Vi Diệu Pháp – Hiện thực trong cuộc sống
Tác giả: Sư Hộ Pháp
Lời Tri Ân
Tất cả chúng con có được duyên lành biết được Phật-Giáo Nguyên-Thuỷ Theravāda là nhờ các bậc Thầy Tổ tiền bối nhất là Ngài Sư Tổ Hộ-Tông đã có công lớn đem Phật-Giáo Nguyên-Thuỷ Theravāda về truyền bá trên quê hương Viêt-Nam thân yêu.
Tất cả chúng con thành kính đảnh lễ tri ân.
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa
Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức-Thế-Tôn,
Đức A-ra-hán, Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác ấy.
Buddhavandanā
Buddhaṃ dhammaṃ samghañceva,
Ācariyañca vandiya.
Sabhāvadhammavaṇṇanaṃ,
Dīpayāmi yathāsutaṃ.
Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ
Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo,
Cùng với các bậc Thầy Tổ khả kính.
Con xin giảng giải về thực-tánh-pháp,
Tuỳ theo khả năng hiểu biết của con.
VI-DIỆU-PHÁP HIỆN-THỰC TRONG CUỘC SỐNG
Soạn-giả Tỳ-khưu Hộ-Pháp
Dhammarakkhita Bhikkhu
(Aggamahāpaṇḍita)
Lời Nói Đầu
“ VI DIỆU-PHÁP HIỆN-THỰC TRONG CUỘC SỐNG ” là quyển sách giảng giải về sự sinh hoạt hằng ngày trong cuộc sống bình thường của mỗi người trong đời.
Vi-diệu-pháp hiện thực trong cuộc sống như thế nào?
Để hiểu biết rõ vấn đề này, cần phải nêu các thí dụ vấn đáp như sau:
V- Thấy sư hay không?
Đ- Dạ, thấy ạ.
V- Vậy, ai thấy?
Đ- Dạ, con thấy ạ
V- Nhắm đôi mắt lại, con có thấy hay không?
Đ- Nhắm đôi mắt lại, con không thấy ạ.
V- Vừa rồi nói, con thấy, sao bây giờ nói, con không thấy?
Đ- Vừa rồi mở mắt, nên thấy, bây giờ nhắm mắt, nên không thấy ạ.
V- Vậy, sự thấy đó là con thấy hay mắt thấy?
Đ- Dạ, mắt thấy, không phải con thấy ạ.
V- Khi mở đôi mắt nhưng tâm chăm chú suy nghĩ điều quan trọng nào đó thì mắt có thấy đối-tượng trước mắt hay không?
Đ- Dạ, mắt không thấy ạ.
V- Tại sao mở đôi mắt mà không thấy?
Đ- Bởi vì tâm không tiếp nhận đối-tượng trước mắt, dù cho mở đôi mắt cũng không thấy.
V- Nếu nhắm đôi mắt thì tâm thấy được đối-tượng trước mắt hay không?
Đ- Tâm không thấy được.
Tóm lại những câu trả lời:
* Con không thể thấy được, bởi vì con chỉ là danh từ chế định mà thôi,
* Chỉ có mắt cũng không thấy được,
* Chỉ có tâm cũng không thấy được.
Thấy là sự thật hiển nhiên, vậy tâm nào thấy?
Để trả lời câu hỏi này, nên nêu thí dụ vấn đáp:
V- Con có từng nghe tiếng chuông không?
Đ- Dạ, con đã từng nghe tiếng chuông ạ.
V- Trong dùi chuông có tiếng chuông hay không?
Đ- Trong dùi chuông không có tiếng chuông ạ,
V- Trong cái chuông có tiếng chuông hay không?
Đ- Trong cái chuông không có tiếng chuông ạ,
V- Vậy, tiếng chuông do đâu mà có?
Đ- Tiếng chuông phát sinh do cái dùi chuông đánh đụng vào cái chuông.
Cũng như vậy, đối-tượng sắc (rūpārammaṇa) bên ngoài tiếp xúc với nhãn-tịnh-sắc (cakkhu-pasāda) (mắt) bên trong, do sự tiếp xúc ấy, nên phát sinh nhãn-thức-tâm (cakkhuviññāṇa) làm phận-sự thấy đối-tượng sắc.
Cho nên, chỉ có mắt tốt (cakkhupasāda) bên trong cũng không thấy được và chỉ có tâm cũng không thấy được, nếu có tâm nào phát sinh do nương nhờ mắt tốt (nhãn-tịnh-sắc), thì tâm ấy ấy gọi là nhãn-thức-tâm, là tâm phát sinh do nương nhờ nơi mắt mới có khả năng làm phận-sự thấy đối-tượng sắc.
Cho nên, ta không thể thấy được, người cũng không thể thấy được, chúng sinh cũng không thể thấy được, mà chỉ có nhãn-thức-tâm có khả năng làm phận-sự thấy được mà thôi.
* Theo bộ Abhidhammatthasaṅgaha: Vi-diệu-pháp-Yếu-nghĩa thì 2 cakkhuviññāṇa: nhãn-thức tâm phát sinh do hội đủ 4 nhân-duyên:
1- Nhãn-tịnh-sắc (mắt tốt) không bị mù,
2- Đối-tượng sắc rõ ràng tiếp xúc với nhãn- tịnh-sắc,
3- Ánh sáng đủ thấy được,
4-Ngũ-môn-hướng-tâm tiếp nhận đối-tượng sắc.
Khi hội đủ 4 nhân-duyên ấy thì cakkhu-viññāṇa: nhãn-thức-tâm phát sinh làm phận-sự thấy đối-tượng sắc.
Nhãn-thức-tâm phát sinh do nhân-duyên, nên nhãn-thức-tâm là pháp-vô-ngã (anattā).
Trong 89 tâm, chỉ có 2 nhãn-thức-tâm làm phận-sự thấy đối-tượng sắc mà thôi, còn lại 87 tâm không có phận-sự thấy đối-tượng sắc.
Nhãn-thức-tâm có 2 tâm thấy đối-tượng sắc khác nhau:
* 1 nhãn-thức-tâm là bất-thiện-quả-vô-nhân-tâm thấy đối-tượng sắc xấu không đáng hài lòng,
* 1 nhãn-thức-tâm là thiện-quả-vô-nhân-tâm thấy đối-tượng sắc tốt thật đáng hài lòng.
Tương tự như trên, 2 sotaviññāna: nhĩ-thức-tâm phát sinh do đối-tượng thanh (saddā-rammaṇa) bên ngoài tiếp xúc với nhĩ-tịnh-sắc (sotapasāda) (tai) bên trong, do sự tiếp xúc ấy, nên phát sinh nhĩ-thức-tâm (sotaviññāṇa) làm phận-sự nghe đối-tượng thanh (âm-thanh). Cho nên, chỉ có tai tốt (sotapasāda) bên trong cũng không nghe được, (như khi ngủ say) và chỉ có tâm cũng không nghe được, nếu có tâm nào phát sinh do nương nhờ tai tốt (nhĩ-tịnh-sắc), thì tâm ấy gọi là nhĩ-thức-tâm, là tâm phát sinh do nương nhờ nơi tai mới cókhả năng làm phận-sự nghe đối-tượng thanh (âm-thanh).
Cho nên, ta không thể nghe được, người cũng không thể nghe được, chúng sinh cũng không thể nghe được, mà chỉ có nhĩ-thức-tâm có khả năng làm phận-sự nghe được mà thôi.
* Theo bộ Abhidhammatthasaṅgaha: Vi-diệu-pháp-Yếu-nghĩa thì 2 sotaviññāṇa: nhĩ-thức-tâm phát sinh do hội đủ 4 nhân-duyên:
1- Nhĩ-tịnh-sắc (tai tốt) không bị điếc,
2- Đối-tượng thanh rõ ràng tiếp xúc với nhĩ- tịnh-sắc,
3- Không gian không bị vật cản bao kín,
4- Ngũ-môn-hướng-tâm tiếp nhận đối-tượng thanh (âm-thanh).
Khi hội đủ 4 nhân-duyên ấy thì sotaviññāṇa, nhĩ-thức-tâm phát sinh làm phận-sự nghe đối-tượng thanh (âm-thanh).
Nhĩ-thức-tâm phát sinh do nhân-duyên, nên nhĩ-thức-tâm là pháp-vô-ngã (anattā).
Trong 89 tâm, chỉ có 2 nhĩ-thức-tâm làm phận-sự nghe đối-tượng thanh (âm-thanh) mà thôi, còn lại 87 tâm không có phận-sự nghe đối-tượng thanh (âm-thanh).
Nhĩ-thức-tâm có 2 tâm nghe đối-tượng thanh khác nhau:
* 1 nhĩ-thức-tâm là bất-thiện-quả-vô-nhân-tâm nghe đối-tượng thanh (âm-thanh) xấu không đáng hài lòng,
* 1 nhĩ-thức-tâm là thiện-quả-vô-nhân-tâm nghe đối-tượng thanh (âm-thanh) tốt thật đáng hài lòng. v.v, …
Mỗi tâm phát sinh do nhân-duyên của mỗi tâm đều là pháp-vô-ngã (anattā).
* Tâm (citta) gồm có 89 hoặc 121 tâm được phân chia làm 6 loại tâm, biết 6 ārammaṇa: đối-tượng, phát sinh do nương nhờ 6 vatthurūpa: nơi sinh của tâm với tâm-sở.
Khi mỗi tâm phát sinh chắc chắn có số tâm-sở đồng sinh với tâm ấy, số tâm-sở ít hoặc nhiều tuỳ theo sự cần thiết của mỗi tâm.
Tâm-sở (cetasika) gồm có 52 tâm-sở luôn luôn tuỳ thuộc theo tâm, có 4 trạng-thái:
– Đồng sinh với tâm,
– Đồng diệt với tâm,
– Đồng đối-tượng với tâm,
– Đồng nơi sinh với tâm.
Mỗi tâm với tâm-sở có 3 sát-na-tâm:
– Uppāda-khaṇa: sát-na-sinh,
– Ṭhiti-khaṇa: sát-na-trụ,
– Bhaṅga-khaṇa: sát-na-diệt.
Đức-Phật dạy trong Chi-bộ kinh, phần Ekakanipāta rằng:
– Này chư Tỳ-khưu! Như-lai không thấy pháp nào có sự sinh, sự diệt liên tục vô cùng mau lẹ như tâm.
Trong bộ Chú-giải giảng giải rằng:
“Chỉ một lần búng đầu ngón tay, tâm với tâm-sở sinh rồi diệt 1.000 tỷ lần. ([1])
Tâm có 89 hoặc 121 tâm phân chia theo phận-sự có 14 kicca phận-sự:
Có số tâm làm 1 phận-sự, có số tâm làm 2 phận-sự, có số tâm làm 3 phận-sự, có số tâm làm 4 phận-sự, có số tâm làm nhiều nhất 5 phận-sự.
Nếu có ai hỏi rằng: “Tâm ở đâu?” đó là câu hỏi không chỉ định rõ ràng, nên không thể trả lời rõ ràng được, mà nên đặt lại câu hỏi rằng:
“Muốn biết tâm nào trong 89 hoặc 121 tâm?
Bởi vì mỗi tâm với tâm-sở phát sinh do nương nhờ 6 nơi sinh (vatthu) khác nhau, biết 6 đối-tượng (ārammaṇa) khác nhau, làm 14 phận-sự (kicca) khác nhau, v.v…
Để hiểu biết về 6 loại tâm, 6 đối-tượng của tâm, 6 nơi sinh của tâm, 14 phận-sự của tâm, v.v… và 52 tâm-sở, 28 sắc-pháp,… Vậy, cần phải học hỏi nghiên cứu bộ Abhidhammattha-saṅgaha: Vi-diệu-pháp yếu-nghĩa.
Tâm gồm có 89 hoặc 121 tâm và tâm-sở gồm có 52 tâm-sở thuộc về danh-pháp (nāma-dhamma) đều là pháp-vô-ngã (anattā).
* Sắc-pháp (rūpadhamma)
Sắc-pháp (rūpadhamma) phát sinh trong thân chúng sinh do 4 nhân-duyên;
1- Kamma: Nghiệp làm nhân-duyên phát sinh sắc-pháp, đó là 25 nghiệp (trừ 4 vô-sắc-giới thiện-nghiệp và 4 siêu-tam-giới thiện-nghiệp).
Nghiệp làm nhân-duyên phát sinh sắc-pháp gọi là kammajarūpa: sắc-pháp phát sinh do nghiệp này trong thân của chúng sinh suốt mỗi sát-na-tâm (khaṇacitta) kể từ khi tái-sinh,…
2- Citta: Tâm làm nhân-duyên phát sinh sắc-pháp, đó là 75 tâm (trừ 4 vô-sắc-giới quả-tâm).
Tâm làm nhân-duyên phát sinh sắc-pháp gọi là cittajarūpa: sắc-pháp phát sinh do tâm trong thân của chúng sinh suốt mỗi sát-na-sinh (uppādakkhaṇa) của tâm kể từ hộ-kiếp-tâm đầu tiên sau tái-sinh-tâm, v.v…
3- Utu: Thời-tiết làm nhân-duyên phát sinh sắc-pháp, đó là sự nóng, sự lạnh bên trong và bên ngoài thân.
Thời-tiết nóng, lạnh làm nhân-duyên phát sinh sắc-pháp gọi là utujarūpa: sắc-pháp phát sinh do nóng, lạnh trong thân của chúng sinh suốt mỗi sát-na-trụ (ṭhitikhaṇa) của tâm kể từ tái-sinh-tâm, v.v…
4- Āhāra: Vật-thực làm nhân-duyên phát sinh sắc-pháp, đó là chất bổ trong các món vật-thực đã dùng vào trong thân của chúng sinh.
Vật-thực làm nhân-duyên phát sinh sắc-pháp, gọi là āhārajarūpa: sắc-pháp phát sinh do vật-thực trong thân của chúng sinh suốt mỗi sát-na-tâm, v.v…
Sắc-Pháp Phát Sinh Do Tâm
Tứ-oai-nghi là sắc-pháp phát sinh do tâm (cittajarūpa).
1- Nhân-duyên phát sinh oai-nghi-đi:
Oai-nghi-đi phát sinh do tâm qua quá trình diễn biến do nhiều nhân-duyên liên tục như sau:
– Tâm nghĩ đi,
-Do tâm nghĩ đi, nên làm cho phát sinh chất gió,
– Chất gió phát sinh do tâm ấy làm cho toàn thân chuyển động,
– Toàn thân chuyển bước đi mỗi tư thế đi, dáng đi do năng lực của chất gió phát sinh do tâm.
Vì vậy, gọi là “thân đi” hoặc “sắc đi” là sắc-pháp phát sinh do tâm (cittajarūpa).
2- Nhân-duyên phát sinh oai-nghi-đứng:
Oai-nghi-đứng phát sinh do tâm qua quá trình diễn biến do nhiều nhân-duyên liên tục như sau:
– Tâm nghĩ đứng,
– Do tâm nghĩ đứng, nên làm cho phát sinh chất gió,
– Chất gió phát sinh do tâm ấy làm cho toàn thân cử động,
– Toàn thân từ chân đến đầu đứng yên theo mỗi tư thế đứng, dáng đứng do năng lực của chất gió phát sinh do tâm.
Vì vậy, gọi là “thân đứng” hoặc “sắc đứng” là sắc-pháp phát sinh do tâm (cittajarūpa).
3- Nhân-duyên phát sinh oai-nghi-ngồi:
Oai-nghi-ngồi phát sinh do tâm qua quá trình diễn biến do nhiều nhân-duyên liên tục như sau:
– Tâm nghĩ ngồi,
– Do tâm nghĩ ngồi, nên làm cho phát sinh chất gió,
– Chất gió phát sinh do tâm ấy làm cho toàn thân cử động,
– Toàn thân, phần trên ngồi yên, phần dưới co theo mỗi tư thế ngồi, dáng ngồi do năng lực của chất gió phát sinh do tâm.
Vì vậy, gọi là “thân ngồi” hoặc “sắc ngồi” là sắc-pháp phát sinh do tâm (cittajarūpa).
4- Nhân-duyên phát sinh oai-nghi-nằm:
Oai-nghi-nằm phát sinh do tâm qua quá trình diễn biến do nhiều nhân-duyên liên tục như sau:
– Tâm nghĩ nằm,
– Do tâm nghĩ nằm, nên làm cho phát sinh chất gió,
– Chất gió phát sinh do tâm ấy làm cho toàn thân cử động,
– Toàn thân nằm yên trên mặt phẳng theo mỗi tư thế nằm, dáng nằm do năng lực của chất gió phát sinh do tâm.
Vì vậy, gọi là “thân nằm” hoặc “sắc nằm” là sắc-pháp phát sinh do tâm (cittajarūpa).
* Ngoài 4 oai-nghi chính đi, đứng, ngồi, nằmra, còn các oai-nghi phụ khác như co tay vào, co chân vào, duỗi tay ra, duỗi chân ra, v.v… đều là sắc-pháp phát sinh do tâm cả (cittajarūpa).
Đức-Phật ví: “sắc thân” ví như “chiếc xe”.
“tâm” ví như “tài xế xe”.
Thật vậy, sắc thân này gồm có 28 sắc-pháp mà mỗi người bình thường chỉ có 27 sắc-pháp mà thôi, nếu là người nam thì trừ sắc-nữ-tính hoặc nếu là người nữ thì trừ sắc-nam-tính, hoặc nếu người nào bị mắt mù, tai điếc thì sắc-pháp giảm theo bệnh tật.
Sắc thân hoàn toàn không biết 6 đối-tượng, chỉ là nơi tiếp xúc 6 đối-tượng làm nhân-duyên phát sinh tâm mà thôi.
Chiếc xe gồm có các bộ phận lớn nhỏ được ráp lại với nhau không thể chạy mau, chạy chậm, rẽ phải, rẽ trái, v.v… Sở dĩ chiếc xe chạy mau, chạy chậm, rẽ phải, rẽ trái, v.v… là do tài xế lái xe điều khiển.
Cũng như vậy, sắc thân này gồm có 27 sắc-pháp không thể đi, đứng, ngồi, nằm, co tay vào, co chân vào, duỗi tay ra, duỗi chân ra, v.v… Sở dĩ thân này có thể đi, đứng, ngồi, nằm, co tay vào, co chân vào, duỗi tay ra, duỗi chân ra, v.v… là do tâm điều khiển.
Nếu trường-hợp thiếu nhân-duyên nào thì thân đi, thân đứng, thân ngồi, v.v… không thể phát sinh được.
Ví dụ: người bị bệnh tê liệt, dù tâm của họ muốn đi, đứng, ngồi, cử động, v.v… như người bình thường không thể được, bởi vì chất gió (vāyodhātu) trong thân của họ không đủ năng lực cử động toàn thân có chất đất (pathavī-dhātu) và chất nước (āpodhātu) nặng nề trong thân của họ được.
* Hơi thở ra vào, sự nói năng, v.v… cũng là sắc-pháp đều phát sinh do tâm cả thảy.
Vi-Diệu-Pháp Hiện Thực Trong Cuộc Sống
Nêu những điều đã trình bày đó là sự sinh hoạt hằng ngày bình thường xảy ra trong cuộc sống hằng ngày của mỗi người nói riêng, đối với tất cả chúng sinh nói chung chỉ có tâm (citta), tâm-sở (cetasika), sắc-pháp (rūpadhamma) đó là 3 chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma) mà thôi thuộc về vi-diệu-pháp (abhidhamma).
Tâm với tâm-sở gọi là danh-pháp (nāma-dhamma,và sắc-pháp (rūpadhamma) thuộc về pháp-vô-ngã (anattādhamma) không phải là ta, cũng không phải là người, không phải là đàn ông, không phải là đàn bà, không phải là chúng sinh, mà chỉ có danh-pháp (nāmadhamma),và sắc-pháp (rūpadhamma) mà thôi, cho nên gọi là vi-diệu-pháp hiện thực trong cuộc sống.
Như vậy, thân và tâm của mỗi người chúng ta hiện hữu 3 sự-thật chân-nghĩa-pháp (paramattha-sacca). Vậy, muốn thấy rõ biết rõ về sự-thật chân-nghĩa-pháp thì chỉ thấy rõ biết rõ thực tế trong thân và tâm của mình mà thôi.
Ngoài thân và tâm của mình ra, còn có 1 sự-thật chân-nghĩa-pháp (paramatthasacca) cao thượng đó là Niết-bàn. Niết-bàn là đối-tượng siêu-tam-giới của 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả.
Trong quyển sách nhỏ “Vi-diệu-pháp hiện thực trong cuộc sống” này, chỉ giảng giải 20 tâm trong 89 hoặc 121 tâm mà thôi, bởi vì bần sư suy xét thấy rằng:
“Đối với các hạng phàm-nhân nói chung, 20 tâm đó là 12 bất-thiện-tâm và 8 dục-giới đại-thiện-tâm này thường phát sinh bình thường trong cuộc sống của mỗi người, ban đêm kể từ khi thức giấc, suốt ngày cho đến lúc ban đêm khi nằm ngủ rất say (không mộng mị), khi ngủ say, dòng hộ-kiếp-tâm sinh rồi diệt liên tục không ngừng có đối-tượng cũ kiếp quá-khứ.”
* 12 bất-thiện-tâm có 12 bất-thiện-nghiệp, giảng giải về 12 bất-thiện-nghiệp này cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) trong 4 cõi ác-giới: cõi địa-ngục, cõi a-su-ra, cõi ngạ-quỷ, loài súc-sinh, và thời-kỳ sau khi tái-sinh (pavattikāla) trong cõi có đủ nhân-duyên.
* 8 dục-giới đại-thiện-tâm có 8 dục-giới đại-thiện-nghiệp, giảng giải về 8 dục-giới đại-thiện-nghiệp này cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) trong cõi người và 6 cõi trời dục-giới, và thời-kỳ sau khi tái-sinh (pavattikāla) trong cõi có đủ nhân-duyên phát sinh. Và giảng giải tóm tắt các tâm khác còn lại trong cõi dục-giới
Như vậy, trong quyển sách nhỏ “Vi-diệu-pháp hiện-thực trong cuộc sống” này chỉ giảng giải về 54 dục-giới-tâm là 12 bất-thiện-tâm, 18 vô-nhân-tâm, 8 dục-giới đại-thiện-tâm, 8 dục-giới đại-quả-tâm, 8 dục-giới đại-duy-tác-tâm mà thôi, không đề cập đến 15 sắc-giới-tâm, 12 vô-sắc-giới-tâm và 8 hoặc 40 siêu-tam-giới-tâm.
Bần sư đã cố công sưu tầm gom nhặt từ nhiều nguồn tài liệu, để trình bày giúp cho độc giả hiểu rõ về 12 bất-thiện-tâm có 12 bất-thiện-nghiệp cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) và trong thời-kỳ sau khi tái-sinh (pavattikāla). Và 8 dục-giới đại-thiện-tâm có 8 dục-giới đại-thiện-nghiệp cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) và trong thời-kỳ sau khi tái-sinh (pavattikāla).
Song vì khả năng có hạn, nên chắc chắn không tránh khỏi những điều sơ sót, thậm chí còn có chỗ sai ngoài khả năng hiểu biết của bần sư. Kính mong chư bậc thiện-trí từ, bi chỉ giáo, góp ý chân tình, để tái bản lần sau được hoàn thiện hơn.
Kính xin quý vị xem soạn phẩm này như là của chung mà mỗi người trong chúng ta, ai cũng có bổn phận đóng góp xây dựng, để cho soạn phẩm này được hoàn hảo, hầu mong đem lại sự lợi ích chung, sự tiến hóa, sự an lạc cho phần đông chúng ta.
Bần sư kính cẩn đón nhận những lời đóng góp phê bình xây dựng ấy của chư bậc thiện-trí, và kính xin quý Ngài ghi nhận nơi đây lòng chân
thành biết ơn sâu sắc của bần sư.
Quyển sách “VI-DIỆU-PHÁP HIỆN-THỰC TRONG CUỘC SỐNG” này được hoàn thành do nhờ cận-sự-nữ Dhammanandā Upāsikā đã tận tâm xem lại bản thảo, dàn trang làm thành quyển, lo việc ấn hành. Các thí chủ trong nước và ngoài nước có đức tin trong sạch lo đóng góp phí in ấn, và được nhà xuất bản tôn giáo cho phép ấn hành. Bần sư vô cùng hoan hỷ biết ơn tất cả quý vị.
Nhân dịp may này, con là Dhammarakkhita Bhikkhu (Tỳ-khưu Hộ-Pháp) thành kính dâng phần pháp-thí thanh cao này đến Ngài Cố Đại-Trưởng-Lão Hộ-Tông Vaṃsarakkhitamahāthera là Sư Phụ của con, đồng thời đến Ngài Cố Đại-Trưởng-Lão Thiện-Luật, Ngài Cố Đại-Trưởng-Lão Bửu-Chơn, Ngài Cố Đại-Trưởng-Lão Giới- Nghiêm, Ngài Cố Trưởng-lão Hộ-Giác (chùa Từ-Quang) cùng chư Đại-Trưởng-lão, Đại-đức khác đã dày công đem Phật-giáo-Nguyên-thủy (Theravāda) về truyền bá trên quê hương Việt-Nam thân yêu, và xin kính dâng đến chư Đại-Trưởng-Lão ở nước Thái-Lan, nước Myanmar đã có công dạy dỗ con về pháp-học và pháp- hành. Con kính mong quý Ngài hoan hỷ.
“Idaṃ no ñātinaṃ hotu,
sukhitā hontu ñātayo.”
Phước-thiện pháp-thí thanh cao này, xin hồi hướng đến tất cả bà con thân quyến của chúng con, từ kiếp hiện tại cho đến vô lượng kiếp trong quá khứ, cầu mong quý vị hoan hỷ nhận phần phước-thiện thanh cao này để thoát khỏi cảnh khổ, được an lạc lâu dài.
Imaṃ puññābhāgaṃ mātāpitu-ācariya-ñāti-mittānañ ceva sesasabbasattānañca dema, sabbepi te puññapattiṃ laddhāna sukhitā hontu, dukkhā muccantu sabbattha.
Chúng con thành tâm hồi hướng, chia phước đến ông bà, cha mẹ, thầy tổ, bà con thân quyến, bạn hữu cùng tất cả chúng sinh từ cõi địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh, nhân-loại, chư-thiên trong 6 cõi trời dục giới, chư phạm-thiên trong các cõi trời sắc giới,… Kính mong tất cả quý vị hoan hỷ nhận phần phước-thiện pháp-thí thanh cao này, cầu mong quý vị thoát khỏi mọi sự khổ, được an lạc lâu dài trong khắp mọi nơi.
“Idaṃ me dhammadānaṃ āsavakkhayāvahaṃ hotu.”
Phước-thiện pháp-thí thanh cao này của mỗi người chúng con, xin làm duyên lành dẫn dắt mỗi người chúng con đến chứng đắc A-ra-hán-Thánh-đạo, A-ra-hán-Thánh-quả và Niết-Bàn, diệt-đoạn-tuyệt mọi phiền-não-trầm-luân, giải thoát khỏi khổ tử sinh luân hoài trong ba giới bốn loài.
Nếu mỗi người trong chúng con chưa diệt-đoạn-tuyệt được mọi phiền-não-trầm-luân, chưa giải thoát khổ sinh, vẫn còn tử sinh luân hồi, thì do năng lực phước-thiện pháp-thí thanh cao này ngăn cản mọi ác-nghiệp không có cơ hội cho quả tái sinh trong 4 cõi ác giới: địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh; và cũng do năng lực phước-thiện pháp-thí thanh cao này chỉ hỗ trợ thiện-nghiệp cho quả tái sinh trong cõi thiện giới: cõi người, các cõi trời dục-giới… mà thôi.
Được sinh kiếp nào, mỗi người trong chúng con đều là người có chánh-kiến, có đức tin trong sạch nơi Tam-Bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp, có duyên lành được gần gũi thân cận với bậc thiện-trí, lắng nghe chánh-pháp của bậc thiện-trí, có đức tin trong sạch nơi bậc thiện-trí, cố gắng tinh tấn hành theo lời giáo huấn của bậc thiện-trí, không ngừng tạo mọi pháp-hạnh ba-la-mật cho sớm được đầy đủ trọn vẹn, để mong sớm chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-Bàn, diệt-đoạn-tuyệt mọi phiền-não-trầm-luân, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong 3 giới 4 loài.
Trong kiếp tử sinh luân hồi, mỗi khi chúng con được nghe tin lành Đức-Phật, Đức-Pháp, Đức-Tăng ngự ở nơi nào, dù gần dù xa, chúng con cũng liền phát sinh thiện-tâm hỷ lạc, có đức tin trong sạch nơi Tam-Bảo, quyết tâm tìm đến nơi ấy, hầu đảnh lễ Đức-Phật, Đức-Pháp, Đức-Tăng, lắng nghe chánh-pháp của Ngài, rồi thực- hành theo chánh-pháp, để mong chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, diệt-đoạn-tuyệt mọi phiền-não-trầm-luân, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong 3 giới 4 loài.
Nay chúng con hết lòng thành kính quy y Tam-Bảo: quy y Đức-Phật-bảo, quy y Đức-Pháp-bảo, quy y Đức-Tăng-bảo, và thành tâm hộ trì Tam-Bảo cho đến trọn đời.
Do nhờ năng lực phước-thiện pháp-thí thanh cao này, cầu mong cho mỗi người chúng con luôn luôn có được duyên lành sâu sắc trong Phật-giáo.
Do nhờ năng lực phước-thiện pháp-thí thanh cao này hỗ trợ, nhắc nhở cho mỗi người chúng con, dù thành tựu quả báu ở cõi người (manus-sasampatti) giàu sang phú quý, quyền cao chức trọng như thế nào, cũng không đắm say trong cõi người; hoặc dù thành tựu quả báu ở cõi trời (devasampatti) hưởng được mọi an lạc vi tế cao quý như thế nào, cũng không đắm say trong cõi trời. Bởi vì mục đích cứu cánh cao cả của mỗi chúng con là cầu mong sớm được thành tựu quả báu Niết-Bàn (Nibbānasampatti), giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.
Icchitaṃ patthitaṃ amhaṃ,
khippameva samijjhatu.
Điều mong ước, ý nguyện của chúng con,
Cầu mong sớm được thành tựu như ý.
Phần 1.1
Vi-Diệu-Pháp là danh-từ gọi pháp nào?
Vi-diệu-pháp dịch từ chữ Pāḷi Abhidhamma.
Abhidhamma = Abhi + dhamma
Abhi nghĩa là Vi-diệu,
Dhamma đó là paramatthadhamma: chân-nghĩa-pháp là pháp có thật-tánh rõ ràng, không phải là chế-định-pháp.
Abhidhamma nghĩa là Vi-diệu-pháp.
Trong Tam-Tạng (Tipiṭakapāḷi) có 3 tạng:
1- Vinayapiṭakapāḷi: Tạng-Luật Pāḷi,
2- Suttantapiṭakapāḷi: Tạng-Kinh Pāḷi,
3- Abhidhammapiṭakapāḷi: Tạng-Vi-diệu-pháp Pāḷi.
* Tạng Abhidhammapiṭaka: Tạng Vi-diệu-pháp Pāḷi gồm có 7 bộ:
1- Bộ Dhammasaṅganīpāḷi: Bộ Pháp-hội-tụ,
2- Bộ Vibhaṅgapāḷi: Bộ Pháp-phân-tích,
3- Bộ Dhātukathāpāḷi: Bộ Pháp-phân-loại,
4- Bộ Puggalapaññattipāḷi: Bộ chúng-sinh chế-định,
5- Bộ Kathāvatthupāḷi: Bộ Pháp-luận-đề,
6- Bộ Yamakapāḷi: Bộ Pháp-song-đối,
7- Bộ Paṭṭhānapāḷi: Bộ Pháp-duyên-hệ.
Tạng Abhidhammapiṭaka gồm có 7 bộ lớn này được Đức-Phật Gotama thuyết giảng trên cõi trời Tam-thập-tam-thiên trong hạ thứ 7 của Đức-Phật, suốt 3 tháng mùa mưa ở cõi người. [1]
* Bộ Abhidhammatthasaṅgaha (Vi-diệu-pháp-yếu-nghĩa) của Ngài trưởng-lão Anuruddha gồm có 9 chương:
1- Cittasaṅgaha: Tâm yếu-lược,
2- Cetasikasaṅgaha: Tâm-sở yếu-lược,
3- Pakiṇṇakasaṅgaha: Các pháp-chi yếu-lược,
4- Vīthisaṅgaha: Lộ-trình-tâm yếu-lược,
5- Vīthimuttasaṅgaha: Pháp ngoại lộ-trình-tâm yếu-lược,
6- Rūpasaṅgaha: Sắc-pháp yếu-lược,
7- Samuccayasaṅgaha: Pháp nhóm-tổng-hợp yếu-lược,
8- Paccayasaṅgaha: Pháp-duyên yếu-lược,
9- Kammaṭṭhānasaṅgaha: Pháp-hành thiền yếu-lược,
Chín chương tóm lược ý nghĩa cốt yếu của Tạng-Vi-diệu-pháp Pāḷi gồm có 7 bộ gom lại có 5 pháp chính là citta (tâm), cetasika (tâm-sở), rūpadhamma (sắc-pháp), Nibbāna (Niết-bàn), và paññattidhamma (chế-định-pháp).
Citta, cetasika, rūpadhamma, Nibbāna gồm 4 pháp này gọi là paramatthadhamma: Chân-nghĩa-pháp.
Paramatthadhamma nghĩa là gì ?
Paramatthadhamma: Parama+attha+dhamma
*Parama: Thật-tánh chân-thật không biến thể theo thời gian và không gian,
* attha: ý nghĩa sâu sắc,
* dhamma: pháp có 4 là citta, cetasika, rūpa-dhamma, Nibbāna.
Paramatthadhamma là chân-nghĩa-pháp, có 4 pháp là citta: tâm, cetasika: tâm-sở, rūpa-dhamma: sắc-pháp, Nibbāna: Niết-bàn.
Paramatthadhamma: Chân-nghĩa-pháp là pháp có 3 tính chất:
* Chân-nghĩa-pháp có thật-tánh-pháp chân- thật không biến thể theo thời gian, không gian. Ví dụ: Tâm có trạng-thái biết đối-tượng, nhãn-thức-tâm có phận sự nhìn thấy đối-tượng sắc, địa-đại có trạng-thái cứng hoặc mềm, v.v… trong thời quá-khứ, thời hiện-tại, thời vị-lai, tại nơi này, nơi khác vẫn không biến thể, vẫn có trạng-thái của nó như vậy.
* Chân-nghĩa-pháp là pháp rất vi-diệu mà chỉ có các bậc thiện-trí có trí-tuệ-thiền-tuệ mới thấy rõ, biết rõ thật-tánh của chân-nghĩa-pháp mà thôi. Còn các hạng thiểu-trí không thể thấy rõ, biết rõ thật-tánh của chân-nghĩa-pháp.
* Chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma) là pháp làm nơi nương nhờ cho tất cả mọi chế-định-pháp (paññattidhamma) bằng ngôn-ngữ, ý-nghĩa để hiểu biết lẫn nhau.
Chân-nghĩa-pháp có 2 pháp:
* Saṅkhatadhamma: Pháp-hữu-vi đó là citta, cetasika, rūpa là những pháp do nhân-duyên cấu tạo; nhân-duyên có 4 loại: kamma: nghiệp, citta: tâm, utu: thời-tiết, āhāra: vật-thực.
* Asaṅkhatadhamma: Pháp-vô-vi đó là Nibbāna là pháp không do nhân-duyên nào cấu tạo.
Phần 1.2
Tâm (Citta)
Citta nghĩa là gì ?
Định nghĩa Citta: Tâm
“Ārammaṇaṃ cintetīti cittaṃ.”
Trạng-thái biết đối-tượng gọi là tâm.
Ārammaṇa: Đối-tượng có 6 loại:
1- Rūpārammaṇa: đó là đối-tượng sắc, các hình dáng,
2- Saddārammaṇa: đó là đối-tượng thanh, các loại âm thanh,
3- Gandhārammaṇa: đó là đối-tượng hương, các thứ mùi hương,
4-Rasārammaṇa:đó là đối-tượng vị, các thứ vị
5- Phoṭṭhabbārammaṇa: đó là đối-tượng xúc (đất, lửa, gió), cứng mềm, nóng lạnh, phồng xẹp,
6- Dhammārammaṇa: đó là đối-tượng pháp (tâm, tâm-sở, 5 tịnh-sắc, 16 sắc vi-tế, Niết-bàn, và chế-định-pháp).
Trong Chú-giải có những danh từ Pāḷi đồng nghĩa với citta như sau:
– Citta là trạng-thái biết đối-tượng,
– Mano là hướng đến đối-tượng,
– Hadaya là tích luỹ bên trong tâm,
– Mānasa là trạng-thái hài lòng trong tâm,
– Manāyatana là āyatana liên kết.
– Manindriya là indriya chủ,
– Viññāṇa là trạng-thái biết đối-tượng,
– Viññāṇakkhandha là thức-uẩn,
– Manoviññāṇadhātu là tự-tánh biết đối-tượng.
Citta thuộc về chân-nghĩa-pháp (paramattha-dhamma) có trạng-thái riêng biệt (visesa-lakkhaṇa) có 4 pháp lakkhaṇādicatuka:lakkhaṇa:
trạng-thái, rasa: phận sự, paccupaṭṭhāna: quả hiện hữu, padaṭṭhāna: nguyên-nhân gần phát sinh tâm:
1- Vijānanalakkhaṇaṃ có trạng-thái biết các đối-tượng,
2- Pubbaṅgamasasaṃ có phận sự dẫn đầu trong tất cả các pháp,
3- Sandhānapaccupaṭṭhānaṃ có sự sinh, sự diệt liên tục không ngừng là quả hiện hữu,
4- Nāmarūpapadaṭṭhānaṃ có danh-pháp, sắc-pháp là nhân-duyên gần phát sinh citta.
Tính Chất Của Citta
Tất cả các pháp đều do tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, thành-tựu tất cả các pháp đều do tâm.
* Người nào có bất-thiện–tâm (akusalacitta) nếu khi thân hành điều ác, khẩu nói điều ác, ý nghĩ điều ác thì ác-nghiệp ấy có cơ hội cho quả khổ đối với người ấy trong kiếp hiện tại lẫn nhiều kiếp vị lai.
* Người nào có thiện–tâm (kusalacitta) nếu khi thân hành điều thiện, khẩu nói điều thiện, ý nghĩ điều thiện thì dục-giới đại-thiện-nghiệp ấy có cơ hội cho quả an lạc đối với người ấy trong kiếp hiện tại lẫn nhiều kiếp vị lai.
Tính chất của tâm (citta) là rất huyền diệu như sau:
* Tâm huyền diệu bằng việc làm:
Tất cả mọi công trình đồ sộ, mọi thứ máy móc hiện đại hiện hữu trong đời này được thành-tựu đều do tâm tạo nên,
* Tâm huyền diệu tự tâm:
Thật-tánh của tâm phân chia nhiều loại tâm như là bất-thiện-tâm, vô-nhân-tâm, dục-giới đại-thiện-tâm, dục-giới đại-quả-tâm, dục-giới đại-duy-tác-tâm, sắc-giới-tâm, vô-sắc-giới-tâm, thần-thông-tâm, siêu-tam-giới-tâm,…
* Tâm huyền diệu do tích-luỹ tất cả các-nghiệp và mọi phiền-não:
Mỗi chúng-sinh trong vòng tử sinh luân hồi trong 3 giới 4 loài, trải qua vô-số kiếp, mỗi kiếp chỉ có phần thân thay đổi tuỳ theo quả của nghiệp, còn phần tâm vẫn tiếp diễn sinh rồi diệt liên tục không ngừng từ kiếp này chuyển sang kiếp khác; tất cả mọi bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp), mọi thiện-nghiệp dù nhẹ dù nặng trong mỗi kiếp đều được tích luỹ ở trong tâm cả thảy.
Nếu nghiệp nào có cơ hội thì nghiệp ấy cho quả trong kiếp hiện tại, cho quả tái sinh kiếp sau, và cho quả sau khi tái sinh, và cứ tiếp tục như vậy, đối với các chúng-sinh chưa phải là bậc Thánh-A-ra-hán.
* Tâm huyền diệu do giữ gìn quả của nghiệp và phiền não:
Mỗi chúng-sinh đã tạo bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp), thiện-nghiệp nào dù nhẹ dù nặng rồi, chắc chắn quả của nghiệp ấy không bao giờ mất, dù nghiệp nhẹ, dù nghiệp nặng đã trải qua thời gian lâu bao nhiêu kiếp đi nữa, mọi nghiệp ấy vẫn có cơ-hội theo cho quả của chúng.
* Tâm huyền diệu do tích luỹ các thói quen tự nhiên của mỗi chúng-sinh:
Tâm khiến tạo công việc chuyên môn, nghề nghiệp, môn học, tài nghệ nào, v.v… đã trở thành thói quen được tích luỹ trong mỗi tâm sinh rồi diệt liên tục không ngừng, tâm trước diệt chuyển sang tâm sau sinh, do năng lực của các pháp-duyên anantarapaccaya: liên-tục-duyên, samanantarapaccaya: liên-tục-năng-duyên, … cứ tiếp diễn như vậy, từ kiếp này sang kiếp khác, từ kiếp quá khứ đến kiếp hiện tại.
* Tâm huyền diệu do biết các đối-tượng khác nhau:
Mỗi tâm phát sinh chỉ biết một đối-tượng duy nhất mà thôi. Theo Chú-giải, tâm sinh rồi diệt vô cùng mau lẹ. Ví dụ chỉ một lần búng đầu móng tay, tâm sinh rồi diệt 1.000 tỷ lần.
Cho nên, tâm khi biết đối-tượng sắc, khi biết đối-tượng thanh, v.v… thay đổi nhau trong 6 đối-tượng sắc, đối-tượng thanh, đối-tượng hương, đối-tượng vị, đối-tượng xúc, đối-tượng pháp tuỳ theo nhân-duyên của 6 lộ-trình-tâm.
Số Lượng Citta
Citta chỉ có một trạng-thái là biết đối-tượng mà thôi, nên kể citta: tâm có một mà thôi, bởi vì khi nào tâm phát sinh, khi ấy tâm chỉ biết một đối-tượng ấy mà thôi.
Citta: Tâm có khả năng biết đối-tượng khác nhau, do năng lực của các cetasika: tâm-sở đồng sinh với tâm, đồng diệt với tâm, đồng đối-tượng với tâm, đồng nơi sinh với tâm, làm cho citta có khả năng biết đối-tượng khác nhau. Cho nên, phân tích citta ra gồm có 89 tâm hoặc 121 tâm.
Bộ Abhidhammatthasaṅgaha (Vi-diệu-pháp-yếu-nghĩa) của Ngài trưởng-lão Anuruddha có 9 chương. Chương thứ nhất Cittasaṅgha-vibhāga: Phần tâm-yếu-nghĩa gồm có 89 hoặc 121 tâm phân chia theo 4 cõi giới như sau:
Phân Chia Tâm Theo 4 Cõi Giới
1- Dục-giới-tâm (kāmāvacaracitta) có 54 tâm:
– Bất-thiện-tâm (Akusalacitta) có 12 tâm,
– Vô-nhân-tâm (Ahetukacitta) có 18 tâm,
– Đại-thiện-tâm (Mahākusalacitta) có 8 tâm,
– Đại-quả-tâm (Mahāvipākacitta) có 8 tâm,
– Đại-duy-tác-tâm (Mahākiriyacitta) có 8 tâm.
2- Sắc-giới-tâm (Rūpāvacaracitta) có 15 tâm:
– Sắc-giới thiền thiện-tâm có 5 tâm,
– Sắc-giới thiền quả-tâm có 5 tâm,
– Sắc-giới thiền duy-tác-tâm có 5 tâm.
3-Vô-sắc-giới-tâm (Arūpāvacaracitta) có 12 tâm
– Vô-sắc-giới thiền thiện-tâm có 4 tâm,
– Vô-sắc-giới thiền quả-tâm có 4 tâm,
– Vô-sắc-giới thiền duy-tác-tâm có 4 tâm.
4- Siêu-tam-giới–tâm (Lokuttaracitta) có 8 tâm hoặc 40 tâm, chia ra 2 loại tâm:
– Siêu-tam-giới-thiện-tâm có 4 tâm hoặc 20 tâm gọi là 4 hoặc 20 Thánh-đạo-tâm (Maggacitta).
– Siêu-tam-giới-quả-tâm có 4 tâm hoặc 20 tâm gọi là 4 hoặc 20 Thánh-quả-tâm (Phalacitta).
Quyển sách nhỏ “Vi-Diệu-Pháp Hiện Thực Trong Cuộc Sống” này chỉ giảng giải về 12 bất-thiện-tâm (akusalacitta) và 8 dục-giới đại-thiện-tâm (kāmāvacaramahākusalacitta), bởi vì 20 tâm này thường phát sinh trong cuộc sống hằng ngày đối với các hàng phàm nhân, bắt đầu từ khi thức giấc, suốt ngày, cho đến khi nằm ngủ một giấc say, không có mộng mị.
Trong 20 tâm này, tác-ý tâm-sở (cetanā-cetasika) đồng sinh với 12 bất-thiện-tâm gọi là 12 bất-thiện-nghiệp, và tác-ý tâm-sở (cetanā-cetasika) đồng sinh với 8 dục-giới đại-thiện-tâm gọi là 8 dục-giới đại-thiện-nghiệp.
12 bất-thiện-nghiệp trong 12 bất-thiện-tâm cho quả là 7 bất-thiện-quả vô-nhân-tâm (akusala-vipākacitta) trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭi- sandhikāla) và trong thời-kỳ sau khi tái-sinh.8 dục-giới đại-thiện-nghiệp trong 8 dục-giới đại-thiện-tâm cho quả là 8 dục-giới đại-quả-tâm và 8 thiện-quả-vô-nhân-tâm (kusalavipākāhetu- citta) trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭi-sandhikāla) và trong thời-kỳ sau khi tái-sinh (pavattikāla).
Quyển sách nhỏ “Vi-Diệu-Pháp Hiện Thực Trong Cuộc Sống” này chỉ giảng giải về 12 bất-thiện-tâm và 7 bất-thiện-quả vô-nhân-tâm, 8 dục-giới đại-thiện-tâm, 8 dục-giới đại-quả-tâm, 8 thiện-quả-vô-nhân-tâm và các dục-giới-tâm còn lại.
Như vậy, quyển sách nhỏ này chỉ giảng giải 12 bất-thiện-tâm, 18 vô-nhân-tâm, 8 dục-giới đại-thiện-tâm, 8 dục-giới đại-quả-tâm, 8 dục-giới đại-duy-tác-tâm gồm có 54 dục-giới-tâm mà thôi, không đề cập đến 15 sắc-giới-tâm và 12 vô-sắc-giới-tâm, 8 hoặc 40 siêu-tam-giới-tâm.
Phần -1.3
Bất-Thiện-Tâm (Akusalacitta)
Bất-thiện-tâm có 12 tâm chia ra 3 loại tâm:
1- Lobhamūlacitta: Tâm có nhân tham (lobha–
hetu) gọi là tham-tâm, có 8 tâm,
2– Dosamūlacitta: Tâm có nhân sân (dosa-
hetu) gọi là sân-tâm, có 2 tâm,
3– Mohamūlacitta: Tâm có nhân si (mohahetu)
gọi là si-tâm, có 2 tâm.
1-Lobhamūlacitta:Tâm có nhân tham (lobha-hetu), hoặc tâm có tham tâm-sở (lobhacetasika) nhiều năng lực dẫn dắt các tâm-sở đồng sinh với tâm ấy, nên gọi là tham-tâm (lobhacitta).
Tham-tâm (lobhacitta) này có tham tâm-sở đứng đầu dắt dẫn các tâm-sở đồng sinh theo mình. Tham tâm-sở (lobhacetasika) có 4 pháp riêng biệt lakkhaṇācatuka:
1- Ārammaṇagahaṇalakkhaṇo có trạng-thái chấp thủ trong đối-tượng,
2- Abhisaṅgaraso có phận sự giữ chặt trong đối-tượng,
3- Aparicāgapaccuṭṭhāno không buông bỏ đối-tượng là quả hiện hữu,
4- Saṅyojaniya dhammesu assādadassana padaṭṭhāno thấy các pháp ràng buộc đáng hài lòng là nhân-duyên gần phát sinh tham tâm-sở.
Lobhacitta: Tham-tâm phát sinh do nương nhờ 3 pháp là vedanā: thọ trong đối-tượng, diṭṭhi: tà-kiến, saṅkhāra: tác-động, nên tham-tâm phân chia ra làm 8 tâm như sau:
1- Somanassasahagataṃ diṭṭhigatasampayuttaṃ asaṅkhārikaṃ,
Tham-tâm thứ nhất đồng sinh với thọ hỷ, hợp với tà-kiến, không cần tác-động,
2- Somanassasahagataṃ diṭṭhigatasampayuttaṃ sasaṅkhārikaṃ,
Tham-tâm thứ nhì đồng sinh với thọ hỷ, hợp với tà-kiến, cần tác-động,
3- Somanassasahagataṃ diṭṭhigatavippayuttaṃ asaṅkhārikaṃ,
Tham-tâm thứ ba đồng sinh với thọ hỷ, không hợp với tà-kiến, không cần tác-động,
4- Somanassasahagataṃ diṭṭhigatavippayuttaṃ sasaṅkhārikaṃ,
Tham-tâm thứ tư đồng sinh với thọ hỷ, không hợp với tà-kiến, cần tác-động,
5- Upekkhāsahagataṃ diṭṭhigatasampayuttaṃ asaṅkhārikaṃ,
Tham-tâm thứ năm đồng sinh với thọ xả, hợp với tà-kiến, không cần tác-động,
6- Upekkhāsahagataṃ diṭṭhigatasampayuttaṃ sasaṅkhārikaṃ,
Tham-tâm thứ sáu đồng sinh với thọ xả, hợp với tà-kiến, cần tác-động,
7- Upekkhāsahagataṃ diṭṭhigatavippayuttaṃ asaṅkhārikaṃ,
Tham-tâm thứ bảy đồng sinh với thọ xả, không hợp với tà-kiến, không cần tác-động,
8- Upekkhāsahagataṃ diṭṭhigatavippayuttaṃ sasaṅkhārikaṃ.
Tham-tâm thứ tám đồng sinh với thọ xả, không hợp với tà-kiến, cần tác-động.
Giải Nghĩa Từ Pāḷi Trong 8 Tham-tâm
* Somanassasahagata: Somanassa+sahagata
– Somanassa: Thọ hỷ: Tham-tâm tiếp xúc với đối-tượng tốt đáng hài lòng nhiều, nên phát sinh thọ hỷ,
– Sahagata: đồng sinh với
– Somanassasahagataṃ: đồng sinh với thọ hỷ.
* Upekkhāsahagataṃ: upekkhā+sahagata
– Upekkhā: thọ xả: Tham-tâm tiếp xúc với đối-tượng không tốt không xấu, hài lòng ít, nên phát sinh thọ xả.
– sahagata: đồng sinh với,
– upekkhāsahagataṃ: đồng sinh với thọ xả,
*diṭṭhigatasampayutta:diṭṭhigata+sampayutta
– diṭṭhigata: theo tà-kiến thấy sai, chấp lầm,
– sampayutta: hợp với
– diṭṭhigatasampayuttaṃ: hợp với tà-kiến.
*diṭṭhigatavippayutta: diṭṭhigata+vippayutta:
– diṭṭhigata: theo tà-kiến
– vippayutta: không hợp với,
– diṭṭhigatavippayuttaṃ: không hợp với tà-kiến.
* asaṅkhārikaṃ: a+saṅkhārika
– a = na: không
– saṅkhārika: tác-động
– asaṅkhārikaṃ: không cần tác-động,
* sasaṅkhārikaṃ: (sa= saha)+saṅkhārika- saha: cùng với,
– saṅkhārika: tác-động.
– sasaṅkhārikaṃ: cần tác-động.
Tham-tâm có 8 loại tâm do căn cứ vào 3 pháp: vedanā: thọ, diṭṭhi: tà-kiến, saṅkhāra: tác-động.
* Tham-tâm có 8 tâm chia theo thọ:
– 4 tham-tâm đồng sinh với thọ hỷ,
– 4 tham-tâm đồng sinh với thọ xả.
* Tham-tâm có 8 tâm chia theo tà-kiến:
– 4 tham-tâm hợp với tà-kiến,
– 4 tham-tâm không hợp với tà-kiến.
* Tham-tâm có 8 tâm chia theo tác-động:
– 4 tham-tâm không cần tác-động,
– 4 tham-tâm cần tác-động.
* Nhân Phát Sinh 8 Tham-Tâm
8 tham-tâm phát sinh do 4 nhân:
1- Lobhaparivārakammapaṭisandhikatā: Sự tái sinh của người với đại-quả-tâm có ảnh hưởng đến tham-tâm,
2- Lobha ussannabhavato cavanatā: Sự chuyển kiếp (chết) của chúng-sinh từ cõi giới có tham nhiều,
3- Iṭṭhārammaṇasamāyogo: Tiếp xúc với đối-tượng tốt đáng hài lòng
4- Ussādadassanaṃ: Thấy đối-tượng thật đáng hài lòng ham thích.
Nếu hội đủ 4 nhân này thì tham-tâm phát sinh.
* Nhân Phát Sinh Tham-Tâm Đồng Sinh Với Thọ Hỷ
Tham-tâm đồng sinh với thọ hỷ do 4 nhân:
1- Somanassapaṭisandhikatā: Sự tái sinh của người với đại quả-tâm đồng sinh với thọ hỷ,
2- Agambhīrapakatikā: không có tâm suy xét sâu sắc trong đối-tượng,
3- Iṭṭhārammaṇasamāyogo: Tiếp xúc với đối-tượng tốt đáng hài lòng,
4- Byasanamutti: Không gặp 5 điều tai hại:
* Ñātibyasana: Sự thiệt hại về thân quyến,
* Bhogabyasana: Sự thiệt hại về của cải tài sản,
* Rogabyasana: Sự tai hại do bệnh nặng,
* Diṭṭhibyasana: Sự tai hại do tà-kiến,
* Sīlabyasana: Sự tai hại do phạm giới.
Nếu hội đủ 4 nhân này thì tham-tâm đồng sinh với thọ hỷ phát sinh.
* Nhân Phát Sinh Tham-Tâm Đồng Sinh Với Thọ Xả
Tham-tâm đồng sinh với thọ xả do 5 nhân:
1- Upekkhāpaṭisandhikatā: Sự tái sinh của người với đại quả-tâm đồng sinh với thọ xả,
2- Gambhīrapakatikā: Có tâm suy xét sâu sắc trong đối-tượng,
3- Majjhattārammaṇasamāyogo: Tiếp xúc với đối-tượng không tốt không xấu, (bậc trung).
4- Byasanamutti: Không gặp 5 điều tai hại,
5- Mūgadhātukatā: người có tính si-mê.
Nếu hội đủ 5 nhân này thì tham-tâm đồng sinh với thọ xả phát sinh.
* Nhân Phát Sinh Tham-Tâm Hợp Với Tà-Kiến
Tham-tâm hợp với tà-kiến do 5 nhân:
1- Diṭṭhijjhāsayatā: Tâm tính hay có tà-kiến,
2- Diṭṭhivippannapuggalasevanatā: Thường hay gần gũi thân cận với người có tà-kiến,
3- Saddhammavimukhatā: Không thích nghe chánh-pháp,
4- Micchāvitakkabahulatā: Hướng tâm nghĩ sai lầm nhiều về tà-kiến,
5- Ayoniso ummajjanaṃ: Phát sinh suy nghĩ điều không hợp pháp.
Nếu hội đủ 5 nhân này thì tham-tâm hợp với tà-kiến phát sinh.
* Nhân Phát Sinh Tham-Tâm Không Hợp Với Tà-Kiến
Tham-tâm không hợp với tà-kiến do 5 nhân:
1– Sassata ucchedadiṭṭhi anajjhāsayatā: Thường-kiến và đoạn-kiến không có trong tâm tính từ tiền kiếp,
2- Diṭṭhivippannapuggala asevanatā: Không gần gũi thân cận với người có tà-kiến,
3- Saddhammasammukhatā: Ham thích nghe chánh-pháp,
4- Sammāvitakkabahulatā: Hướng tâm đúng đắn về chánh-kiến,
5- Ayoniso na ummajjanaṃ: Không phát sinh suy nghĩ điều không hợp pháp.
Nếu hội đủ 5 nhân này thì tham-tâm không hợp với tà-kiến phát sinh.
*Nhân Phát Sinh Bất-Thiện-Tâm Không Cần Tác Động
Bất-thiện-tâm không cần tác động phát sinh do 6 nhân:
1-Asaṅkhārikakammajanitapaṭisandhikatā: Sự
tái sinh của người từ nghiệp không cần tác động.
2- Kalalakāyacittatā: Thân và tâm được an lạc,
3- Sītuṇhādīnaṃ khamanabahulatā: Có đức tính nhẫn nại chịu đựng sự nóng, sự lạnh, v.v… trở thành thói quen,
4- Kattabbakammesu diṭṭhānisaṃsatā: Đã từng thấy rõ hiệu quả trong công việc nên làm,
5- Kammesu ciṇṇavasitā: Có tính chuyên môn trong công việc làm ấy,
6- Utubhojanādisappāyalābho: Có được đầy đủ thuận lợi về thời tiết, vật thực, v.v…
Nếu hội đủ 6 nhân này thì bất-thiện-tâm không cần tác động phát sinh.
* Nhân Phát Sinh Bất-Thiện-Tâm Cần Tác Động
Bất-thiện-tâm cần tác động phát sinh do 6 nhân:
1- Sasaṅkhārikakammajanitapaṭisandhikatā:
Sự tái sinh của người từ nghiệp cần tác động,
2- Akalalakāyacittatā: Thân và tâm không được an lạc,
3- Sītuṇhādīnaṃ akhamanabahulatā: Không có đức sự nhẫn nại chịu đựng sự nóng, sự lạnh, v.v… trở thành thói quen,
4-Akattabbakammesu diṭṭhānisaṃsatā: Không từng thấy hiệu quả trong công việc nên làm,
5- Kammesu aciṇṇavasitā: Không có tính chuyên môn trong công việc làm ấy,
6- Utubhojanādi asappāyalābho: Không có được đầy đủ thuận lợi về thời tiết, vật thực, v.v..
Nếu hội đủ 6 nhân này thì bất-thiện-tâm cần tác động phát sinh.
Giảng Giải Về 8 Tham-Tâm
Do nguyên nhân nào gọi là tham-tâm?
Tâm nào có nhân tham (lobhahetu), hoặc có tham tâm-sở (lobhacetasika) nhiều năng lực dắt dẫn các tâm-sở khác đồng sinh với tâm ấy biết đối-tượng tốt đáng hài lòng, gọi tâm ấy là tham-tâm (lobhacitta).
Tham-tâm có nhân tham (lobhahetu) và chắc chắn cũng có nhân si (mohahetu) hoặc có tham tâm-sở (lobhacetasika) và chắc chắn cũng có si tâm-sở (mohacetasika) che phủ thật-tánh của đối-tượng, nên tham-tâm mù quáng muốn được đối-tượng tốt đáng hài lòng ấy, để mong đem lại sự an lạc cho mình.
Lobhacitta (Tham-tâm) phát sinh do nương nhờ 3 pháp căn bản:
1- Vedanā (Thọ tâm-sở) đó là somanassa-sahagata (đồng sinh với thọ hỷ) và upekkhā-sahagata (đồng sinh với thọ xả).
2- Diṭṭhi (Tà-kiến tâm-sở) đó là diṭṭhigata-sampayutta (hợp với tà-kiến) và diṭṭhigatavippa-
yutta (không hợp với tà-kiến),
3- Saṅkhārika (tác-động) đó là asaṅkhārika
không cần tác-động và sasaṅkhārika cần tác-động. Cho nên, tham-tâm chia ra làm 8 loại tâm.
* Somanassasahagata: đồng sinh với thọ hỷ:
Khi 4 tham–tâm biết đối-tượng tốt thật đáng hài lòng nhiều, nên đồng sinh với thọ hỷ,
* Upekkhāsahagata: đồng sinh với thọ xả:
Khi 4 tham–tâm biết đối-tượng không tốt, không xấu, hài lòng vừa phải, không đến nỗi hoan hỷ, nên chỉ đồng sinh với thọ xả mà thôi.
* Diṭṭhigatasampayutta: hợp với tà-kiến:
Khi 4 tham-tâm hợp với tà-kiến nghĩa là tà-kiến tâm-sở (diṭṭhicetasika) đồng sinh với 4 tham-tâm thấy sai, chấp lầm nơi đối-tượng và chủ thể (tâm biết đối-tượng) cho là ta (ngã), tà-kiến này gọi là micchādiṭṭhi.
Tà-kiến thấy sai, chấp lầm như thế nào?
Micchādiṭṭhi: Tà-kiến
Tà-kiến có nhiều loại:
* Trong bộ Paṭisambhidāmagga, phần diṭṭhi-kathā có 20 loại tà-kiến trong ngũ-uẩn.
* Trong kinh Brahmajālasutta ([1][2]) có 62 loại tà-kiến và kinh Sāmaññaphalasutta có 3 loại tà-kiến cố-định.
Tà-kiến nghĩa là gì?
Định nghĩa:
Micchā passatī’ti micchādiṭṭhi
Trạng thái thấy sai, biết sai sự thật gọi là tà-kiến, đó là tà-kiến tâm-sở đồng sinh với 4 tham-tâm hợp với tà-kiến.
Như vậy, tà-kiến là thấy sai, biết sai sự thật, rồi chấp lầm cho là ta, người, chúng-sinh, v.v…
* Trong bộ Paṭisambhidāmagga, phần diṭṭhi-kathā trình bày tà-kiến chấp ngũ-uẩn sakkāya-diṭṭhi [3] có 20 loại, bởi vì tà-kiến chấp lầm mỗi uẩn có 4 loại:
Sakkāyadiṭṭhi: Tà-kiến chấp ngũ-uẩn cho là ta.
Ngũ-uẩn có 5 uẩn:
1- Sắc-uẩn đó là 28 sắc-pháp thuộc về sắc– pháp,
2 – Thọ-uẩn đó là thọ tâm-sở thuộc về danh pháp,
3- Tưởng-uẩn đó là tưởng tâm-sở thuộc về danh-pháp,
4- Hành-uẩn gồm có 50 tâm-sở (trừ thọ tâm-sở và tưởng tâm-sở) thuộc về danh-pháp,
5- Thức-uẩn gồm tất cả các tâm thuộc về danh-pháp.
Tà-kiến thấy sai chấp lầm trong mỗi uẩn cho là ta như sau:
1- Tà-kiến chấp sắc-uẩn có 4 loại:
1.1- Sắc-uẩn là ta, hoặc ta là sắc-uẩn,
1.2- Ta có sắc-uẩn,
1.3- Sắc-uẩn ở trong ta,
1.4- Ta ở trong sắc-uẩn.
2- Tà-kiến chấp thọ-uẩn có 4 loại:
2.1- Thọ-uẩn là ta, hoặc ta là thọ-uẩn,
2.2- Ta có thọ-uẩn,
2.3- Thọ-uẩn ở trong ta,
2.4- Ta ở trong thọ-uẩn.
3- Tà-kiến chấp tưởng-uẩn có 4 loại:
3.1- Tưởng-uẩn là ta, hoặc ta là tưởng-uẩn,
3.2- Ta có tưởng-uẩn,
3.3- Tưởng-uẩn ở trong ta,
3.4- Ta ở trong tưởng-uẩn.
4- Tà-kiến chấp hành-uẩn có 4 loại:
4.1- Hành-uẩn là ta, hoặc ta là hành-uẩn,
4.2- Ta có hành-uẩn,
4.3- Hành-uẩn ở trong ta,
4.5- Ta ở trong hành-uẩn.
5- Tà-kiến chấp thức-uẩn có 4 loại:
5.1- Thức-uẩn là ta, hoặc ta là thức-uẩn,
5.2- Ta có thức-uẩn,
5.3- Thức-uẩn ở trong ta,
5.4- Ta ở trong thức-uẩn.
Sakkāyadiṭṭhi: Tà-kiến chấp ngũ-uẩn cho là ta (ngã) này có ảnh hưởng thế nào đối với tất cả mọi chúng-sinh ?
Tà-kiến chấp ngũ-uẩn đó là tà-kiến tâm-sở đồng sinh với 4 tham-tâm hợp với tà-kiến, đối với tất cả mọi chúng-sinh còn là phàm-nhân trong tam-giới đều có loại tà-kiến chấp ngũ-uẩn cho là ta (ngã). Cho nên, tà-kiến chấp ngũ-uẩn cho là ta này không có ảnh hưởng nào, không có trở ngại nào đối với tất cả chúng-sinh trong tam-giới cả.
Trong tam-giới, tất cả mọi phước-thiện như bố-thí, giữ giới, pháp-hành-thiền-định, v.v…) tà-kiến chấp ngũ-uẩn không có trở ngại nào đối với người tạo 8 dục-giới đại-thiện-nghiệp (như bố thí, giữ giới,…) và cũng không có trở ngại nào đối với hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-định dẫn đến chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm, và 4 bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm.
Cho nên, tà-kiến chấp ngũ-uẩn này hoàn toàn không cản trở 8 dục-giới đại-thiện-nghiệp cho quả tái sinh kiếp sau trong cõi người, 6 cõi trời dục-giới; chắc chắn cũng không cản trở 5 sắc-giới thiện-nghiệp, 4 vô-sắc-giới thiện-nghiệp cho quả tái sinh kiếp sau trên 16 cõi trời sắc-giới, 4 cõi trời vô-sắc-giới phạm-thiên.
