bố chỗ trú ngụ chung một khu vực cho các tỳ khưu rành rẽ về Luật (nghĩ rằng): “Các vị sẽ xác định về Luật với nhau.” Vị ấy phân bố chỗ trú ngụ chung một khu vực cho các tỳ khưu chuyên giảng Pháp (nghĩ rằng): “Các vị sẽ thảo luận về Pháp với nhau.” Vị ấy phân bố chỗ trú ngụ chung một khu vực cho các tỳ khưu chuyên thiền định (nghĩ rằng): “Các vị sẽ không quấy rầy lẫn nhau.” Vị ấy phân bố chỗ trú ngụ chung một khu vực cho các tỳ khưu chuyên nói chuyện thế tục, sinh hoạt có nhiều sự năng động về thân (nghĩ rằng): “Các đại đức này cũng sẽ yên ổn với thú vui ấy.” Còn các tỳ khưu đi đến vào buổi tối, vị ấy nhập thiền đề mục ánh sáng và phân bố chỗ trú ngụ cho các vị ấy bằng chính ánh sáng ấy. Cho nên các tỳ khưu cố ý đi đến vào buổi tối (nghĩ rằng): “Chúng ta sẽ chứng kiến sự kỳ diệu về thần thông của đại đức Dabba Mallaputta.” Sau khi đi đến gặp đại đức Dabba Mallaputta, các vị ấy nói như vầy:
– Này đại đức Dabba, hãy phân bố chỗ trú ngụ cho chúng tôi.
Đại đức Dabba Mallaputta nói với các vị ấy như vầy:
– Các đại đức thích chỗ nào? Tôi sẽ phân bố chỗ nào?
Các vị ấy cố ý đề cập các chỗ ở xa xôi:
– Này đại đức Dabba, hãy phân bố cho chúng tôi chỗ trú ngụ ở núi Gijjhakūṭa (Linh Thứu). Này đại đức Dabba, hãy phân bố cho chúng tôi chỗ trú ngụ ở khe núi Kẻ Cướp. Này đại đức Dabba, hãy phân bố cho chúng tôi chỗ trú ngụ ở sườn núi Isigili, chỗ tảng đá Đen. Này đại đức Dabba, hãy phân bố cho chúng tôi chỗ trú ngụ ở sườn núi Vebhāra, hang Sattapaṇṇa (Thất Diệp). Này đại đức Dabba, hãy phân bố cho chúng tôi chỗ trú ngụ ở Sītavana (Hàn Lâm), động Sappasoṇḍika. Này đại đức Dabba, hãy phân bố cho chúng tôi chỗ trú ngụ ở hẽm núi Gomaṭa. Này đại đức Dabba, hãy phân bố cho chúng tôi chỗ trú ngụ ở hẽm núi Tiṇḍuka. Này đại đức Dabba, hãy phân bố cho chúng tôi chỗ trú ngụ ở hẽm núi Kapota. Này đại đức Dabba, hãy phân bố cho chúng tôi chỗ trú ngụ ở khu vườn Tapoda. Này đại đức Dabba, hãy phân bố cho chúng tôi chỗ trú ngụ ở vườn xoài của Jīvaka. Này đại đức Dabba, hãy phân bố cho chúng tôi chỗ trú ngụ ở Maddakucchi, nơi vườn nai.
Đối với các vị ấy, đại đức Dabba Mallaputta đã nhập thiền đề mục ánh sáng và đi ở phía trước với ngón tay được thắp sáng. Chính nhờ ánh sáng ấy, các vị ấy đi theo sát ở phía sau đại đức Dabba Mallaputta. Đại đức Dabba Mallaputta phân bố chỗ trú ngụ cho các vị ấy như vầy:
– Đây là giường, đây là ghế, đây là nệm, đây là gối, đây là chỗ tiêu, đây là chỗ tiểu, đây là nước uống, đây là nước rửa, đây là gậy chống, đây là qui định của hội chúng: “Giờ này có thể đi vào. Giờ này có thể đi ra.”
Sau khi đã phân bố chỗ trú ngụ cho các vị ấy như thế, đại đức Daba Mallaputta quay trở về lại Veḷuvana.
[594] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka [1] chỉ là các vị mới tu và phước báu ít ỏi. Các vị ấy thường nhận được những chỗ trú ngụ kém thuộc về hội chúng và những bữa ăn tồi. Vào lúc bấy giờ, dân chúng ở Rājagaha mong muốn cúng dường đến các tỳ khưu trưởng lão thức ăn được chuẩn bị hoàn hảo gồm có bơ lỏng, dầu ăn, phần ăn ngon, và thường dâng đến các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka vật bình thường theo khả năng gồm có cơm tấm và món thứ hai là cháo chua. Các vị ấy khi đi thọ thực về sau bữa ăn thường hỏi các tỳ khưu trưởng lão rằng:
– Này các đại đức, trong nhà ăn các vị đã có thức gì? Các vị đã không có thức gì?
Một số trưởng lão trả lời như vầy:
– Này các đại đức, chúng tôi có bơ lỏng, có dầu ăn, có phần ăn ngon.
Các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka nói như vầy:
– Này các đại đức, chúng tôi đã không được gì cả, chỉ là vật bình thường theo khả năng gồm có cơm tấm và món thứ hai là cháo chua.
[595] Vào lúc bấy giờ, có vị gia chủ là người có bữa ăn ngon thường cúng dường đến hội chúng bữa ăn gồm bốn phần là bữa ăn thường lệ. Vị ấy cùng vợ và các con thường hiện diện và phục vụ ở nhà ăn. Họ dâng các vị này cơm, dâng các vị kia canh, dâng các vị nọ dầu ăn, và dâng các vị khác phần ăn ngon.
[596] Vào lúc bấy giờ, bữa ăn vào ngày hôm sau của vị gia chủ có bữa ăn ngon đã được sắp xếp cho các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka. Hôm ấy, vị gia chủ có bữa ăn ngon đã đi đến tu viện do công việc cần làm nào đó. Vị ấy đã đi đến gặp đại đức Dabba Mallaputta, sau khi đến đã đảnh lễ đại đức Dabba Mallaputta rồi ngồi xuống ở một bên. Đại đức Dabba Mallaputta đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho vị gia chủ có bữa ăn ngon đang ngồi một bên bằng bài Pháp thoại. Sau đó, khi đã được đại đức Dabba Mallaputta chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi bằng bài Pháp thoại, vị gia chủ có bữa ăn ngon đã nói với đại đức Dabba Mallaputta điều này:
– Thưa ngài, bữa ăn vào ngày mai ở nhà chúng tôi đã được sắp xếp cho vị nào?
– Này gia chủ, bữa ăn vào ngày mai ở nhà gia chủ đã được sắp xếp cho các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka.
Khi ấy, vị gia chủ có bữa ăn ngon đã không được hài lòng (nghĩ rằng): “Tại sao các tỳ khưu tồi lại thọ thực ở nhà của chúng ta?” rồi đã đi về nhà và dặn dò người tớ gái rằng:
– Này con, hãy xếp đặt chỗ ngồi ở nhà kho cho các vị đến thọ thực vào ngày mai và dâng cho họ cơm tấm và món thứ hai là cháo chua.
– Thưa chủ nhân, xin vâng. Người tớ gái ấy đã đáp lại vị gia chủ có bữa ăn ngon.
Khi ấy, các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka (bàn bạc rằng): “Này các đại đức, hôm qua bữa ăn của vị gia chủ là người có bữa ăn ngon đã được sắp xếp cho chúng ta. Vào ngày mai, vị gia chủ có bữa ăn ngon cùng vợ và các con sẽ hiện diện và phục vụ chúng ta. Họ sẽ dâng các vị này cơm, sẽ dâng các vị kia canh, sẽ dâng các vị nọ dầu ăn, và sẽ dâng các vị khác phần ăn ngon.” Do chính tâm vui mừng ấy, ban đêm các vị đã không ngủ được như ý.
Sau đó vào buổi sáng, các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka đã mặc y, cầm y bát, đi đến nhà của vị gia chủ có bữa ăn ngon. Cô tớ gái ấy đã nhìn thấy các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka từ đàng xa đang đi lại, sau khi thấy đã xếp đặt chỗ ngồi ở nhà kho và nói với các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka điều này:
- Thưa các ngài, xin hãy ngồi.
Khi ấy, các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka khởi ý rằng: “Chắn hẳn đến giờ này bữa ăn vẫn chưa hoàn tất nên chúng ta mới được cho ngồi ở nhà kho như thế này!” Sau đó, cô tớ gái ấy đã trở lại với cơm tấm và món thứ hai là cháo chua (nói rằng):
– Thưa các ngài, xin hãy thọ thực.
– Này chị, chúng tôi là các vị thọ nhận bữa ăn thường lệ.
– Tôi biết các ngài đại đức là các vị thọ nhận bữa ăn thường lệ. Tuy nhiên, chính ngày hôm qua tôi đã được gia chủ dặn dò rằng: “Hãy xếp đặt chỗ ngồi ở nhà kho cho các vị đến thọ thực vào ngày mai và dâng cho họ cơm tấm và món thứ hai là cháo chua.” Thưa các ngài, xin hãy thọ thực.
Khi ấy, các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka (bàn bạc rằng): “Này các đại đức, hôm qua vị gia chủ có bữa ăn ngon đã đi đến tu viện gặp Dabba Mallaputta. Chắc chắn rằng chúng ta đã bị Dabba Mallaputta ly gián với vị gia chủ!” Chính vì tâm bực bội ấy, các vị ấy đã không thọ thực được như ý. Sau đó, khi trở về từ chỗ thọ thực sau bữa ăn, các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka đã đi đến tu viện, bỏ rơi y bát, rồi ngồi xuống ôm đầu gối bằng y hai lớp (saṅghāṭipallatthikāya) ở phía bên ngoài cổng ra vào của tu viện, im lặng, xấu hổ, rút vai lại, mặt cúi xuống, trầm ngâm, không nói năng.
Khi ấy, tỳ khưu ni Mettiyā đã đi đến gặp các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka, sau khi đến đã nói với các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka điều này:
– Tôi xin chào các ngài đại đức.
Khi được nói như thế, các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka đã không đáp lại.
Đến lần thứ nhì, …(như trên)…
Đến lần thứ ba, tỳ khưu ni Mettiyā đã nói với các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka điều này:
– Tôi xin chào các ngài đại đức.
Đến lần thứ ba, các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka đã không đáp lại.
– Có phải tôi làm phật lòng các ngài đại đức? Tại sao các ngài đại đức không nói chuyện với tôi?
– Này cô ni, bởi vì cô vẫn dửng dưng như thế trong khi chúng tôi bị Dabba Mallaputta làm tổn hại.
– Thưa các ngài đại đức, tôi làm được điều gì?
– Này cô ni, nếu cô chịu làm thì ngay trong ngày hôm nay đức Thế Tôn có thể trục xuất Dabba Mallaputta.
– Thưa các ngài đại đức, tôi làm được điều gì? Tôi có thể làm điều gì?
– Này cô ni, cô hãy đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến hãy nói với đức Thế Tôn như vầy: “Bạch ngài, điều này là không đúng đắn, không hợp lý. Bạch ngài, chính ở quốc độ nào không có sự sợ hãi, không có tai họa, không có sầu khổ thì chính ở quốc độ ấy có sự sợ hãi, có tai họa, và có sầu khổ. Từ nơi nào gió lặng đi thì từ nơi ấy có bão tố. Con nghĩ rằng nước đã bùng cháy lên rồi; con đã bị ô nhục bởi ngài đại đức Dabba Mallaputta.”
– Thưa các ngài đại đức, xin vâng.
Rồi tỳ khưu ni Mettiyā nghe theo các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi đứng ở một bên. Khi đã đứng một bên, tỳ khưu ni Mettiyā đã nói với đức Thế Tôn điều này:
– Bạch ngài, điều này là không đúng đắn, không hợp lý. Bạch ngài, chính ở quốc độ nào không có sự sợ hãi, không có tai họa, không có sầu khổ thì chính ở quốc độ ấy có sự sợ hãi, có tai họa, và có sầu khổ. Từ nơi nào gió lặng đi thì từ nơi ấy có bão tố. Con nghĩ rằng nước đã bùng cháy lên rồi; con đã bị ô nhục bởi ngài đại đức Dabba Mallaputta.
[597] Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội chúng tỳ khưu lại và đã hỏi đại đức Dabba Mallaputta rằng:
– Này Dabba, ngươi có nhớ ngươi là kẻ đã làm việc như thế, giống như điều tỳ khưu ni này vừa nói không?
– Bạch ngài, con như thế nào đức Thế Tôn biết rõ mà.
Đến lần thứ nhì, đức Thế Tôn …(như trên)…
Đến lần thứ ba, đức Thế Tôn đã hỏi đại đức Dabba Mallaputta rằng:
– Này Dabba, ngươi có nhớ ngươi là kẻ đã làm việc như thế, giống như điều tỳ khưu ni này vừa nói không?
– Bạch ngài, con như thế nào đức Thế Tôn biết rõ mà.
– Này Dabba, các vị (dòng dõi) Dabba không phủ nhận như thế. Nếu ngươi có làm, hãy nói: “Có làm;” nếu ngươi không làm, hãy nói: “Không làm.”
– Bạch ngài, từ khi con được sanh ra, con không bao giờ thấy mình là kẻ tầm cầu việc đôi lứa ngay cả trong lúc ngủ mơ, huống gì là tỉnh thức.
Khi ấy, đức Thế Tôn đã bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, chính vì việc ấy các ngươi hãy trục xuất tỳ khưu ni Mettiyā và hãy tra hỏi các tỳ khưu này.
Nói xong điều ấy, đức Thế Tôn đã từ chỗ ngồi đứng dậy đi vào trú xá.
Sau đó, các tỳ khưu ấy đã trục xuất tỳ khưu ni Mettiyā. Khi ấy, các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka đã nói với các tỳ khưu ấy điều này:
– Này các đại đức, chớ có trục xuất tỳ khưu ni Mettiyā, cô ta không làm sai điều gì.Vì chúng tôi nổi giận, không hài lòng, có ý định loại trừ nên xúi giục cô ta thôi.
– Này các đại đức, có phải các vị bôi nhọ đại đức Dabba Mallaputta với sự hư hỏng về giới không có nguyên cớ?
– Này các đại đức, đúng vậy.
Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Vì sao các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka lại bôi nhọ đại đức Dabba Mallaputta với sự hư hỏng về giới không có nguyên cớ?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu Mettiya và Bhummajaka bôi nhọ Dabba Mallaputta với sự hư hỏng về giới không có nguyên cớ, có đúng không vậy?
– Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
…(như trên)… Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, chính vì việc ấy hội chúng hãy ban cho cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ đến Dabba Mallaputta là vị thành tựu đầy đủ về sự ghi nhớ.[2] Và này các tỳ khưu, nên ban cho như vầy: Này các tỳ khưu, Dabba Mallaputta ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu trưởng thượng, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên nói như vầy:
“Bạch các ngài, các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka này bôi nhọ tôi với sự hư hỏng về giới không có nguyên cớ. Bạch các ngài, là người thành tựu đầy đủ về sự ghi nhớ tôi đây cầu xin hội chúng cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ.
Nên cầu xin đến lần thứ nhì. Nên cầu xin đến lần thứ ba:
Bạch các ngài, các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka này bôi nhọ tôi với sự hư hỏng về giới không có nguyên cớ. Bạch các ngài, là người thành tựu đầy đủ về sự ghi nhớ tôi đây cầu xin hội chúng cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ lần thứ ba.”
[598] Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka này bôi nhọ đại đức Dabba Mallaputta với sự hư hỏng về giới không có nguyên cớ. Là vị thành tựu đầy đủ về sự ghi nhớ, đại đức Dabba Mallaputta cầu xin hội chúng cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ đến đại đức Dabba Mallaputta là vị thành tựu đầy đủ về sự ghi nhớ. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka này bôi nhọ đại đức Dabba Mallaputta với sự hư hỏng về giới không có nguyên cớ. Là vị thành tựu đầy đủ về sự ghi nhớ, đại đức Dabba Mallaputta cầu xin hội chúng cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ. Hội chúng ban cho cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ đến đại đức Dabba Mallaputta là vị thành tựu đầy đủ về sự ghi nhớ. Đại đức nào đồng ý việc ban cho cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ đến đại đức Dabba Mallaputta là vị thành tựu đầy đủ về sự ghi nhớ xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: …(như trên)…
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka này bôi nhọ đại đức Dabba Mallaputta với sự hư hỏng về giới không có nguyên cớ. Là vị thành tựu đầy đủ về sự ghi nhớ, đại đức Dabba Mallaputta cầu xin hội chúng cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ. Hội chúng ban cho cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ đến đại đức Dabba Mallaputta là vị thành tựu đầy đủ về sự ghi nhớ. Đại đức nào đồng ý việc ban cho cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ đến đại đức Dabba Mallaputta là vị thành tựu đầy đủ về sự ghi nhớ xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ đã được hội chúng ban cho đại đức Dabba Mallaputta là vị thành tựu đầy đủ về sự ghi nhớ. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
[599] Này các tỳ khưu, đây là năm sự ban cho đúng Pháp của cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ: Vị tỳ khưu được trong sạch không có phạm tội, các vị (khác) vu cáo vị ấy, vị ấy cầu xin, hội chúng ban cho cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ đến vị ấy đúng Pháp, với sự hợp nhất. Này các tỳ khưu, đây là năm sự ban cho đúng Pháp của cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ.
3. HÀNH XỬ LUẬT KHI KHÔNG ĐIÊN CUỒNG (AMŪḶHAVINAYO):
[600] Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu Gagga bị điên và bị thay đổi tâm tính. Nhiều việc không xứng là sa-môn bằng lời nói và hành động đã được thực hiện bởi vị ấy khi bị điên, bị thay đổi tâm tính. Các tỳ khưu khiển trách tỳ khưu Gagga với tội đã được thực hiện (bởi vị ấy) khi bị điên, bị thay đổi tâm tính:
– Này đại đức, hãy nhớ là có phạm tội như thế này không?
Vị ấy nói như vầy:
– Này các đại đức, tôi đã bị điên, đã bị thay đổi tâm tính. Nhiều việc không xứng là sa-môn bằng lời nói và hành động đã được thực hiện bởi tôi đây khi bị điên, bị thay đổi tâm tính. Tôi không nhớ được điều ấy. Điều ấy đã được làm bởi tôi khi điên cuồng.