Cản Trở Pháp-Hành Thiền-Tuệ
Tà-kiến chấp ngũ-uẩn cho là ta (ngã) này chắc chắn làm cản trở đối với các hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ. Bởi vì đối tượng của pháp-hành-thiền-tuệ là ngũ-uẩn, danh-pháp, sắc-pháp, … đều là pháp-vô-ngã, không phải ta, không phải người, không phải đàn ông, không phải đàn bà, không phải chúng-sinh, … nhưng tà-kiến chấp ngũ-uẩn cho là ta (ngã), nên chắc chắn làm cản trở đối với hành-giả đang thực-hành pháp-hành thiền-tuệ.
Hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ, nếu có tà-kiến chấp ngũ-uẩn cho là ta này thì làm cản trở trí-tuệ thiền-tuệ không thể phát sinh lên được, nên không thể thấy rõ, biết rõ được thật-tánh của danh-pháp, sắc-pháp là pháp vô-ngã; cũng không thể thấy rõ, biết rõ sự sinh sự diệt của danh-pháp, sắc-pháp; cũng không thể thấy rõ, biết rõ trạng-thái-vô-thường, trạng-thái-khổ, trạng-thái-vô-ngã của danh-pháp, sắc-pháp; cũng không thể chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, cũng không thể chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, không thể giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong 3 giới 4 loài.
Cho nên, tà-kiến chấp ngũ-uẩn này làm cản trở hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ.
Đức Phật thuyết dạy rằng:
“Aniccā sabbe saṅkhārā,
dukkhānattā ca saṅkhatā.
Nibbānañceva paññatti,
anattā iti nicchayā.([2][4])”
Tất cả các pháp hữu vi đều có 3 trạng-thái chung: trạng-thái vô-thường, trạng-thái-khổ, trạng-thái vô-ngã,
Niết-bàn và chế-định-pháp đều thuộc về pháp vô-ngã.
“Sabbe dhammā anattā.”
Tất cả các pháp đó là các pháp-hữu-vi và pháp-vô-vi Niết Bàn đều là pháp-vô-ngã.
Đúng theo thật-tánh của chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma) chỉ có sắc-pháp (rūpa-dhamma), và danh-pháp (nāmadhamma) đều là pháp vô-ngã mà thôi, không phải ta, không phải người, không phải đàn ông, không phải đàn bà, không phải chúng-sinh,…
Tất cả chỉ là các danh-pháp, các sắc-pháp, đều là pháp vô-ngã mà thôi.
Tà-Kiến Chấp Ngũ-Uẩn Cho Là Ta
* Tà-kiến chấp sắc-uẩn cho là ta như thế nào?
Ví dụ: Khi thân đi, thân đứng, thân ngồi, thân nằm,… Thân thuộc về sắc-uẩn cũng thuộc về sắc-pháp, nên gọi là sắc đi, sắc đứng, sắc ngồi, sắc nằm, … thế mà, tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi sắc đi, sắc đứng, sắc ngồi, sắc nằm, … cho là ta đi, ta đứng, ta ngồi, ta nằm, …
Ta đi, ta đứng, ta ngồi, ta nằm,… vốn không có thật, đúng theo thật-tánh của chân-nghĩa-pháp thì chỉ có thân đi, thân đứng, thân ngồi, thân nằm,… hoặc sắc đi, sắc đứng, sắc ngồi, sắc nằm,… thuộc về sắc-uẩn cũng thuộc về sắc-pháp mà thôi.
Sở dĩ gọi là ta đi, … là vì tà-kiến thấy sai, chấp lầm nơi sắc-uẩn, cho là ta đi, …
* Tà-kiến chấp thọ-uẩn cho là ta như thế nào?
Ví dụ: Thọ khổ, thọ lạc, thọ xả (không khổ không lạc), … Thọ tâm-sở thuộc về thọ-uẩn cũng thuộc về danh-pháp, thế mà tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi thọ khổ, thọ lạc, thọ xả, … cho là ta khổ, ta an lạc, ta không khổ không an lạc.
Ta khổ, ta an lạc,… vốn không có thật, đúng theo thật-tánh của chân-nghĩa-pháp thì chỉ có thọ khổ tâm-sở, thọ lạc tâm-sở thuộc về thọ-uẩn cũng thuộc về danh-pháp mà thôi.
Sở dĩ gọi là ta khổ, … là vì tà-kiến thấy sai, chấp lầm nơi thọ-uẩn ấy, cho là ta khổ,
* Tà-kiến chấp tưởng-uẩn cho là ta như thế nào?
Ví dụ: Sắc-tưởng là tưởng trong sắc, thanh-tưởng là tưởng trong âm thanh, hương-tưởng là tưởng trong mùi hương, vị-tưởng là tưởng trong các vị, xúc-tưởng là tưởng trong xúc, pháp-tưởng là tưởng trong các pháp.
Tưởng tâm-sở thuộc về tưởng-uẩn cũng thuộc về danh-pháp thế mà tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi sắc-tưởng, thanh-tưởng, hương-tưởng, vị-tưởng, xúc-tưởng, pháp-tưởng, cho là ta tưởng trong sắc, ta tưởng trong thanh, ta tưởng trong hương, ta tưởng trong vị, ta tưởng trong xúc, ta tưởng trong pháp.
Ta tưởng vốn không có thật, đúng theo thật-tánh của chân-nghĩa-pháp thì chỉ có tưởng tâm-sở, tưởng trong đối-tượng sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp thuộc về tưởng-uẩn cũng thuộc về danh-pháp mà thôi.
Sở dĩ gọi là ta tưởng trong sắc,… là vì tà-kiến thấy sai, chấp lầm nơi tưởng-uẩn cho là ta tưởng trong sắc, …
* Tà-kiến chấp hành-uẩn cho là ta như thế nào?
Ví dụ: Hành-uẩn có trạng-thái tạo-tác ác-pháp, thiện-pháp gồm có 50 tâm-sở (trừ thọ tâm-sở và tưởng tâm-sở) thuộc về hành-uẩn cũng thuộc về danh-pháp, thế mà tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi hành-uẩn cho là ta tạo-tác ác-pháp, thiện-pháp, …
Ta tạo-tác vốn không có thật, đúng theo thật-tánh của chân-nghĩa-pháp thì chỉ có 50 tâm-sở (trừ thọ tâm-sở và tưởng tâm-sở) tạo-tác ác-pháp, thiện-pháp thuộc về hành-uẩn cũng thuộc về danh-pháp mà thôi.
Sở dĩ gọi là ta tạo-tác ác-pháp, thiện-pháp… là vì tà-kiến thấy sai, chấp lầm nơi hành-uẩn cho là ta tạo-tác ác-pháp, thiện-pháp.
*Tà-kiến chấp thức-uẩn cho là ta như thế nào?
Ví dụ: Nhãn-thức-tâm thấy đối-tượng sắc; nhĩ-thức-tâm nghe đối-tượng thanh (âm-thanh); tỷ-thức-tâm ngửi đối-tượng hương; thiệt-thức-tâm nếm đối-tượng vị; thân-thức-tâm xúc-giác đối-tượng xúc (cứng, mềm, nóng, lạnh, …); ý-thức-tâm biết các pháp, v.v…
6 thức-tâm thuộc về thức-uẩn cũng thuộc về danh-pháp, thế mà, tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi nhãn-thức-tâm thấy sắc cho là ta thấy sắc; nhĩ-thức-tâm nghe âm-thanh cho là ta nghe tiếng; tỷ-thức-tâm ngửi mùi hương cho là ta ngửi mùi thơm; thiệt-thức-tâm nếm vị cho là ta nếm vị ngon; thân-thức-tâm xúc-giác xúc cho là ta xúc-giác cứng mềm; ý-thức-tâm biết các pháp cho là ta biết pháp.
Ta thấy sắc, …. vốn không có thật, đúng theo thật-tánh của chân-nghĩa-pháp thì chỉ có nhãn-thức-tâm thấy sắc,… thuộc về thức-uẩn cũng thuộc về danh-pháp mà thôi.
Sở dĩ gọi là ta thấy sắc, … là vì tà-kiến thấy sai, chấp lầm nơi nhãn-thức-tâm thuộc về thức-uẩn ấy, cho là ta thấy sắc, ta nghe âm-thanh, …
Diệt ngã được hay không?
Ngã (Ta) vốn không có thật, nên không có phương pháp diệt ngã.
Tà-kiến có thật, nên có phương pháp diệt tà-kiến. Hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ dẫn đến chứng-ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu-Thánh-đạo, Nhập-lưu-Thánh-quả và Niết-bàn, diệt-đoạn-tuyệt được 2 loại phiền-não là tà-kiến và hoài-nghi, trở thành bậc Thánh-Nhập-lưu không còn tà-kiến, nên vĩnh viễn không còn chấp ngã là vĩnh viễn không còn chấp ta, người, đàn ông, đàn bà, chúng-sinh nào nữa.
Vì vậy, sakkāyadiṭṭhi: tà-kiến chấp ngũ-uẩn cho là ta, (ngã) chỉ làm cản trở đối với các hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ mà thôi, bởi vì các hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ chỉ có đối tượng là ngũ-uẩn, danh-pháp, sắc-pháp, … thuộc về thật-tánh của chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma) là pháp-vô-ngã.
* Niyatamicchādiṭṭhi: Tà-kiến cố-định là tà-kiến chấp thủ cố-định, không thay đổi.
Tà-kiến cố-định có 3 loại:
1- Natthikadiṭṭhi: Vô-quả-tà-kiến
2- Ahetukadiṭṭhi: Vô-nhân-tà-kiến
3- Akiriyadiṭṭhi: Vô-hành-tà-kiến
1- Vô-quả-tà-kiến như thế nào?
Natthikadiṭṭhi: Vô-quả-tà-kiến cố-định là tà kiến thấy sai chấp lầm cố-định, không thay đổi rằng: “Không có quả của nghiệp.”
Người có vô-quả-tà-kiến cố-định này thấy sai chấp lầm rằng: “Không có quả khổ của ác- nghiệp, cũng không có quả an lạc của thiện- nghiệp. Người đã tạo ác-nghiệp hoặc thiện- nghiệp rồi đều không bị quả khổ của ác-nghiệp, hoặc không hưởng quả an lạc của thiện-nghiệp.
Tất cả chúng-sinh chết rồi là hết, không có nghiệp nào cho quả tái sinh kiếp sau.”
Người có vô-quả-tà-kiến cố-định này còn gọi là đoạn-kiến (ucchedadiṭṭhi) chết là hết, không có kiếp sau.
Như trong bài kinh Sāmaññaphalasutta ([3][5]) vị Đạo sư ngoại-đạo Ajitakesakambala có tà thuyết Natthikadiṭṭhi: Vô-quả-tà-kiến cố-định thấy sai, chấp lầm rằng: “Không có quả của nghiệp” như sau:
1- Natthi dinnaṃ: Tà-kiến thấy sai rằng: Phước thiện bố thí không có quả tốt, an lạc.
2- Natthi yiṭṭhaṃ: Tà-kiến thấy sai rằng: Phước thiện cúng dường không có quả tốt, an lạc.
3- Natthi hutaṃ: Tà-kiến thấy sai rằng: Phước thiện cúng dường, đón rước, cũng không có quả tốt, an lạc.
4- Natthi sukatadukkatānaṃ kammānaṃ phalaṃ vipākaṃ: Tà-kiến thấy sai rằng: Đã tạo thiện-nghiệp, ác-nghiệp rồi, không có quả an lạc của thiện-nghiệp, không có quả khổ của ác-nghiệp.
5- Natthi ayaṃ loko: Tà-kiến thấy sai rằng: Không có cõi giới này nghĩa là không có chúng-sinh tái sinh đến cõi giới này.
6- Natthi paro loko: Tà-kiến thấy sai rằng: Không có cõi giới khác nghĩa là chúng-sinh chết rồi là hết, không có tái sinh kiếp sau trong cõi giới khác.
7- Natthi mātā: Tà-kiến thấy sai rằng: Tạo phước, tạo tội đối với mẹ của mình, không có quả tốt, quả xấu.
8- Natthi pitā: Tà-kiến thấy sai rằng: Tạo phước, tạo tội đối với cha của mình, không có quả tốt, quả xấu.
9- Natthi sattā opapātikā: Tà-kiến thấy sai rằng: Không có các loài chúng-sinh hóa sinh to lớn ngay tức thì, như chư-thiên cõi dục-giới, chư
phạm-thiên cõi sắc-giới, chúng-sinh địa-ngục, loài ngạ-quỷ, loài a-su-ra.
10- Natthi loke samaṇabrahmaṇā samaggatā sammāpaṭipannā ye imañca lokaṃ parañca lokaṃ abhiññā sacchiktvā pavedenti: Tà-kiến thấy sai rằng: Trong đời này, không có các Sa-môn, Bà-la-môn thực-hành pháp-hành-thiền- định dẫn đến chứng đắc các bậc thiền sắc-giới, các bậc thiền vô-sắc, chứng đắc các phép thần- thông; thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn, thấy rõ biết rõ cõi giới này, các cõi giới khác.
Người có vô-quả-tà-kiến cố-định này là người phủ nhận quả của thiện-nghiệp, quả của ác-nghiệp, cũng có nghĩa là phủ nhận nhân là thiện-nghiệp, ác-nghiệp.
2- Vô-nhân-tà-kiến như thế nào?
Ahetukadiṭṭhi: Vô-nhân-tà-kiến cố-định là tà-kiến thấy sai chấp lầm cố-định, không thay đổi rằng: “Không có nhân là không có nghiệp.”
Người có vô-nhân-tà-kiến cố-định thấy sai chấp lầm rằng: “Không có nghiệp sinh cho quả (janakahetu), cũng không có nghiệp hỗ trợ cho quả của nghiệp. Nghĩa là không có thiện-nghiệp cho quả an lạc, không có ác-nghiệp cho quả khổ; cũng không có thiện-nghiệp hỗ trợ cho quả của nghiệp, không có ác-nghiệp hỗ trợ cho quả của nghiệp.”
Như vậy, người có vô-nhân-tà-kiến cố-định thấy sai chấp lầm rằng: “Tất cả mọi chúng-sinh hiện hữu trong cõi đời này theo tự nhiên, không do quả của thiện-nghiệp, không do quả của ác-nghiệp nào cả. Tất cả mọi chúng-sinh bị ô nhiễm tự nhiên, đến thời kỳ được trong sạch thanh tịnh tự nhiên. Cho nên, tất cả mọi chúng-sinh là người ác và người thiện; kẻ ngu và bậc trí, trải qua tử sinh luân hồi nhiều đời nhiều kiếp, đến thời kỳ nào đó cũng đều giải thoát khổ cả thảy.”
Như trong bài kinh Sāmaññaphalasutta ([4][6]) vị Đạo sư ngoại đạo Makkhaligosāla có tà thuyết Ahetukadiṭṭhi: Vô-nhân-tà-kiến cố-định thấy sai, chấp lầm rằng: “Không có nhân là không có nghiệp.” như sau:
– Không có nhân nào, không có duyên nào làm cho tất cả chúng-sinh bị ô nhiễm. Tất cả chúng-sinh bị ô nhiễm tự nhiên, không do nhân nào, duyên nào cả.
– Không có nhân nào, không có duyên nào làm cho tất cả chúng-sinh được trong sạch thanh tịnh. Tất cả chúng-sinh được trong sạch thanh tịnh tự nhiên, không do nhân nào, duyên nào cả.
– Không có nghiệp riêng của mình, không có nghiệp của người khác. Tất cả chúng-sinh sống tùy thuộc về vào sự may, sự rủi, thọ khổ tự nhiên, thọ lạc tự nhiên.
– Tất cả chúng-sinh là người ác, người thiện; kẻ ngu, bậc trí, trải qua tử sinh luân hồi nhiều đời nhiều kiếp, đến thời kỳ nào đó cũng đều giải thoát khổ cả thảy.”
Người có vô-nhân-tà-kiến cố-định này là người phủ nhận nhân đó là thiện-nghiệp, ác-nghiệp, cũng có nghĩa là phủ nhận nghiệp và quả của thiện-nghiệp, ác-nghiệp.
3- Vô-hành-tà-kiến như thế nào?
Akiriyadiṭṭhi: Vô-hành-tà-kiến cố-định là tà-kiến thấy sai chấp lầm cố-định, không thay đổi rằng: “Không có hành ác, không có hành thiện.”
Người có vô-hành-tà-kiến cố-định thấy sai chấp lầm rằng: “Người tạo ác-nghiệp không có hành ác, người tạo thiện-nghiệp không có hành thiện. Hành chỉ là hành mà thôi. không có hành ác, không có hành thiện.”
Như trong bài kinh Sāmaññaphalasutta ([5][7]) vị Đạo sư ngoại đạo Puraṇakassapa có tà thuyết Akiriyadiṭṭhi: Vô-hành-tà-kiến cố-định thấy sai, chấp lầm rằng: “Không có hành ác, không có hành thiện” như sau:
– Tự mình hành ác, sai khiến hành ác đều không có hành ác như:
– Tự mình sát sinh, sai khiến người khác sát sinh đều không có hành ác sát sinh.
– Tự mình trộm cắp, sai khiến người khác trộm cắp đều không có hành ác trộm cắp, v.v…
– Tự mình bố thí, sai khiến người khác bố thí đều không có hành thiện bố thí.
– Tự mình cúng dường, sai khiến người khác cúng dường đều không có hành thiện cúng dường, v.v …
Người có vô-hành-tà-kiến cố-định này là người phủ nhận nhân đó là thiện-nghiệp, ác-nghiệp, cũng có nghĩa là phủ nhận quả của thiện-nghiệp, ác-nghiệp.
Ba loại tà-kiến cố-định này là ác-nghiệp cực kỳ nặng hơn 5 ác-nghiệp vô gián trọng tội là giết cha, giết mẹ, giết bậc Thánh A-ra-hán, làm bầm máu bàn chân của Đức Phật và chia rẽ chư tỳ-khưu-Tăng, bởi vì, người có loại tà-kiến cố-định này hoàn toàn không tin nghiệp và quả của nghiệp của họ.
Tuy người ấy không tin nghiệp và quả của nghiệp, nhưng sự thật, người ấy đã tạo ác-nghiệp cực kỳ nặng, nên sau khi người ấy chết, chắc chắn ác-nghiệp tà-kiến ấy cho quả tái sinh trong cõi đại-địa-ngục Avīci, phải chịu quả khổ thiêu đốt suốt thời gian lâu dài, khó mà thoát ra khỏi cõi đại-địa-ngục này.
Tà-Kiến (Micchādiṭṭhi)
Tà-kiến phát sinh do nhân nào?
Trong Chi-bộ-kinh, phần 2 chi pháp, Đức Phật thuyết dạy rằng:
“Dveme Bhikkhave, paccayā micchādiṭṭhiyā uppādāya. Katame dve?
Parato ca ghoso, ayoniso ca manasikāro.
Ime kho bhikkhave, dve paccayā micchā-diṭṭhiyā uppādāya.”([6][8])
– Này chư Tỳ-khưu! Hai nhân duyên phát sinh tà-kiến. Hai nhân duyên ấy là gì?
1- Parato ca ghoso: Lắng nghe tà pháp từ hạng người có tà-kiến.
2- Ayoniso ca manasikāro: Do si mê biết sai lầm trong tâm không đúng theo thật-tánh của các pháp.
– Này chư Tỳ-khưu! Hai nhân duyên này phát sinh tà-kiến.
Chánh-Kiến (Sammādiṭṭhi)
Chánh-kiến phát sinh do nhân nào?
“Dveme Bhikkhave, paccayā sammādiṭṭhiyā uppādāya. Katame dve?
Parato ca ghoso, yoniso ca manasikāro.
Ime kho bhikkhve, dve paccayā sammādiṭṭhiyā uppādāya.”
– Này chư Tỳ-khưu! Hai nhân duyên phát sinh chánh-kiến. Hai nhân duyên ấy là gì?
1- Parato ca ghoso: Lắng nghe chánh-pháp từ Đức-Phật, chư Thánh-Thanh-văn đệ tử của Đức-Phật, các bậc thiện-trí.
2- Yoniso ca manasikāro: Do nhờ trí-tuệ hiểu biết trong tâm đúng theo thật-tánh của các pháp.
– Này chư Tỳ-khưu! Hai nhân duyên này phát sinh chánh-kiến.
Chánh-kiến có 5 loại:
1- Kammassakatā sammādiṭṭhi: Chánh-kiến- sở-nghiệp nghĩa là trí-tuệ thấy đúng, biết đúng thiện-nghiệp và ác-nghiệp mà mình đã tạo rồi là của riêng mình.
2- Vipassanā sammādiṭṭhi: Chánh-kiến-thiền- tuệ nghĩa là trí-tuệ-thiền-tuệ tam-giới thấy rõ, biết rõ danh-pháp, sắc-pháp là pháp vô-ngã, có sự sinh, sự diệt, có trạng thái vô-thường, trạng thái khổ, trạng thái vô-ngã.
3-Magga sammādiṭṭhi: Chánh-kiến-Thánh-đạo-tuệ nghĩa là trí-tuệ-thiền-tuệ siêu-tam-giới chứng đắc 4 Thánh-đạo có Niết-bàn là đối-tượng.
4- Phala sammādiṭṭhi: Chánh-kiến-Thánh-quả-tuệ nghĩa là trí-tuệ-thiền-tuệ siêu-tam-giới chứng đắc 4 Thánh-quả có Niết-bàn là đối tượng.
5- Paccavekkhaṇā sammādiṭṭhi: Chánh-kiến- quán-triệt nghĩa là trí-tuệ quán-triệt Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn đã chứng đắc; quán-triệt phiền não đã diệt-đoạn-tuyệt và phiền não chưa diệt được.
*Diṭṭhigatavippayutta không hợp với tà-kiến:
* Đối với các hạng phàm-nhân khi 4 tham-tâm không hợp với tà-kiến nghĩa là không có tà-kiến tâm-sở (diṭṭhicetasika) đồng sinh với 4 tham-tâm này, nên không thấy sai, không chấp lầm, nhưng không có nghĩa là 4 tham-tâm không hợp với tà-kiến này thấy đúng, biết đúng, mà chỉ là không quan tâm, không liên quan đến tà-kiến thấy sai, chấp lầm mà thôi.
* Nếu có ngã-mạn tâm-sở (mānacetasika) đồng sinh với 4 tham-tâm không hợp với tà-kiến này thì tự cho ta hơn người, hoặc bằng người, hoặc kém thua người.
Thật ra, chỉ có bậc Thánh-Nhập-lưu đã diệt-đoạn-tuyệt được 4 tham-tâm hợp với tà-kiến rồi, nên vĩnh viễn không còn tà-kiến thấy sai, chấp lầm nơi cả chủ-thể lẫn các đối-tượng mà thôi.
* Asaṅkhārika không cần tác-động:
Khi 4 tham-tâm phát sinh không cần tác-động có nghĩa là tham-tâm phát sinh do chính tự mình tác-động, không cần nương nhờ đến người khác tác-động.
Cho nên, 4 tham-tâm này có nhiều năng lực.
* Sasaṅkhārika cần tác-động:
Khi 4 tham-tâm phát sinh cần tác-động có nghĩa là tham-tâm phát sinh do nương nhờ đến người khác tác-động, chính tự mình không có khả năng tác-động.
Cho nên, 4 tham-tâm này có ít năng lực.
Tác-động có 3 cách:
1- Kāyapayoga: Thân-tác-động là tác-động bằng thân, như nắm tay, chỉ tay, vẫy tay, gật đầu, v.v…
2- Vacīpayoga: Khẩu-tác-động là tác-động bằng khẩu, dùng lời thuyết phục, nói lời ca tụng, nói lời động viên khuyến khích, v.v…
3- Manopayoga: Ý-tác-động là tác-động bằng tâm, tự mình tác-động mình, do suy nghĩ sâu sắc thấy rõ, biết rõ sự lợi ích, nên phát sinh tâm hài lòng trong công việc ấy. Trường hợp thực-hành pháp-hành-thiền-định, hoặc thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ luôn luôn cần đến ý-tác-động..
Nếu tự mình tác-động mình thì có đủ 3 cách là kāyapayoga, vacīpayoga và manopayoga.
Nếu có người khác tác-động thì chỉ có 2 cách là kāyapayoga và vacīpayoga mà thôi.
Quả Của Tham-tâm
Tham-tâm (lobhacitta) là tâm có nhân tham (lobhahetu), tham muốn, mong ước trong đối-tượng tốt đáng hài lòng.
Cho nên, tham-tâm là nhân sinh mọi sự khổ thật sự trong kiếp hiện tại.
Tác-ý tâm-sở đồng sinh với tham-tâm là ác-nghiệp nếu có cơ hội cho quả tái sinh kiếp sau thì sinh trong cõi ngạ-quỷ, cõi a-su-ra, sinh trong
cõi nào tuỳ theo năng lực của tham-tâm của chúng-sinh ấy.
Nhận Xét Về 8 Tham-Tâm
“Tham-tâm thứ nhất đồng sinh với thọ hỷ, hợp với tà-kiến, không cần tác-động”
Tâm-sở đồng sinh với tham-tâm thứ nhất có 19 tâm-sở, trong 19 tâm-sở này có tác-ý tâm-sở (cetanācetasika) gọi là ác-nghiệp. Ác-nghiệp này thuộc về ác-nghiệp nặng nhất, bởi vì tham-tâm này đồng sinh với thọ hỷ, hợp với tà-kiến, không cần tác-động.
“Tham-tâm thứ tám đồng sinh với thọ xả, không hợp với tà-kiến, cần tác-động”
Tâm-sở đồng sinh với tham-tâm thứ tám có 20 tâm-sở, trong 20 tâm-sở này có tác-ý tâm-sở (cetanācetasika) gọi là ác-nghiệp. Ác-nghiệp này thuộc về ác-nghiệp nhẹ nhất, bởi vì tham-tâm này đồng sinh với thọ xả, không hợp với tà-kiến, cần tác-động.
2- Dosamūlacitta Tâm có nhân sân (dosa-hetu), hoặc tâm có sân tâm-sở (dosacetasika) nhiều năng lực dẫn dắt các tâm-sở đồng sinh với tâm ấy, nên gọi là sân-tâm (dosacitta).
Sân-tâm (dosacitta) này có sân tâm-sở đứng đầu dắt dẫn các tâm-sở đồng sinh theo mình. Sân tâm-sở (dosacetasika) có 4 pháp riêng biệt lakkhaṇādicatuka:
1- Caṇḍikalakkhaṇo có trạng-thái hung dữ,
2- Nissayadahanaraso có phận sự làm nóng nảy thiêu đốt trong tâm của mình và người khác,
3- Dūsanapaccuṭṭhāno gây tai hại đến đối-tượng là quả hiện hữu,
4- Āghātavatthupadaṭṭhāno có đối-tượng hận thù là nhân-duyên gần phát sinh sân-tâm.
Dosacitta: Sân-tâm phát sinh do nương nhờ 3 pháp là domanassa: thọ ưu, paṭigha: hận thù, saṅkhāra: tác-động, nên sân-tâm phân chia ra làm 2 tâm như sau:
1- Domanassasahagataṃ paṭighasampayuttaṃ
asaṅkhārikaṃ,
Sân-tâm thứ nhất đồng sinh với thọ ưu, hợp với hận, không cần tác-động,
2- Domanassasahagataṃ paṭighasampayuttaṃ
sasaṅkhārikaṃ,
Sân-tâm thứ nhì đồng sinh với thọ ưu, hợp với hận, cần tác-động.
Giải Nghĩa Từ Pāḷi Trong 2 Sân-Tâm
Domanassasahagata: Domanassa+sahagata:
* Domanassa: Thọ ưu: Sân-tâm tiếp xúc với đối-tượng xấu, cảm nhận nỗi khổ tâm, nên phát sinh thọ ưu,
– Sahagata: đồng sinh với
-Domanassasahagataṃ: đồng sinh với thọ ưu,
* Paṭighasampayutta: paṭigha+sampayutta:
– paṭigha: hận thù,
– sampayutta: hợp với
– paṭighasampayuttaṃ: hợp với hận
* asaṅkhārikaṃ: không cần tác-động,
* sasaṅkhārikaṃ: cần tác-động.
Dosacitta: Sân-tâm có 2 tâm:
1- Sân-tâm đồng sinh với thọ ưu, hợp với hận, không cần tác-động,
2- Sân-tâm đồng sinh với thọ ưu, hợp với hận, cần tác-động.
* Nhân Phát Sinh 2 Sân-Tâm
2 sân-tâm phát sinh do 5 nhân:
1- Dosajjhāsayatā: Người có tính hay sân hận,
2– Agambhīrapakatitā: Thói quen không suy xét sâu sắc, không tế nhị,
3- Appassutatā: Người có ít học hỏi, kém hiểu biết trong các thiện-pháp,
4- Aniṭṭhārammaṇasamāyogo: Tiếp xúc với đối-tượng xấu không hài lòng,
5- Āghātavatthusamāyogo: Tiếp xúc với đối-tượng hận thù với mình, hoặc người thân của mình.
Giảng Giải Về 2 Sân-Tâm
Do nguyên nhân nào gọi là sân-tâm?
Tâm nào có nhân sân (dosahetu), hoặc có sân tâm-sở (dosacetasika) nhiều năng lực dắt dẫn các tâm-sở đồng sinh với tâm ấy biết đối-tượng xấu, phát sinh khổ tâm, gọi tâm ấy là sân-tâm (dosacitta)
Sân-tâm có nhân sân (dosahetu) chắc chắn cũng có nhân si (mohahetu) hoặc có sân tâm-sở (dosacetasika) chắc chắn có si tâm-sở (moha-cetasika) che phủ thật-tánh của đối-tượng, nên sân-tâm mù quáng gây tai hại đối-tượng.
Dosacitta (Sân-tâm) phát sinh do nương nhờ 3 pháp căn bản:
1- Vedanā (Thọ tâm-sở) đó là domanassa-vedanā: thọ ưu. Domanassasahagataṃ: đồng sinh với thọ ưu,
2- Paṭigha: Sân hận đó là sân tâm-sở, paṭighasampayutta: hợp với hận.
3- Saṅkhārika (tác-động) đó là asaṅkhārika không cần tác-động, sasaṅkhārika cần tác-động.
Cho nên, sân-tâm phân chia ra làm 2 loại.
* Domanassasahagata: đồng sinh với thọ ưu:
Khi 2 sân–tâm biết đối-tượng xấu, cảm nhận nỗi khổ tâm khó chịu, nóng nảy, sầu não, v.v… đó là domanassa: thọ ưu thuộc về vedanācetasika:
thọ tâm-sở. Vedanā có 5 loại:
1- Dukkhavedanā: Thọ khổ,
2- Sukhavedanā: Thọ lạc,
3- Somanassavedanā: Thọ hỷ,
4- Domanassavedanā: Thọ ưu,
5- Upekkhāvedanā: Thọ xả.
* Domanassavedanā: Thọ ưu này chỉ đồng sinh với 2 sân-tâm mà thôi, không đồng sinh với tâm nào khác cả. Cho nên, khi nào sân-tâm phát sinh thì khi ấy chắc chắn có domanassavedanā: thọ ưu đồng sinh.
Vì vậy, gọi là domanassasahagata: đồng sinh
với thọ ưu.
* Paṭighasampayutta: hợp với hận:
Khi 2 sân-tâm hợp với hận nghĩa là khi sân-tâm tiếp xúc với đối-tượng xấu thì paṭigha sân hận, khổ tâm khó chịu gây tai hại, phá hoại đối-tượng xấu ấy, paṭigha này là dosacetasika: sân tâm-sở luôn luôn chỉ đồng sinh với domanassavedanā mà thôi, không đồng sinh với vedanā nào khác.
Domanassa và paṭigha có 2 tính chất thật-tánh khác nhau như sau:
* Domanassa là 1 trong 5 loại vedanā thuộc về vedanācetasika: thọ tâm-sở là vedanākkhandha: thọ-uẩn thụ hưởng đối-tượng xấu, cảm nhận nỗi khổ tâm,
* Paṭigha đó là dosacetasika thuộc về trong saṅkhārakkhandha: hành-uẩn gây tai hại, phá hoại đối-tượng xấu ấy.
Domanassa và paṭigha tuy có 2 tính chất thật-tánh khác nhau, nhưng do năng lực của dosa-cittuppāda các tâm-sở đồng sinh với sân-tâm, cho nên khi sân-tâm phát sinh thì ắt có domanassa và paṭigha luôn luôn đồng sinh với sân-tâm ấy.
* Asaṅkhārika không cần tác-động:
Khi sân-tâm tiếp xúc với đối-tượng xấu, quá bực tức, sân hận paṭigha có năng lực mạnh, sân-tâm tự mình phát sinh với asaṅkhārika không cần tác-động.
Cho nên, sân-tâm này có năng lực mạnh, ác-nghiệp của sân-tâm này rất nặng
* Sasaṅkhārika cần tác-động:
Khi sân-tâm tiếp xúc với đối-tượng xấu, sân hận paṭigha có năng lực yếu, khi có người khác đến tác-động, nên sân-tâm mới phát sinh với sasaṅkhārika cần tác-động.
Cho nên, sân-tâm này có năng lực yếu, ác-nghiệp của sân-tâm này nhẹ.
* Nguyên Nhân Gần Để Phát Sinh Sân-Tâm:
Nguyên nhân gần để phát sinh 2 sân-tâm đó là
aniṭṭhārammaṇa: đối-tượng xấu và āghāta-vatthu: đối-tượng hận thù.
Āghātavatthu: Đối-tượng hận thù có 10:
1- Hận thù do nghĩ rằng: người ấy đã từng gây tai hại cho ta,
2- Hận thù do nghĩ rằng: người ấy đang gây tai hại cho ta,
3- Hận thù do nghĩ rằng: người ấy sẽ gây tai hại cho ta,
4- Hận thù do nghĩ rằng: người ấy đã từng gây tai hại cho người thân yêu của ta,
5- Hận thù do nghĩ rằng: người ấy đang gây tai hại cho người thân yêu của ta,
6- Hận thù do nghĩ rằng: người ấy sẽ gây tai hại cho người thân yêu của ta,
7- Hận thù do nghĩ rằng: người ấy đã từng làm lợi ích cho kẻ thù của ta,
8- Hận thù do nghĩ rằng: người ấy đang làm lợi ích cho kẻ thù của ta,
9- Hận thù do nghĩ rằng: người ấy sẽ làm lợi ích cho kẻ thù của ta,
10- Hận thù do gặp phải rủi như vấp ngã đau, đạp gai đâm vào bàn chân đau, v.v…
Quả Của Sân-Tâm
Sân-tâm (dosacitta) là tâm có nhân sân (dosahetu) gây tai hại, phá hoại đối-tượng xấu, cảm nhận nỗi khổ tâm.
Cho nên, sân-tâm phát sinh làm cho khổ tâm, có thể ảnh hưởng làm cho khổ thân đối với các hạng phàm nhân trong kiếp-hiện-tại.
Tác-ý tâm-sở đồng sinh với sân-tâm là ác-nghiệp nếu có cơ hội cho quả tái sinh kiếp sau thì sinh trong cõi địa-ngục, sinh trong cõi địa-ngục nào tuỳ theo năng lực của sân-tâm của chúng-sinh ấy.
Nhận Xét Về 2 Sân-Tâm
Sân-tâm có 2 tâm:
* Sân-tâm thứ nhất đồng sinh với thọ ưu, hợp với hận, không cần tác-động,
* Sân-tâm thứ nhì đồng sinh với thọ ưu, hợp với hận, cần tác-động.
*Tâm-sở đồng sinh với sân-tâm thứ nhất có 20 tâm-sở, trong 20 tâm-sở này có tác-ý tâm-sở (cetanācetasika) gọi là ác-nghiệp, cho nên ác-nghiệp này thuộc về ác-nghiệp nặng nhất, bởi vì sân-tâm này đồng sinh với thọ ưu, hợp với hận, không cần tác-động, có năng lực mạnh.
* Tâm-sở đồng sinh với sân-tâm thứ nhì có 22 tâm-sở có 2 tâm-sở thina: buồn-chán và middha: buồn-ngủ, nên làm sân-tâm có năng lực yếu. Trong 22 tâm-sở này có tác-ý tâm-sở (cetanā-cetasika) gọi là ác-nghiệp. Ác-nghiệp này thuộc về ác-nghiệp nhẹ nhất, bởi vì sân-tâm này đồng sinh với thọ ưu, hợp với hận, cần tác-động, có năng lực yếu.
Trình bày 2 sân-tâm tiếp theo sau 8 tham-tâm bởi vì tham-tâm là nhân, sân-tâm là quả, nếu không có tham-tâm thì chắc chắn cũng không có sân-tâm.
Thật vậy, bậc Thánh-Bất-lai diệt-đoạn-tuyệt được tham-ái trong 5 đối-tượng sắc, thanh, hương, vị, xúc trong cõi dục-giới, cũng đồng thời diệt-đoạn-tuyệt được 2 sân-tâm không còn dư sót nữa.
Bậc Thánh-Bất-lai chỉ còn tham-ái trong các bậc thiền sắc-giới, vô-sắc-giới, cõi trời sắc-giới (cõi trời vô-sắc-giới) mà thôi. Cho nên bậc Thánh-Bất-lai không trở lại tái sinh kiếp sau trong cõi dục-giới, mà chỉ tái sinh kiếp sau trên cõi trời sắc-giới mà thôi, rồi sẽ trở thành bậc Thánh-A-ra-hán sẽ tịch diệt Niết-bàn tại cõi trời sắc-giới, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong tam giới.
3- Mohamūlacitta Tâm có nhân si (moha-hetu), hoặc tâm có si tâm-sở (mohacetasika) nhiều năng lực dẫn dắt các tâm-sở đồng sinh với tâm ấy, nên gọi là si-tâm (mohacitta).
Si-tâm (mohacitta) này có si tâm-sở đứng đầu dắt dẫn các tâm-sở đồng sinh khác theo mình. Si tâm-sở (mohacetasika) có 4 pháp riêng biệt lakkhaṇādicatuka :
1- Añāṇalakkhaṇo có trạng-thái không biết tứ Thánh-đế,
2- Ārammaṇasabhāvacchādanaraso có phận sự làm che phủ thật-tánh của các đối-tượng,
3- Andhakārapaccuṭṭhāno có tính chất làm tối tăm là quả hiện hữu,
4-Ayonisomanasikārapadaṭṭhāno do si-mê hiểu biết trong tâm không đúng theo thật-tánh của các pháp là nhân-duyên gần phát sinh si tâm-sở.
Mohacitta: Si-tâm phát sinh chỉ nương nhờ upekkhāvedanā: thọ xả, hợp với vicikicchā, hoặc uddhacca, cho nên si-tâm phân chia ra làm 2 tâm như sau:
1- Upekkhāsahagataṃ vicikicchāsampayuttaṃ,
Si-tâm thứ nhất đồng sinh với thọ xả, hợp với hoài-nghi,
2- Upekkhāsahagataṃ uddhaccasampayuttaṃ,
Si-tâm thứ nhì đồng sinh với thọ xả, hợp với phóng-tâm.
Giải Nghĩa Từ Pāḷi Trong 2 Si-Tâm
Upekkhāsahagata: upekkhā+sahagata:
* Upekkhā: Thọ xả
– sahagata: đồng sinh với
– Upekkhāsahagataṃ: đồng sinh với thọ xả.
*vicikicchāsampayutta: vicikicchā+sampayutta
– vicikicchā: hoài-nghi,
– sampayutta: hợp với,
– vicikicchāsampayuttaṃ: hợp với hoài-nghi.
* uddhaccasampayutta: uddhacca+sampayutta
– uddhacca: phóng-tâm,
– sampayutta: hợp với,
– uddhaccasampayuttaṃ: hợp với phóng-tâm
Giảng Giải 2 Si-Tâm
1- Si-tâm đồng sinh với thọ xả, hợp với hoài nghi,
2- Si-tâm đồng sinh với thọ xả, hợp với phóng- tâm.
* Upekkhāsahagataṃ: đồng sinh với thọ xả:
Hai si-tâm đồng sinh với thọ xả có tính chất khác với 4 tham-tâm đồng sinh với thọ xả.
Si-tâm đồng sinh với thọ xả dù tiếp xúc với đối-tượng tốt hoặc xấu vẫn bình thản, bởi vì si-mê không biết nhận thức giá trị của đối-tượng ấy.Còn 4 tham-tâm hợp với thọ xả là khi tiếp xúc với đối-tượng không tốt không xấu, 4 tham-tâm hài lòng ít, nên không đủ để phát sinh thọ hỷ.
* Vicikicchāsampayuttaṃ: hợp với hoài-nghi:
Hoài-nghi có 2 loại:
1- Nivaraṇavicikicchā: Hoài-nghi là pháp chướng-ngại của mọi thiện-pháp,
2- Paṭirūpakavicikicchā: Hoài-nghi về những môn học chưa hiểu rõ, hoài-nghi về người, vật, v.v… không gọi là hoài-nghi trong si-tâm.
Si-tâm hợp với hoài-nghi đó là nivaraṇa-vicikicchā làm chướng-ngại chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, và Niết-bàn; có 8 loại hoài-nghi:
1- Buddhe kaṅkhati: Hoài-nghi về Đức-Phật rằng: * Đức-Phật có thật hay không? có phải người ta chế-định Đức-Phật ra để tôn thờ,…
* Hoài-nghi về 9 ân-Đức-Phật rằng:
Đức-Phật có 9 ân-đức là “Arahaṃ, Sammā-sambuddho,Vijjācaraṇasampanno, Sugato, Lokavidū, Anuttaro purisadammasārathi, Satthā devamanus-
sānaṃ, Buddho, Bhagavā.” có thật vậy hay không?
2- Dhamme kaṅkhati: Hoài-nghi về Đức-Pháp rằng: Đức-Phật thuyết giảng 6 ân-Đức-Pháp là “Svākkhāto Bhagavato dhammo, sandiṭṭhiko, akāliko, ehipassiko, opaneyyiko, paccattaṃ veditabbo viññūhi.” có thật vậy hay không?
3- Saṃghe kaṅkhati: Hoài-nghi về Đức-Tăng rằng: Chư Thánh-Thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật có 9 ân-Đức-Tăng là “Suppaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho, ujuppaṭipanno Bhagavato sāvaka- saṃgho, ñāyappaṭipanno Bhagavato sāvaka-saṃgho, sāmīcippaṭipanno Bhagavato sāvaka-saṃgho. Yadidaṃ cattāri purisayugāni aṭṭha purisapuggalā esa Bhagavato sāvakasaṃgho, āhuneyyo, pāhuneyyo, dakkhiṇeyyo, añjalikaraṇīyo, anuttaraṃ puññakkhettaṃ lokassa.” ([7][9]) có thật vậy hay không?
4- Sikkhāya kaṅkhati: Hoài-nghi về 3 sikkhā là adhisīlasikkhā: hành-giới bậc cao, adhicittasikkhā; hành-định bậc cao, adhipaññāsikkhā: hành-tuệ bậc cao trở thành bậc Thánh-nhân, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong 3 giới 4 loài, có thật vậy hay không?
5- Pubbante kaṅkhati: hoài-nghi về ngũ-uẩn đã từng có trong kiếp trước thật hay không? Hoặc
kiếp trước có thật vậy hay không?
6- Aparante kaṅkhati: hoài-nghi về ngũ-uẩn sẽ có trong kiếp sau thật hay không? Hoặc kiếp sau có thật vậy hay không?
7- Pubbantāparante kaṅkhati: hoài-nghi về ngũ uẩn kiếp trước, kiếp sau có thật hay không? Hoặc kiếp trước, kiếp sau có thật vậy hay không?
8- Paṭiccasamuppāde kaṅkhati: hoài-nghi về pháp thập-nhị-duyên-sinh:
“Avijjāpaccyā saṅkhārā,
Saṅkhārapaccayā viññāṇaṃ. …” ([8][10])
(Do vô-minh làm duyên, nên các hành sinh,
Do hành làm duyên, nên thức sinh, …)
Những pháp phát sinh theo nhân và quả liên hoàn với nhau, quả của pháp trước, rồi làm nhân của pháp sau, cứ như vậy diễn tiến không có pháp bắt đầu và cũng không có pháp cuối cùng, có thật vậy hay không?
Si-tâm hợp với 8 điều hoài-nghi này, ngoài ra, những điều hoài-nghi khác không phải là hoài-nghi trong si-tâm.
*Uddhaccasampayuttaṃ: hợp với phóng-tâm:
Si-tâm hợp với phóng-tâm là tâm bị động tiếp nhận lung tung các đối-tượng, chưa hết chuyện này đã sang qua chuyện khác, định-tâm các đối-tượng không rõ ràng. Cho nên ác-nghiệp trong si-tâm hợp với phóng-tâm có ít năng lực.
Phóng-tâm và hối-hận là 1 trong 5 pháp-chướng-ngại gây trở ngại cho mọi thiện-pháp không thể phát sinh được.
Nhân Sinh Hoài-Nghi
Hoài-nghi phát sinh do 2 nguyên-nhân là:
1- Ayonisomanasikāra: Si-mê hiểu biết trong tâm không đúng theo thật-tánh của các pháp,
2- Hoài-nghi nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo; hoài-nghi kiếp trước, kiếp sau, …
Nhân Diệt Hoài-Nghi
Hoài-nghi diệt do 2 nguyên-nhân là:
1- Yonisomanasikāra: Trí-tuệ hiểu biết rõ trong tâm đúng theo thật-tánh của các pháp,
2- Trí-tuệ hiểu biết rõ các pháp: thiện-pháp, bất-thiện-pháp, pháp nên hành, pháp không nên hành, pháp nên phát triển, pháp nên diệt, v.v…
Pháp Diệt Hoài-Nghi
Diệt hoài-nghi có 6 pháp là:
1- Bahussutā: Người nghe nhiều hiểu rộng,
2- Paripucchakatā: Người hay học hỏi,
3- Vinaye pakataññtā: Người tinh thông trong tạng Luật,
4- Adhimokkhabahulatā: Quyết định sáng suốt,
5- Kalyāṇamittatā: Người có bạn thiện trí tốt,
6- Sappāyakathā: Nghe lời giáo-huấn hay, hiểu rõ không còn hoài-nghi nữa.
Nhân Sinh Phóng-Tâm
Phóng-sinh phát sinh do 2 nguyên-nhân là:
1- Ayonisomanasikāra: Si-mê hiểu biết trong tâm không đúng theo thật-tánh của các pháp,
2- Phóng-tâm là tâm tiếp nhận lung tung các đối-tượng, chưa hết chuyện này sang qua chuyện khác, không tự chủ được.
Nhân Diệt Phóng-Tâm
Phóng-tâm diệt do 2 nguyên-nhân là:
1- Yonisomanasikāra: Trí-tuệ hiểu biết rõ trong tâm đúng theo thật-tánh của các pháp,
2- Thiện-tâm thanh-tịnh an trú trong đối-tượng.
Pháp Diệt Phóng-Tâm
1- Bahussutā: Người nghe nhiều hiểu rộng,
2- Paripucchakatā: Người hay học hỏi,
3-Vinaye pakataññtā: Người tinh thông trong tạng Luật,
4- Buddhasevitā: Thực-hành theo lời giáo huấn của Đức-Phật,
5- Kalyāṇamittatā: Người có bạn thiện trí tốt,
6- Sappāyakathā: Nghe lời giáo-huấn hay, tâm ổn định, thanh-tịnh.
Nhận Xét Về 2 Si-Tâm
Si-tâm có 2 tâm:
* Si-tâm thứ nhất đồng sinh với thọ xả, hợp với hoài-nghi,
* Si-tâm thứ nhì đồng sinh với thọ xả, hợp với phóng-tâm.
* Si-tâm có 2 tâm, không có tham tâm-sở đồng sinh, cũng không có sân tâm-sở đồng sinh, chỉ có si tâm-sở đồng sinh với 2 si-tâm mà thôi, khi tiếp xúc với đối-tượng tốt, không biết tốt, nên không đồng sinh với thọ hỷ; hoặc khi tiếp xúc với đối-tượng xấu, cũng không biết xấu, nên không đồng sinh với thọ ưu. Cho nên, 2 si-tâm này đồng sinh với thọ xả.
* Si-tâm thứ nhất hợp với hoài-nghi và si-tâm thứ nhì hợp với phóng-tâm.
* Nếu si-tâm hợp với hoài-nghi trong đối-tượng thì dù không tác-động (asaṅkhārika) hoặc dù có tác-động (sasaṅkhārika) cũng không có gì đặc biệt.
* Nếu si-tâm hợp với phóng-tâm các đối-tượng thì tâm bị động, chưa hết chuyện này đã sang chuyện khác nên mất tự chủ, không có nhiều năng lực. Cho nên dù không tác-động (asaṅkhārika) hoặc dù có tác-động (sasaṅkhārika) cũng không có gì đặc biệt.
Vì vậy, 2 si-tâm đều không có asaṅkhārika và sasaṅkhārika. Còn 8 tham-tâm và 2 sân-tâm, nếu bất-thiện-tâm nào không có tác-động asaṅ-khārika thì có ác-nghiệp nặng, nếu bất-thiện-tâm nào có tác-động sasaṅkhārika thì có ác-nghiệp nhẹ.
* Si-tâm có 2 tâm, không hợp với tà-kiến (diṭṭhi) và hận (paṭigha), bởi vì 2 si-tâm vốn không biết tính-chất của đối-tượng đúng theo sự thật, vả lại, 2 si-tâm đồng sinh với thọ xả (upekkhā), nên không hài lòng cũng không bực tức trong đối-tượng. Còn tà-kiến (diṭṭhi) phát sinh do hài lòng nơi đối-tượng, và hận (paṭigha) phát sinh do bực tức trong đối-tượng. Cho nên, 2 si-tâm không hợp với tà-kiến (như 4 tham-tâm) hoặc không hợp với hận (như 2 sân-tâm).
Si tâm-sở (mohacetasika) gọi là vô-minh (avijjā) phát sinh do 4 pháp āsava: 4 pháp trầm-luân: ([9][11])
“Āsavasamudayā avijjāsamudayo.” ([10][12])
Do sự sinh của 4 pháp trầm-luân, nên có sự sinh của vô-minh.
Quả Của Si-Tâm
Si-tâm (mohacitta) là tâm có nhân si (moha-hetu) không chỉ không biết thật-tánh của các pháp, mà còn không biết tính-chất tốt xấu của các đối-tượng nữa.
Cho nên, si-tâm phát sinh làm cho tâm tăm tối si-mê không biết pháp nên hành và pháp không nên hành, v.v…
Tác-ý tâm-sở đồng sinh với si-tâm hợp với hoài-nghi là ác-nghiệp nếu có cơ hội cho quả tái sinh kiếp sau thì sinh trong cõi súc-sinh, sinh trong loài súc-sinh nào tuỳ theo năng lực của si-tâm của chúng-sinh ấy.
Si-tâm có 2 tâm:
* Si-tâm thứ nhất đồng sinh với thọ xả, hợp với hoài-nghi,
* Si-tâm thứ nhì đồng sinh với thọ xả, hợp với phóng-tâm.
* Tâm-sở đồng sinh với si-tâm thứ nhất có 15 tâm-sở có hoài-nghi, tác-ý tâm-sở (cetanā-cetasika) gọi là ác-nghiệp. Nếu ác-nghiệp này có cơ-hội cho quả trong thời kỳ tái sinh kiếp sau thì sinh trong loài súc-sinh.
* Tâm-sở đồng sinh với si-tâm thứ nhì có 15 tâm-sở có phóng-tâm, tác-ý tâm-sở (cetanācesika) gọi là ác-nghiệp nhẹ không có khả năng cho quả trong thời kỳ tái sinh kiếp sau, mà chỉ có khả năng cho quả sau thời kỳ tái sinh mà thôi.
Giảng Giải Về 12 Bất-Thiện-Tâm
Bất-thiện-tâm (akusalacitta) có 12 tâm, tác-ý tâm-sở (cetanācetasika) đồng sinh với 12 bất-thiện-tâm gọi là 12 bất-thiện-nghiệp (akusalakamma) phát sinh do nương nhờ 3 nơi: thân, khẩu, ý.
* Bất-thiện-nghiệp phát sinh nơi thân gọi là thân-bất-thiện-nghiệp (akusalakāyakamma) hoặc gọi là thân–ác-nghiệp có 3 loại nghiệp là:
1- Pāṇātipāda: Ác-nghiệp sát sinh,
2- Adinnādāna: Ác-nghiệp trộm cắp,
3- Kāmesumicchārāra: Ác-nghiệp tà dâm.
* Bất-thiện-nghiệp phát sinh nơi khẩu gọi là khẩu-bất-thiện-nghiệp (akusalavacīkamma) hoặc gọi là khẩu-ác-nghiệp, có 4 loại nghiệp là:
1- Musāvāda: Ác-nghiệp nói dối,
2- Pisuṇavācā: Ác-nghiệp nói lời chia rẽ,
3- Pharusavācā: Ác-nghiệp nói lời thô tục,
4- Samphappalāpa: Ác-nghiệp nói lời vô ích.
* Bất-thiện-nghiệp phát sinh nơi ý gọi là ý-bất thiện-nghiệp (akusalamanokamma) hoặc gọi là ý-ác-nghiệp, có 3 loại nghiệp là:
1- Abhijjhā: Ác-nghiệp tham lam của cải của người khác,
2- Byāpāda: Ác-nghiệp thù hận người khác,
3- Micchādiṭṭhi: Ác-nghiệp tà-kiến thấy sai chấp lầm.
Bất-Thiện-Tâm Tạo Ác-Nghiệp
* 8 tham-tâm tạo ác-nghiệp bằng thân, khẩu, ý, có 7 loại ác-nghiệp:
– Thân-ác-nghiệp có 2 loại: trộm-cắp, tà-dâm,
– Khẩu-ác-nghiệp có 3 loại: nói dối, nói lời chia rẽ, nói lời vô ích,
– Ý-ác-nghiệp có 2 loại: tham lam, tà-kiến.
* 2 sân-tâm tạo ác-nghiệp bằng thân, khẩu, ý, có 7 loại ác-nghiệp:
– Thân-ác-nghiệp có 2 loại: sát-sinh, trộm-cắp,
– Khẩu-ác-nghiệp có 4 loại: nói dối, nói lời chia rẽ, nói lời thô tục, nói lời vô ích,
– Ý-ác-nghiệp có 1 loại: thù hận.
* 2 si-tâm tạo ác-nghiệp bằng thân, khẩu, ý có 10 loại ác-nghiệp:
– Thân-ác-nghiệp có 3 loại: sát-sinh, trộm-cắp,tà-dâm,
– Khẩu-ác-nghiệp có 4 loại: nói dối, nói lời chia rẽ, nói lời thô tục, nói lời vô ích,
– Ý-ác-nghiệp có 3 loại: tham lam, thù hận, tà-kiến.
Ác-Nghiệp Với Ác-Tâm
* 3 ác-nghiệp: ác-nghiệp sát-sinh, ác-nghiệp nói lời thô-tục, ác-nghiệp thù-hận phát sinh do năng lực của sân-tâm, có sân tâm-sở dẫn đầu.
* 3 ác-nghiệp: ác-nghiệp tà-dâm, ác-nghiệp tham lam, ác-nghiệp tà-kiến phát sinh do năng lực của tham-tâm, có tham tâm-sở dẫn đầu.
* 4 ác-nghiệp: ác-nghiệp trộm-cắp, ác-nghiệp nói dối, ác-nghiệp nói lời chia rẽ, ác-nghiệp nói lời vô ích phát sinh khi do năng lực của tham-tâm ham muốn lợi lộc; khi do năng lực của sân-tâm như trộm-cắp đem vất bỏ, vì ghét người chủ nhân, nói dối, nói lời chia rẽ, nói lời vô ích để gây thiệt hại cho người khác.
Thật ra, 10 ác-nghiệp này phát sinh trực-tiếp do nương nhờ tham-tâm và sân-tâm. Còn si-tâm tạo ác-nghiệp bằng thân, khẩu, ý, có 10 loại ác-nghiệp chỉ là cách gián-tiếp mà thôi, bởi vì 10 ác-nghiệp phát sinh đều do vô-minh làm nhân.
* Tham-tâm phát sinh có tham tâm-sở dẫn đầu, có si tâm-sở hỗ-trợ,
* Sân-tâm phát sinh có sân tâm-sở dẫn đầu, có si tâm-sở hỗ-trợ,
* Si-tâm phát sinh chỉ có si tâm-sở dẫn đầu mà thôi.
Nhân Sinh Bất-Thiện-Tâm
Bất-thiện-tâm gồm có 12 tâm phát sinh do ayonisomanasikāra: do si-mê biết sai lầm trong tâm không đúng theo thật-tánh của các pháp.
Đức-Phật dạy rằng:
– Này chư tỳ-khưu! Như-lai không thấy pháp nào khác làm nhân của bất-thiện-pháp chưa phát sinh thì phát sinh, thiện-pháp đã phát sinh, thì bị suy thoái như ayonisomanasikāra.
– Này chư tỳ-khưu! Người nào có ayoniso-manasikāra, bất-thiện-pháp chưa phát sinh thì phát sinh, thiện-pháp đã phát sinh, thì bị suy thoái.”([11][13])
Ayonisomanasikāra phát sinh do 5 nhân:
1- Pubbe akatapuññatā: Không tích luỹ phước- thiện trong kiếp trước,
2- Appaṭirūpadesavāsa: Sống ở nơi không thuận lợi (không có Phật-giáo).
3- Asappurisupanissaya: Không gần gũi thân cận với bậc thiện-trí trong Phật-giáo,
4- Asaddhammassavana: Không lắng nghe chánh-pháp của bậc thiện-trí,
5- Attamicchāpanidhi: Tâm biết sai lầm trong các pháp.
Ayonisomanasikāra phát sinh do 5 nhân này, nhân đầu tiên là không tích luỹ phước-thiện trong những kiếp trước, nên kiếp-hiện-tại sinh sống nơi chốn không thuận lợi, không có Phật-giáo, không được gần gũi thân cận với bậc thiện-trí trong Phật-giáo, không có cơ-hội lắng nghe chánh-pháp của bậc thiện-trí. Cho nên, người ấy có si-mê biết sai lầm trong tâm không đúng theo thật-tánh của các pháp, làm nhân cho bất-thiện-tâm chưa sinh thì phát sinh, thiện-tâm đã sinh thì bị suy thoái.
Vì vậy, ayonisomanasikāra là nhân phát sinh bất-thiện-tâm.
Diệt Bất-Thiện-Nghiệp
Bất-thiện-nghiệp là ác-nghiệp nên diệt bằng 3 cách:
1- Tadaṅgapahāna: Diệt-từng-thời,
2-Vikkhambhanapahāna:Diệt bằng cách chế-ngự,
3-Samucchedapahāna:Diệt bằng cách đoạn-tuyệt,
Diệt từng thời như thế nào?
Bất-thiện-tâm gồm có 12 tâm tạo 10 bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) bằng thân, khẩu, ý.
* Thân-ác-nghiệp có 3 loại: Sát-sinh, trộm-cắp, tà-dâm,
* Khẩu-ác-nghiệp có 4 loại: Nói dối, nói lời chia-rẽ, nói lời thô-tục, nói lời vô-ích.
* Ý-ác-nghiệp có 3 loại: Tham-lam, thù-hận, tà-kiến
Hành-giả thực-hành pháp-hành-giới có tác-ý tâm-sở (cetanācetasika) đồng sinh với dục-giới đại-thiện-tâm diệt từng thời 3 loại thân-ác-nghiệp: tránh xa sự sát-sinh, tránh xa sự trộm-cắp, tránh xa sự tà-dâm; và diệt từng thời 4 loại khẩu-ác-nghiệp: tránh xa sự nói dối, tránh xa sự nói lời chia rẽ, tránh xa sự nói lời thô tục, tránh xa sự nói lời vô ích.
Như vậy, hành-giả pháp-hành-giới có khả năng diệt-từng-thời (tadaṅgapahāna) được thân-ác-nghiệp và khẩu-ác-nghiệp.
Diệt bằng cách chế-ngự như thế nào?
Hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-định có định-tâm trong đối-tượng-thiền-định, nên diệt bằng cách chế-nghự (vikhambhanapahāna) được tham-lam, thù-hận, tà-kiến ở trong tâm.
Diệt bằng cách đoạn-tuyệt như thế nào?
Hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ dẫn đến chứng-ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, tiếp đến
1- Chứng đắc Nhập-lưu-Thánh-đạo, Nhập-lưu-Thánh-quả và Niết-bàn, có khả năng diệt-đoạn-tuyệt được 5 loại ác-nghiệp là sát-sinh, trộm-cắp, tà-dâm, nói dối, tà-kiến không còn nữa.
2- Chứng đắc Nhất-lai-Thánh-đạo, Nhất-lai-Thánh-quả và Niết-bàn, có khả năng diệt-đoạn-tuyệt được 3 loại ác-nghiệp loại thô là nói lời chia rẽ, nói lời thô tục, thù-hận không còn nữa.
3- Chứng đắc Bất-lai-Thánh-đạo, Bất-lai-Thánh-quả và Niết-bàn, có khả năng diệt-đoạn-tuyệt được 3 loại ác-nghiệp loại vi-tế là nói lời chia rẽ, nói lời thô tục, thù-hận không còn nữa.
4- Chứng đắc A-ra-hán-Thánh-đạo, A-ra-hán-Thánh-quả và Niết-bàn, có khả năng diệt-đoạn-tuyệt được 2 loại ác-nghiệp còn lại là tham-lam, nói lời vô-ích không còn nữa.
* Diệt Bất-Thiện-Tâm
Hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ dẫn đến chứng-ngộ chân-lý tứ Thánh-đế tiếp đến
1- Chứng đắc Nhập-lưu-Thánh-đạo, Nhập-lưu-Thánh-quả và Niết-bàn, có khả năng diệt-đoạn-tuyệt được 5 loại bất-thiện-tâm là 4 tham-tâm hợp với tà-kiến và 1 si-tâm hợp với hoài-nghi không còn nữa.
2- Chứng đắc Nhất-lai-Thánh-đạo, Nhất-lai-Thánh-quả và Niết-bàn, có khả năng diệt-đoạn-tuyệt được 2 loại bất-thiện-tâm là 2 sân-tâm loại thô không còn nữa.
3- Chứng đắc Bất-lai-Thánh-đạo, Bất-lai-Thánh-quả và Niết-bàn, có khả năng diệt-đoạn-tuyệt được 2 loại bất-thiện-tâm là 2 sân-tâm loại vi-tế không còn nữa.
4- Chứng đắc A-ra-hán-Thánh-đạo, A-ra-hán-Thánh-quả và Niết-bàn, có khả năng diệt-đoạn-tuyệt được 5 loại bất-thiện-tâm còn lại là 4 tham-tâm không hợp với tà-kiến và 1 si-tâm hợp với phóng-tâm không còn nữa.
Tâm Với Tâm-Sở
Tâm (citta) gồm có 89 hoặc 121 tâm và tâm-sở (cetasika) gồm có 52 tâm-sở. Tâm với tâm-sở không thể tách rời nhau được, hễ khi có tâm nào phát sinh, ắt hẳn có một số tâm-sở tương xứng đồng sinh với tâm ấy, bởi vì tâm-sở có 4 trạng-thái là đồng sinh với tâm, đồng diệt với tâm, đồng đối-tượng với tâm, đồng nơi sinh với tâm.
Bất-Thiện-Tâm Với Tâm-Sở
12 bất-thiện-tâm có 2 loại tâm-sở đồng sinh:
1- Aññasamānācetasika: đồng-sinh-toàn-tâm, đồng-sinh-tuỳ-tâm tâm-sở, có 13 tâm-sở, và
2- Akusalacetasika: bất-thiện-tâm-sở có 14 tâm-sở
Như vậy, chỉ có 27 tâm-sở đồng sinh với 12 bất-thiện-tâm mà thôi.
* Tham-tâm có 8 tâm:
Trong 8 tham-tâm, mỗi tham-tâm có một số tâm-sở đồng sinh với tâm như sau:
1- Tham-tâm thứ nhất đồng sinh với thọ hỷ, hợp với tà-kiến, không cần tác-động, có 19 tâm-sở đồng sinh với tham-tâm này là 13 aññasamānā-cetasika + 4 mocatukacetasika + 1 lobha-cetasika + 1 diṭṭhicetasika, gồm có 19 tâm-sở.([12][14])
2- Tham-tâm thứ nhì đồng sinh với thọ hỷ, hợp với tà-kiến, cần tác-động, có 21 tâm-sở đồng sinh với tham-tâm này đó là 13 aññasamānācetasika + 4 mocatukacetasika + 1 lobhacetasika + 1 diṭṭhicetasika + 2 thīduka-cetasika, gồm có 21 tâm-sở.
3- Tham-tâm thứ ba đồng sinh với thọ hỷ, không hợp với tà-kiến, không cần tác-động, có19 tâm-sở đồng sinh với tham-tâm này đó là 13 aññasamānācetasika + 4 mocatukacetasika + 1 lobhacetasika + 1 mānacetasika gồm có 19 tâm-sở.
4- Tham-tâm thứ tư đồng sinh với thọ hỷ, không hợp với tà-kiến, cần tác-động, có 21 tâm-sở đồng sinh với tham-tâm này đó là 13 aññasamānā-cetasika + 4 mocatukacetasika + 1 lobhacetasika + 1 mānacetasika + 2 thīdukacetasika gồm có 21 tâm-sở.
5- Tham-tâm thứ năm đồng sinh với thọ xả, hợp với tà-kiến, không cần tác-động, có 18 tâm-sở đồng sinh với tham-tâm này đó là 12 aññasamānā-cetasika (trừ pīticetasika) +4 mocatukacetasika+
1 lobhacetasika + 1 diṭṭhicetasika gồm có 18 tâm-sở,
6- Tham-tâm thứ sáu đồng sinh với thọ xả, hợp với tà-kiến, cần tác-động, có 20 tâm-sở đồng sinh với tham-tâm này đó là 12 aññasamānācetasika (trừ pīticetasika) + 4 mocatukacetasika + 1 lobha- cetasika + 1 diṭṭhicetasika + 2 thīdukacetasika, gồm có 20 tâm-sở.
7- Tham-tâm thứ bảy đồng sinh với thọ xả, không hợp với tà-kiến, không cần tác-động có 18 tâm-sở đồng sinh với tham-tâm này đó là 12 aññasamānācetasika (trừ pīticetasika) + 4 mocatuka- cetasika + 1 lobhacetasika + 1 mānacetasika, gồm có 18 tâm-sở,
8- Tham-tâm thứ tám đồng sinh với thọ xả, không hợp với tà-kiến, cần tác-động có 20 tâm-sở đồng sinh với tham-tâm này đó là 12 aññasamānā-cetasika (trừ pīticetasika) + 4 mocatukacetasika + 1 lobhacetasika + 1 mānacetasika + 2 thīdukacetasika, gồm có 20 tâm-sở.
* Sân-tâm có 2 tâm:
Trong 2 sân-tâm, mỗi sân-tâm có một số tâm-sở đồng sinh với tâm như sau:
1- Sân-tâm thứ nhất đồng sinh với thọ ưu, hợp với hận, không cần tác-động, có 20 tâm-sở đồng sinh với sân-tâm này đó là 12 aññasamānā-cetasika (trừ pīticetasika) + 4 mocatukacetasika + 4 docatukacetasika, gồm có 20 tâm-sở ,
2- Sân-tâm thứ nhì đồng sinh với thọ ưu, hợp với hận, cần tác-động, có 22 tâm-sở đồng sinh với sân-tâm này đó là 12 aññasamānācetasika (trừ pīticetasika) + 4 mocatukacetasika+4 docatuka- cetasika+2 thīdukacetasika, gồm có 22 tâm-sở.
* Si-tâm có 2 tâm:
Trong 2 si-tâm, mỗi si-tâm có một số tâm-sở đồng sinh với tâm như sau:
1- Si-tâm thứ nhất đồng sinh với thọ xả, hợp với hoài-nghi, có 15 tâm-sở đồng sinh với si-tâm này đó là 10 aññasamānācetasika (trừ pīticetasika adhimokkha, chanda) + 4 mocatukacetasika + 1 vicikicchācetasika, gồm có 15 tâm-sở,
2- Si-tâm thứ nhì đồng sinh với thọ xả, hợp với phóng-tâm, có 15 tâm-sở đồng sinh với si-tâm này đó là 11 aññasamānācetasika (trừ pīticetasika, chanda) + 4 mocatukacetasika, gồm có 15 tâm-sở.
* Diệt 14 Bất-Thiện Tâm-Sở
Hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ dẫn đến chứng-ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, nếu chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, diệt-đoạn-tuyệt được 12 bất-thiện-tâm thì chắc chắn cũng diệt-đoạn-tuyệt được 14 bất-thiện tâm-sở đồng thời với 12 bất-thiện-tâm ấy.
Để biết mỗi Thánh-đạo-tuệ có khả năng diệt-đoạn-tuyệt được bất-thiện tâm-sở nào như sau:
1- Nhập-lưu-Thánh-đạo-tuệ diệt-đoạn-tuyệt được 4 bất-thiện tâm-sở là tà-kiến tâm-sở, hoài-nghi tâm-sở, ganh-tị tâm-sở, keo-kiệt tâm-sở không còn nữa.
2- Nhất-lai-Thánh-đạo-tuệ diệt-đoạn-tuyệt được 2 bất-thiện tâm-sở loại thô là sân tâm-sở, hối-hận tâm-sở không còn nữa.
3- Bất-lai-Thánh-đạo-tuệ diệt-đoạn-tuyệt được 2 bất-thiện tâm-sở loại vi-tế là sân tâm-sở, hối-hận tâm-sở không còn nữa.
4- A-ra-hán-Thánh-đạo-tuệ diệt-đoạn-tuyệt được 8 bất-thiện tâm-sở là tham tâm-sở, ngã-mạn tâm-sở, si tâm-sở, phóng-tâm tâm-sở, buồn-chán tâm-sở, buồn-ngủ tâm-sở, không biết hổ-thẹn tội-lỗi tâm-sở, không biết ghê-sợ tội-lỗi tâm-sở không còn nữa.
*Trong 14 bất-thiện tâm-sở có 10 loại phiền-não (kilesa) là tham, sân, si, tà-kiến, ngã-mạn, hoài-nghi, buồn-ngủ, phóng-tâm, không biết hổ-thẹn tội-lỗi, không biết ghê-sợ tội-lỗi, đó là 10 loại phiền-não làm cho tâm ô-nhiễm, thân tâm nóng nảy khiến tạo mọi ác-nghiệp, rồi cho quả khổ tử sinh luân hồi trong 3 giới 4 loài.
Để biết mỗi Thánh-đạo-tuệ có khả năng diệt-đoạn-tuyệt được phiền-não nào như sau:
1- Nhập-lưu-Thánh-đạo-tuệ diệt-đoạn-tuyệt được 2 loại phiền-não là tà-kiến, hoài-nghi không còn nữa.
2- Nhất-lai-Thánh-đạo-tuệ diệt-đoạn-tuyệt được 1 phiền-não là sân loại thô không còn nữa.
3-Bất-lai-Thánh-đạo-tuệ diệt-đoạn-tuyệt được 1 phiền-não là sân loại vi-tế không còn nữa.
4- A-ra-hán-Thánh-đạo-tuệ diệt-đoạn-tuyệt được 7 loại phiền-não là tham, si, ngã-mạn, buồn-ngủ, phóng-tâm, không biết hổ-thẹn tội-lỗi, không biết ghê-sợ tội-lỗi không còn nữa.
[1] tháng ở cõi người, so sánh với thời gian trên cõi trời Tam-thập-tam-thiên khoảng 3 phút 36 giây, bởi vì 1 ngày 1 đêm trên cõi trời này bằng 100 năm ở cõi người.
[2] Dī.,Sīlakkhandhavagga, Brahmajālasutta và Sāmaññaphalasutta.
[3] Xem lời giải thích trong quyển “Tìm hiểu Pháp-Hành Thiền-Tuệ” cùng soạn giả.
[4] Vinayapiṭaka, Bộ ParivāraPāḷi, Phần Samuṭṭhānasīsasaṅkhepa
[5] Dī. Sīlakkhandhavagga, Kinh Sāmaññaphalasutta
[6] Dī. Sīlakkhandhavagga, Kinh Sāmaññaphalasutta
[7] Dī. Sīlakkhandhavagga, Kinh Sāmaññaphalasutta
[8] Aṅguttaranikāya, DukanipātaPāḷi, Āsāduppajahavagga
[9] Tìm hiểu ý nghĩa 9 ân-Đức-Phật, 6 ân-Đức-Pháp, 9 ân-Đức-Tăng trong bộ Nền-Tảng Phật-giáo quyển II, Quy-Y Tam-Bảo cùng soạn giả.
[10] Tìm hiểu đầy đủ pháp này trong quyển “Tìm Hiểu Pháp-Hành Thiền-Tuệ” cùng soạn giả.
[11] 4 pháp trầm-luân: ngũ-dục trầm-luân, kiếp-trầm-luân, tà-kiến-trầm-luân, vô-minh-trầm-luân.
[12] Abhidhammapiṭaka, bộ VibhaṅgaPāḷi
[13] Aṅg, Ekakanipāta, Vīriyārambhādivagga
[14] Tìm hiểu nghĩa và tên tâm-sở trong phần giảng giải 52 tâm-sở sau
Phần -1.4
Dục-Giới Tịnh-Hảo-Tâm (Kāmāvacarasobhaṇacitta)
Dục-giới tịnh-hảo-tâm (Kāmāvacarasobhaṇa-
citta) là tâm thường phát sinh trong cõi dục-giới, thuộc về tâm-tịnh-hảo bởi vì có tịnh-hảo tâm-sở (sobhaṇacetasika) đồng sinh.
Dục-giới tịnh-hảo-tâm có 24 tâm chia 3 loại tâm:
1- Dục-giới đại-thiện-tâm có 8 tâm,
2- Dục-giới đại-quả-tâm có 8 tâm,
3- Dục-giới đại-duy-tác-tâm có 8 tâm.
Dục-giới tịnh-hảo-tâm có 24 tâm hợp với thiện nhân (kusalahetu) là vô-tham (alobhahetu), vô-sân (adosahetu), và vô-si (amohahetu) gọi là trí-tuệ, chỉ hợp với tâm có trí-tuệ mà thôi.
Giảng Giải:
Kāmāvacarakusalacitta: Dục-giới đại-thiện-tâm còn gọi là mahākusalacitta: đại-thiện-tâm.
Định-nghĩa kusalacitta rằng:
Kucchite pāpadhamme salayati kampeti viddhaṃsetīti kusalaṃ,
Tâm nào làm cho rung động hoặc tiêu diệt ác-pháp mà chư bậc thiện-trí ghê tởm, tâm ấy gọi là thiện-tâm (kusalacitta). Thiện-tâm là tâm tốt, không bị ô nhiễm, không nóng nảy, không có lỗi, cho quả an lạc.
Kusalacitta có 5 ý nghĩa:
1- Arogayattha: nghĩa không có bệnh là không có phiền-não tham, sân, si,… làm khổ tâm. Phiền-não tham, sân, si, … gọi là bệnh, vì làm khổ tâm, khổ thân đối với chúng-sinh,
2- Sundarattha: nghĩa tốt lành là sự lợi-ích, sự an lạc đối với chúng-sinh,
3- Chekattha: nghĩa khôn ngoan, người có thiện-tâm nói năng hành động đàng hoàng tử tế,
4- Anavajjattha: nghĩa không có lỗi đáng chê trách nào cả,
5- Sukhavipāka: có quả an lạc đáng hài lòng.
Kāmāvacarakusala (Mahākusala)
Dục-giới đại-thiện-tâm (Mahākusala) phát sinh do nương nhờ 3 pháp là vedanā: thọ, ñāṇa: trí-tuệ, saṅkhāra: tác-động, nên dục-giới đại-thiện-tâm phân chia ra làm 8 loại tâm như sau:
1- Somanassasahagataṃ ñāṇasampayuttaṃ asaṅkhārikaṃ,
Dục-giới đại-thiện-tâm thứ nhất đồng sinh với thọ hỷ, hợp với trí, không cần tác-động,
2- Somanassasahagataṃ ñāṇasampayuttaṃ sasaṅkhārikaṃ,
Dục-giới đại-thiện-tâm thứ nhì đồng sinh với thọ hỷ, hợp với trí, cần tác-động,
3- Somanassasahagataṃ ñāṇavippayuttaṃ asaṅkhārikaṃ,
Dục-giới đại-thiện-tâm thứ ba đồng sinh với thọ hỷ, không hợp với trí, không cần tác-động,
4- Somanassasahagataṃ ñāṇavippayuttaṃ sasaṅkhārikaṃ,
Dục-giới đại-thiện-tâm thứ tư đồng sinh với thọ hỷ, không hợp với trí, cần tác-động,
5- Upekkhāsahagataṃ ñāṇasampayuttaṃ asaṅkhārikaṃ,
Dục-giới đại-thiện-tâm thứ năm đồng sinh với thọ xả, hợp với trí, không cần tác-động,
6- Upekkhāsahagataṃ ñāṇasampayuttaṃ sasaṅkhārikaṃ,
Dục-giới đại-thiện-tâm thứ sáu đồng sinh với thọ xả, hợp với trí, cần tác-động,
7- Upekkhāsahagataṃ ñāṇavippayuttaṃ asaṅkhārikaṃ,
Dục-giới đại-thiện-tâm thứ bảy đồng sinh với thọ xả, không hợp với trí, không cần tác-động,
8- Upekkhāsahagataṃ ñāṇavippayuttaṃ sasaṅkhārikaṃ.
Dục-giới đại-thiện-tâm thứ tám đồng sinh với thọ xả, không hợp với trí, cần tác-động.
Giảng Giải 8 Dục-Giới Đại-Thiện-Tâm
* Somanassasahagata:Somanassa+sahagata
– Somanassa: thọ hỷ,
– sahagata: đồng sinh với
Somanassasahagataṃ: đồng sinh với thọ hỷ.
* Upekkhā sahagata:
– Upekkhā: thọ xả,
Upekkhāsahagataṃ: đồng sinh với thọ xả,
* ñāṇasampayutta: ñāṇa+sampayutta
– ñāṇa: trí-tuệ
– sampayutta: hợp với
ñāṇasampayuttaṃ: hợp với trí-tuệ,
ñāṇavippayutta: ñāṇa+vippayutta
– ñāṇa: trí-tuệ
– vippayutta: không hợp với
ñāṇavippayuttaṃ: không hợp với trí-tuệ,
* asaṅkhārikaṃ: không cần tác-động,
* sasaṅkhārikaṃ: cần tác-động.
Mahākusalacitta: Đại-thiện-tâm hoặc dục-giới đại-thiện-tâm có 8 tâm thuộc về dục-giới tịnh-hảo-tâm không có lỗi, cho quả an lạc, đặc biệt cho quả-tâm phát sinh nhiều hơn sức mình nghĩa là 8 dục-giới đại-thiện-tâm (mahākusala-citta) cho quả là 8 dục-giới đại-quả-tâm (mahā-vipākacitta) và 8 thiện-quả vô-nhân-tâm (ahetuka- kusalavipākacitta), gồm có 16 quả-tâm.
Dục-giới đại-thiện-tâm có khả năng biết 6 đối-tượng: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp tốt đáng hài-lòng đối với các hạng chúng-sinh trong tam-giới gồm có 30 cõi từ cõi địa-ngục cho đến cõi trời vô-sắc-giới Phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ-thiên (trừ cõi trời sắc-giới Vô-tưởng-thiên) tuỳ theo khả năng của mỗi cõi.
Dục-giới đại-thiện-tâm có thể phát sinh đối với các chúng-sinh trong cõi địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh, nhân-loại, chư-thiên trong 6 cõi trời dục-giới, phạm-thiên trong 15 cõi trời sắc-giới (trừ cõi trời sắc-giới Vô-tưởng-thiên) và phạm-thiên trong 4 cõi trời vô-sắc-giới.
Dục-giới đại-thiện-tâm là tâm làm nền tảng của pháp bố-thí, pháp-hành-giới, pháp-hành-thiền-định để chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới, 4 bậc thiền vô-sắc-giới; pháp-hành-thiền-tuệ để dẫn đến chứng-ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn.
Dục-giới đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ đạt đến gotrabhuñāṇa có khả năng đặc biệt tiếp nhận đối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới, và còn làm phận sự paccavekkhaṇañāṇa quán-triệt Thánh-đạo, Thánh-quả đã chứng đắc, Niết-bàn đã chứng-ngộ, phiền-não đã diệt-đoạn-tuyệt rồi, và phiền-não chưa diệt-đoạn-tuyệt được.
Cho nên, dục-giới đại-thiện-tâm với tác-ý thiện có khả năng đặc biệt biết rộng như vậy, nên gọi là đại-thiện-tâm (mahākusalacitta).
Dục-giới đại-thiện-tâm có 8 loại tâm do căn cứ vào 3 pháp: vedanā: thọ, ñāṇa: trí-tuệ, saṅkhāra: tác-động.
1- Đại-thiện-tâm có 8 tâm chia theo thọ:
– 4 tâm đồng sinh với thọ hỷ,
– 4 tâm đồng sinh với thọ xả.
2- Đại-thiện-tâm có 8 tâm chia theo trí-tuệ:
– 4 tâm hợp với trí-tuệ,
– 4 tâm không hợp với trí-tuệ.
3- Đại-thiện-tâm có 8 tâm chia theo tác-động:
– 4 tâm không cần tác-động,
– 4 tâm cần tác-động.
1– Dục-Giới Đại-Thiện-Tâm Đồng Sinh Với 2 Thọ:
– 4 tâm đồng sinh với thọ hỷ,
– 4 tâm đồng sinh với thọ xả.
* Nếu khi chúng-sinh đang tạo phước-thiện nào có đức-tin (saddhā) trong sạch nhiều, vô cùng hoan hỷ trong phước-thiện ấy phát sinh thì tâm ấy gọi là dục-giới đại-thiện-tâm đồng sinh với thọ hỷ (somanassavedanā),
* Nếu khi chúng-sinh đang tạo phước-thiện nào có đức-tin ít, hoan hỷ không nhiều trong phước-thiện ấy phát sinh thì tâm ấy gọi là dục-giới đại-thiện-tâm đồng sinh với thọ xả (upekkhāvedanā).
* Nhân Phát Sinh Thọ Hỷ
Dục-giới đại-thiện-tâm đồng sinh với thọ hỷ có 6 nhân:
1- Somanassapaṭisandhikatā: Tái-sinh-tâm đồng sinh với thọ hỷ,
2- Saddhābahulatā: Có nhiều đức-tin.
3- Visuddhadiṭṭhitā: Có chánh-kiến thanh tịnh,
4- Ānisaṃsadassāvitā: Thấy rõ quả báu của thiện-nghiệp ấy,
5- Iṭṭhārammaṇasamāyogo: Tiếp xúc với đối- tượng tốt đáng hài lòng,
6- Kassacipiḷābhāvo: Không gặp điều bất lợi nào cả.
* Nhân Phát Sinh Thọ Xả
Dục-giới đại-thiện-tâm đồng sinh với thọ xả có 6 nhân:
1- Upekkhāpaṭisandhikatā: Tái-sinh-tâm đồng sinh với thọ xả,
2- Appasaddhatā: Có ít đức-tin
3- Avisuddhadiṭṭhitā: Có chánh-kiến không thanh tịnh
4- Ānisaṃsa adassāvitā: Không thấy rõ quả báu của thiện-nghiệp ấy,
5- Majjhattārammaṇasamāyogo: Tiếp xúc với đối-tượng trung bình không tốt, không xấu,
6- Kassacipiḷikatā: Gặp điều bất lợi nào đó.
* Sự khác nhau của thọ hỷ, thọ xả trong đại-thiện-tâm và bất-thiện-tâm:
* Thọ hỷ đồng sinh với 4 dục-giới đại-thiện-tâm là thiện-tâm vô cùng hoan hỷ nhiều trong phước-thiện hoặc thiện-nghiệp, nên thiện-nghiệp có nhiều năng lực, có nhiều quả báu đáng hài lòng nhiều.
* Thọ hỷ đồng sinh với 4 tham-tâm là ác-tâm hoan hỷ trong ác-pháp hoặc ác-nghiệp, nên ác-nghiệp nặng, có nhiều quả khổ đáng kinh sợ.
* Thọ xả đồng sinh với 4 dục-giới đại-thiện-tâm là thiện-tâm hoan hỷ ít trong phước-thiện hoặc thiện-nghiệp, nên thiện-nghiệp có ít năng lực, có ít quả báu đáng hài lòng.
* Thọ xả đồng sinh với 4 tham-tâm là ác-tâm hoan hỷ ít trong ác-pháp hoặc ác-nghiệp, nên ác-nghiệp nhẹ, có ít quả khổ.
2– Dục-Giới Đại-Thiện-Tâm Hợp Với Trí-Tuệ:
– 4 tâm hợp với trí-tuệ,
– 4 tâm không hợp với trí-tuệ.
* Nếu khi chúng-sinh đang tạo phước-thiện nào với trí-tuệ hiểu biết rõ sự thật chỉ có nghiệp là của riêng mình mà thôi thì dục-giới đại-thiện-tâm ấy hợp với trí-tuệ (ñāṇasampayutta),
* Nếu khi chúng-sinh đang tạo phước-thiện nào chỉ có đức-tin (saddhā) mà không có trí-tuệ hiểu biết rõ sự thật chỉ có nghiệp là của riêng mình mà thôi thì dục-giới đại-thiện-tâm ấy không hợp với trí-tuệ (ñāṇavippayutta).
Trí-tuệ đồng sinh với dục-giới đại-thiện-tâm có 2 loại trí-tuệ là:
1- Kammassakatāñāṇa: Trí-tuệ hiểu biết rõ nghiệp là của riêng mình, nghĩa là trí-tuệ hiểu biết rõ chỉ có tất cả thiện-nghiệp và bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) là của riêng mình mà thôi. Ngoài tất cả nghiệp ấy ra, còn lại những gì khác trong đời này thuộc về của chung, nếu người nào có thiện-nghiệp bố-thí thì được thừa hưởng quả của nghiệp ấy một phần của chung nào trong khoảng thời gian lâu hoặc mau tuỳ theo quả của nghiệp ấy.
Ví dụ: Đất đai thuộc về của chung, người nào có phước thì được thừa hưởng phần đất đai với thời gian lâu hoặc mau tuỳ theo quả của thiện-nghiệp ấy, đến khi mãn quả của thiện-nghiệp, thì đất đai ấy lại thuộc về của người khác.
Nếu người nào có trí-tuệ kammassakatāñāṇa biết sử dụng phần của cải nào mà mình đang sở hữu, đem ra làm phước-thiện bố-thí thì thiện-nghiệp bố-thí ấy thuộc về của riêng mình.
Như vậy, biến đổi của cải tạm thời trở thành tài sản quý báu vĩnh-viễn riêng mình.
Mỗi chúng-sinh sau khi chết chỉ có thiện-nghiệp hoặc ác-nghiệp nào của mình cho quả tái sinh kiếp sau mà thôi, kiếp sau của mỗi chúng-sinh thuộc về loại chúng-sinh nào trong 4 loài chúng-sinh, cõi nào trong 31cõi giới hoàn toàn tuỳ thuộc vào quả của nghiệp ấy mà thôi.
Mỗi kiếp mới của chúng-sinh đều tích-luỹ đầy đủ tất cả mọi thiện-nghiệp, mọi ác-nghiệp từ vô số tiền kiếp của chúng-sinh ấy đã tạo từ vô thuỷ cho đến kiếp-hiện-tại không bỏ sót lại một nghiệp nhỏ nào cả.
Người có kammassakatāñāṇa: trí-tuệ hiểu biết rõ nghiệp là của riêng mình là người có chánh-kiến thấy đúng, biết đúng theo 10 pháp chánh-kiến:
Dasavatthusammādiṭṭhi:
1- Atthi dinnaṃ: Chánh-kiến thấy đúng rằng: Phước-thiện bố-thí có quả tốt an lạc.
2- Atthi yiṭṭhaṃ: Chánh-kiến thấy đúng rằng : Phước-thiện cúng-dường có quả tốt an lạc.
3- Atthi hutaṃ: Chánh-kiến thấy đúng rằng: Đón rước, tiếp đãi có quả tốt an lạc.
4- Atthi sukatadukkatānam kammānaṃ phalaṃ vipāko: Chánh-kiến thấy đúng rằng: Đã tạo thiện-nghiệp, ác-nghiệp rồi, thiện-nghiệp cho quả an lạc, ác-nghiệp cho quả khổ.
5- Atthi ayaṃ loko: Chánh-kiến thấy đúng rằng: Có cõi giới này nghĩa là có chúng-sinh tái sinh đến cõi giới này,
6- Atthi paro loko: Chánh-kiến thấy đúng rằng: Có cõi giới khác nghĩa là chúng-sinh sau khi chết, nghiệp của họ cho quả tái sinh kiếp sau trong cõi giới khác.
7- Atthi mātā: Chánh-kiến thấy đúng rằng: Đối xử tốt với mẹ có quả tốt an lạc, đối xử xấu với mẹ có quả xấu đau khổ,
8- Atthi pitā: Chánh-kiến thấy đúng rằng: Đối xử tốt với cha có quả tốt an lạc, đối xử xấu với cha có quả xấu đau khổ,
9- Atthi sattā opapātikā: Chánh-kiến thấy đúng rằng: Có các chúng-sinh loài hoá-sinh to lớn ngay tức thì như chư-thiên 6 cõi trời dục-giới, chư phạm-thiên 16 cõi trời sắc-giới, 4 cõi trời vô-sắc-giới, chúng-sinh địa-ngục, ngạ-quỷ, a-su-ra.
10- Atthi loke samaṇabrāhmaṇā samaggatā sammāpaṭipannā ye imañca lokaṃ parañca lokaṃ abhiññā sacchikatvā pavedenti: Chánh-kiến thấy đúng rằng: Trong đời này, có sa-môn, bà-la-môn thực-hành pháp-hành-thiền-định dẫn đến chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới, 4 bậc thiền vô-sắc-giới, chứng đắc các phép thần-thông, thấy rõ biết rõ cõi giới này, cõi giới khác, rồi thuyết giảng cho mọi người cùng biết, đó là điều có thật.
2- Lokiyavipassanāñāṇa: Trí-tuệ-thiền-tuệ tam-giới: Hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ có khả năng phát sinh từ trí-tuệ thứ nhất gọi là nāmarūpaparicchedañāṇa: trí-tuệ thấy rõ biết rõ phân tích rõ thật-tánh của danh-pháp, sắc-pháp đúng theo chân-nghĩa-pháp (paramattha-dhamma) là pháp-vô-ngã, không phải ta, không phải người, không phải đàn ông, không phải đàn bà, không phải chúng-sinh, v.v… chỉ là danh-pháp, sắc-pháp mà thôi.
Tiếp theo, đến trí-tuệ-thiền-tuệ thứ tư gọi là udayabbayānupassanāñāṇa: trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ biết rõ sự sinh, sự diệt của danh-pháp, sắc-pháp hiện-tại do nhân-duyên sinh, do nhân-duyên diệt, nên hiện rõ 3 trạng-thái chung: trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của danh-pháp, sắc-pháp hiện-tại, v.v… cho đến trí-tuệ-thiền-tuệ thứ 13 gọi là gotrabhu-ñāṇa: trí-tuệ-thiền-tuệ có khả năng đặc biệt tiếp nhận đối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới, mặc dù tâm vẫn còn là dục-giới đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ.
Trí-tuệ phát sinh có 3 cách:
1- Sutamayapaññā: Trí-tuệ phát sinh do lắng nghe chánh-pháp của bậc thiện-trí, học hỏi, nghiên cứu chánh-pháp, gọi là trí-tuệ phát sinh do học (sutamayapaññā).
2- Cintāmayapaññā: Trí-tuệ phát sinh do nghe nhiều hiểu rộng, học hỏi, nghiên cứu chánh-pháp của bậc thiện-trí làm nền tảng, rồi suy xét, tư duy sâu sắc về chánh-pháp, gọi là trí-tuệ phát sinh do tư duy (cintāmayapaññā).
3- Bhāvanāmayapaññā: Trí-tuệ phát sinh do thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ. Trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ biết rõ sự sinh, sự diệt của mỗi danh-pháp, mỗi sắc-pháp, hiện rõ 3 trạng-thái chung: trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã, gọi là trí-tuệ phát sinh do thực-hành (bhāvanāmayapaññā)
*Dục-giới đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ:
* Nếu khi chúng-sinh đang tạo phước-thiện nào chỉ có đức-tin (saddhā) mà không có trí-tuệ kammassakatāñāṇa thì tâm ấy gọi là dục-giới đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ (ñāṇa-vippayutta).
Như trường-hợp người tạo phước-thiện với tác-ý thiện-tâm giữ gìn phong tục tập quán theo truyền thống của gia-đình, nên chỉ có đức-tin mà không có trí-tuệ đồng sinh với dục-giới đại-thiện-tâm ấy; hoặc khi có bạn thân đến tác-động làm phước-thiện bố-thí, người ấy có đức-tin làm phước-thiện bố-thí theo bạn thân mà không hiểu biết về kammassakatāñāṇa, nên tâm ấy gọi là dục-giới đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ, v.v…
* Nhân Phát Sinh Hợp Với Trí (1)
Dục-giới đại-thiện-tâm hợp với trí có 4 nhân:
1- Paññāsaṃvattanikakammupanissayatā: Tái sinh do nương nhờ thiện-nghiệp đồng sinh với trí-tuệ,
2- Abyāpajjalokupapattiyā: kiếp tái sinh không có phiền muộn, tâm mong mỏi trong thiện-pháp,
3- Kilesadūratā: Tránh xa mọi phiền-não,
4- Indriyaparipākatā: Có tuệ-chủ đầy đủ.
* Nhân Phát Sinh Hợp Với Trí (2)
Dục-giới đại-thiện-tâm hợp với trí có 7 nhân:
1- Paripucchakatā: Thường tìm hiểu học hỏi trong chánh-pháp,
2– Vatthuvisuddhakariyatā: Thân tâm trong sạch lẫn các thứ vật dụng sạch sẽ,
3– Indriyasamattapaṭipādanatā: Giữ gìn 5 pháp chủ (tín, tấn, niệm, định, tuệ) đều đặn với nhau,
4- Duppaññapuggalaparivajjanā: Tránh xa người thiểu trí,
5- Paññāvantapuggalasevanā: Thường hay gần gũi thân cận với bậc thiện-trí,
6- Gambhīrañāṇacariyapaccavekkhaṇā: Ham thích suy xét, tư-duy các chánh-pháp sâu sắc,
7- Tadadhimuttatā: Thường hướng tâm tìm hiểu chánh-pháp, để phát sinh trí-tuệ.
* Nhân Phát Sinh Không Hợp Với Trí (1)
Dục-giới đại-thiện-tâm không hợp với trí có 4 nhân:
1- Paññā asaṃvattanikakammupanissayatā: Tái sinh do nương nhờ thiện-nghiệp không đồng sinh với trí-tuệ,
2- Sabyāpajjalokupapattiyā: Kiếp tái sinh có phiền muộn, không mong mỏi trong thiện-pháp,
3- Kilesādūratā: Không tránh xa mọi phiền-não,
4- Indriya aparipākatā: Có tuệ-chủ kém.
* Nhân Phát Sinh Không Hợp Với Trí (2)
Dục-giới đại-thiện-tâm không hợp với trí có 7 nhân:
1- Aparipucchakatā: Không thích tìm hiểu học hỏi trong chánh-pháp,
2- Vatthu avisuddhakariyatā: Thân tâm không trong sạch lẫn các thứ vật dụng không sạch sẽ,
3- Indriya asamattapaṭipādanatā: Có 5 pháp chủ (tín, tấn, niệm, định, tuệ) không đều đặn,
4- Duppaññapuggalasevanā: Thường hay gần gũi thân cận với hạng thiểu-trí,
5- Paññāvantapuggalaparivajjanā: Không gần gũi thân cận với bậc thiện-trí,
6- Gambhīrañāṇacariya apaccavekkhaṇā: Không thích suy xét các chánh-pháp sâu sắc,
7- Atadadhimuttatā: Không hướng tâm tìm hiểu chánh-pháp.
3– Đại-Thiện-Tâm Có 8 Tâm Chia Theo Tác-Động:
– 4 tâm không cần tác-động,
– 4 tâm cần tác-động.
* Nếu khi chúng-sinh đang tạo phước-thiện nào với sự hiểu biết, rồi tự tác-động bằng thân, khẩu, ý tạo phước-thiện ấy, không có người khác tác-động thì dục-giới đại-thiện-tâm này phát sinh không cần tác-động (asaṅkhārikaṃ).
Dục-giới đại-thiện-tâm không cần tác-động có nhiều năng lực hơn cần tác-động.
* Nếu có bạn thân đến tác-động bằng thân, bằng khẩu làm phước-thiện nào thì người ấy mới phát sinh đức-tin làm theo phước-thiện ấy thì dục-giới đại-thiện-tâm này phát sinh cần tác-động (asaṅkhārikaṃ).
Dục-giới đại-thiện-tâm cần tác-động có ít năng lực hơn không cần tác-động.
Trường-hợp có bạn thân đến tác-động, ta nên suy xét thế nào để cho dục-giới đại-thiện-tâm của mình trở thành không cần tác-động?
Nếu khi nghe bạn thân đến tác-động làm phước-thiện nào thì ta nên suy xét rằng: Phước-thiện này là phước-thiện nên làm. Đó là cơ-hội tốt của ta, ta nên tạo phước-thiện ấy.
Khi ta suy xét như vậy, ta đã chuyển từ thế bị động sang thế chủ động, ta tạo phước-thiện ấy với dục-giới đại-thiện-tâm không cần tác-động.
Như trường-hợp Đức-Bồ-tát thiên nam Setaketu, tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama, đang an hưởng mọi sự an lạc trên cõi trời Tusita (Đâu-suất-đà-thiên). Khi ấy, Đức-vua trời trong cõi trời dục-giới cùng chư-thiên, chư Đức phạm-thiên trên các cõi trời sắc-giới ngự đến hầu, chắp tay cung kính thỉnh Đức-Bồ-tát tái sinh làm người để chứng đắc thành Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác, để thuyết-pháp tế độ chúng-sinh giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong 3 giới 4 loài.
Khi nghe lời thỉnh cầu của chư-thiên, chư phạm-thiên như vậy, Đức-Bồ-tát chưa nhận lời thỉnh cầu ấy, mà Ngài suy xét trong thời quá-khứ rằng: Đức-Bồ-tát kiếp chót tái sinh xuống làm người để trở thành Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác đã xem xét như thế nào?
Theo lệ thường, chư Đức-Bồ-tát kiếp chót tái sinh xuống làm người, thường xem xét 5 điều:
1- Xem xét về thời kỳ tuổi thọ con người,
2- Xem xét về châu đến tái sinh,
3- Xem xét về xứ sở đến tái sinh,
4- Xem xét về dòng họ nơi tái sinh,
5- Xem xét về mẫu-hậu để tái sinh đầu thai.([1][15])
Sau khi xem xét đầy đủ 5 điều rồi, Đức-Bồ-tát Setaketu quyết định tái sinh xuống làm người, để trở thành Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác, nên Ngài truyền dạy rằng:
– Này chư-thiên, chư phạm-thiên! Ta đồng ý nhận lời thỉnh cầu của các ngươi, Ta sẽ tái sinh xuống làm người trong cõi Nam-thiện-bộ-châu, tại Trung-xứ, kinh thành Kapilavatthu, trong dòng dõi Sakya, Đức-vua Suddhodana là Đức Phụ-vương, Chánh-cung-hoàng-hậu Mahāmayādevī là mẫu-hậu của ta.
Nghe Đức-Bồ-tát Setaketu truyền dạy như vậy, tất cả chư-thiên, phạm-thiên vô cùng hoan hỷ cùng nhau tán dương ca tụng Đức-Bồ-tát, rồi chắp tay cung kính xin phép trở về cõi giới của mỗi vị.
Đức-Bồ-tát thiên nam Setaketu quyết định chuyển-kiếp (cuti) từ cõi trời Tusita, tái-sinh (paṭisandhi) đầu thai với dục-giới đại-quả-tâm thứ nhất đồng sinh với thọ hỷ, hợp với trí, không cần tác-động làm phận-sự tái-sinh vào lòng bà Chánh-cung-hoàng-hậu Mahāmayādevī vào canh chót đêm rằm tháng 6 (âm lịch).
* Nhân Phát Sinh Không Cần Tác-Động
Dục-giới đại-thiện-tâm phát sinh không cần tác-động có 6 nhân:
1- Asaṅkhārikakammajanitapaṭisandhikatā: Tái-sinh-tâm phát sinh từ dục-giới đại-thiện-tâm không cần tác-động,
2- Kallakāyacittatā: Có thân tâm an lạc,
3- Sītuṇhādīnaṃ khamanabahulatā: Có đức-tính nhẫn-nại chịu đựng thời tiết nóng, lạnh, v.v…
4– Kattabbakammesu diṭṭhānisaṃsasatā: Đã từng thấy kết quả trong công việc mình sẽ làm,
5- Kammesu ciṇṇavasitā: Có tính chuyên môn trong công việc mình sẽ làm.
6- Utubhojanādīsappāyalābho: Được thời tiết tốt, vật thực đầy đủ, v.v…
* Nhân Phát Sinh Cần Tác-Động
Dục-giới đại-thiện-tâm phát sinh cần tác-động có 6 nhân:
1- Sasaṅkhārikakammajanitapaṭisandhikatā: Tái-sinh-tâm phát sinh từ dục-giới đại-thiện-tâm cần tác-động,
2-Akallakāyacittatā: Thân tâm không có an lạc,
3- Sītuṇhādīnaṃ akhamanabahulatā: Không có đức-tính nhẫn-nại chịu đựng thời tiết nóng, lạnh, ..
4- Kattabbakammesu adiṭṭhānisaṃsasatā: Không thấy kết quả trong công việc mình sẽ làm.
5- Kammesu aciṇṇavasitā: Không có tính chuyên môn trong công việc mình sẽ làm.
6- Utubhojanādī asappāyalābho: Găp thời tiết xấu, vật thực thiếu thốn, v.v…
Dục-Giới Đại-Thiện-Tâm Chia Theo Nhân:
Dục-giới đại-thiện-tâm có 8 tâm chia theo nhân (hetu) có 2 loại:
1- Tihetukakusalacitta: 4 dục-giới đại-thiện-tâm có đủ tam-nhân là vô-tham, vô-sân, vô-si (trí-tuệ),
2- Dvihetukakusalacitta: 4 dục-giới đại-thiện-tâm chỉ có nhị-nhân là vô-tham, vô-sân, không có vô-si (trí-tuệ).
* Dục-giới đại-thiện-tâm có đủ tam-nhân do nguyên-nhân nào?
Hành-giả khi đang tạo phước-thiện như bố-thí, giữ giới, thực-hành pháp-hành-thiền-định, pháp-hành-thiền-tuệ, v.v… do dục-giới đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ kammassakatāñāṇa hoặc lokiyavipassanāñāṇa, nên có đủ tam-nhân là vô-tham, vô-sân, vô-si (trí-tuệ).
* Dục-giới đại-thiện-tâm chỉ có nhị-nhân do nguyên-nhân nào?
Trong khi hành-giả đang tạo phước-thiện như bố-thí, giữ giới, thực-hành pháp-hành-thiền-định, pháp-hành-thiền-tuệ, v.v…do dục-giới đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ kammassakatā-ñāṇa hoặc lokiyavipassanāñāṇa, nên chỉ có nhị-nhân là vô-tham và vô-sân, mà không có vô-si.
Dục-Giới Đại-Thiện-Tâm
Dục-giới đại-thiện-tâm có 8 tâm, tác-ý tâm-sở (cetanācetasika) đồng sinh với 8 dục-giới đại-thiện-tâm gọi là 8 dục-giới đại-thiện-nghiệp.
Dục-giới đại-thiện-nghiệp phát sinh có 2 cách:
1- Dục-giới đại-thiện-nghiệp do nương nhờ thân, khẩu, ý tạo 10 dục-giới đại-thiện-nghiệp (kāmāvacarakusalakamma),
2- Dục-giới đại-thiện-nghiệp tạo 10 phước-thiện (puññakiriyāvatthu).
1- Dục-Giới Đại-Thiện-Nghiệp Do Nương Nhờ 3 Môn:
Dục-giới đại-thiện-nghiệp phát sinh do thân gọi là thân-thiện-nghiệp, có 3 loại:
– Tránh xa sự sát-sinh,
– Tránh xa sự trộm-cắp,
– Tránh xa sự tà-dâm.
2- Dục-giới đại-thiện-nghiệp phát sinh do khẩu gọi là khẩu-thiện-nghiệp, có 4 loại:
– Tránh xa sự nói dối,
– Tránh xa nói lời chia rẽ,
– Tránh xa nói lời thô tục,
– Tránh xa nói lời vô ích.
3- Dục-giới đại-thiện-nghiệp phát sinh do ý gọi là ý-thiện-nghiệp, có 3 loại:
– Tâm không tham lam của cải người khác,
– Tâm không thù hận người khác,
-Tâm có chánh-kiến thấy đúng, hiểu đúng theo thật-tánh của các pháp .
2- Dục-Giới Đại-Thiện-Nghiệp Phát Sinh Từ 10 Phước-Thiện (Puññakiriyāvatthu):
Dục-giới đại-thiện-nghiệp phát sinh từ 10 phước-thiện (puññakiriyāvatthu):
1- Phước-thiện bố-thí,
2- Phước-thiện giữ-giới là giữ thân, khẩu ở trong giới của mình,
3- Phước-thiện hành-thiền là thực-hành pháp-hành-thiền-định, pháp-hành-thiền-tuệ,
4- Phước-thiện cung-kính những bậc tôn kính,
5- Phước-thiện hỗ-trợ giúp đỡ người trong việc phước-thiện,
6- Pattidānakusala: Phước-thiện hồi-hướng phần phước-thiện của mình đến cho những người khác, những chúng-sinh khác,
7- Pattānumodanākusala: Phước-thiện hoan-hỷ nhận phần phước-thiện của người khác hồi-hướng, hoặc chia sẻ,
8- Dhammasavanakusala: Phước-thiện nghe pháp là lắng nghe chánh-pháp của Đức-Phật,
9- Dhammadesanākusala: Phước-thiện thuyết– pháp là thuyết giảng chánh-pháp của Đức-Phật,
10- Diṭṭhujukammakusala: Phước-thiện chánh-kiến đó là kammassakatāsammādiṭṭhi:chánh-kiến thấy đúng, hiểu đúng nghiệp là của riêng họ.
Puññakiriyāvatthu có 10 pháp đều thuộc về ý-thiện-nghiệp đồng sinh với dục-giới đại-thiện-tâm có đối-tượng theo mỗi pháp ấy.
10 phước-thiện này được gom lại thành 3 nhóm:
1- Nhóm phước-thiện bố-thí gồm có 3 pháp:
– Phước-thiện bố-thí,
– Phước-thiện hồi-hướng,
– Phước-thiện hoan-hỷ.
2- Nhóm phước-thiện giữ-giới gồm có 3 pháp:
– Phước-thiện giữ-giới,
– Phước-thiện cung-kính,
– Phước-thiện hỗ-trợ.
3- Nhóm phước-thiện hành-thiền gồm có 4 pháp:
– Phước-thiện hành-thiền,
– Phước-thiện nghe pháp,
– Phước-thiện thuyết-pháp,
– Phước-thiện chánh-kiến.
Tuy nhiên, phước-thiện chánh-kiến rất cần cho cả 3 nhóm, để hỗ-trợ cho mỗi phước-thiện có nhiều năng lực.
Nhân Phát Sinh Dục-Giới Đại-Thiện-Tâm
Nhân phát sinh dục-giới đại-thiện-tâm cần phải nương nhờ ‘yonisomanasikāra’ do trí-tuệ biết rõ trong tâm đúng theo thật-tánh của các pháp. Để có yonisomanasikāra, cần phải nương nhờ cả nhân quá-khứ lẫn nhân hiện-tại, có 5 nhân:
1- Pubbekatapuññatā: Đã từng tạo phước- thiện tích luỹ từ những kiếp trước,
2- Paṭirūpadesavāsa: Sinh sống ở nơi thuận lợi có Phật-giáo,
3- Sappurisupanissaya: Được gần gũi thân cận với bậc thiện-trí trong Phật-giáo,
4- Saddhammassavana: Lắng nghe chánh- pháp của Đức-Phật,
5- Attasammāpaṇidhi: Tâm biết đúng trong chánh-pháp.
Nhân phát sinh yonisomanasikāra gồm có 5 nhân, nhân đầu tiên nương nhờ phước-thiện đã từng tích luỹ từ những kiếp quá-khứ, còn lại 4 nhân nương nhờ phước-thiện kiếp-hiện-tại.
Cho nên, bậc thiện-trí biết mình đang sống ở nơi không thuận lợi vì không có Phật-giáo thì nên tìm đến sống nơi thuận lợi có Phật-giáo, để có cơ-hội gần gũi thân cận với bậc thiện-trí trong Phật-giáo, được nghe chánh-pháp của bậc thiện-trí, thực-hành theo pháp-hành-thiền-tuệ, để mong giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong tam-giới.
Vipākacitta: Quả-Tâm
Ý-Nghĩa Quả-Tâm
Định nghĩa: Aññamaññavisiṭṭhānaṃ kusalākusalānaṃ pākāti vipākā.
Các pháp nào là quả của thiện-tâm, bất-thiện-tâm có tính chất đặc biệt khác nhau, các pháp ấy gọi là các quả (vipāka).
Đặc biệt khác nhau là:
– Thiện-tâm có quả tốt, an lạc iṭṭhaphala,
– Bất-thiện-tâm có quả xấu, khổ aniṭṭhaphala.
Pháp gọi là quả có 2 loại:
1- Mukhyaphala: Quả-trực-tiếp đó là vipāka-citta: quả-tâm và tâm-sở đồng sinh với quả-tâm ấy thuộc về nāmadhamma: danh-pháp.
2- Sāmaññaphala: Quả-thông-thường là kammajarūpa: sắc-pháp sinh do nghiệp đó là pasādarūpa (5 tịnh-sắc), bhāvarūpa (2 sắc-giới-tính), hadayavatthurūpa (1 ý-sắc-căn), jīvitarūpa (1 sắc mạng-chủ), … thuộc về sắc-pháp.
Vipāka trong phần này là vipākacitta: quả-tâm và tâm-sở đồng sinh với quả-tâm ấy thuộc về nāmadhamma: danh-pháp.
Vipākacitta: quả-tâm gồm có 36 hoặc 52 tâm chia theo 4 cõi-giới như sau:
1-Dục-giới quả-tâm gồm có 23 tâm có 2 loại:
* Bất-thiện-quả-vô-nhân-tâm có 7 tâm là quả của 12 bất-thiện-tâm,
* Thiện-quả-vô-nhân-tâm có 8 tâm là quả của 8 dục-giới đại-thiện-tâm,
* Hữu-nhân dục-giới đại-quả-tâm có 8 tâm là quả của 8 dục-giới đại-thiện-tâm.
Như vậy, 8 dục-giới đại-thiện-tâm đặc biệt có 16 quả-tâm là 8 hữu-nhân dục-giới đại-quả-tâm và 8 thiện-quả vô-nhân-tâm.
2– Sắc-giới-quả-tâm có 5 tâm là quả của 5 sắc-giới-thiện-tâm.
3- Vô-sắc-giới-quả-tâm có 4 tâm là quả của 4 vô-sắc-giới-thiện-tâm.
4-Siêu-tam-giới-quả-tâm có 4 hoặc 20 tâm là quả của 4 hoặc 20 Siêu-tam-giới-thiện-tâm.
Hay nói cách khác Thánh-quả-tâm có 4 hoặc 20 tâm, là quả của 4 hoặc 20 Thánh-đạo-tâm.
* Trong quyển sách nhỏ “Vi-diệu-pháp hiện thực trong cuộc sống” này chỉ giảng giải về 12 bất-thiện-tâm và 8 dục-giới đại-thiện-tâm mà thôi, nên chỉ giảng giải quả-tâm của 20 tâm ấy là 7 bất-thiện-quả-vô-nhân-tâm là quả của 12 bất-thiện-tâm, 8 thiện-quả-vô-nhân-tâm là quả của 8 dục-giới đại-thiện-tâm, 8 dục-giới đại-quả-tâm là quả của 8 dục-giới đại-thiện-tâm mà thôi, không đề cập đến 5 sắc-giới-quả-tâm, 4 vô-sắc-giới-quả-tâm, 4 hoặc 20 siêu-tam-giới-quả-tâm đó là 4 hoặc 20 Thánh-quả-tâm.
Vipākacitta: Quả-Tâm
Vipākacitta: Quả-tâm có tính chất như thế nào?
* Vipākacitta: Quả-tâm là tâm không phải làm cho phát sinh, hễ có thiện-nghiệp (kusala-kamma) nào, bất-thiện-nghiệp (akusalakamma) nào là nhân thì chắc chắn có quả-tâm (vipāka-citta) ấy là quả phát sinh.
* Vipākacitta: Quả-tâm là tâm không cần sự cố gắng tinh-tấn nào cả, có năng lực yếu, khác với thiện-tâm, bất-thiện-tâm, duy-tác-tâm có năng lực.
* Dục-giới quả-tâm có 23 tâm:
– Dục-giới đại-quả-tâm có 8 tâm, là quả của 8 dục-giới đại-thiện-tâm.
– Thiện-quả-vô-nhân-tâm có 8 tâm, cũng là quả của 8 dục-giới đại-thiện-tâm.
– Bất-thiện-quả-vô-nhân-tâm có 7 tâm, là quả của 12 bất-thiện-tâm.
Dục-Giới Đại-Quả-Tâm
Sahetukakāmavacaravipākacitta: Hữu-nhân dục-giới đại-quả-tâm hoặc gọi là mahāvipāka- citta: dục-giới đại-quả-tâm, có 8 tâm là quả của 8 dục-giới đại-thiện-tâm tương xứng với nhau về thọ (vedanā), về trí (ñāṇa), về tác-động (saṅkhāra).
Ví dụ: *Dục-giới đại-thiện-tâm thứ nhất đồng sinh với thọ hỷ, hợp với trí, không cần tác-động có quả-tâm tương xứng là:
*Dục-giới đại-quả-tâm thứ nhất đồng sinh với thọ hỷ, hợp với trí, không cần tác-động.
Cho nên, dục-giới đại-quả-tâm cũng có 8 tâm như 8 dục-giới đại-thiện-tâm như sau:
1- Somanassasahagataṃ ñāṇasampayuttaṃ asaṅkhārikaṃ,
Dục-giới đại-quả-tâm thứ nhất đồng sinh với thọ hỷ, hợp với trí, không cần tác-động,
Dục-giới đại-quả-tâm thứ nhì đồng sinh với thọ hỷ, hợp với trí, cần tác-động,
3- Somanassasahagataṃ ñāṇavippayuttaṃ asaṅkhārikaṃ,
Dục-giới đại-quả-tâm thứ ba đồng sinh với thọ hỷ, không hợp với trí, không cần tác-động,
4- Somanassasahagataṃ ñāṇavippayuttaṃ sasaṅkhārikaṃ,
Dục-giới đại-quả-tâm thứ tư đồng sinh với thọ hỷ, không hợp với trí, cần tác-động,
5- Upekkhāsahagataṃ ñāṇasampayuttaṃ asaṅkhārikaṃ,
Dục-giới đại-quả-tâm thứ năm đồng sinh với thọ xả, hợp với trí, không cần tác-động,
6- Upekkhāsahagataṃ ñāṇasampayuttaṃ sasaṅkhārikaṃ,
Dục-giới đại-quả-tâm thứ sáu đồng sinh với thọ xả, hợp với trí, cần tác-động,
7- Upekkhāsahagataṃ ñāṇavippayuttaṃ asaṅkhārikaṃ,
Dục-giới đại-quả-tâm thứ bảy đồng sinh với thọ xả, không hợp với trí, không cần tác-động,
8- Upekkhāsahagataṃ ñāṇavippayuttaṃ sasaṅkhārikaṃ.
Dục-giới đại-quả-tâm thứ tám đồng sinh với thọ xả, không hợp với trí, cần tác-động.
Dục-giới đại-thiện-tâm khác với dục-giới đại-quả-tâm như sau:
* Dục-giới đại-thiện-tâm là tâm có dục-giới đại-thiện-nghiệp, do nương nhờ nơi 3 môn: thân, khẩu, ý, tạo 10 thiện-nghiệp, và tạo 10 phước-thiện (puññakiriyāvatthu) cho quả an lạc trong kiếp-hiện-tại và vô số kiếp vị-lai.
* Dục-giới đại-quả-tâm là quả-tâm của dục-giới đại-thiện-tâm không phải cố gắng tinh-tấn làm cho quả-tâm phát sinh, bởi vì dục-giới đại-quả-tâm đã thừa hưởng quả rồi, không còn cho quả tiếp tục nữa.
* Dục-giới đại-thiện-tâm có 38 tâm-sở đồng sinh. Trong 38 tâm-sở ấy có 5 tâm-sở là bi-tâm-sở, hỷ-tâm-sở, chánh-nghiệp-tâm-sở, chánh-ngữ-tâm-sở, chánh-mạng-tâm-sở, mỗi tâm-sở đồng sinh với dục-giới đại-thiện-tâm tuỳ theo mỗi đối-tượng mà tâm-sở ấy đồng sinh.
* Dục-giới đại-quả-tâm có 33 tâm-sở đồng sinh. Trong 33 tâm-sở ấy không có 5 tâm-sở là bi-tâm-sở, hỷ-tâm-sở, chánh-nghiệp-tâm-sở, chánh-ngữ-tâm-sở, chánh-mạng-tâm-sở đồng sinh với dục-giới đại-quả-tâm, bởi vì không có đối-tượng.
Tuy nhiên, 8 dục-giới đại-thiện-tâm và 8 dục-giới đại-quả-tâm có tính-chất tương xứng với nhau về thọ-tâm-sở, trí-tuệ-tâm-sở và tác-động.
Phận-Sự Của Dục-Giới Đại-Quả-Tâm
Phận sự của 8 dục-giới đại-quả-tâm có 4 là:
1- Dục-giới đại-quả-tâm làm phận sự tái-sinh kiếp sau, gọi là paṭisandhikicca,
2- Dục-giới đại-quả-tâm làm phận sự giữ gìn bảo-hộ kiếp chúng-sinh ấy, gọi là bhavaṅgakicca.
3- Dục-giới đại-quả-tâm làm phận sự chuyển-kiếp ấy (chết), gọi là cutikicca,
4- Dục-giới đại-quả-tâm gọi là tadālambana-citta: tiếp-đối-tượng-tâm có 2 sát-na-tâm làm phận sự tiếp nhận đối-tượng (tadālambanakicca) của javanacitta: tác-hành-tâm còn sót lại 2 sát-na-tâm, đối với chúng-sinh trong cõi dục-giới, có đối-tượng dục-giới và dục-giới tác-hành-tâm, để chấm dứt lộ-trình-tâm ấy.
Giảng Giải Về Paṭisandhi, Bhavaṅga, Cuti
1- Dục-giới đại-quả-tâm làm phận sự tái-sinh kiếp sau paṭisandhikicca:
Chúng-sinh nào đã từng tạo phước-thiện với dục-giới đại-thiện-tâm hợp với trí, hoặc không hợp với trí; chúng-sinh ấy sau khi chết, dục-giới đại-thiện-nghiệp ấy cho quả là dục-giới đại-quả-tâm tương xứng gọi là paṭisandhicitta: tái-sinh-tâm 1 sát-na-tâm làm phận sự tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikicca) bắt đầu kiếp mới.
Ví dụ thai-sinh làm người: đầu-thai sát-na đầu tiên trong bụng mẹ, hoặc hoá-sinh (ngay tức khắc) trở thành thiên-nam 20 tuổi hoặc thiên-nữ 16 tuổi trên 1 trong 6 cõi trời dục-giới.
Chúng-sinh ấy thuộc về hạng người nào hoặc chư-thiên hạng nào trong cõi giới nào hoàn toàn tuỳ thuộc vào dục-giới đại-quả-tâm ấy làm phận sự tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikicca).
2- Dục-giới đại-quả-tâm làm phận sự giữ gìn bảo-hộ kiếp chúng-sinh ấy bhavaṅgakicca:
Sau thời-kỳ tái-sinh (paṭisandhikāla) với dục-
giới đại-quả-tâm nào làm phận sự tái-sinh kiếp sau diệt xong, liền tiếp theo thời-kỳ sau khi tái-sinh (pavattikāla) chính dục-giới đại-quả-tâm loại ấy gọi là bhavaṅgacitta: hộ-kiếp-tâm sinh rồi diệt liên tục tiếp-tục làm phận sự bhavaṅga-kicca giữ gìn bảo-hộ kiếp người ấy hoặc chư-thiên ấy cho đến cuối cùng của mỗi kiếp.
3- Dục-giới đại-quả-tâm làm phận sự chuyển-kiếp ấy (chết), gọi là cutikicca:
Mỗi kiếp chúng-sinh nói chung, con người nói riêng, bhavaṅgacitta: hộ-kiếp-tâm giữ gìn bảo hộ kiếp người ấy cho đến cuối cùng, cũng chính dục-giới đại-quả-tâm loại ấy gọi là cuti-citta: chuyển-kiếp-tâm hoặc gọi là tử-tâm làm phận sự cuối cùng chấm dứt kiếp người ấy gọi là cutikicca.
Paṭisandhicitta, Bhavaṅgacitta, Cuticitta
Ví dụ: *Trong một kiếp-hiện-tại loài người có
3 tâm là paṭisandhicitta: tái-sinh-tâm, bhavaṅga-citta: hộ-kiếp-tâm và cuticitta: tử-tâm cùng một loại dục-giới đại-quả-tâm giống nhau, chỉ có khác nhau theo 3 phận sự: phận sự tái-sinh-tâm, phận sự hộ-kiếp-tâm, phận sự tử-tâm trải qua 3 thời-kỳ khác nhau mà thôi.
* Tuy nhiên kiếp-hiện-tại (kiếp trước) và kiếp sau kế tiếp, cả 2 kiếp đều sinh làm người, thì cuticitta: tử-tâm của kiếp-hiện-tại (kiếp trước) chắc chắn khác với paṭisandhicitta: tái-sinh-tâm của kiếp sau kế tiếp, bởi vì 2 kiếp người khác nhau.
Trong bộ Chú-giải trình bày trường hợp Đức-Bồ-tát tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama rằng:
Đức-Bồ-tát thiên nam Setaketu tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama quyết định chuyển-kiếp (cuti) từ cõi trời Tusita, tái-sinh (paṭisandhi) với dục-giới đại-quả-tâm thứ nhất đồng sinh với thọ hỷ, hợp với trí, không cần tác-động gọi là paṭisandhicitta: tái-sinh-tâm 1 sát-na-tâm làm phận sự tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikicca) đầu- thai sát-na đầu tiên vào bụng bà Chánh-cung-hoàng-hậu Mahāmayādevī vào canh chót đêm rằm tháng 6, tròn đúng 10 tháng, Đức-Bồ-tát đản sinh vào ngày rằm tháng 4 âm-lịch.
* Sau thời-kỳ tái-sinh (paṭisandhikāla) với dục-giới đại-quả-tâm thứ nhất làm phận sự tái-sinh kiếp sau diệt xong, liền tiếp theo thời-kỳ sau khi tái-sinh (pavattikāla) cũng chính dục-giới đại-quả-tâm thứ nhất loại ấy gọi là bhavaṅgacitta: hộ-kiếp-tâm sinh rồi diệt tiếp-tục làm phận sự bhavaṅgakicca giữ gìn bảo-hộ kiếp Đức-Bồ-tát Siddhattha đến năm 35 tuổi Đức-Bồ-tát Siddhattha chứng đắc thành Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác có danh-hiệu Đức-Phật Gotama, cũng chính dục-giới đại-quả-tâm thứ nhất loại ấy gọi là bhavaṅgacitta: hộ-kiếp-tâm của Đức-Phật Gotama cho đến năm cuối cùng 80 tuổi.
* Khi Đức-Phật Gotama tịch diệt Niết-bàn, cũng chính dục-giới đại-quả-tâm thứ nhất loại ấy gọi là cuticitta làm phận sự cuối cùng cutikicca tịch diệt Niết-bàn chấm dứt khổ tử sinh luân hồi trong tam-giới. (bởi vì Đức-Phật và chư Thánh-A-ra-hán đã diệt-đoạn-tuyệt được mọi phiền-não, mọi tham-ái không còn dư sót nữa, nên không còn dẫn dắt tái-sinh kiếp sau nữa.)
Xét Về Cuticitta Và Paṭisandhicitta
Cuticitta và paṭisandhicitta là 2 quả-tâm trong cùng cận-tử-lộ-trình-tâm (maraṇāsanna-vīthi), cuticitta: tử-tâm là quả-tâm cuối cùng của kiếp-hiện-tại và paṭisandhicitta: tái-sinh-tâm là quả-tâm bắt đầu của kiếp sau không có thời gian khoảng cách, nghĩa là cuticitta: tử-tâm diệt liền tiếp theo paṭisandhicitta: tái-sinh-tâm sinh, trong cùng cận-tử-lộ-trình-tâm (maraṇāsannavīthi).
Đồ Biểu Ý-Môn-Cận-Tử-Lộ-Trình-Tâm
(Kāmajavanamanodvāramaraṇāsannavīthi)
Kiếp hiện tại
bha na da ma ja ja ja ja ja ta ta cu paṭ bha bha
Kiếp sau
Ý-Môn-Cận-Tử-Lộ-Trình-Tâm
Dục-giới tác-hành-tâm ý-môn-cận-tử-lộ-trình-tâm (Kāmajavanamanodvāramaraṇāsannavīthi) có các tâm sinh rồi diệt liên tục như sau:
* Bhavaṅgacitta: Hộ-kiếp-tâm viết tắt bha
* Bhavaṅgacalana: Hộ-kiếp-tâm rung động vt na
* Bhavaṅgupaccheda: Hộ-kiếp-tâm bị ngưng vt da
* Manodvāravajjanacitta: Ý-môn-hướng-tâm vt ma
* Javanacitta: Tác-hành-tâm vt ja
* Tadālambanacitta: Tiếp-đối-tượng-tâm vt ta
* Cuticitta: Tử-tâm vt cu
* Paṭisandhicitta: Tái-sinh-tâm vt paṭ
* Bhavaṅgacitta: Hộ-kiếp-tâm vt bha
Giải thích:
1- Bhavaṅgacitta: Hộ-kiếp-tâm là quả-tâm có đối-tượng cũ quá-khứ, theo hộ trì, giữ gìn kiếp hiện-tại này, sinh rồi diệt, (viết tắt bha), làm duyên cho tâm tiếp theo,
2- Bhavaṅgacalana: Hộ-kiếp-tâm rung động do 1 trong 3 đối-tượng mới là kamma, hoặc kam-manimitta, hoặc gatinimitta, nhưng vẫn còn giữ đối-tượng cũ quá-khứ, phát sinh 1 sát-na-tâm rồi diệt, (viết tắt na), làm duyên cho tâm tiếp theo,
3– Bhavaṅgupaccheda: Hộ-kiếp-tâm bị ngưng đối-tượng cũ quá-khứ, bởi vì 1 trong 3 đối-tượng mới là kamma, hoặc kammanimitta, hoặc gatinimitta phát sinh 1 sát-na-tâm rồi diệt, (viết tắt da), làm duyên cho tâm tiếp theo,
4- Manodvāravajjanacitta: Ý-môn-hướng-tâm tiếp nhận 1 trong 3 đối-tượng mới là kamma: thiện-nghiệp hoặc ác-nghiệp, hoặc kammanimita hiện tượng của thiện-nghiệp hoặc ác-nghiệp, hoặc gatinimitta: cõi ác-giới hoặc cõi thiện-giới, phát sinh 1 sát-na-tâm rồi diệt, (viết tắt ma), làm duyên cho tâm tiếp theo,
5- Javanacitta: Tác-hành-tâm là tâm làm phận sự tạo nghiệp (thiện-nghiệp hoặc ác-nghiệp) có 1 trong 3 đối-tượng giống như Ý-môn-hướng-tâm trước, phát sinh chỉ có 5 sát-na-tâm yếu ớt rồi diệt, (viết tắt ja), làm duyên cho tâm tiếp theo,
6- Tadārammaṇacitta: Tiếp-đối-tượng tâm là tâm tiếp đối-tượng sót lại của tác-hành-tâm, phát sinh 2 sát-na tâm rồi diệt, (viết tắt ta), làm duyên cho tâm tiếp theo,
7- Cuticitta: Tử-tâm là quả-tâm cuối cùng của kiếp hiện-tại có đối-tượng cũ quá-khứ, làm phận sự chuyển kiếp (chết), chấm dứt kiếp hiện-tại, phát sinh 1 sát-na tâm rồi diệt, (viết tắt cu) làm duyên cho tâm tiếp theo,
8- Paṭisandhicitta: Tái-sinh-tâm là quả-tâm làm phận sự tái-sinh bắt đầu của kiếp sau kế tiếp, có 1 trong 3 đối-tượng là kamma hoặc kammanimitta hoặc gatinimitta giống như Ý-môn-hướng-tâm, phát sinh 1 sát-na- tâm rồi diệt, (viết tắt pat), làm duyên cho tâm tiếp theo,
9- Bhavaṅgacitta: Hộ-kiếp-tâm là quả-tâm có đối-tượng giống như tái-sinh-tâm (kiếp-hiện-tại mới), theo hộ trì, giữ gìn kiếp hiện-tại này, sinh rồi diệt, (viết tắt bha), chấm dứt ý-môn cận-tử-lộ-trình-tâm.
Theo dục-giới tác-hành-tâm ý-môn-cận-tử lộ-trình-tâm thì cuticitta: tử-tâm cuối cùng của kiếp hiện-tại diệt và tiếp theo paṭisandhicitta: tái-sinh-tâm bắt đầu của kiếp sau kế tiếp sinh chỉ có cách nhau 1 sát-na-tâm sinh rồi diệt mà thôi, không có thời gian khoảng cách chờ đợi.
Cuticitta Và Paṭisandhicitta Đối Với Chúng-sinh
Tất cả mọi chúng-sinh trong 3 giới 4 loài đã sinh ra rồi đều phải đến lúc cuối cùng gọi là cuticitta: tử-tâm chấm dứt một kiếp sống như
nhau cả thảy.
* Các hạng phàm-nhân đã từng tạo và tích luỹ đầy đủ mọi thiện-nghiệp và mọi ác-nghiệp từ vô thuỷ trải qua vô số kiếp, còn đủ 108 loại tham-ái, 1500 loại phiền-não, nên vẫn còn tử sinh luân hồi trong 3 giới 4 loài.