Mặc dầu được vị ấy nói như vậy, các vị vẫn khiển trách rằng:
– Này đại đức, hãy nhớ là có phạm tội như thế này không?
Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Vì sao các tỳ khưu lại khiển trách tỳ khưu Gagga với tội đã được thực hiện khi vị ấy bị điên, bị thay đổi tâm tính: “Này đại đức, hãy nhớ là có phạm tội như thế này không?” Vị ấy nói như vầy: “Này các đại đức, tôi đã bị điên, đã bị thay đổi tâm tính. Nhiều việc không xứng là sa-môn bằng lời nói và hành động đã được thực hiện bởi tôi đây khi bị điên, bị thay đổi tâm tính. Tôi không nhớ được điều ấy. Điều ấy đã được làm bởi tôi khi điên cuồng.” Mặc dầu được vị ấy nói như vậy, các vị vẫn khiển trách rằng: “Này đại đức, hãy nhớ là có phạm tội như thế này không?”
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu …(như trên)…, có đúng không vậy?
– Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
…(như trên)…
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, chính vì việc ấy hội chúng hãy ban cho cách hành xử Luật khi không điên cuồng đến tỳ khưu Gagga khi không điên cuồng. Và này các tỳ khưu, nên ban cho như vầy: Này các tỳ khưu, tỳ khưu Gagga ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu trưởng thượng, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên nói như vầy:
“Bạch các ngài, tôi đã bị điên, đã bị thay đổi tâm tính. Nhiều việc không xứng là sa-môn bằng lời nói và hành động đã được thực hiện bởi tôi đây khi bị điên, bị thay đổi tâm tính. Các tỳ khưu khiển trách tôi với tội đã được thực hiện khi bị điên, bị thay đổi tâm tính: ‘Này đại đức, hãy nhớ là có phạm tội như thế này không?’ Tôi nói như vầy: ‘Này các đại đức, tôi đã bị điên, đã bị thay đổi tâm tính. Nhiều việc không xứng là sa-môn bằng lời nói và hành động đã được thực hiện bởi tôi đây khi bị điên, bị thay đổi tâm tính. Tôi không nhớ được điều ấy. Điều ấy đã được làm bởi tôi khi điên cuồng.’ Mặc dầu được tôi nói như vậy, các vị vẫn khiển trách rằng: ‘Này đại đức, hãy nhớ là có phạm tội như thế này không?’ Bạch các ngài, giờ không điên cuồng tôi đây cầu xin hội chúng cách hành xử Luật khi không điên cuồng.
Nên cầu xin đến lần thứ nhì. …(như trên)…
Nên cầu xin đến lần thứ ba: Bạch các ngài, tôi đã bị điên, đã bị thay đổi tâm tính. Nhiều việc không xứng là sa-môn bằng lời nói và hành động đã được thực hiện bởi tôi đây khi bị điên, bị thay đổi tâm tính. Các tỳ khưu khiển trách tôi với tội đã được thực hiện khi bị điên, bị thay đổi tâm tính: ‘Này đại đức, hãy nhớ là có phạm tội như thế này không?’ Tôi nói như vầy: ‘Này các đại đức, tôi đã bị điên, đã bị thay đổi tâm tính. Nhiều việc không xứng là sa-môn bằng lời nói và hành động đã được thực hiện bởi tôi đây khi bị điên, bị thay đổi tâm tính. Tôi không nhớ được điều ấy. Điều ấy đã được làm bởi tôi khi điên cuồng.’ Mặc dầu được tôi nói như vậy, các vị vẫn khiển trách rằng: ‘Này đại đức, hãy nhớ là có phạm tội như thế này không?’ Bạch các ngài, giờ không điên cuồng tôi đây cầu xin hội chúng cách hành xử Luật khi không điên cuồng lần thứ ba.”
[601] Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ khưu Gagga này đã bị điên, đã bị thay đổi tâm tính. Nhiều việc không xứng là sa-môn bằng lời nói và hành động đã được thực hiện bởi vị ấy khi bị điên, bị thay đổi tâm tính. Các tỳ khưu khiển trách tỳ khưu Gagga với tội đã được thực hiện khi bị điên, bị thay đổi tâm tính: ‘Này đại đức, hãy nhớ là có phạm tội như thế này không?’ Vị ấy nói như vầy: ‘Này các đại đức, tôi đã bị điên, đã bị thay đổi tâm tính. Nhiều việc không xứng là sa-môn bằng lời nói và hành động đã được thực hiện bởi tôi đây khi bị điên, bị thay đổi tâm tính. Tôi không nhớ được điều ấy. Điều ấy đã được làm bởi tôi khi điên cuồng.’ Mặc dầu được vị ấy nói như vậy, các vị vẫn khiển trách rằng: ‘Này đại đức, hãy nhớ là có phạm tội như thế này không?’ Vị ấy giờ không điên cuồng nên cầu xin hội chúng cách hành xử Luật khi không điên cuồng. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho cách hành xử Luật khi không điên cuồng đến tỳ khưu Gagga khi không điên cuồng. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ khưu Gagga này đã bị điên, đã bị thay đổi tâm tính. Nhiều việc không xứng là sa-môn bằng lời nói và hành động đã được thực hiện bởi vị ấy khi bị điên, bị thay đổi tâm tính. Các tỳ khưu khiển trách tỳ khưu Gagga với tội đã được thực hiện khi bị điên, bị thay đổi tâm tính: ‘Này đại đức, hãy nhớ là có phạm tội như thế này không?’ Vị ấy nói như vầy: ‘Này các đại đức, tôi đã bị điên, đã bị thay đổi tâm tính. Nhiều việc không xứng là sa-môn bằng lời nói và hành động đã được thực hiện bởi tôi đây khi bị điên, bị thay đổi tâm tính. Tôi không nhớ được điều ấy. Điều ấy đã được làm bởi tôi khi điên cuồng.’ Mặc dầu được vị ấy nói như vậy, các vị vẫn khiển trách rằng: ‘Này đại đức, hãy nhớ là có phạm tội như thế này không?’ Vị ấy giờ không điên cuồng nên cầu xin hội chúng cách hành xử Luật khi không điên cuồng. Hội chúng ban cho cách hành xử Luật khi không điên cuồng đến tỳ khưu Gagga khi không điên cuồng. Đại đức nào đồng ý việc ban cho cách hành xử Luật khi không điên cuồng đến tỳ khưu Gagga khi không điên cuồng xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: …(như trên)…
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: …(như trên)…
Cách hành xử Luật khi không điên cuồng đã được hội chúng ban cho tỳ khưu Gagga khi không điên cuồng. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
[602] Này các tỳ khưu, đây là ba sự ban cho không đúng Pháp của cách hành xử Luật khi không điên cuồng, ba (sự ban cho) là đúng Pháp.
Thế nào là ba sự ban cho không đúng Pháp của cách hành xử Luật khi không điên cuồng?
– Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu vi phạm tội. Hội chúng, hoặc nhiều vị, hoặc một vị khiển trách vị ấy về điều ấy: “Này đại đức, hãy nhớ là có phạm tội như thế này không?” Vị ấy dầu có nhớ, vẫn nói như vầy: “Này các đại đức, tôi không nhớ là đã phạm tội như thế.” Hội chúng ban cho cách hành xử Luật khi không điên cuồng đến vị ấy. Việc ban cho cách hành xử Luật khi không điên cuồng là không đúng Pháp.
[603] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu vi phạm tội. Hội chúng, hoặc nhiều vị, hoặc một vị khiển trách vị ấy về điều ấy: “Này đại đức, hãy nhớ là có phạm tội như thế này không?” Vị ấy dầu có nhớ, vẫn nói như vầy: “Này các đại đức, tôi nhớ như là từ giấc mơ vậy.” Hội chúng ban cho cách hành xử Luật khi không điên cuồng đến vị ấy. Việc ban cho cách hành xử Luật khi không điên cuồng là không đúng Pháp.
[604] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu vi phạm tội. Hội chúng, hoặc nhiều vị, hoặc một vị khiển trách vị ấy về điều ấy: “Này đại đức, hãy nhớ là có phạm tội như thế này không?” Vị ấy, là vị không bị điên, (giả vờ) hành động trên cơ sở bị điên (nói rằng): “Tôi cũng làm như thế. Các vị cũng làm như thế. Điều ấy cũng được phép đối với tôi. Điều ấy cũng được phép đối với các vị.” Hội chúng ban cho cách hành xử Luật khi không điên cuồng đến vị ấy. Việc ban cho cách hành xử Luật khi không điên cuồng là không đúng Pháp.
Đây là ba sự ban cho không đúng Pháp của cách hành xử Luật khi không điên cuồng.
[605] Thế nào là ba sự ban cho đúng Pháp của cách hành xử Luật khi không điên cuồng?
– Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu bị điên, bị thay đổi tâm tính. Nhiều việc không xứng là sa-môn bằng lời nói và hành động được thực hiện bởi vị ấy khi bị điên, bị thay đổi tâm tính. Hội chúng, hoặc nhiều vị, hoặc một vị khiển trách vị ấy về điều ấy: “Này đại đức, hãy nhớ là có phạm tội như thế này không?” Vị ấy không nhớ được nên nói như vầy: “Này các đại đức, tôi không nhớ được là đã phạm tội như thế.” Hội chúng ban cho cách hành xử Luật khi không điên cuồng đến vị ấy. Việc ban cho cách hành xử Luật khi không điên cuồng là đúng Pháp.
[606] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu bị điên, bị thay đổi tâm tính. Nhiều việc không xứng là sa-môn bằng lời nói và hành động được thực hiện bởi vị ấy khi bị điên, bị thay đổi tâm tính. Hội chúng, hoặc nhiều vị, hoặc một vị khiển trách vị ấy về điều ấy: “Này đại đức, hãy nhớ là có phạm tội như thế này không?” Vị ấy không nhớ được nên nói như vầy: “Này các đại đức, tôi nhớ như là từ giấc mơ vậy.” Hội chúng ban cho cách hành xử Luật khi không điên cuồng đến vị ấy. Việc ban cho cách hành xử Luật khi không điên cuồng là đúng Pháp.
[607] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu bị điên, bị thay đổi tâm tính. Nhiều việc không xứng là sa-môn bằng lời nói và hành động được thực hiện bởi vị ấy khi bị điên, bị thay đổi tâm tính. Hội chúng, hoặc nhiều vị, hoặc một vị khiển trách vị ấy về điều ấy: “Này đại đức, hãy nhớ là có phạm tội như thế này không?” Vị ấy là vị bị điên, hành động trên cơ sở bị điên (nói rằng): “Tôi cũng làm như thế. Các vị cũng làm như thế. Điều ấy cũng được phép đối với tôi. Điều ấy cũng được phép đối với các vị.” Hội chúng ban cho cách hành xử Luật khi không điên cuồng đến vị ấy. Việc ban cho cách hành xử Luật khi không điên cuồng là đúng Pháp.
Đây là ba sự ban cho đúng Pháp của cách hành xử Luật khi không điên cuồng.
4. VIỆC PHÁN XỬ THEO TỘI ĐÃ ĐƯỢC THỪA NHẬN (PAṬIÑÑĀTAKARAṆAṂ):
[608] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư thực thi các hành sự khiển trách, chỉ dạy, xua đuổi, hòa giải, và án treo đối với các tỳ khưu không có sự thừa nhận. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại thực thi các hành sự khiển trách, chỉ dạy, xua đuổi, hòa giải, và án treo đối các tỳ khưu không có sự thừa nhận?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, nghe nói …(như trên)…, có đúng không vậy?
– Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
…(như trên)…
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, hành sự khiển trách, hoặc chỉ dạy, hoặc xua đuổi, hoặc hòa giải, hoặc án treo không nên thực thi đối với các tỳ khưu không có sự thừa nhận; vị nào thực thi thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[609] Này các tỳ khưu, việc phán xử theo tội đã được thừa nhận như vầy là không đúng Pháp, như vầy là đúng Pháp.
Và này các tỳ khưu, thế nào là việc phán xử theo tội đã được thừa nhận là không đúng Pháp?
– Vị tỳ khưu phạm tội pārājika (bất cộng trụ). Hội chúng, hoặc nhiều vị, hoặc một vị khiển trách vị ấy về điều ấy: “Có phải đại đức đã phạm tội pārājika?”Vị ấy nói như vầy: “Này các đại đức, tôi đã không phạm tội pārājika, tôi đã phạm tội saṅghādisesa (Tăng tàng).” Hội chúng hành sự cho vị ấy với tội saṅghādisesa. Việc phán xử theo tội đã được thừa nhận là không đúng Pháp.
Vị tỳ khưu phạm tội pārājika. Hội chúng, hoặc nhiều vị, hoặc một vị khiển trách vị ấy về điều ấy: “Có phải đại đức đã phạm tội pārājika?”Vị ấy nói như vầy: “Này các đại đức, tôi đã không phạm tội pārājika, tôi đã phạm tội thullaccaya (trọng tội).” Hội chúng hành sự cho vị ấy với tội thullaccaya. Việc phán xử theo tội đã được thừa nhận là không đúng Pháp.
Vị tỳ khưu phạm tội pārājika. Hội chúng, hoặc nhiều vị, hoặc một vị khiển trách vị ấy về điều ấy: “Có phải đại đức đã phạm tội pārājika?”Vị ấy nói như vầy: “Này các đại đức, tôi đã không phạm tội pārājika, tôi đã phạm tội pācittiya (ưng đối trị).” Hội chúng hành sự cho vị ấy với tội pācittiya. Việc phán xử theo tội đã được thừa nhận là không đúng Pháp.
Vị tỳ khưu phạm tội pārājika. Hội chúng, hoặc nhiều vị, hoặc một vị khiển trách vị ấy về điều ấy: “Có phải đại đức đã phạm tội pārājika?”Vị ấy nói như vầy: “Này các đại đức, tôi đã không phạm tội pārājika, tôi đã phạm tội pāṭidesanīya (ưng phát lộ).” Hội chúng hành sự cho vị ấy với tội pāṭidesanīya. Việc phán xử theo tội đã được thừa nhận là không đúng Pháp.
Vị tỳ khưu phạm tội pārājika. Hội chúng, hoặc nhiều vị, hoặc một vị khiển trách vị ấy về điều ấy: “Có phải đại đức đã phạm tội pārājika?”Vị ấy nói như vầy: “Này các đại đức, tôi đã không phạm tội pārājika, tôi đã phạm tội dukkaṭa (tác ác).” Hội chúng hành sự cho vị ấy với tội dukkaṭa. Việc phán xử theo tội đã được thừa nhận là không đúng Pháp.
Vị tỳ khưu phạm tội pārājika. Hội chúng, hoặc nhiều vị, hoặc một vị khiển trách vị ấy về điều ấy: “Có phải đại đức đã phạm tội pārājika?”Vị ấy nói như vầy: “Này các đại đức, tôi đã không phạm tội pārājika, tôi đã phạm tội dubbhāsita (ác khẩu).” Hội chúng hành sự cho vị ấy với tội dubbhāsita. Việc phán xử theo tội đã được thừa nhận là không đúng Pháp.
Vị tỳ khưu phạm tội saṅghādisesa. …(như trên)… tội thullaccaya. …(như trên)… tội pācittiya. …(như trên)… tội pāṭidesanīya. …(như trên)… tội dukkaṭa. …(như trên)… tội dubbhāsita. Hội chúng, hoặc nhiều vị, hoặc một vị khiển trách vị ấy về điều ấy: “Có phải đại đức đã phạm tội dubbhāsita?”Vị ấy nói như vầy: “Này các đại đức, tôi đã không phạm tội dubbhāsita, tôi đã phạm tội pārājika.” Hội chúng hành sự cho vị ấy với tội pārājika. Việc phán xử theo tội đã được thừa nhận là không đúng Pháp.
Vị tỳ khưu phạm tội dubbhāsita. Hội chúng, hoặc nhiều vị, hoặc một vị khiển trách vị ấy về điều ấy: “Có phải đại đức đã phạm tội dubbhāsita?”Vị ấy nói như vầy: “Này các đại đức, tôi đã không phạm tội dubbhāsita, tôi đã phạm tội saṅghādisesa.…(như trên)… tội thullaccaya. …(như trên)… tội pācittiya. …(như trên)… tội pāṭidesanīya. …(như trên)… tội dukkaṭa.” Hội chúng hành sự cho vị ấy với tội dukkaṭa. Việc phán xử theo tội đã được thừa nhận là không đúng Pháp.
Này các tỳ khưu, việc phán xử theo tội đã được thừa nhận như thế gọi là không đúng Pháp.
[610] Này các tỳ khưu, thế nào là việc phán xử theo tội đã được thừa nhận là đúng Pháp?
– Vị tỳ khưu phạm tội pārājika. Hội chúng, hoặc nhiều vị, hoặc một vị khiển trách vị ấy về điều ấy: “Có phải đại đức đã phạm tội pārājika?”Vị ấy nói như vầy: “Này các đại đức, tôi đã phạm tội pārājika.” Hội chúng hành sự cho vị ấy với tội pārājika. Việc phán xử theo tội đã được thừa nhận là đúng Pháp.
Vị tỳ khưu phạm tội saṅghādisesa. …(như trên)… tội thullaccaya. …(như trên)… tội pācittiya. …(như trên)… tội pāṭidesanīya. …(như trên)… tội dukkaṭa. …(như trên)… tội dubbhāsita. Hội chúng, hoặc nhiều vị, hoặc một vị khiển trách vị ấy về điều ấy: “Có phải đại đức đã phạm tội dubbhāsita?”Vị ấy nói như vầy: “Này các đại đức, tôi đã phạm tội dubbhāsita.” Hội chúng hành sự cho vị ấy với tội dubbhāsita. Việc phán xử theo tội đã được thừa nhận là đúng Pháp.
Này các tỳ khưu, việc phán xử theo tội đã được thừa nhận như thế gọi là đúng Pháp.
5. THUẬN THEO SỐ ĐÔNG (YEBHUYYASIKĀ):
[611] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu sống có nảy sinh các sự xung đột giữa hội chúng, có nảy sinh các sự gây gỗ, đưa đến tranh cãi, và làm tổn thương lẫn nhau bằng các vũ khí mồm miệng. Họ không thể giải quyết sự tranh tụng ấy. Các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, ta cho phép giải quyết sự tranh tụng có hình thức như thế thuận theo số đông. Vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện nên được chỉ định làm vị phân phát thẻ (salākaggāhāpako): là vị không thể bị chi phối bởi sự ưa thích, không thể bị chi phối bởi sự sân hận, không thể bị chi phối bởi sự si mê, không thể bị chi phối bởi sự sợ hãi, và là vị biết (thẻ) đã được nhận hay đã không được nhận.