* Đối với hạng phàm-nhân nào thường tạo ác-nghiệp hơn thiện-nghiệp, sau khi chết, nếu ác-nghiệp có cơ-hội cho quả thì lúc cận-tử lộ-trình-tâm phát sinh, các tâm sinh rồi diệt theo tuần tự đến cuticitta: tử-tâm sinh rồi diệt, chấm dứt kiếp-hiện-tại, làm duyên cho paṭisandhicitta: tái-sinh-tâm bắt đầu kiếp sau kế tiếp, đó là suy-xét-tâm đồng sinh với xả là bất-thiện-quả-vô-nhân-tâm sinh trong 4 cõi ác-giới: cõi địa-ngục, cõi a-su-ra, cõi ngạ-quỷ, loài súc-sinh, thuộc về loài chúng-sinh nào, trong cõi nào hoàn toàn tuỳ thuộc vào năng lực quả của ác-nghiệp ấy.
* Đối với hạng phàm-nhân nào thường tạo thiện-nghiệp hơn ác-nghiệp, sau khi chết, nếu thiện-nghiệp có cơ-hội cho quả thì lúc cận-tử lộ-trình-tâm phát sinh, các tâm sinh rồi diệt theo tuần tự đến cuticitta: tử-tâm sinh rồi diệt, chấm dứt kiếp-hiện-tại, làm duyên cho paṭisandhi-citta: tái-sinh-tâm bắt đầu kiếp kế tiếp, đó là dục-giới đại-quả-tâm sinh, đầu thai làm người hoặc hoá-sinh làm chư-thiên trên cõi trời dục-giới, hưởng mọi sự an lạc cho đến hết tuổi thọ.
* Đối với bậc Thánh-Nhập-lưu đã diệt-đoạn-tuyệt được một phần tham-ái và phiền-não, không còn tà-kiến và hoài-nghi, nên vĩnh viễn không tái-sinh trong 4 cõi ác-giới: cõi địa-ngục, cõi a-su-ra, cõi ngạ-quỷ, loài súc-sinh, mà chỉ còn tái-sinh kiếp sau trong cõi người hoặc cõi trời dục-giới nhiều nhất 7 kiếp nữa mà thôi.
Mỗi kiếp của bậc Thánh-Nhập-lưu đến khi hết tuổi thọ, thì cận-tử lộ-trình-tâm phát sinh, các tâm sinh rồi diệt theo tuần tự đến cuticitta: tử-tâm sinh rồi diệt, làm duyên cho paṭisandhi-citta: tái-sinh-tâm đó là dục-giới đại-quả-tâm sinh đầu thai làm người (là bậc Thánh-Nhập-lưu) hoặc hoá-sinh làm chư-thiên (là bậc Thánh-Nhập-lưu) trên cõi trời dục-giới.
Đến kiếp thứ 7 của bậc Thánh-Nhập-lưu ấy, chắc chắn sẽ chứng đắc thành bậc Thánh-A-ra-hán sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong tam-giới.
* Đối với bậc Thánh-Nhất-lai còn một phần tham-ái, nên còn tái-sinh kiếp sau chỉ có một kiếp nữa trong cõi người hoặc cõi trời dục-giới mà thôi.
Đến khi bậc Thánh-Nhất-lai hết tuổi thọ, thì cận-tử lộ-trình-tâm phát sinh, các tâm sinh rồi diệt theo tuần tự đến cuticitta: tử-tâm sinh rồi diệt, làm duyên cho paṭisandhicitta: tái-sinh-tâm đó là dục-giới đại-quả-tâm sinh, hoá-sinh làm chư-thiên (là bậc Thánh-Nhất-lai) trên cõi trời dục-giới, rồi sẽ chứng đắc thành bậc Thánh- A-ra-hán sẽ tịch diệt Niết-bàn tại cõi trời ấy.
* Đối với bậc Thánh-Bất-lai đã diệt-đoạn-tuyệt được tham-ái trong cõi dục-giới, vẫn còn tham-ái trong sắc-giới, cõi vô-sắc-giới, nên vẫn còn tái-sinh kiếp sau, nhưng không sinh trở lại cõi dục-giới.
Đến khi bậc Thánh-Bất-lai hết tuổi thọ, thì cận-tử lộ-trình-tâm phát sinh, các tâm sinh rồi diệt theo tuần tự đến cuticitta: tử-tâm sinh rồi diệt, làm duyên cho paṭisandhicitta: tái-sinh-tâm đó là sắc-giới quả-tâm sinh, hoá-sinh làm phạm-thiên (là bậc Thánh-Bất-lai) trên cõi trời sắc-giới, rồi sẽ chứng đắc thành bậc Thánh-A-ra-hán sẽ tịch diệt Niết-bàn tại cõi trời sắc-giới.
* Đối với Đức-Phật và chư Thánh-A-ra-hán đã diệt-đoạn-tuyệt được mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót nữa, ngay kiếp-hiện-tại, đến khi hết tuổi thọ, thì cận-tử lộ-trình-tâm phát sinh, các tâm sinh rồi diệt theo tuần tự đến cuticitta: tử-tâm sinh rồi diệt gọi là tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong tam-giới, bởi vì Đức-Phật và chư Thánh-A-ra-hán đã diệt-đoạn-tuyệt được mọi tham-ái mọi phiền-não không còn dư sót.
Năng Lực Của Dục-Giới Đại-Quả-Tâm
Tất cả mọi người sinh ra trong đời này đều do 8 dục-giới đại-quả-tâm, mà mỗi kiếp người chỉ có sinh ra do một đại–quả-tâm làm phận sự tái-sinh mà thôi. Trong mỗi dục-giới đại-quả-tâm của mỗi người đều có tích-luỹ đầy đủ tất cả mọi thiện-nghiệp, mọi ác-nghiệp, quả của mỗi nghiệp, tâm tính, tật xấu, v.v… từ vô thuỷ trải qua vô số kiếp. Vì vậy, mỗi người không ai giống ai cả.
Vấn: Do nguyên-nhân nào mà mọi người đều khác nhau trong đời này ?
Đáp: Sở dĩ mọi người đều khác nhau trong đời này là vì mỗi người có nghiệp là của riêng mình, như Đức-Phật đã dạy:
“Kammassako’mhi kammadāyādo kammayoni kammabandhu kammappaṭisaraṇo, yaṃ kammaṃ karissāmi kalyāṇaṃ vā pāpakaṃ vā tassa dāyādo bhavissāmi.”([2][16])
Ta có nghiệp là của riêng, ta là người thừa hưởng quả của nghiệp, nghiệp là nhân sinh ra ta, nghiệp là bà con thân quyến của ta, nghiệp là nơi nương nhờ của ta. Ta sẽ tạo nghiệp nào ‘thiện-nghiệp hoặc ác-nghiệp’ chính ta là người thừa hưởng quả của thiện-nghiệp hoặc ác-nghiệp ấy.
Đối với tất cả mọi người chỉ nên có đức-tin nơi nghiệp và quả của nghiệp mà thôi. Chỉ có Đức-Phật mới thấy rõ biết rõ được nghiệp và quả của nghiệp của tất cả chúng-sinh mà thôi.
Ngoài Đức-Phật ra, không có một ai có khả năng biết được nghiệp và quả của nghiệp, cho nên nghiệp và quả của nghiệp là 1 trong 4 điều “bất khả tư nghì” đối với tất cả chúng-sinh.
Kiriyacitta: Duy-Tác-tâm
Kiriyacitta: Duy-tác-tâm là tâm không phải thiện-tâm, không phải bất-thiện-tâm, cũng không phải quả-tâm, mà chỉ là tâm làm phận sự biết đối-tượng qua 6 môn mà thôi.
Kiriyacitta: Duy-tác-tâm có 2 loại:
1- Ahetukakiriyacitta: Vô-nhân-duy-tác-tâm có 3 tâm thuộc về vô-nhân-tâm([3][17]), không phải thiện-tâm, bất-thiện-tâm, quả-tâm, chỉ là tâm làm phận sự tiếp nhận đối-tượng qua 6 môn (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý) mà thôi.
2- Sahetukakiriyacitta:Hữu-nhân-duy-tác-tâm
gồm có 17 tâm, có nhân của bậc Thánh-A-ra-hán không còn vô-minh và tham-ái, nên 17 duy-tác-tâm này cốt để hành-động bằng thân, nói-năng bằng khẩu, suy-nghĩ bằng ý của bậc Thánh-A-ra-hán, không tạo nghiệp, nên không có quả trong kiếp vị-lai.
Kiriyacitta: Duy-tác-tâm gồm có 20 tâm:
– Vô-nhân duy-tác-tâm có 3 tâm,
– Dục-giới đại-duy-tác-tâm có 8 tâm,
– Sắc-giới duy-tác-tâm có 5 tâm,
– Vô-sắc-giới duy-tác-tâm có 4 tâm.
* Trong quyển sách nhỏ này chỉ giảng giải về 8 dục-giới đại-duy-tác-tâm và 3 vô-nhân-duy-tác-tâm mà thôi.
Dục-Giới Đại-Duy-Tác-Tâm
Sahetukakāmavacarakiriyacitta: Hữu-nhân dục-giới đại-duy-tác-tâm hoặc gọi mahākiriya-citta: dục-giới đại-duy-tác-tâm có 8 tâm của bậc Thánh-A-ra-hán biết đối-tượng dục-giới, và cũng có khả năng phát sinh trong các cõi khác gồm có 26 cõi (trừ 4 cõi ác-giới và cõi trời sắc-giới Vô-tưởng-thiên vì không có bậc Thánh-A-ra-hán).
Dục-giới duy-tác-tâm có 8 tâm này hầu hết tương tự như 8 dục-giới đại-thiện-tâm, nhưng chỉ có khác nhau là 8 dục-giới duy-tác-tâm này chỉ phát sinh đối với bậc Thánh-A-ra-hán mà thôi, còn 8 dục-giới đại-thiện-tâm phát sinh đối với nhiều hạng chúng-sinh nhất là hạng thiện-trí phàm-nhân và 3 bậc Thánh-nhân: bậc Thánh-Nhập-lưu, bậc Thánh-Nhất-lai, bậc Thánh-Bất-lai.
Dục-giới đại-duy-tác-tâm nương nhờ 3 pháp: đồng sinh với thọ (vedanā), hợp với trí (ñāṇa), tác-động (saṅkhārika), nên phân chia có 8 tâm:
1- Somanassasahagataṃ ñāṇasampayuttaṃ asaṅkhārikaṃ,
Dục-giới đại-duy-tác-tâm thứ nhất đồng sinh với thọ hỷ, hợp với trí, không cần tác-động,
2- Somanassasahagataṃ ñāṇasampayuttaṃ sasaṅkhārikaṃ,
Dục-giới đại-duy-tác-tâm thứ nhì đồng sinh với thọ hỷ, hợp với trí, cần tác-động,
3- Somanassasahagataṃ ñāṇavippayuttaṃ asaṅkhārikaṃ,
Dục-giới đại-duy-tác-tâm thứ ba đồng sinh với thọ hỷ, không hợp với trí, không cần tác-động,
4- Somanassasahagataṃ ñāṇavippayuttaṃ sasaṅkhārikaṃ,
Dục-giới đại-duy-tác-tâm thứ tư đồng sinh với thọ hỷ, không hợp với trí, cần tác-động,
5- Upekkhāsahagataṃ ñāṇasampayuttaṃ asaṅkhārikaṃ,
Dục-giới đại-duy-tác-tâm thứ năm đồng sinh với thọ xả, hợp với trí, không cần tác-động,
6- Upekkhāsahagataṃ ñāṇasampayuttaṃ sasaṅkhārikaṃ,
Dục-giới đại-duy-tác-tâm thứ sáu đồng sinh với thọ xả, hợp với trí, cần tác-động,
7- Upekkhāsahagataṃ ñāṇavippayuttaṃ asaṅkhārikaṃ,
Dục-giới đại-duy-tác-tâm thứ bảy đồng sinh với thọ xả, không hợp với trí, không cần tác-động,
8- Upekkhāsahagataṃ ñāṇavippayuttaṃ sasaṅkhārikaṃ.
Dục-giới đại-duy-tác-tâm thứ tám đồng sinh với thọ xả, không hợp với trí, cần tác-động.
Giảng Giải
Bậc Thánh-A-ra-hán và 3 bậc Thánh-nhân: bậc Thánh-Nhập-lưu, bậc Thánh-Nhất-lai, bậc Thánh-Bất-lai, các hạng thiện-trí phàm-nhân thậm chí còn có các chúng-sinh khác tạo mọi phước-thiện với tâm:
“Somanassasahagataṃ ñāṇasampayuttaṃ asaṅkhārikaṃ. ….”
* Đối với bậc Thánh-A-ra-hán không còn vô-minh (avijjā) và tham-ái (taṇhā), chỉ có tạo mọi phước-thiện mà không thành thiện-nghiệp, nên không có quả trong kiếp vị-lai, do không có vô-minh làm duyên (avjjāpaccayā), nên các nghiệp (saṅkhārā) không phát sinh. Cho nên, đối với bậc Thánh-A-ra-hán tâm này gọi là mahākiriya-citta: dục-giới đại-duy-tác-tâm là tâm chỉ có tạo phước-thiện mà không có quả của phước-thiện trong kiếp vị-lai, bởi vì bậc Thánh-A-ra-hán kiếp này là kiếp chót, sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong tam-giới.
* Đối với 3 bậc Thánh-nhân vẫn còn ít vô-minh (avijjā) và tham-ái (taṇhā), khi tạo mọi phước-thiện nào thì có thiện-nghiệp ấy, chắc chắn có quả của thiện-nghiệp ấy cả trong kiếp hiện-tại lẫn kiếp vị-lai, bởi vì 3 bậc Thánh-nhân vẫn còn tái-sinh kiếp sau có giới hạn tuỳ theo mỗi bậc Thánh-nhân, rồi chắc chắn sẽ chứng đắc thành bậc Thánh-A-ra-hán sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong tam-giới.
* Đối với các hạng thiện-trí phàm-nhân và các hạng chúng-sinh khác vẫn còn đầy đủ vô-minh (avijjā) và tham-ái (taṇhā), khi tạo mọi phước-thiện nào thì có thiện-nghiệp ấy, chắc chắn có quả của thiện-nghiệp ấy cả trong kiếp hiện-tại lẫn kiếp vị-lai không có giới hạn.
Mahākiriyacitta: Dục-giới đại-duy-tác-tâm có 8 tâm: 4 tâm hợp với trí và 4 tâm không hợp với trí.
Như vậy, bậc Thánh-A-ra-hán có 4 dục-giới đại-duy-tác-tâm hợp với trí điều ấy dễ hiểu, còn trong trường-hợp nào bậc Thánh-A-ra-hán có 4 đại-duy-tác-tâm không hợp với trí ?
Trong trường-hợp bậc Thánh-A-ra-hán sử dụng những oai nghi bình thường theo thói quen hằng ngày như đi, đứng, ngồi, nằm, đại tiện, tiểu tiện, v.v… chỉ cần có saticetasika: niệm tâm-sở cũng đủ, nên dục-giới đại-duy-tác-tâm không hợp với trí-tuệ.
[1] tháng ở cõi người, so sánh với thời gian trên cõi trời Tam-thập-tam-thiên khoảng 3 phút 36 giây, bởi vì 1 ngày 1 đêm trên cõi trời này bằng 100 năm ở cõi người.
[2] Dī.,Sīlakkhandhavagga, Brahmajālasutta và Sāmaññaphalasutta.
[3] Xem lời giải thích trong quyển “Tìm hiểu Pháp-Hành Thiền-Tuệ” cùng soạn giả.
[4] Vinayapiṭaka, Bộ ParivāraPāḷi, Phần Samuṭṭhānasīsasaṅkhepa
[5] Dī. Sīlakkhandhavagga, Kinh Sāmaññaphalasutta
[6] Dī. Sīlakkhandhavagga, Kinh Sāmaññaphalasutta
[7] Dī. Sīlakkhandhavagga, Kinh Sāmaññaphalasutta
[8] Aṅguttaranikāya, DukanipātaPāḷi, Āsāduppajahavagga
[9] Tìm hiểu ý nghĩa 9 ân-Đức-Phật, 6 ân-Đức-Pháp, 9 ân-Đức-Tăng trong bộ Nền-Tảng Phật-giáo quyển II, Quy-Y Tam-Bảo cùng soạn giả.
[10] Tìm hiểu đầy đủ pháp này trong quyển “Tìm Hiểu Pháp-Hành Thiền-Tuệ” cùng soạn giả.
[11] 4 pháp trầm-luân: ngũ-dục trầm-luân, kiếp-trầm-luân, tà-kiến-trầm-luân, vô-minh-trầm-luân.
[12] Abhidhammapiṭaka, bộ VibhaṅgaPāḷi
[13] Aṅg, Ekakanipāta, Vīriyārambhādivagga
[14] Tìm hiểu nghĩa và tên tâm-sở trong phần giảng giải 52 tâm-sở sau
[15] Tìm hiểu giảng giải đầy đủ trong quyển I Tam-Bảo, phần thỉnh Đức-Bồ-tát giáng thế, cùng soạn giả,
[16] Aṅg. , pañcakanipāta, Abhiṇhapaccavekkhitabbaṭṭhānasutta
[17] Vô-nhân-tâm là tâm không hợp với 6 nhân: 3 ác-nhân là tham, sân, si và 3 thiện-nhân là vô-tham, vô-sân, vô-si (trí-tuệ).
Phần – 2.1
Vô-Nhân-Tâm (Ahetukacitta)
Ahetukacitta: Vô-nhân-tâm là tâm không hợp với nhân.
Hetu: Nhân có 6 nhân chia ra 2 loại:
1- Akusalahetu: Bất-thiện nhân có 3 nhân là lobhahetu: nhân tham, dosahetu: nhân sân, mohahetu: nhân si.
2- Kusalahetu: Thiện nhân có 3 nhân là alobhahetu: nhân vô-tham, adosahetu: nhân vô-sân, amohahetu: nhân vô-si (trí-tuệ).
Tâm hợp với bất-thiện nhân hoặc thiện nhân thì gọi là sahetukacitta: Hữu-nhân-tâm, và tâm không hợp với nhân nào trong 6 nhân thì gọi là ahetukacitta: vô-nhân-tâm.
Ahetukacitta: vô-nhân-tâm có 18 tâm chia ra làm 3 loại:
1- Akusalavipākacitta: Bất-thiện-quả-vô-nhân-tâm có 7 tâm, là quả của 12 bất-thiện-nghiệp trong 12 bất-thiện-tâm.
2- Kusalavipākāhetukacitta: Thiện-quả-vô- nhân-tâm có 8 tâm, là quả của 8 dục-giới đại-thiện-nghiệp trong 8 dục-giới đại-thiện-tâm.
3- Ahetukakiriyacitta: Vô-nhân-duy-tác-tâm có 3 tâm, là tâm làm phận-sự, không có quả..
1- Akusalavipākacitta
Akusalavipākacitta: Bất-thiện-quả vô-nhân-tâm có 7 tâm là quả của 12 bất-thiện-nghiệp trong 12 bất-thiện-tâm như sau:
1- Upekkhāsahagataṃ akusalavipākaṃ cakkhuviññānaṃ.
Nhãn-thức-tâm đồng sinh với thọ xả, là quả của bất-thiện-nghiệp, nhìn thấy đối-tượng sắc xấu, không đáng hài lòng.
2- Upekkhāsahagataṃ akusalavipākaṃ sotaviññānaṃ.
Nhĩ-thức-tâm đồng sinh với thọ xả, là quả của bất-thiện-nghiệp, nghe đối-tượng thanh không hay, không đáng hài lòng.
3- Upekkhāsahagataṃ akusalavipākaṃ ghānaviññānaṃ.
Tỷ-thức-tâm đồng sinh với thọ xả, là quả của bất-thiện-nghiệp, ngửi đối-tượng hương mùi hôi, không đáng hài lòng.
4- Upekkhāsahagataṃ akusalavipākaṃ jivhāviññānaṃ.
Thiệt-thức-tâm đồng sinh với thọ xả, là quả của bất-thiện-nghiệp, nếm đối-tượng vị không ngon, không đáng hài lòng.
5- Dukkhasahagataṃ akusalavipākaṃ kāyaviññānaṃ.
Thân-thức-tâm đồng sinh với thọ khổ, là quả của bất-thiện-nghiệp, xúc-giác đối-tượng xúc thân khổ, không đáng hài lòng.
6- Upekkhāsahagataṃ akusalavipākaṃ sampaṭicchanacittaṃ.
Tiếp-nhận-tâm đồng sinh với thọ xả, là quả của bất-thiện-nghiệp, tiếp nhận 5 đối-tượng (sắc, thanh, hương, vị, xúc) xấu, không đáng hài lòng.
7- Upekkhāsahagataṃ akusalavipākaṃ santīraṇacittaṃ.
Suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả, là quả của bất-thiện-nghiệp, suy xét trong 5 đối-tượng (sắc, thanh, hương, vị, xúc) xấu, không đáng hài lòng.
2- Kusalavipākāhetukacitta:
Kusalavipākāhetukacitta:Thiện-quả-vô-nhân-tâm có 8 tâm là quả 8 dục-giới đại-thiện-nghiệp trong 8 dục-giới đại-thiện-tâm như sau:
1- Upekkhāsahagataṃ kusalavipākaṃ cakkhuviññānaṃ.
Nhãn-thức-tâm đồng sinh với thọ xả, là quả của dục-giới đại-thiện-nghiệp, nhìn thấy đối-tượng sắc tốt, đáng hài lòng.
2- Upekkhāsahagataṃ kusalavipākaṃ sotaviññānaṃ.
Nhĩ-thức-tâm đồng sinh với thọ xả, là quả của dục-giới đại-thiện-nghiệp, nghe đối-tượng thanh hay, đáng hài lòng.
3- Upekkhāsahagataṃ kusalavipākaṃ ghānaviññānaṃ.
Tỷ-thức-tâm đồng sinh với thọ xả, là quả của dục-giới đại-thiện-nghiệp, ngửi đối-tượng hương thơm, đáng hài lòng.
4- Upekkhāsahagataṃ kusalavipākaṃ jivhāviññānaṃ.
Thiệt-thức-tâm đồng sinh với thọ xả, là quả của dục-giới đại-thiện-nghiệp, nếm đối-tượng vị ngon, đáng hài lòng.
5- Sukhasahagataṃ kusalavipākaṃ kāyaviññānaṃ.
Thân-thức-tâm đồng sinh với thọ lạc, là quả của dục-giới đại-thiện-nghiệp, xúc-giác đối-tượng xúc thân an lạc, đáng hài lòng.
6- Upekkhāsahagataṃ kusalavipākaṃ sampaṭicchanacittaṃ.
Tiếp-nhận-tâm đồng sinh với thọ xả, là quả của dục-giới đại-thiện-nghiệp, tiếp nhận trong 5 đối-tượng (sắc, thanh, hương, vị, xúc) tốt, đáng hài lòng.
7- Upekkhāsahagataṃ kusalavipākaṃ santīraṇacittaṃ.
Suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả, là quả của dục-giới đại-thiện-nghiệp, suy xét trong 5 đối-tượng (sắc, thanh, hương, vị, xúc) tốt, đáng hài lòng.
8- Somanassasahagataṃ kusalavipākaṃ santīraṇacittaṃ.
Suy-xét-tâm đồng sinh với thọ hỷ, là quả của dục-giới đại-thiện-nghiệp, suy xét 1 trong 5 đối-tượng (sắc, thanh, hương, vị, xúc) tốt, đáng hài lòng.
3-Ahetukakiriyacitta:
Ahetukakiriyacitta: Vô-nhân-duy-tác-tâm là tâm phát sinh làm phận sự của mình, tâm này không hợp với bất-thiện-nhân (akusalahetu) cũng không hợp với thiện-nhân (kusalahetu), nên không phải là bất-thiện-tâm cũng không phải là thiện-tâm, cũng không phải là quả-tâm của tâm nào cả, nên tâm này gọi là vô-nhân-duy-tác-tâm chỉ có làm phận sự, mà không có quả.
Ahetukakiriyacitta: Vô-nhân-duy-tác-tâm có 3 tâm:
1- Upekkhāsahagataṃ pañcadvāravajjanacittam:
Ngũ-môn-hướng-tâm đồng sinh với thọ xả, tiếp xúc 5 đối-tượng (sắc, thanh, hương, vị, xúc) trong ngũ môn, để ngũ môn lộ-trình-tâm phát sinh.
2- Upekkhāsahagataṃ manodvāravajjanacittam:
Ý-môn-hướng-tâm đồng sinh với thọ xả, tiếp xúc 6 đối-tượng (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) trong ý môn để ý môn lộ-trình-tâm phát sinh, hoặc là tâm làm phận-sự quyết định 5 đối-tượng trong ngũ môn, để ngũ môn lộ-trình-tâm phát sinh.
3- Somanassasahagataṃ hasituppādacittaṃ:
Tâm mỉm cười của bậc Thánh-A-ra-hán đồng sinh với thọ hỷ.
Giảng Giải 18 Vô-Nhân-Tâm
1– 7 bất-thiện-quả vô-nhân-tâm là quả của 12 bất-thiện-nghiệp trong 12 bất-thiện-tâm, có 2 tên gọi: viññāṇaṃ và cittaṃ
* Gọi viññāṇa có 5 tâm là:
– Cakkhuviññāṇa: nhãn-thức-tâm là tâm phát sinh do nương nhờ nhãn-môn, làm phận-sự thấy đối-tượng sắc xấu.
– Sotaviññāṇa: nhĩ-thức-tâm là tâm phát sinh do nương nhờ nhĩ-môn, làm phận-sự nghe đối-tượng thanh không hay.
– Ghānaviññāṇa: tỷ-thức-tâm là tâm phát sinh do nương nhờ tỷ-môn, làm phận-sự ngửi đối-tượng hương mùi hôi.
– Jivhāviññāṇa: thiệt-thức-tâm là tâm phát sinh do nương nhờ thiệt-môn, làm phận-sự nếm đối-tượng vị không ngon.
– Kāyaviññāṇa: thân-thức-tâm là tâm phát sinh do nương nhờ thân-môn, làm phận-sự xúc-giác đối-tượng xúc cứng, …
* 7 bất-thiện-quả vô-nhân-tâm tiếp nhận 5 đối-tượng sắc, thanh, hương, vị, xúc xấu, không đáng hài lòng.
Danh từ chế định gọi 5 thức tâm này là cakkhuviññāṇa,… do nương nhờ nơi 5 môn (cakkhudvāra, …) và 5 nơi sinh (cakkhu-vatthu,…) của 5 thức-tâm đều là sắc-pháp (rūpadhamma) nên gọi là viññāṇa cho dễ hiểu.
* Gọi cittaṃ có 2 tâm là:
– Sampaṭicchanacitta: Tiếp-nhận-tâm,
– Santīraṇacitta: Suy-xét-tâm,
Danh từ chế định gọi 2 tâm này do nương nhờ phận-sự của tâm (kicca) thuộc về danh-pháp (nāmadhamma) nên gọi là citta.
* Vedanā: thọ đồng sinh với 7 bất-thiện-quả vô-nhân-tâm tiếp nhận 5 đối-tượng sắc, thanh, hương, vị, xúc xấu, không đáng hài lòng, có 2 loại thọ là thọ xả (upekkhāvedanā) và thọ khổ (dukkhavedanā).
*Cakkhuviññāṇa, sotaviññāṇa, ghānaviññāṇa, jivhāviññāṇa, sampaṭicchanacitta, santīraṇacitta gồm có 6 tâm này đồng sinh với thọ xả (upekkhāsahagata) (không khổ không lạc), bởi vì 6 tâm này phát sinh do nương nhờ sắc-phụ-thuộc tiếp xúc với sắc-phụ-thuộc (upādāyarūpa) như đối-tượng sắc tiếp xúc với nhãn-tịnh-sắc, v.v… nên không có đủ cảm giác khổ hoặc lạc. Ví như bông gòn tiếp xúc với bông gòn rất nhẹ.
* Kāyaviññāṇa là thức-tâm đồng sinh với thọ khổ (dukkhasahagata), bởi vì thân-thức-tâm phát sinh do nương nhờ đối-tượng xúc xấu thô (3 đại: địa-đại, hoả-đại, phong-đại (trừ thuỷ-đại) tiếp xúc với thân-tịnh-sắc (kāyapasāda-rūpa), nên có cảm giác khổ. Ví như cái búa đập mạnh bông gòn đặt trên tấm đá.
2- 8 thiện-quả vô-nhân-tâm là quả của 8 dục-giới đại-thiện-nghiệp trong 8 dục-giới đại-thiện-tâm, cũng có 2 tên gọi: viññānaṃ và cittaṃ, giải thích tương tự như 7 bất-thiện-quả vô-nhân-tâm.
* Vedanā: thọ đồng sinh với 8 thiện-quả vô-nhân-tâm tiếp nhận 5 đối-tượng sắc, thanh, hương,vị, xúc tốt, đáng hài lòng, có 3 loại thọ là thọ xả (upekkhāvedanā), thọ lạc (sukhavedanā) và thọ hỷ (somanassavedanā).
* Cakkhuviññāṇa, sotaviññāṇa, ghānaviññāṇa, jivhāviññāṇa, sampaṭicchanacitta, gồm có 5 tâm này đồng sinh với thọ xả (upekkhāsahagata) (không khổ không lạc) giải thích như bất-thiện-quả vô-nhân-tâm.
* Kāyaviññāṇa là thức-tâm đồng sinh với thọ lạc (sukhasahagata), bởi vì thân-thức-tâm phát sinh do nương nhờ đối-tượng xúc tốt mềm mại tiếp xúc với thân-tịnh-sắc (kāyapasādarūpa), nên có cảm giác an lạc.
* Thiện-quả-vô-nhân-tâm có 8 quả-tâm nhiều hơn bất-thiện-quả-vô-nhân-tâm 1 quả-tâm, bởi vì santīraṇacitta là thiện-quả-vô-nhân-suy-xét-tâm làm phận sự suy xét đối-tượng tốt, đáng hài lòng, là quả của dục-giới đại-thiện-nghiệp có 2 loại đối-tượng tốt:
1- Iṭṭhamajjhattārammaṇa: Đối-tượng tốt trung bình,
2- Ati-iṭṭhārammaṇa: Đối-tượng tốt đặc biệt.
* Nếu khi thiện-quả-vô-nhân-suy-xét-tâm làm phận sự suy xét đối-tượng tốt trung bình thì tâm này không đủ để đồng sinh với thọ hỷ, chỉ đồng sinh với thọ xả, nên gọi là upekkhāsahagataṃ santīraṇakusalavipākacittaṃ: thiện-quả-vô-nhân-suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả.
* Nếu khi thiện-quả-vô-nhân-suy-xét-tâm làm phận sự suy xét đối-tượng tốt đặc biệt thì tâm này đồng sinh với thọ hỷ, nên gọi là somanassa-sahagataṃ santīraṇakusalavipākacittaṃ: thiện-quả-vô-nhân-suy-xét-tâm đồng sinh với thọ hỷ.
Nhưng bất-thiện-quả-vô-nhân-suy-xét-tâm làm phận sự suy xét dù đối-tượng xấu trung bình (aniṭṭhamajjhattārammaṇa) dù đối-tượng xấu thậm tệ (ati-aniṭṭhārammaṇa) thì tâm này cũng chỉ đồng sinh với thọ xả mà thôi, bởi vì bất-thiện-quả-vô-nhân-suy-xét-tâm làm phận sự suy xét dù đối-tượng xấu thậm tệ (ati-aniṭṭhā-rammaṇa) thì tâm này cũng không thể đồng sinh với thọ ưu (domassavedanā) được, bởi vì thọ ưu chỉ có đồng sinh với 2 sân-tâm mà thôi.
Vì vậy, bất-thiện-quả-vô-nhân-tâm chỉ có 7 quả-tâm mà thôi.
Cách gọi chung cakkhuviññāṇa, sotaviññāṇa, ghānaviññāṇa kāyaviññāṇa thuộc về 5 bất-thiện-quả-vô-nhân-tâm và 5 thiện-quả-vô-nhân-tâm gom lại gọi là dvipañcaviññāṇacitta: 10 thức-tâm phát sinh do nương nhờ nhãn-môn, nhĩ-môn, tỷ-môn, thiệt-môn, thân-môn.
Nhận Xét Về Bất-Thiện-Nghiệp Và Dục-Giới Đại-Thiện-Nghiệp Cho Quả
* Bất-thiện-nghiệp có 12 nghiệp chỉ cho quả là akusalavipākacitta: bất-thiện-quả vô-nhân-tâm, có 7 quả-tâm thuộc về vô-nhân-tâm (ahetukacitta) mà thôi, bởi vì 12 bất-thiện-nghiệp trong 12 bất-thiện-tâm đều có phóng-tâm tâm-sở (uddhacca-cetasika) làm giảm năng lực cho quả của 12 bất-thiện-nghiệp không có khả năng cho quả là hữu-nhân-tâm (sahetuka).
Vì vậy, 12 bất-thiện-nghiệp chỉ có cho quả là 7 bất-thiện-quả-vô-nhân-tâm thuộc về vô-nhân-tâm (ahetukacitta) mà thôi.
2- 8 Thiện-quả vô-nhân-tâm (ahetukakusala-vipākacitta) là quả của 8 dục-giới đại-thiện-nghiệp quá-khứ do tác-ý không hoàn toàn trong sạch có 1 trong 3 thời-kỳ: trước khi tạo phước-thiện, đang khi tạo phước-thiện, sau khi đã tạo phước-thiện, làm cho dục-giới đại-thiện-nghiệp có ít năng lực, nên cho quả là vô-nhân-tâm (ahetukacitta).
8 Dục-giới đại-quả-tâm (mahākusalacitta) cũng là quả của 8 dục-giới đại-thiện-nghiệp quá-khứ do tác-ý hoàn toàn trong sạch trong 3 thời-kỳ: trước khi tạo phước-thiện, đang khi tạo phước-thiện, sau khi đã tạo phước-thiện, làm cho dục-giới đại-thiện-nghiệp có nhiều năng lực, nên cho quả là hữu-nhân-tâm (sahetukacitta).
Như vậy, 8 dục-giới đại-thiện-nghiệp trong 8 dục-giới đại-thiện-tâm cho quả có 16 quả-tâm là 8 thiện-quả vô-nhân-tâm và 8 dục-giới đại-quả-tâm.
Tất cả chúng-sinh nói chung, mỗi người nói riêng trong vòng tử sinh luân hồi trong 3 giới 4 loài từ vô-thuỷ cho đến kiếp-hiện-tại này, trải qua vô-số kiếp, phần thân (sắc-uẩn) thay đổi theo từng mỗi kiếp tuỳ theo quả của nghiệp của mỗi chúng-sinh, phần tâm (danh-uẩn) vẫn sinh rồi diệt liên tục không ngừng từ kiếp này đến kiếp khác, từ kiếp vô-thuỷ cho đến kiếp-hiện-tại này đều tích-luỹ tất cả mọi dục-giới đại-thiện-nghiệp, mọi bất-thiện-nghiệp dù nặng dù nhẹ không sót một nghiệp nào. Trong mỗi kiếp:
* Trong kiếp-hiện-tại, nếu có dục-giới đại-thiện-nghiệp nào có cơ-hội cho quả thì nhãn-thức-tâm hợp với thọ xả nhìn thấy đối-tượng sắc tốt, đáng hài lòng, v.v… thân-thức-tâm hợp với thọ lạc xúc-giác đối-tượng xúc tốt, đáng hài lòng, v.v… Hoặc nếu có ác-nghiệp nào có cơ-hội cho quả thì nhãn-thức-tâm nhìn thấy đối-tượng sắc xấu, không đáng hài lòng, v.v… thân-thức-tâm hợp với thọ khổ xúc-giác đối-tượng xúc xấu, không đáng hài lòng, v.v…
Nếu dục-giới đại-thiện-nghiệp ấy hoặc ác-nghiệp ấy không có cơ-hội cho quả trong kiếp-hiện-tại thì nghiệp ấy trở thành vô-hiệu-quả-nghiệp (ahosikamma).
* Trong kiếp-kế-tiếp (kiếp sau), nếu có dục-giới đại-thiện-nghiệp nào có cơ-hội cho quả tái-sinh kiếp sau làm người hoặc làm chư-thiên trong 6 cõi trời dục-giới thì hưởng mọi sự an lạc trong cõi ấy, cho đến khi mãn quả của dục-giới đại-thiện-nghiệp ấy, mới chuyển kiếp (chết); hoặc nếu có ác-nghiệp nào có cơ-hội cho quả tái-sinh kiếp sau trong 4 cõi ác-giới: cõi địa-ngục, cõi a-su-ra, cõi ngạ-quỷ, loài súc-sinh thì chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy, trong cõi ấy cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy (chết), mới thoát khỏi cõi ấy.
Nếu dục-giới đại-thiện-nghiệp ấy hoặc ác-nghiệp ấy không có cơ-hội cho quả tái-sinh kiếp sau thì nghiệp ấy trở thành vô-hiệu-quả-nghiệp (ahosikamma).
* Còn từ kiếp thứ 3 cho đến kiếp chót trở thành bậc Thánh-A-ra-hán, trước khi tịch diệt Niết-bàn, tất cả mọi dục-giới đại-thiện-nghiệp, mọi ác-nghiệp không có nghiệp nào gọi là vô-hiệu-quả-nghiệp (ahosikamma) cả, cho nên nếu bất cứ nghiệp nào có cơ-hội thì nghiệp ấy cho quả của nó.
* Nhưng đến khi bậc Thánh-A-ra-hán tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong tam-giới, thì chỉ có khi ấy, tất cả mọi dục-giới đại-thiện-nghiệp, mọi ác-nghiệp đã được tích-luỹ từ kiếp vô-thuỷ cho đến kiếp-hiện-tại mới thật sự trở thành vô-hiệu-quả-nghiệp (ahosi-
kamma) mà thôi.
Người nào có chánh-kiến sở-nghiệp của riêng mình (kammassakatā sammādiṭṭhi), có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp. Nếu khi quả của dục-giới đại-thiện-nghiệp của mình phát sinh làm cho thân an lạc thì người ấy hưởng quả an lạc ấy, hoặc nếu khi quả của ác-nghiệp của mình phát sinh làm khổ thân thì người ấy cũng chấp nhận quả khổ ấy.
Người ấy có trí-tuệ sáng suốt chấp nhận quả của nghiệp của mình như người thừa-kế quả của nghiệp (kammadāyado).
Như vậy, người ấy chính là bậc đại-thiện-trí có trí-tuệ sáng suốt, có đức-tính công-bằng với chính mình, với mọi người, mọi chúng-sinh khác, không hề có tính thiên vị.
3- Vô-nhân-duy-tác-tâm (Ahetukakiriyacitta) là tâm phát sinh làm phận sự không hợp với nhân.
Vô-nhân-duy-tác-tâm chỉ phát sinh làm phận-sự, không phải là thiện-tâm, cũng không phải là bất-thiện-tâm, cũng không phải là quả-tâm của tâm nào cả.
Ahetukakiriyacitta: Vô-nhân-duy-tác-tâm có 3 tâm:
1- Upekkhāsahagataṃ pañcadvāravajjanacittam:
Ngũ-môn-hướng-tâm đồng sinh với thọ xả, suy xét 5 đối-tượng trong ngũ môn.
2- Upekkhāsahagataṃ manodvāravajjanacittam:
Ý-môn-hướng-tâm đồng sinh với thọ xả, suy xét 6 đối-tượng trong ý môn, hoặc quyết định 5 đối-tượng trong ngũ-môn-lộ-trình-tâm.
3- Somanassasahagataṃ hasituppādacittaṃ:
Tâm mỉm cười của bậc Thánh-A-ra-hán đồng sinh với thọ hỷ phát sinh trong 6 môn. (không phát sinh đối với các chúng-sinh khác).
Giảng Giải 3 Vô-Nhân Duy-Tác-Tâm
1- Pañcadvārāvajjanacitta: Ngũ-môn hướng-tâm đồng sinh với thọ xả làm phận sự tiếp nhận, 1 trong 5 đối-tượng mới (sắc, thanh, hương, vị, xúc) xấu hoặc tốt tiếp xúc tương-xứng với môn (dvāra), mở cửa cho ngũ-môn-lộ-trình-tâm(pañcadvāravīthicitta) tương-xứng phát sinh.
Ví dụ: * Ngũ-môn hướng-tâm làm phận sự tiếp nhận đối-tượng sắc mới xấu hoặc tốt tiếp xúc tương xứng với nhãn-môn, mở cửa cho nhãn-môn-lộ-trình-tâm phát sinh.
* Ngũ-môn-hướng-tâm làm phận sự tiếp nhận đối-tượng thanh mới xấu hoặc tốt tiếp xúc tương xứng với nhĩ-môn, mở cửa cho nhĩ-môn-lộ-trình-tâm phát sinh.
* Ngũ-môn hướng-tâm làm phận sự tiếp nhận đối-tượng hương mới xấu hoặc tốt tiếp xúc tương xứng với tỷ-môn, mở cửa cho tỷ-môn-lộ-trình-tâm phát sinh.
* Ngũ-môn hướng-tâm làm phận sự tiếp nhận đối-tượng vị mới tiếp xúc xấu hoặc tốt tương xứng với thiệt-môn, mở cửa cho thiệt-môn-lộ-trình-tâm phát sinh.
* Ngũ-môn hướng-tâm làm phận sự tiếp nhận đối-tượng xúc mới xấu hoặc tốt tiếp xúc tương xứng với thân-môn, mở cửa cho thân-môn-lộ-trình-tâm phát sinh.
2- Manodvārāvajjanacitta Ý-môn hướng-tâm đồng sinh với thọ xả làm phận sự tiếp nhận, 1 trong 6 đối-tượng mới (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) xấu hoặc tốt cho ý môn (manodvāra) mở cửa cho ý môn lộ-trình-tâm phát sinh.
* Ý-môn hướng-tâm đồng sinh với thọ xả còn làm phận sự quyết-định (voṭṭhabbanakicca) đối-tượng xấu hoặc tốt cho ngũ-môn-lộ-trình-tâm.
3- Hasituppādacitta: Tâm mỉm cười của bậc Thánh-A-ra-hán đồng sinh với thọ hỷ phát sinh trong 6 môn. (không phát sinh đối với các chúng-sinh khác).
Bậc Thánh-A-ra-hán có thiên-nhãn-thông (dibbacakkhu-abhiññā) nhìn thấy loài ngạ-quỷ có thân hình kỳ dị với duy-tác-thần-thông-tâm 1 sát-na-tâm, tiếp theo suy xét với dục-giới đại-duy-tác-tâm hợp với trí-tuệ rằng: “Loài ngạ-quỷ như thế này không còn đối với ta được nữa.”
Sau khi suy xét như vậy, tâm mỉm cười của bậc Thánh-A-ra-hán (hasituppādacitta) phát sinh.
Bậc Thánh-A-ra-hán đã chứng đắc tiền-kiếp-thông (pubbenivāsānusatiñāṇa), vị-lai-kiến-thông (anāgataṃsañāṇa) thiên-nhãn-thông dibbacakkhu-
ñāṇa) dễ dàng có hasituppādacitta: tâm mỉm cười của bậc Thánh-A-ra-hán phát sinh.
Mỉm Cười Và Cười
Mỉm cười và cười có 6 loại:
1- Sita: Tâm mỉm cười trên mặt không lộ hàm răng, đó là sự mỉm cười của Đức-Phật.
2- Hasita: Tâm mỉm cười lộ chút ít hàm răng, đó là sự mỉm cười của bậc Thánh-A-ra-hán.
Ngoài bậc Thánh-A-ra-hán ra, tâm mỉm cười của bậc Thánh-Bất-lai, bậc Thánh-Nhất-lai, bậc Thánh-Nhập-lưu, hoặc hạng thiện-trí phàm-nhân đều hợp với thiện-nhân (vô-tham, vô-sân, vô-si).
3- Vihasita: Tâm cười ra tiếng nho-nhỏ phát sinh đối với 3 bậc Thánh-nhân: bậc Thánh-Nhập-lưu, bậc Thánh-Nhất-lai, bậc Thánh-Bất-lai, hạng thiện-trí phàm-nhân đều hợp với thiện-nhân (vô-tham, vô-sân, vô-si).
4- Atihasita: Tâm cười ra tiếng lớn phát sinh đối với 2 bậc Thánh-nhân: bậc Thánh-Nhập-lưu, bậc Thánh-Nhất-lai, hạng thiện-trí phàm-nhân đều hợp với nhân (hetu).
5- Apahasita: Tâm cười làm cho thân mình nghiêng ngả chỉ phát sinh đối với hạng phàm-nhân mà thôi.
6- Upahasita: Tâm cười làm trào ra nước mắt chỉ phát sinh đối với hạng phàm-nhân mà thôi.
Mỉm cười và cười có 6 loại, 2 loại mỉm cười:
* Tâm mỉm cười trên mặt không lộ hàm răng gọi là sita, đối với Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác,
* Tâm mỉm cười lộ chút ít hàm răng gọi là hasita, đối với chư bậc Thánh-A-ra-hán.
Hai loại tâm mỉm cười này phát sinh làm phận sự, mà không chấp thủ nơi đối-tượng, nên tâm này có năng lực yếu đặc biệt phát sinh không hợp với nhân (hetu), gọi là hasituppāda-citta, thuộc về loại vô-nhân-tâm.
* Bốn loại tâm cười còn lại, tâm có năng lực mạnh, chấp thủ nơi đối-tượng, nên tâm này phát sinh hợp với nhân (hetu) gọi là sahetukacitta: tâm có nhân.
Saṅkhāra Trong Ahetukacitta
Trong bộ Abhidhammatthasaṅgaha, Ngài Đại-Trưởng-lão Anuruddha trình bày trong phần ahetukacitta: vô-nhân-tâm có 18 tâm, không trình bày thuộc về loại asaṅkhārikacitta hoặc sasaṅkhārikacitta nào cả.
Theo các bộ khác có ý kiến khác nhau về saṅkhārika trong ahetukacitta được tóm lược theo 3 cách như sau:
* Trong bộ Mūlaṭīkā và bộ Abhidhammattha-vibhāvinīṭīkā có ý kiến rằng: “Ahetukacitta: Vô-nhân-tâm có 18 tâm đều là saṅkhāravimutti, 18 vô-nhân-tâm đều là không có saṅkhāra nào cả”, bởi vì trong bộ Abhidhammatthasaṅgaha không trình bày asaṅkhārikacitta và sasaṅkhārikacitta nào cả.
* Trong bộ Paramatthadīpanīṭīkā có ý kiến rằng: “Ahetukacitta: Vô-nhân-tâm có 18 tâm có asaṅkhārikacitta hoặc sasaṅkhārikacitta.”
* Bậc Tiền-bối có ý kiến rằng:“Ahetukacitta: Vô-nhân-tâm có 18 tâm thuộc về asaṅkhārika-citta”, bởi vì nhãn-thức-tâm tự nhìn thấy đối-tượng sắc, nhĩ-thức-tâm tự nghe đối-tượng thanh,
tỷ-thức-tâm tự ngửi đối-tượng hương, thiệt-thức-tâm tự nếm đối-tượng vị, thân-thức-tâm tự xúc-giác đối-tượng xúc, v.v… do nương nhờ upattihetu: nhân-duyên khiến cho tâm ấy phát sinh, cho nên 18 vô-nhân-tâm này thuộc về asaṅkhārikacitta.
Ahetukacitta: Vô-nhân-tâm là tâm không có 6 nhân (hetu): 3 bất-thiện nhân: nhân tham, nhân sân, nhân si, và 3 thiện nhân: nhân vô-tham, nhân vô-sân, nhân vô-si (trí-tuệ). 6 nhân này gọi là sampayuttahetu: nhân hợp với tâm.
Nếu tâm nào có bất-thiện nhân (akusalahetu) hoặc thiện nhân (kusalahetu) hợp với tâm ấy thì tâm ấy gọi là sahetukacitta: hữu-nhân-tâm.
Ahetukacitta: Vô-nhân-tâm là tâm không hợp với sampayuttahetu: nhân hợp với tâm, nhưng tất cả các pháp đều phát sinh do từ nhân (hetup-pabhava), nhân này không phải là sampayutta-hetu (6 nhân hợp với tâm), nhưng là nhân-duyên khiến cho tâm phát sinh gọi là upattihetu.
Cho nên, 18 ahetukacitta: vô-nhân-tâm phát sinh đều do nương nhờ upattihetu: nhân-duyên khiến cho mỗi tâm phát sinh.
Upattihetu Của 18 Ahetukacitta
Nhân-duyên khiến cho mỗi vô-nhân-tâm phát sinh cần phải hội đủ nhân-duyên của mỗi tâm, nếu trường-hợp thiếu 1 nhân-duyên nào thì vô-nhân-tâm ấy không thể phát sinh được.
Theo bộ Abhidhammatthasaṅgaha: Vi-diệu-pháp-yếu-nghĩa giảng giải rằng:
* Nhân Duyên Phát Sinh 2 Nhãn-Thức-Tâm
* Cakkhuviññāṇa: nhãn-thức-tâm có 2 tâm phát sinh do hội đủ 4 nhân-duyên:
1- Cakkhupasāda: Nhãn-tịnh-sắc tốt (mắt không bị bệnh),
2- Rūpārammaṇa: Đối-tượng sắc rõ ràng tiếp xúc với nhãn-tịnh-sắc (mắt) ,
3- Āloka: Ánh sáng rõ ràng,
4- Manasikāra: Chú tâm đó là ngũ-môn-hướng tâm đến đối-tượng sắc ấy.
Nếu khi hội đủ 4 nhân-duyên này thì nhãn-thức-tâm với 7 tâm-sở phát sinh làm phận sự nhìn thấy đối-tượng sắc ấy.
* Nhãn-thức-tâm có 2 tâm:
– Nhãn-thức-tâm là quả-tâm của bất-thiện-nghiệp nhìn thấy đối-tượng sắc xấu, không đáng hài lòng,
– Nhãn-thức-tâm là quả-tâm của dục-giới đại-thiện-nghiệp nhìn thấy đối-tượng sắc tốt, đáng hài lòng.
* Nhân Duyên Phát Sinh 2 Nhĩ-Thức-Tâm
Sotaviññāṇa: nhĩ-thức-tâm có 2 tâm phát sinh do hội đủ 4 nhân-duyên:
1- Sotapasāda: Nhĩ-tịnh-sắc tốt (tai không bị điếc),
2- Saddārammaṇa: Đối-tượng âm-thanh rõ ràng tiếp xúc với nhĩ-tịnh-sắc (lỗ tai),
3- Vivarākāsa: Khoảng trống không gian không có vật cản,
4- Manasikāra: Chú tâm đó là ngũ-môn-hướng tâm đến đối-tượng âm-thanh ấy.
Nếu khi hội đủ 4 nhân-duyên này thì nhĩ-thức-tâm với 7 tâm-sở phát sinh làm phận sự nghe đối-tượng âm-thanh ấy.
* Nhĩ-thức-tâm có 2 tâm:
– Nhĩ-thức-tâm là quả-tâm của bất-thiện-nghiệp nghe đối-tượng âm-thanh dở, không đáng hài lòng,
– Nhĩ-thức-tâm là quả-tâm của dục-giới đại-thiện-nghiệp nghe đối-tượng âm-thanh hay, đáng hài lòng.
* Nhân Duyên Phát Sinh 2 Tỷ-Thức-Tâm
Ghānaviññāṇa: Tỷ-thức-tâm có 2 tâm phát sinh do hội đủ 4 nhân-duyên:
1- Ghānapasāda: Tỷ-tịnh-sắc tốt (mũi không bị bệnh),
2- Gandhārammaṇa: Đối-tượng hương rõ ràng tiếp xúc với tỷ-tịnh-sắc (lỗ mũi),
3- Vāyodhātu: Phong-đại (gió) thổi đưa mùi hương đến mũi,
4- Manasikāra: Chú tâm đó là ngũ-môn-hướng tâm đến đối-tượng hương ấy.
Nếu khi hội đủ 4 nhân-duyên này thì tỷ-thức-tâm với 7 tâm-sở phát sinh làm phận sự ngửi đối-tượng hương ấy.
* Tỷ-thức-tâm có 2 tâm:
– Tỷ-thức-tâm là quả-tâm của bất-thiện-nghiệp ngửi đối-tượng mùi hôi, không đáng hài lòng,
– Tỷ-thức-tâm là quả-tâm của dục-giới đại-thiện-nghiệp ngửi đối-tượng hương thơm tốt, đáng hài lòng.
* Nhân Duyên Phát Sinh 2 Thiệt-Thức-Tâm
Jivhāviññāṇa: Thiệt-thức-tâm có 2 tâm phát sinh do hội đủ 4 nhân-duyên:
1- Jivhāpasāda: Thiệt-tịnh-sắc tốt (lưỡi không bị bệnh),
2- Rasārammaṇa: Đối-tượng vị rõ ràng tiếp xúc với thiệt-tịnh-sắc (lưỡi) ,
3- Āpodhātu: thuỷ-đại (nước miếng trong miệng),
4- Manasikāra: Chú tâm đó là ngũ-môn hướng tâm đến đối-tượng vị ấy.
Nếu khi hội đủ 4 nhân-duyên này thì thiệt-thức-tâm với 7 tâm-sở phát sinh làm phận sự nếm đối-tượng vị ấy.
* Thiệt-thức-tâm có 2 tâm:
– Thiệt-thức-tâm là quả-tâm của bất-thiện-nghiệp nếm đối-tượng vị dở, không đáng hài lòng,
– Thiệt-thức-tâm là quả-tâm của dục-giới đại-thiện-nghiệp nếm đối-tượng vị ngon, đáng hài lòng.
* Nhân Duyên Phát Sinh 2 Thân-Thức-Tâm
Kāyaviññāṇa: Thân-thức-tâm có 2 tâm phát sinh do hội đủ 4 nhân-duyên:
1- Kāyapasāda: Thân-tịnh-sắc tốt (thân khoẻ mạnh không bị bại liệt),
2- Phoṭṭhabbārammaṇa: Đối-tượng xúc (cứng, mềm, nóng, lạnh, căng, phồng) rõ ràng tiếp xúc với thân-tịnh-sắc (thân),
3- Thaddhapaṭhavīdhātu: Địa-đại cứng, …
4- Manasikāra: Chú tâm đó là ngũ-môn hướng tâm đến đối-tượng xúc ấy.
Nếu khi hội đủ 4 nhân-duyên này thì thân-thức-tâm với 7 tâm-sở phát sinh làm phận sự xúc-giác đối-tượng xúc ấy.
* Thân-thức-tâm có 2 tâm:
– Thân-thức-tâm là quả-tâm của bất-thiện-tâm xúc-giác đối-tượng xúc xấu, không đáng hài lòng,
– Thân-thức-tâm là quả-tâm của dục-giới đại-thiện-tâm xúc-giác đối-tượng xúc tốt, đáng hài lòng.
* Nhân Duyên Phát Sinh 3 Ý-Tự-Tánh
Manodhātu: ý-tự-tánh-tâm gồm có 3 tâm:
– Pañcadvārāvajjanacitta:Ngũ-môn-hướng-tâm
– Sampaṭicchanacitta: Tiếp-nhận-tâm có 2 tâm.
3 tâm này phát sinh do hội đủ 4 nhân-duyên:
1- Pañcadvāra: 5 môn đó là nhãn-môn, nhĩ-môn, tỷ-môn, thiệt-môn, thân-môn tốt,
2- Pañcārammaṇa: 5 đối-tượng (sắc, thanh, hương, vị, xúc),
3- Hadayavatthu: Ý-sắc-căn là nơi nương nhờ của tâm để phát sinh,
4- Manasikāra: Chú tâm đến đối-tượng ấy.
Nếu khi hội đủ 4 nhân-duyên này thì mano-dhātu có 3 tâm, mỗi tâm phát sinh tuỳ theo nhân-duyên, làm phận sự của mình đối với đối-tượng ấy.
* Manodhātu có 3 tâm:
– Ngũ-môn-hướng-tâm phát sinh làm phận sự tiếp nhận 1 trong 5 đối-tượng mới (sắc, thanh, hương, vị, xúc) xấu hoặc tốt tiếp xúc tương-xứng với môn (dvāra), mở cửa cho ngũ-môn lộ-trình-tâm (pañcadvāravīthicitta) tương-xứng phát sinh.
– Tiếp-nhận-tâm là quả-tâm của bất-thiện-nghiệp tiếp nhận đối-tượng xấu, không đáng hài lòng,
– Tiếp-nhận-tâm là quả-tâm của dục-giới đại thiện-nghiệp tiếp nhận đối-tượng tốt, đáng hài lòng,
* Nhân Duyên Phát Sinh 5 Ý-Thức-Tự-Tánh
Manoviññāṇadhātu:[1] ý-thức-tự-tánh gồm có 5 tâm trong 18 vô-nhân-tâm là
– Manodvāravajjanacitta: Ý-môn-hướng-tâm,
– Santīraṇacitta: suy-xét-tâm gồm có 3 tâm,
– Hasituppādacitta: tâm mỉm cười của bậc Thánh-A-ra-hán. 5 tâm này phát sinh do hội đủ 4 nhân-duyên:
1- Dvāra: 6 môn đó là nhãn-môn, nhĩ-môn, tỷ-môn, thiệt-môn, thân-môn, ý-môn,
2- Ārammaṇa: 6 đối-tượng (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp).
3- Hadayavatthu: Ý-sắc-căn là nơi nương nhờ của tâm để phát sinh,
4- Manasikāra: Chú tâm đến đối-tượng ấy.
Nếu khi hội đủ 4 nhân-duyên này thì mano-viññāṇadhātu có 5 tâm, mỗi tâm phát sinh tuỳ theo nhân-duyên làm phận-sự của mình.
Cho nên, 18 vô-nhân-tâm là tâm không hợp với sampayuttahetu (6 nhân hợp với tâm), nhưng mỗi vô-nhân-tâm phát sinh đều do nhân-duyên gọi là upattihetu: nhân-duyên phát sinh.
Như vậy, cakkhuviññāṇa: nhãn-thức-tâm phát sinh làm phận sự nhìn thấy đối-tượng sắc hình dáng là do hội đủ 4 nhân-duyên của nhãn-thức-tâm, nếu trường-hợp thiếu nhân-duyên nào thì nhãn-thức-tâm không thể phát sinh được.
Cũng như vậy, mỗi tâm với tâm-sở phát sinh đều do hội đủ nhân-duyên của tâm ấy. Tất cả các pháp-hữu-vi phát sinh đều do từ nhân-duyên, cho nên, tất cả các pháp-hữu-vi đều là pháp-vô-ngã (anattā), không phải là ta, không phải là người, không phải là đàn ông, không phải là đàn bà, không phải là chúng-sinh nào cả, tất cả các pháp chỉ là thật-tánh của danh-pháp hoặc sắc-pháp mà thôi.
Sở dĩ các hàng phàm-nhân thấy sai chấp lầm nơi danh-pháp hoặc sắc-pháp cho là ta, là người, là đàn ông, là đàn bà, là chúng-sinh, v.v… là vì do vô-minh (avijjā) che phủ thật-tánh của danh-pháp hoặc sắc-pháp, do tà-kiến (diṭṭhi) thấy sai chấp lầm nơi danh-pháp hoặc sắc-pháp cho là ta, là người, là đàn ông, là đàn bà, là chúng-sinh, v.v…
Như vậy, ta hoặc ngã không có thật, nên không có phương pháp diệt ngã. Tà-kiến (diṭṭhi) là một tâm-sở có thật, nên có phương pháp diệt tà-kiến.
Khi hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ dẫn đến chứng-ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu-Thánh-đạo, Nhập-lưu-Thánh-quả, và Niết-bàn, diệt-đoạn-tuyệt được 2 loại phiền-não là tà-kiến (diṭṭhi) và hoài-nghi (vicikicchā) không còn dư sót, trở thành bậc Thánh-Nhập-lưu vĩnh viễn không còn có tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi danh-pháp hoặc sắc-pháp cho là ta, ngã, là người, là đàn ông, đàn bà, là chúng-sinh nào nữa.
Bậc Thánh-Nhập-lưu đã diệt-đoạn-tuyệt được tà-kiến (diṭṭhi) và hoài-nghi (vicikicchā) có nghĩa là đã diệt-đoạn-tuyệt được 4 tham-tâm hợp với tà-kiến và 1 si-tâm hợp với hoài-nghi gồm có 5 bất-thiện-tâm, còn lại 7 bất-thiện-tâm là 4 tham-tâm không hợp với tà-kiến, 2 sân-tâm và 1 si-tâm hợp với phóng tâm chưa diệt-đoạn-tuyệt được.
Ngoài bậc Thánh-nhân ra, còn lại các hạng phàm-nhân đều có tà-kiến thấy sai chấp lầm.
Phần – 2.2
Tâm Với Tâm-Sở
Khi tâm nào phát sinh luôn luôn có một số tâm-sở tương xứng đồng sinh với tâm ấy.
* Citta: Tâm gồm có 89 hoặc 121 tâm.
* Cetasika: Tâm-sở gồm có 52 tâm-sở.
Tiếp theo sẽ trình bày 52 tâm-sở.
Trong bộ Abhidhammatthasaṅgaha: Vi-diệu-pháp-yếu-nghĩa, chương thứ nhì Cetasikasaṅgaha: Tâm-sở yếu-lược gồm có 52 tâm-sở.
Tâm-sở như thế nào?
Cetasika: Tâm-sở là 1 trong 4 chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma) citta, cetasika, rūpa, nibbāna.
Cetasika: Tâm-sở có 52 tâm luôn luôn nương nhờ nơi tâm phát sinh (cittanissitalakkhaṇaṃ).
Cetasika với citta: Tâm-sở với tâm có 4 trạng-thái
1- Ekuppāda: Đồng sinh với tâm,
2- Ekanirodha: Đồng diệt với tâm,
3- Ekālambana: Đồng đối-tượng với tâm,
4- Ekavatthuka: Đồng nơi sinh với tâm.
Như vậy, tâm với tâm-sở đồng sinh với nhau, tâm-sở luôn luôn nương nhờ nơi tâm, đồng sinh với tâm. Tâm-sở đơn phương không thể phát sinh, và tâm phát sinh không thể thiếu tâm-sở được.
Trạng-thái đặc biệt của tâm-sở chân-nghĩa-pháp có 4 pháp lakkhaṇādicatuka:
1- Cittanissitalakkhaṇaṃ có trạng-thái nương nhờ nơi tâm,
2- Aviyoguppadānarasaṃ có phận sự đồng sinh với tâm,
3- Ekālambanapaccupaṭṭhānaṃ nhận biết cùng đối-tượng với tâm là quả hiện hữu,
4- Cittuppādapadaṭṭhānaṃ sự phát sinh của tâm là nguyên-nhân gần phát sinh tâm-sở.
Tâm và tâm-sở thuộc về danh-pháp (nāma-dhamma), nên tâm với tâm-sở đồng sinh với nhau. Tâm chỉ có một trạng-thái biết đối-tượng mà thôi, tâm-sở có trạng-thái phục vụ hỗ trợ cho tâm biết đối-tượng khác nhau theo năng lực của tâm-sở.
Tuy tâm-sở có trạng-thái hỗ-trợ cho tâm biết đối-tượng như vậy, nhưng tâm vẫn là chủ, là nơi nương nhờ của tâm-sở phát sinh. Tâm với tâm-sở hợp với nhau gọi là sampayuttadhamma.
Số Lượng Tâm-Sở
Trong bộ Abhidhammatthasaṅgaha: Vi-diệu-pháp-yếu-nghĩa, chương thứ nhất Cittasaṅgaha: Tâm-yếu-lược gồm có 89 hoặc 121 tâm, đó là tính theo 4 loại tâm khác nhau, biết 6 đối-tượng khác nhau, theo 3 cõi-giới khác nhau, … nên phân chia ra có 89 hoặc 121 tâm.
Thật ra, tâm chỉ có một trạng-thái biết đối-tượng mà thôi.
* Chương thứ nhì Cetasikasaṅgaha: Tâm-sở-yếu-lược gồm có 52 tâm-sở, đó là tính theo trạng-thái riêng của mỗi tâm-sở.
tâm-sở đều có 4 pháp lakkhaṇādicatuka là lakkhaṇa: trạng-thái, rasa: phận sự, paccupaṭṭhāna:
quả hiện hữu, padaṭṭhāna: nguyên-nhân gần phát sinh tâm-sở ấy.
Cho nên, 52 tâm-sở có 52 trạng-thái riêng của mỗi tâm-sở.
Phân Chia Tâm-Sở
52 tâm-sở phân chia ra làm 3 nhóm:
1- Aññasamānācetasika: Đồng-sinh-toàn-tâm, tuỳ-tâm tâm-sở gồm có 13 tâm-sở,
2- Akusalacetasika: Bất-thiện tâm-sở gồm có 14 tâm-sở,
3- Sobhaṇacetasika: Tịnh-hảo tâm-sở gồm có 25 tâm-sở.
1- Aññasamānācetasika: Đồng-sinh toàn-tâm, tuỳ-tâm tâm-sở
Aññasamānacetasika: Đồng-sinh-toàn-tâm, tuỳ-tâm tâm-sở gồm có 13 tâm-sở chia ra 2 loại:
1- Sabbacittasādhāraṇacetasika: Đồng-sinh- toàn-tâm tâm-sở có 7 tâm-sở,
2- Pakiṇṇakacetasika: Đồng-sinh-tuỳ-tâm tâm-sở có 6 tâm-sở.
* Sabbacittasādhāraṇacetasika: Đồng-sinh-toàn-tâm tâm-sở có 7 tâm-sở:
1- Phassacetasika: Xúc tâm-sở,
2- Vedanācetasika: Thọ tâm-sở,
3- Saññācetasika: Tưởng tâm-sở,
4- Cetanācetasika: Tác-ý tâm-sở,
5- Ekaggatācetasika: Nhất-tâm tâm-sở,
6- Jīvitindriyacetasika: Danh-mạng-chủ tâm-sở,
7- Manasikāracetasika: Chú-ý tâm-sở.
Bảy tâm-sở này đồng sinh với tất cả các tâm gồm có 89 hoặc 121 tâm.
* Pakiṇṇakacetasika: Đồng-sinh tuỳ-tâm tâm-sở có 6 tâm-sở:
1- Vitakkacetasika: Hướng-tâm tâm-sở,
2- Vicāracetasika: Quan-sát tâm-sở,
3- Adhimokkhacetasika: Quyết-định tâm-sở,
4- Vīriyacetasika: Tinh-tấn tâm-sở,
5- Pīticetasika: Hỷ tâm-sở,
6- Chandacetasika: Mong-muốn tâm-sở.
Sáu tâm-sở này đồng sinh rải rác tuỳ theo các tâm hợp với nhau được.
2- Akusalacetasika: Bất-Thiện Tâm-Sở
Bất-thiện tâm-sở gồm có 14 tâm-sở đồng sinh với 12 bất-thiện-tâm, chia ra 5 nhóm:
A- Mocatukacetasika: Nhóm si có 4 tâm-sở:
1- Mohacetasika: Si tâm-sở,
2- Ahirikacetasika: Không-hổ-thẹn tâm-sở,
3- Anottappacetasika: Không-ghê-sợ tâm-sở,
4- Uddhaccacetasika: Phóng-tâm tâm-sở.
Bốn tâm-sở này đồng sinh với 12 bất-thiện-tâm.
B- Lotikacetasika: Nhóm tham có 3 tâm-sở:
1- Lobhacetasika: Tham tâm-sở,
2- Diṭṭhicetasika: Tà-kiến tâm-sở,
3- Mānacetasika: Ngã-mạn tâm-sở.
Ba tâm-sở này đồng sinh với 8 tham-tâm.
C- Dosatukacetasika: Nhóm sân có 4 tâm-sở:
1- Dosacetasika: Sân tâm-sở,
2- Issācetasika: Ganh-tỵ tâm-sở,
3- Macchariyacetasika: Keo-kiệt tâm-sở,
4- Kukkuccacetasika: Hối-hận tâm-sở.
Bốn tâm-sở này đồng sinh với 2 sân-tâm.
D- Thidukacetasika: Nhóm buồn có 2 tâm-sở:
1- Thinacetasika: Buồn-chán tâm-sở,
2- Middhacetasika: Buồn-ngủ tâm-sở.
Hai tâm-sở này đồng sinh với 5 bất-thiện-tâm cần tác-động.
Đ-Vicikicchācetasika: Nhóm nghi có 1 tâm-sở:
1- Vicikicchācetasika: Hoài-nghi tâm-sở chỉ đồng sinh với si-tâm hợp với hoài-nghi mà thôi.
3- Sobhaṇacetasika: Tịnh-hảo tâm-sở
Tịnh-hảo tâm-sở gồm có 25 tâm-sở đồng sinh với 59 hoặc 91 tịnh-hảo-tâm, chia ra 4 loại:
1- Sobhaṇasādhāraṇacetasika có 19 tâm-sở,
2- Viraticetasika có 3 tâm-sở,
3- Appamaññācetasika có 2 tâm-sở,
4- Paññindriyacetasika có 1 tâm-sở.
1– Sobhaṇasādhāraṇacetasika: Đồng-sinh toàn-tâm-tịnh-hảo tâm-sở có 19 tâm-sở:
1- Saddhācetasika: Tín tâm-sở,
2- Saticetasika: Niệm tâm-sở,
3- Hirīcetasika: Hổ-thẹn tâm-sở,
4- Ottappacetasika: Ghê-sợ tâm-sở,
5- Alobhacetasika: Vô-tham tâm-sở,
6- Adosacetasika: Vô-sân tâm-sở,
7-Tatramajjhattatācetasika:Trung-dung tâm-sở,
8- Kāyapassaddhicetasika: Tam-uẩn an-tịnh tâm-sở,
9- Cittapassaddhicetasika: Thức-uẩn an-tịnh tâm-sở,
10- Kāyalahutācetasika: Tam-uẩn nhẹ-nhàng tâm-sở,
11- Cittalahutācetasika: Thức-uẩn nhẹ-nhàng tâm-sở,
12- Kāyamudutācetasika: Tam-uẩn mềm-mại tâm-sở,
13- Cittamudutācetasika: Thức-uẩn mềm-mại tâm-sở,
14- Kāyakammaññatācetasika: Tam-uẩn uyển- chuyển tâm-sở,
15- Cittakammaññatācetasika:Thức-uẩn uyển- chuyển tâm-sở,
16- Kāyapāguññatācetasika: Tam-uẩn thuần- thục tâm-sở,
17- Cittapāguññatācetasika: Thức-uẩn thuần- thục tâm-sở,
18- Kāyujukatācetasika: Tam-uẩn ngay-thật tâm-sở,
19- Cittujukatācetasika: Thức-uẩn ngay-thật tâm-sở.
19 tâm-sở này đồng sinh với toàn 59 hoặc 91 tịnh-hảo-tâm.
2– Viraticetasika: Chế-ngự tâm-sở có 3 tâm-sở:
1- Sammāvācācetasika: Chánh-ngữ tâm-sở,
2- Sammākammantacetasika: Chánh-nghiệp tâm-sở,
3- Sammā ājīvacetasika: Chánh-mạng tâm-sở.
Ba tâm-sở này đồng sinh với 8 dục-giới đại-thiện-tâm và 8 hoặc 40 siêu-tam-giới-tâm.
3– Appamaññācetasika: Vô-lượng tâm-sở có 2 tâm-sở:
1- Karuṇācetasika: Bi tâm-sở,
2- Muditācetasika: Hỷ tâm-sở.
Hai tâm-sở này đồng sinh với 8 dục-giới đại-thiện-tâm, 8 dục-giới đại-duy-tác-tâm và đệ-nhất-thiền sắc-giới, đệ-nhị-thiền sắc-giới, đệ-tam-thiền sắc-giới, đệ-tứ-thiền sắc-giới.
4- Paññindriyacetasika có 1 tâm-sở:
1- Paññindriyacetasika: Tuệ-chủ tâm-sở đồng sinh với 12 dục-giới tịnh-hảo-tâm hợp với trí-tuệ, 15 sắc-giới-tâm, 12 vô-sắc-giới-tâm, 8 hoặc 40 siêu-tam-giới-tâm.
Giảng Giải 52 Tâm-Sở
Tâm-sở gồm có 52 tâm-sở chia 3 nhóm:
1– Aññasamānacetasika: Đồng-sinh-toàn-tâm, tuỳ-tâm tâm-sở gồm có 13 tâm-sở,
2- Akusalacetasika: Bất-thiện tâm-sở gồm có 14 tâm-sở,
3- Sobhaṇacetasika: Tịnh-hảo tâm-sở gồm có 25 tâm-sở.
1- Aññasamānacetasika gồm có 13 tâm-sở này đồng sinh với cả akusalacetasika lẫn sobhaṇacetasika.
Còn akusalacetasika không đồng sinh với sobhaṇacetasika, và sobhaṇacetasika cũng không đồng sinh với akusalacetasika.
Aññasamānacetasika gồm có 13 tâm-sở này chia ra 2 loại:
1- Sabbacittasādhāraṇacetasika: Đồng-sinh toàn-tâm tâm-sở có 7 tâm-sở,
2- Pakiṇṇakacetasika: Đồng-sinh-tuỳ-tâm tâm-sở có 6 tâm-sở.
1– Sabbacittasādhāraṇacetasika
Sabbacittasādhāraṇacetasika: Đồng-sinh- toàn-tâm tâm-sở có 7 tâm-sở đồng sinh với tất cả 89 hoặc 121 tâm. 7 tâm-sở là:
1– Phassacetasika: Xúc tâm-sở là tâm-sở tiếp xúc với đối-tượng.
Trạng-thái riêng biệt của phassacetasika có 4 pháp lakkhaṇādicatuka:
1- Phussanalakkhaṇo tiếp xúc với đối-tượng là trạng-thái của xúc tâm-sở,
2- Saṅghaṭṭanaraso liên kết 3 pháp là đối-tượng, môn, thức-tâm lại với nhau là phận sự của xúc tâm-sở,
3- Sannipātapaccupaṭṭhāno sự tụ hội lại với nhau là quả hiện hữu của xúc tâm-sở,
4- Āpātagatavisayapadaṭṭhāno tiếp cận trực tiếp với đối-tượng là nguyên-nhân gần phát sinh phassacetasika.
Phassacetasika: xúc tâm-sở có trạng-thái tiếp xúc với đối-tượng. Xúc tâm-sở thuộc về danh-pháp có phận sự liên kết đối-tượng với môn, để thức-tâm phát sinh. Ví như liên kết:
– Đối-tượng sắc tiếp xúc với nhãn-tịnh-sắc để nhãn-thức-tâm phát sinh nhìn thấy đối-tượng sắc,
– Đối-tượng thanh tiếp xúc với nhĩ-tịnh-sắc để nhĩ-thức-tâm phát sinh nghe đối-tượng thanh, v.v…
Cho nên, phassa có 6 loại: cakkhusamphassa, sotasamphassa, ghānasamphassa, jivhāsamphassa, kāyasamphassa, manosamphassa.
* Xúc tâm-sở đồng sinh với 89 hoặc 121 tâm.
2– Vedanācetasika: Thọ tâm-sở là tâm-sở cảm thọ trong đối-tượng.
Trạng-thái riêng biệt của vedanācetasika có 4 pháp lakkhaṇādicatuka:
1- Vedayitalakkhaṇā cảm thọ đối-tượng là trạng-thái của thọ tâm-sở,
2- Anubhavanarasā hưởng vị của đối-tượng là phận sự của thọ tâm-sở ,
3- Sukhadukkhapaccupaṭṭhānā cảm thọ lạc hoặc khổ là quả hiện hữu của thọ tâm-sở,
4- Phassapadaṭṭhānā có phassa là nguyên-nhân gần phát sinh vedanācetasika.
Vedanācetasika: thọ tâm-sở nhận biết hoặc cảm thọ trong đối-tượng, nếu phân loại theo cảm thọ trong đối-tượng tốt, đối-tượng xấu, đối-tượng trung bình, không tốt không xấu thì có 3 loại thọ:
1– Cảm thọ an lạc trong đối-tượng tốt gọi là sukhavedanā: thọ lạc,
2- Cảm thọ khổ trong đối-tượng xấu gọi là dukkhavedanā: thọ khổ,
3- Cảm thọ không lạc không khổ trong đối-tượng trung bình gọi là adukkhamasukha-vedanā: thọ không khổ không lạc.
Phân loại thọ có 3 loại theo đối-tượng gọi là ārammaṇānubhavanalakkhaṇanaya.
Nhưng nếu phân loại theo thân và tâm cảm thọ trong đối-tượng thì có 5 loại thọ:
* Thân có 2 loại thọ:
– Thân an lạc gọi là sukhavedanā: thọ lạc,
– Thân đau khổ gọi là dukkhavedanā: thọ khổ,
* Tâm có 3 loại thọ:
– Tâm an lạc gọi là somanassavedanā: thọ hỷ,
– Tâm đau khổ gọi là domanassavedanā: thọ ưu,
– Tâm không khổ không lạc gọi là upekkhā- vedanā: thọ xả, thọ không khổ không lạc.
Phân loại thọ có 5 loại theo thân và tâm làm chủ gọi là Indriyabhedanaya: phân loại theo thân và tâm chủ.
Vedanā có 6 loại: cakkhusamphassajāvedanā, sotasamphassajāvedanā, ghānasamphassajāvedanā, jivhāsamphassajāvedanā, kāyasamphassajāvedanā, manosamphassajāvedanā.
* Vedanācetasika: thọ tâm-sở là một uẩn gọi là vedanākkhandha: thọ-uẩn.
* Thọ tâm-sở đồng sinh với 89 hoặc 121 tâm.
3– Saññācetasika: Tưởng tâm-sở là tâm-sở tưởng nhớ trong đối-tượng.
Trạng-thái riêng biệt của saññācetasika có 4 pháp lakkhaṇādicatuka:
1- Sañjānanalakkhaṇā tưởng nhớ đối-tượng là trạng-thái của tưởng tâm-sở,
2- Paccābhiññāṇarasakā trước đã làm dấu tích, sau ghi nhớ lại là phận sự của tưởng tâm-sở,
3- Yathāgayha nimittābhinivesakaraṇapaccupaṭ-ṭhānā tưởng nhớ lại được dấu tích đã có từ trước như vậy là quả hiện hữu của tưởng tâm-sở,
4- Yathā upaṭṭhitavisayapadaṭṭhānā đối-tượng hiện hữu đúng như vậy là nguyên-nhân gần phát sinh saññācetasika.
Saññācetasika: tưởng tâm-sở ghi nhớ lại 6 đối-tượng: rūpasaññā, saddasaññā, gandhasaññā, rasasaññā, phoṭṭhabbasaññā, dhammasaññā.
* Saññācetasika: Tưởng tâm-sở là một uẩn gọi là saññākkhandha: tưởng-uẩn.
* Tưởng tâm-sở đồng sinh với 89 hoặc 121 tâm.
4– Cetanācetasika: Tác-ý tâm-sở là tâm-sở tác động tâm với tâm-sở đồng sinh tạo tác theo ý định.
Trạng-thái riêng biệt của cetanācetasika có 4 pháp lakkhaṇādicatuka:
1– Cetayitalakkhaṇā tác-động trạng-thái của tác-ý tâm-sở,
2- Āyūhanarasā cố gắng tinh-tấn tạo tác là phận sự của tác-ý tâm-sở,
3- Saṃvidhānapaccupaṭṭhānā sự sắp đặt điều hành là quả hiện hữu của tác-ý tâm-sở,
4- Sesakhandhapadaṭṭhānā 3 uẩn còn lại là thọ-uẩn, tưởng-uẩn, thức-uẩn là nguyên-nhân gần phát sinh cetanācetasika.
Cetanācetasika: tác-ý tâm-sở có trạng-thái tác-động tâm với tâm-sở đồng sinh tạo tác theo ý định.
Cetanācetasika tác-ý tâm-sở thuộc về hành-uẩn (saṅkhārakkhandha), khi hành-uẩn phát sinh thì có 3 uẩn còn lại (thọ-uẩn, tưởng-uẩn, thức-uẩn) đồng sinh với nhau.
Tác-ý tâm-sở đồng sinh với 89 hoặc 121 tâm.
* Nếu khi cetanācetasika: tác-ý tâm-sở đồng sinh với 12 bất-thiện-tâm thì tạo 12 bất-thiện-nghiệp.
* Nếu tác-ý tâm-sở đồng sinh với 8 dục-giới đại-thiện-tâm, 5 sắc-giới thiện-tâm, 4 vô-sắc-giới thiện-tâm, 4 hoặc 20 siêu-tam-giới thiện-tâm thì tạo thiện-nghiệp tuỳ theo mỗi loại tâm.
Như Đức-Phật dạy:
“Cetanā’haṃ bhikkhave, kammaṃ vadāmi,
cetayitvā kammaṃ karoti kāyena vācāya manasā,([1][2])
– Này chư tỳ-khưu! Sau khi đã có tác-ý rồi tạo nghiệp bằng thân, bằng khẩu, bằng ý. Vì vậy, Như-lai dạy: “tác-ý gọi là nghiệp.”
5– Ekaggatācetasika: Nhất-tâm tâm-sở là tâm-sở định-tâm trong đối-tượng.
Trạng-thái riêng biệt của ekaggatācetasika có 4 pháp lakkhaṇādicatuka:
1- Avisāralakkhaṇā định-tâm trong đối-tượng là trạng-thái của nhất-tâm tâm-sở,
2- Sampiṇḍanarasā gom các pháp tâm với tâm-sở đồng sinh là phận sự của nhất-tâm tâm-sở,
3- Upasamapaccupaṭṭhānā sự an tịnh là quả hiện hữu của nhất-tâm tâm-sở,
4- Sukhapadaṭṭhānā thọ lạc là nguyên-nhân gần phát sinh ekaggatācetasika.
Ekaggatācetasika: nhất-tâm tâm-sở đồng sinh với dục-giới-tâm, thì định-tâm trong 6 đối-tượng.
* Nếu khi nhất-tâm tâm-sở đồng sinh với sắc-giới-tâm, vô-sắc-giới-tâm, thì chỉ có một đối-tượng-thiền-định duy nhất mà thôi.
* Khi nhất-tâm tâm-sở đồng sinh với siêu-tam-giới-tâm thì chỉ có đối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới mà thôi.
* Nhất-tâm tâm-sở đồng sinh với 89 hoặc121 tâm
6– Jīvitindriyacetasika: Danh-mạng-chủ tâm-sở là tâm-sở giữ gìn, bảo hộ tâm với tâm-sở đồng sinh được duy trì mãi mãi.
Trạng-thái riêng biệt của jīvitindriyacetasika có 4 pháp lakkhaṇādicatuka:
1- Sahajātānaṃ anupālanalakkhaṇaṃ giữ gìn, bảo hộ các danh-pháp, sắc-pháp đồng sinh là trạng-thái của danh-mạng-chủ tâm-sở,
2- Sahajātānaṃ pavattanarasaṃ giữ gìn và tiến triển các danh-pháp, sắc-pháp đồng sinh là phận sự của danh-mạng-chủ tâm-sở,
3- Sahajātānaṃ thapanapaccupaṭṭhānaṃ duy trì được các danh-pháp, sắc-pháp đồng sinh là quả hiện hữu của danh-mạng-chủ tâm-sở,
4- Yāpetabbapadaṭṭhānaṃ giữ gìn, nuôi dưỡng sinh mạng là nguyên-nhân gần phát sinh jīvitindriyacetasika.
Jīvitindriyacetasika: danh-mạng-chủ tâm-sở có phận sự giữ gìn, bảo hộ các pháp tâm với tâm-sở đồng sinh được duy trì mãi.
* Danh-mạng-chủ tâm-sở đồng sinh với 89 hoặc 121 tâm.
7- Manasikāracetasika: Chú-ý tâm-sở là tâm-sở kết nối tâm và tâm-sở với đối-tượng. Ví như khi đối-tượng sắc tiếp xúc với nhãn-tịnh-sắc, nên cakkhuviññāṇa: nhãn-thức-tâm phát sinh có chú-ý tâm-sở đồng sinh với nhãn-thức-tâm ấy, v.v…
Trạng-thái riêng biệt của manasikāracetasika có 4 pháp lakkhaṇādicatuka:
1- Sāraṇalakkhaṇo làm cho tâm với tâm-sở đồng sinh chú ý đến đối-tượng là trạng-thái của chú-ý tâm-sở,
2- Sampayojanaraso kết nối tâm và tâm-sở đồng sinh với đối-tượng là phận sự của chú-ý tâm-sở,
3- Ālambābhimukhībhāvapaccupaṭṭhāno làm cho tâm và tâm-sở đồng sinh luôn luôn hướng trực tiếp đến đối-tượng là quả hiện hữu của chú-ý tâm-sở,
4- Ālambāṇapadaṭṭhāno đối-tượng (quá-khứ, hiện-tại, vị-lai, ngoài 3 thời) là nguyên-nhân gần phát sinh manasikāracetasika.
* Chú–ý tâm-sở đồng sinh với 89 hoặc 121 tâm.
Như vậy, 7 tâm-sở này đều đồng sinh với tất cả 89 hoặc 121 tâm cả thảy, không ngoại trừ tâm nào.
2- Pakiṇṇakacetasika
Pakiṇṇakacetasika: Đồng-sinh-tuỳ-tâm tâm-sở có 6 tâm-sở. Tâm-sở này đồng sinh với tâm thích hợp và không đồng sinh với tâm không thích hợp rải rác trong bất-thiện-tâm, thiện-tâm, quả-tâm, duy-tác-tâm, bất-tịnh-hảo-tâm, tịnh-hảo-tâm, tam-giới-tâm, siêu-tam-giới-tâm.
Pakiṇṇakacetasika đồng-sinh-tuỳ-tâm tâm-sở không phải đồng sinh toàn tâm như sabbacitta-sādhāraṇacetasika.
Pakiṇṇakacetasika: đồng-sinh-tuỳ-tâm tâm-sở có 6 tâm-sở như sau:
1- Vitakkacetasika: Hướng-tâm tâm-sở là tâm-sở hướng-tâm đến đối-tượng, nghĩa là tâm-sở này cùng với tâm và tâm-sở suy tưởng trong đối-tượng. Trạng-thái riêng biệt của vitakkacetasika có 4 pháp lakkhaṇādicatuka:
1- Abhiniropanalakkhaṇo hướng tâm suy xét đến đối-tượng là trạng-thái của hướng-tâm tâm-sở,
2- Āhanappariyāhanaraso làm cho tâm tiếp xúc nơi đối-tượng là phận sự của hướng-tâm tâm-sở,
3- Ānayapaccupaṭṭhāno dẫn tâm trú trong đối-tượng là quả hiện hữu của hướng-tâm tâm-sở,
4– Sesakhandhapadaṭṭhāno([2][3]) 3 uẩn còn lại (thọ-uẩn, tưởng-uẩn, hành-uẩn) là nguyên-nhân gần phát sinh vitakkacetasika.
* Vitakkacetasika: hướng-tâm tâm-sở có trạng-thái hướng tâm đến 6 đối-tượng (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp).
Vitakka Có Trong Các Pháp
* Vitakka có trong 3 tà-tư-duy:
– Kāmavitakka: tư-duy trong ngũ-dục (sắc-dục,
thanh-dục, hương-dục, vị-dục, xúc-dục),
– Byāpādavitakka: tư-duy làm khổ người,
– Vihiṃsavitakka: tư-duy làm hại người.
* Vitakka có trong 3 chánh-tư-duy:
– Nekkhammavitakka: tư-duy thoát ra khỏi ngũ-dục,
– Abyāpādavitakka: tư-duy không làm khổ người
– Avihiṃsavitakka: tư-duy không làm hại người.
* Vitakkacetasika: hướng-tâm tâm-sở là 1 trong 5 chi thiền (jhānaṅga) của đệ-nhất-thiền sắc-giới-tâm, có đối-tượng thiền-định.
* Vitakkacetasika: hướng-tâm tâm-sở đồng sinh với 55 tâm:
– 12 bất-thiện-tâm,
– 8 vô-nhân-tâm (trừ 10 thức-tâm),
– 24 dục-giới tịnh-hảo-tâm,
– 3 đệ-nhất-thiền sắc-giới-tâm,
– 8 đệ-nhất-thiền siêu-tam-giới-tâm,
gồm có 55 tâm.
* Vitakkacetasika: hướng-tâm tâm-sở không sinh trong 66 tâm:
– 10 thức-tâm thuộc về vô-nhân-tâm, bởi vì đối-tượng rõ ràng,
-3 đệ-nhị-thiền, 3 đệ-tam-thiền, 3 đệ-tứ-thiền, 3 đệ-ngũ-thiền sắc-giới-tâm, bởi vì vitakka là chi thiền thô,
– 12 vô-sắc-giới-tâm,
– 8 đệ-nhị-thiền, 8 đệ-tam, 8 đệ-tứ, 8 đệ-ngũ- thiền siêu-tam-giới-tâm.
2– Vicāracetasika: Quan-sát tâm-sở là tâm-sở quan-sát nơi đối-tượng, nghĩa là tâm-sở này cùng với tâm và tâm-sở đồng sinh quan-sát nơi đối-tượng.
Trạng-thái riêng biệt của vicāracetasika có 4 pháp lakkhaṇādicatuka:
1- Anumajjanalakkhaṇo dõi theo quan-sát nơi đối-tượng là trạng-thái của quan-sát tâm-sở,
2- Sahajātānuyojanaraso làm cho các pháp đồng sinh cùng hợp nơi đối-tượng là phận sự của quan-sát tâm-sở,
3- Anuppabandhapaccupaṭṭhāno gắn bó tâm với tâm-sở nơi đối-tượng là quả hiện hữu của quan-sát tâm-sở,
4- Sesakhandhattayapadaṭṭhāno 3 uẩn còn lại (thọ-uẩn, tưởng-uẩn, hành-uẩn) là nguyên-nhân gần phát sinh vicāracetasika.
* Vicāracetasika: quan-sát tâm-sở có trạng-thái quan-sát nơi 6 đối-tượng (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp).
* Vicāracetasika: quan-sát tâm-sở là 1 trong 5 chi thiền (jhānaṅga) của đệ-nhất và đệ-nhị-thiền sắc-giới-tâm có đối-tượng-thiền-định.
* Vicāracetasika: quan-sát tâm-sở đồng sinh với 66 tâm:
– 12 bất-thiện-tâm,
– 8 vô-nhân-tâm (trừ 10 thức-tâm),
– 24 dục-giới tịnh-hảo-tâm,
– 3 đệ-nhất-thiền, 3 đệ-nhị-thiền sắc-giới-tâm,
– 8 đệ-nhất-thiền, 8 đệ-nhị-thiền siêu-tam-giới-tâm, gồm có 55 tâm.
* Vicāracetasika: quan-sát tâm-sở không sinh trong 55 tâm:
– 10 thức-tâm thuộc về vô-nhân-tâm,
– 3 đệ-tam-thiền, 3 đệ-tứ-thiền, 3 đệ-ngũ-thiền sắc-giới-tâm, bởi vì vicāra là chi thiền thô,
– 12 vô-sắc-giới-tâm,
– 8 đệ-tam-thiền, 8 đệ-tứ-thiền, 8 đệ-ngũ-thiền siêu-tam-giới-tâm.
* Vitakka và vicāra là 2 chi thiền, mỗi chi-thiền có tính chất thô và vi-tế được ví dụ như sau:
Đánh chuông phát ra tiếng chuông đầu tiên thô, ví như vitakka, tiếp theo tiếng chuông ngân vi-tế, ví như vicāra.
3– Adhimokkhacetasika: Quyết-định tâm-sở là tâm-sở không hoài nghi, quyết-định tuyệt đối trong đối-tượng, dù đối-tượng tốt hoặc xấu, hành ác hoặc hành thiện, cũng quyết-định được do năng lực của adhimokkhacetasika.
Trạng-thái riêng biệt của adhimokkhacetasika có 4 pháp lakkhaṇādicatuka:
1- Sanniṭṭhhānalakkhaṇo quyết-định tuyệt đối là trạng-thái của quyết-định tâm-sở,
2– Asaṃsappanaraso quyết tâm không lay chuyển trong đối-tượng là phận sự của quyết-định tâm-sở,
3- Vinicchayapaccupaṭṭhāno sự quyết-định chắc chắn là quả hiện hữu của quyết-định tâm-sở,
4- Sanniṭṭheyyapadaṭṭhāno pháp nên quyết-định là nguyên-nhân gần phát sinh adhimokkhacetasika.
Trong bộ Visuddhimagga, adhimokkha nghĩa là quyết tâm tin tưởng. Adhimokkha này ngược lại với hoài-nghi, bởi vì vicikicchā có trạng-thái nghi ngờ trong đối-tượng, còn adhimokkha quyết tâm tin tưởng trong đối-tượng.
* Adhimokkhacetasika: quyết-định tâm-sở đồng sinh với 78 hoặc 110 tâm:
-11 bất-thiện-tâm (trừ si-tâm hợp với hoài-nghi),
– 8 vô-nhân-tâm (trừ 10 thức-tâm),
– 24 dục-giới tịnh-hảo-tâm,
– 15 sắc-giới-tâm,
– 12 vô-sắc-giới-tâm,
– 8 hoặc 40 siêu-tam-giới-tâm, gồm có 78 hoặc 110 tâm.
*Adhimokkhacetasika: quyết-định tâm-sở không đồng sinh với 11 tâm:
– 1 Si-tâm hợp với hoài-nghi,
– 10 thức-tâm thuộc về vô-nhân-tâm.
4- Vīriyacetasika: Tinh-tấn tâm-sở là tâm-sở cố gắng tinh-tấn không ngừng theo đối-tượng, nghĩa là kiên trì chịu đựng mọi sự khó khăn, không thoái chí nản lòng trong công việc thiện hoặc bất thiện,
Trạng-thái riêng biệt của vīriyacetasika có 4 pháp lakkhaṇādicatuka:
1- Ussāhalakkhaṇaṃ kiên trì chịu đựng mọi sự khó khăn là trạng-thái của tinh-tấn tâm-sở,
2- Upathambhanarasaṃ hỗ-trợ các pháp tâm với tâm-sở đồng sinh tinh-tấn, không thoái chí nản lòng là phận sự của tinh-tấn tâm-sở,
3- Asaṃsīdanapaccupaṭṭhānaṃ không thoái chí nản lòng là quả hiện hữu của tinh-tấn tâm-sở,
4- Saṃvegapadaṭṭhānaṃ có sự động tâm do 8 pháp động tâm (sinh, lão, bệnh, tử, khổ trong cõi ác-giới, khổ tử sinh luân hồi trong thời quá-khứ, khổ tử sinh luân hồi trong thời vị-lai, khổ trong kiếp-hiện-tại) là nguyên-nhân gần phát sinh vīriyacetasika.
* Vīriyacetasika: tinh-tấn tâm-sở đồng sinh
với 73 hoặc 105 tâm:
– 12 bất-thiện-tâm,
– Ý-môn-hướng-tâm,
– Tâm mỉm cười của bậc Thánh-A-ra-hán,
– 24 dục-giới tịnh-hảo-tâm,
– 15 sắc-giới-tâm,
– 12 vô-sắc-giới-tâm,
– 8 hoặc 40 siêu-tam-giới-tâm, gồm có 73 hoặc 105 tâm.
* Vīriyacetasika: tinh-tấn tâm-sở không đồng sinh với 16 tâm:
– 16 vô-nhân-tâm (trừ ý-môn-hướng-tâm và tâm mỉm cười của bậc Thánh-A-ra-hán).
5– Pīticetasika: Hỷ tâm-sở là tâm-sở hoan-hỷ trong đối-tượng.
Trạng-thái riêng biệt của pīticetasika có 4 pháp lakkhaṇādicatuka:
1- Sampiyāyanalakkhaṇā hoan-hỷ trong đối-tượng là trạng-thái của hỷ tâm-sở,
2- Kāyacittapīṇanarasā làm cho thân và tâm an lạc sung sướng là phận sự của hỷ tâm-sở,
3– Odagyapaccupaṭṭhānā cảm giác vui mừng khôn xiết là quả hiện hữu của hỷ tâm-sở,
4- Sesakhandhapadaṭṭhāno có 3 uẩn còn lại (thọ-uẩn, tưởng-uẩn, hành-uẩn) là nguyên-nhân gần phát sinh pīticetasika.
Người nào khi pīti hỷ phát sinh, người ấy có cảm giác vui mừng, mặt mày hớn hở, thân và tâm an lạc, không cảm giác mệt mỏi, đó là trạng-thái của pīti hỷ. Cho nên, pīticetasika phát sinh cần phải nương nhờ thọ-uẩn, tưởng-uẩn, thức-uẩn là nguyên-nhân gần.
Pīticetasika phát sinh chỉ nương nhờ sukha-vedanā: thọ lạc mà thôi, cho nên pīti và sukha có trạng-thái khác nhau. Tuy nhiên pīti phát sinh nơi nào, sukha cũng phát sinh nơi ấy, nhưng sukha phát sinh nơi nào, pīti có thể không phát sinh nơi ấy. Pīticetasika có trạng-thái tương tự như somanassavedanā (thọ hỷ), nhưng pīti-cetasika không giống somanassavedanā, bởi vì pīticetasika thuộc về hành-uẩn, còn thọ lạc (sukhavedanā) là thọ-uẩn.
Pīticetasika có 5 loại:
1-Khuddakāpīti: Hỷ chút ít cảm giác nổi da gà,
2- Khaṇikāpīti: Hỷ mỗi sát-na cảm nhận như tia chớp,
3- Okkantikāpīti: Hỷ có trạng-thái rung người qua lại như ngồi trên thuyền có sóng nhấp nhô,
4- Ubbegāpīti: Hỷ có trạng-thái làm cho thân tâm nhẹ nhàng bay bổng lên,
5- Pharaṇāpīti: Hỷ có trạng-thái toả khắp toàn thân, tâm an lạc trong thời gian lâu.
* Pīti là 1 trong chi thiền sắc-giới-tâm.
*Pīticetasika: hỷ tâm-sở đồng sinh với 51 tâm:
– 4 tham-tâm đồng sinh với hỷ,
– 1 suy-xét-tâm đồng sinh với hỷ,
– 1 tâm mỉm cười của bậc Thánh-A-ra-hán,
– 12 dục-giới tịnh-hảo-tâm đồng sinh với hỷ,
– 3 đệ-nhất-thiền, 3 đệ-nhị-thiền, 3 đệ-tam-thiền sắc-giới-tâm,
– 8 đệ-nhất-thiền, 8 đệ-nhị-thiền, 8 đệ-tam-thiền
siêu-tam-giới-tâm. gồm có 51 tâm.
* Pīticetasika: hỷ tâm-sở không đồng sinh với 70 tâm:
– 4 tham-tâm đồng sinh với xả,
– 2 sân-tâm,
– 2 si-tâm,
– 14 vô-nhân-tâm đồng sinh với xả,
– 2 thân-thức-tâm,
– 12 dục-giới tịnh-hảo-tâm đồng sinh với xả,
– 3 đệ-tứ-thiền, 3 đệ-ngũ-thiền sắc-giới-tâm,
– 12 vô-sắc-giới-tâm,
–8 đệ-tứ-thiền, 8 đệ-ngũ-thiền siêu-tam-giới-tâm.
6- Chandacetasika: Mong-muốn tâm-sở là tâm-sở mong muốn trong đối-tượng.
Trạng-thái riêng biệt của chandacetasika có 4 pháp lakkhaṇādicatuka:
1-Kattukamyatālakkhaṇo mong muốn biết đối-tượng là trạng-thái của mong-muốn tâm-sở,
2– Ārammaṇapariyesanaraso tìm kiếm đối-tượng là phận sự của mong-muốn tâm-sở,
3- Atthikyapaccupaṭṭhāno sự mong muốn nơi đối-tượng là quả hiện hữu của mong-muốn tâm-sở,
4- Ālambanapadaṭṭhāno đối-tượng là nguyên–nhân gần phát sinh chandacetasika.
Chandacetasika mong-muốn tâm-sở có trạng-thái mong muốn để biết đối-tượng. Ví như
– Momg muốn có đối-tượng sắc để thấy,
– Momg muốn có đối-tượng thanh để nghe,
– Momg muốn có đối-tượng hương để ngửi,
– Momg muốn có đối-tượng vị để nếm, v.v…
Nếu mong muốn đối-tượng nào thì tìm kiếm đối-tượng ấy, để thưởng thức đối-tượng theo tâm mong muốn của mình.
Chandacetasika: mong-muốn tâm-sở với lobhacetasika: tham tâm-sở có trạng-thái mong muốn nơi đối-tượng gần tương tự nhau, nhưng sự mong muốn đối-tượng của chandacetasika khác với sự mong muốn đối-tượng của lobhacetasika.
Sự mong muốn của chandacetasika không chấp thủ trong đối-tượng, còn sự mong muốn của lobhacetasika chấp thủ trong đối-tượng.
Ví dụ: Hai người: một người mong muốn dùng món ăn ngon với lobhacetasika, dùng xong phát sinh tham-tâm chấp thủ trong vị ngon.
Một người mong muốn dùng món thuốc trị bệnh với chandacetasika, khi hết bệnh, không phát sinh tâm chấp thủ trong món thuốc ấy nữa.
* Chandacetasika: mong-muốn tâm-sở đồng sinh với 69 hoặc 101 tâm:
– 10 bất-thiện-tâm (trừ 2 si-tâm),
– 24 dục-giới tịnh-hảo-tâm,
– 15 sắc-giới-tâm,
– 12 vô-sắc-giới-tâm,
– 8 hoặc 40 siêu-tam-giới-tâm, gồm có 69 hoặc 101 tâm.
* Chandacetasika: mong-muốn tâm-sở không đồng sinh với 20 tâm:
– 2 si-tâm,
– 18 vô-nhân-tâm.
* Pakiṇṇakacetasika đồng-sinh tuỳ-tâm tâm-sở có 6 tâm-sở: vitakkacetasika, vicāracetasika, adhimokkhacetasika, vīriyacetasika, pīticetasika, chandacetasika là tâm-sở đồng sinh rải rác tuỳ tâm nào thích hợp, không đồng sinh với tâm không thích hợp.
2- Akusalacetasika: Bất-thiện tâm-sở
Akusalacetasika: bất-thiện tâm-sở là loại tâm-sở ác, khi đồng sinh với tâm nào thì làm cho tâm ấy ô nhiễm, nóng nảy, tâm ấy trở thành bất-thiện-tâm.
Akusalacetasika: bất-thiện tâm-sở có 14 tâm- sở chỉ đồng sinh với 12 bất-thiện-tâm mà thôi, không đồng sinh với tâm nào khác như 18 vô-nhân-tâm, 59 hoặc 91 tịnh-hảo-tâm.
Akusalacetasika: bất-thiện tâm-sở có 14 tâm-sở chia ra làm 5 nhóm:
1– Mocatukacetasika: Nhóm si có 4 tâm-sở:
1- Mohacetasika: si tâm-sở,
2- Ahirikacetasika: không hổ-thẹn tâm-sở,
3- Anottappacetasika: không ghê-sợ tâm-sở,
4- Uddhaccacetasika: phóng-tâm tâm-sở.
2- Lotikacetasika: Nhóm tham có 3 tâm-sở:
1- Lobhacetasika: tham tâm-sở,
2- Diṭṭhicetasika: tà-kiến tâm-sở,
3- Mānacetasika: ngã-mạn tâm-sở.
3- Docatukacetasika: Nhóm sân có 4 tâm-sở:
1- Dosacetasika: sân tâm-sở,
2- Issācetasika: ganh-tỵ tâm-sở,
3- Macchariyacetasika: keo-kiệt tâm-sở,
4- Kukkuccacetasika: hối-hận tâm-sở.
4- Thidukacetasika: Nhóm buồn có 2 tâm-sở:
1- Thinacetasika: buồn-chán tâm-sở,
2- Middhacetasika: buồn-ngủ tâm-sở.
5-Vicikicchācetasika:Nhóm vicikicchā 1 tâm-sở
1- Vicikicchācetasika: hoài-nghi tâm-sở.
Giảng Giải 14 Bất-Thiện-Tâm-Sở
1– Mocatukacetasika: Nhóm si có 4 tâm-sở: mohacetasika, ahirikacetasika, anottappacetasika, uddhaccacetasika, thì mohacetasika: si tâm-sở là gốc dẫn đầu, đều đồng sinh với 12 bất-thiện-tâm .
1- Mohacetasika: Si tâm-sở là tâm-sở si-mê không biết rõ thật-tánh của các pháp đúng theo chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma).
Trạng-thái riêng của mohacetasika có 4 pháp lakkhaṇādicatuka:
1- Añāṇalakkhaṇo không biết thật-tánh của các pháp chân-nghĩa-pháp là trạng-thái của si tâm-sở,
2- Ālambasabhāvacchādaraso làm che phủ thật-tánh của các đối-tượng là phận sự của si tâm-sở,
3- Andhakārapaccupaṭṭhāno tính chất làm tối tăm là quả hiện hữu của si tâm-sở,
4- Ayonisomanasikārapadaṭṭhāno si-mê hiểu biết trong tâm không đúng theo thật-tánh của các
pháp là nhân-duyên gần phát sinh mohacetasika:
Mohacetasika: si tâm-sở này goi là avijjā: vô minh trái nghĩa với vijjā: minh đó là paññā: trí-
tuệ tâm-sở.
Mohacetasika: si tâm-sở là si-mê không biết, không có nghĩa là không biết gì cả, nhưng sự thật chỉ không biết thật-tánh của các pháp đúng theo paramatthadhamma:chân-nghĩa-pháp mà thôi. Cho nên, mohacetasika: si tâm-sở hoặc avijjā: vô-minh quy định chỉ không biết 8 pháp:
1- Dukkhe añāṇaṃ: không biết Khổ-đế,
2- Dukkhasamudaye añāṇaṃ: không biết Nhân-sinh-Khổ-đế,
3- Dukkhanirodhe añāṇaṃ: không biết Diệt-Khổ-đế,
4- Dukkhanirodhagāminīpaṭipadā añāṇaṃ: không biết Pháp-hành-dẫn-đến-diệt-Khổ-đế,
5- Pubbante añāṇaṃ: không biết ngũ-uẩn, 12 xứ, 18 tự-tánh đã sinh trong kiếp quá-khứ,
6- Aprante añāṇaṃ: không biết ngũ-uẩn, 12 xứ, 18 tự-tánh sẽ sinh trong kiếp vị-lai,
7- Pubbantāprante añāṇaṃ: không biết ngũ-uẩn, 12 xứ, 18 tự-tánh đã sinh trong kiếp quá-khứ và sẽ sinh trong kiếp vị-lai,
8- Idappaccayatā paṭiccasamuppannesu dham-mesu añāṇaṃ: không biết các pháp nhân quả liên hoàn theo thập-nhị-duyên-sinh.
Mohacetasika: si tâm-sở là nguồn gốc của mọi bất-thiện-pháp (ác-pháp).
*Mohacetasika: si tâm-sở đồng sinh với 12 bất-thiện-tâm, không đồng sinh với 77 tâm còn lại.
2– Ahirikacetasika: Không hổ-thẹn tâm-sở là tâm-sở tự mình không biết hổ-thẹn tội lỗi, khi thân hành điều ác, khẩu nói điều ác, ý nghĩ điều ác.
Trạng-thái riêng của ahirikacetasika có 4 pháp lakkhaṇādicatuka:
1- Ajigucchanalakkhaṇā (vā) alajjālakkhaṇā không chán ghét thân hành ác, v.v… hoặc không biết hổ-thẹn tội lỗi là trạng-thái của không hổ-thẹn tâm-sở,
2- Pāpānaṃ karaṇarasā làm mọi tội lỗi là phận sự của không hổ-thẹn tâm-sở,
3- Asaṅkocanapaccupaṭṭhānā không lùi bước trước mọi ác-pháp là quả hiện hữu của không hổ-thẹn tâm-sở,
4- Atta agāravapadaṭṭhānā không biết tự trọng (tự khinh thường mình) là nhân-duyên gần phát sinh ahirikacetasika.
* Ahirikacetasika là tâm-sở không biết hổ-thẹn tội lỗi phát sinh, nên thân hành điều ác, khẩu nói điều ác, ý nghĩ điều ác, do không có tính tự trọng.
* Ahirikacetasika đồng sinh với 12 bất-thiện-tâm, không đồng sinh với 77 tâm còn lại.
3- Anottappacetasika: Không ghê-sợ tâm-sở là tâm-sở không biết ghê-sợ tội lỗi, khi thân hành điều ác, khẩu nói điều ác, ý nghĩ điều ác.
Trạng-thái riêng của anottappacetasika có 4 pháp lakkhaṇādicatuka:
1- Asārajjalakkhaṇā (vā) anuttāsalakkhaṇā không biết sợ khi thân hành ác, v.v… hoặc có trạng-thái không biết sợ tội lỗi là trạng-thái của không ghê-sợ tâm-sở,
2- Pāpānaṃ karaṇarasā làm mọi tội lỗi là phận sự của không ghê-sợ tâm-sở,
3- Asaṅkocanapaccupaṭṭhānā không lùi bước trước mọi ác-pháp là quả hiện hữu của không ghê-sợ tâm-sở,
4- Para agāravapadaṭṭhānā không biết kính trọng người khác, (không sợ bậc thiện-trí chê trách) là nhân-duyên gần phát sinh anottappa-cetasika.
* Anottappacetasika: không biết ghê-sợ tội lỗi tâm-sở phát sinh, nên thân hành điều ác, khẩu nói điều ác, ý nghĩ điều ác, do không biết kính trọng người khác, không sợ bậc thiện-trí chê trách, không biết sợ sa đoạ 4 cõi ác-giới: cõi địa-ngục, cõi a-su-ra, cõi ngạ-quỷ, loài súc-sinh,
* Anottappacetasika đồng sinh với 12 bất-thiện-tâm, không đồng sinh với 77 tâm còn lại.
Ahirikacetasika và anottappacetasika là 2 tâm-sở có nhiều pháp tương tự nhau, nhưng tính chất riêng của mỗi tâm-sở khác nhau như ahirikacetasika là tâm-sở không có tính tự trọng, nên dám làm mọi ác-pháp; còn anottappa- cetasika là tâm-sở không biết kính trọng người khác, không sợ bậc thiện-trí chê trách, không biết
sợ trong 4 cõi ác-giới, nên dám làm mọi ác-pháp.
Ahirikacetasika và anottappacetasika là 2 tâm-sở có nhiều năng lực trong sự tạo mọi ác-pháp.
4- Uddhaccacetasika: Phóng-tâm tâm-sở là tâm-sở không yên tịnh, bị động phóng-tâm theo đối-tượng.
Trạng-thái riêng của uddhaccacetasika có 4 pháp lakkhaṇādicatuka:
1- Avūpasamalakkhaṇaṃ không an tịnh là trạng-thái của phóng-tâm tâm-sở,
2- Anavaṭṭhānarasaṃ không trụ trong một đối-tượng nào duy nhất là phận sự của phóng-tâm tâm-sở,
3- Bhantabhāvapaccupaṭṭhānaṃ phóng tâm các đối-tượng là quả hiện hữu của phóng-tâm tâm-sở,
4- Ayonisomanasikārapadaṭṭhānaṃ si-mê, hiểu biết trong tâm không đúng theo thật-tánh của các pháp là nhân-duyên gần phát sinh uddhaccacetasika.
* Uddhaccacetasika: phóng-tâm tâm-sở là 1 trong 4 tâm-sở (mohacetasika, ahirikacetasika, anottappacetasika, uddhaccacetasika) đồng sinh với tất cả 12 bất-thiện-tâm.
* Ekaggatācetasika: nhất-tâm tâm-sở là 1 trong 7 tâm-sở đồng sinh với tất cả 89 hoặc 121 tâm.
Như vậy, 2 tâm-sở: phóng-tâm tâm-sở và nhất-tâm tâm-sở đều đồng sinh với 12 bất-thiện-tâm, nhưng 2 tâm-sở này có trạng-thái trái ngược nhau.
Vậy, nên hiểu như thế nào?
Theo trạng-thái của tâm với tâm-sở sinh rồi diệt liên tục không ngừng, mỗi tâm với tâm-sở chỉ có tiếp nhận một đối-tượng mà thôi.
* Uddhaccacetasika: phóng-tâm tâm-sở chỉ đồng sinh với 12 bất-thiện-tâm mà thôi, khi mỗi bất-thiện-tâm phát sinh tiếp nhận đối-tượng không vững vàng, bởi vì do năng lực của phóng-tâm tâm-sở.
* Ekaggatācetasika: nhất-tâm tâm-sở đồng sinh với tất cả 89 hoặc 121 tâm, có trạng-thái định tâm trong đối-tượng.
Tuy nhất-tâm tâm-sở có trạng-thái định tâm trong đối-tượng như vậy, nhưng khi nhất-tâm tâm-sở đồng sinh với 12 bất-thiện-tâm thì nhất-tâm tâm-sở bị suy giảm, do năng lực của phóng-tâm tâm-sở, cho nên nhất-tâm tâm-sở đồng sinh với mỗi bất-thiện-tâm, có định tâm suy yếu trong mỗi đối-tượng.
Khi ekaggatācetasika: nhất-tâm tâm-sở đồng sinh với thiện-tâm càng cao thì định-tâm càng có nhiều năng lực.
Thật vậy, nếu nhất-tâm tâm-sở đồng sinh với 5 sắc-giới thiện-tâm, hoặc 4 vô-sắc-giới thiện-tâm, hoặc 4 hoặc 20 siêu-tam-giới thiện-tâm thì định tâm có nhiều năng lực phi thường.
* Uddhaccacetasika: phóng-tâm tâm-sở đồng sinh với tất cả 12 bất-thiện-tâm, hoàn toàn bị động, bởi vì phóng tâm luôn luôn thay đổi đối-tượng, tiếp nhận không vững vàng trong đối-tượng, do năng lực của phóng-tâm tâm-sở, nên tạo 12 bất-thiện-nghiệp yếu.
Thật vậy, trong 12 bất-thiện-nghiệp, chỉ có 11 bất-thiện-nghiệp, (trừ 1 bất-thiện-nghiệp trong si-tâm hợp với phóng-tâm) có khả năng cho quả tái-sinh kiếp sau trong 4 cõi ác-giới: cõi địa-ngục
cõi a-su-ra, cõi ngạ-quỷ, loài súc-sinh.
Còn bất-thiện-nghiệp trong si-tâm hợp với phóng-tâm có năng lực yếu không có đủ khả năng cho quả thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) mà chỉ có khả năng cho quả sau thời-kỳ tái-sinh (pavattikāla) mà thôi.
* Uddhaccacetasika: phóng-tâm tâm-sở đồng sinh với 12 bất-thiện-tâm, không đồng sinh với 77 tâm còn lại.
2- Lotikacetasika: Nhóm tham có 3 tâm-sở: lobhacetasika, diṭṭhicetasika, mānacetasika, có lobhacetasika là gốc dẫn đầu, chỉ đồng sinh với 8 tham-tâm mà thôi, tuỳ theo mỗi tâm-sở.
1- Lobhacetasika: Tham tâm-sở là tâm-sở tham muốn, chấp thủ trong đối-tượng.
Trạng-thái riêng của lobhacetasika có 4 pháp lakkhaṇādicatuka:
1- Ālambaggahalakkhaṇo chấp thủ trong đối-tượng là trạng-thái của tham tâm-sở,
2- Abhisaṅgaraso giữ chặt trong đối-tượng là phận sự của tham tâm-sở,
3- Apariccāgapaccupaṭṭhāno không buông bỏ đối-tượng là quả hiện hữu của tham tâm-sở,
4- Saṃyojanīyadhammesu assādikkhapadaṭṭhāno
tà-kiến thấy hài lòng trong các pháp ràng buộc là nhân-duyên gần phát sinh lobhacetasika.
Trong bộ Paramatthadīpanīṭīkā trình bày 10 danh-từ đồng nghĩa với lobha như sau:
1- Taṇhā: tham-ái,
2- Rāga: yêu thương,
3- Kāma: ham muốn,
4- Nandi: hoan-hỷ,
5- Abhijjhā: tham muốn,
6- Janetti: sinh mọi phiền-não,
7- Ponobbhavika: dẫn dắt tái-sinh kiếp sau,
8- Icchā: nguyện vọng,
9- Āsā: hy vọng,
10- Saṃyojana: ràng buộc.
* Lobhacetasika: Tham tâm-sở đồng sinh với 8 tham tâm, không đồng sinh với 81 tâm còn lại.
2- Diṭṭhicetasika: tà-kiến tâm-sở là tâm-sở thấy sai chấp lầm nơi các đối-tượng, không đúng theo thật-tánh của các pháp.
Tà-kiến tâm-sở là hoàn toàn trái ngược với trí-tuệ tâm-sở thấy rõ biết rõ thật-tánh của các pháp.
Trạng-thái riêng của diṭṭhicetasika có 4 pháp lakkhaṇādicatuka:
1- Abhinivesalakkhaṇā chấp thủ do tâm si-mê là trạng-thái của tà-kiến tâm-sở,
2- Parāmāsarasā chấp thủ sai lầm trái ngược với thật-tánh là phận sự của tà-kiến tâm-sở,
3- Micchābhinivesapaccupaṭṭhānā chấp thủ với tà-kiến sai lầm như vô-thường cho là thường, v.v… là quả hiện hữu của tà-kiến tâm-sở,
4- Ariyānaṃ adassanakāmatādipadaṭṭhānā không muốn thấy các bậc Thánh-nhân là nhân-duyên gần phát sinh diṭṭhicetasika.
Diṭṭhi: tà-kiến có 2 loại:
1- Sāmaññadiṭṭhi: Tà-kiến phổ thông,
2- Visesadiṭṭhi: Tà-kiến đặc biệt.
1- Sāmaññadiṭṭhi: Tà-kiến phổ thông đó là sakkāyadiṭṭhi tà-kiến thấy sai chấp lầm trong ngũ-uẩn cho là ta, người, đàn ông, đàn bà, chúng-sinh, v.v… đối với tất cả chúng-sinh còn là phàm nhân, gồm có nhân-loại, chư-thiên, chư phạm-thiên, v.v…
2- Visesadiṭṭhi: Tà-kiến đặc biệt đó là niyata-diṭṭhi tà-kiến chấp-thủ-cố-định, hoàn toàn không tin nơi nghiệp và quả của nghiệp, có 3 loại:
1- Natthikadiṭṭhi: Vô-quả-tà-kiến,
2- Ahetukadiṭṭhi: Vô-nhân-tà-kiến,
3- Akiriyadiṭṭhi: Vô-hành-tà-kiến.
* Natthikadiṭṭhi: Vô-quả-tà-kiến cố-định là tà-kiến thấy sai chấp lầm cố-định, không thay đổi rằng: “Không có quả của nghiệp.”
* Ahetukadiṭṭhi: Vô-nhân-tà-kiến cố-định là tà-kiến thấy sai chấp lầm cố-định, không thay đổi rằng: “Không có nhân là không có nghiệp.”
* Akiriyadiṭṭhi: Vô-hành-tà-kiến cố-định là tà-kiến thấy sai chấp lầm cố-định, không thay đổi rằng:“Không có hành ác, không có hành thiện”.
* Diṭṭhicetasika: tà-kiến tâm-sở đồng sinh với 4 tham-tâm hợp với tà-kiến, không đồng sinh với 85 tâm còn lại.
3- Mānacetasika: Ngã-mạn tâm-sở là tâm-sở tự đề cao mình hơn người, hoặc bằng người, hoặc kém thua người.
Trạng-thái riêng của diṭṭhicetasika có 4 pháp lakkhaṇādicatuka:
1- Unnatilakkhaṇo tự đề cao mình hơn người là trạng-thái của ngã-mạn tâm-sở,
2- Sampaggaharaso tự sánh mình với người là phận sự của ngã-mạn tâm-sở,
3- Ketukamyatāpaccupaṭṭhānā sự mong mỏi bậc cao là quả hiện hữu của ngã-mạn tâm-sở,
4- Diṭṭhivippayuttalobhapadaṭṭhānā tham-tâm không hợp với tà-kiến là nhân-duyên gần phát sinh mānacetasika.
Người có tham-tâm hợp với ngã-mạn có tính tự cao, khinh thường người khác, cứng đầu khó dạy, nên không có tính khiêm tốn,
* Mānacetasika: ngã-mạn tâm-sở đồng sinh với 4 tham-tâm không hợp với tà-kiến, không đồng sinh với 85 tâm còn lại.
Nhóm tham có 3 tâm-sở: lobhacetasika, diṭṭhicetasika, mānacetasika, có lobhacetasika là gốc dẫn đầu, đồng sinh với 8 tham-tâm tuỳ theo mỗi tâm-sở.
3- Docatukacetasika: Nhóm sân có 4 tâm-sở: dosacetasika, issācetasika, macchariyacetasika, kukkuccacetasika có dosacetasika là gốc dẫn đầu, chỉ đồng sinh với 2 sân-tâm mà thôi.
1– Dosacetasika: Sân tâm-sở là tâm-sở hung dữ, gây tai hại đối-tượng.
Trạng-thái riêng của dosacetasika có 4 pháp lakkhaṇādicatuka:
1- Caṇḍikkalakkhaṇo hung dữ là trạng-thái của sân tâm-sở,
2- Nissayadaharaso làm nóng nảy thiêu đốt trong tâm của mình và người khác là phận sự của sân tâm-sở,
3- Dussanapaccupaṭṭhāno gây tai hại đến đối-tượng là quả hiện hữu của sân tâm-sở,
4- Āghātavatthupadaṭṭhāno có đối-tượng hận thù (āghātavatthu) là nhân-duyên gần phát sinh dosacetasika.
Āghātavatthu: Đối-tượng hận thù có 10:
1- Hận thù do nghĩ rằng: người ấy đã từng gây tai hại cho ta,
2- Hận thù do nghĩ rằng: người ấy đang gây tai hại cho ta,
3- Hận thù do nghĩ rằng: người ấy sẽ gây tai hại cho ta,
4- Hận thù do nghĩ rằng: người ấy đã từng gây tai hại cho người thân yêu của ta,
5- Hận thù do nghĩ rằng: người ấy đang gây tai hại cho người thân yêu của ta,
6- Hận thù do nghĩ rằng: người ấy sẽ gây tai hại cho người thân yêu của ta,
7- Hận thù do nghĩ rằng: người ấy đã từng làm lợi ích cho kẻ thù của ta,
8- Hận thù do nghĩ rằng: người ấy đang làm lợi ích cho kẻ thù của ta,
9- Hận thù do nghĩ rằng: người ấy sẽ làm lợi ích cho kẻ thù của ta,
10- Hận thù do găp phải rủi như vấp ngã đau, đạp gai đâm vào bàn chân đau, v.v…
Āghātavatthu có 10 loại là nguyên-nhân gần phát sinh dosacetasika: sân tâm-sở trong dosa- citta: sân-tâm không hài lòng đối-tượng ấy, nên có trạng-thái khổ tâm, nóng giận, ghét bỏ, buồn khổ, khóc than, sợ sệt, v.v… tự làm khổ mình, làm khổ người, gây tai hại cho người, …
* Dosacetasika: sân tâm-sở chỉ đồng sinh với 2 sân-tâm mà thôi, không đồng sinh với 87 tâm còn lại.
2- Issācetasika: Ganh-tỵ tâm-sở là tâm-sở ganh-tỵ không vừa lòng trong của cải tài-sản hoặc sắc đẹp hoặc địa vị cao sang, chức trọng quyền cao của người khác.
Trạng-thái riêng của issācetasika có 4 pháp lakkhaṇādicatuka:
1- Aññasampatti ussūyalakkhaṇā ganh-tỵ của cải tài-sản của người khác là trạng-thái của ganh-tỵ tâm-sở,
2- Tathā parasampattiyā anabhiratirasā không vừa lòng của cải tài-sản của người khác là phận sự của ganh-tỵ tâm-sở,
3- Tato vimukhapaccupaṭṭhānā lánh mặt tránh
khỏi của cải tài-sản của người khác là quả hiện hữu của ganh-tỵ tâm-sở,
4- Parasampattipadaṭṭhānā của cải tài-sản của người khác là nhân-duyên gần phát sinh issācetasika.
Sự không vừa lòng của cải tài-sản hoặc sắc đẹp hoặc địa vị cao sang, chức trọng quyền cao của người khác.
Nếu không vừa lòng với ý nghĩ rằng: “Đó là quả phước-thiện của họ” thì không có lỗi. Nhưng nếu không vừa lòng với ý nghĩ rằng: “ Người ấy không xứng đáng có được như vậy” thì gọi là issā: ganh-tỵ, nên có lỗi.
Nếu tính issā: ganh-tỵ này có tính chất ràng buộc chúng-sinh trong kiếp tử sinh luân hồi thì trở thành issāsaṃyojana: pháp-ràng-buộc do ganh-tỵ.
* Issācetasika: ganh-tỵ tâm-sở chỉ đồng sinh với 2 sân-tâm mà thôi, không đồng sinh với 87 tâm còn lại.
3- Macchariyacetasika: Keo-kiệt tâm-sở là tâm-sở keo-kiệt bủn-xỉn trong của cải tài-sản, hoặc sự hiểu biết của mình.
Trạng-thái riêng của macchariyacetasika có 4 pháp lakkhaṇādicatuka:
1- Sampattigūhalakkhaṇaṃ cất giấu của cải tài-sản của mình là trạng-thái của keo-kiệt tâm-sở,
2- Sādhāraṇa akkhamarasaṃ không chịu đem của cải tài-sản của mình cho người khác là phận sự của keo-kiệt tâm-sở,
3- Saṅkocanapaccuṭṭhānaṃ thấy người hành- khất, nét mặt cau có, tính bủn xỉn tài-sản của mình là quả hiện hữu của keo-kiệt tâm-sở,
4- Sasampattipadaṭṭhānā của cải tài-sản của mình là nhân-duyên gần phát sinh macchariya- cetasika.
* Macchariya tính keo-kiệt bủn-xỉn có 5 loại:
1- Āvāsamacchariya: keo-kiệt trong chỗ ở,
2- Kulamacchariya: keo-kiệt trong gia đình,
3- Lābhamacchariya: keo-kiệt trong của cải,
4- Vaṇṇamacchariya: keo-kiệt trong sắc đẹp,
5- Dhammamacchariya: keo-kiệt trong pháp.
Nếu macchariya tính keo-kiệt này có tính chất ràng buộc chúng-sinh trong kiếp tử sinh luân hồi thì trở thành macchariyasaṃyojana: pháp-ràng-buộc do keo-kiệt.
* Macchariyacetasika: keo-kiệt tâm-sở chỉ đồng sinh với 2 sân-tâm mà thôi, không đồng sinh với 87 tâm còn lại.
4- Kukkuccacetasika: Hối-hận tâm-sở là tâm-sở ăn năn hối-hận khổ tâm vì đã hành ác, tạo ác-nghiệp mà không hành thiện, không tạo thiện-nghiệp.
Trạng-thái riêng của kukkuccacetasika có 4 pháp lakkhaṇādicatuka:
1- Pacchānutāpalakkhaṇaṃ nóng nảy khổ tâm về sau là trạng-thái của hối-hận tâm-sở,
2- Ānusocanarasakaṃ thường phát sinh tâm sầu não ân hận vì đã tạo ác-nghiệp, mà không tạo thiện-nghiệp là phận sự của hối-hận tâm-sở,
3- Vippaṭisārapaccupaṭṭhānaṃ tâm thường ăn năn hối hận là quả hiện hữu của hối-hận tâm-sở,
4- Katākatapadaṭṭhānā đã tạo ác-nghiệp, mà không tạo thiện-nghiệp là nhân-duyên gần phát sinh kukkuccacetasika.
Sở dĩ kukkuccacetasika phát sinh là vì đã tạo ác-nghiệp, mà không tạo thiện-nghiệp, bởi vì si- mê không biết hậu quả của ác-nghiệp, không biết quả an lạc của thiện-nghiệp. Do đó, không nên tạo ác-nghiệp thì đã tạo, nên tạo thiện-nghiệp thì lại không tạo.
* Kukkuccacetasika: hối-hận tâm-sở chỉ đồng sinh với 2 sân-tâm mà thôi, không đồng sinh với 87 tâm còn lại.
4- Thidukacetasika: Nhóm buồn có 2 tâm-sở: thinacetasika và middhacetasika có thina-cetasika là gốc dẫn đầu.
Nếu có 2 tâm-sở thinacetasika và middha-cetasika phát sinh thì 2 tâm-sở này đồng sinh với nhau (sahakadācicetasika) trong 5 bất-thiện-tâm cần tác-động:
– 4 tham-tâm cần tác-động,
– 1 sân-tâm cần tác-động.
1– Thinacetasika: Buồn-chán tâm-sở là tâm-sở làm cho tâm buồn-chán muốn buông bỏ đối-tượng, tâm không muốn tinh-tấn biết đối-tượng.
Trạng-thái riêng của thinacetasika có 4 pháp lakkhaṇādicatuka:
1- Anussāhanalakkhaṇaṃ không cố gắng tinh-tấn là trạng-thái của buồn-chán tâm-sở,
2- Vīriyāvinodanarasaṃ làm suy giảm sự tinh tấn, từ bỏ sự tinh-tấn là phận sự của buồn-chán tâm-sở,
3- Saṃsīdapaccupaṭṭhānaṃ có sự thoái chí nản lòng là quả hiện hữu của buồn-chán tâm-sở,
4- Ayonisomanasikārapadaṭṭhānaṃ do si-mê không biết đúng trong tâm mọi thật-tánh của các pháp là nhân-duyên gần phát sinh thinacetasika.
1- Middhacetasika: Buồn-ngủ tâm-sở là tâm-sở buồn-ngủ làm cho tâm-sở đồng sinh buông bỏ đối-tượng, tâm không biết rõ đối-tượng nữa.
Trạng-thái riêng của middhacetasika có 4 pháp lakkhaṇādicatuka:
1-Akammaññattalakkhaṇam không thích trong công việc biết đối-tượng là trạng-thái của buồn-ngủ tâm-sở,
2- Onayharasaṃ buông bỏ đối-tượng là phận sự của buồn-ngủ tâm-sở,
3- Līnattapaccupaṭṭhānaṃ lười biếng tiếp nhận đối-tượng là quả hiện hữu của buồn-ngủ tâm-sở,
4- Ayonisomanasikārapadaṭṭhānaṃ do si-mê không biết đúng trong tâm mọi thật-tánh của các pháp là nhân-duyên gần phát sinh thinacetasika.
* Thinacetasika: buồn-chán tâm-sở làm cho tâm đồng sinh muốn buông bỏ đối-tượng,
* Middhacetasika: buồn-ngủ tâm-sở làm cho các tâm-sở đồng sinh buông bỏ đối-tượng,
Hai tâm-sở này luôn luôn đồng sinh với nhau ví dụ: Ngọn đèn dầu gần tắt thì ánh sáng mờ dần đến tắt hẳn như thế nào, cũng như vậy, thinacetasika buồn-chán tâm-sở và middhacetasika buồn-ngủ tâm-sở là 2 tâm-sở đồng sinh với tâm có phận sự làm cho tâm với tâm-sở đồng sinh buông bỏ đối-tượng trong các lộ-trình-tâm, thỉnh thoảng rơi xuống hộ-kiếp-tâm (bhavaṅgacitta), ngủ gật.