Và này các tỳ khưu, nên chỉ định như vầy: Trước hết, vị tỳ khưu cần được yêu cầu; sau khi yêu cầu, hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên chỉ định vị tỳ khưu tên (như vầy) là vị phân phát thẻ. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Hội chúng chỉ định tỳ khưu tên (như vầy) là vị phân phát thẻ. Đại đức nào đồng ý việc chỉ định tỳ khưu tên (như vầy) là vị phân phát thẻ xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Tỳ khưu tên (như vầy) đã được hội chúng chỉ định là vị phân phát thẻ. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
[612] Này các tỳ khưu, đây là mười sự phân phát thẻ không đúng Pháp, mười (sự phân phát thẻ) đúng Pháp.
Thế nào là mười sự phân phát thẻ không đúng Pháp?
– Khi sự tranh tụng là việc nhỏ nhặt, chưa đến mức phải xử lý,[3] không được nhớ lại hoặc (không được) làm cho nhớ lại, (vị phân phát thẻ) biết rằng: “Các vị nói sai Pháp là nhiều hơn,” (nghĩ rằng): “Có lẽ các vị nói sai Pháp là nhiều hơn,” biết rằng: “Hội chúng sẽ bị chia rẽ,” (nghĩ rằng): “Có lẽ hội chúng sẽ bị chia rẽ,” các vị nhận lãnh thẻ không được hợp lệ, các vị có sự chia phe nhóm khi nhận lãnh thẻ, các vị nhận lãnh không theo quan điểm (của bản thân).
Đây là mười sự phân phát thẻ không đúng Pháp.
[613] Thế nào là mười sự phân phát thẻ đúng Pháp?
– Khi sự tranh tụng không phải là việc nhỏ nhặt, đã đến mức phải xử lý, được nhớ lại hoặc (được) làm cho nhớ lại, (vị phân phát thẻ) biết rằng: “Các vị nói đúngPháp là nhiều hơn,” (nghĩ rằng): “Có lẽ các vị nói đúng Pháp là nhiều hơn,” biết rằng: “Hội chúng sẽ không bị chia rẽ,” (nghĩ rằng): “Có lẽ hội chúng sẽ không bị chia rẽ,” các vị nhận lãnh thẻ một cách hợp lệ, các vị có sự hợp nhất khi nhận lãnh thẻ, các vị nhận lãnh theo quan điểm (của bản thân).
Đây là mười sự phân phát thẻ đúng Pháp.
6. THEO TỘI CỦA VỊ ẤY (TASSAPĀPIYASIKĀ):
[614] Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu Upavāḷa trong khi được thẩm vấn về tội giữa hội chúng đã phủ nhận rồi lại thừa nhận, đã thừa nhận rồi lại phủ nhận, tránh né tội ấy bằng một tội khác, cố tình nói lời dối trá. Các tỳ khưu ít ham muốn …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Vì sao tỳ khưu Upavāḷa trong khi được thẩm vấn về tội giữa hội chúng đã phủ nhận rồi lại thừa nhận, đã thừa nhận rồi lại phủ nhận, tránh né tội ấy bằng một tội khác, cố tình nói lời dối trá?
Sau đó, các tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, nghe nói …(như trên)…, có đúng không vậy?
– Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
…(như trên)… Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, chính vì việc ấy hội chúng hãy thực thi hành sự theo tội của vị ấy đến tỳ khưu Upavāḷa. Và này các tỳ khưu, nên thực thi như vầy: Trước hết, tỳ khưu Upavāḷa cần được quở trách; sau khi quở trách cần được nhắc nhở; sau khi nhắc nhở rồi cần được xác định tội; sau khi được xác định tội, hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ khưu Upavāḷa này trong khi được thẩm vấn về tội giữa hội chúng đã phủ nhận rồi lại thừa nhận, đã thừa nhận rồi lại phủ nhận, tránh né tội ấy bằng một tội khác, cố tình nói lời dối trá. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên thực thi hành sự theo tội của vị ấy đến tỳ khưu Upavāḷa. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ khưu Upavāḷa này trong khi được thẩm vấn về tội giữa hội chúng đã phủ nhận rồi lại thừa nhận, đã thừa nhận rồi lại phủ nhận, tránh né tội ấy bằng một tội khác, cố tình nói lời dối trá. Hội chúng thực thi hành sự theo tội của vị ấy đến tỳ khưu Upavāḷa. Đại đức nào đồng ý việc thực thi hành sự theo tội của vị ấy đến tỳ khưu Upavāḷa xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: …(như trên)…
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: …(như trên)…
Hành sự theo tội của vị ấy đã được hội chúng thực thi đến tỳ khưu Upavāḷa. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
[615] Này các tỳ khưu, đây là năm sự thực thi đúng Pháp của hành sự theo tội của vị ấy: Là vị không trong sạch, không có hổ thẹn, có sự khiển trách, hội chúng thực thi hành sự theo tội của vị ấy cho vị ấy đúng Pháp, với sự hợp nhất.
Này các tỳ khưu, đây là năm sự thực thi đúng Pháp của hành sự theo tội của vị ấy.
[616] Này các tỳ khưu, hành sự theo tội của vị ấy là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất khi hội đủ ba điều kiện: được thực thi thiếu sự hiện diện, được thực thi thiếu sự tra hỏi, được thực thi với sự không thừa nhận (appaṭiññāya kataṃ). Này các tỳ khưu, hành sự theo tội của vị ấy hội đủ ba điều kiện này là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất.
…(như trên)…
Này các tỳ khưu, hành sự theo tội của vị ấy là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất khi hội đủ ba điều kiện khác nữa: được thực thi khi chưa xác định tội, được thực thi không theo Pháp, được thực thi bởi phe nhóm. Này các tỳ khưu, hành sự theo tội của vị ấy hội đủ ba điều kiện này là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất.
[617] Này các tỳ khưu, hành sự theo tội của vị ấy là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, được hoàn tất tốt đẹp khi hội đủ ba điều kiện: được thực thi với sự hiện diện, được thực thi từ sự tra hỏi, được thực thi với sự thừa nhận (paṭiññāya kataṃ). Này các tỳ khưu, hành sự theo tội của vị ấy hội đủ ba điều kiện này là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, được hoàn tất tốt đẹp.
…(như trên)…
Này các tỳ khưu, hành sự theo tội của vị ấy là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, được hoàn tất tốt đẹp khi hội đủ ba điều kiện khác nữa: được thực thi sau khi xác định tội, được thực thi đúng theo Pháp, được thực thi với sự hợp nhất. Này các tỳ khưu, hành sự theo tội của vị ấy hội đủ ba điều kiện này là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, được hoàn tất tốt đẹp.
[618] Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự theo tội của vị ấy đối với vị tỳ khưu hội đủ ba đặc tính: Vị thường gây nên sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng; vị ngu si, thiếu kinh nghiệm, phạm nhiều tội, chưa được làm cho thoát (tội); vị thân cận giới tục gia, sống không nghiêm chỉnh lẫn lộn cùng người thế tục. Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự theo tội của vị ấy đối với vị tỳ khưu hội đủ ba đặc tính này.
[619] Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự theo tội của vị ấy đối với vị tỳ khưu hội đủ ba đặc tính khác nữa: Vị bị hư hỏng về giới thuộc tăng thượng giới, vị bị hư hỏng về hạnh kiểm thuộc tăng thượng hạnh, vị bị hư hỏng về tri kiến thuộc tri kiến sái quấy. Này các tỳ khưu, …(như trên)… ba đặc tính này.
[620] Này các tỳ khưu, …(như trên)… ba đặc tính khác nữa: Vị chê bai đức Phật, vị chê bai đức Pháp, vị chê bai đức Tăng. Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự theo tội của vị ấy đối với vị tỳ khưu hội đủ ba đặc tính này.
[621] Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự theo tội của vị ấy đối với ba hạng tỳ khưu: Hạng thường gây nên sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng; hạng ngu si, thiếu kinh nghiệm, phạm nhiều tội, chưa được làm cho thoát (tội); hạng thân cận giới tục gia, sống không nghiêm chỉnh lẫn lộn cùng người thế tục. Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự theo tội của vị ấy đối với ba hạng tỳ khưu này.
[622] Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự theo tội của vị ấy đối với ba hạng tỳ khưu khác nữa: Hạng bị hư hỏng về giới thuộc tăng thượng giới, hạng bị hư hỏng về hạnh kiểm thuộc tăng thượng hạnh, hạng bị hư hỏng về tri kiến thuộc tri kiến sái quấy. Này các tỳ khưu, …(như trên)… ba hạng tỳ khưu này.
[623] Này các tỳ khưu, …(như trên)… ba hạng tỳ khưu khác nữa: hạng chê bai đức Phật, hạng chê bai đức Pháp, hạng chê bai đức Tăng. Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự theo tội của vị ấy đối với ba hạng tỳ khưu này.
[624] Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu được thực thi hành sự theo tội của vị ấy nên làm phận sự một cách nghiêm chỉnh. Trong trường hợp này, các phận sự nghiêm chỉnh ấy là: Không nên ban phép tu lên bậc trên, không nên ban cho phép nương nhờ, không nên bảo sa di phục vụ, không nên chấp nhận sự chỉ định giảng dạy tỳ khưu ni, không nên giảng dạy tỳ khưu ni dầu đã được chỉ định, …(như trên)…, không nên tạo bè phái với các tỳ khưu.
Sau đó, hội chúng đã thực thi hành sự theo tội của vị ấy đối với tỳ khưu Upavāḷa.
7. CÁCH DÙNG CỎ CHE LẤP (TIṆAVATTHĀRAKAṂ):
[625] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu trong khi sinh hoạt có nảy sinh các sự xung đột, các sự gây gỗ, đưa đến tranh cãi, nhiều việc không xứng là sa-môn bằng lời nói và hành động đã được thực hiện. Khi ấy, điều này đã khởi đến các vị tỳ khưu ấy: “Chúng ta trong khi sinh hoạt có nảy sinh các sự xung đột, các sự gây gỗ, đưa đến tranh cãi, nhiều việc không xứng là sa-môn bằng lời nói và hành động đã được thực hiện. Nếu chúng ta giải quyết lẫn nhau bằng các tội này, sự tranh tụng ấy còn có thể đưa đến lủng củng nội bộ, đưa đến bất hòa nội bộ, và đưa đến chia rẽ nữa; vậy chúng ta nên thực hành như thế nào?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
[626] – Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu trong khi sinh hoạt có nảy sinh các sự xung đột, các sự gây gỗ, đưa đến tranh cãi, nhiều việc không xứng là sa-môn bằng lời nói và hành động đã được thực hiện. Này các tỳ khưu, trong trường hợp ấy nếu các tỳ khưu (nghĩ) như vầy: “Chúng ta trong khi sinh hoạt có nảy sinh các sự xung đột, các sự gây gỗ, đưa đến tranh cãi, có nhiều việc không xứng là sa-môn bằng lời nói và hành động đã được thực hiện. Nếu chúng ta giải quyết lẫn nhau bằng các tội này, sự tranh tụng ấy còn có thể đưa đến lủng củng nội bộ, đưa đến bất hòa nội bộ, và đưa đến chia rẽ nữa; vậy chúng ta nên thực hành như thế nào?” Này các tỳ khưu, ta cho phép giải quyết sự tranh tụng có hình thức như thế bằng cách dùng cỏ che lấp.
[627] Và này các tỳ khưu, nên giải quyết như vầy: Tất cả nên tụ họp lại một chỗ; sau khi tụ họp lại, hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Chúng ta trong khi sinh hoạt có nảy sinh các sự xung đột, các sự gây gỗ, đưa đến tranh cãi, nhiều việc không xứng là sa-môn bằng lời nói và hành động đã được thực hiện. Nếu chúng ta giải quyết lẫn nhau bằng các tội này, sự tranh tụng ấy còn có thể đưa đến lủng củng nội bộ, đưa đến bất hòa nội bộ, và đưa đến chia rẽ nữa. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên giải quyết sự tranh tụng này bằng cách dùng cỏ che lấp, ngoại trừ trường hợp có lỗi nghiêm trọng,[4] ngoại trừ trường hợp có liên quan đến cư sĩ.”
Một vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực trong số các tỳ khưu cùng thuộc về một phe nên thông báo đến phe của mình rằng:
“Bạch chư đại đức, xin hãy lắng nghe tôi. Chúng ta trong khi sinh hoạt có nảy sinh các sự xung đột, các sự gây gỗ, đưa đến tranh cãi, nhiều việc không xứng là sa-môn bằng lời nói và hành động đã được thực hiện. Nếu chúng ta giải quyết lẫn nhau bằng các tội này, sự tranh tụng ấy còn có thể đưa đến lủng củng nội bộ, đưa đến bất hòa nội bộ, và đưa đến chia rẽ nữa. Nếu là thời điểm thích hợp cho chư đại đức, tôi sẽ sám hối bằng cách dùng cỏ che lấp giữa hội chúng tội của chính chư đại đức và tội của tôi vì sự lợi ích của chính chư đại đức và vì sự lợi ích của tôi, ngoại trừ trường hợp có lỗi nghiêm trọng, ngoại trừ trường hợp có liên quan đến cư sĩ.”
[628] Rồi một vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực trong số các tỳ khưu cùng thuộc về phe kia nên thông báo đến phe của mình rằng:
“Bạch chư đại đức, xin hãy lắng nghe tôi. Chúng ta trong khi sinh hoạt có nảy sinh các sự xung đột, các sự gây gỗ, đưa đến tranh cãi, nhiều việc không xứng là sa-môn bằng lời nói và hành động đã được thực hiện. Nếu chúng ta giải quyết lẫn nhau bằng các tội này, sự tranh tụng ấy còn có thể đưa đến lủng củng nội bộ, đưa đến bất hòa nội bộ, và đưa đến chia rẽ nữa. Nếu là thời điểm thích hợp cho chư đại đức, tôi sẽ sám hối bằng cách dùng cỏ che lấp giữa hội chúng tội của chính chư đại đức và tội của tôi vì sự lợi ích của chính chư đại đức và vì sự lợi ích của tôi, ngoại trừ trường hợp có lỗi nghiêm trọng, ngoại trừ trường hợp có liên quan đến cư sĩ.”
[629] Sau đó, hội chúng nên được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực trong số các tỳ khưu cùng thuộc về một phe rằng:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Chúng ta trong khi sinh hoạt có nảy sinh các sự xung đột, các sự gây gỗ, đưa đến tranh cãi, nhiều việc không xứng là sa-môn bằng lời nói và hành động đã được thực hiện. Nếu chúng ta giải quyết lẫn nhau bằng các tội này, sự tranh tụng ấy còn có thể đưa đến lủng củng nội bộ, đưa đến bất hòa nội bộ, và đưa đến chia rẽ nữa. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, tôi xin sám hối bằng cách dùng cỏ che lấp giữa hội chúng tội của chính các đại đức này và tội của tôi vì sự lợi ích của chính các đại đức này và vì sự lợi ích của tôi, ngoại trừ trường hợp có lỗi nghiêm trọng, ngoại trừ trường hợp có liên quan đến cư sĩ. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Chúng ta trong khi sinh hoạt có nảy sinh các sự xung đột, các sự gây gỗ, đưa đến tranh cãi, nhiều việc không xứng là sa-môn bằng lời nói và hành động đã được thực hiện. Nếu chúng ta giải quyết lẫn nhau bằng các tội này, sự tranh tụng ấy còn có thể đưa đến lủng củng nội bộ, đưa đến bất hòa nội bộ, và đưa đến chia rẽ nữa. Vì sự lợi ích của chính các đại đức này và vì sự lợi ích của tôi, tôi xin sám hối bằng cách dùng cỏ che lấp giữa hội chúng tội của chính các đại đức này và tội của tôi, ngoại trừ trường hợp có lỗi nghiêm trọng, ngoại trừ trường hợp có liên quan đến cư sĩ. Đại đức nào đồng ý việc sám hối bằng cách dùng cỏ che lấp giữa hội chúng đối với các tội này của chúng tôi, ngoại trừ trường hợp có lỗi nghiêm trọng, ngoại trừ trường hợp có liên quan đến cư sĩ, xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Các tội này của chúng tôi đã được sám hối bằng cách dùng cỏ che lấp giữa hội chúng, ngoại trừ trường hợp có lỗi nghiêm trọng, ngoại trừ trường hợp có liên quan đến cư sĩ. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
[630] Rồi hội chúng nên được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực trong số các tỳ khưu cùng thuộc về phe kia rằng:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Chúng ta trong khi sinh hoạt có nảy sinh các sự xung đột, các sự gây gỗ, đưa đến tranh cãi, nhiều việc không xứng là sa-môn bằng lời nói và hành động đã được thực hiện. Nếu chúng ta giải quyết lẫn nhau bằng các tội này, sự tranh tụng ấy còn có thể đưa đến lủng củng nội bộ, đưa đến bất hòa nội bộ, và đưa đến chia rẽ nữa. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, tôi xin sám hối bằng cách dùng cỏ che lấp giữa hội chúng tội của chính các đại đức này và tội của tôi vì sự lợi ích của chính các đại đức này và vì sự lợi ích của tôi, ngoại trừ trường hợp có lỗi nghiêm trọng, ngoại trừ trường hợp có liên quan đến cư sĩ. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Chúng ta trong khi sinh hoạt có nảy sinh các sự xung đột, các sự gây gỗ, đưa đến tranh cãi, nhiều việc không xứng là sa-môn bằng lời nói và hành động đã được thực hiện. Nếu chúng ta giải quyết lẫn nhau bằng các tội này, sự tranh tụng ấy còn có thể đưa đến lủng củng nội bộ, đưa đến bất hòa nội bộ, và đưa đến chia rẽ nữa. Vì sự lợi ích của chính các đại đức này và vì sự lợi ích của tôi, tôi xin sám hối bằng cách dùng cỏ che lấp giữa hội chúng tội của chính các đại đức này và tội của tôi, ngoại trừ trường hợp có lỗi nghiêm trọng, ngoại trừ trường hợp có liên quan đến cư sĩ. Đại đức nào đồng ý việc sám hối bằng cách dùng cỏ che lấp giữa hội chúng đối với các tội này của chúng tôi, ngoại trừ trường hợp có lỗi nghiêm trọng, ngoại trừ trường hợp có liên quan đến cư sĩ, xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Các tội này của chúng tôi đã được sám hối bằng cách dùng cỏ che lấp giữa hội chúng, ngoại trừ trường hợp có lỗi nghiêm trọng, ngoại trừ trường hợp có liên quan đến cư sĩ. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
[631] Và này các tỳ khưu, như thế các tỳ khưu ấy đã được thoát khỏi các tội ấy ngoại trừ trường hợp có lỗi nghiêm trọng, ngoại trừ trường hợp có liên quan đến cư sĩ, ngoại trừ (các vị) có quan điểm khác về hành sự này, ngoại trừ các vị không hiện diện ở đó.