Thinacetasika: buồn-chán tâm-sở và middha-cetasika: buồn-ngủ tâm-sở cùng đồng sinh với 5 bất-thiện-tâm cần tác-động: 4 tham-tâm cần tác-động và 1 sân-tâm cần tác-động, không đồng sinh với 84 tâm còn lại.
5- Vicikicchācetasika: Nhóm vicikicchā 1 tâm-sở
Vicikicchācetasika: Hoài-nghi tâm-sở là tâm-sở hoài-nghi nơi các đối-tượng như hoài-nghi nơi 9 ân-Đức-Phật, 6 ân-Đức-Pháp, 9 ân-Đức-Tăng, hoài-nghi nghiệp và quả của nghiệp, v.v … Hoài-nghi tâm-sở này chỉ đồng sinh với si-tâm hợp với hoài-nghi mà thôi.
Trạng-thái riêng của vicikicchācetasika có 4 pháp lakkhaṇādicatuka:
1- Saṃsayalakkhaṇā hoài-nghi là trạng-thái của hoài-nghi tâm-sở,
2- Kampanarasakā làm lay chuyển trong đối-tượng là phận sự của hoài-nghi tâm-sở,
3- Anicchayapaccupaṭṭhānaṃ không quyết-định được là quả hiện hữu của hoài-nghi tâm-sở,
4- Ayonisomanasikārapadaṭṭhānaṃ si-mê hiểu biết trong tâm không đúng theo thật-tánh của các pháp là nhân-duyên gần phát sinh vicikicchācetasika.
* Vicikicchācetasika: hoài-nghi tâm-sở không phải là hoài-nghi các môn học hoặc hoài-nghi trong các pháp-chế-định (paññattidhamma), nhưng thật ra chỉ có hoài-nghi trong 8 pháp như sau:
1- Hoài-nghi trong 9 ân-Đức-Phật,
2- Hoài-nghi trong 6 ân-Đức-Pháp,
3- Hoài-nghi trong 9 ân-Đức-Tăng,
4- Hoài-nghi trong 3 pháp-hành giới, định, tuệ,
5- Hoài-nghi trong ngũ-uẩn,.. kiếp quá-khứ,
6- Hoài-nghi trong ngũ-uẩn,… kiếp vị-lai,
7- Hoài-nghi trong ngũ-uẩn,…kiếp quá-khứ và kiếp vị-lai,
8- Hoài-nghi trong pháp thập-nhị-duyên-sinh,([3][4])
Ngoài 8 pháp hoài-nghi này ra, nếu có hoài- nghi về các môn học, các chế-định-pháp,v.v…vì chưa hiểu biết rõ thì không phải là hoài-nghi tâm-sở (vicikicchācetasika) đồng sinh với si-tâm hợp với hoài-nghi.
* Vicikicchācetasika: hoài-nghi tâm-sở chỉ đồng sinh với si-tâm hợp với hoài-nghi mà thôi, không đồng sinh với 88 tâm còn lại.
(Xong phần 14 bất-thiện-tâm-sở)
Sobhaṇacetasika: Tịnh-Hảo Tâm-Sở
Sobhaṇacetasika: tịnh-hảo tâm-sở là tâm-sở tốt lành, khi đồng sinh với tâm nào làm cho tâm ấy tốt lành, trong sáng, không bị ô nhiễm, nên gọi là sobhaṇacetasika: tịnh-hảo tâm-sở.
* Sobhaṇacetasika: tịnh-hảo tâm-sở gồm có 25 tâm-sở đồng sinh với 59 hoặc 91 tịnh-hảo-tâm (sobhaṇacitta).
Citta: Tâm gồm có 89 hoặc 121 tâm chia ra 2 loại tâm:
1- Asobhaṇacitta: Bất-tịnh-hảo-tâm gồm có 30 tâm:
– 12 bất-thiện-tâm,
– 15 vô-nhân-tâm. 30 tâm này không có tịnh-hảo-tâm-sở (sobhaṇacetasika) nào đồng sinh cả.
2- Sobhaṇacitta: Tịnh-hảo-tâm gồm có 59 hoặc 91 tâm:
– 24 dục-giới tịnh-hảo-tâm,
– 15 sắc-giới-tâm,
– 12 vô-sắc-giới-tâm,
– 8 hoặc 40 siêu-tam-giới-tâm. 59 hoặc 91 tâm này có số tịnh-hảo tâm-sở (sobhaṇacetasika) tương xứng đồng sinh với mỗi tịnh-hảo-tâm.
3- Sobhaṇacetasika: Tịnh-hảo tâm-sở
Tịnh-hảo tâm-sở gồm có 25 tâm-sở chia ra 4 loại như sau:
1- Sobhaṇasādhāraṇacetasika có 19 tâm-sở,
2- Viraticetasika có 3 tâm-sở,
3- Appamaññācetasika có 2 tâm-sở,
4- Paññindriyacetasika có 1 tâm-sở.
1– Sobhaṇasādhāraṇacetasika: Đồng-sinh-toàn-tâm-tịnh-hảo tâm-sở gồm có 19 tịnh-hảo tâm-sở đồng sinh với toàn 59 hoặc 91 tịnh-hảo-tâm (sobhaṇacitta).
Sobhaṇasādhāraṇacetasika: Đồng-sinh-toàn-tâm-tịnh-hảo tâm-sở gồm có 19 tâm-sở như sau:
1- Saddhācetasika: Tín tâm-sở,
2- Saticetasika: Niệm tâm-sở,
3- Hirīcetasika: Hổ-thẹn tâm-sở,
4- Ottappacetasika: Ghê-sợ tâm-sở,
5- Alobhacetasika: Vô-tham tâm-sở,
6- Adosacetasika: Vô-sân tâm-sở,
7-Tatramajjhattatācetasika:Trung-dung tâm-sở,
8- Kāyapassaddhicetasika: Tam-uẩn an-tịnh tâm-sở,
9- Cittapassaddhicetasika: Thức-uẩn an-tịnh tâm-sở,
10- Kāyalahutācetasika: Tam-uẩn nhẹ-nhàng tâm-sở,
11- Cittalahutācetasika: Thức-uẩn nhẹ-nhàng tâm-sở,
12- Kāyamudutācetasika: Tam-uẩn mềm-mại tâm-sở,
13- Cittamudutācetasika: Thức-uẩn mềm-mại tâm-sở,
14- Kāyakammaññatācetasika: Tam-uẩn uyển- chuyển tâm-sở,
15- Cittakammaññatācetasika:Thức-uẩn uyển- chuyển tâm-sở,
16- Kāyapāguññatācetasika: Tam-uẩn thuần- thục tâm-sở,
17- Cittapāguññatācetasika: Thức-uẩn thuần- thục tâm-sở,
18- Kāyujukatācetasika: Tam-uẩn ngay-thật tâm-sở,
19- Cittujukatācetasika: Thức-uẩn ngay-thật tâm-sở.
19 tịnh-hảo tâm-sở này đồng sinh với 59 hoặc 91 tịnh-hảo-tâm.
2– Viraticetasika: Chế-ngự tâm-sở có 3 tâm-sở:
1- Sammāvācācetasika: Chánh-ngữ tâm-sở,
2- Sammākammantacetasika: Chánh-nghiệp tâm-sở,
3- Sammā-ājīvacetasika: Chánh-mạng tâm-sở.
3– Appamaññācetasika: Vô-lượng tâm-sở có 2 tâm-sở:
1- Karuṇācetasika: Bi tâm-sở,
2- Muditācetasika: Hỷ tâm-sở.
4– Paññindriyacetasika có 1 tâm-sở:
1- Paññindriyacetasika: Tuệ-chủ tâm-sở.
Giảng Giải 25 Tịnh-Hảo Tâm-Sở
* Sobhaṇasādhāraṇacetasika: Đồng-sinh-toàn-tâm tâm-sở gồm có 19 tịnh-hảo tâm-sở:
1- Saddhācetasika: Tín tâm-sở là tâm-sở tin với đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, tin nơi nghiệp và quả của nghiệp.
Trạng-thái riêng của saddhācetasika có 4 pháp lakkhaṇādicatuka:
1- Saddhāhanalakkhaṇā đức-tin trong sạch là trạng-thái của tín tâm-sở
2- Pasādanarasā tin với đức-tin trong sạch thật sự là phận sự của tín tâm-sở,
3- Akālusiyapaccupaṭṭhānaṃ tâm không bị ô nhiễm là quả hiện hữu của tín tâm-sở,
4- Saddheyyavatthupadaṭṭhānaṃ Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, nghiệp và quả của nghiệp là nhân-duyên gần phát sinh saddhācetasika.
Saddhā: đức-tin là thiện-pháp khởi đầu cho mọi thiện-pháp phát sinh, đó là dục-giới thiện-pháp, sắc-giới thiện-pháp, vô-sắc-giới thiện-pháp, cho đến siêu-tam-giới thiện-pháp phát sinh và tăng trưởng.
Saddhā đức-tin phát sinh do nhân-duyên, mà nhân-duyên gần phát sinh saddhā đó là ân-đức Tam-bảo: 9 ân-đức-Phật-bảo, 6 ân-đức-Pháp-bảo, 9 ân-đức-Tăng-bảo; tin nơi nghiệp và quả của nghiệp.
Saddhā là tin nơi đáng tin, và không tin nơi không đáng tin, nơi đáng tin có 4 pháp:
* Kammasaddhā: tin nghiệp có 2 loại: thiện-nghiệp và bất-thiện-nghiệp,
* Vipākasaddhā: tin quả của nghiệp rằng: thiện-nghiệp cho quả an lạc, bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) cho quả khổ,
* Kammassakatāsaddhā: tin nghiệp là của riêng ta, ta là người thừa hưởng quả của nghiêp,
nghiệp sinh ta ra, nghiệp là thân quyến của ta, nghiệp là nơi nương nhờ của ta, khi ta tạo nghiệp nào: thiện-nghiệp hoặc bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp), chính ta là người hưởng quả của nghiệp ấy.
* Tathāgatabodhisaddhā: tin là đức-tin nơi sự chứng đắc của Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác.
Nếu người nào tin nơi không đáng tin thì gọi là cuồng-tín, cho nên đức-tin phải đi đôi với trí-tuệ thì gọi là chánh-tín
* Saddhācetasika: tín tâm-sở đồng sinh với 59 hoặc 91 tịnh-hảo-tâm, không đồng sinh với 30 bất-tịnh-hảo-tâm.
2- Saticetasika: Niệm tâm-sở là tâm-sở niệm vững vàng trong 6 đối-tượng (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp).
Trạng-thái riêng của saticetasika có 4 pháp lakkhaṇādicatuka:
1- Apilāpanalakkhaṇā niệm vững vàng trong đối-tượng là trạng-thái của niệm tâm-sở
2- Asambosarasā niệm vững vàng trong đối-tượng, không để mất đối-tượng là phận sự của niệm tâm-sở,
3- Ārakkhapaccupaṭṭhānaṃ giữ gìn thu thúc trong đối-tượng là quả hiện hữu của niệm tâm-sở,
4- Thirasaññāpadaṭṭhānaṃ tưởng nhớ vững chắc trong đối-tượng là nhân-duyên gần phát sinh saticetasika.
* Tuy nhiên, sati trong satipaṭṭhāna thì sati trở thành sammāsati: chánh-niệm trong 4 pháp niệm-xứ là:
– Thân-niệm-xứ: Thân là đối-tượng của chánh-niệm và trí-tuệ-tỉnh-giác,
– Thọ-niệm-xứ: Thọ là đối-tượng của chánh-niệm và trí-tuệ-tỉnh-giác,
– Tâm-niệm-xứ: Tâm là đối-tượng của chánh-niệm và trí-tuệ-tỉnh-giác,
-Pháp-niệm-xứ: Pháp là đối-tượng của chánh-niệm và trí-tuệ-tỉnh-giác,
* Saticetasika: niệm tâm-sở đồng sinh với 59 hoặc 91 tịnh-hảo-tâm, không đồng sinh với 30 bất-tịnh-hảo-tâm.
3- Hirīcetasika: Hổ-thẹn tâm-sở là tâm-sở tự mình biết hổ-thẹn tội lỗi, xa lánh mọi hành ác.
Trạng-thái riêng của hirīcetasika có 4 pháp lakkhaṇādicatuka:
1- Jegucchalakkhaṇā ghét tội lỗi, xa lánh mọi tội lỗi là trạng-thái của hổ-thẹn tâm-sở,
2- Pāpānaṃ akaraṇarasā không hành ác là phận sự của hổ-thẹn tâm-sở,
3- Pāpato saṅkocapaccupaṭṭhānaṃ biết hổ-thẹn tội lỗi, nên xa lánh mọi hành ác là quả hiện hữu của hổ-thẹn tâm-sở,
4- Attagāravapadaṭṭhānaṃ đức tính tự trọng là nhân-duyên gần phát sinh hiricetasika.
* Hirīcetasika: hổ-thẹn tâm-sở đồng sinh với 59 hoặc 91 tịnh-hảo-tâm, không đồng sinh với 30 bất-tịnh-hảo-tâm.
4- Ottappacetasika: Ghê-sợ tâm-sở là tâm-sở kính trọng người khác, nên biết ghê-sợ tội lỗi, xa
lánh mọi hành ác.
Trạng-thái riêng của ottappacetasika có 4 pháp lakkhaṇādicatuka:
1- Uttāsalakkhaṇā biết ghê-sợ tội lỗi là trạng-thái của ghê-sợ tâm-sở
2- Pāpānaṃ akaraṇarasā không hành ác là phận sự ghê-sợ tâm-sở
3- Pāpato saṅkocapaccupaṭṭhānaṃ biết ghê-sợ tội lỗi, nên lánh xa hành ác là quả hiện hữu của ghê-sợ tâm-sở
4- Paragāravapadaṭṭhānaṃ đức tính kính trọng người khác là nhân-duyên gần phát sinh ottappacetasika.
* Ottappacetasika: ghê-sợ tâm-sở đồng sinh với 59 hoặc 91 tịnh-hảo-tâm, không đồng sinh với 30 bất-tịnh-hảo-tâm.
Hirī và ottappa là 2 tâm-sở đồng sinh với 59 hoặc 91 tâm xa lánh, tránh xa mọi hành ác, tội lỗi do thân-hành-ác, khẩu-nói-ác, ý-nghĩ-ác, bởi vì hirī có trạng-thái hổ-thẹn tội-lỗi do tính tự trọng, nên không dám tạo ác-nghiệp bằng thân, khẩu, ý; còn ottappa có trạng-thái ghê-sợ tội-lỗi do biết kính-trọng người khác, nên không dám tạo ác-nghiệp bằng thân, khẩu, ý.
* Hirī phát sinh do nhân-duyên tự mình biết hổ-thẹn tội lỗi, biết tự trọng do nương nhờ nhân-duyên bên trong của mình như sau:
– Kula: Biết hổ-thẹn tội lỗi do nghĩ đến dòng họ của mình,
– Vaya: Biết hổ-thẹn tội lỗi do nghĩ đến tuổi tác mình,
– Bahussuta: Biết hổ-thẹn tội lỗi do nghĩ đến tài năng hiểu biết của mình,
– Jātimahaggata: Biết hổ-thẹn tội lỗi do nghĩ đến kiếp cao quý của mình,
– Satthumahaggata: Biết hổ-thẹn tội lỗi do nghĩ đến Đức-Phật, thầy tổ, cha, mẹ, … cao thượng của mình.
– Dāyajjamahaggata: Biết hổ-thẹn tội lỗi do nghĩ đến mình là người thừa kế di sản cao quý,
– Sabrahmacārīmahaggata: Biết hổ-thẹn tội lỗi do nghĩ đến những bạn hữu đồng phạm hạnh cao thượng,
– Surabhāva: Biết hổ-thẹn tội lỗi do nghĩ đến tính dũng cảm của mình.
* Ottappa phát sinh do nhân-duyên biết ghê-sợ tội lỗi, biết kính trọng người khác do nương nhờ nhân-duyên bên ngoài như sau:
– Attānuvādabhaya: Biết ghê-sợ tội lỗi do tự mình chê trách,
– Paravādānubhaya: Biết ghê-sợ tội lỗi do sợ chư bậc thiện-trí chê trách mình,
– Daṇḍabhaya: Biết ghê-sợ tội lỗi do sợ hình phạt đau khổ,
– Duggatibhaya: Biết ghê-sợ tội lỗi do sợ bị khổ trong 4 cõi ác-giới: cõi địa-ngục, cõi a-su-ra, cõi ngạ-quỷ, loài súc-sinh.
Hirī và ottappa là 2 tâm-sở biết hổ-thẹn tội lỗi, biết ghê-sợ tội lỗi, không dám tạo mọi ác-nghiệp bằng thân, khẩu, ý, nên không tự làm khổ mình, không làm khổ tất cả mọi chúng-sinh khác.
Cho nên, hirī và ottappa là 2 pháp hộ trì, giữ gìn tất cả mọi chúng-sinh.
5- Alobhacetasika: Vô-tham tâm-sở là tâm-sở không tham muốn, không dính mắc trong đối-tượng.
Trạng-thái riêng của alobhacetasika có 4 pháp lakkhaṇādicatuka:
1- Alaggabhāvalakkhaṇo không tham muốn, không dính mắc trong đối-tượng là trạng-thái của vô-tham tâm-sở
2- Apariggaharaso không chấp thủ trong đối-tượng là phận sự của vô-tham tâm-sở,
3- Anallīnabhāvapaccupaṭṭhāno không dính mắc, không chấp thủ trong đối-tượng là quả hiện hữu của vô-tham tâm-sở,
4- Yonisomanasikārapadaṭṭhāno trí-tuệ biết rõ trong tâm đúng theo thật-tánh của các pháp là nhân-duyên gần phát sinh alobhacetasika.
Alobhacetasika vô-tham tâm-sở có tính chất hoàn toàn trái ngược với lobhacetasika tham tâm-sở. Cho nên, người có vô-tham tâm-sở đồng sinh với tịnh-hảo-tâm không tham muốn, không chấp thủ trong đối-tượng.
* Alobhacetasika: vô-tham tâm-sở đồng sinh với 59 hoặc 91 tịnh-hảo-tâm, không đồng sinh với 30 bất-tịnh-hảo-tâm.
5- Adosacetasika: Vô-sân tâm-sở là tâm-sở không làm hại đối-tượng, không hận thù, không tự làm khổ mình, khổ chúng-sinh.
Trạng-thái riêng của adosacetasika có 4 pháp lakkhaṇādicatuka:
1- Acaṇḍikattalakkhaṇo không hung dữ, hiền hoà là trạng-thái của vô-sân tâm-sở
2- Āghātavinayaraso diệt tâm hận thù là phận sự của vô-sân tâm-sở,
3- Sommabhāvapaccupaṭṭhāno mát mẻ trong sáng như ánh trăng rằm là quả hiện hữu của vô-sân tâm-sở,
4- Yonisomanasikārapadaṭṭhāno trí-tuệ biết rõ trong tâm đúng theo thật-tánh của các pháp là nhân-duyên gần phát sinh adosacetasika.
Adosacetasika vô-sân tâm-sở có tính chất hoàn toàn trái ngược với dosacetasika sân tâm-sở.
* Adosacetasika vô-sân tâm-sở có liên quan đến 2 pháp: khanti và mettā:
* Khanti: Pháp nhẫn-nại có chi pháp là adosacetasika vô-sân tâm-sở đồng sinh với dục-giới đại-thiện-tâm thuộc về tịnh-hảo-tâm chịu đựng mọi đối-tượng xấu là hoàn cảnh bất bình, bị vu oan giá hoạ, phải chịu mọi cảnh khổ, v.v… mà vẫn không hề phát sinh sân-tâm không hài lòng trong đối-tượng ấy. Đó là do năng lực của adosacetasika vô-sân tâm-sở.
* Mettā: Tâm-từ là 1 trong 4 đề-mục-thiền-định vô-lượng-tâm (appamaññā).
Hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-định với đề-mục niệm rải tâm-từ (mettā) đến chúng-sinh vô-lượng, có chi pháp là adosacetasika vô-sân tâm-sở đồng sinh với tịnh-hảo-tâm có đối-tượng piyamanāpasattapaññatti: chúng-sinh đáng yêu, đáng kính là đối-tượng-thiền-định của đề-mục niệm rải tâm-từ (mettā)
* Đề-mục niệm rải tâm-từ này chỉ có khả năng chứng đắc từ đệ nhất thiền sắc-giới cho đến đệ tứ thiền sắc-giới mà thôi, không thể chứng đắc đệ ngũ thiền sắc-giới, bởi vì đề-mục-thiền-định này cần có chi thiền lạc, mà đệ ngũ thiền sắc-giới có 2 chi thiền là xả và nhất-tâm.
Nếu khi hành-giả tụng kinh, niện ân-Đức-Phật dù có adosacetasika vô-sân tâm-sở đồng sinh với dục-giới đại-thiện-tâm thuộc về tịnh-hảo-tâm, cũng không gọi là mettā tâm-từ được, bởi vì, đối-tượng của đề-mục-thiền-định niệm rải tâm-từ là chúng-sinh đáng yêu, đáng kính, không phải là đối-tượng ân-Đức-Phật.
* Adosacetasika: vô-sân tâm-sở đồng sinh với 59 hoặc 91 tịnh-hảo-tâm, không đồng sinh với 30 bất-tịnh-hảo-tâm.
7-Tatramajjhattatācetasika:Trung-dung tâm-sở là tâm-sở trung dung giữa tâm với tâm-sở đồng sinh không hơn không kém, giữ gìn các pháp tâm với tâm-sở đồng sinh đồng đều nhau.
Trạng-thái riêng của tatramajjhattatācetasika có 4 pháp lakkhaṇādicatuka:
1- Samavāhitalakkhaṇā giữ gìn các pháp tâm với tâm-sở đồng sinh đồng đều nhau là trạng-thái của trung-dung-tâm-sở,
2- Ūnādhikavāraṇarasā không để các pháp tâm với tâm-sở đồng sinh hơn hoặc kém là phận sự của trung-dung-tâm-sở,
3- Majjhattabhāvapaccupaṭṭhāno trạng-thái trung dung là quả hiện hữu của trung-dung-tâm-sở,
4- Sampayuttapadaṭṭhāno các pháp tâm với tâm-sở đồng sinh là nhân-duyên gần phát sinh tatramajjhattatācetasika.
Tatramajjhattatācetasika: trung-dung tâm-sở có trạng-thái giữ gìn các pháp tâm với tâm-sở đồng sinh đồng đều nhau không hơn không kém. Ví như người đánh xe ngựa với 2 con ngựa báu có sức mạnh đồng đều nhau, chiếc xe ngựa chạy đều, nên người đánh xe không đánh, la 2 con ngựa, mà chỉ cần đặt tâm trung-dung dõi theo 2 con ngựa mà thôi.
* Tatramajjhattatācetasika: trung-dung tâm-sở còn là chi pháp của đề-mục-thiền-định upekkhā-appamaññā: niệm rải tâm xả đến chúng-sinh vô-lượng có đối-tượng là majjhattasattapaññatti: hạng chúng-sinh không thương không ghét.
* Tatramajjhattatācetasika: trung-dung tâm-sở đồng sinh với 59 hoặc 91 tịnh-hảo-tâm, không đồng sinh với 30 bất-tịnh-hảo-tâm.
6 Đôi Tịnh-Hảo Tâm-Sở
* 19 tịnh-hảo tâm-sở đồng sinh với toàn tịnh-hảo-tâm (sobhaṇacitta) từ saddhācetasika cho đến tatramajjhattatācetasika mỗi tâm-sở riêng rẽ; từ kāyapassaddhicetasika, cittapassaddhicetasika cho đến kāyujukatācetasika, cittujukatācetasika gồm có 6 đôi, mà mỗi đôi kāya và citta cùng có chung 1 tịnh-hảo tâm-sở.
* Kāya nghĩa là tổng hợp các tâm-sở đồng sinh với tịnh-hảo-tâm gồm có 3 uẩn: thọ-uẩn, tưởng-uẩn, hành-uẩn,
* Citta tịnh-hảo-tâm thuộc về thức-uẩn.
Trong bộ Visuddhimagga giải rằng:
* Kāyapassaddhi: Kāyo’ti cettha vedanādayo tayo khandhā.([4][5]) Kāya trong kāyapassaddhi có nghĩa là gồm có 3 uẩn: thọ-uẩn, tưởng-uẩn, hành-uẩn.
Như vậy, Kāya nghĩa là tổng hợp các tâm-sở đồng sinh với tịnh-hảo-tâm ấy.
Tâm-sở đồng sinh với mỗi tịnh-hảo-tâm gồm có 4 uẩn:
– Thọ tâm-sở thuộc về thọ-uẩn,
– Tưởng tâm-sở thuộc về tưởng-uẩn,
– Tổng các tâm-sở còn lại thuộc về hành-uẩn,
– Tịnh-hảo-tâm thuộc về thức-uẩn.
8- Kāyapassaddhicetasika: Tam-uẩn an-tịnh tâm-sở,
9- Cittapassaddhicetasika: Thức-uẩn an-tịnh tâm-sở.
* Kāyapassaddhicetasika: Tam-uẩn an-tịnh tâm-sở là tâm-sở làm an-tịnh tam-uẩn: thọ-uẩn, tưởng-uẩn, hành-uẩn.
* Cittapassaddhicetasika: Thức-uẩn an-tịnh tâm-sở là tâm-sở làm an-tịnh thức-uẩn.
Đó là 2 tịnh-hảo tâm-sở đều có chung 1 passaddhicetasika: an-tịnh tâm-sở, có trạng-thái làm an-tịnh tam-uẩn tâm-sở và thức-uẩn, nghĩa là làm an-tịnh tâm và các tâm-sở đồng sinh với tịnh-hảo-tâm ấy.
Trạng-thái riêng của passaddhicetasika có 4 pháp lakkhaṇādicatuka:
1- Passaddhiyo kāyacittadarathavūpasama-lakkhaṇā 2 an-tịnh tâm-sở làm an-tịnh sự nóng nảy của tâm và các tâm-sở đồng sinh với tịnh-hảo-tâm là trạng-thái của an-tịnh tâm-sở,
2- Kāyacittadarathanimmaddanarasā chế ngự được sự nóng nảy của tâm và các tâm-sở đồng sinh với tịnh-hảo-tâm là phận sự của an-tịnh tâm-sở,
3- Kāyacittānaṃ aparipphandanasītibhāva-paccupaṭṭhānā sự an-tịnh mát mẻ không lay động của tâm và các tâm-sở đồng sinh với tịnh-hảo-tâm là quả hiện hữu của an-tịnh tâm-sở,
4- Kāyacittapadaṭṭhānā tâm và các tâm-sở đồng sinh với tịnh-hảo-tâm là nhân-duyên gần phát sinh passaddhicetasika.
* Hai tịnh-hảo tâm-sở này đồng sinh với 59 hoặc 91 tịnh-hảo-tâm, không đồng sinh với 30 bất-tịnh-hảo-tâm.
10- Kāyalahutācetasika: Tam-uẩn nhẹ-nhàng tâm-sở,
11- Cittalahutācetasika: Thức-uẩn nhẹ-nhàng tâm-sở.
* Kāyalahutācetasika: Tam-uẩn nhẹ-nhàng tâm-sở là tâm-sở làm nhẹ-nhàng tam-uẩn: thọ-uẩn, tưởng-uẩn, hành-uẩn.
* Cittalahutācetasika: Thức-uẩn nhẹ-nhàng tâm-sở là tâm-sở làm nhẹ-nhàng thức-uẩn.
Đó là 2 tịnh-hảo tâm-sở đều có chung 1 lahutācetasika nhẹ-nhàng tâm-sở có trạng-thái làm nhẹ-nhàng tam-uẩn tâm-sở và thức-uẩn, nghĩa là làm nhẹ-nhàng các tâm-sở đồng sinh với tịnh-hảo-tâm ấy.
Trạng-thái riêng của lahutācetasika có 4 pháp lakkhaṇādicatuka:
1- Lahutāyo kāyacittagarubhāvavūpasama-lakkhaṇā 2 nhẹ-nhàng tâm-sở làm giảm sự nặng nề của tâm và các tâm-sở đồng sinh với tịnh-hảo-tâm là trạng-thái của an-tịnh tâm-sở,
2- Kāyacittagarubhāvanimmaddanarasā chế ngự được sự nặng nề của tâm và các tâm-sở đồng sinh với tịnh-hảo-tâm là phận sự của an-tịnh tâm-sở,
3- Kāyacittānaṃ adandhatāpaccupaṭṭhānā không nặng nề, không chậm chạp của tâm và các tâm-sở đồng sinh với tịnh-hảo-tâm là quả hiện hữu của an-tịnh tâm-sở,
4- Kāyacittapadaṭṭhānā tâm và các tâm-sở đồng sinh với tịnh-hảo-tâm là nhân-duyên gần phát sinh lahutācetasika.
* Hai tịnh-hảo tâm-sở này đồng sinh với 59 hoặc 91 tịnh-hảo-tâm, không đồng sinh với 30 bất-tịnh-hảo-tâm.
12- Kāyamudutācetasika: Tam-uẩn mềm-mại tâm-sở,
13- Cittamudutācetasika: Thức-uẩn mềm-mại tâm-sở.
* Kāyamudutācetasika: Tam-uẩn mềm-mại tâm-sở là tâm-sở làm mềm-mại tam-uẩn: thọ-uẩn, tưởng-uẩn, hành-uẩn.
* Cittamudutācetasika: Thức-uẩn mềm-mại tâm-sở là tâm-sở làm mềm-mại thức-uẩn.
Đó là 2 tịnh-hảo tâm-sở đều có chung 1 mudutācetasika mềm-mại tâm-sở, có trạng-thái làm mềm-mại tam-uẩn tâm-sở và thức-uẩn, nghĩa là làm mềm-mại các tâm-sở đồng sinh với tịnh-hảo-tâm ấy.
Trạng-thái riêng của mudutācetasika có 4 pháp lakkhaṇādicatuka:
1- Mudutāyo kāyacittatthambhavūpasama-lakkhaṇā 2 mềm-mại tâm-sở làm giảm sự cứng rắn, ngã mạn của tâm và các tâm-sở đồng sinh với tịnh-hảo-tâm là trạng-thái của mềm-mại tâm-sở,
2- Kāyacittathadhabhāvanimmaddanarasā chế ngự được tính cứng rắn của tâm và các tâm-sở đồng sinh với tịnh-hảo-tâm là phận sự của mềm-mại tâm-sở,
3- Appaṭighātapaccupaṭṭhānā không đụng chạm, không bất bình của tâm và các tâm-sở đồng sinh với tịnh-hảo-tâm là quả hiện hữu của mềm-mại tâm-sở,
4- Kāyacittapadaṭṭhānā tâm và các tâm-sở đồng sinh với tịnh-hảo-tâm là nhân-duyên gần phát sinh mudutācetasika.
* Hai tịnh-hảo tâm-sở này đồng sinh với 59 hoặc 91 tịnh-hảo-tâm, không đồng sinh với 30 bất-tịnh-hảo-tâm.
14- Kāyakammaññatācetasika: Tam-uẩn uyển-chuyển tâm-sở,
15- Cittakammaññatācetasika: Thức-uẩn uyển-chuyển tâm-sở.
* Kāyakammaññatācetasika: Tam-uẩn uyển-chuyển tâm-sở là tâm-sở làm uyển-chuyển tam-uẩn: thọ-uẩn, tưởng-uẩn, hành-uẩn.
* Cittakammaññatācetasika: Thức-uẩn uyển-chuyển tâm-sở là tâm-sở làm uyển-chuyển thức-uẩn.
Đó là 2 tịnh-hảo-tâm-sở đều có chung 1 kammaññatācetasika: uyển-chuyển tâm-sở có trạng-thái làm uyển-chuyển tam-uẩn tâm-sở và thức-uẩn, nghĩa là làm uyển-chuyển các tâm-sở đồng sinh với tịnh-hảo-tâm ấy.
Trạng-thái riêng của kammaññatācetasika có 4 pháp lakkhaṇādicatuka:
1- Kammaññatā kāyacittākammaññabhāva-vūpasamalakkhaṇā 2 uyển-chuyển tâm-sở làm giảm sự cứng nhắc của tâm với tâm-sở đồng sinh với tịnh-hảo-tâm là trạng-thái của uyển-chuyển tâm-sở,
2- Kāyacittākammaññabhāvanimmaddanarasā chế ngự được sự cứng nhắc của tâm và các tâm-sở đồng sinh với tịnh-hảo-tâm là phận sự của uyển-chuyển tâm-sở,
3- Kāyacittānaṃ ārammaṇakaraṇasampatti-paccupaṭṭhānā thành tựu kết quả làm cho đối-tượng của tâm và các tâm-sở đồng sinh với tịnh-hảo-tâm là quả hiện hữu của uyển-chuyển tâm-sở,
4- Kāyacittapadaṭṭhānā tâm và các tâm-sở đồng sinh với tịnh-hảo-tâm là nhân-duyên gần phát sinh kammaññatācetasika.
* Hai tịnh-hảo-tâm-sở này đồng sinh với 59 hoặc 91 tịnh-hảo-tâm, không đồng sinh với 30 bất-tịnh-hảo-tâm.
16- Kāyapāguññatācetasika: Tam-uẩn thuần-thục tâm-sở,
17- Cittapāguññatācetasika: Thức-uẩn thuần-thục tâm-sở.
* Kāyapāguññatācetasika: Tam-uẩn thuần-thục tâm-sở là tâm-sở làm thuần-thục tam-uẩn: thọ-uẩn, tưởng-uẩn, hành-uẩn.
* Cittapāguññatācetasika: Thức-uẩn thuần-thục tâm-sở là tâm-sở làm thuần-thục thức-uẩn.
Đó là 2 tịnh-hảo-tâm-sở đều có chung 1 pāguññatācetasika: thuần-thục tâm-sở có trạng-thái làm thuần-thục tam-uẩn tâm-sở và thức-uẩn, nghĩa là làm thuần-thục các tâm-sở đồng sinh với tịnh-hảo-tâm ấy.
Trạng-thái riêng của pāguññatācetasika có 4 pháp lakkhaṇādicatuka:
1-Pāguññatā kāyacittānam. agelaññabhāva-lakkhaṇā 2 thuần-thục tâm-sở không có bệnh của tâm và các tâm-sở đồng sinh với tịnh-hảo-tâm là trạng-thái của thuần-thục tâm-sở,
2-Kāyacittagelaññanimmaddanarasā chế ngự được bệnh của tâm và các tâm-sở đồng sinh với tịnh-hảo-tâm là phận sự của thuần-thục tâm-sở,
3- Nirādīnavapaccupaṭṭhānā không có tội lỗi, phiền-não là quả hiện hữu của thuần-thục tâm-sở,
4- Kāyacittapadaṭṭhānā tâm và các tâm-sở đồng sinh với tịnh-hảo-tâm là nhân-duyên gần phát sinh pāguññatācetasika.
* Hai tịnh-hảo tâm-sở này đồng sinh với 59 hoặc 91 tịnh-hảo-tâm, không đồng sinh với 30 bất-tịnh-hảo-tâm.
18- Kāyujukatācetasika: Tam-uẩn ngay-thật tâm-sở,
19- Cittujukatācetasika: Thức-uẩn ngay-thật tâm-sở.
* Kāyujukatācetasika: Tam-uẩn ngay-thật tâm-sở là tâm-sở làm ngay-thật tam-uẩn: thọ-uẩn, tưởng-uẩn, hành-uẩn.
* Cittujukatācetasika: Thức-uẩn ngay-thật tâm-sở là tâm-sở làm ngay-thật thức-uẩn.
Đó là 2 tịnh-hảo tâm-sở đều có chung 1 ujukatācetasika: ngay-thật tâm-sở có trạng-thái làm ngay-thật tam-uẩn tâm-sở và thức-uẩn, nghĩa là làm ngay-thật các tâm-sở đồng sinh với tịnh-hảo-tâm ấy.
Trạng-thái riêng của ujukatācetasika có 4 pháp lakkhaṇādicatuka:
1- Ujukatā kāyacitta ajjavalakkhaṇā 2 ngay-thật tâm-sở làm ngay-thật của tâm và các tâm-sở đồng sinh với tịnh-hảo-tâm là trạng-thái của ngay-thật tâm-sở,
2- Kāyacittakuṭilabhāvanimmaddanarasā chế ngự được sự không thành thật của tâm và các tâm-sở đồng sinh với tịnh-hảo-tâm là phận sự của ngay-thật tâm-sở,
3- Ajimhatāpaccupaṭṭhānā sự ngay-thật là quả hiện hữu của ngay-thật tâm-sở,
4- Kāyacittapadaṭṭhānā tâm và các tâm-sở đồng sinh với tịnh-hảo-tâm là nhân-duyên gần phát sinh ujukatācetasika.
* Hai tịnh-hảo tâm-sở này đồng sinh với 59 hoặc 91 tịnh-hảo-tâm, không đồng sinh với 30 bất-tịnh-hảo-tâm.
2– Viraticetasika: Chế-ngự tâm-sở.
Viraticetasika: Chế-ngự tâm-sở có trạng-thái tránh xa thân-hành-ác (kāyaduccarita), khẩu-hành-ác (vacīduccarita), cách sống-tà-mạng (micchājīva).
Viraticetasika: Chế-ngự tâm-sở có 3 loại:
1- Sammāvācācetasika: Chánh-ngữ tâm-sở,
2- Sammākammantacetasika: Chánh-nghiệp tâm-sở,
3- Sammā ājīvacetasika: Chánh-mạng tâm-sở.
1- Sammāvācācetasika: Chánh-ngữ tâm-sở là tịnh-hảo tâm-sở đồng sinh với dục-giới đại-thiện-tâm hoặc siêu-tam-giới-tâm, tránh xa 4 khẩu-hành-ác: tránh xa lời nói dối, tránh xa nói lời chia rẽ, tránh xa nói lời thô tục, tránh xa nói lời vô ích, không liên quan đến sự nuôi mạng.
Trạng-thái riêng của sammāvācācetasika có 4 pháp lakkhaṇādicatuka:
1- Pariggahalakkhaṇā chế ngự khẩu-nói-ác là trạng-thái của chánh-ngữ tâm-sở,
2- Viramaṇarasā tránh xa 4 tà-ngữ là phận sự của chánh-ngữ tâm-sở,
3- Micchāvācāpahānapaccupaṭṭhānā diệt 4 tà-ngữ là quả hiện hữu của chánh-ngữ tâm-sở,
4- Saddhāhirotappādiguṇapadaṭṭhānā đức-tin, hổ-thẹn tội lỗi, ghê-sợ tội lỗi, v.v… là nhân-duyên gần phát sinh sammāvācācetasika.
Sammāvācā chánh-ngữ có 3 loại:
1- Kathāsammāvācā: nói lời chánh-ngữ là lời hay, thuyết pháp, giảng đạo, dạy dỗ đem lại sự lợi ích, cho người nghe,
2- Cetanāsammāvācā: tác-ý chánh-ngữ là tác-ý tránh xa 4 tà-ngữ, nói 4 chánh-ngữ:
– Tránh xa lời nói dối, mà nói lời chân thật,
– Tránh xa nói lời chia rẽ, mà nói lời hoà hợp,
– Tránh xa nói lời thô tục, mà nói lời dịu dàng,
– Tránh xa nói lời vô ích, mà nói lời có ích.
3- Viratisammāvācā: chế ngự tà-ngữ là khi tiếp xúc trực tiếp đối diện với đối-tượng dễ phát sinh nói dối, nhưng tránh xa lời nói dối, nói lời chân thật, hoặc làm thinh không nói, gọi là viratisammāvācā.
2- Sammākammantacetasika: Chánh-nghiệp tâm-sở là tịnh-hảo tâm-sở đồng sinh với dục-giới đại-thiện-tâm hoặc siêu-tam-giới-tâm, tránh xa 3 thân-hành-ác: tránh xa sự sát sinh, tránh xa sự trộm cắp, tránh xa sự tà dâm, không liên quan đến sự nuôi mạng.
Trạng-thái riêng của sammākammanta-cetasika có 4 pháp lakkhaṇādicatuka:
1- Samuṭṭhānalakkhaṇo chế ngự thân-hành-ác là trạng-thái của chánh-nghiệp tâm-sở,
2- Viramaṇaraso tránh xa 3 tà-nghiệp là phận sự của chánh-nghiệp tâm-sở,
3-Micchākammantapahānapaccupaṭṭhāno diệt 3 tà-nghiệp là quả hiện hữu của chánh-nghiệp tâm-sở,
4- Saddhāhirotappādiguṇapadaṭṭhāno đức-tin, hổ-thẹn tội lỗi, ghê-sợ tội lỗi, v.v… là nhân-duyên gần phát sinh sammākammantacetasika.
Sammākammanta chánh-nghiệp có 3 loại:
1- Kiriyāsammākammanta: hành chánh-nghiệp là thân hành công việc phước-thiện đem lại sự lợi ích cho mình và chúng-sinh,
2- Cetanāsammākammanta: tác-ý chánh-nghiệp là tác-ý tránh xa 3 tà-nghiệp, hành 3 chánh-nghiệp:
– Tránh xa sự sát-sinh, mà hành phóng sinh,
– Tránh xa sự trộm-cắp, mà hành phước-thiện bố thí đến chúng-sinh,
– Tránh xa sự tà-dâm, mà thực-hành phạm hạnh cao thượng.
3- Viratisammākammanta: chế ngự tà-nghiệp, là khi tiếp xúc trực tiếp đối diện với đối-tượng dễ phát sinh trộm cắp, nhưng tránh xa sự trộm cắp, gọi là viratisammākammanta.
3- Sammā-ājīvacetasika: Chánh-mạng tâm-sở là tịnh-hảo tâm-sở đồng sinh với dục-giới đại-thiện-tâm hoặc siêu-tam-giới-tâm, tránh xa 3 thân-hành-ác, 4 khẩu-nói-ác liên quan đến sự nuôi mạng.
Trạng-thái riêng của sammā-ājīvacetasika có 4 pháp lakkhaṇādicatuka:
1- Vodānalakkhaṇo sự trong sạch là trạng-thái của chánh-mạng tâm-sở,
2- Kāyajīvappavattiraso sự sinh của thân và khẩu trong sạch là phận sự của chánh-mạng tâm-sở,
3- Micchā ājīvapahānapaccupaṭṭhāno diệt tà-mạng là quả hiện hữu của chánh-mạng tâm-sở,
4- Saddhāhirotappādiguṇapadaṭṭhāno đức-tin, hổ-thẹn tội lỗi, ghê-sợ tội lỗi, v.v… là nhân-duyên gần phát sinh sammā-ājīvacetasika.
Sammā-ājīva chánh-nghiệp có 2 loại:
1- Vīriyasammā ājīva: tinh-tấn chánh-mạng là tinh-tấn làm công việc nuôi mạng hợp pháp,
3- Viratisammā ājīva: chế ngự tà-mạng là tránh xa 3 thân-hành-ác, 4 khẩu-nói-ác liên quan đến sự nuôi mạng, khi tiếp xúc trực tiếp đối diện với đối-tượng gọi là viratisammā ājīva.
Viraticetasika: Chế-ngự tâm-sở có 3 loại: chánh-ngữ tâm-sở, chánh-nghiệp tâm-sở, chánh-mạng tâm-sở là 3 tịnh-hảo tâm-sở đồng sinh với dục-giới đại-thiện-tâm hoặc siêu-tam-giới-tâm.
Trạng-thái riêng của viraticetasika có 4 pháp lakkhaṇādicatuka:
1- Viratiyo duccarita avītikkamalakkhaṇā chế-ngự tâm-sở không phạm mọi hành-ác là trạng-thái của chế-ngự tâm-sở,
2- Kāyaduccaritādivatthuto saṅkocanarasā sự thối lui khỏi 3 thân-hành-ác, 4 khẩu-nói-ác là phận sự của chế-ngự tâm-sở,
3- Akiriyapaccupaṭṭhānā không tạo mọi hành-ác, tránh xa mọi hành-ác là quả hiện hữu của chế-ngự tâm-sở,
4- Saddhāhirotappa appicchatādiguṇapadaṭ-ṭhānā đức-tin, hổ-thẹn tội lỗi, ghê-sợ tội lỗi, ít tham muốn, v.v… là nhân-duyên gần phát sinh viraticetasika.
Tà-Ngữ, Tà-Nghiệp, Tà-Mạng
* Nếu người nào có tác-ý tâm-sở đồng sinh với tham-tâm nói dối lường gạt người khác, để chiếm đoạt của cải tài-sản đem về nuôi mạng thì người ấy đã tạo khẩu-nói-ác liên quan đến nuôi mạng, nên thuộc về tà-ngữ và tà-mạng.
* Nếu người nào có tác-ý tâm-sở đồng sinh với sân-tâm ghét người, nên nói dối lường gạt họ, để gây thiệt hại của cải tài-sản, không chiếm đoạt thì người ấy đã tạo khẩu-nói-ác không liên quan đến nuôi mạng, nên chỉ thuộc về tà-ngữ mà không phải tà-mạng.
* Nếu người nào làm nghề đồ tể giết mổ gia súc bán thịt nuôi mạng thì người ấy đã tạo thân-hành-ác liên quan đến nuôi mạng, nên thuộc về tà-nghiệp và tà-mạng.
Nếu người nào thích câu cá, săn bắn thú rừng làm thú tiêu khiển, thì người ấy đã tạo thân-hành-ác không liên quan đến nuôi mạng, nên thuộc về tà-nghiệp mà không phải tà-mạng.
* Ba chế-ngự tâm-sở này đồng sinh với 16 hoặc 48 tịnh-hảo-tâm:
– 8 dục-giới đại-thiện-tâm,
– 8 hoặc 40 siêu-tam-giới-tâm,
* Ba chế-ngự tâm-sở không đồng sinh với 73 tâm còn lại:
– 12 bất-thiện-tâm,
– 18 vô-nhân-tâm,
– 8 dục-giới đại-quả-tâm,
– 8 dục-giới đại-duy-tác-tâm,
– 15 sắc-giới-tâm,
– 12 vô-sắc-giới-tâm.
Virati: chế-ngự có 3 loại:
1- Samādānavirati: Chế-ngự do thọ trì giới,
2- Sampattivirati: Chế-ngự do đối diện với đối- tượng,
3-Samucchedavirati: Chế-ngự do Thánh-đạo-tuệ.
Năng Lực Của Mỗi Chế-Ngự
* Năng lực của chế-ngự do thọ trì giới như thế nào?
Người nào trước đã thọ trì giới xong, về sau tiếp xúc trực tiếp với đối-tượng có thể phạm giới, nhưng người ấy chế-ngự do thọ trì giới, nên không phạm giới. Ví dụ:
* Buổi sáng, một cận-sự-nam đến chùa, đảnh lễ Ngài Đại-đức, xin thọ trì tam-quy cùng ngũ-giới, rồi trở về nhà dắt trâu ra đồng cày ruộng, cày xong, thả trâu đi ăn cỏ. Con trâu đi lạc, cận-sự-nam đi theo dấu chân trâu vào rừng, gặp con trăn lớn bò đến quấn chặt siết mạnh thân mình của ông, cận-sự-nam cảm giác vô cùng đau đớn, trên tay ông có sẵn con dao bén, cận-sự-nam có ý định giết con trăn để thoát chết, chợt nhớ lại rằng: “ Sáng nay, ta đã xin thọ trì tam-quy cùng ngũ-giới trước sự chứng minh của Ngài Đại-đức, có điều giới:
“Pāṇātipātā veramaṇisikkhāpadaṃ samā-diyāmi,” (Con xin thọ-trì điều giới, có tác-ý tránh xa sự sát-sinh,).
Bây giờ, muốn thoát chết, ta có ý định giết con trăn này thì phạm giới sát-sinh. Đó là điều không nên đối với ta là cận-sự-nam.”
Suy nghĩ như vậy, cận-sự-nam ném con dao ra xa, quyết tâm giữ gìn giới tránh xa sự sát-sinh.
Do năng lực của giới trong sạch của cận-sự-nam, nên con trăn lớn xả ra, rồi bò đi nơi khác.
Câu chuyện này, cận-sự-nam từ khi thọ trì ngũ-giới cho đến lúc đi vào rừng tìm con trâu, chưa gọi là virati: chế-ngự, khi quyết tâm giữ gìn giới tránh xa sự sát-sinh, mới gọi là samādānavirati: chế-ngự do thọ trì giới.
* Năng lực của chế-ngự do đối diện với đối-tượng như thế nào?
Tích cậu Jaggana tại đảo quốc Sīhala, nay gọi là Srilanka. Tích được tóm lược như sau:
Người mẹ lâm bệnh cần món thịt con thỏ nấu với thuốc, sai cậu Jaggana vào rừng bắt con thỏ. Vâng lời, cậu Jaggana mang bẫy vào rừng bắt được một con thỏ con, sẽ giết nó chết. Nhìn thấy thỏ con run sợ chết, cậu Jaggana phát sinh tâm bi thương xót, hổ-thẹn tội lỗi và ghê-sợ tội lỗi, tránh xa sự sát-sinh, nên thả con thỏ con được tự
do chạy vào rừng.
Cậu Jaggana trở về nhà, đến quỳ bên giường mẹ phát nguyện rằng: “Kính thưa mẹ, từ khi con hiểu biết cho đến nay, chưa từng có tác-ý sát hại chúng-sinh bao giờ. Do lời chân thật này, xin cho mẹ khỏi căn bệnh này.”
Sau khi cậu Jaggana phát nguyện xong, căn bệnh của mẹ cậu được khỏi hẳn.
Tích này, trước đó cậu Jaggana không thọ trì giới, khi tiếp xúc trực tiếp đối diện với thỏ con, không giết nó, tránh xa sự sát-sinh, nên gọi là sampattivirati: chế ngự do đối diện với đối-tượng.
* Năng lực của chế-ngự do Thánh-đạo-tuệ như thế nào?
Hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ, đến khi Thánh-đạo-tuệ đồng sinh với Thánh-đạo-tâm phát sinh có đối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới, nên diệt-đoạn-tuyệt được thân-hành-ác, khẩu-hành-ác, nên gọi là samucchedavirati: Chế-ngự do Thánh-đạo-tuệ.
3– Appamaññācetasika: Vô-lượng tâm-sở là tịnh-hảo tâm-sở đồng sinh với 8 dục-giới đại-thiện-tâm, 8 dục-giới đại-duy-tác-tâm, 3 đệ nhất thiền, 3 đệ nhị thiền, 3 đệ tam thiền, 3 đệ tứ thiền sắc-giới-tâm có đối-tượng chúng-sinh vô lượng.
Appamaññācetasika: Vô-lượng tâm-sở có 2 tâm-sở:
1- Karuṇācetasika: Bi tâm-sở,
2- Muditācetasika: Hỷ tâm-sở.
1- Karuṇācetasika: Bi tâm-sở là tâm-sở thương xót chúng-sinh đang khổ (dukkhitasattapaññatti).
Trạng-thái riêng của karuṇācetasika có 4 pháp lakkhaṇādicatuka:
1- Karuṇā paradukkhassa apanayanalakkhaṇā tâm bi thương xót người khác đang khổ, muốn cứu giúp người khác thoát khỏi cảnh khổ là trạng-thái của bi tâm-sở,
2- Tassa asahanarasā không thể nhẫn tâm nhìn thấy cảnh khổ người khác là phận sự của bi tâm-sở,
3- Ahiṃsā paccupaṭṭhānā không làm khổ chúng sinh là quả hiện hữu của bi tâm-sở,
4- Dukkhabhūtānamanāthabhāvadassana-padaṭṭhānā thấy cảnh khổ của chúng-sinh không có nơi nương nhờ là nhân-duyên gần phát sinh karuṇācetasika.
Tâm bi giả là thấy cảnh khổ người khác, không chịu nổi, nên phát sinh tâm sầu não.
Karuṇā tâm bi là 1 đề-mục-thiền-định niệm rải tâm bi trong 4 đề-mục-thiền-định tứ-vô-lượng-tâm. Đề-mục-thiền-định niệm rải tâm bi có đối-tượng-thiền-định là dukkhitasattapañ-ñatti: chúng sinh đang chịu trong cảnh khổ, có khả năng chỉ chứng đắc từ đệ nhất-thiền sắc-giới cho đến đệ tứ thiền sắc-giới mà thôi.
Đề-mục-thiền-định niệm rải tâm bi không có khả năng chứng đắc đệ ngũ thiền sắc-giới, bởi vì đề-mục-thiền-định này cần có chi thiền lạc, mà đệ ngũ thiền sắc-giới chỉ có 2 chi thiền xả và nhất-tâm mà thôi.
* Karuṇācetasika: bi tâm-sở đồng sinh với 28 tịnh-hảo-tâm:
– 8 dục-giới đại-thiện-tâm,
– 8 dục-giới đại-duy-tác-tâm,
– 3 đệ nhất thiền, 3 đệ nhị thiền, 3 đệ tam thiền,
3 đệ tứ thiền sắc-giới-tâm.
* Karuṇācetasika: bi tâm-sở không đồng sinh với 61 tâm còn lại:
– 12 bất-thiện-tâm,
– 18 vô-nhân-tâm,
– 8 dục-giới đại-quả-tâm,
– 3 đệ ngũ thiền sắc-giới-tâm,
– 12 vô-sắc-giới-tâm,
– 8 hoặc 40 siêu-tam-giới-tâm.
2- Muditācetasika: Hỷ tâm-sở là tâm-sở hoan-hỷ với chúng-sinh đang hưởng an lạc (sukhitasattapaññatti).
Trạng-thái riêng của karuṇācetasika có 4 pháp lakkhaṇādicatuka:
1- Muditā pamodanalakkhaṇā tâm hỷ hoan-hỷ thấy người khác đang hưởng an lạc là trạng-thái của hỷ tâm-sở,
2- Anissāyanarasā không có ganh tỵ của cải tài-sản, … của người khác là phận sự của hỷ tâm-sở,
3- Arativighātapaccupaṭṭhānā diệt tâm ganh tỵ là quả hiện hữu của hỷ tâm-sở,
4- Lakkhīdassanapadaṭṭhānā thấy sự hạnh-phúc an lạc đầy đủ của người khác là nhân-duyên gần phát sinh karuṇācetasika.
Tâm hỷ giả là hoan-hỷ đồng sinh với tham-tâm thấy đối-tượng tốt đáng hài lòng.
Muditā tâm hỷ là 1 đề-mục-thiền-định niệm rải tâm hỷ trong 4 đề-mục-thiền-định tứ-vô-lượng-tâm. Đề-mục-thiền-định niệm rải tâm hỷ có đối-tượng-thiền-định là sukhitasattapaññatti: chúng sinh đang hưởng sự an-lạc, có khả năng chỉ chứng đắc từ đệ nhất-thiền sắc-giới cho đến đệ tứ thiền sắc-giới mà thôi.
Đề-mục-thiền-định niệm rải tâm hỷ không có khả năng chứng đắc đệ ngũ thiền sắc-giới, bởi vì đề-mục-thiền-định này cần có chi thiền lạc, mà đệ ngũ thiền sắc-giới chỉ có 2 chi thiền xả và nhất-tâm mà thôi.
* Muditācetasika: hỷ tâm-sở đồng sinh với 28 tịnh-hảo-tâm, và không đồng sinh với 61 tâm còn lại giống như karuṇācetasika: bi tâm-sở.
Vấn: Appamaññā có 4 đề-mục-thiền-định tứ-vô-lượng-tâm là mettā, karuṇā, muditā, upekkhā, tại sao trong phần appamaññācetasika: vô-lượng tâm-sở chỉ có 2 tâm-sở là karuṇā-cetasika: bi tâm-sở và muditācetasika: hỷ tâm-sở mà thôi ?
Đáp: Appamaññā có 4 đề-mục-thiền-định tứ-vô-lượng-tâm là mettā, karuṇā, muditā, upekkhā:
* Đề-mục thiền-định niệm rải tâm-từ (mettā) đến chúng-sinh vô-lượng có chi pháp là adosacetasika: vô-sân tâm-sở có đối-tượng thiền-định piyamanāpasattapaññatti: chúng-sinh đáng thương đáng kính.
* Đề-mục thiền-định niệm rải tâm-bi (karuṇā) đến chúng-sinh vô-lượng có chi pháp là karuṇācetasika: bi tâm-sở có đối-tượng thiền-định dukkhitasattapaññatti: chúng-sinh đang khổ,
* Đề-mục thiền-định niệm rải tâm-hỷ (muditā) đến chúng-sinh vô-lượng có chi pháp là muditācetasika: hỷ tâm-sở có đối-tượng thiền-định sukhitasattapaññatti: chúng-sinh đang hưởng an lạc,
* Đề-mục thiền-định niệm rải tâm-xả (upekkhā) đến chúng-sinh vô-lượng có chi pháp là tatramajjhattatācetasika: trung-dung tâm-sở có đối-tượng thiền-định majjhattasattapaññatti: chúng-sinh không thương không ghét.
Như vậy, 2 tâm-sở là adosacetasika và tatramajjhattatācetasika là 2 chi pháp của đề mục thiền-định mettā và đề mục thiền-định upekkhā đã trình bày trong phần cetasika, chỉ còn karuṇācetasika và muditācetasika mà thôi.
4– Paññindriyacetasika có 1 tâm-sở:
1- Paññindriyacetasika: Tuệ-chủ tâm-sở là trí-tuệ kammassakatāpaññā biết rõ thiện-nghiệp, bất-thiện-nghiệp nào mà ta đã tạo là của riêng, ta sẽ hưởng quả của nghiệp ấy, là trí-tuệ thấy rõ biết rõ thật-tánh của danh-pháp, sắc-pháp, là trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ biết rõ sự sinh, sự diệt của danh-pháp, sắc-pháp, thấy rõ biết rõ 3 trạng-thái chung: trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của danh-pháp, sắc-pháp, đặc biệt nhất là trí-tuệ-thiền-tuệ dẫn đến chứng-ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn.
Trí-tuệ (paññā) này là chủ (indriya) có khả năng đặc biệt diệt được vô-minh (avijjā), cho nên gọi là paññindriyacetasika: tuệ-chủ tâm-sở.
Trạng-thái của paññindriyacetasika có 4 pháp lakkhaṇādicatuka:
1- Paññāpaṭivedhalakkhaṇā là tuệ-chủ có khả năng đặc biệt nhất là chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn là trạng-thái của tuệ-chủ tâm-sở,
2- Visayobhāsanarasā thấy rõ biết rõ thật-tánh của các đối-tượng là phận sự của tuệ-chủ tâm-sở,
3- Asammohapaccupaṭṭhānā không mê muội, sáng suốt là quả hiện hữu của tuệ-chủ tâm-sở,
4- Yonisomanasikārapadaṭṭhānā trí-tuệ biết rõ trong tâm đúng theo thật-tánh của các pháp là nhân-duyên gần phát sinh paññindriyacetasika.
* Paññindriyacetasika: tuệ-chủ tâm-sở chỉ đồng sinh với 47 hoặc 79 tâm:
– 12 dục-giới tịnh-hảo-tâm hợp với trí-tuệ,
– 15 sắc-giới-tâm,
– 12 vô-sắc-giới-tâm,
– 8 hoặc 40 siêu-tam-giới-tâm mà thôi.
* Paññindriyacetasika: tuệ-chủ tâm-sở không đồng sinh với 42 tâm còn lại:
– 12 bất-thiện-tâm,
– 18 vô-nhân-tâm,
– 12 dục-giới tịnh-hảo-tâm không hợp với trí.
* Nếu trí-tuệ đồng sinh với 4 dục-giới đại-thiện-tâm hợp với trí thì gọi là:
* Kammassakatāpaññā: Trí-tuệ biết rõ thiện-nghiệp, bất-thiện-nghiệp nào mà ta đã tạo rồi là
của riêng, ta sẽ hưởng quả của nghiệp ấy.
* Mahaggatapaññā: trí-tuệ đồng sinh với 5 bậc thiền sắc-giới, 4 bậc thiền vô-sắc-giới.
* Lokiyavipassanā: Trí-tuệ-thiền-tuệ tam-giới thấy rõ biết rõ sự sinh, sự diệt của danh-pháp, sắc-pháp, thấy rõ biết rõ 3 trạng-thái chung: trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của danh-pháp, sắc-pháp.
* Lokuttaravipassanā: Trí-tuệ-thiền-tuệ siêu-tam-giới đồng sinh với 4 hoặc 20 Thánh-đạo-tâm và 4 hoặc 20 Thánh-quả-tâm có đối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới.
Aniyatayogīcetasika: Bất-Định Tâm-Sở
52 tâm-sở đồng sinh với tâm có 2 loại:
1- Niyatayogīcetasika: Cố-định-tâm-sở có 41 tâm-sở chắc chắn đồng sinh với tâm,
2-Aniyatayogīcetasika: Bất-định tâm-sở có 11 tâm-sở không chắc chắn, khi thì đồng sinh, khi thì không đồng sinh với tâm
Bất-định tâm-sở có 11 tâm-sở:
– Mānacetasika: Ngã-mạn tâm-sở,
– Issācetasika: Ganh-tỵ tâm-sở,
– Macchariyacetasika: Keo-kiệt tâm-sở,
– Kukkuccacetasika: Hối-hận tâm-sở,
– Thinacetasika: Buồn-chán tâm-sở,
– Middhacetasika: Buồn-ngủ tâm-sở,
– Sammāvācācetasika: Chánh-ngữ tâm-sở,
– Sammākammantacetasika: Chánh-nghiệp tâm-sở,
– Sammā-ājīvacetasika: Chánh-mạng tâm-sở,
– Karuṇācetasika: Bi tâm-sở,
– Muditācetasika: Hỷ tâm-sở.
11 bất-định tâm-sở này không chắc chắn khi thì đồng sinh với tâm, khi thì không đồng sinh với tâm, chia ra làm 3 loại:
1– Nānākadācicetasika: Tâm-sở sinh riêng rẽ,
khi thì đồng sinh với tâm, khi thì không đồng sinh với tâm có 8 bất-định tâm-sở là:
1- Issācetasika: ganh-tỵ tâm-sở,
2- Macchariyacetasika: keo-kiệt tâm-sở,
3- Kukkuccacetasika: hối-hận tâm-sở,
4- Sammāvācācetasika: chánh-ngữ tâm-sở,
5- Sammākammantacetasika: chánh-nghiệp tâm-sở,
6- Sammā-ājīvacetasika: chánh-mạng tâm-sở,
7- Karuṇācetasika: bi tâm-sở,
8- Muditācetasika: hỷ tâm-sở.
Tám bất-định tâm-sở này, mỗi tâm-sở có mỗi đối-tượng khác nhau, cho nên mỗi tâm-sở sinh riêng rẽ, không chắc chắn, khi thì không đồng sinh với tâm tương xứng, khi thì đồng sinh với tâm tương xứng, nên gọi là nānākadācicetasika
* Ganh-tỵ tâm-sở, keo-kiệt tâm-sở, hối-hận tâm-sở (trong nhóm sân 4 tâm-sở) mỗi bất-định tâm-sở này có mỗi đối-tượng khác nhau, nên sinh riêng rẽ, không chắc chắn, khi đồng sinh với 2 sân-tâm, khi không đồng sinh với 2 sân-tâm.
* Viraticetasika: Chế-ngự tâm-sở có 3 tâm-sở là chánh-ngữ tâm-sở, chánh-nghiệp tâm-sở, chánh- mạng tâm-sở đồng sinh với 16 hoặc 48 tâm.
Nếu 3 chế-ngự tâm-sở là lokiyaviraticetasika thuộc về aniyatayogīcetasika: bất-định tâm-sở loại nānākadācicetasika thì mỗi bất-định tâm-sở đồng sinh riêng rẽ trong 8 dục-giới đại-thiện-tâm.
* Nếu 3 chế-ngự tâm-sở là lokuttaravirati-cetasika thuộc về loại niyata-ekatocetasika thì 3 chế-ngự tâm-sở này chắc chắn cùng đồng sinh với nhau trong 8 hoặc 40 siêu-tam-giới-tâm.
* Bi tâm-sở và hỷ tâm-sở thuộc về vô-lượng tâm-sở (appamaññācetasika), mà mỗi bất-định tâm-sở có mỗi đối-tượng chúng-sinh khác nhau, nên mỗi tâm-sở sinh riêng rẽ, không chắc chắn, khi thì không đồng sinh, khi thì đồng sinh với 8 dục-giới đại-thiện-tâm, 8 dục-giới đại-duy-tác-tâm, 3 đệ-nhất-thiền, 3 đệ-nhị-thiền, 3 đệ-tam-thiền, 3 đệ-tứ-thiền sắc-giới-tâm, nên gọi là nānākadācicetasika.
2- Kadācicetasika: Bất-định tâm-sở khi không, khi có không chắc chắn chỉ có 1 bất-định tâm-sở là ngã-mạn tâm-sở (trong nhóm tham 3 tâm-sở), khi đồng sinh với 4 tham-tâm không hợp với tà-kiến, khi không đồng sinh với 4 tham-tâm không hợp với tà-kiến, nên gọi là kadācicetasika.
3- Sahakadācicetasika: Bất-định tâm-sở khi cùng có, khi cùng không, không chắc chắn có 2 tâm-sở là buồn-chán tâm-sở và buồn-ngủ tâm-sở là 2 tâm-sở cùng đồng sinh với 5 bất-thiện-tâm cần tác-động (4 tham-tâm cần tác-động và 1 sân-tâm cần tác-động), nên gọi là sahakadāci-cetasika.
Giảng Giải Bất-Định Tâm-Sở
* Ngã-mạn-tâm-sở (mānacetasika) là bất-định tâm-sở không chắc chắn, khi thì đồng sinh với 4 tham-tâm không hợp với tà-kiến, khi thì không đồng sinh với 4 tham-tâm không hợp với tà-kiến.
Khi tham-tâm không hợp với tà-kiến phát sinh nếu có ngã-mạn chấp ngã tự sánh mình với người thì ngã-mạn tâm-sở đồng sinh với tham-tâm không hợp với tà-kiến ấy; nhưng nếu không có ngã-mạn chấp ngã tự sánh mình với người thì ngã-mạn tâm-sở không đồng sinh với 4 tham-tâm không hợp với tà-kiến ấy.
Vì vậy, mānacetasika gọi là kadācicetasika.
* Ganh-tỵ tâm-sở, keo-kiệt tâm-sở, hối-hận tâm-sở (trong nhóm sân có 4 tâm-sở), 3 bất-định tâm-sở này, mỗi tâm-sở có mỗi đối-tượng khác nhau, nên mỗi tâm-sở sinh riêng rẽ, không chắc chắn, khi đồng sinh với 2 sân-tâm, khi không đồng sinh với 2 sân-tâm.
* Nếu khi nào sân-tâm phát sinh mà không có ganh-tỵ cũng không có keo-kiệt cũng không có hối-hận, mà có đối-tượng khác thì cả 3 tâm-sở ganh-tỵ, keo-kiệt, hối-hận không có tâm-sở nào đồng sinh với sân-tâm ấy.
* Nếu khi nào sân-tâm phát sinh có ganh-tỵ thì khi ấy ganh-tỵ tâm-sở đồng sinh với sân-tâm ấy, mà không có 2 tâm-sở keo-kiệt, hối-hận.
* Nếu khi nào sân-tâm phát sinh có keo-kiệt thì khi ấy keo-kiệt tâm-sở đồng sinh với sân-tâm ấy, mà không có 2 tâm-sở ganh-tỵ, hối-hận.
* Nếu khi nào sân-tâm phát sinh có hối-hận thì khi ấy hối-hận tâm-sở đồng sinh với sân-tâm ấy, mà không có 2 tâm-sở ganh-tỵ, keo-kiệt.
Vì vậy, 3 bất-định tâm-sở issācetasika, macchariyacetasika, kukkuccacetasika gọi là nānākadācicetasika.
* Buồn-chán tâm-sở và buồn-ngủ tâm-sở là 2 tâm-sở cùng đồng sinh với 5 bất-thiện-tâm cần tác-động (4 tham-tâm cần tác-động và 1 sân-tâm cần tác-động) không chắc chắn, bởi vì:
* Nếu khi nào bất-thiện-tâm cần tác-động nào phát sinh, nhưng bất-thiện-tâm ấy vẫn có năng lực biết đối-tượng, không chán nản, không buông bỏ đối-tượng thì khi ấy buồn-chán tâm-sở và buồn-ngủ tâm-sở không đồng sinh với bất-thiện-tâm cần tác-động ấy.
* Nếu khi nào bất-thiện-tâm cần tác-động nào phát sinh, nhưng bất-thiện-tâm ấy không còn năng lực biết đối-tượng, chán nản, buông bỏ đối-tượng thì khi ấy buồn-chán tâm-sở và buồn-ngủ tâm-sở đều đồng sinh với bất-thiện-tâm cần tác-động ấy.
Vì vậy, 2 bất-định tâm-sở thinacetasika, middhacetasika gọi là sahakadācicetasika
* Chế-ngự-tâm-sở có 3 tâm-sở là chánh-ngữ tâm-sở, chánh-nghiệp tâm-sở, chánh-mạng tâm-sở đồng sinh với 16 hoặc 48 tịnh-hảo-tâm.
*Nếu 3 chế-ngự tâm-sở là lokiyaviraticetasika tam-giới chế-nhự tâm-sở thuộc về aniyatayogī-cetasika: bất-định tâm-sở loại nānākadāci-cetasika thì mỗi bất-định tâm-sở đồng sinh riêng rẽ trong 8 dục-giới đại-thiện-tâm, bởi vì:
* Nếu khi nào dục-giới đại-thiện-tâm phát sinh do đức-tin, trí-tuệ, v.v… không liên quan đến sự tránh xa 3 thân-hành-ác, sự tránh xa 4 khẩu-hành-ác, sự nuôi-mạng thì khi ấy 3 chế-ngự-tâm-sở không có tâm-sở nào đồng sinh với dục-giới đại-thiện-tâm ấy.
* Nếu khi nào dục-giới đại-thiện-tâm phát sinh để tránh xa 4 khẩu-hành-ác, không liên quan đến sự nuôi-mạng thì khi ấy chỉ có chánh-ngữ tâm-sở đồng sinh với dục-giới đại-thiện-tâm ấy mà thôi, còn chánh-nghiềp và chánh-mạng không đồng sinh với tâm ấy.
* Nếu khi nào dục-giới đại-thiện-tâm phát sinh để tránh xa 3 thân-hành-ác, không liên quan đến sự nuôi-mạng thì khi ấy chỉ có chánh-nghiệp tâm-sở đồng sinh với dục-giới đại-thiện-tâm ấy mà thôi, còn chánh-ngữ và chánh-mạng không đồng sinh với tâm ấy.
* Nếu khi nào dục-giới đại-thiện-tâm phát sinh nuôi mạng chân chánh không liên quan đến
khẩu-hành-ác và thân-hành-ác thì khi ấy chỉ có chánh-mạng tâm-sở đồng sinh với dục-giới đại-thiện-tâm ấy mà thôi, còn chánh-ngữ và chánh-nghiệp không đồng sinh với dục-giới đại-thiện-tâm ấy.
* Nếu khi nào dục-giới đại-thiện-tâm phát sinh để tránh xa khẩu-hành-ác liên quan đến sự nuôi-mạng thì khi ấy có chánh-ngữ tâm-sở và chánh-mạng tâm-sở đồng sinh với dục-giới đại-thiện-tâm ấy.
* Nếu khi nào dục-giới đại-thiện-tâm phát sinh để tránh xa thân-hành-ác liên quan đến sự nuôi-mạng thì khi ấy có chánh-nghiệp tâm-sở và chánh-mạng tâm-sở đồng sinh với dục-giới đại-thiện-tâm ấy.
Vì vậy, 3 tâm-sở sammāvācācetasika, sammā-kammantacetasika, sammā-ājīvacetasika gọi là nānākadācicetasika.
* Nếu 3 chế-ngự tâm-sở là lokuttaravirati-cetasika thuộc về loại niyata-ekatocetasika thì 3 chế-ngự tâm-sở này chắc chắn cùng đồng sinh với nhau trong 8 hoặc 40 siêu-tam-giới-tâm.
* Khi chế-ngự-tâm-sở có 3 tâm là chánh-ngữ tâm-sở, chánh-nghiệp tâm-sở, chánh-mạng tâm-sở thuộc về lokuttaraviraticetasika:siêu-tam-giới tâm-sở chắc chắn đồng sinh với 4 hoặc 20 Thánh-đạo-tâm và 4 hoặc 20 Thánh-quả-tâm có cùng đối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới.
Trong Thánh-đạo-tâm và Thánh-quả-tâm có đầy đủ 8 chánh: chánh-kiến, chánh-tư-duy, chánh-ngữ, chánh-nghiệp, chánh-mạng, chánh-tinh-tấn, chánh-niệm, chánh-định có đối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới. Cho nên chánh-ngữ tâm-sở, chánh-nghiệp tâm-sở, chánh-mạng tâm-sở là 3 chế-ngự tâm-sở gọi là niyata-ekatocetasika cùng đồng sinh với 4 hoặc 20 Thánh-đạo-tâm và 4 hoặc 20 Thánh-quả-tâm có đối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới.
* Appamaññācetasika: Vô-lượng tâm-sở có 2 tâm-sở là bi tâm-sở (karuṇācetasika) và hỷ tâm-sở (muditācetasika) là 2 bất-định tâm-sở không chắc chắn, khi đồng sinh, khi không đồng sinh với 28 tịnh-hảo-tâm.
* Nếu khi nào dục-giới đại-thiện-tâm phát sinh do đức-tin, trí-tuệ, chánh-ngữ, v.v… không liên quan đến sự thương xót chúng-sinh đang khổ (dukkhitasattapaññatti), hoặc hoan-hỷ đối với chúng-sinh đang hưởng sự an lạc (sukhita-sattapaññatti) thì khi ấy vô-lượng tâm-sở không phát sinh.
* Nếu khi nào hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-định với đề-mục-thiền-định kasiṇa dẫn đến chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới-tâm, không phải đề-mục-thiền-định sattapaññatti: chúng-sinh chế- định thì khi ấy vô-lượng tâm-sở không đồng sinh với các tâm ấy.
* Nhưng nếu khi nào hành-giả có dục-giới đại-thiện-tâm, dục-giới đại-duy-tác-tâm, sắc-giới thiền-thiện-tâm phát sinh do đề-mục niệm rải tâm-bi đến dukkhitasattapaññatti: chúng-sinh đang khổ thì khi ấy bi tâm-sở đồng sinh với 28 tịnh-hảo-tâm đó là 8 dục-giới đại-thiện-tâm, 8 dục-giới đại-duy-tác-tâm, 12 sắc-giới thiền–tâm (trừ 3 đệ-ngũ-thiền sắc-giới-tâm), còn hỷ tâm-sở không đồng sinh với 28 tâm ấy.
* Nếu khi nào hành-giả có dục-giới đại-thiện-tâm, dục-giới đại-duy-tác-tâm, sắc-giới thiền-tâm phát sinh do đề-mục niệm rải tâm-hỷ đến sukhitasattapaññatti: chúng-sinh đang hưởng an lạc thì khi ấy hỷ tâm-sở đồng sinh với 28 tịnh-hảo-tâm đó là 8 dục-giới đại-thiện-tâm, 8 dục-giới đại-duy-tác-tâm, 12 sắc-giới thiền-tâm (trừ 3 đệ-ngũ-thiềtn sắc-giới-tâm), còn bi tâm-sở không đồng sinh với 28 tâm ấy.
Vì vậy, 2 bất-định tâm-sở karuṇācetasika, và muditācetasika gọi là nānākadācicetasika.
2- Niyatayogīcetasika: Cố-định tâm-sở là tâm-sở chắc chắn đồng sinh với tâm, có 41 tâm sở:
– Sabbacittasādhāraṇacetasika có 7 tâm-sở,
– Pakiṇṇakacetasika có 6 tâm-sở,
– Mocatukacetasika có 4 tâm-sở,
– Lobhacetasika có 1 tâm-sở,
– Diṭṭhicetasika có 1 tâm-sở,
– Dosacetasika có 1 tâm-sở,
– Vicikicchācetasika có 1 tâm-sở,
– Sobhaṇasādhāraṇacetasika có 19 tâm-sở,
– Paññindriyacetasika có 1 tâm-sở,
Gồm có 41 tâm-sở đồng sinh với tâm cố-định.
* Sabbacittasādhāraṇacetasika có 7 tâm-sở chắc chắn đồng sinh với 89 hoặc 121 tâm.
* Pakiṇṇakacetasika có 6 tâm-sở đồng sinh rải rác với các tâm thích hợp theo tuần tự 55 tâm, 66 tâm, 78 hoặc 110 tâm, 73 hoặc 105 tâm, 51 tâm, 69 hoặc 101 tâm.
* Mocatukacetasika có 4 tâm-sở là moha-cetasika, ahirikacetasika, anottappacetasika, uddhaccacetasika chắc chắn chỉ đồng sinh với 12 bất-thiện-tâm mà thôi.
* Lobhacetasika chắc chắn chỉ đồng sinh với 8 tham-tâm mà thôi.
* Diṭṭhicetasika chắc chắn chỉ đồng sinh với 4 tham-tâm hợp với tà-kiến mà thôi.
* Dosacetasika chắc chắn chỉ đồng sinh với 2 sân-tâm mà thôi.
* Vicikicchācetasika chắc chắn chỉ đồng sinh với si-tâm hợp với hoài-nghi mà thôi.
* Sobhaṇasādhāraṇacetasika có 19 tâm-sở chắc chắn chỉ đồng sinh với 59 hoặc 91 tịnh-hảo-tâm mà thôi.
* Paññindriyacetasika chắc chắn chỉ đồng sinh với 47 hoặc 79 tịnh-hảo-tâm hợp với trí-tuệ mà thôi.
Vì vậy, 41 tâm-sở này gọi là niyatayogī- cetasika là những tâm-sở chắc chắn đồng sinh với các tâm ấy.
Tuy nhiên, nếu khi nào 3 viraticetasika là chánh-ngữ tâm-sở, chánh-nghiệp tâm-sở, chánh-mạng tâm-sở cả 3 tâm-sở này cùng nhau đồng sinh với 4 hoặc 20 Thánh-đạo-tâm và 4 hoặc 20 Thánh-quả-tâm) có chung đối-tượng Niết-bàn thì khi ấy 3 viraticetasika này cũng ghép chung vào loại niyatayogīcetasika, đặc biệt có tên riêng gọi là niyata-ekatocetasika 3 tâm-sở đồng sinh với 8 hoặc 40 siêu-tam-giới-tâm cùng một lúc.
Phần – 2.3
Nghiệp Và Quả Của Nghiệp
Trong quyển sách nhỏ này chỉ đề cập đến 12 bất-thiện-tâm và 8 dục-giới đại-thiện-tâm và quả của 20 dục-giới-tâm này mà thôi, không giảng giải đến 5 sắc-giới thiện-tâm, 4 vô-sắc-giới thiện-tâm, 4 siêu-tam-giới thiện-tâm.
Tác-ý tâm-sở (cetanācetasika) đồng sinh với 12 bất-thiện-tâm (ác-tâm) gọi là 12 bất-thiện-nghiệp hoặc 12 ác-nghiệp, và tác-ý tâm-sở đồng sinh với 8 dục-giới đại-thiện-tâm gọi là 8 dục-giới đại-thiện-nghiệp.
Mỗi bất-thiện-nghiệp hoặc ác-nghiệp, mỗi dục-giới đại-thiện-nghiệp nếu có cơ hội thì cho quả ngay trong kiếp hiện-tại, kiếp sau kế tiếp và kể từ kiếp thứ 3 cho đến kiếp chót của bậc Thánh-A-ra-hán, trước khi tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong tam-giới.
Đức-Phật dạy nghiệp rằng:
“Cetanā’haṃ bhikkhave kammaṃ vadāmi, cetayitvā kammaṃ karoti kāyena vā vācāya vā manasā.”[1]
– Này chư tỳ-khưu! Sau khi đã tác-ý rồi, mới tạo nghiệp bằng thân, bằng khẩu, bằng ý. Vì vậy Như-lai dạy: ‘tác-ý là nghiệp.’
Đức-Phật dạy nghiệp và quả của nghiệp mà các hàng Thanh-văn đệ tử hằng ngày nên thường suy xét rằng:
“Kammassako’mhi,kammadāyādo kammayoṇi kammabandhu kammappaṭisaraṇo, yaṃ kam-maṃ karissāmi kalyāṇaṃ vā pāpakaṃ vā, tassa dāyādo bhavissāmi.”[2]
“Ta có nghiệp là của riêng, ta là người thừa hưởng quả của nghiệp, nghiệp là nhân sinh ra ta, nghiệp là bà con thân quyến của ta, nghiệp là nơi nương nhờ của ta. Ta tạo nghiệp nào ‘thiện-nghiệp hoặc ác-nghiệp, ta sẽ là người thừa hưởng quả của thiện-nghiệp hoặc ác-nghiệp ấy.”
Thiện-nghiệp cho quả tốt là tâm an lạc, thân an lạc, bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) cho quả xấu là khổ tâm, khổ thân.
Như vậy, nếu ta đã tạo thiện-nghiệp thì chắc chắn ta sẽ thừa hưởng quả tốt là tâm an lạc, thân an lạc đó là quả của thiện-nghiệp.
Nếu ta đã tạo ác-nghiệp thì chắc chắn ta sẽ chịu quả xấu là khổ tâm, khổ thân đó là quả của ác-nghiệp.
Nghiệp nào cho quả ấy thật là công bằng, không hề thiên vị một ai cả, như Đức-Bồ-tát tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama đã tạo thiện-nghiệp 30 pháp-hạnh ba-la-mật đầy đủ, nên Ngài trở thành Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Gotama, và tiền-kiếp của Ngài đã tạo ác-nghiệp, nên kiếp-hiện-tại Ngài cũng phải chịu quả xấu của ác-nghiệp của Ngài.[3]
Đức-Phật dạy nghiệp và quả của nghiệp rằng:
“Yādisaṃ vapate bījaṃ,
tādisaṃ harate phalaṃ.
Kalyāṇakārī kalyāṇaṃ,
pāpakārī ca pāpakaṃ.[4]
(Người nào gieo hạt giống thế nào,
Người ấy gặt quả như thế ấy.
Người hành thiện thì được quả thiện,
Người hành ác thì được quả ác.)
* Akusalacitta: Bất-Thiện-Tâm
Akusalacitta: Bất-thiện-tâm (ác-tâm) có 12 tâm, tác-ý (cetanā) đồng sinh với 12 ác-tâm gọi là 12 bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp).
12 bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) phát sinh do nương nhờ thân-môn, khẩu-môn, ý-môn. Vì vậy, bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) có 3 loại:
– Bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) phát sinh do nương nhờ thân-môn, gọi là thân-bất-thiện-nghiệp hoặc thân-ác-nghiệp,
– Bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) phát sinh do nương nhờ khẩu-môn, gọi là khẩu-bất-thiện-nghiệp hoặc khẩu-ác-nghiệp,
– Bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) phát sinh do nương nhờ ý-môn, gọi là ý-bất-thiện-nghiệp hoặc ý-ác-nghiệp.
Ác-Nghiệp Có 10 Loại Tính Theo 3 Môn
1- Thân-ác-nghiệp (Akusalakāyakamma) là ác-nghiệp phát sinh do nương nhờ nơi thân, tạo 3 ác-nghiệp bằng thân:
– Ác-nghiệp sát-sinh,
– Ác-nghiệp trộm-cắp,
– Ác-nghiệp tà-dâm.
3 thân-ác-nghiệp này phần nhiều phát sinh do nương nhờ nơi thân, còn gọi là thân-hành-ác (kāyaduccarita),
2- Khẩu-ác-nghiệp (Akusalavacīkamma) là ác-nghiệp phát sinh do nương nhờ nơi khẩu, tạo 4 ác-nghiệp bằng khẩu:
– Ác-nghiệp nói dối,
– Ác-nghiệp nói lời chia-rẽ,
– Ác-nghiệp nói lời thô-tục,
– Ác-nghiệp nói lời vô-ích.
4 khẩu-ác-nghiệp này phần nhiều phát sinh do nương nhờ nơi khẩu, còn gọi là khẩu-hành-ác (vacīduccarita),
3- Ý-ác-nghiệp (Akusalamanokamma) là ác-nghiệp phát sinh do nương nhờ nơi ý, tạo 3 ác-nghiệp bằng ý:
– Ác-nghiệp tham-lam tài sản của người khác,
– Ác-nghiệp thù-hận người khác,
– Ác-nghiệp tà-kiến thấy sai chấp lầm.
3 Ý-ác-nghiệp này phần nhiều phát sinh do nương nhờ nơi ý, còn gọi là ý-hành-ác (mano-duccarita).
Ác-Nghiệp Phát Sinh Do Gốc Ác-Tâm
10 ác-nghiệp phát sinh do gốc ác-tâm:
– 3 ác-nghiệp là ác-nghiệp sát-sinh, ác-nghiệp nói lời thô-tục, ác-nghiệp thù-hận cả 3 ác-nghiệp này phát sinh do gốc sân-tâm (dosa-mūlacitta).
– 3 ác-nghiệp là ác-nghiệp tà-dâm, ác-nghiệp tham-lam, ác-nghiệp tà-kiến, cả 3 ác-nghiệp này này phát sinh do gốc tham-tâm (lobhamūlacitta).
– 4 ác-nghiệp là ác-nghiệp trộm-cắp, ác-nghiệp nói dối, ác-nghiệp nói lời chia-rẽ, ác-nghiệp nói lời vô-ích cả 4 ác-nghiệp này phát sinh do gốc tham-tâm (lobhamūlacitta), hoặc phát sinh do gốc sân-tâm (dosamūlacitta).
– Ác-nghiệp trộm-cắp phát sinh do gốc tham-tâm là muốn trộm-cắp của cải tài-sản của người khác, đem về làm của riêng mình, hoặc cho gia đình của mình.
– Ác-nghiệp trộm-cắp phát sinh do gốc sân-tâm là trộm-cắp của cải tài-sản của người khác, không đem về làm của riêng mình, mà chỉ phá hoại của cải tài-sản của người khác, để trả thù mà thôi.
– Ác-nghiệp nói dối phát sinh do gốc tham-tâm là muốn lừa gạt người khác để có lợi cho mình.
– Ác-nghiệp nói dối phát sinh do gốc sân-tâm là nói dối, vu oan giá hoạ người ấy để trả thù, làm khổ người ấy, hoặc làm cho người khác phát sinh nóng nảy khổ tâm.
– Ác-nghiệp nói lời chia-rẽ phát sinh do gốc tham-tâm là muốn chia-rẽ 2 người ấy nghi kỵ ghét bỏ lẫn nhau, để có lợi cho mình.
– Ác-nghiệp nói lời vô-ích phát sinh do gốc tham-tâm là nói lời vô-ích hài hước, nói chuyện khôi hài, hài kịch, … cho những người nghe, xem, để đem lại lợi cho mình.
– Ác-nghiệp nói lời vô-ích phát sinh do gốc sân-tâm là nói lời vô-ích, chuyện hoang đường không có thật, làm cho người nghe nổi cơn bực tức, mất lợi ích, …
Còn 10 ác-nghiệp chung phát sinh đều có gốc si-tâm trong mỗi ác-nghiệp.
Ác-Nghiệp Uống Rượu Và Các Chất Say
Vấn: Tại sao trong 10 ác-nghiệp không đề cập đến ác-nghiệp uống rượu và các chất say?
Vậy, uống rượu và các chất say thuộc về ác-nghiệp nào trong 10 ác-nghiệp?
Đáp: Uống rượu và các chất say là 1 giới trong ngũ-giới, trong bát-giới uposathasīla, v.v… của người tại-gia và của bậc xuất-gia, nhưng trong 10 loại ác-nghiệp, uống rượu và các chất say không quy định rõ một ác-nghiệp riêng rẽ, bởi vì uống rượu và các chất say là ác-nghiệp có tính chất bất định. Cho nên, uống rượu và các chất say không chế định riêng một ác-nghiệp.
Sự uống rượu và các chất say dĩ nhiên là ác-nghiệp mà ác-nghiệp này có tính chất bất định, để xác định uống rượu và các chất say thuộc về ác-nghiệp nào trong 10 ác-nghiệp, cần phải xét từng trường-hợp đối với người uống rượu và các chất say như sau:
* Trường-hợp nếu người nào uống rượu và các chất say, cốt để thưởng thức vị của rượu hoặc các chất say, rồi say tuý luý, không còn biết mình, ngủ say cho đến khi tỉnh say rượu, thì người ấy thưởng thức vị và hương của rượu hoặc các chất say, giống như người tạo ác-nghiệp tà-dâm cốt chỉ để thưởng thức xúc và hương của người khác phái.
Trong trường-hợp này, người uống rượu và các chất say đã tạo ác-nghiệp như là ác-nghiệp tà-dâm.
* Trường-hợp người nào vốn có tính nhút nhát, biết hổ-thẹn tội lỗi, biết ghê-sợ tội lỗi, không dám làm mọi ác-nghiệp, nhưng khi người ấy uống rượu hoặc các chất say vào, chất rượu hoặc các chất say kích thích tham-tâm, sân-tâm, si-tâm, người ấy trở nên hung hăng, bạo dạn, liều lĩnh, không còn biết hổ-thẹn tội lỗi, không còn biết ghê-sợ tội lỗi nữa, nên dám tạo 10 loại ác-nghiệp.
Trong trường-hợp này, nếu người ấy tạo ác-nghiệp nào thì uống rượu và các chất say đã tạo ác-nghiệp ấy. Ví như:
– Nếu như người ấy uống rượu và các chất say, rồi tạo ác-nghiệp sát-sinh thì người ấy đã tạo ác-nghiệp sát-sinh do nguyên-nhân uống rượu và các chất say.
– Nếu như người ấy uống rượu và các chất say, rồi tạo ác-nghiệp trộm-cắp thì người ấy đã tạo ác-nghiệp trộm-cắp do nguyên-nhân uống rượu và các chất say.
– Nếu như người ấy uống rượu và các chất say, rồi tạo ác-nghiệp tà-dâm thì người ấy đã tạo ác-nghiệp tà-dâm do nguyên-nhân uống rượu và các chất say.
– Nếu như người ấy uống rượu và các chất say, rồi tạo ác-nghiệp nói dối thì người ấy đã tạo ác-nghiệp nói dối do nguyên-nhân uống rượu và các chất say.
– Nếu như người ấy uống rượu và các chất say, rồi tạo ác-nghiệp nói lời chia rẽ thì người ấy đã tạo ác-nghiệp nói lời chia rẽ do nguyên-nhân uống rượu và các chất say.
– Nếu như người ấy uống rượu và các chất say, rồi tạo ác-nghiệp nói lời thô-tục thì người ấy đã tạo ác-nghiệp nói lời thô-tục do nguyên-nhân uống rượu và các chất say.
– Nếu như người ấy uống rượu và các chất say, rồi tạo ác-nghiệp nói lời vô-ích thì người ấy đã tạo ác-nghiệp nói lời vô-ích do nguyên-nhân uống rượu và các chất say.
– Nếu như người ấy uống rượu và các chất say, rồi tạo ác-nghiệp nghĩ tham lam của cải tài-sản của người khác thì người ấy đã tạo ác-nghiệp nghĩ tham lam của cải tài-sản của người khác do nguyên-nhân uống rượu và các chất say.
– Nếu như người ấy uống rượu và các chất say, rồi tạo ác-nghiệp nghĩ thù hận người khác thì người ấy đã tạo ác-nghiệp nghĩ thù hận người khác do nguyên-nhân uống rượu và các chất say.
– Nếu như người ấy uống rượu và các chất say, rồi tạo ác-nghiệp nghĩ tà-kiến thì người ấy đã tạo ác-nghiệp nghĩ tà-kiến do nguyên-nhân uống rượu và các chất say.
Vì vậy, uống rượu và các chất say là nguyên-nhân tạo 10 loại ác-nghiệp. Cho nên, uống rượu và các chất say không chế định ra ác-nghiệp riêng biệt, mà chỉ tuỳ thuộc vào ác-nghiệp mà người ấy đã tạo do nguyên-nhân uống rượu và các chất say mà thôi.
[1] Manoviññāṇadhātu trong 89 hoặc 121 tâm thì có 76 hoặc 108 tâm (trừ 10 thức-tâm và 3 ý-tự-tánh-tâm (manodhātu).
[2] Aṅguttaranikāya, Chakkanipāta, kinh Nibbedhikasutta
[3] Có trong bộ khác, không có trong Aṭṭhakathā.
[4] Xem giảng giải trong phần 2 si-tâm trước.
[5] Bộ Visuddhimagga, Khandhaniddesa, Saṅkhārakkhandhakathā
[6] Aṅguttaranikāya, Chakkanipāta, kinh Nibbedhikasutta
[7] Aṅg.Pañcakanipāta, kinh Abhiṇhapaccavekkhitabbaṭṭhānasutta
[8] Quả ác-nghiệp tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama, xem Bộ Nền Tảng Phật-Giáo, quyển I Tam-Bảo, trang 194.
[9] Bộ Saṃyuttanikāya, phần Sagāthavagga
Phần – 3.1
Dục-Giới Đại-Thiện-Tâm(Kāmāvacarakusalacitta)
Kāmāvacarakusalacitta hoặc mahākusalacitta:
Dục-giới đại-thiện-tâm có 8 tâm, tác-ý (cetanā-cetasika) đồng sinh với 8 dục-giới đại-thiện-tâm gọi là 8 dục-giới đại-thiện-nghiệp.
Dục-giới đại-thiện-nghiệpcó 2 loại:
1- Dục-giới đại-thiện-nghiệp phát sinh do thân, khẩu, ý, tạo 10 đại-thiện-nghiệp,
2- Dục-giới đại-thiện-nghiệp phát sinh do tạo 10 phước-thiện (puññakiriyavatthu),
1- Dục-giới đại-thiện-nghiệp phát sinh do thân, khẩu, ý, tạo 10 đại-thiện-nghiệp, có 3 loại:
1- Dục-giới đại-thiện-nghiệp phát sinh do thân-môn gọi là thân-thiện-nghiệp (kāyakamma) có 3 loại:
– Pāṇātipātavirati: Tránh xa sự sát-sinh,
– Adinnādānavirati: Tránh xa sự trộm-cắp,
– Kāmesumicchācāravirati: Tránh xa sự tà-dâm.
Thân-thiện-nghiệp có 2 chi-pháp là chánh- nghiệp tâm-sở và chánh-mạng tâm-sở.
2- Dục-giới đại-thiện-nghiệp phát sinh do khẩu-môn gọi là khẩu-thiện-nghiệp, có 4 loại:
– Musāvādavirati: Tránh xa sự nói dối,
– Pisuṇavācāvirati: Tránh xa nói lời chia rẽ,
– Pharusavācāvirati: Tránh xa nói lời thô tục,
– Samphappalāpavirati: Tránh xa nói lời vô ích.
Khẩu-thiện-nghiệp có 2 chi-pháp là chánh-ngữ tâm-sở và chánh-mạng tâm-sở.
3- Dục-giới đại-thiện-nghiệp phát sinh do ý-môn gọi là ý-thiện-nghiệp, có 3 loại:
– Anabhijjhā: Tâm không tham lam của người,
– Abyāpāda: Tâm không thù hận người,
– Sammādiṭṭhi: Tâm có chánh-kiến.
Ý-thiện-nghiệp có 3 loại, có 3 chi-pháp:
– Anabhijjhā có chi-pháp là vô-tham tâm-sở,
– Abyāpāda có chi-pháp là vô-sân tâm-sở,
– Sammādiṭṭhi có chi-pháp là tuệ-chủ tâm-sở.
Đó là 10 dục-giới đại-thiện-nghiệp còn gọi là 10 pháp-hành thiện-nghiệp (sucaritakamma).
Thật ra, 3 thân-thiện-nghiệp và4 khẩu-thiện-nghiệp hoặc 3 thân-hành-thiện và 4 khẩu-hành-thiện phần nhiều phát sinh từ tâm, không trực tiếp với thân và khẩu, bởi vì 2 loại đại-thiện-nghiệp này có tác-ý tránh xa 3 thân-ác-nghiệp, tránh xa 4 khẩu-ác-nghiệp.
2- Dục-giới đại-thiện-nghiệpphát sinh do tạo 10 pháp puññakiriyāvatthu.
Puññakiriyāvatthu là phước-thiện bố-thí, phước-thiện giữ-giới, phước-thiện hành-thiền, v.v,… mà bậc thiện-trí nên tạo để thành tựu phước-thiện và hưởng quả-báu an lạc.
Dục-giới đại-thiện-nghiệp trong dục-giới đại-thiện-tâm phát sinh do tạo puññakiriyāvatthu có 10 pháp là:
1- Dānakusala: Phước-thiện bố-thí,
2- Sīlakusala: Phước-thiện giữ-giới là giữ thân, khẩu trong sạch trong giới của mình,
3- Bhāvanākusala: Phước-thiện hành-thiền là thực-hành pháp-hành-thiền-định, thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ,
4- Apacāyanakusala: Phước-thiện cung-kính những bậc đáng tôn kính,
5- Veyyāvaccakusala: Phước-thiện hỗ-trợ giúp đỡ người khác trong việc phước-thiện,
6- Pattidānakusala: Phước-thiện hồi-hướng phần phước-thiện của mình đến cho những người khác, những chúng-sinh khác,
7- Pattānumodanākusala: Phước-thiện hoan-hỷ nhận phần phước-thiện của người khác hồi-hướng, hoặc chia sẻ,
8- Dhammasavanakusala: Phước-thiện nghe pháp là lắng nghe chánh-pháp của Đức-Phật,
9-Dhammadesanākusala: Phước-thiện thuyết- pháp là thuyết giảng chánh-pháp của Đức-Phật,
10- Diṭṭhujukammakusala: Phước-thiện chánh-kiến đó là kammassakatāsammādiṭṭhi: chánh-kiếnthấy đúng, hiểu đúng nghiệp là của riêng họ.([1])
Puññakiriyāvatthu có 10 pháp thuộc về dục-giới đại-thiện-nghiệp trong dục-giới đại-thiện-tâm, có đối-tượng theo mỗi pháp ấy.
10 phước-thiện này được gom lại thành 3 nhóm:
1-Nhóm phước-thiện bố-thí,
2- Nhóm phước-thiện giữ-giới,
3- Nhóm phước-thiện hành-thiền.
* Nhóm phước-thiện bố-thí gồm có 3 pháp:
-Phước-thiện bố-thí,
– Phước-thiện hồi-hướng,
– Phước-thiện hoan-hỷ.
* Nhóm phước-thiện giữ-giới gồm có 3 pháp:
– Phước-thiện giữ-giới,
– Phước-thiện cung-kính,
– Phước-thiện hỗ-trợ.
* Nhóm phước-thiện hành-thiền gồm có 4 pháp:
– Phước-thiện hành-thiền,
– Phước-thiện nghe pháp,
– Phước-thiện thuyết-pháp,
– Phước-thiện chánh-kiến.
Tuy nhiên, phước-thiện chánh-kiến rất cần cho cả 3 nhóm, để hỗ-trợ cho mỗi phước-thiện có nhiều năng lực.
Thật ra, khi tạo phước-thiện nào, nếu có phước-thiện chánh-kiến hỗ-trợ thì phước-thiện ấy đồng sinh với trí-tuệ, nên dục-giới đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có đủ tam-nhân (vô-tham, vô-sân, vô-si), thuộc về tihetukakusala: tam-nhân dục-giới đại-thiện-tâm có 4 tâm.
Khi tạo phước-thiện nào, nếu không có phước-thiện chánh-kiến hỗ-trợ thì phước-thiện ấy không đồng sinh với trí-tuệ, nên dục-giới đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ chỉ có nhị-nhân (vô-tham và vô-sân, không có vô-si), thuộc về dvihetuka-kusala: nhị-nhân dục-giới đại-thiện-tâm có 4 tâm.
[1] Tìm hiểu đầy đủ trong bộ Nền Tảng Phật-Giáo, quyển V “Phước-Thiện” cùng soạn giả
Phần- 3.2
Quả Của 8 Dục-Giới Đại-Thiện-Tâm
Dục-giới đại-thiện-tâm (kāmavacarakusala-citta, hoặc mahākusalacitta) có 8 tâm, tác-ý (cetanācetasika) đồng sinh với 8 dục-giới đại-thiện-tâm gọi là 8 dục-giới đại-thiện-nghiệp.
Dục-giới đại-thiện-nghiệpcó 8 loại trong 8 dục-giới đại-thiện-tâm cho quả có 2 loại quả-tâm:
1- Hữu-nhân dục-giới đại-quả-tâm có 8 tâm,
2- Thiện-quả vô-nhân-tâm có 8 tâm, gồm có 16 quả-tâm.
1-Hữu-Nhân Dục-Giới Đại-Quả-Tâm
Hữu-nhân dục-giới đại-quả-tâm có 8 tâm là quả của 8 dục-giới đại-thiện-nghiệp trong 8 dục-giới đại-thiện-tâm như sau:
1- Dục-giới đại-quả-tâm thứ nhất đồng sinh với thọ hỷ, hợp với trí, không cần tác-động,
2- Dục-giới đại-quả-tâm thứ nhì đồng sinh với thọ hỷ, hợp với trí, cần tác-động,
3- Dục-giới đại-quả-tâm thứ ba đồng sinh với thọ hỷ, không hợp với trí, không cần tác-động,
4- Dục-giới đại-quả-tâm thứ tư đồng sinh với thọ hỷ, không hợp với trí, cần tác-động,
5- Dục-giới đại-quả-tâm thứ năm đồng sinh với thọ xả, hợp với trí, không cần tác-động,
6- Dục-giới đại-quả-tâm thứ sáu đồng sinh với thọ xả, hợp với trí, cần tác-động,
7- Dục-giới đại-quả-tâm thứ bảy đồng sinh với thọ xả, không hợp với trí, không cần tác-động,
8- Dục-giới đại-quả-tâm thứ tám đồng sinh với thọ xả, không hợp với trí, cần tác-động.
2- Thiện-Quả Vô-Nhân-Tâm
Thiện-quả-vô-nhân-tâm có 8 tâm là quả của 8 dục-giới đại-thiện-nghiệp trong 8 dục-giới đại-thiện-tâm như sau:
1- Nhãn-thức-tâm đồng sinh với thọ xả, là quả của dục-giới đại-thiện-nghiệp, nhìn thấy đối-tượng sắc tốt, đáng hài lòng.
2- Nhĩ-thức-tâm đồng sinh với thọ xả, là quả của dục-giới đại-thiện-nghiệp, nghe đối-tượng thanh hay, đáng hài lòng.
3- Tỷ-thức-tâm đồng sinh với thọ xả, là quả của dục-giới đại-thiện-nghiệp, ngửi đối-tượng hương thơm, đáng hài lòng.
4- Thiệt-thức-tâm đồng sinh với thọ xả, là quả của dục-giới đại-thiện-nghiệp, nếm đối-tượng vị ngon, đáng hài lòng.
5- Thân-thức-tâm đồng sinh với thọ lạc, là quả của dục-giới đại-thiện-nghiệp, xúc-giác đối-tượng xúc thân an lạc, đáng hài lòng.
6- Tiếp-nhận-tâm đồng sinh với thọ xả, là quả của dục-giới đại-thiện-nghiệp, tiếp nhận 5 đối-tượng (sắc, thanh, hương, vị, xúc) tốt, đáng hài lòng.
7- Suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả, là quả của dục-giới đại-thiện-nghiệp, suy xét 5 đối-tượng (sắc, thanh, hương, vị, xúc) tốt, đáng hài lòng.
8- Suy-xét-tâm đồng sinh với thọ hỷ, là quả của dục-giới đại-thiện-nghiệp suy xét 5 đối-tượng (sắc, thanh, hương, vị, xúc) tốt, đáng hài lòng.
Paṭisandhikāla Và Pavattikāla
* Dục-giới đại-thiện-nghiệp trong 8 dục-giới đại-thiện-tâmcho quả trong 2 thời-kỳ:
1- Paṭisandhikāla: Thời-kỳ tái sinh kiếp sau,
2- Pavattikāla: Thời-kỳ sau khi đã tái sinh, kiếp hiện-tại.
1- Paṭisandhikāla: Thời-kỳ tái sinh kiếp sau:
Paṭisandhikāla: trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau 8 dục-giới đại-thiện-nghiệp trong 8 dục-giới đại-thiện-tâm cho quả có 9 quả-tâm là 8 dục-giới đại-quả-tâm và 1 suy-xét-tâm là thiện quả vô-nhân-tâm đồng sinh với thọ xả là 9 dục-giới tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận-sự tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikicca) trong 7 cõi thiện-dục-giới (sugatibhūmi)là cõi người, 6 cõi trời dục-giới.
Phận-Sự Của 9 Dục-Giới Tái-Sinh-Tâm
* 9 dục-giới tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta)này sau khi làm phận-sự tái-sinh kiếp sau 1 sát-na-tâm xong trong 7 cõi thiện-dục-giới, liền tiếp theo 9 quả-tâm này làm phận sự hộ-kiếp-tâm (bhavaṅgacitta) giữ gìn bảo hộ kiếp chúng-sinh ấy cho đến mãn kiếp, và cuối cùng 9 quả-tâm này làm phận-sự tử-tâm (chết) (cuticitta) chấm dứt mỗi kiếp chúng-sinh.
* Mỗi chúng-sinh sau khi chết, nếu dục-giới đại-thiện-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp sau với 1 trong 9 dục-giới tái-sinh-tâm.
Ví dụ:“Dục- giới đại-quả-tâm thứ nhất đồng sinh với thọ hỷ, hợp với trí, không cần tác-động”là dục-giới tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận-sự tái-sinh kiếp sau làm người (1 sát-na-tâm) bắt đầu kiếp người, liền tiếp theo chính “dục-giới đại-quả-tâm thứ nhất” ấy làm phận-sự hộ-kiếp-tâm (bhavaṅgacitta) giữ gìn bảo hộ kiếp người ấy cho đến mãn kiếp người, và cuối cùng cũng chính “dục-giới đại-quả-tâm thứ nhất” ấy làm phận-sự tử-tâm (cuticitta) (chết) chấm dứt kiếp người ấy.
Như vậy, mỗi kiếp chúng-sinh nói chung, mỗi kiếp người nói riêng có 1 dục-giới tái-sinh-tâm, (paṭisandhicitta), hộ-kiếp-tâm(bhavaṅgacitta) tử-tâm (chết) (cuticitta) cùng 1 loại quả-tâm giống nhau, chỉ có khác nhau về 3 khoảng thời gian mà thôi.
Thật ra, tử-tâm (cuticitta) (chết) của kiếp-hiện-tại (cũ) và tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) kiếp sau (mới) 2 kiếp tuy cách nhau chỉ có 1 sát-na-tâm (trước và sau), nhưng 2 loại quả-tâm này là hoàn toàn khác nhau.
2-Pavattikāla: Thời-kỳ sau khi đã tái sinh, kiếp hiện-hữu:
Trong pavattikāla: thời-kỳ sau khi đã tái-sinh, kiếp hiện-hữu, 8 dục-giới đại-thiện-nghiệp trong 8 dục-giới đại-thiện-tâm cho quả 16 quả-tâm là 8 dục-giới đại-quả-tâm và 8 thiện-quả vô-nhân-tâm.
* 8 dục-giới đại-quả-tâmlàm phận-sự hộ-kiếp-tâm (bhavaṅgacitta) giữ gìn bảo hộ kiếp ấy cho đến mãn kiếp, và cuối cùnglàm phận-sự tử-tâm (cuticitta) (chết) chấm dứt kiếp ấy.
8 dục-giới đại-quả-tâm còn làm phận-sự tiếp-đối-tượng-tâm (tadālambanakicca) 2 sát-na-tâm tiếp theo sau tác-hành-tâm (javanacitta) trong lộ-trình-tâm cõi dục-giới.
* 8 thiện-quả vô-nhân-tâm trong 11 cõi dục-giới, 15 cõi sắc-giới (trừ cõi sắc-giới Vô-tưởng-thiên). Trong 15 cõi sắc-giới đặc biệt chỉ có nhãn-thức-tâm và nhĩ-thức-tâm mà thôi.
Dục-Giới Đại-Thiện-Tâm Chia Theo Nhân:
Dục-giới đại-thiện-tâm có 8 tâm chia theo nhân (hetu) có 2 loại:
1- Tihetukakusalacitta: 4 dục-giới đại-thiện-tâm hợp với trí, có đủ tam-nhân là vô-tham, vô-sân, vô-si (trí-tuệ),
2- Dvihetukakusalacitta: 4 dục-giới đại-thiện-tâm không hợp với trí, chỉ có nhị-nhân là vô-tham, vô-sân, không có vô-si (trí-tuệ).
* Dục-giới đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có đủ tam-nhân do nguyên-nhân nào?
Hành-giả khi đang tạo phước-thiện như bố-thí, giữ giới, thực-hành pháp-hành-thiền-định, pháp-hành-thiền-tuệ, v.v… với dục-giới đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ kammassakatāñāṇa hoặc lokiyavipassanāñāṇa, nên có đủ tam-nhân là vô-tham, vô-sân, vô-si(trí-tuệ).
Dục-giới đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có 4 tâm.
* Dục-giới đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ chỉ có nhị-nhân do nguyên-nhân nào?
Khi hành-giả đang tạo phước-thiện như bố-thí, giữ giới, thực-hành pháp-hành-thiền-định, pháp-hành-thiền-tuệ, v.v…với dục-giới đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ kammassakatāñāṇa hoặc lokiyavipassanāñāṇa, nên chỉ có nhị-nhân là vô-tham và vô-sân, không có vô-si(trí-tuệ).
Dục-giới đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ, có 4 tâm.
Dục-Giới Đại-Thiện-Tâm Phân Tích Theo Tác-Ý
Hành-giả tạo phước-thiện với dục-giới đại-thiện-tâm dù có tam-nhân, dù có nhị-nhân cũng có tác-ý (cetanā) trong 3 thời-kỳ:
1- Pubbacetanā: Tác-ý phát sinh trước khi tạo phước-thiện,
2- Muñcacetanā: Tác-ý phát sinh đang khi tạo phước-thiện,
3- Aparacetanā: Tác-ý phát sinh sau khi đã tạo phước-thiện xong.
Mỗi tác-ý tạo thiện-nghiệp đóng vai trò quan trọng trong mỗi dục-giới đại-thiện-nghiệp:
* Muñcacetanā: Tác-ý phát sinh đang khi tạo phước-thiện thành-tựu dục-giới đại-thiện-nghiệp.
* Nếu hành-giả có tác-ý muñcacetanā phát sinh đang khi tạo phước-thiện đồng sinh với dục-giới đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ kammas-sakatāñāṇa hoặc lokiyavipassanāñāṇa thì dục-giới đại-thiện-tâmhợp với trí-tuệ có đủ tam-nhân là vô-tham (alobhahetu), vô-sân (adosa-hetu), vô-si (amohahetu) (trí-tuệ), nên dục-giới đại-thiện-nghiệptrong dục-giới đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ ấygọi là tihetukakusalakamma: tam-nhân dục-giới đại-thiện-nghiệp.
* Nếu hành-giả có tác-ý muñcacetanā phát sinhđang khi tạo phước-thiện đồng sinh với dục-giới đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ kammassakatāñāṇa hoặc lokiyavipassanāñāṇa thì dục-giới đại-thiện-tâmkhông hợp với trí-tuệ chỉ có nhị-nhân là vô-tham (alobhahetu), vô-sân (adosa-hetu), không có vô-si (amohahetu) (trí-tuệ), nên dục-giới đại-thiện-nghiệp trong dục-giới đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ ấygọi là dvihetukakusalakamma: nhị-nhân dục-giới đại-thiện-nghiệp.
Tam-nhân dục-giới đại-thiện-nghiệp và nhị-nhân dục-giới đại-thiện-nghiệp phân-tích theo năng lực của tác-ý trong 2 thời kỳ trước khi tạo phước-thiện và sau khi đã tạo phước-thiện thì mỗi loại đại-thiện-nghiệp có 2 bậc:
1- Ukkaṭṭhakusala: dục-giới đại-thiện-nghiệ bậc cao,
2- Omakakusala: dục-giới đại-thiện-nghiệp bậc thấp.
1–Ukkaṭṭhakusalakamma: Dục-giới đại-thiện– nghiệp bậc cao như thế nào?
Hành-giả tạo phước-thiện bố-thí hoặc phước-thiện giữ-giới, hoặc phước-thiện thực-hành pháp-hành-thiền-định, hoặc phước-thiện thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ, v.v… có tác-ý phát sinh trước khi tạo phước-thiện (pubbacetanā) đồng sinh với dục-giới đại-thiện-tâm trong sạch, không có tham-ái, ngã-mạn, tà-kiến xen lẫn, và tác-ý sau khi đã tạo phước-thiện xong rồi (aparacetanā) cũng đồng sinh với dục-giới đại-thiện-tâm trong sạch, không có tham-ái, ngã-mạn, tà-kiến xen lẫn.
Nếu hành-giả có tác-ý phát sinh trong 2 thời-kỳ ấy đồng sinh với dục-giới đại-thiện-tâm trong sạch, vô cùng hoan hỷ phước-thiện ấy, không có tham-ái, ngã-mạn, tà-kiến xen lẫn làm ô nhiễm thì phước-thiện bố-thí hoặc phước-thiện giữ-giới, hoặc phước-thiện thực-hành pháp-hành-thiền-định, hoặc phước-thiện thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ, … ấy trở thành tam-nhân dục-giới đại-thiện-nghiệp bậc cao hoặc nhị-nhân dục-giớiđại-thiện-nghiệp bậc cao.
Cho nên, 2 dục-giới đại-thiện-nghiệp trong dục giới đại-thiện-tâm ấy đều trở thành ukkaṭṭha-kusalakamma: dục-giới đại-thiện-nghiệp bậc cao.
2- Omakakusalakamma: Dục-giới đại-thiện-nghiệp bậc thấp như thế nào?
Hành-giả tạo phước-thiện bố-thí hoặc phước-thiện giữ-giới, hoặc phước-thiện thực-hành pháp-hành-thiền-định, hoặc phước-thiện thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ, v.v… có tác-ý phát sinh trước khi tạo phước-thiện (pubbacetanā) đồng sinh với dục-giới đại-thiện-tâm không trong sạch, bởi vì có tham-ái, ngã-mạn, tà-kiến xen lẫn, và tác-ý sau khi đã tạo phước-thiện xong rồi (aparacetanā) cũng đồng sinh với dục-giới đại-thiện-tâm không trong sạch, bởi vì có tham-ái, ngã-mạn, tà-kiến xen lẫn.
Nếu hành-giả có tác-ý phát sinh trong 2 thời-kỳ ấy đồng sinh với dục-giới đại-thiện-tâm không trong sạch, bởi vì có tham-ái, ngã-mạn, tà-kiến xen lẫn làm ô nhiễm thì phước-thiện bố-thí hoặc phước-thiện giữ-giới, hoặc phước-thiện thực-hành pháp-hành-thiền-định, hoặc phước-thiện thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ,… ấy trở thành tam-nhân dục-giới đại-thiện-nghiệp bậc thấphoặc nhị-nhân dục-giớiđại-thiện-nghiệp bậc thấp.
Cho nên, 2 dục-giới đại-thiện-nghiệp trong dục-giới đại-thiện-tâm ấy đềutrở thành omaka-kusalakamma:dục-giới đại-thiện-nghiệp bậc thấp
Phân Loại Ukkaṭṭhakusala Và Omakakusala:
Phân loại ukkaṭṭhakusala và omakakusalacủa tihetukakusala và dvihetukakusala có 4 bậc:
* Tihetukakusalacó 2 bậc:
1-Tihetuka-ukkaṭṭhakusalakamma: Tam-nhân dục-giới đại-thiện-nghiệp bậc cao,
2- Tihetuka-omakakusalakamma: Tam-nhân dục-giới đại-thiện-nghiệp bậc thấp.
* Dvihetukakusalacó 2 bậc:
1-Dvihetuka-ukkaṭṭhakusalakamma:Nhị-nhân dục-giới đại-thiện-nghiệp bậc cao,
2- Dvihetuka-omakakusalakamma: Nhị-nhân dục-giới đại-thiện-nghiệp bậc thấp.
Tuy nhiên, trong 2 loại tác-ý (cetanā) trong 2 thời-kỳ trước khi tạo phước-thiện và sau khi đã tạo phước-thiện để quyết-định dục-giới đại-thiện-nghiệp trở thành ukkaṭṭhakusalakamma: dục-giới đại-thiện-nghiệp bậc cao hoặc omaka-kusalakamma dục-giới đại-thiện-nghiệp bậc thấp thì aparacetanā: tác-ý phát sinh sau khi đã tạo dục-giới phước-thiện xong rồi cóvai trò quan trọng hơn pubbacetanā: tác-ý phát sinh trước khi tạo dục-giới phước-thiện, bởi vì phước-thiện ấy chưa thành-tựu.
Như vậy, dù cho pubbacetanā tác-ý trước khi tạo phước-thiện đồng sinh với dục-giới đại-thiện-tâm không được trong sạch, nhưng nếu aparacetanā tác-ý phát sinh sau khi đã tạo dục-giới phước-thiện xong rồi đồng sinh với dục-giới đại-thiện-tâm trong sạch vô cùng hoan hỷ trong phước-thiện ấy, không bị phiền-não tham-ái, ngã-mạn, tà-kiến làm ô nhiễm thì phước-thiện ấy trở thành ukkaṭṭhakusalakamma: dục-giới đại-thiện-nghiệp bậc cao.
Dù cho tác-ý pubbacetanā tác-ý trước khi tạo phước-thiện đồng sinh với dục-giới đại-thiện-tâm được trong sạch, không bị phiền-não tham-ái, ngã-mạn, tà-kiến làm ô nhiễm, nhưng nếu aparacetanā tác-ý phát sinh sau khi đã tạo dục-giới phước-thiện xong rồi đồng sinh với dục-giới đại-thiện-tâm không trong sạch, phát sinh bất-thiện-tâm cảm thấy hối tiếc, hoặc bị phiền-não tham-ái, ngã-mạn, tà-kiến làm ô nhiễm thì phước-thiện ấy trở thành omakakusalakamma: dục-giới đại-thiện-nghiệp bậc thấp.
Cho nên, aparacetanā: tác-ý phát sinh sau khi đã tạo dục-giới phước-thiện xong rồi có tầm quan trọng quyết-định dục-giới đại-thiện-nghiệp ấy trở thành loại ukkaṭṭhakusalakamma: dục-giới đại-thiện-nghiệp bậc cao hoặc loại omaka-kusalakamma:dục-giới đại-thiện-nghiệp bậc thấp.
* Aparacetanā này theo chú-giải còn chia thêm ra là aparāparacetanā.
Aparāparacetanā là tác-ý phát sinh sau aparacetanā với thời gian sau nhiều ngày, sau nhiều tháng, v.v… mỗi khi hành-giả niệm tưởng đến phước-thiện bố-thí ấy, hoặc phước-thiện giữ-giới ấy, hoặc phước-thiện thực-hành pháp-hành-thiền-định ấy, hoặc phước-thiện thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ ấy, v.v… Tác-ý (cetanā) phát sinh sau aparacetanā gọi là aparāpara-cetanā: tác-ý phát sinh sau aparacetanā đã tạo dục-giới phước-thiện xong rồi với thời gian sau lâu ngày, nhiều tháng.
* Nếu hành-giả đã tạo phước-thiện bố-thí ấy xong rồi trong thời gian sau lâu ngày, nhiều tháng, mỗi khi niệm tưởng lại phước-thiện ấy, liền phát sinh dục-giới đại thiện-tâm vô cùng hoan hỷ trong phước-thiện ấy thì aparāpara-cetanā là dục-giới đại-thiện-nghiệp trở thành ukkaṭṭhakusalakamma: dục-giới đại-thiện-nghiệp bậc cao.
* Nếu hành-giả đã tạo phước-thiện bố-thí ấy xong trong thời gian sau lâu ngày, nhiều tháng, mỗi khi nhớ lại phước-thiện bố-thí ấy, liền phát sinh bất-thiện-tâm hối-hận vì cảm thấy uổng phí nhiều của cải, hoặc phát sinh tâm tham-ái, tâm ngã-mạn, tâm tà-kiến làm ô nhiễm thì aparā-paracetanā là dục-giới đại-thiện-nghiệp trở thành omakakusalakamma: dục-giới đại-thiện-nghiệp bậc thấp.
Năng Lực Của Muñcacetanā, Aparacetanā, Aparāparacetanā
Để trở thành tihetukakusalakamma, dvi-hetukakusalakamma là do năng lực muñca-cetanā.
* Nếu khi muñcacetanā: tác-ý phát sinh đang khi tạo phước-thiện đồng sinh với dục-giới đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ, có đủ tam-nhân thì gọi là tihetukakusalakamma,
* Nếu khi muñcacetanātác-ý phát sinh đang khi tạo phước-thiện đồng sinh với dục-giới đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ, chỉ có nhị-nhân thì gọi là dvihetukakusalakamma.
* Nếu tác-ý aparacetanā tốt với tác-ý aparā-paracetanā cũng tốt thì trở thành ukkaṭṭhuk-kaṭṭhakusalakamma: dục-giới đại-thiện-nghiệp bậc cao-cao.
* Nếu tác-ý aparacetanā tốt với tác-ý aparā-paracetanā không tốt thì trở thành ukkaṭṭho-makakusalakamma: dục-giới đại-thiện-nghiệp bậc cao-thấp.
* Nếu tác-ý aparacetanā không tốt với tác-ý aparāparacetanā tốt thì trở thành omakuk-kaṭṭhakusalakamma: dục-giới đại-thiện-nghiệp bậc thấp-cao.
* Nếu tác-ý aparacetanā không tốt với tác-ý aparāparacetanā cũng không tốt thì trở thành omakomakakusalakamma: dục-giới đại-thiện-nghiệp bậc thấp-thấp.
Phân Loại Ukkaṭṭhakusala Và Omakakusala
Phân loại ukkaṭṭhakusala và omakakusalacủa tihetukakusala và dvihetukakusala theo năng lực aparacetanā với aparāparacetanā có 8 bậc:
* Tihetukakusalacó 4 bậc:
1-Tihetuka-ukkaṭṭhukkaṭṭhakusalakamma:Tam- nhân dục-giới đại-thiện-nghiệp bậc cao-cao,
2-Tihetuka-ukkaṭṭhomakakusalakamma: Tam-nhân dục-giới đại-thiện-nghiệp bậc cao-thấp.
3-Tihetuka-omakukkaṭṭhakusalakamma: Tam-nhân dục-giới đại-thiện-nghiệp bậc thấp-cao,
4- Tihetuka-omakomakakusalakamma: Tam-nhân dục-giới đại-thiện-nghiệp bậc thấp-thấp.
* Dvihetukakusala có 4 bậc:
1- Dvihetuka-ukkaṭṭhukkaṭṭhakusalakamma: Nhị-nhân dục-giới đại-thiện-nghiệp bậc cao-cao,
2-Dvihetuka-ukkaṭṭhomakakusalakamma: Nhị-nhân dục-giới đại-thiện-nghiệp bậc cao-thấp.
3-Dvihetuka-omakukkaṭṭhakusalakamma: Nhị-nhân dục-giới đại-thiện-nghiệp bậc thấp-cao,
4- Dvihetuka-omakomakakusalakamma: Nhị-nhân dục-giới đại-thiện-nghiệp bậc thấp-thấp.
Tam-nhân dục-giới đại-thiện-nghiệp bậc cao, bậc thấp, nhị-nhân dục-giới đại-thiện-nghiệp bậc cao, bậc thấp có tầm quan trọng trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau và thời-kỳ sau khi đã tái-sinh.
Năng Lực Của Tam-Nhân, Nhị-Nhân Cao Thấp
* Tihetukakusalacó 2 bậc:
1- Tihetuka-ukkaṭṭhakusalakamma: Tam-nhân dục-giới đại-thiện-nghiệp bậc cao,
2- Tihetuka-omakakusalakamma: Tam-nhân dục-giới đại-thiện-nghiệp bậc thấp.
* Dvihetukakusala có 2 bậc:
1- Dvihetuka-ukkaṭṭhakusalakamma: Nhị-nhân dục-giới đại-thiện-tâm bậc cao,
2- Dvihetuka-omakakusalakamma: Nhị-nhân dục-giới đại-thiện-tâm bậc thấp.
Paṭisandhi Và Pavatti Theo Bậc Cao, Bậc Thấp
Tihetukakusalakamma có 2 hoặc 4 bậc cao thấp, dvihetukakusalakamma có 2 hoặc 4 bậc cao thấp, gồm có 8 bậc mà mỗi bậc có vai trò trọng yếu thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhi-kāla) và trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh, kiếp hiện hữu (pavattikāla) đặc biệt cho mỗi người, mỗi vị chư-thiên như sau:
1- Quả của tihetuka–ukkaṭṭhakusalakamma:tam-nhân dục-giới đại-thiện-nghiệp bậc cao trong 4 dục-giới đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ cho quả trong 2 thời-kỳ:
* Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có 4 dục-giới đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ làm phận-sự tái-sinh kiếp sau gọi là tihetuka-paṭisandhi: tái-sinh với tam-nhân (vô-tham, vô-sân, vô-si):
* Nếu sinh làm người thì người ấy thuộc về hạng người bậc cao quý gọi là hạng người tam-nhân([2])(tihetukapuggala), từ khi tái-sinh đầu thai làm người.
Khi sinh ra đời lúc trưởng thành, vốn dĩ có trí-tuệ, nếu người ấy thực-hành pháp-hành-thiền-định thì có khả năng chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới, 4 bậc thiền vô-sắc-giới, chứng đắc các phép thần-thông.([3])
Nếu người ấy thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ, thì có khả năng chứng-ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-nhân trong Phật-giáo.
* Nếu hoá-sinh làm thiên nam hoặc thiên nữ thì vị chư-thiên ấy thuộc về hạng chư-thiên bậc cao quý gọi là chư-thiên tam-nhânngay tức thì, có hào quang rực rỡ chói lọi khắp mọi nơi, có nhiều oai lực trong cõi trời ấy.
Nếu vị chư-thiên ấy có cơ hội lắng nghe chánh-pháp của Đức-Phật thì có khả năng chứng-ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả,Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-nhân.
* Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla) làm người bậc cao quý hoặc làm chư-thiên bậc cao quý trong 6 cõi trời dục-giới, có 16 quả-tâm là 8 hữu-nhân dục-giới đại-quả-tâm và 8 thiện-quả vô-nhân-tâm tiếp xúc các đối-tượng tốt đáng hài lòng.
Còn quả của tihetuka-ukkaṭṭhukkaṭṭhakusala-kamma và tihetuka-ukkaṭṭhomakakusalakamma cả 2 kusalakamma này xét về pháp thì giống như quả của tihetuka-ukkaṭṭhakusalakamma trong 2 thời-kỳ paṭisandhikāla và pavattikāla, nhưng xét về chúng-sinh thì tihetuka-ukkaṭṭhuk-kaṭṭhakusalakamma có quả vi tế hơn quả của tihetuka-ukkaṭṭhomakakusalakamma,hoặc tihetuka-ukkaṭṭhomakakusalakamma có quảthấp kém thua quả của tihetuka-ukkaṭṭhukkaṭṭhakusala-kamma.
2-Quả của tihetuka–omakakusalakamma và dvihetuka-ukkaṭṭhakusalakamma làtam-nhân dục-giới đại-thiện-nghiệp bậc thấp trong 4 dục-giới đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ và nhị-nhân dục-giới đại-thiện-nghiệp bậc cao trong 4 dục-giới đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ, cả 2 loại dục-giới đại-thiện-nghiệp này cùng chung cho quả trong 2 thời-kỳ:
* Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có 4 dục-giới đại-quả-tâm không hợp với trí-tuệ làm phận-sự tái-sinh kiếp sau gọi là dvihetukapaṭisandhi: tái-sinh với nhị-nhân (vô-tham và vô-sân, không có vô-si):
* Nếu sinh làm người thì người ấy thuộc về hạng người bậc trung gọi là người nhị-nhân([4]) (dvihetuka-puggala), từ khi tái sinh đầu thai làm người.
Khi sinh ra đời lúc trưởng thành, vốn dĩ không có trí-tuệ, nếu người ấy thực-hành pháp-hành-thiền-định thì không có khả năng chứng đắc bậc thiền sắc-giới nào.
Nếu người ấy thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ thì cũng không có khả năng chứng-ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, bởi vì không có trí-tuệ từ khi tái sinh.
* Nếu hoá-sinh làm thiên nam hoặc thiên nữ thì vị chư-thiên ấy là hạng chư-thiên bậc trung gọi là chư-thiên nhị-nhânngay tức thì, có hào quang trung bình, không có nhiều oai lực trong cõi trời ấy.
Nếu vị chư-thiên ấy có cơ hội lắng nghe chánh-pháp của Đức-Phật thì không có khả năng chứng-ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, bởi vì không có trí-tuệ từ khi tái sinh.
* Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla) làm người bậc trung hoặc làm chư-thiên bậc trung trong 6 cõi trời dục-giới, có 12 quả-tâm là 4 hữu-nhân dục-giới đại-quả-tâm không hợp với trí-tuệ và 8 thiện-quả vô-nhân-tâm tiếp xúc các đối-tượng trung bình,
Còn quả của tihetuka-omakukkaṭṭhakusala-kamma, tihetuka-omakomakakusalakamma, dvi-hetuka-ukkaṭṭhukkaṭṭhakusalakamma, dvihetuka- ukkaṭṭhomakakusalakamma cả 4 kusalakamma này xét về pháp thì giống như quả của tihetuka- omakakusalakamma và dvihetuka-ukkaṭṭha-kusalakamma trong 2 thời-kỳ paṭisandhikāla và pavattikāla, nhưng xét về chúng-sinh thì tihetuka-omakukkaṭṭhhakusalakamma và dvihetuka-ukkaṭṭhukkaṭṭhakusalakamma cả 2 kusalakamma này có quả tốt hơn quả của tihetuka-omakomaka-kusalakamma và dvihetuka-ukkaṭṭhomakakusala-kamma, hoặc tihetuka-omakomakakusalakamma và dvihetuka-ukkaṭṭhomakakusalakamma, cả 2 kusalakamma này có quả thấp kém thua quả của tihetuka-omakukkaṭṭhhakusala và dvihetuka-ukkaṭṭhukkaṭṭhakusala.