8. SỰ TRANH TỤNG:
[632] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu tranh cãi với các tỳ khưu ni, các tỳ khưu ni cũng tranh cãi với các tỳ khưu. Tỳ khưu Channa sau khi theo phe các tỳ khưu ni cũng tranh cãi với các tỳ khưu và được xem là thuộc phe các tỳ khưu ni. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Vì sao tỳ khưu Channa sau khi theo phe các tỳ khưu ni lại tranh cãi với các tỳ khưu và được xem là thuộc phe các tỳ khưu ni?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, nghe nói …(như trên)…, có đúng không vậy?
– Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
…(như trên)… Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, đây là bốn sự tranh tụng: Sự tranh tụng liên quan đến tranh cãi, sự tranh tụng liên quan đến khiển trách, sự tranh tụng liên quan đến tội, và sự tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ.
[633] Ở đây, thế nào là sự tranh tụng liên quan đến tranh cãi?
– Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu tranh cãi rằng: “Đây là Pháp,” hoặc “Đây không phải là Pháp,” hoặc “Đây là Luật,” hoặc “Đây không phải là Luật,” hoặc “Điều ấy đã được đấng Thiện Thệ thuyết giảng và nói đến,” hoặc “Điều ấy đã không được đấng Thiện Thệ thuyết giảng và nói đến,” hoặc “Điều ấy đã được đấng Thiện Thệ thực hành,” hoặc “Điều ấy đã không được đấng Thiện Thệ thực hành,” hoặc “Điều ấy đã được đấng Thiện Thệ quy định,” hoặc “Điều ấy đã không được đấng Thiện Thệ quy định,” hoặc “Điều ấy là phạm tội,” hoặc “Điều ấy là không phạm tội,” hoặc “Điều ấy là tội nhẹ,” hoặc “Điều ấy là tội nặng,” hoặc “Tội còn dư sót,” hoặc “Tội không còn dư sót,” hoặc “Tội xấu xa,” hoặc “Tội không xấu xa.” Ở đây, việc nào là sự xung đột, sự gây gỗ, sự tranh luận, sự tranh cãi, nhiều quan điểm, khác quan điểm, cãi vã là thói thường của sự nóng nảy (vipaccatāya vohāro medhagaṃ); việc ấy được gọi là sự tranh tụng liên quan đến tranh cãi.
[634] Ở đây, thế nào là sự tranh tụng liên quan đến khiển trách?
– Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu khiển trách vị tỳ khưu với sự hư hỏng về giới, hoặc với sự hư hỏng về hạnh kiểm, hoặc với sự hư hỏng về tri kiến, hoặc với sự hư hỏng về nuôi mạng. Trong trường hợp ấy, việc nào là sự khiển trách, sự xoi mói, sự buộc tội, sự chỉ trích, sự moi móc (amusampavaṅkatā), sự xúi giục (abbhussahanatā), sự khích động (anubalappadānaṃ); việc ấy được gọi là sự tranh tụng liên quan đến khiển trách.
[635] Ở đây, thế nào là sự tranh tụng liên quan đến tội?
– Năm nhóm tội[5] là sự tranh tụng liên quan đến tội, bảy nhóm tội[6] là sự tranh tụng liên quan đến tội; việc ấy được gọi là sự tranh tụng liên quan đến tội.
[636] Ở đây, thế nào là sự tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ?
– Việc gì thuộc về hội chúng cần phải hoàn thành cần phải thực thi (tức là) hành sự với lời công bố (apalokanakammaṃ),[7] hành sự với lời đề nghị (ñattikammaṃ), hành sự với lời thông báo đến lần thứ hai (ñattidutiyakammaṃ), hành sự với lời thông báo đến lần thứ tư (ñatticatutthakammaṃ). Việc ấy được gọi là sự tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ.
[637] Nguyên nhân của sự tranh tụng liên quan đến tranh cãi là gì?
– Có sáu nguyên nhân tranh cãi là nguyên nhân của sự tranh tụng liên quan đến tranh cãi. Cũng có ba nguyên nhân không tốt đẹp là nguyên nhân của sự tranh tụng liên quan đến tranh cãi và cũng có ba nguyên nhân tốt đẹp là nguyên nhân của sự tranh tụng liên quan đến tranh cãi.
Sáu nguyên nhân tranh cãi nào là nguyên nhân của sự tranh tụng liên quan đến tranh cãi?
– Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trở nên giận dữ có sự hằn học. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu nào trở nên giận dữ, có sự hằn học, vị ấy sống không cung kính, không phục tùng bậc Đạo Sư; vị ấy sống không cung kính, không phục tùng Giáo Pháp; vị ấy sống không cung kính, không phục tùng hội chúng; vị ấy có sự thực hành không trọn vẹn việc học tập. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu nào sống không cung kính, không phục tùng bậc Đạo Sư, …(như trên)… Giáo Pháp, …(như trên)… hội chúng…, có sự thực hành không trọn vẹn việc học tập, vị ấy gây nên sự tranh cãi trong hội chúng. Đó là sự tranh cãi đem lại sự không lợi ích cho nhiều người, đem lại sự không an lạc cho nhiều người, đem lại sự không tấn hóa cho nhiều người, đem lại sự không lợi ích và khổ đau cho chư thiên và nhân loại. Này các tỳ khưu, nếu các ngươi nhận thức được nguyên nhân tranh cãi có hình thức như thế một cách chủ quan và khách quan, này các tỳ khưu, trong trường hợp ấy các ngươi nên nỗ lực cho sự chấm dứt của chính nguyên nhân tranh cãi xấu xa ấy. Này các tỳ khưu, nếu các ngươi không nhận thức được nguyên nhân tranh cãi có hình thức như thế một cách chủ quan hoặc khách quan, này các tỳ khưu, trong trường hợp ấy các ngươi nên thực hành để không đem lại sự hỗ trợ trong tương lai cho chính nguyên nhân tranh cãi xấu xa ấy. Như thế nguyên nhân tranh cãi xấu xa ấy có được sự chấm dứt. Như thế nguyên nhân tranh cãi xấu xa ấy không có được sự hỗ trợ trong tương lai.
[638] Này các tỳ khưu, còn có điều khác nữa: Có vị tỳ khưu trở nên đạo đức giả và dối trá, …(như trên)…, trở nên đố kỵ và bỏn xẻn, …(như trên)…, trở nên mưu mẹo và xảo trá, …(như trên)…, trở nên ác dục và tà kiến, …(như trên)…, trở nên chấp thủ một cách lộ liễu, ương ngạnh, khó sửa đổi. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu nào trở nên chấp thủ một cách lộ liễu, ương ngạnh, khó sửa đổi, vị ấy sống không cung kính, không phục tùng bậc Đạo Sư; vị ấy sống không cung kính, không phục tùng Giáo Pháp; vị ấy sống không cung kính, không phục tùng Hội chúng; vị ấy có sự thực hành không trọn vẹn việc học tập. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu nào sống không cung kính, không phục tùng bậc Đạo Sư, …(như trên)… Giáo Pháp, …(như trên)… Hội chúng…, có sự thực hành không trọn vẹn việc học tập, vị ấy gây nên sự tranh cãi trong hội chúng. Đó là sự tranh cãi đem lại sự không lợi ích cho nhiều người, đem lại sự không an lạc cho nhiều người, đem lại sự không tấn hóa cho nhiều người, đem lại sự không lợi ích và khổ đau cho chư thiên và nhân loại. Này các tỳ khưu, nếu các ngươi nhận thức được nguyên nhân tranh cãi có hình thức như thế một cách chủ quan và khách quan, này các tỳ khưu, trong trường hợp ấy các ngươi nên nỗ lực cho sự chấm dứt của chính nguyên nhân tranh cãi xấu xa ấy. Này các tỳ khưu, nếu các ngươi không nhận thức được nguyên nhân tranh cãi có hình thức như thế một cách chủ quan hoặc khách quan, này các tỳ khưu, trong trường hợp ấy các ngươi nên thực hành để không đem lại sự hỗ trợ trong tương lai cho chính nguyên nhân tranh cãi xấu xa ấy. Như thế nguyên nhân tranh cãi xấu xa ấy có được sự chấm dứt. Như thế nguyên nhân tranh cãi xấu xa ấy không có được sự hỗ trợ trong tương lai.
Sáu nguyên nhân tranh cãi này là nguyên nhân của sự tranh tụng liên quan đến tranh cãi.
[639] Ba nguyên nhân không tốt đẹp nào là nguyên nhân của sự tranh tụng liên quan đến tranh cãi?
– Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu tranh cãi do tâm tham lam, tranh cãi do tâm xấu xa, tranh cãi do tâm mê muội rằng: “Đây là Pháp,” hoặc “Đây không phải là Pháp,” hoặc “Đây là Luật,” hoặc “Đây không phải là Luật,” hoặc “Điều ấy đã được đấng Thiện Thệ thuyết giảng và nói đến,” hoặc “Điều ấy đã không được đấng Thiện Thệ thuyết giảng và nói đến,” hoặc “Điều ấy đã được đấng Thiện Thệ thực hành,” hoặc “Điều ấy đã không được đấng Thiện Thệ thực hành,” hoặc “Điều ấy đã được đấng Thiện Thệ quy định,” hoặc “Điều ấy đã không được đấng Thiện Thệ quy định,” hoặc “Điều ấy là phạm tội,” hoặc “Điều ấy là không phạm tội,” hoặc “Điều ấy là tội nhẹ,” hoặc “Điều ấy là tội nặng,” hoặc “Tội còn dư sót,” hoặc “Tội không còn dư sót,” hoặc “Tội xấu xa,” hoặc “Tội không xấu xa.”
Ba nguyên nhân không tốt đẹp này là nguyên nhân của sự tranh tụng liên quan đến tranh cãi.
[640] Ba nguyên nhân tốt đẹp nào là nguyên nhân của sự tranh tụng liên quan đến tranh cãi?
– Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu tranh cãi do tâm không tham lam, tranh cãi do tâm không xấu xa, tranh cãi do tâm không mê muội rằng: “Đây là Pháp,” hoặc “Đây không phải là Pháp,” …(như trên)… hoặc “Tội xấu xa,” hoặc “Tội không xấu xa.”
Ba nguyên nhân tốt đẹp này là nguyên nhân của sự tranh tụng liên quan đến tranh cãi.
[641] Nguyên nhân của sự tranh tụng liên quan đến khiển trách là gì?
– Có sáu nguyên nhân khiển trách là nguyên nhân của sự tranh tụng liên quan đến khiển trách. Cũng có ba nguyên nhân không tốt đẹp là nguyên nhân của sự tranh tụng liên quan đến khiển trách, và cũng có ba nguyên nhân tốt đẹp là nguyên nhân của sự tranh tụng liên quan đến khiển trách. Cơ thể (thân) cũng là nguyên nhân của sự tranh tụng liên quan đến khiển trách, và lời nói (khẩu) cũng là nguyên nhân của sự tranh tụng liên quan đến khiển trách.
[642] Sáu nguyên nhân khiển trách nào là nguyên nhân của sự tranh tụng liên quan đến khiển trách?
– Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trở nên giận dữ có sự hằn học. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu nào trở nên giận dữ, có sự hằn học, vị ấy sống không cung kính, không phục tùng bậc Đạo Sư; vị ấy sống không cung kính, không phục tùng Giáo Pháp; vị ấy sống không cung kính, không phục tùng Hội chúng; vị ấy có sự thực hành không trọn vẹn việc học tập. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu nào sống không cung kính, không phục tùng bậc Đạo Sư, …(như trên)… Giáo Pháp, …(như trên)… Hội chúng…, có sự thực hành không trọn vẹn việc học tập, vị ấy gây nên sự khiển trách trong hội chúng là sự khiển trách đem lại sự không lợi ích cho nhiều người, đem lại sự không an lạc cho nhiều người, đem lại sự không tấn hóa cho nhiều người, đem lại sự không lợi ích và khổ đau cho chư thiên và nhân loại. Này các tỳ khưu, nếu các ngươi nhận thức được nguyên nhân khiển trách có hình thức như thế một cách chủ quan và khách quan, này các tỳ khưu, trong trường hợp ấy các ngươi nên nỗ lực cho sự chấm dứt của chính nguyên nhân khiển trách xấu xa ấy. Này các tỳ khưu, nếu các ngươi không nhận thức được nguyên nhân khiển trách có hình thức như thế một cách chủ quan hoặc khách quan, này các tỳ khưu, trong trường hợp ấy các ngươi nên thực hành để không đem lại sự hỗ trợ trong tương lai cho chính nguyên nhân khiển trách xấu xa ấy. Như thế nguyên nhân khiển trách xấu xa ấy có được sự chấm dứt. Như thế nguyên nhân khiển trách xấu xa ấy không có được sự hỗ trợ trong tương lai.
[643] Này các tỳ khưu, còn có điều khác nữa: Có vị tỳ khưu trở nên đạo đức giả và dối trá, …(như trên)…, trở nên đố kỵ và bỏn xẻn, …(như trên)…, trở nên mưu mẹo và xảo trá, …(như trên)…, trở nên ác dục và tà kiến, …(như trên)…, trở nên chấp thủ một cách lộ liễu, ương ngạnh, khó sửa đổi. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu nào trở nên chấp thủ một cách lộ liễu, ương ngạnh, khó sửa đổi, vị ấy sống không cung kính, không phục tùng bậc Đạo Sư; vị ấy sống không cung kính, không phục tùng Giáo Pháp; vị ấy sống không cung kính, không phục tùng Hội chúng; vị ấy có sự thực hành không trọn vẹn việc học tập. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu nào sống không cung kính, không phục tùng bậc Đạo Sư, …(như trên)… Giáo Pháp, …(như trên)… Hội chúng…, có sự thực hành không trọn vẹn việc học tập, vị ấy gây nên sự khiển trách trong hội chúng là sự khiển trách đem lại sự không lợi ích cho nhiều người, đem lại sự không an lạc cho nhiều người, đem lại sự không tấn hóa cho nhiều người, đem lại sự không lợi ích và khổ đau cho chư thiên và nhân loại. Này các tỳ khưu, nếu các ngươi nhận thức được nguyên nhân khiển trách có hình thức như thế một cách chủ quan và khách quan, này các tỳ khưu, trong trường hợp ấy các ngươi nên nỗ lực cho sự chấm dứt của chính nguyên nhân khiển trách xấu xa ấy. Này các tỳ khưu, nếu các ngươi không nhận thức được nguyên nhân khiển trách có hình thức như thế một cách chủ quan hoặc khách quan, này các tỳ khưu, trong trường hợp ấy các ngươi nên thực hành để không đem lại sự hỗ trợ trong tương lai cho chính nguyên nhân khiển trách xấu xa ấy. Như thế nguyên nhân khiển trách xấu xa ấy có được sự chấm dứt. Như thế nguyên nhân khiển trách xấu xa ấy không có được sự hỗ trợ trong tương lai.
Sáu nguyên nhân khiển trách này là nguyên nhân của sự tranh tụng liên quan đến khiển trách.
[644] Ba nguyên nhân không tốt đẹp nào là nguyên nhân của sự tranh tụng liên quan đến khiển trách?
– Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu khiển trách vị tỳ khưu do tâm tham lam, khiển trách do tâm xấu xa, khiển trách do tâm mê muội với sự hư hỏng về giới, hoặc với sự hư hỏng về hạnh kiểm, hoặc với sự hư hỏng về tri kiến, hoặc với sự hư hỏng về nuôi mạng.
Ba nguyên nhân không tốt đẹp này là nguyên nhân của sự tranh tụng liên quan đến khiển trách.
[645] Ba nguyên nhân tốt đẹp nào là nguyên nhân của sự tranh tụng liên quan đến khiển trách?
– Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu khiển trách vị tỳ khưu do tâm không tham lam, khiển trách do tâm không xấu xa, khiển trách do tâm không mê muội với sự hư hỏng về giới, với sự hư hỏng về hạnh kiểm, với sự hư hỏng về tri kiến, hoặc với sự hư hỏng về nuôi mạng.
Ba nguyên nhân tốt đẹp này là nguyên nhân của sự tranh tụng liên quan đến khiển trách.
[646] Cơ thể (thân) như thế nào là nguyên nhân của sự tranh tụng liên quan đến khiển trách?
– Ở đây có vị có màu da tối, có vóc dáng xấu xí, dị dạng (okoṭimako), nhiều bệnh: hoặc là chột mắt, hoặc là chân bị tật, hoặc bị què, hoặc bị liệt nửa thân, các vị khiển trách vị ấy về điều ấy. Cơ thể (thân) như thế ấy là nguyên nhân của sự tranh tụng liên quan đến khiển trách.
[647] Lời nói (khẩu) như thế nào là nguyên nhân của sự tranh tụng liên quan đến khiển trách?
– Ở đây có vị có giọng nói khó (nghe), có tật cà lăm, có giọng nói khàn khàn, các vị khiển trách vị ấy về điều ấy. Lời nói (khẩu) như thế ấy là nguyên nhân của sự tranh tụng liên quan đến khiển trách.
[648] Nguyên nhân của sự tranh tụng liên quan đến tội là gì?
– Sáu nguồn sanh tội là nguyên nhân của sự tranh tụng liên quan đến tội. Có sự phạm tội sanh lên do thân, không do khẩu không do ý. Có sự phạm tội sanh lên do khẩu, không do thân không do ý. Có sự phạm tội sanh lên do thân và do khẩu, không do ý. Có sự phạm tội sanh lên do thân và do ý, không do khẩu. Có sự phạm tội sanh lên do khẩu và do ý, không do thân. Có sự phạm tội sanh lên do thân, do khẩu, và do ý.
Sáu nguồn sanh tội này là nguyên nhân của sự tranh tụng liên quan đến tội.
[649] Nguyên nhân của sự tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ là gì?
– Có một nguyên nhân của sự tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ là: Hội chúng.
[650] Sự tranh tụng liên quan đến tranh cãi là tốt, là xấu, (hay) là không tốt không xấu?
– Sự tranh tụng liên quan đến tranh cãi có thể là tốt, có thể là xấu, có thể là không tốt không xấu.
[651] Ở đây, sự tranh tụng liên quan đến tranh cãi nào là xấu?
– Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu tranh cãi do tâm bất thiện: “Đây là Pháp,” hoặc “Đây không phải là Pháp,” …(như trên)… “Tội xấu xa,” hoặc “Tội không xấu xa.” Trong trường hợp ấy, việc nào là sự xung đột, gây gỗ, tranh luận, tranh cãi, nhiều quan điểm, khác quan điểm, cãi vã là thói thường của sự nóng nảy; việc ấy tức là sự tranh tụng liên quan đến tranh cãi được gọi là xấu.
[652] Ở đây, sự tranh tụng liên quan đến tranh cãi nào là tốt?
– Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu tranh cãi do tâm thiện: “Đây là Pháp,” hoặc “Đây không phải là Pháp,” …(như trên)… hoặc “Tội xấu xa,” hoặc “Tội không xấu xa.” Trong trường hợp ấy, việc nào là sự xung đột, gây gỗ, tranh luận, tranh cãi, nhiều quan điểm, khác quan điểm, cãi vã là thói thường của sự nóng nảy; việc ấy tức là sự tranh tụng liên quan đến tranh cãi được gọi là tốt.
[653] Ở đây, sự tranh tụng liên quan đến tranh cãi nào là không tốt không xấu?
– Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu tranh cãi do tâm vô ký: “Đây là Pháp,” hoặc “Đây không phải là Pháp,” …(như trên)… hoặc “Tội xấu xa,” hoặc “Tội không xấu xa.” Trong trường hợp ấy, việc nào là sự xung đột, gây gỗ, tranh luận, tranh cãi, nhiều quan điểm, khác quan điểm, cãi vã là thói thường của sự nóng nảy; việc ấy tức là sự tranh tụng liên quan đến tranh cãi được gọi là không tốt không xấu.
[654] Sự tranh tụng liên quan đến khiển trách là tốt, là xấu, (hay) là không tốt không xấu?
– Sự tranh tụng liên quan đến khiển trách có thể là tốt, có thể là xấu, có thể là không tốt không xấu.
[655] Ở đây, sự tranh tụng liên quan đến khiển trách nào là xấu?
– Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu do tâm bất thiện khiển trách vị tỳ khưu với sự hư hỏng về giới, hoặc với sự hư hỏng về hạnh kiểm, hoặc với sự hư hỏng về tri kiến, hoặc với sự hư hỏng về nuôi mạng. Trong trường hợp ấy, việc nào là sự khiển trách, sự xoi mói, sự buộc tội, sự chỉ trích, sự moi móc, sự xúi giục, sự khích động; việc ấy tức là sự tranh tụng liên quan đến khiển trách được gọi là xấu.
[656] Ở đây, sự tranh tụng liên quan đến khiển trách nào là tốt?
– Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu do tâm thiện khiển trách vị tỳ khưu với sự hư hỏng về giới, với sự hư hỏng về hạnh kiểm, với sự hư hỏng về tri kiến, hoặc với sự hư hỏng về nuôi mạng. Trong trường hợp ấy, việc nào là sự khiển trách, sự xoi mói, sự buộc tội, sự chỉ trích, sự moi móc, sự xúi giục, sự khích động; việc ấy tức là sự tranh tụng liên quan đến khiển trách được gọi là tốt.
[657] Ở đây, sự tranh tụng liên quan đến khiển trách nào là không tốt không xấu?
– Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu do tâm vô ký khiển trách vị tỳ khưu với sự hư hỏng về giới, với sự hư hỏng về hạnh kiểm, với sự hư hỏng về tri kiến, hoặc với sự hư hỏng về nuôi mạng. Trong trường hợp ấy, việc nào là sự khiển trách, sự xoi mói, sự buộc tội, sự chỉ trích, sự moi móc, sự xúi giục, sự khích động; việc ấy tức là sự tranh tụng liên quan đến khiển trách được gọi là không tốt không xấu.
[658] Sự tranh tụng liên quan đến tội là tốt, là xấu, (hay) là không tốt không xấu?
– Sự tranh tụng liên quan đến tội có thể là xấu, có thể là không tốt không xấu, không có sự tranh tụng liên quan đến tội là tốt.
[659] Ở đây, sự tranh tụng liên quan đến tội nào là xấu?
– Này các tỳ khưu, việc (vị tỳ khưu) có sự vi phạm trong khi nhận biết, trong khi nhận thức rõ, đã cố ý, rồi vượt qua; việc ấy tức là sự tranh tụng liên quan đến tội được gọi là xấu.
Ở đây, sự tranh tụng liên quan đến tội nào là không tốt không xấu?
– Này các tỳ khưu, việc (vị tỳ khưu) có sự vi phạm trong khi không nhận biết, trong khi không nhận thức rõ, đã không cố ý, rồi không vượt qua; việc ấy tức là sự tranh tụng liên quan đến tội được gọi là không tốt không xấu.
[660] Sự tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ là tốt, là xấu, (hay) là không tốt không xấu?
– Sự tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ có thể là tốt, có thể là xấu, có thể là không tốt không xấu.
[661] Ở đây, sự tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ nào là xấu?
– Việc hội chúng thực thi hành sự với lời công bố, hành sự với lời đề nghị, hành sự với lời thông báo đến lần thứ hai, hành sự với lời thông báo đến lần thứ tư với tâm bất thiện; việc ấy tức là sự tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ được gọi là xấu.
[662] Ở đây, sự tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ nào là tốt?
– Việc hội chúng thực thi hành sự với lời công bố, hành sự với lời đề nghị, hành sự với lời thông báo đến lần thứ hai, hành sự với lời thông báo đến lần thứ tư với tâm thiện; việc ấy tức là sự tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ được gọi là tốt.
[663] Ở đây, sự tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ nào là không tốt không xấu?
– Việc hội chúng thực thi hành sự với lời công bố, hành sự với lời đề nghị, hành sự với lời thông báo đến lần thứ hai, hành sự với lời thông báo đến lần thứ tư với tâm vô ký; việc ấy tức là sự tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ được gọi là không tốt không xấu.
[664] (Một việc có thể) là sự tranh cãi (hoặc là) sự tranh tụng liên quan đến tranh cãi, là sự tranh cãi không là sự tranh tụng, là sự tranh tụng không là sự tranh cãi, vừa là sự tranh tụng vừa là sự tranh cãi (hay không)?
– (Một việc) có thể là sự tranh cãi (hoặc là) sự tranh tụng liên quan đến tranh cãi, có thể là sự tranh cãi không là sự tranh tụng, có thể là sự tranh tụng không là sự tranh cãi, có thể vừa là sự tranh tụng vừa là sự tranh cãi.
[665] Ở đây, việc nào là sự tranh cãi (hoặc là) sự tranh tụng liên quan đến tranh cãi?
– Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu tranh cãi rằng: “Đây là Pháp,” hoặc “Đây không phải là Pháp,” …(như trên)… hoặc “Tội xấu xa,” hoặc “Tội không xấu xa.” Trong trường hợp ấy, việc nào là sự xung đột, gây gỗ, tranh luận, tranh cãi, nhiều quan điểm, khác quan điểm, cãi vã là thói thường của sự nóng nảy; việc ấy là sự tranh cãi (hoặc là) sự tranh tụng liên quan đến tranh cãi.
Ở đây, việc nào là sự tranh cãi không là sự tranh tụng?
– Mẹ tranh cãi với con trai, con trai tranh cãi với mẹ, cha tranh cãi với con trai, con trai tranh cãi với cha, anh em trai tranh cãi với anh em trai, anh em trai tranh cãi với chị em gái, chị em gái tranh cãi với anh em trai, bạn bè tranh cãi với bạn bè; việc ấy là sự tranh cãi không là sự tranh tụng.
Ở đây, việc nào là sự tranh tụng không là sự tranh cãi?
– Sự tranh tụng liên quan đến khiển trách, sự tranh tụng liên quan đến tội, sự tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ; việc ấy là sự tranh tụng không là sự tranh cãi.
Ở đây, việc nào vừa là sự tranh tụng vừa là sự tranh cãi?
– Sự tranh tụng liên quan đến tranh cãi vừa là sự tranh tụng vừa là sự tranh cãi.
[666] (Một việc có thể) là sự khiển trách (hoặc là) sự tranh tụng liên quan đến khiển trách, là sự khiển trách không là sự tranh tụng, là sự tranh tụng không là sự khiển trách, vừa là sự tranh tụng vừa là sự khiển trách (hay không)?
– (Một việc) có thể là sự khiển trách (hoặc là) sự tranh tụng liên quan đến khiển trách, có thể là sự khiển trách không là sự tranh tụng, có thể là sự tranh tụng không là sự khiển trách, có thể vừa là sự tranh tụng vừa là sự khiển trách.
[667] Ở đây, việc nào là sự khiển trách (hoặc là) sự tranh tụng liên quan đến khiển trách?
– Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu khiển trách vị tỳ khưu với sự hư hỏng về giới, hoặc với sự hư hỏng về hạnh kiểm, hoặc với sự hư hỏng về tri kiến, hoặc với sự hư hỏng về nuôi mạng. Trong trường hợp ấy, việc nào là sự khiển trách, sự xoi mói, sự buộc tội, sự chỉ trích, sự moi móc, sự xúi giục, sự khích động; việc ấy là sự khiển trách (hoặc là) sự tranh tụng liên quan đến khiển trách.
Ở đây, việc nào là sự khiển trách nào không là sự tranh tụng?
– Mẹ khiển trách con trai, con trai khiển trách mẹ, cha khiển trách con trai, con trai khiển trách cha, anh em trai khiển trách anh em trai, anh em trai khiển trách chị em gái, chị em gái khiển trách anh em trai, bạn bè khiển trách bạn bè; việc ấy là sự khiển trách không là sự tranh tụng.
Ở đây, việc nào là sự tranh tụng không là sự khiển trách?
– Sự tranh tụng liên quan đến tội, sự tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ, sự tranh tụng liên quan đến tranh cãi; việc ấy là sự tranh tụng không là sự khiển trách.
Ở đây, việc nào vừa là sự tranh tụng vừa là sự khiển trách?
– Sự tranh tụng liên quan đến khiển trách vừa là sự tranh tụng vừa là sự khiển trách.
[668] (Một việc có thể) là sự phạm tội (hoặc là) sự tranh tụng liên quan đến tội, là sự phạm tội không là sự tranh tụng, là sự tranh tụng không là sự phạm tội, vừa là sự tranh tụng vừa là sự phạm tội (hay không)?
– (Một việc) có thể là sự phạm tội (hoặc là) sự tranh tụng liên quan đến tội, có thể là sự phạm tội không là sự tranh tụng, có thể là sự tranh tụng không là sự phạm tội, có thể vừa là sự tranh tụng vừa là sự phạm tội.
[669] Ở đây, việc nào là sự phạm tội (hoặc là) sự tranh tụng liên quan đến tội?
– Năm nhóm tội là sự tranh tụng liên quan đến tội, và bảy nhóm tội là sự tranh tụng liên quan đến tội; việc ấy là sự phạm tội (hoặc là) sự tranh tụng liên quan đến tội.
Ở đây, việc nào là āpatti (sự phạm tội) không là sự tranh tụng?
– Quả vị Nhập Lưu (Sotāpatti), sự thành đạt (samāpatti) (đây là nghệ thuật chơi chữ với từ āpatti); việc ấy là āpatti (sự phạm tội) không là sự tranh tụng.
Ở đây, việc nào là sự tranh tụng không là sự phạm tội?
– Sự tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ, sự tranh tụng liên quan đến tranh cãi, sự tranh tụng liên quan đến khiển trách; việc ấy là sự tranh tụng không là sự phạm tội.
Ở đây, việc nào vừa là sự tranh tụng vừa là sự phạm tội?
– Sự tranh tụng liên quan đến tội vừa là sự tranh tụng vừa là sự phạm tội.
[670] (Một việc có thể) là nhiệm vụ (hoặc là) sự tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ, là nhiệm vụ không là sự tranh tụng, là sự tranh tụng không là nhiệm vụ, vừa là sự tranh tụng vừa là nhiệm vụ (hay không)?
– (Một việc) có thể là nhiệm vụ (hoặc là) sự tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ, có thể là nhiệm vụ không là sự tranh tụng, có thể là sự tranh tụng không là nhiệm vụ, có thể vừa là sự tranh tụng vừa là nhiệm vụ.
[671] Ở đây, việc nào là nhiệm vụ (hoặc là) sự tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ?
– Này các tỳ khưu, việc nào thuộc về hội chúng cần phải hoàn thành, cần phải thực thi (tức là) hành sự với lời công bố, hành sự với lời đề nghị, hành sự với lời thông báo đến lần thứ hai, hành sự với lời thông báo đến lần thứ tư; việc ấy là nhiệm vụ (hoặc là) sự tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ.
Ở đây, việc nào là nhiệm vụ không là sự tranh tụng?
– Nhiệm vụ của thầy giáo thọ, nhiệm vụ của thầy tế độ, nhiệm vụ của các vị chung thầy tế độ, nhiệm vụ của các vị chung thầy giáo thọ; việc ấy là nhiệm vụ không là sự tranh tụng.
Ở đây, việc nào là sự tranh tụng không là nhiệm vụ?
– Sự tranh tụng liên quan đến tranh cãi, sự tranh tụng liên quan đến khiển trách, sự tranh tụng liên quan đến tội; việc ấy là sự tranh tụng không là nhiệm vụ.
Ở đây, việc nào vừa là sự tranh tụng vừa là nhiệm vụ?
– Sự tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ vừa là sự tranh tụng vừa là nhiệm vụ.
9. CHỈ ĐỊNH CÁCH DÀN XẾP MỘT SỰ TRANH TỤNG:
[672] Sự tranh tụng liên quan đến tranh cãi được lắng dịu bởi bao nhiêu cách dàn xếp?
– Sự tranh tụng liên quan đến tranh cãi được lắng dịu bởi hai cách dàn xếp: bằng cách hành xử Luật với sự hiện diện và bằng cách thuận theo số đông.
Nếu sự tranh tụng liên quan đến tranh cãi không áp dụng được một cách dàn xếp là thuận theo số đông, thì có thể được lắng dịu bằng một cách dàn xếp là cách hành xử Luật với sự hiện diện hay không?
– Nên trả lời rằng: “Có thể.”
Như vậy là thế nào?
– Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu tranh cãi: “Đây là Pháp,” hoặc “Đây không phải là Pháp,” hoặc “Đây là Luật,” hoặc “Đây không phải là Luật,” hoặc “Điều ấy đã được đấng Thiện Thệ thuyết giảng và nói đến,” hoặc “Điều ấy đã không được đấng Thiện Thệ thuyết giảng và nói đến,” hoặc “Điều ấy đã được đấng Thiện Thệ thực hành,” hoặc “Điều ấy đã không được đấng Thiện Thệ thực hành,” hoặc “Điều ấy đã được đấng Thiện Thệ quy định,” hoặc “Điều ấy đã không được đấng Thiện Thệ quy định,” hoặc “Điều ấy là phạm tội,” hoặc “Điều ấy là không phạm tội,” hoặc “Điều ấy là tội nhẹ,” hoặc “Điều ấy là tội nặng,” hoặc “Tội còn dư sót,” hoặc “Tội không còn dư sót,” hoặc “Tội xấu xa,” hoặc “Tội không xấu xa.” Này các tỳ khưu, nếu các tỳ khưu ấy có thể giải quyết sự tranh tụng ấy, này các tỳ khưu, điều ấy được gọi là sự tranh tụng đã được giải quyết.
Được giải quyết nhờ vào điều gì?
– Nhờ vào cách hành xử Luật với sự hiện diện.
Và ở đây, điều gì là ở trong cách hành xử Luật với sự hiện diện?
– Sự hiện diện của hội chúng, sự hiện diện của Pháp, sự hiện diện của Luật, sự hiện diện của nhân sự.
Và ở đây, sự hiện diện của hội chúng là gì?
– Các tỳ khưu theo số lượng cần thiết cho hành sự đã đi đến, sự tùy thuận của các vị xứng đáng gởi sự tùy thuận đã được đem lại, trong khi hiện diện các vị không phản đối; ở đây, điều ấy là sự hiện diện của hội chúng.
Và ở đây, sự hiện diện của Pháp, sự hiện diện của Luật là gì?
– Với Pháp nào, với Luật nào, với lời giảng dạy nào của bậc Đạo Sư, sự tranh tụng ấy được giải quyết; ở đây, điều ấy là sự hiện diện của Pháp, là sự hiện diện của Luật.
Và ở đây, sự hiện diện của nhân sự là gì?
– Vị tranh cãi, vị tranh cãi với vị ấy, cả hai phe đối địch của sự kiện đều hiện diện; ở đây, điều ấy là sự hiện diện của nhân sự.
Này các tỳ khưu, nếu có vị khơi lại sự tranh tụng đã được giải quyết như thế, vị khơi lại phạm tội pācittiya (ưng đối trị); (nếu) vị gởi thỏa thuận phê phán, vị phê phán phạm tội pācittiya.
[673] Này các tỳ khưu, nếu các tỳ khưu ấy không thể giải quyết sự tranh tụng ấy tại trú xứ ấy, này các tỳ khưu, các tỳ khưu ấy nên đi đến trú xứ có nhiều tỳ khưu hơn. Này các tỳ khưu, trong lúc đang đi trên đường đến trú xứ kia, nếu các tỳ khưu ấy có thể giải quyết sự tranh tụng ấy; này các tỳ khưu, điều ấy được gọi là sự tranh tụng đã được giải quyết.
Được giải quyết nhờ vào điều gì?
– Nhờ vào cách hành xử Luật với sự hiện diện.
Và ở đây, điều gì là ở trong cách hành xử Luật với sự hiện diện?
– Sự hiện diện của hội chúng, sự hiện diện của Pháp, sự hiện diện của Luật, sự hiện diện của nhân sự.
Và ở đây, sự hiện diện của hội chúng là gì?
– Các tỳ khưu theo số lượng cần thiết cho hành sự đã đi đến, sự tùy thuận của các vị xứng đáng gởi sự tùy thuận đã được đem lại, trong khi hiện diện các vị không phản đối; ở đây, điều ấy là sự hiện diện của hội chúng.
Và ở đây, sự hiện diện của Pháp, sự hiện diện của Luật là gì?
– Với Pháp nào, với Luật nào, với lời giảng dạy nào của bậc Đạo Sư sự tranh tụng ấy được giải quyết; ở đây, điều ấy là sự hiện diện của Pháp, là sự hiện diện của Luật.
Và ở đây, sự hiện diện của nhân sự là gì?
– Vị tranh cãi, vị tranh cãi với vị ấy, cả hai phe đối địch của sự kiện đều hiện diện; ở đây, điều ấy là sự hiện diện của nhân sự.
Này các tỳ khưu, nếu có vị khơi lại sự tranh tụng đã được giải quyết như thế, vị khơi lại phạm tội pācittiya (ưng đối trị); (nếu) vị gởi thỏa thuận phê phán, vị phê phán phạm tội pācittiya.
[674] Này các tỳ khưu, trong lúc đang đi trên đường đến trú xứ kia, nếu các tỳ khưu ấy không thể giải quyết sự tranh tụng ấy; này các tỳ khưu, sau khi đi đến trú xứ kia, các tỳ khưu ấy nên nói các tỳ khưu thường trú như vầy: “Này các đại đức, sự tranh tụng này đã sanh khởi như vầy, đã diễn tiến như vầy, lành thay xin các đại đức hãy giải quyết sự tranh tụng này theo Pháp theo Luật theo lời dạy của bậc Đạo sư; như thế sự tranh tụng này có thể được giải quyết tốt đẹp.” Này các tỳ khưu, nếu các tỳ khưu thường trú thâm niên hơn và các tỳ khưu đi đến là kém thâm niên, này các tỳ khưu, các tỳ khưu thường trú nên nói với các tỳ khưu đi đến như vầy: “Này các đại đức, các vị hãy sang một bên trong chốc lát để chúng tôi còn hội ý.” Này các tỳ khưu, nếu các tỳ khưu thường trú kém thâm niên và các tỳ khưu đi đến là thâm niên hơn, này các tỳ khưu, các tỳ khưu thường trú nên nói với các tỳ khưu đi đến như vầy: “Này các đại đức, như vậy thì xin các vị hãy chờ tại đây trong chốc lát để chúng tôi còn hội ý.”
Này các tỳ khưu, nếu các tỳ khưu thường trú trong lúc hội ý khởi lên như vầy: “Chúng ta không thể giải quyết sự tranh tụng này theo Pháp theo Luật theo lời dạy của bậc Đạo sư được,” các tỳ khưu thường trú không nên nhận lãnh sự tranh tụng ấy.
Này các tỳ khưu, nếu các tỳ khưu thường trú trong lúc hội ý khởi lên như vầy: “Chúng ta có thể giải quyết sự tranh tụng này theo Pháp theo Luật theo lời dạy của bậc Đạo sư;” này các tỳ khưu, các tỳ khưu thường trú ấy nên nói với các tỳ khưu đi đến như vầy: “Này các đại đức, nếu các vị trình bày cho chúng tôi sự tranh tụng này đã sanh khởi như thế nào đã diễn tiến như thế nào, chúng tôi sẽ giải quyết sự tranh tụng này theo Pháp, theo Luật, theo lời dạy của bậc Đạo sư theo cách sẽ được giải quyết tốt đẹp; như vậy chúng tôi sẽ nhận lãnh sự tranh tụng này. Này các đại đức, nếu các vị không trình bày cho chúng tôi sự tranh tụng này đã sanh khởi như thế nào đã diễn tiến như thế nào, chúng tôi sẽ giải quyết sự tranh tụng này theo Pháp, theo Luật, theo lời dạy của bậc Đạo sư theo cách sẽ không được giải quyết tốt đẹp; như vậy chúng tôi sẽ không nhận lãnh sự tranh tụng này.” Này các tỳ khưu, sau khi xem xét kỷ lưỡng như vậy, các tỳ khưu thường trú nên nhận lãnh sự tranh tụng ấy.
Này các tỳ khưu, các tỳ khưu đi đến ấy nên nói với các tỳ khưu thường trú như vầy: “Chúng tôi sẽ trình bày cho các đại đức sự tranh tụng này đã sanh khởi như thế nào đã diễn tiến như thế nào. Nếu các đại đức có thể giải quyết sự tranh tụng này theo Pháp, theo Luật, theo lời dạy của bậc Đạo sư trong giới hạn chừng ấy hoặc chừng ấy (ettakena vā ettakena vā antarena), như thế (sự tranh tụng) sẽ được giải quyết tốt đẹp; như vậy, chúng tôi sẽ giao phó sự tranh tụng này cho các đại đức. Nếu các đại đức không thể giải quyết sự tranh tụng này theo Pháp, theo Luật, theo lời dạy của bậc Đạo sư trong giới hạn chừng ấy hoặc chừng ấy, như thế (sự tranh tụng) sẽ không được giải quyết tốt đẹp; như vậy, chúng tôi sẽ không giao phó sự tranh tụng này cho các đại đức, chính chúng tôi sẽ là người chủ trì sự tranh tụng này.” Này các tỳ khưu, sau khi xem xét kỷ lưỡng như vậy, các tỳ khưu đi đến nên giao phó sự tranh tụng ấy cho các tỳ khưu thường trú.
Này các tỳ khưu, nếu các tỳ khưu ấy có thể giải quyết sự tranh tụng ấy, này các tỳ khưu, điều ấy được gọi là sự tranh tụng đã được giải quyết.
Được giải quyết nhờ vào điều gì? – Nhờ vào cách hành xử Luật với sự hiện diện. Và ở đây, điều gì là ở trong cách hành xử Luật với sự hiện diện? – Sự hiện diện của hội chúng, sự hiện diện của Pháp, sự hiện diện của Luật, sự hiện diện của nhân sự. …(như trên)…
Này các tỳ khưu, nếu có vị khơi lại sự tranh tụng đã được giải quyết như thế, vị khơi lại phạm tội pācittiya (ưng đối trị); (nếu) vị gởi thỏa thuận phê phán, vị phê phán phạm tội pācittiya.
[675] Này các tỳ khưu, trong khi các tỳ khưu ấy phán xét sự tranh tụng ấy, nếu các lời bàn cãi bất tận được sanh khởi nhưng không lời phát biểu nào có ý nghĩa; này các tỳ khưu, ta cho phép giải quyết sự tranh tụng như thế ấy theo lối đại biểu (ubbāhikāya).
Theo lối đại biểu, cần chỉ định vị tỳ khưu hội đủ mười điều kiện: Là vị có giới hạnh, sống thu thúc theo sự thu thúc của giới bổn Pātimokkha, thành tựu về hạnh kiểm và hành xứ (ācāragocara), thấy được sự nguy hiểm trong những tội lỗi nhỏ nhặt, thọ trì và thực hành theo các điều học; là vị nghe nhiều, nắm giữ và tích lũy các điều đã được nghe, các pháp nào là tốt đẹp phần đầu, tốt đẹp phần giữa, tốt đẹp phần cuối, thành tựu về ý nghĩa, thành tựu về văn tự, giảng giải về Phạm hạnh thanh tịnh một cách trọn vẹn và đầy đủ, các pháp có hình thức như thế được (vị ấy) nghe nhiều, ghi nhớ, ôn đọc ra lời, dùng trí quán sát, dùng tri kiến phân tích; cả hai bộ giới bổn Pātimokkha đã khéo được truyền thừa với chi tiết đến vị ấy, khéo được phân tích, khéo được ứng dụng, khéo được xác định theo từng điều học, theo từng từ ngữ; là vị tinh xảo về Luật không có bối rối; là vị có năng lực làm cho cả hai phe đối địch của sự kiện phải tin tưởng, phải suy nghĩ lại, làm cho hiểu được, làm cho thấy được, và làm cho hoan hỷ; khéo léo giải quyết sự tranh tụng đã được diễn tiến; vị hiểu biết sự tranh tụng; hiểu biết nguyên cớ của sự tranh tụng; hiểu biết sự chấm dứt của sự tranh tụng; hiểu biết đường lối thực hành để chấm dứt sự tranh tụng. Này các tỳ khưu, ta cho phép chỉ định theo lối đại biểu vị tỳ khưu hội đủ mười điều kiện này.
[676] Và này các tỳ khưu, nên chỉ định như vầy: Trước hết, vị tỳ khưu cần được yêu cầu; sau khi yêu cầu, hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Trong khi chúng ta phán xét sự tranh tụng này, các lời bàn cãi bất tận được sanh khởi nhưng không lời phát biểu nào có ý nghĩa. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên chỉ định vị tỳ khưu tên (như vầy) và tên (như vầy) để giải quyết sự tranh tụng này theo lối đại biểu. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Trong khi chúng ta phán xét sự tranh tụng này, các lời bàn cãi bất tận được sanh khởi nhưng không lời phát biểu nào có ý nghĩa. Hội chúng chỉ định vị tỳ khưu tên (như vầy) và tên (như vầy) để giải quyết sự tranh tụng này theo lối đại biểu. Đại đức nào đồng ý việc chỉ định vị tỳ khưu tên (như vầy) và tên (như vầy) để giải quyết sự tranh tụng này theo lối đại biểu xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Vị tỳ khưu tên (như vầy) và tên (như vầy) đã được hội chúng chỉ định để giải quyết sự tranh tụng này theo lối đại biểu. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
[677] Này các tỳ khưu, nếu các tỳ khưu ấy có thể giải quyết sự tranh tụng ấy theo lối đại biểu, này các tỳ khưu, điều ấy được gọi là sự tranh tụng đã được giải quyết.
Được giải quyết nhờ vào điều gì? – Nhờ vào cách hành xử Luật với sự hiện diện. Và ở đây, điều gì là ở trong cách hành xử Luật với sự hiện diện? – Sự hiện diện của Pháp, sự hiện diện của Luật, sự hiện diện của nhân sự. …(như trên)…
Này các tỳ khưu, nếu có vị khơi lại sự tranh tụng đã được giải quyết như thế, vị khơi lại phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[678] Này các tỳ khưu, trong khi các tỳ khưu ấy đang phán xét sự tranh tụng ấy, nếu ở đó, có vị tỳ khưu là Pháp sư nhưng kiến thức của chính vị ấy không được truyền thừa, không biết sự phân tích về giới bổn, vị ấy trong khi không xem xét ý nghĩa lại phủ nhận ý nghĩa ẩn sau các văn tự. Các tỳ khưu ấy cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch chư đại đức, xin hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu tên (như vầy) là Pháp sư nhưng kiến thức của chính vị ấy không được truyền thừa, không biết sự phân tích về giới bổn, vị ấy trong khi không xem xét ý nghĩa lại phủ nhận ý nghĩa ẩn sau các văn tự. Nếu là thời điểm thích hợp cho chư đại đức, chúng ta nên loại ra vị tỳ khưu tên (như vầy) và những người còn lại (chúng ta) sẽ giải quyết sự tranh tụng này.”
Này các tỳ khưu, nếu các tỳ khưu ấy sau khi loại vị tỳ khưu ấy ra có thể giải quyết sự tranh tụng ấy; này các tỳ khưu, điều ấy được gọi là sự tranh tụng đã được giải quyết.
Được giải quyết nhờ vào điều gì? – Nhờ vào cách hành xử Luật với sự hiện diện. Và ở đây, điều gì là ở trong cách hành xử Luật với sự hiện diện? – Sự hiện diện của Pháp, sự hiện diện của Luật, sự hiện diện của nhân sự. …(như trên)…
Này các tỳ khưu, nếu có vị khơi lại sự tranh tụng đã được giải quyết như thế, vị khơi lại phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[679] Này các tỳ khưu, trong khi các vị tỳ khưu ấy đang phán xét sự tranh tụng ấy, nếu ở đó, có vị tỳ khưu là Pháp sư bởi vì kiến thức của vị ấy được truyền thừa (nhưng) không biết sự phân tích về giới bổn, vị ấy trong khi không xem xét ý nghĩa lại phủ nhận ý nghĩa ẩn sau các văn tự. Các tỳ khưu ấy cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch chư đại đức, xin hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu tên (như vầy) là Pháp sư bởi vì kiến thức của vị ấy được truyền thừa (nhưng) không biết sự phân tích về giới bổn, vị ấy trong khi không xem xét ý nghĩa lại phủ nhận ý nghĩa ẩn sau các văn tự. Nếu là thời điểm thích hợp cho chư đại đức, chúng ta nên loại ra vị tỳ khưu tên (như vầy) và những người còn lại (chúng ta) sẽ giải quyết sự tranh tụng này.”
Này các tỳ khưu, nếu các tỳ khưu ấy sau khi loại vị tỳ khưu ấy ra có thể giải quyết sự tranh tụng ấy; này các tỳ khưu, điều ấy được gọi là sự tranh tụng đã được giải quyết.
Được giải quyết nhờ vào điều gì? – Nhờ vào cách hành xử Luật với sự hiện diện. Và ở đây, điều gì là ở trong cách hành xử Luật với sự hiện diện? – Sự hiện diện của Pháp, sự hiện diện của Luật, sự hiện diện của nhân sự. …(như trên)…
Này các tỳ khưu, nếu có vị khơi lại sự tranh tụng đã được giải quyết như thế, vị khơi lại phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[680] Này các tỳ khưu, nếu các tỳ khưu ấy không thể giải quyết sự tranh tụng ấy theo lối đại biểu, này các tỳ khưu, các tỳ khưu ấy nên giao lại sự tranh tụng ấy cho hội chúng:
– Bạch các ngài, chúng tôi không thể giải quyết sự tranh tụng này theo lối đại biểu, chính hội chúng hãy giải quyết sự tranh tụng này.
Này các tỳ khưu, ta cho phép giải quyết thuận theo số đông sự tranh tụng có hình thức như thế. Cần chỉ định vị phân phát thẻ (salākaggāhāpako) là vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện: Vị không thể bị chi phối bởi sự ưa thích, không thể bị chi phối bởi sự sân hận, không thể bị chi phối bởi sự si mê, không thể bị chi phối bởi sự sợ hãi, và vị biết (thẻ) đã được nhận hay không được nhận.
…(như trên)…
Tỳ khưu tên (như vầy) đã được hội chúng chỉ định là vị phân phát thẻ. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.
Vị tỳ khưu phân phát thẻ ấy nên phân phát các thẻ. (Trường hợp) các tỳ khưu là các vị nói đúng Pháp có (số lượng) nhiều hơn phát biểu (nên giải quyết) như thế nào thì sự tranh tụng ấy nên được giải quyết như thế ấy. Này các tỳ khưu, điều ấy được gọi là sự tranh tụng đã được giải quyết.
Được giải quyết nhờ vào điều gì?
– Nhờ vào cách hành xử Luật với sự hiện diện và thuận theo số đông.
Và ở đây, điều gì là ở trong cách hành xử Luật với sự hiện diện?
– Sự hiện diện của hội chúng, sự hiện diện của Pháp, sự hiện diện của Luật, sự hiện diện của nhân sự.
Và ở đây, sự hiện diện của hội chúng là gì? – Các tỳ khưu theo số lượng cần thiết cho hành sự đã đi đến, sự tùy thuận của các vị xứng đáng gởi sự tùy thuận đã được đem lại, trong khi hiện diện các vị không phản đối; ở đây, điều ấy là sự hiện diện của hội chúng. Và ở đây, sự hiện diện của Pháp, sự hiện diện của Luật là gì? – Với Pháp nào, với Luật nào, với lời giảng dạy nào của bậc Đạo Sư sự tranh tụng ấy được giải quyết; ở đây điều ấy là sự hiện diện của Pháp, là sự hiện diện của Luật. Và ở đây, sự hiện diện của nhân sự là gì? – Vị tranh cãi, vị tranh cãi với vị ấy, cả hai phe đối địch của sự kiện đều hiện diện; ở đây, điều ấy là sự hiện diện của nhân sự.
Và ở đây, điều gì là liên quan đến thuận theo số đông?
– Điều nào là sự thực hiện, sự hành động, sự đạt đến, sự thỏa thuận, sự chấp nhận, sự không phản đối thuộc về hành sự thuận theo số đông; ở đây điều ấy là liên quan đến thuận theo số đông.
Này các tỳ khưu, nếu có vị khơi lại sự tranh tụng đã được giải quyết như thế, vị khơi lại phạm tội pācittiya (ưng đối trị); (nếu) vị gởi thỏa thuận phê phán, vị phê phán phạm tội pācittiya.
[681] Vào lúc bấy giờ, ở Sāvatthi có sự tranh tụng đã sanh khởi như vầy, đã diễn tiến như vầy. Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy không hài lòng với lối giải quyết tranh tụng của hội chúng ở Sāvatthi và đã nghe rằng: “Nghe nói ở trú xứ kia có nhiều trưởng lão cư ngụ là các vị nghe nhiều, kinh điển được truyền thừa, rành rẽ về Pháp, rành rẽ về Luật, rành rẽ về các đầu đề, là các bậc trí tuệ, có khả năng, thông minh, khiêm nhường, có hối hận, ưa thích sự học tập. Nếu các trưởng lão ấy có thể giải quyết sự tranh tụng này theo Pháp, theo Luật, theo lời dạy của bậc Đạo sư, như vậy sự tranh tụng này sẽ được giải quyết tốt đẹp.” Sau đó, các tỳ khưu ấy đã đi đến trú xứ ấy và đã nói với các trưởng lão ấy điều này:
– Thưa các ngài, sự tranh tụng này đã sanh khởi như vầy, đã diễn tiến như vầy. Thưa các ngài, lành thay các trưởng lão hãy giải quyết sự tranh tụng này theo Pháp, theo Luật, theo lời dạy của bậc Đạo sư, như vậy sự tranh tụng này sẽ được giải quyết tốt đẹp.
Khi ấy, các trưởng lão ấy (nghĩ rằng): “Sự tranh tụng đã được hội chúng ở Sāvatthi giải quyết như thế ấy là đã được giải quyết tốt đẹp” rồi đã giải quyết sự tranh tụng ấy y như thế.
Sau đó, các tỳ khưu ấy không hài lòng với lối giải quyết tranh tụng của hội chúng ở Sāvatthi, không hài lòng với lối giải quyết tranh tụng của nhiều vị trưởng lão và đã nghe rằng: “Nghe nói ở trú xứ kia có ba vị trưởng lão cư ngụ…(như trên)…có hai vị trưởng lão cư ngụ…(như trên)… có một vị trưởng lão cư ngụ là vị nghe nhiều, kinh điển được truyền thừa, rành rẽ về Pháp, rành rẽ về Luật, rành rẽ về các đầu đề, là bậc trí tuệ, có khả năng, thông minh, khiêm nhường, có hối hận, ưa thích sự học tập. Nếu trưởng lão ấy có thể giải quyết sự tranh tụng này theo Pháp, theo Luật, theo lời dạy của bậc Đạo sư, như vậy sự tranh tụng này sẽ được giải quyết tốt đẹp.” Sau đó, các tỳ khưu ấy đã đi đến trú xứ ấy và đã nói với vị trưởng lão ấy điều này:
– Thưa ngài, sự tranh tụng này đã sanh khởi như vầy, đã diễn tiến như vầy. Thưa ngài, lành thay ngài trưởng lão hãy giải quyết sự tranh tụng này theo Pháp, theo Luật, theo lời dạy của bậc Đạo sư, như thế sự tranh tụng này sẽ được giải quyết tốt đẹp.
Khi ấy, vị trưởng lão ấy (nghĩ rằng): “Sự tranh tụng đã được hội chúng ở Sāvatthi giải quyết như thế ấy, sự tranh tụng đã được nhiều vị trưởng lão giải quyết như thế ấy, sự tranh tụng đã được ba vị trưởng lão giải quyết như thế ấy, sự tranh tụng đã được hai vị trưởng lão giải quyết như thế ấy là đã được giải quyết tốt đẹp” rồi đã giải quyết sự tranh tụng ấy y như thế.
Sau đó, các tỳ khưu ấy không hài lòng với lối giải quyết tranh tụng của hội chúng ở Sāvatthi, không hài lòng với lối giải quyết tranh tụng của nhiều vị trưởng lão, không hài lòng với lối giải quyết tranh tụng của ba vị trưởng lão, không hài lòng với lối giải quyết tranh tụng của hai vị trưởng lão, không hài lòng với lối giải quyết tranh tụng của một vị trưởng lão nên đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– Này các tỳ khưu, sự tranh tụng này đã được dứt điểm, đã được yên lặng, đã được giải quyết, đã được giải quyết tốt đẹp. Này các tỳ khưu, vì sự nhận thức rõ ràng của các tỳ khưu ấy, ta cho phép ba cách phân phát thẻ: lối kín đáo (gūḷhakaṃ), sự nói nhỏ vào tai (sakaṇṇajappakaṃ), lối công khai (vivaṭakaṃ).
Và này các tỳ khưu, thế nào là cách phân phát thẻ theo lối kín đáo?
– Vị tỳ khưu phân phát thẻ nên làm các thẻ khác nhau rồi đi đến gặp từng vị tỳ khưu một và nên nói như vầy: “Thẻ này là cho vị nói như vầy, thẻ này là cho vị nói như kia. Đại đức thích cái nào thì nhận cái ấy.” Khi giao nên nói rằng: “Và chớ cho bất cứ ai thấy.” Nếu vị ấy biết rằng: “Các vị nói sai Pháp là nhiều hơn,” nên thâu hồi lại (nói rằng): “(Các thẻ) bị lấy lầm lẫn.” Nếu vị ấy biết rằng: “Các vị nói đúng Pháp là nhiều hơn,” nên công bố rằng: “(Các thẻ) được nhận lấy tốt đẹp.” Này các tỳ khưu, như vậy là cách phân phát thẻ theo lối kín đáo.
Và này các tỳ khưu, thế nào là cách phân phát thẻ với sự nói nhỏ vào tai?
– Vị tỳ khưu phân phát thẻ nên nói vào tai của từng vị tỳ khưu một rằng: “Thẻ này là cho vị nói như vầy, thẻ này là cho vị nói như kia. Đại đức thích cái nào thì nhận cái ấy.” Khi giao nên nói rằng: “Và chớ nói cho bất cứ ai.” Nếu vị ấy biết rằng: “Các vị nói sai Pháp là nhiều hơn,” nên thâu hồi lại (nói rằng): “(Các thẻ) bị lấy lầm lẫn.” Nếu vị ấy biết rằng: “Các vị nói đúng Pháp là nhiều hơn,” nên công bố rằng: “(Các thẻ) được nhận lấy tốt đẹp.” Này các tỳ khưu, như vậy là cách phân phát thẻ với sự nói nhỏ vào tai.
Và này các tỳ khưu, thế nào là cách phân phát thẻ theo lối công khai?
– Nếu vị ấy biết rằng: “Các vị nói đúng Pháp là nhiều hơn,” chính nhờ vào sự quả quyết nên phân phát (thẻ) bằng cách phân phát thẻ theo lối công khai. Này các tỳ khưu, như vậy là cách phân phát thẻ theo lối công khai.
Này các tỳ khưu, đây là ba cách phân phát thẻ.
[682] Sự tranh tụng liên quan đến khiển trách được lắng dịu bởi bao nhiêu cách dàn xếp?
– Sự tranh tụng liên quan đến khiển trách được lắng dịu bởi bốn cách dàn xếp: bằng cách hành xử Luật với sự hiện diện, bằng cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ, bằng cách hành xử Luật khi không điên cuồng, và theo tội của vị ấy.
[683] Nếu sự tranh tụng liên quan đến khiển trách không áp dụng được hai cách dàn xếp là cách hành xử Luật khi không điên cuồng và theo tội của vị ấy thì có thể được lắng dịu bằng hai cách dàn xếp là cách hành xử Luật với sự hiện diện và cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ hay không?
– Nên trả lời rằng: “Có thể.”
Như vậy là thế nào?
– Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu bôi nhọ vị tỳ khưu với sự hư hỏng về giới không có nguyên cớ. Này các tỳ khưu, đối với vị tỳ khưu được thành tựu đầy đủ về sự ghi nhớ, cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ nên được ban cho.
Và này các tỳ khưu, nên ban cho như vầy: Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, …(như trên)…, và nên nói như vầy:
“Bạch các ngài, các tỳ khưu bôi nhọ tôi với sự hư hỏng về giới không có nguyên cớ. Bạch các ngài, là người được thành tựu đầy đủ về sự ghi nhớ, tôi đây cầu xin hội chúng cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ.”
Nên cầu xin đến lần thứ nhì. Nên cầu xin đến lần thứ ba:
[684] Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Các tỳ khưu bôi nhọ vị tỳ khưu tên (như vầy) với sự hư hỏng về giới không có nguyên cớ. Là người được thành tựu đầy đủ về sự ghi nhớ, vị ấy cầu xin hội chúng cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ đến vị tỳ khưu tên (như vầy), là người thành tựu đầy đủ về sự ghi nhớ. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Các tỳ khưu bôi nhọ vị tỳ khưu tên (như vầy) với sự hư hỏng về giới không có nguyên cớ. Là người thành tựu đầy đủ về sự ghi nhớ, vị ấy cầu xin hội chúng cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ. Hội chúng ban cho cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ đến vị tỳ khưu tên (như vầy) là người thành tựu đầy đủ về sự ghi nhớ. Đại đức nào đồng ý việc ban cho cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ đến vị tỳ khưu tên (như vầy) là người thành tựu đầy đủ về sự ghi nhớ xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: …(như trên)…
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: …(như trên)…
Cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ đã được hội chúng ban cho vị tỳ khưu tên (như vầy) là người thành tựu đầy đủ về sự ghi nhớ. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
Này các tỳ khưu, điều ấy được gọi là sự tranh tụng đã được giải quyết. Được giải quyết nhờ vào điều gì?
– Nhờ vào cách hành xử Luật với sự hiện diện và cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ.
Và ở đây, điều gì là ở trong cách hành xử Luật với sự hiện diện? – Sự hiện diện của hội chúng, sự hiện diện của Pháp, sự hiện diện của Luật, sự hiện diện của nhân sự. …(như trên)… Và ở đây, sự hiện diện của nhân sự là gì? – Vị khiển trách và vị bị vị ấy khiển trách, cả hai phe đều hiện diện; ở đây, điều ấy là sự hiện diện của nhân sự.
Và ở đây, điều gì là ở trong cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ?
– Điều nào là sự thực hiện, sự hành động, sự đạt đến, sự thỏa thuận, sự chấp nhận, sự không phản đối thuộc về hành sự hành xử Luật bằng sự ghi nhớ; ở đây điều ấy là ở trong cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ.
Này các tỳ khưu, nếu có vị khơi lại sự tranh tụng đã được giải quyết như thế, vị khơi lại phạm tội pācittiya (ưng đối trị); (nếu) vị gởi thỏa thuận phê phán, vị phê phán phạm tội pācittiya.
[685] Nếu sự tranh tụng liên quan đến khiển trách không áp dụng được hai cách dàn xếp là cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ và theo tội của vị ấy thì có thể được lắng dịu bằng hai cách dàn xếp là cách hành xử Luật với sự hiện diện và cách hành xử Luật khi không điên cuồng hay không?
– Nên trả lời rằng: “Có thể.”
Như vậy là thế nào?
– Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu bị điên, bị thay đổi tâm tính. Nhiều việc không xứng là sa-môn bằng lời nói và hành động đã được thực hiện bởi vị ấy khi bị điên, bị thay đổi tâm tính. Các tỳ khưu buộc tội vị ấy với tội đã được thực hiện khi bị điên, bị thay đổi tâm tính: “Này đại đức, hãy nhớ là có phạm tội như thế này không?” Vị ấy nói như vầy: “Này các đại đức, tôi đã bị điên, đã bị thay đổi tâm tính. Nhiều việc không xứng là sa-môn bằng lời nói và hành động đã được thực hiện bởi tôi đây khi bị điên, bị thay đổi tâm tính. Tôi không nhớ được điều ấy. Điều ấy đã được làm bởi tôi khi điên cuồng.” Mặc dầu được vị ấy nói như vậy, các vị vẫn khiển trách rằng: “Này đại đức, hãy nhớ là có phạm tội như thế này không?”
Này các tỳ khưu, nên ban cho cách hành xử Luật khi không điên cuồng đến vị tỳ khưu ấy khi không điên cuồng. Và này các tỳ khưu, nên ban cho như vầy: Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, …(như trên)… và nên nói như vầy:
“Bạch các ngài, tôi đã bị điên, đã bị thay đổi tâm tính. Nhiều việc không xứng là sa-môn bằng lời nói và hành động đã được thực hiện bởi tôi đây khi bị điên, bị thay đổi tâm tính. Các tỳ khưu khiển trách tôi với tội đã được thực hiện khi bị điên, bị thay đổi tâm tính: ‘Này đại đức, hãy nhớ là có phạm tội như thế này không?’ Tôi nói như vầy: ‘Này các đại đức, tôi đã bị điên, đã bị thay đổi tâm tính. Nhiều việc không xứng là sa-môn bằng lời nói và hành động đã được thực hiện bởi tôi đây khi bị điên, bị thay đổi tâm tính. Tôi không nhớ được điều ấy. Điều ấy đã được làm bởi tôi khi điên cuồng.’ Mặc dầu được vị ấy nói như vậy, các vị vẫn khiển trách rằng: ‘Này đại đức, hãy nhớ là có phạm tội như thế này không?’ Bạch các ngài, giờ không điên cuồng tôi đây cầu xin hội chúng cách hành xử Luật khi không điên cuồng.”
Nên cầu xin đến lần thứ nhì. Nên cầu xin đến lần thứ ba:
[686] Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu tên (như vầy) đã bị điên, đã bị thay đổi tâm tính. Nhiều việc không xứng là sa-môn bằng lời nói và hành động đã được thực hiện bởi vị ấy khi bị điên, bị thay đổi tâm tính. Các tỳ khưu đã khiển trách vị ấy với tội đã được thực hiện khi bị điên, bị thay đổi tâm tính: ‘Này đại đức, hãy nhớ là có phạm tội như thế này không?’ Vị ấy nói như vầy: ‘Này các đại đức, tôi đã bị điên, đã bị thay đổi tâm tính. Nhiều việc không xứng là sa-môn bằng lời nói và hành động đã được thực hiện bởi tôi đây khi bị điên, bị thay đổi tâm tính. Tôi không nhớ được điều ấy. Điều ấy đã được làm bởi tôi khi điên cuồng.’ Mặc dầu được vị ấy nói như vậy, các vị vẫn khiển trách rằng: ‘Này đại đức, hãy nhớ là có phạm tội như thế này không?’ Giờ không điên cuồng, vị ấy cầu xin hội chúng cách hành xử Luật khi không điên cuồng. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho cách hành xử Luật khi không điên cuồng đến vị tỳ khưu tên (như vầy) khi không điên cuồng. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này tên (như vầy) đã bị điên, đã bị thay đổi tâm tính. Nhiều việc không xứng là sa-môn bằng lời nói và hành động đã được thực hiện bởi vị ấy khi bị điên, bị thay đổi tâm tính. Các tỳ khưu đã khiển trách vị ấy với tội đã được thực hiện khi bị điên, bị thay đổi tâm tính: ‘Này đại đức, hãy nhớ là có phạm tội như thế này không?’ Vị ấy nói như vầy: ‘Này các đại đức, tôi đã bị điên, đã bị thay đổi tâm tính. Nhiều việc không xứng là sa-môn bằng lời nói và hành động đã được thực hiện bởi tôi đây khi bị điên, bị thay đổi tâm tính. Tôi không nhớ được điều ấy. Điều ấy đã được làm bởi tôi khi điên cuồng.’ Mặc dầu được vị ấy nói như vậy, các vị vẫn khiển trách rằng: ‘Này đại đức, hãy nhớ là có phạm tội như thế này không?’ Giờ không điên cuồng, vị ấy cầu xin hội chúng cách hành xử Luật khi không điên cuồng. Hội chúng ban cho cách hành xử Luật khi không điên cuồng đến tỳ khưu tên (như vầy) khi không điên cuồng. Đại đức nào đồng ý việc ban cho cách hành xử Luật khi không điên cuồng đến tỳ khưu tên (như vầy) khi không điên cuồng xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: …(như trên)…
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: …(như trên)…
Cách hành xử Luật khi không điên cuồng đã được hội chúng ban cho tỳ khưu tên (như vầy) khi không điên cuồng. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
Này các tỳ khưu, điều ấy được gọi là sự tranh tụng đã được giải quyết. Được giải quyết nhờ vào điều gì?
– Nhờ vào cách hành xử Luật với sự hiện diện và cách hành xử Luật khi không điên cuồng.
Và ở đây, điều gì là ở trong cách hành xử Luật với sự hiện diện? – Sự hiện diện của hội chúng, sự hiện diện của Pháp, sự hiện diện của Luật, sự hiện diện của nhân sự. …(như trên)…
Và ở đây, điều gì là ở trong cách hành xử Luật khi không điên cuồng?
– Điều nào là sự thực hiện, sự hành động, sự đạt đến, sự thỏa thuận, sự chấp nhận, sự không phản đối thuộc về hành sự hành xử Luật khi không điên cuồng; ở đây điều ấy là ở trong cách hành xử Luật khi không điên cuồng.
Này các tỳ khưu, nếu có vị khơi lại sự tranh tụng đã được giải quyết như thế, vị khơi lại phạm tội pācittiya (ưng đối trị); (nếu) vị gởi thỏa thuận phê phán, vị phê phán phạm tội pācittiya.
[687] Nếu sự tranh tụng liên quan đến khiển trách không áp dụng được hai cách dàn xếp là cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ và cách hành xử Luật khi không điên cuồng thì có thể được lắng dịu bằng hai cách dàn xếp là cách hành xử Luật với sự hiện diện và theo tội của vị ấy hay không?
– Nên trả lời rằng: “Có thể.”
Như vậy là thế nào?
– Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu buộc tội vị tỳ khưu (khác) giữa hội chúng với tội nặng: “Đại đức có nhớ là đã phạm tội nặng như thế này, là tội pārājika hoặc gần với tội pārājika không?” Vị ấy nói như vầy: “Này đại đức, tôi không nhớ là đã phạm tội nặng như thế ấy, là tội pārājika hoặc gần với tội pārājika.” Trong khi vị ấy chối từ, vị kia lại già lý lẽ hơn nữa: “Này đại đức hãy suy xét thật kỹ lưỡng xem thử có nhớ lại là đã phạm tội nặng như thế này, là tội pārājika hoặc gần với tội pārājika không?” Vị ấy nói như vầy: “Này đại đức, tôi không nhớ là đã phạm tội như thế ấy, là tội pārājika hoặc gần với tội pārājika, tôi chỉ nhớ là đã phạm tội nhỏ nhoi như thế ấy.” Trong khi vị ấy chối từ, vị kia lại già lý lẽ hơn nữa: “Này đại đức, hãy suy xét thật kỹ lưỡng xem thử có nhớ lại là đã phạm tội nặng như thế này, là tội pārājika hoặc gần với tội pārājika không?” Vị ấy nói như vầy: “Này đại đức, bởi vì khi đã phạm tội ấy, cho dầu là nhỏ nhoi tôi sẽ thú nhận dầu không được hỏi đến. Khi đã phạm tội nặng như thế ấy, là tội pārājika hoặc gần với tội pārājika, không lẽ tôi lại không thú nhận khi được hỏi đến hay sao?” Vị kia nói như vầy: “Này đại đức, bởi vì khi đã phạm tội ấy, mặc dù là nhỏ nhoi đại đức sẽ không thú nhận khi không được hỏi đến. Thì khi đã phạm tội nặng như thế ấy, là tội pārājika hoặc gần với tội pārājika, không lẽ đại đức lại thú nhận khi không được hỏi đến? Này đại đức, hãy suy xét thật kỹ lưỡng xem thử có nhớ lại là đã phạm tội nặng như thế này là tội pārājika hoặc gần với tội pārājika không?” Vị ấy nói như vầy: “Này đại đức, tôi nhớ ra là đã phạm tội như thế ấy, là tội pārājika hoặc gần với tội pārājika. Điều tôi nói rằng: ‘Tôi không nhớ là đã phạm tội như thế ấy, là tội pārājika hoặc gần với tội pārājika’ là nói đùa, là nói cho có nói.”
Này các tỳ khưu, hành sự theo tội của vị ấy nên được ban cho tỳ khưu ấy.
[688] Và này các tỳ khưu, nên thực thi như vầy: Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này tên (như vầy) trong khi được tra hỏi tội nặng giữa hội chúng đã phủ nhận rồi thừa nhận, đã thừa nhận rồi phủ nhận, tránh né tội ấy bằng một tội khác, cố tình nói lời dối trá. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên thực thi hành sự theo tội của vị ấy đến tỳ khưu tên (như vầy). Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này tên (như vầy) trong khi được tra hỏi tội nặng giữa hội chúng đã phủ nhận rồi thừa nhận, đã thừa nhận rồi phủ nhận, tránh né tội ấy bằng một tội khác, cố tình nói lời dối trá. Hội chúng thực thi hành sự theo tội của vị ấy đến tỳ khưu tên (như vầy). Đại đức nào đồng ý việc thực thi hành sự theo tội của vị ấy đến tỳ khưu tên (như vầy) xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: …(như trên)…
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: …(như trên)…
Hành sự theo tội của vị ấy đã được hội chúng thực thi đến tỳ khưu tên (như vầy). Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
Này các tỳ khưu, điều ấy được gọi là sự tranh tụng đã được giải quyết. Được giải quyết nhờ vào điều gì?
– Nhờ vào cách hành xử Luật với sự hiện diện và theo tội của vị ấy.
Và ở đây, điều gì là ở trong cách hành xử Luật với sự hiện diện? – Sự hiện diện của hội chúng, sự hiện diện của Pháp, sự hiện diện của Luật, sự hiện diện của nhân sự. …(như trên)…
Và ở đây, điều gì là ở trong (cách giải quyết) theo tội của vị ấy?
– Điều nào là sự thực hiện, sự hành động, sự đạt đến, sự thỏa thuận, sự chấp nhận, sự không phản đối thuộc về hành sự theo tội của vị ấy; ở đây điều ấy là ở trong (cách giải quyết) theo tội của vị ấy.
Này các tỳ khưu, nếu có vị khơi lại sự tranh tụng đã được giải quyết như thế, vị khơi lại phạm tội pācittiya (ưng đối trị); (nếu) vị gởi thỏa thuận phê phán, vị phê phán phạm tội pācittiya.
[689] Sự tranh tụng liên quan đến tội được lắng dịu bởi bao nhiêu cách cách dàn xếp?
– Sự tranh tụng liên quan đến tội được lắng dịu bởi ba cách dàn xếp: bằng cách hành xử Luật với sự hiện diện, bằng việc phán xử theo tội đã được thừa nhận, và bằng cách dùng cỏ che lấp.
[690] Nếu sự tranh tụng liên quan đến tội không áp dụng được một cách dàn xếp là cách dùng cỏ che lấp thì có thể được lắng dịu bằng hai cách dàn xếp là cách hành xử Luật với sự hiện diện và việc phán xử theo tội đã được thừa nhận hay không?
– Nên trả lời rằng: “Có thể.”
Như vậy là thế nào?
– Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm tội nhẹ. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy nên đi đến gặp một vị tỳ khưu (khác), đắp thượng y một bên vai, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên nói như vầy:
– Thưa đại đức, tôi đã phạm tội tên (như vầy), tôi xin trình tội ấy.
Vị kia nên nói rằng:
– Đại đức thấy được (tội) không?
– Thưa có, tôi thấy được.
– Đại đức hãy thu thúc trong tương lai.
Này các tỳ khưu, điều ấy được gọi là sự tranh tụng đã được giải quyết. Được giải quyết nhờ vào điều gì?
– Nhờ vào cách hành xử Luật với sự hiện diện và việc phán xử theo tội đã được thừa nhận.
Và ở đây, điều gì là ở trong cách hành xử Luật với sự hiện diện?
– Sự hiện diện của Pháp, sự hiện diện của Luật, sự hiện diện của nhân sự. …(như trên)…
Và ở đây, sự hiện diện của nhân sự là gì?
– Vị khai báo (tội) và vị chứng minh vị ấy khai báo (tội), cả hai đều hiện diện; ở đây, điều ấy là sự hiện diện của nhân sự.
Và ở đây, điều gì là ở trong việc phán xử theo tội đã được thừa nhận?
– Điều nào là sự thực hiện, sự hành động, sự đạt đến, sự thỏa thuận, sự chấp nhận, sự không phản đối thuộc về hành sự phán xử theo tội đã được thừa nhận; ở đây điều ấy là ở trong việc phán xử theo tội đã được thừa nhận.
Này các tỳ khưu, khi đã được giải quyết như thế, nếu vị ghi nhận (tội) khơi lại sự tranh tụng, vị khơi lại phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Nếu vị ấy chấp nhận như thế, theo đó việc ấy là tốt đẹp. Nếu vị ấy không chấp nhận như thế, này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy nên đi đến gặp nhiều vị tỳ khưu, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu trưởng thượng, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên nói như vầy:
– Thưa các ngài, tôi đã phạm tội tên (như vầy), tôi xin trình tội ấy.
Các vị tỳ khưu ấy cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
– Bạch chư đại đức, xin hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này tên (như vầy) nhớ được, bộc lộ ra, nói ra bằng lời, trình ra sự phạm tội. Nếu là thời điểm thích hợp cho chư đại đức, tôi nên ghi nhận tội của vị tỳ khưu tên (như vầy).
Vị ấy nên nói rằng:
– Đại đức thấy được (tội) không?
– Thưa có, tôi thấy được.
– Đại đức hãy thu thúc trong tương lai.
Này các tỳ khưu, điều ấy được gọi là sự tranh tụng đã được giải quyết. Được giải quyết nhờ vào điều gì?
– Nhờ vào cách hành xử Luật với sự hiện diện và việc phán xử theo tội đã được thừa nhận.
Và ở đây, điều gì là ở trong cách hành xử Luật với sự hiện diện? – Sự hiện diện của Pháp, sự hiện diện của Luật, sự hiện diện của nhân sự. …(như trên)… Và ở đây, sự hiện diện của nhân sự là gì? – Vị khai báo (tội) và vị chứng minh vị ấy khai báo (tội), cả hai đều hiện diện; ở đây, điều ấy là sự hiện diện của nhân sự.
Và ở đây, điều gì là ở trong việc phán xử theo tội đã được thừa nhận?
– Điều nào là sự thực hiện, sự hành động, sự đạt đến, sự thỏa thuận, sự chấp nhận, sự không phản đối thuộc về hành sự phán xử theo tội đã được thừa nhận; ở đây điều ấy là ở trong việc phán xử theo tội đã được thừa nhận.
Này các tỳ khưu, khi đã được giải quyết như thế, nếu vị ghi nhận (tội) khơi lại sự tranh tụng, vị khơi lại phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Nếu việc ấy đạt được như thế, việc ấy như vậy là tốt đẹp. Nếu vị ấy không chấp nhận như thế, này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu trưởng thượng, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên nói như vầy:
– Bạch các ngài, tôi đã phạm tội tên (như vầy), tôi xin trình tội ấy.
Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
– Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này tên (như vầy) nhớ được, bộc lộ ra, nói ra bằng lời, trình ra sự phạm tội. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, tôi nên ghi nhận tội của vị tỳ khưu tên (như vầy).
Vị ấy nên nói rằng:
– Đại đức thấy được (tội) không?
-Thưa có, tôi thấy được.
– Đại đức hãy thu thúc trong tương lai.
Này các tỳ khưu, điều ấy được gọi là sự tranh tụng đã được giải quyết. Được giải quyết nhờ vào điều gì?
– Nhờ vào cách hành xử Luật với sự hiện diện và việc phán xử theo tội đã được thừa nhận. Và ở đây, điều gì là ở trong cách hành xử Luật với sự hiện diện? – Sự hiện diện của hội chúng, sự hiện diện của Pháp, sự hiện diện của Luật, sự hiện diện của nhân sự. …(như trên)…
Này các tỳ khưu, nếu có vị khơi lại sự tranh tụng đã được giải quyết như thế, vị khơi lại phạm tội pācittiya (ưng đối trị); (nếu) vị gởi thỏa thuận phê phán, vị phê phán phạm tội pācittiya.
[691] Nếu sự tranh tụng liên quan đến tội không áp dụng được một cách dàn xếp là việc phán xử theo tội đã được thừa nhận thì có thể được lắng dịu bằng hai cách dàn xếp là cách hành xử Luật với sự hiện diện và cách dùng cỏ che lấp hay không?
– Nên trả lời rằng: “Có thể.”
Như vậy là thế nào?
– Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu trong khi sinh hoạt có nảy sinh các sự xung đột, các sự gây gỗ, đưa đến tranh cãi, nhiều việc không xứng là sa-môn bằng lời nói và hành động đã được thực hiện. Này các tỳ khưu, trong trường hợp ấy nếu các tỳ khưu (nghĩ) như vầy: “Chúng ta trong khi sinh hoạt có nảy sinh các sự xung đột, các sự gây gỗ, đưa đến tranh cãi, có nhiều việc không xứng là sa-môn bằng lời nói và hành động đã được thực hiện. Nếu chúng ta giải quyết lẫn nhau bằng các tội này, sự tranh tụng ấy còn có thể đưa đến lủng củng nội bộ, đưa đến bất hòa nội bộ, và đưa đến chia rẽ nữa.” Này các tỳ khưu, ta cho phép giải quyết sự tranh tụng có hình thức như thế bằng cách dùng cỏ che lấp.
Và này các tỳ khưu, nên giải quyết như vậy: Tất cả nên tụ họp lại một chỗ; sau khi tụ họp lại, hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Chúng ta trong khi sinh hoạt có nảy sinh các sự xung đột, các sự gây gỗ, đưa đến tranh cãi, nhiều việc không xứng là sa-môn bằng lời nói và hành động đã được thực hiện. Nếu chúng ta giải quyết lẫn nhau bằng các tội này, sự tranh tụng ấy còn có thể đưa đến lủng củng nội bộ, đưa đến bất hòa nội bộ, và đưa đến chia rẽ nữa. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên giải quyết sự tranh tụng này bằng cách dùng cỏ che lấp, ngoại trừ trường hợp có lỗi nghiêm trọng, ngoại trừ trường hợp có liên quan đến cư sĩ.”
Một vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực trong số các tỳ khưu cùng thuộc về một phe nên thông báo đến phe của mình rằng:
“Bạch chư đại đức, xin hãy lắng nghe tôi. Chúng ta trong khi sinh hoạt có nảy sinh các sự xung đột, các sự gây gỗ, đưa đến tranh cãi, nhiều việc không xứng là sa-môn bằng lời nói và hành động đã được thực hiện. Nếu chúng ta giải quyết lẫn nhau bằng các tội này, sự tranh tụng ấy còn có thể đưa đến lủng củng nội bộ, đưa đến bất hòa nội bộ, và đưa đến chia rẽ nữa. Nếu là thời điểm thích hợp cho chư đại đức, tôi sẽ sám hối bằng cách dùng cỏ che lấp giữa hội chúng tội của chính chư đại đức và tội của tôi vì sự lợi ích của chính chư đại đức và vì sự lợi ích của tôi, ngoại trừ trường hợp có lỗi nghiêm trọng, ngoại trừ trường hợp có liên quan đến cư sĩ.”
[692] Rồi một vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực trong số các tỳ khưu cùng thuộc về phe kia nên thông báo đến phe của mình rằng:
“Bạch chư đại đức, xin hãy lắng nghe tôi. Chúng ta trong khi sinh hoạt có nảy sinh các sự xung đột, các sự gây gỗ, đưa đến tranh cãi, nhiều việc không xứng là sa-môn bằng lời nói và hành động đã được thực hiện. Nếu chúng ta giải quyết lẫn nhau bằng các tội này, sự tranh tụng ấy còn có thể đưa đến lủng củng nội bộ, đưa đến bất hòa nội bộ, và đưa đến chia rẽ nữa. Nếu là thời điểm thích hợp cho chư đại đức, tôi sẽ sám hối bằng cách dùng cỏ che lấp giữa hội chúng tội của chính chư đại đức và tội của tôi vì sự lợi ích của chính chư đại đức và vì sự lợi ích của tôi, ngoại trừ trường hợp có lỗi nghiêm trọng, ngoại trừ trường hợp có liên quan đến cư sĩ.”
[693] Sau đó, hội chúng nên được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực trong số các tỳ khưu cùng thuộc về một phe rằng:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Chúng ta trong khi sinh hoạt có nảy sinh các sự xung đột, các sự gây gỗ, đưa đến tranh cãi, nhiều việc không xứng là sa-môn bằng lời nói và hành động đã được thực hiện. Nếu chúng ta giải quyết lẫn nhau bằng các tội này, sự tranh tụng ấy còn có thể đưa đến lủng củng nội bộ, đưa đến bất hòa nội bộ, và đưa đến chia rẽ nữa. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, tôi xin sám hối bằng cách dùng cỏ che lấp giữa hội chúng tội của chính các đại đức này và tội của tôi vì sự lợi ích của chính các đại đức này và vì sự lợi ích của tôi, ngoại trừ trường hợp có lỗi nghiêm trọng, ngoại trừ trường hợp có liên quan đến cư sĩ. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Chúng ta trong khi sinh hoạt có nảy sinh các sự xung đột, các sự gây gỗ, đưa đến tranh cãi, nhiều việc không xứng là sa-môn bằng lời nói và hành động đã được thực hiện. Nếu chúng ta giải quyết lẫn nhau bằng các tội này, sự tranh tụng ấy còn có thể đưa đến lủng củng nội bộ, đưa đến bất hòa nội bộ, và đưa đến chia rẽ nữa. Vì sự lợi ích của chính các đại đức này và vì sự lợi ích của tôi, tôi xin sám hối bằng cách dùng cỏ che lấp giữa hội chúng tội của chính các đại đức này và tội của tôi, ngoại trừ trường hợp có lỗi nghiêm trọng, ngoại trừ trường hợp có liên quan đến cư sĩ. Đại đức nào đồng ý việc sám hối bằng cách dùng cỏ che lấp giữa hội chúng đối với các tội này của chúng tôi, ngoại trừ trường hợp có lỗi nghiêm trọng, ngoại trừ trường hợp có liên quan đến cư sĩ, xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Các tội này của chúng tôi đã được sám hối bằng cách dùng cỏ che lấp giữa hội chúng, ngoại trừ trường hợp có lỗi nghiêm trọng, ngoại trừ trường hợp có liên quan đến cư sĩ. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
Sau đó, hội chúng …(như trên)… thuộc về phe kia rằng:
“…(như trên)… tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
Này các tỳ khưu, điều ấy được gọi là sự tranh tụng đã được giải quyết. Được giải quyết nhờ vào điều gì?
– Nhờ vào cách hành xử Luật với sự hiện diện và cách dùng cỏ che lấp.
Và ở đây, điều gì là ở trong cách hành xử Luật với sự hiện diện? – Sự hiện diện của hội chúng, sự hiện diện của Pháp, sự hiện diện của Luật, sự hiện diện của nhân sự. Và ở đây, sự hiện diện của hội chúng là gì? – Các tỳ khưu theo số lượng cần thiết cho hành sự đã đi đến, sự tùy thuận của các vị xứng đáng gởi sự tùy thuận đã được đem lại, trong khi hiện diện các vị không phản đối; ở đây, điều ấy là sự hiện diện của hội chúng. Và ở đây, sự hiện diện của Pháp, sự hiện diện của Luật là gì? – Với Pháp nào, với Luật nào, với lời giảng dạy nào của bậc Đạo Sư sự tranh tụng ấy được giải quyết; ở đây điều ấy là sự hiện diện của Pháp, là sự hiện diện của Luật. Và ở đây, sự hiện diện của nhân sự là gì? – Vị khai báo (tội) và vị chứng minh vị ấy khai báo (tội), cả hai đều hiện diện; ở đây, điều ấy là sự hiện diện của nhân sự.
Và ở đây, điều gì là ở trong việc dùng cỏ che lấp?
– Điều nào là sự thực hiện, sự hành động, sự đạt đến, sự thỏa thuận, sự chấp nhận, sự không phản đối thuộc về hành sự dùng cỏ che lấp; ở đây điều ấy là ở trong việc dùng cỏ che lấp.
Này các tỳ khưu, nếu có vị khơi lại sự tranh tụng đã được giải quyết như thế, vị khơi lại phạm tội pācittiya (ưng đối trị); (nếu) vị gởi thỏa thuận phê phán, vị phê phán phạm tội pācittiya.
[694] Sự tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ được lắng dịu bởi bao nhiêu cách dàn xếp?
– Sự tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ được lắng dịu bởi một cách dàn xếp: bằng cách hành xử Luật với sự hiện diện.
Dứt Chương Dàn Xếp là chương thứ tư.
*******
[1] Hai vị này là các vị đứng đầu trong nhóm Lục Sư. Thứ tự được ngài Buddhaghosa trình bày là hai vị Paṇḍuka và Lohitaka ở thành Sāvatthi, hai vị Mettiya và Bhummajaka ở thành Rājagaha, hai vị Assaji và Punabbasuka ở vùng núi Kīṭā.
[2] Ngài Buddhaghosa giải thích cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ này nên cho đến chính vị có các lậu hoặc đã được đoạn diệt, không cho đến vị khác ngay cả vị Bất Lai (antamaso anāgāminopi).
[3] Na gatigataṃ hoti: Ngài Buddhaghosa giải thích rằng sự tranh tụng ấy chưa được đưa đến hai ba trú xứ, chưa được phán xét tại nơi ấy hoặc tại chính nơi kia.
[4] Trường hợp tỳ khưu phạm tội pārājika và saṅghādisesa (tức là bất cộng trụ và tăng tàng).
[5] Năm nhóm tội là: pārājika, saṅghādisesa, nissaggiya pācittiya, pācittiya, và dukkaṭa (tức là bất cộng trụ, tăng tàng, ưng xả đối trị, ưng đối trị, và tác ác).
[6] Thêm vào thullaccaya và dubbhāsita là bảy (tức là trọng tội và ác khẩu)..
[7] Hành sự công bố hành xử năm trường hợp: Sự phục hồi, sự đuổi đi, hành sự cạo tóc (bhaṇḍukamma), hành phạt Brahma (Phạm Đàn), và hành sự có sự khác biệt về tướng trạng là thứ năm (xem Tập Yếu – Parivāra, chương XIX, [1354]).
-ooOoo-