3- Quả của dvihetuka–omakakusala:nhị-nhân dục-giới đại-thiện-nghiệp bậc thấp trong 4 dục-giới đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ cho quả trong 2 thời-kỳ:
* Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả, là quả của dục-giới đại-thiện-nghiệp làm phận-sự tái-sinh kiếp sau gọi là sugati-ahetukapaṭisandhi: tái-sinh với vô-nhân cõi thiện-giới (không có nhân nào trong 3 nhân):
* Nếu sinh làm người thì người ấy thuộc về hạng người thấp hèn gọi là người vô-nhân cõi thiện-giới ([5])(sugati-ahetukapuggala), từ khi tái sinh đầu thai làm người thuộc về hạng người đui mù, câm điếc, ngu-muội, si-mê… từ khi tái sinh đầu thai.
Khi sinh ra đời lúc trưởng thành, người ấy là người đui mù, câm điếc, ngu-muội, si-mê… biết tầm thường, không thể học hành được.
* Nếu hoá-sinh làm thiên nam hoặc thiên nữ thì vị chư-thiên ấy là hạng chư-thiên thấp hèn trong cõi Tứ-đại-Thiên-vương như vinipātika, v.v…
* Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla) làm người thấp hèn hoặc làm chư-thiên thấp hèn có 8 thiện-quả vô-nhân-tâm tiếp xúc các đối-tượng tầm thường.
Còn quả của dvihetuka-omakukkaṭṭhakusala-kamma và dvihetuka-omakomakakusalakamma cả 2 kusalakamma này xét về pháp thì giống như quả của dvihetuka-omakakusala trong 2 thời-kỳ paṭisandhikāla và pavattikāla, nhưng xét về chúng-sinh thì dvihetuka-omakukkaṭṭha-kusalakamma có quả tốt hơn quả của dvihetuka- omakomakakusalakamma, hoặc dvihetuka-omako-makakusalakamma có quả thấp kém thua quả của dvihetuka-omakukkaṭṭhakusalakamma.
Năng Lực Của Tác-Ý
Mọi người cùng chung tạo phước-thiện với muñcacetanā:tác-ý phát sinh đang khi tạo phước-thiện, số người này có tác-ýđồng sinh vớidục-giới đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ, gọi là tihetukakusalakamma: tam-nhân dục-giới đại-thiện-nghiệp, số người khác có tác-ý đồng sinh với dục-giới đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ, gọi là dvihetukakusalakamma: nhị-nhân dục-giới đại-thiện-nghiệp, có sự khác nhau như vậy, bởi vì muñcacetanā:tác-ý phát sinh đang khi tạo phước-thiện khác nhau.
Tuy có tihetukakusalakamma, dvihetukakusala-kammagiống nhau, nhưng aparacetanā: tác-ý sau khi đã tạo phước-thiện xong rồi, số người này phát sinh dục-giới đại-thiện-tâm trong sạch vô cùng hoan hỷ, không bị tham-ái, ngã-mạn, tà-kiến làm ô nhiễm, nêntrở thành ukkaṭṭha-kusalakamma: dục-giới đại-thiện-nghiệp bậc cao; số người khác phát sinh bất-thiện-tâm xen lẫn, bị tham-ái, ngã-mạn, tà-kiến làm ô nhiễm, nên trở thành omakakusalakamma: dục-giới đại-thiện-nghiệp bậc thấp.
Cho nên, dục-giới đại-thiện-nghiệp bậc cao, bậc thấp cho quả thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) và thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla) khác nhau, bởi vì trong thời-kỳ aparacetanā: tác-ý sau khi đã tạo phước-thiện xongrồi có sự khác nhau.
[2] Người tam-nhân là người có tái-sinh-tâm có đủ 3 nhân: vô-tham, vô-sân, vô-si (trí-tuệ)
[3] Xem Nền Tảng Phật-giáo, quyển VII, tập 1 Pháp-hành-thiền-định.
[4] Người nhị-nhân là người có tái-sinh-tâm chỉ có 2 nhân: vô-tham và vô-sân, không có vô-si (không có trí-tuệ).
[5] Người vô-nhân là người có tái-sinh-tâm không có nhân (không có vô-tham, vô-sân, vô-si)
Phần – 3.3
Nhận Xét Về 3 Hạng Người Trong Đời
Trong đời hiện hữu có 3 hạng người là người tam-nhân (tihetukapuggala), người nhị-nhân (dvihetukapuggala), người vô-nhân cõi thiện-giới (sugati-ahetukapuggala) trongkiếp-hiện-tại đều là quả của 8 dục-giới đại-thiện-nghiệp trong 8 dục-giới đại-thiện-tâm đãtạo 10 dục-giới đại-thiện-nghiệp bằng thân, khẩu, ý hoặc 10 phước-thiện (puññakiriyavatthu)trong kiếp quá-khứ của mỗi chúng-sinh.
* Tihetukapuggala: hạng người tam-nhân là người khi tái-sinh với dục-giới đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ, nên có đủ 3 nhân: vô-tham, vô-sân, vô-si từ khi tái sinh đầu thai làm người.
Khi sinh ra đời lúc trưởng thành, vốn dĩ có trí-tuệ, nếu người ấy thực-hành pháp-hành-thiền-định thì có khả năng chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới, 4 bậc thiền vô-sắc-giới, chứng đắc các phép thần-thông.
Nếu người ấy thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ thì có khả năng chứng-ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-nhân trong Phật-giáo.
Tiền-Kiếp Của Người Tam-Nhân
Tiền-kiếp của người tam-nhân ấy đã tạo dục-giới đại-thiện-nghiệp trong kiếp quá-khứ như thế nào mà kiếp-hiện-tại này trở thành người tam-nhân như vậy?
* Tiền-kiếp của người tam-nhân ấy đã từng tạo dục-giới đại-thiện-nghiệp bằng thân, khẩu, ý, hoặc 10 phước-thiện đã trải qua 3 thời-kỳ tác-ý:
1- Pubbacetanā: Tác-ý phát sinh trước khi tạo phước-thiện ấy,
2- Muñcacetanā: Tác-ý phát sinh đang khi tạo phước-thiện ấy,
3- Aparacetanā: Tác-ý phát sinh sau khi đã tạo phước-thiện ấy xong rồi.
Mỗi thời-kỳ tác-ý trongdục-giớiđại-thiện-tâm tạo phước-thiện có vai trò quan trọng trong mỗi dục-giới đại-thiện-nghiệp như sau:
* Tiền-kiếp của người tam-nhân ấy, kiếp quá-khứ trong thời-kỳ muñcacetanā: tác-ý phát sinh đang khi tạo phước-thiện ấyđồng sinh với dục-giới đại-thiện-tâmhợp với trí-tuệkammas-sakatāñāṇa: trí-tuệ hiểu biết đúng nghiệp là của riêng của mình,hoặc trí-tuệ-thiền-tuệ lokiya-vipassanāñāṇa, nên có đủtam-nhân là vô-tham (alobhahetu), vô-sân (adosahetu), vô-si (amoha-hetu) (trí-tuệ).
* Đại-thiện-nghiệp trong dục-giới đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ ấy gọi là tihetukakusala-
kamma: tam-nhân dục-giới đại-thiện-nghiệp.
Và trong thời-kỳ aparacetanā: tác-ý phát sinh sau khi đã tạo phước-thiện dục-giới đại thiện-nghiệp ấy xong rồi, tiền-kiếp của người tam-nhân ấy phát sinh dục-giới đại-thiện-tâm trong sạch vô cùng hoan hỷ, không bị tham-ái, ngã-mạn, tà-kiến làm ô nhiễm, nên trở thành ukkaṭṭhakusalakamma: tam-nhân dục-giới đại-thiện-nghiệp bậc cao.
* Tiền-kiếp của người tam-nhân ấy chết, sau khi chết tam-nhân dục-giới đại-thiện-nghiệp bậc cao đồng sinh với dục-giới đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ cho quả tái-sinh là tam-nhân dục-giới đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ làm phận-sự tái-sinh kiếp sau gọi là tihetukapaṭisandhi: tái-sinh-tâm có đủ tam-nhân (vô-tham, vô-sân, vô-si) làm người bậc cao quý gọi là người tam-nhân (tihetukapuggala) từ khi đầu thai làm người.
Khi sinh ra đời đến lúc trưởng thành, người ấy là hạng người tam-nhân (tihetukapuggala) vốn dĩ có trí-tuệ, nên có khả năng đặc biệt chứng đắc các bậc thiền sắc-giới, bậc thiền vô-sắc-giới, hoặc chứng-ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-nhân trong Phật-giáo.
Có những hạng người tam-nhân (tihetuka-puggala) từ khi tái-sinh đầu thai làm người như:
* Kiếp chót của Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác sẽ trở thành Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác chắc chắn là hạng người tam-nhân (tihetuka-puggala).
Như Đức-Bồ-tát thiên-nam Setaketu là tiền-kiếp củaĐức-Phật Gotamađang an hưởng mọi an lạc trên cõi trời Tusita (Đâu-suất-đà-thiên). Khi ấy, các đức-vua trời và toàn thể chư-thiên, chư đức phạm-thiên đến đảnh lễ kính thỉnh Đức-Bồ-tát giáng thế xuống tái-sinh làm người, để trở thành Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác tế độ chúng-sinh có duyên lành nên tế độ.
Đức-Bồ-tát thiên-nam sau khi xem xét đầy đủ 5 điều([6]) hợp thời đúng lúc, nên Ngài nhận lời thỉnh cầu của chư-thiên, phạm-thiên.
Đức-Bồ-tát thiên-nam Setaketu cuti chuyển kiếp thiên-nam (chết) ở cõi trời Tusita, đồng thời tam-nhân dục-giới đại-thiện-nghiệp trong dục-giới đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ cho quả là “dục-giới đại-quả-tâm thứ nhất đồng sinh với thọ hỷ, hợp với trí, không cần tác-động” làm phận-sự tái-sinh đầu thai vào lòng mẫu-hậu Mahāmayādevī, Chánh-cung-hoàng-hậu của Đức vua Suddhodana, vào canh chót đêm rằm tháng 6 (âm-lịch).
Tròn đủ 10 tháng sau, đúng vào ngày rằm tháng 4, Đức-Bồ-tát Siddhattha đản-sinh ra đời tại khu vườn Lumbinī (nay thuộc về nước Nepal).
* Đến năm 35 tuổi Đức-Bồ-tát Siddhattha trở thành Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Gotama dưới cội cây Đại-Bồ-đề tại khu rừng Uruvelā. (nay gọi là Bodhgayā nước India).
* Kiếp chót của chư Bồ-tát Độc-Giác chắc chắn là hạng người tam-nhân (tihetuka-puggala), để trở thành Đức-Phật Độc-Giác.
* Kiếp chót của 2 vị Bồ-tát tối-thượng-thanh-văn-giác đệ-tử của Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác chắc chắn là hạng người tam-nhân, để trở thành bậc Thánh-A-ra-hán tối-thượng-Thanh-văn-giác đệ-tử của Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác.
* Kiếp chót của chư vị Bồ-tát đại-Thanh-văn-giác đệ-tử của Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác chắc chắn là hạng người tam-nhân, để trở thành bậc Thánh-A-ra-hán đại-Thanh-văn-giác đệ-tử của Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác.
* Kiếp chót của chư vị Bồ-tát Thanh-văn-giác đệ-tử của Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác chắc chắn là hạng người tam-nhân để trở thành bậc Thánh-Thanh-văn-giác đệ-tử của Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác.
Và các hạng người tam-nhân khác cũng chỉ sinh ra từ tam-nhân dục-giới đại-thiện-nghiệp bậc cao của kiếp quá-khứ trong dục-giới đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ cho quả là dục-giới đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ mà thôi.
Các hạng người tam-nhân (tihetukapuggala) có các bậc khác nhau, bởi vì mỗi người tam-nhânđã từng tạo các pháp-hạnh ba-la-mật tròn đủ khác nhau, có 4 pháp thành-tựu (adhipati): chanda: nguyện-vọng cao cả, vīriya: sự tinh-tấn, citta: tâm-nguyện cao cả, vīmaṃsā: trí-tuệ suy xét cao thấp khác nhau, cho nên các hạng người tam-nhân có các bậc cao khác nhau.
Kiếp-Hiện-Tại Của Người Tam-Nhân
Kiếp-hiện-tại của hạng người tam-nhân còn là hạng phàm-nhân (chưa phải bậc Thánh-nhân), sau khi chết, nghiệp cho quả tái-sinh kiếp sau:
– Nếu có sắc-giới thiện-nghiệp thì chắc chắn cho quả hoá-sinh trên cõi trời sắc-giới phạm-thiên, an hưởng sự an lạc cho đến hết tuổi thọ trên cõi trời ấy.
– Nếu có tam-nhân dục-giới đại-thiện-nghiệp bậc cao thì cho quả tái-sinh kiếp sau làm người hoặc chư-thiên bậc cao quý thuộc về hạng tam- nhân trong cõi thiện-giới hưởng sự an lạc cho đến hết tuổi thọ trong cõi ấy.
– Nếu có nhị-nhân dục-giới đại-thiện-nghiệp bậc cao thì cho quả tái-sinh kiếp sau làm người hoặc chư-thiên bậc trung thuộc về hạng nhị- nhân trong cõi thiện-giới hưởng sự an lạc cho đến hết tuổi thọ trong cõi ấy.
* Nếu người tam-nhân thất-niệm (dể-duôi) có giới-hạnh không trong sạch, bị phạm giới, tạo ác-nghiệp, nếu lúc lâm chung ác-nghiệp ấy có cơ hội cho quả thì tái-sinh kiếp sau 1 trong 4 cõi ác-giới (địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh), chịu khổ trong cõi ác-giới ấy cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy, mới thoát khỏi cõi ác-giới.
Ví dụ: * Trường-hợp tỳ-khưu Devadatta vốn là người tam-nhân đã chứng đắc các bậc thiền sắc-giới, chứng đắc các phép thần-thông, nhưng về sau tỳ-khưu Devadatta đã tạo ác-nghiệp vô-gián trọng tội đó là ác-nghiệp chia rẽ chư tỳ-khưu-tăng và làm bầm máu bàn chân của Đức-Phật.
Tỳ-khưu Devadatta sau khi chết, chính ác-nghiệp chia rẽ chư tỳ-khưu-tăng được ưu tiên cho quả tái-sinh kiếp kế tiếp trong cõi địa-ngục Avīci, bị hành hạ thiêu đốt suốt 100 ngàn đại-kiếp trái đất mới mãn quả của ác-nghiệp ấy.
Từ kiếp trái đất này rồi trải qua 100 ngàn kiếp trái đất nữa, hậu kiếp của tỳ-khưu Devadatta thoát ra khỏi cõi địa-ngục, có tam-nhân dục-giới đại-thiện-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp sau đầu thai làm người, khi sinh ra đời, lúc trưởng thành đi xuất gia, rồi sẽ trở thành Đức-Phật Độc-Giác có danh hiệu là Aṭṭhissara.([7])
* Trường-hợp Đức-vua Ajātasattu vốn là hạng người tam-nhân,tạo ác-nghiệp vô-gián trọng tội giết Đức-phụ-vương Bimbisāra.
Về sau, Đức-vua Ajātasattu đến hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, rồi xin sám hối về tội lỗi giết vua cha của mình. Đức-Thế-Tôn thuyết bài kinh Sāmaññaphalasutta để tế độ đức-vua.
Nếu đức-vua không phạm ác-nghiệp vô-gián trọng tội giết vua cha thì sau khi nghe pháp xong, đức-vua có khả năng trở thành bậc Thánh-Nhập-lưu, nhưng đức-vua đã phạm ác-nghiệp vô-gián trọng tội giết vua cha, nên không thể trở thành bậc Thánh-Nhập-lưu.
Sau khi nghe pháp xong, đức-vua Ajātasattu kính xin thọ phép quy-y Tam-bảo, trở thành người cận-sự-nam trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama đến trọn đời trọn kiếp.
Từ đó về sau, đức-vua Ajātasattu có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, hết lòng phụng sự cúng dường Tam-bảo.
Thật vậy, sau khi Đức-Phật Gotama đã tịch diệt Niết-bàn, khoảng 3 tháng 4 ngày, Ngài Đại-trưởng-lão Mahākassapa chủ trì cùng với 500 vị Thánh A-ra-hán tổ chức kỳ kết tập Tam-tạng và Chú-giải lần thứ nhất tại động Sattapaṇṇi gần kinh thành Rājagaha. Đức-vua Ajātasattuđã hộ độ 500 vị Thánh A-ra-hán có Ngài Đại-trưởng-lão Mahākassapa chủ trì trong suốt 7 tháng mới hoàn thành trọn bộ Tam-tạng và Chú-giải.
Đức-vua Ajātasattulà cận-sự-nam phàm-nhân có đức-tin trong sạch đặc biệt nơi Tam-bảo, phụng sự Tam-bảo cho đến trọn đời.
Cho nên, sau khi đức-vua băng hà, lẽ ra ác-nghiệp vô-gián trọng-tội (giết vua cha) cho quả tái-sinh kiếp kế tiếp trong cõi đại địa-ngục Avīci chịu khổ suốt nhiều đại kiếp trái đất, nhưng nhờ có dục-giới đại-thiện-nghiệp đặc biệt trong sạch ấy làm giảm bớt tiềm năng cho quả của ác-nghiệp vô-gián trọng-tội, nên cho quả tái-sinh kiếp kế tiếp trong cõi địa-ngục nhỏ nồi đồng sôi Lohakumbhī, chịu khổ trong cõi địa-ngục nhỏ nồi đồng sôi suốt 60.000 năm,từ miệng chìm xuống đến đáy nồi suốt 30.000 năm, rồi từ đáy nồi nổi lên đến miệng nồi suốt 30,000 năm mới mãn quả của ác-nghiệp vô-gián trọng-tội ấy. Do nhờ tam-nhân dục-giới đại-thiện-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp sau trở lại làm người, hậu kiếp của đức-vua Ajātasattu đi xuất gia, rồi sẽ trở thành Đức-Phật Độc-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Độc-Giác Vịjitāvi.(dựa theo Chú-giải kinh Sāmaññaphalasutta trong Dīghanikāya).
2- * Dvihetukapuggala: hạng người nhị-nhân là người chỉ có 2 nhân: vô-tham và vô-sân mà thôi, không có vô-si (trí-tuệ) từ khi tái-sinh đầu thai làm người.
Khi sinh ra đời lúc trưởng thành, vốn dĩ không có trí-tuệ, nếu người ấy thực-hành pháp-hành-thiền-định thì người ấy không có khả năng chứng đắc bậc thiền sắc-giới nào cả,
Nếu người ấy thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ thì người ấy cũng không có khả năng chứng-ngộ chân-lý tứ Thánh-đế.
Tiền-Kiếp Của Người Nhị-Nhân
* Tiền-kiếp của hạng người nhị-nhân ấy đã từng tạo 10 dục-giới đại-thiện-nghiệp bằng thân, khẩu, ý, hoặc 10 phước-thiện đã trải qua 3 thời-kỳ tác-ý:
1- Pubbacetanā: Tác-ý phát sinh trước khi tạo phước-thiện ấy,
2- Muñcacetanā: Tác-ý phát sinh đang khi tạo phước-thiện ấy,
3- Aparacetanā: Tác-ý phát sinh sau khi đã tạo phước-thiện ấy xong rồi.
Mỗi thời-kỳ tác-ý trong dục-giới đại-thiện-tâm tạo phước-thiện có vai trò quan trọng trong mỗi dục-giới đại-thiện-nghiệp:
* Tiền-kiếp của người nhị-nhân ấy kiếp quá-khứ trong thời-kỳ muñcacetanā: tác-ý phát sinh đang khi tạo phước-thiện ấy đồng sinh với dục-giới đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ, nên chỉ có nhị-nhân là vô-tham (alobhahetu) và vô-sân (adosahetu) mà thôi, không có vô-si (amohahetu) (trí-tuệ).
Nhị-nhân dục-giới đại-thiện-nghiệp này trong dục-giới đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ ấy gọi là dvihetukakusalakamma: nhị-nhân dục-giới đại-thiện-nghiệp.
Và trong thời-kỳ aparacetanā: tác-ý phát sinh sau khi đã tạo phước-thiện ấy xong ấy, tiền-kiếp của người nhị-nhân ấy phát sinh dục-giới đại-thiện-tâm trong sạch vô cùng hoan hỷ, không bị tham-ái, ngã-mạn, tà-kiến làm ô nhiễm, nên trở thành ukkaṭṭhakusalakamma: nhị-nhân dục-giới đại-thiện-nghiệp bậc cao.
* Và tiền-kiếp của người tam-nhân, kiếp quá-khứ trong thời-kỳ muñcacetanā: tác-ý phát sinh đang khi tạo phước-thiện ấy đồng sinh với dục-giới đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ kammassakatā-ñāṇa: trí-tuệ hiểu biết đúng nghiệp là của riêng của mình, nên có đủ tam-nhân là vô-tham (alobhahetu), vô-sân (adosahetu), vô-si (amoha-hetu) (trí-tuệ).
Dục-giới đại-thiện-nghiệp trong dục-giới đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ ấy gọi là tihetuka-kusalakamma: tam-nhân dục-giới đại-thiện-nghiệp.
Và trong thời-kỳ aparacetanā: tác-ý phát sinh sau khi đã tạo phước-thiện ấy xong rồi, tiền-kiếp của người tam-nhân ấy phát sinh bất-thiện-tâm xen lẫn, bị tham-ái, ngã-mạn, tà-kiến làm ô nhiễm, nên trở thành omakakusalakamma: tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc thấp không có khả năng cho quả tái-sinh kiếp sau trở thành người tam-nhân, mà chỉ có khả năng cho quả tái-sinh kiếp sau trở thành người nhị-nhân mà thôi. Vì vậy, tam-nhân dục-giới đại-thiện-nghiệp bậc thấp và nhị-nhân dục-giới đại-thiện-nghiệp bậc cao cùng chung cho quả thời-kỳ tái-sinh kiếp sau.
Tiền-kiếp của người nhị-nhân ấy chết, sau khi chết tam-nhân dục-giới đại-thiện-nghiệp bậc thấp và nhị-nhân dục-giới đại-thiện-nghiệp bậc cao cùng chung cho quả tái-sinh kiếp sau là dục-giới đại-quả-tâm không hợp với trí-tuệ làm phận-sự tái-sinh kiếp sau gọi là dvihetuka-paṭisandhi: tái-sinh-tâm có nhị-nhân (vô-tham và vô-sân, không có vô-si) làm người bậc trung gọi là người nhị-nhân (dvihetukapuggala) từ khi đầu thai làm người.
Khi sinh ra đời, lúc trưởng thành, người ấy là hạng người nhị-nhân (dvihetukapuggala) vốn dĩ không có trí-tuệ, nên người nhị-nhân này dù có thực-hành pháp-hành-thiền-định cũng không có khả năng chứng đắc bậc thiền sắc-giới nào và dù có thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ cũng không có khả năng chứng-ngộ chân-lý tứ Thánh-đế.
Kiếp-Hiện-Tại Của Người Nhị-Nhân
Kiếp-hiện-tại người nhị-nhân có khả năng tạo mọi dục-giới đại-thiện-nghiệp với dục-giới đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ, để tái-sinh kiếp sau trở thành người tam-nhân bậc cao quý.
* Nếu người nhị-nhân thất-niệm (dể-duôi) có giới-hạnh không trong sạch, bị phạm giới, tạo ác-nghiệp, nếu lúc lâm chung ác-nghiệp ấy có cơ hội cho quả thì tái-sinh kiếp sau 1 trong 4 cõi ác-giới (địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh), chịu khổ trong cõi ác-giới ấy cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy, mới thoát khỏi cõi ác-giới.
3- * Sugati-ahetukapuggala: hạng người vô-nhân cõi thiện-giới là người không có nhân nào trong 3 nhân (vô-tham, vô-sân, vô-si) là người đui mù, câm điếc,ngu-muội, si-mê, tật nguyền, …. từ khi tái-sinh đầu thai làm người.
Khi sinh ra đời lúc trưởng thành, người ấy vốn dĩ vô-nhân đui mù, câm điếc, ngu-muội, si-mê, tật nguyền,,… nên không học hành gì được cả, biết tầm thường trong đời sống hằng ngày.
Tiền-Kiếp-Của Người Vô-Nhân Cõi Thiện-Giới
* Tiền-kiếp của hạng người vô-nhân cõi thiện-giới ấy đã từng tạo dục-giới đại-thiện-nghiệp bằng thân, khẩu, ý, hoặc đã tạo 10 phước-thiện trải qua 3 thời-kỳ tác-ý:
1- Pubbacetanā: Tác-ý phát sinh trước khi tạo phước-thiện ấy,
2- Muñcacetanā: Tác-ý phát sinh đang khi tạo phước-thiện ấy,
3- Aparacetanā: Tác-ý phát sinh sau khi đã tạo phước-thiện ấy xong rồi.
Mỗi thời-kỳ tác-ý trong dục-giới đại-thiện-tâm tạo phước-thiện có vai trò quan trọng trong mỗi dục-giới đại-thiện-nghiệp:
* Tiền-kiếp của người vô-nhân cõi thiện-giới ấy kiếp quá-khứ trong thời-kỳ muñcacetanā: tác-ý phát sinh đang khi tạo phước-thiện ấy đồng sinh với dục-giới đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ, nên chỉ có nhị-nhân là vô-tham (alobha-hetu) và vô-sân (adosahetu) mà thôi, không có vô-si (amohahetu).
Nhị-nhân dục-giới đại-thiện-nghiệp này trong dục-giới đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ, nên gọi là dvihetukakusalakamma: nhị-nhân dục-giới đại-thiện-nghiệp.
Và trong thời-kỳ aparacetanā: tác-ý phát sinh sau khi đã tạo phước-thiện ấy xong rồi, tiền-kiếp của người vô-nhân cõi thiện-giới ấy phát sinh bất-thiện-tâm xen lẫn, bị tham-ái, ngã-mạn, tà-kiến làm ô nhiễm, nên trở thành omakakusala-kamma: nhị-nhân dục-giới đại-thiện-nghiệp bậc thấp.
Tiền-kiếp của người vô-nhân cõi thiện-giới ấy chết, sau khi chết nhị-nhân dục-giới đại-thiện-nghiệp bậc thấp cho quả tái-sinh kiếp sau là suy-xét-tâm thiện-quả vô-nhân-tâm (suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là thiện quả vô-nhân-tâm của 8 dục-giới đại-thiện-tâm) làm phận-sự tái-sinh kiếp sau gọi là sugati-ahetuka-paṭisandhi: tái-sinh-tâm với thiện quả vô-nhân-tâm sinh làm người thấp hèn là hạng người vô-nhân cõi thiện-giới (sugati-ahetukapuggala) từ khi đầu thai làm người.
Khi sinh ra đời, lúc trưởng thành, người ấy là hạng người vô-nhân cõi thiện-giới (sugati-ahetukapuggala) đui mù, câm điếc, ngu-muội, si-mê, tật nguyền ,… như vậy.
* Thời-kỳ tái-sinh (paṭisandhikāla) tái-sinh- tâm (paṭisandhicitta) chỉ có 1 sát-na-tâm sinh rồi diệt mà thôi, tiếp theo trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), nếu thai-nhi bị đui mù, câm điếc, tật nguyền gì do ác-nghiệp nào cho quả thời-kỳ sau khi đã tái-sinh thì không thể gọi người ấy là hạng người vô-nhân cõi thiện-giới.
Kiếp-Hiện-Tại Của Người Vô-Nhân
* Tuy kiếp-hiện-tại của người vô-nhân cõi thiện-giới không tạo được thiện-nghiệp hoặc ác-nghiệp nào đặc biệt, nhưng vô số kiếp quá-khứ đã từng tạo những dục-giới đại-thiện-nghiệp, hoặc ác-nghiệp. Khi kiếp-hiện-tại của người vô-nhân cõi thiện-giới ấy sau khi chết, nếu nghiệp nào có cơ-hội cho quả thì tái-sinh kiếp sau theo quả của nghiệp ấy như sau:
– Nếu tam-nhân dục-giới đại-thiện-nghiệp bậc cao, hoặc nhị-nhân dục-giới đại-thiện-nghiệp bậc cao nào của kiếp quá-khứ có cơ-hội cho quả tái-sinh kiếp sau thì sinh làm người (hoặc chư-thiên) thuộc về hạng người tam-nhân hoặc hạngngười nhị-nhân tuỳ theo quả của dục-giới đại-thiện-nghiệp ấy.
– Nếu nhị-nhân dục-giới đại-thiện-nghiệp bậc thấp nào của kiếp quá-khứ có cơ-hội cho quả tái-sinh kiếp sau thì sinh làm người (hoặc chư-thiên) thuộc về hạng người vô-nhân cõi thiện-giới (sugati-ahetukapuggala) tuỳ theo quả của dục-giới đại-thiện-nghiệp ấy.
– Nếu bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) nào của kiếp quá-khứ có cơ-hội cho quả tái-sinh kiếp sau thì sinh trong cõi ác-giới (cõi địa-ngục hoặc cõi a-su-ra hoặc cõi ngạ-quỷ hoặc loài súc-sinh) thuộc về hạng chúng-sinh vô-nhân cõi ác-giới (dugati-ahetukapuggala) thuộc về chúng-sinh nào tuỳ theo quả của ác-nghiệp của chúng-sinh ấy.
Bất-Thiện-Tâm Và Dục-Giới Đại-Thiện-Tâm
Tóm lược 12 bất-thiện-tâm và 8 dục-giới đại-thiện-tâm như sau:
1- Bất-thiện-tâm (akusalacitta) có 12 tâm, tác-ý tâm-sở đồng sinh với 12 bất-thiện-tâm gọi là 12 bất-thiện-nghiệp cho quả trong 2 thời-kỳ:
* Thời-kỳ tái sinh kiếp sau (paṭisandhikāla), 12 bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) trong 12 bất-thiện-tâm trong thời-kỳ tái sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) chỉ có 11 bất-thiện-nghiệp (trừ si-tâm đồng sinh với thọ-xả, hợp với phóng-tâm) cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau chỉ có 1 bất-thiện-quả vô-nhân-tâm là upekkhāsahagataṃ santīraṇacittaṃ: suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của 11 bất-thiện-nghiệp([8]) gọi là paṭisandhicitta: tái-sinh-tâm làm phận-sự tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikicca) trong 4 cõi ác-giới là cõi địa-ngục, cõi a-su-ra, cõi ngạ-quỷ, loài súc-sinh.
Sau khi suy-xét-tâm đồng sinh với thọ-xả nào là quả của bất-thiện-nghiệplàm phận-sự tái-sinh kiếp sau xong, suy-xét-tâm đồng sinh với thọ-xả ấy liền tiếp theo làm phận-sự hộ-kiếp(bhavaṅga-kicca) giữ gìn bảo hộ kiếp ấy cho đến mãn kiếp, cuối cùng cũng suy-xét-tâm đồng sinh với thọ-xả ấy làm phận-sự chuyển kiếp (cutikicca) (chết) chấm dứt kiếp-hiện-tại của một chúng-sinh trong cõi ác-giới ấy.
* Trongthời-kỳ sau khi đã tái sinh (pavatti-kāla) 12 bất-thiện-nghiệp cho quả có 7bất-thiện-quả vô-nhân-tâm trong kiếp-hiện-hữu.
2- Dục-giới đại-thiện-tâm (kāmavacarakusala-citta hoặc gọi mahākusalacitta) có 8 tâm, tác-ý tâm-sở đồng sinh với 8 dục-giới đại-thiện-tâm gọi là 8 dục-giới đại-thiện-nghiệp cho quả trong 2 thời-kỳ:
* Thời-kỳ tái sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) 8 dục-giới đại-thiện-nghiệp cho quả có 9 quả-tâm là 8 dục-giới đại-quả-tâm và 1 upekkhā-sahagataṃ santīraṇacittaṃ: suy-xét-tâm đồng sinh với thọ-xả là thiện-quả-vô-nhân-tâm của 8 dục-giới đại-thiện-nghiệp gọi là paṭisandhicitta: tái-sinh-tâm làm phận-sự tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikicca) trong 7 cõi thiện-giới là cõi người và 6 cõi trời dục-giới.
Trong 9 tái-sinh-tâm, quả-tâm nào sau khi làm phận-sự tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikicca) xong, quả-tâm ấy liền tiếp theo làm phận-sự hộ-kiếp (bhavaṅgakicca) giữ gìn bảo hộ kiếp ấy cho đến mãn kiếp, cuối cùng cũng quả-tâm ấy làm phận-sự chuyển kiếp (cutikicca) (chết) chấm dứt kiếp-hiện-tại của một chúng-sinh trong cõi thiện-giới ấy.
* Trong thời-kỳ sau khi đã tái sinh (pavatti-kāla) 8 dục-giới đại-thiện-nghiệp cho quả gồm có 16 quả-tâm là 8 dục-giới đại-quả-tâm và 8thiện-quả vô-nhân-tâm trong kiếp-hiện-hữu.
[6]Xem bộ Nền Tảng Phật-giáo, quyển I Tam-Bảo ,trang 51 cùng soạn giả
[7] Bộ Dhammapadaṭṭhakathā, tích Devadattavatthu
[8]Bất-thiện-nghiệp trong si-tâm hợp với phóng-tâm ấy không có khả năng cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau.
Phần – 3.4
Tái-Sinh Kiếp Sau ( Paṭisandhi)
Trong Tam giới gồm có 31 cõi là nơi sinh của chúng-sinh phân chia theo cõi tái-sinh và theo tái-sinh-tâm có 4 loại như sau:
Paṭisandhi: Tái-sinh kiếp sau có 4 loại:
1- Apāyapaṭisandhi: Tái-sinh trong 4 cõi ác-giới,
2- Kāmasugatipaṭisandhi: Tái-sinh trong 7 cõi thiện-dục-giới
3- Rūpāvacarapaṭisandhi: Tái-sinh trong 16 cõi sắc-giới,
4- Arūpāvacarapaṭisandhi: Tái-sinh trong 4 cõi vô-sắc-giới.
* Cõi Tái-Sinh (Bhūmi) Có 4 Cõi
1- Apāyabhūmi: Cõi ác-giới có 4 cõi,
2- Kāmasugatibhūmi:Cõi thiện-dục-giới có 7
3- Rūpāvacarabhūmi: Cõi sắc-giới có 16 cõi,
4- Arūpāvacarabhūmi: Cõi vô-sắc-giới có 4 cõi.
Paṭisandhi: Tái-sinh kiếp sau nghĩa làkhi tử-tâm (cuticitta) cuối cùng của kiếp-hiện-tại diệt (chết) chấm dứt kiếp-hiện-tại (cũ), liền kế tiếp tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) đầu tiên phát sinh bắt đầu kiếp sau (mới) gọi là paṭisandhi: tái-sinh kiếp sau.
Paṭisandhi: Tái-sinh kiếp sau có 4 loại:
1– Apāyapaṭisandhi: Tái-sinh trong 4 cõi ác-giới chỉ có 1 tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) đó là suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là bất-thiện-quả vô-nhân-tâm của 11 ác-nghiệp (upekkhāsaha-gataṃ santīraṇacittaṃ) và sắc-pháp phát sinh do 11 ác-nghiệp (kammajarūpa) lần đầu tiên phát sinh trong 4 cõi ác-giới: cõi địa-ngục, cõi a-su-ra, cõi ngạ-quỷ, loài súc-sinh, gọi là apāyapaṭisandhi.
2– Kāmasugatipaṭisandhi: Tái-sinh trong 7 cõi thiện-dục-giới gồm có 9dục-giới tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) đó là 8 dục-giới đại-quả-tâm và 1 suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là thiện-quả-vô-nhân-tâm của 8 dục-giới đại-thiện-nghiệp và sắc-pháp phát sinh do 8 dục-giới đại-thiện-nghiệp (kammajarūpa) lần đầu tiên phát sinh trong 7 cõi thiện-giới: cõi người và 6 cõi trời dục-giới, gọi là kāmasugatipaṭisandhi.
3– Rūpapaṭisandhi: Tái-sinh trong 16 cõi sắc-giới có 5 sắc-giới tái-sinh-tâm (paṭisandhi-citta) đó là 5 sắc-giới-quả-tâm với sắc-pháp phát sinh do 5 sắc-giới thiện-nghiệp lần đầu tiên phát sinh trong 15 cõi sắc-giới và 1 jīvitanavakakalāpa: nhóm sắc-pháp có sắc-mạng-chủ là thứ 9 lần đầu tiên phát sinh trong cõi sắc-giới Vô-tưởng-thiên, gồm có 16 cõi trời sắc-giới gọi là rūpapaṭisandhi.
4– Arūpapaṭisandhi: Tái-sinh trong 4 cõi vô-sắc-giới có 4vô-sắc-giới tái-sinh-tâm (paṭi-sandhicitta) đó là 4 vô-sắc-giới-quả-tâm lần đầu tiên phát sinh trong 4 cõi vô-sắc-giới, gọi là arūpapaṭisandhi.
Trong 4 loại paṭisandhi tái-sinh kiếp sau, quyển sách nhỏ này chỉ trình bày 2 loại paṭisandhi tái-sinh kiếp sau là apāyapaṭisandhi: tái-sinh trong 4 cõi ác-giới và kāmasugatipaṭisandhi: tái-sinh trong 7 cõi thiện-dục-giới mà thôi.
1-Apāyapaṭisandhi: Tái-Sinh Trong 4 Cõi Ác-Giới
Apāyapaṭisandhi: Tái-sinh-tâm trong 4 cõi ác-giới đó là suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là bất-thiện-quả-vô-nhân-tâm của 11 ác-nghiệp (upekkhā-sahagataṃ santīraṇacittaṃ) trở thành tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta)cùng với sắc-pháp phát sinh do 11 ác-nghiệp (kammajarūpa) lần đầu tiên phát sinh làm chúng-sinh trong 4 cõi ác-giới (apāyabhūmi): cõi địa-ngục, cõi ngạ-quỷ, cõi a-su-ra, loài súc-sinhkhông có sự an lạc.
Sau khi suy-xét-tâm đồng sinh với thọ-xả nào là quả của bất-thiện-nghiệplàm phận-sự tái-sinh kiếp sau xong, suy-xét-tâm đồng sinh với thọ-xả ấy liền tiếp theo làm phận-sự hộ-kiếp(bhavaṅga-kicca) giữ gìnbảo hộ kiếp ấy cho đến mãn kiếp, cuối cùng cũng suy-xét-tâm đồng sinh với thọ-xả ấy làm phận-sự chuyển kiếp (cutikicca) (chết) chấm dứt kiếp-hiện-tại của một chúng-sinh trong cõi ác-giới ấy.
Cõi của 4 loài chúng-sinh địa-ngục, ngạ-quỷ, a-su-ra, súc-sinh. gọi là dugatibhūmi cõi ác-giới và tái-sinh-tâm của 4 loài chúng-sinh ấy thuộc về bất-thiện-quả vô-nhân-tâm. Vì vậy, 4 loài chúng-sinh ấy gọi là dugati-ahetukapuggala:chúng-sinh vô-nhân cõi ác-giới.
– Nếu suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xảlà bất-thiện-quả-vô-nhân-tâmcủa ác-nghiệp trong sân-tâm có nhiều năng lực làm phận-sự tái-sinh kiếp sau bằng cách hoá-sinh làm chúng-sinh trong cõi địa-ngục.
1- Nirayabhūmi: Cõi Địa-Ngục
Nirayabhūmi: cõi địa-ngục là cõi không có sự an lạc, chúng-sinh trong cõi địa-ngục luôn luôn bị hành hạ chịu bao nỗi thống khổ cùng cực.
Niraya với naraka có nghĩa giống nhau.
Naraka: cõi địa-ngục có 4 loại:
1- Mahānaraka: Đại-địa-ngục có 8 cõi lớn,
2- Ussadanaraka: Tiểu địa-ngục (cūḷanaraka) bao quanh 8 đại-địa-ngục, mỗi đại-địa-ngục có 4 cửa, mỗi cửa có 4 tiểu địa-ngục gồm có 8 x 4 x 4=128 ussadanaraka: tiểu địa-ngục.
* Mahānaraka: Đại–địa-ngụccó 8 cõi:
1– Sañjīvanaraka là đại-địa-ngục mà chúng-sinh địa-ngục bị giết chết, rồi hoá-sinh trở lại mãi mãi trong đại-địa-ngục ấy.
Trong đại-địa-ngục này, chúa đại-địa-ngục dùng khí giới giết chúng-sinh địa-ngục ấy chết, rồi hoá-sinh ngay tức khắc trở lại, và cứ tiếp diễn như vậy mãi mãi, nên gọi đại-địa-ngục này là sañjīvanaraka.
2– Kāḷasuttanaraka làđại-địa-ngục mà chúng-sinh địa-ngục bị đánh đập bằng sợi giây đen, rồi chặt ngay lằn ấy.
Trong đại-địa-ngục này, chúa đại-địa-ngục đánh đập chúng-sinh địa-ngục bằng sợi dây màu đen, rồi dùng đao to chặt chúng-sinh địa-ngục ấy, nên gọi đại-địa-ngục này là kāḷasuttanaraka.
3- Saṅghātanaraka là đại-địa-ngục mà chúng sinh địa-ngục bị hòn núi bằng sắt cháy đỏ chà xát chúng-sinh địa-ngục ấy thành bột.
Trong đại-địa-ngục này, chúng-sinh bị hòn núi to cao bằng sắt cháy đỏ sáng rực chà xát chúng-sinh địa-ngục thành bột, nên gọi đại-địa-ngục này là saṅghātanaraka.
4- Roruvanaraka (dhūmaroruva) là đại-địa-ngục mà chúng-sinh địa-ngục bị luồng khói nóng chui vào 9 môn làm nóng rực khóc than lớn tiếng.
Trong đại-địa-ngục này, chúng-sinh khóc than lớn tiếng, nên gọi đại-địa-ngục này là roruva-naraka. Hoặc chúng-sinh địa-ngục bị luồng khói nóng chui vào 9 môn làm nóng rực khóc than lớn tiếng, nên gọi đại-địa-ngục này là dhūmaroruva.
5- Mahāroruvanaraka (jālāroruva) là đại-địa-ngục mà chúng-sinh địa-ngục bị lửa thiêu đốt 9 môn nóng rực không chịu nổi khóc than lớn tiếng.
Trong đại-địa-ngục này chúng-sinh khóc than lớn tiếng hơn roruvanaraka, nên gọi đại-địa-ngục này là mahāroruvanaraka. Hoặc chúng-sinh địa-ngục bị luồng khói nóng chui vào 9 môn làm nóng rực không sao chịu nổi, khóc than lớn tiếng nhiều, nên gọi đại-địa-ngục này là jālāroruva.
6- Tāpananaraka (cūḷatāpana) là đại-địa-ngục mà chúng-sinh địa-ngục bị cắm chặt một nơi thiêu đốt nóng rực.
Trong đại-địa-ngục này, chúng-sinh bị cắm chặt bởi cây giáo sắt ở một chỗ, lửa thiêu đốt nóng rực, nên gọi đại-địa-ngục này là tāpananaraka.
7- Mahātāpananaraka (patāpana) là đại-địa-ngục mà chúng-sinh địa-ngục bị bắt buộc leo lên núi sắt cao nóng rực nhiều, rồi rơi xuống bị mũi giáo nhọn đâm thủng, còn bị lửa thiêu đốt càng nóng thêm nữa.
Trong đại-địa-ngục này, chúng-sinh độc ác bị bắt buộc leo lên núi sắt cao nóng rực, rồi rơi xuống bị mũi giáo nhọn đâm thủng, còn bị lửa thiêu đốt càng nóng dữ dội, nên gọi đại-địa-ngục này là mahātāpananaraka.
8- Avīcinaraka là đại-địa-ngục mà chúng-sinh địa-ngục độc ác bị giam giữ 4 phía sắt nóng, bị thiêu đốt suốt thời gian không ngừng.
Trong đại-địa-ngục này, chúng-sinh địa-ngục độc ác bị ngọn lửa địa-ngục thiêu đốt suốt thời gian không ngừng, nên gọi đại-địa-ngục này là avīcinaraka.
Ác-Nghiệp Cho Quả Tái-Sinh Địa-Ngục
Ác-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi địa-ngục đó là bất-thiện-nghiệp trong sân-tâm tạo thân ác-nghiệp, khẩu ác-nghiệp, ý ác-nghiệp.
*Trong tất cả mọi ác-nghiệp chỉ có ác-nghiệp-trọng-tội gọi là pañcānantariyakamma: ngũ-vô-gián-ác-nghiệp là giết cha, giết mẹ, giết bậc Thánh-A-ra-hán, làm bầm máu bàn chân của Đức-Phật, chia rẽ chư tỳ-khưu-Tăng là nặng hơn cả. Nếu người nào đã phạm 1 trong 5 ác-nghiệp-trọng-tội này, sau khi người ấy chết, ác-nghiệp ấy chắc chắn cho quả tái-sinh kiếp kế tiếp không có khoảng cách (vô-gián-đoạn) trong cõi đại-địa-ngục Avīci.
* Vàngười nào có tà-kiến cố-định chấp thủ không thay đổi gọi là niyatamicchādiṭṭhi-kamma: ác-nghiệp tà-kiến cố-định có 3 loại:
1-Natthikadiṭṭhi: vô-quả-tà-kiến,
2- Ahetukadiṭṭhi: vô-nhân-tà-kiến,
3- Akiriyādiṭṭhi: vô-hành-tà-kiến.
Người ấy hoàn toàn không tin nghiệp và quả của nghiệp, nhưng nghiệp và quả của nghiệp là có thật, cho nên người ấy sau khi chết ác-nghiệp tà-kiến ấy chắc chắn cho quả hoá sinh trong cõi đại-địa-ngụcAvīci.
Ác-Nghiệp Cho Quả Tái-Sinh Mỗi Đại-Địa-Ngục
1- Trong đời, người nào cậy có quyền thế hành hạ, đàn áp, giết người, làm khổ người yếu thế một cách không hợp pháp, hoặc bọn cướp tàn nhẫn tràn vào xóm làng uy hiếp dân lành, cướp của cải, giết người, v.v… Người ấy sau khi chết, ác-nghiệp ấy cho quả tái-sinh kiếp sau phần nhiều trong cõi đại-địa-ngục sañjīva-mahānaraka chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy trong suốt thời gian lâu dài cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy.
2- Trong đời, người nào hành hạ, làm khổ người có giới-đức, giết hại bậc xuất gia như tỳ-khưu, sa-di, đạo-sĩ, người có giới hạnh tốt, v.v… Người ấy sau khi chết, ác-nghiệp ấy cho quả tái-sinh kiếp sau phần nhiều trong cõi đại-địa-ngục kāḷasuttamahānaraka chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy trong suốt thời gian lâu dài cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy.
3- Trong đời, người nào hành hạ các loài gia súc như trâu, bò, voi, ngựa, v.v… không có tâm bi thương xót chúng-sinh, và những người thợ săn thú rừng, bắn chim, v.v… Người ấy sau khi chết, ác-nghiệp ấy cho quả tái-sinh kiếp sau phần nhiều trong cõi đại-địa-ngục saṅghāta-mahānaraka chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy trong suốt thời gian lâu dài cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy.
4- Trong đời, người nào đốt rừng thiêu đốt các sinh vật, làm nghề bẫy chim, bẫy thú rừng, làm nghề bắt cá bằng lưới, người nuôi gia cầm để bán thịt, v.v… Người ấy sau khi chết, ác-nghiệp ấy cho quả tái-sinh kiếp sau phần nhiều trong cõi đại-địa-ngục cūḷaroruvamahānaraka chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy trong suốt thời gian lâu dài cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy.
5- Trong đời, người nào trộm cắp của cải đồ đạc của cha mẹ, của thầy tổ, của tỳ-khưu-Tăng, sa-di, của tu nữ, trộm cắp phẩm vật cúng dường Tam-bảo, v.v…Người ấy sau khi chết, ác-nghiệp ấy cho quả tái-sinh kiếp sau phần nhiều trong cõi đại-địa-ngục mahāroruvamahānaraka chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy trong suốt thời gian lâu dài cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy.
6- Trong đời, người nào đốt nhà, đốt chỗ ở của chư tỳ-khưu, sa-di, đốt chùa, phá ngôi bảo tháp, v.v… Người ấy sau khi chết, ác-nghiệp ấy cho quả tái-sinh kiếp sau phần nhiều trong cõi đại-địa-ngục cūḷatāpanamahānaraka chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy trong suốt thời gian lâu dài cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy.
7- Trong đời, người nào có tà-kiến thấy sai chấp lầm, không hiểu biết về nghiệp và quả của nghiệp như sau:
– Là người có đoạn-kiến (ucchedadiṭṭhi) cho rằng: chết là hết, không còn gì cả, không có tái-sinh kiếp sau nào cả;
– Là người có thường-kiến (sassatadiṭṭhi) cho rằng: người nào chết, rồi trở lại sinh làm người ấy, nghĩa là người giàu chết, rồi trở lại sinh làm người giàu; người nghèo chết, rồi trở lại sinh làm người nghèo; người chết như thế nào, rồi trở lại sinh làm người như thế ấy; v.v… Con chó nào chết, rồi trở lại sinh làm con chó ấy; con mèo nào chết, rồi trở lại sinh làm con mèo ấy; con thú nào chết, rồi trở lại sinh làm con thú ấy;
– Là người không hiểu biết về nghiệp và quả của nghiệp, nên không biết thiện-nghiệp cho quả an lạc, ác-nghiệp cho quả khổ; chỉ biết an lạc hoặc khổ do số mạng mà thôi… Những người ấy sau khi chết, ác-nghiệp ấy cho quả tái-sinh kiếp sau phần nhiều trong cõi đại-địa-ngục mahā-tāpanamahānaraka chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy trong suốt thời gian lâu dài cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy.
8- Trong đời, người nào đã tạo ngũ-vô-gián ác-nghiệp (pañcānantariyakamma) là giết cha, giết mẹ, giết bậc Thánh-A-ra-hán, làm bầm máu bàn chân của Đức-Phật, chia rẽ chư tỳ-khưu-Tăng phạm 1 trong 5 ác-nghiệp trọng tội hoặc có ác-nghiệp tà-kiến-cố-định (aniyatamicchā-diṭṭhi) là vô-quả-tà-kiến,vô-nhân-tà-kiến, vô-hành-tà-kiến, chấp thủ không thay đổi, hoàn toàn không tin nghiệp và quả của nghiệp.
Hai hạng người ấy sau khi chết, ác-nghiệp trọng tội ấy cho quả tái-sinh kiếp kế tiếp trong cõi đại-địa-ngục avīcimahānaraka chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy trong suốt thời gian lâu dài cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy.
Nhận Xét Về 2 Loại Ác-Nghiệp-Trọng-Tội
Hai loại ác-nghiệp trọng-tội là pañcānan-tariyakamma: ngũ-vô-gián-ác-nghiệp là giết cha, giết mẹ, giết bậc Thánh-A-ra-hán, làm bầm máu bàn chân của Đức-Phật, chia rẽ chư tỳ-khưu-Tăng và ác-nghiệp tà-kiến-cố-định là vô-quả-tà-kiến, vô-nhân-tà-kiến, vô-hành-tà-kiến.
Trong 2 loại ác-nghiệp trọng tội này, ác-nghiệp tà-kiến-cố-định là nặng hơn ngũ-vô-gián-ác-nghiệp, bởi vì người có ác-nghiệp tà-kiến-cố-định là người hoàn toàn không tin nghiệp và quả của nghiệp, nên không biết ăn năn sám hối tội lỗi, không từ bỏ ác-nghiệp tà-kiến-cố-định của mình.
Còn người nào đã lỡ phạm 1 trong 5 ngũ-vô-gián-ác-nghiệp, về sau biết ăn năn sám hối tội lỗi của mình rồi, nhưng sau khi người ấy chết, chắc chắn không thể tránh khỏi ác-nghiệp ấy cho quả tái-sinh liền kiếp tiếp theo trong cõi đại-địa-ngục Avīci chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy cho đến khi mãn ác-nghiệp ấy.
Sau khi thoát ra khỏi cõi địa-ngục, nếu hậu kiếp của người ấy có dục-giới đại-thiện-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp sau trở lại làm người, người ấy có khả năng tạo mọi thiện-nghiệp.
* Ví như trường-hợp trong tiền-kiếp xa xưa của Ngài Đại-trưởng-lão Mahāmoggallāna đã từng đánh cha mẹ đến chết, rồi bỏ vào bụi cây, phạm 2 trong 5 ngũ-vô-gián-ác-nghiệp trọng-tội.
Tiền-kiếp ấy của Ngài sau khi chết, ác-nghiệp giết cha, giết mẹ cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi đại-địa-ngục Avīci chịu qủa khổ của ác-nghiệp ấy cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy, mới thoát ra khỏi cõi đại-địa-ngục.
Kiếp-hiện-tại của Ngài Đại-trưởng-lão Mahā-moggallāna là bậc Thánh-A-ra-hán tối-thượng-thanh-văn có phép thần-thông đệ nhất trong hàng thanh văn đệ tử của Đức-Phật Gotama.
Trước khi Ngài tịch diệt Niết-bàn, ác-nghiệp cũ còn dư sót, nên Ngài bị bọn cướp đánh đập Ngài tan xương nát thịt, chúng tưởng Ngài đã chết, ném xác Ngài vào bụi cây, Ngài vận dụng phép thần thông gắn lại, rồi bay đến hầu đảnh lễ Đức-Phật, xin tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong 3 giới 4 loài.
* Trường-hợp tỳ-khưu Devadattađã tạo ác-nghiệp, làm bầm máu bàn chân của Đức-Phật và chia rẽ chư tỳ-khưu-Tăng, tỳ-khưu Devadatta bị phạm ác-nghiệp trọng tội, đếnkhi bị lâm bệnh nặngtrước khi chết, tỳ-khưu Devadatta biết ăn năn hối hận, nên truyền bảo nhóm đệ tử khiêng giường Ngài nằm đến hầu đảnh lễ Đức-Phật xin sám hối tội lỗi của mình, nhưng khi đến chùa Jetavana chưa hầu Đức-Phật thì tỳ-khưu Devadatta bị mặt đất nứt làm đôi, hút thân hình của tỳ-khưu xuống sâu trong lòng đất, tỳ-khưu Devadatta sau khi chết, ác-nghiệp trọng tội cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi đại-địa-ngục Avīci, chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy.
Trong bộ Chú-giải Pháp-cú giải rằng:
“So hi ito satasahassakappamattake Aṭṭhissaro nāma Paccekabuddho bhavissati.”([9])
Tỳ-khưu Devadatta tái-sinh trong cõi đại-địa-ngục Avīci kể từ đại kiếp trái đất này cho đến 100 ngàn đại kiếp trái đất sau, hậu-kiếp của tỳ-khưu Devadatta sẽ trở thành Đức-Phật Độc-Giác có danh hiệu là Aṭṭhissara.
* Trường-hợp đức-vua Ajātasattu đã giết đức-vua cha Bimbisāra là bậc Thánh-Nhập-lưu, phạm 1 trong 5 ngũ-vô-gián-ác-nghiệp trọng tội.
Sau đó, đức-vua Ajātasattu ngự đến hầu đảnh lễ Đức-Phật, xin sám hối tội lỗi của mình, Đức-Phật nhận biết tội lỗi của đức-vua, rồi Đức-Phật thuyết bài kinh Sāmaññaphalasutta để tế độ đức-vua. Sau khi nghe Đức-Phật thuyết-pháp xong, đức-vua phát sinh đức-tin vô cùng hoan hỷ, kính xin thọ phép quy y Tam-bảo rằng:
“Esāhaṃ bhante, Bhagavantaṃ saraṇam gacchāmi dhammañca bhikkhusaṃghañca. Upāsikaṃ maṃ Bhagavā dhāretu, ajjatagge pāṇupetaṃ saraṇaṃ gataṃ.” ([10])
(Kính bạch Đức-Thế-Tôn, con đem hết lòng thành kính xin quy y nơi Đức-Thế-Tôn, nơi Đức-Pháp-bảo, nơi Đức-Tăng-bảo.
Kính xin Đức-Thế-Tôn nhận biết con là người cận-sự-nam kể từ hôm nay cho đến trọn đời đã quy y nơi Tam-bảo.)
* Trong Chú-giải giảng rằng: Sau khi nghe bài kinh Sāmaññaphalasutta này xong, nếu đức-vua Ajātasattu không phạm ác-nghiệp trọng-tội giết đức-phụ-vương thì chứng đắc thành bậc Thánh-Nhập-lưu ngay tại nơi ấy, nhưng vì đức-vua đã phạm ác-nghiệp trọng-tội giết đức-phụ-vương, nên không chứng đắc thành bậc Thánh-Nhập-lưu được. Đức-vua Ajātasattu còn là phàm-nhân mà có đức-tin trong sạch đặc biệt phụng sự Tam-bảo.
Thật vậy, đức-vuaAjātasattu của nước Māgadha hộ độ trong thời-kỳ kết tập Tam-tạng lần thứ nhất do Ngài đại-trưởng-lão Mahā- kassapa chủ trì cùng với 500 bậc Thánh-A-ra-hán, thời gian sau khi Đức-Phật tịch diệt Niết-bàn được 3 tháng 4 ngày ( nhằm vào ngày mồng 4 tháng 7 âm lịch trong mùa an cư nhập hạ) tại động Sattapaṇṇi gần kinh thành Rājagaha.
Kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi lần thứ nhất bằng cách truyền khẩu (mukhapāṭha) chưa ghi chép bằng chữ viết suốt 7 tháng mới hoàn thành xong trọn bộ Tam-tạng Pāḷi và chú-giải Pāḷi.
Đức-vua Ajātasattu sau khi băng hà, ác-nghiệp trọng tội giết đức-phụ-vương đúng ra cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi đại-địa-ngục Avīci chịu quả khổ lâu dài, nhưng nhờ mọi dục-giới đại-thiện-nghiệp nhất là dục-giới đại-thiện-nghiệp hộ độ chư bậc Thánh-A-ra-hán trong kỳ kết tập Tam-tạng lần thứ nhất hỗ trợ, nên không tái-sinh trong cõi đại-địa-ngục Avīci, mà tái-sinh kiếp sau trong cõi địa-ngục lohakumbhī: nồi đồng sôi từ miệng nồi chìm xuống đến đáy trong thời gian 30 ngàn năm, rồi từ đáy nồi nổi lên miệng nồi trong thời gian 30 ngàn năm gồm có 60 ngàn năm mới thoát ra khỏi cõi địa-nguc này.
Trong Chú-giải kinh Sāmaññaphalasutta giải rằng: Hậu-kiếp của Đức-vua Ajātasattu sau khi thoát ra khỏi cõi địa-nguc, do nhờ dục-giới đại-thiện-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp sau trở lại làm hạng người tam-nhân cao quý sẽ trở thành Đức-Phật Độc-giáccó danh hiệu làvijitāvī.
Đại-Địa-Ngục (Mahānaraka)
Đại-địa-ngục (mahānaraka) có 8 cõi sắp đặt chiều sâu theo tuần tự, mỗi cõi đại-địa-ngục có khoảng cách 15 ngàn do-tuần.
Mỗi cõi đại-địa-ngục có 4 hướng, mỗi hướng có một cửa, bên ngoài mỗi cửa có 4 địa-ngục Ussadanaraka: cõi địa-ngục-nhỏ hoặc gọi là Cūḷanaraka: tiểu-địa-ngục nằm quanh 4 cửa.
Như vậy đại-địa-ngục (mahānaraka) có 8 cõi, mỗi cõi có 4 cửa gồm có 32 cửa địa-ngục mà mỗi cửa có 1 chúa địa-ngục, gồm có 32 chúa địa-ngục.
Ussadanaraka Hoặc Cūḷanaraka
Ussadanaraka: cõi địa-ngục-nhỏ hoặc Cūḷa-naraka: tiểu-địa-ngục nằm xung quanh 8 cõi đại-địa-ngục tại 4 hướng, mỗi hướng có 4 cõi tiểu địa-ngục, mỗi cõi đại-địa-ngục có 16 cõi ussadanaraka: cõi địa-ngục-nhỏ hoặc cūḷa-narada: tiểu-địa-ngục.
Như vậy 8 cõi đại-địa-ngục gồm có 128 cõi địa-ngục-nhỏ hoặc tiểu-địa-ngục.
Ussadanaraka: cõi địa-ngục-nhỏ có 4 cõi:
Bốn cõi ussadanaraka này nằm xung quanh 4 cửa của 8 cõi đại-địa-ngục có tên gọi giống nhau, nhưng chỉ có khác nhau tội nặng, tội nhẹ mà thôi, theo thứ tự như sau:
1- Gūthanaraka: cõi địa-ngục hầm phẩn thối
2- Kukkulanaraka: cõi địa-ngục hầm tro nóng
3- Simpalivananaraka: cõi địa-ngục rừng cây gai nhọn,
4- Vettaraṇīnaraka: cõi địa-ngục sông nước mặn đầy gai nhọn.
1- Gūthanaraka: cõi địa-ngục hầm phẩn thối
Tuy chúng-sinh đã thoát ra khỏi cõiđại-địa-ngục avīci rồi, nhưng năng lực của ác-nghiệp trọng tội vẫn còn dư sót, nên ác-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi địa-ngục gūthanaraka hầm phẩn thối, chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy cho đến khi mãn ác-nghiệp ấy.
* Hoặc một thuở nọ, Đức-vua Bồ-tát Nimi([11]) truyền hỏi thiên nam Mātali rằng:
– Này thiên-nam Mātali! Hồ nước này chứa đầy phẩn và nước tiểu dơ bẩn có mùi hôi thối toả ra, chúng-sinh địa-ngục bị đói khát không chịu nổi, nên ăn phẩn và uống nước tiểu như vậy.
Do tiền-kiếp của các chúng-sinh ấy đã tạo ác-nghiệp như thế nào?
Vị thiên-nam Mātali thấy rõ biết rõ quả khổ của ác-nghiệp của các chúng-sinh ấy, nên tâu rằng:
– Muôn tâu Đại-vương cao thượng, tiền-kiếp của các chúng-sinh ấy khi còn trên cõi người là những người phản bạn, hại bạn, thường làm khổ những người khác, những chúng-sinh khác, không có tâm từ, bi.
Những người ấy sau khi chết, ác-nghiệp ấy cho quả tái-sinh làm những chúng-sinh trong cõi địa-ngục này, phải chịu quả khổ đói khát không chịu nổi, nên phải ăn phẩn, uống nước tiểu dơ bẩn như vậy. Tâu Đại-vương.
2–Kukkulanaraka:cõi địa-ngục hầm tro nóng
Tuy chúng-sinh đã thoát ra khỏi cõi địa-ngục gūthanaraka hầm phẩn thối rồi, nhưng năng lực của ác-nghiệp trọng tội vẫn còn dư sót, nên ác-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi địa-ngụckukkulanaraka hầm tro nóng, chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy cho đến khi mãn ác-nghiệp ấy.
* Hoặc người nào buôn bán lừa dối, lấy hàng hoá xấu trộn lẫn vào hàng hoá tốt, rồi bán giá cao theo món hàng hoá tốt, phạm ác-nghiệp.
Người ấy sau khi chết, ác-nghiệp ấy cho quả tái-sinh kiếp sau phần đông trong cõi địa-ngục kukkulanaraka: hầm tro nóng chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy thiêu đốt làm cho đói khát không sao chịu nổi, chúng-sinh địa-ngục chạy đến sông uống nước thì uống phải tro nóng lại càng khổ hơn nữa, chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy như vậy cho đến khi mãn ác-nghiệp ấy.
3-Simbalivananaraka: cõi địa-ngục rừng cây gai bén nhọn,
Tuy chúng-sinh đã thoát ra khỏi cõi địa-ngục kukkulanaraka hầm tro nóng rồi, nhưng năng lực của ác-nghiệp trọng tội vẫn còn dư sót, nên ác-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi địa-ngụcsimpalivananaraka rừng cây gai bén nhọn, chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy cho đến khi mãn ác-nghiệp ấy.
* Hoặc người đàn bà đã có chồng rồi, đi ngoại tình với người đàn ông khác, hoặc người đàn ông đã có vợ rồi, đi ngoại tình với người đàn bà khác, phạm ác-nghiệp tà-dâm.
Người đàn bà hoặc người đàn ông ấy sau khi chết, ác-nghiệp tà-dâm ấy cho quả tái-sinh kiếp sau phần đông trong cõi địa-ngục simpalivana-naraka rừng cây gai bén nhọn, chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy cho đến khi mãn ác-nghiệp ấy.
4- Vettaraṇīnaraka: cõi địa-ngục sông nước mặn đầy gai nhọn.
Tuy chúng-sinh đã thoát ra khỏi cõi địa-ngục simpalivananaraka rừng cây gai nhọn rồi, nhưng năng lực của ác-nghiệp trọng tội vẫn còn dư sót, nên ác-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi địa-ngụcvettaraṇīnaraka sông nước mặn đầy gai nhọn, chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy cho đến khi mãn ác-nghiệp ấy.
* Hoặc người phụ nữ nào có tác-ý phá thai trong bụng của mìnhphạm ác-nghiệp sát-sinh.
Người phụ nữ ấy sau khi chết, ác-nghiệp ấy cho quả tái-sinh kiếp sau phần đông trong cõi địa-ngục vettaraṇīnaraka sông nước mặn đầy gai nhọn, chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy cho đến khi mãn ác-nghiệp ấy.
Yamalokanaraka
Tuy chúng-sinh đã chịu quả khổ của ác-nghiệp trong cõi đại-địa-ngục (mahānaraka) và cõi tiểu-địa-ngục ussadanaraka rồi, nhưng năng lực của ác-nghiệp vẫn còn dư sót, nên ác-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi địa-ngục yamalokanaraka nằm bên ngoài cách xa cõi tiểu-địa-ngục ussadanaraka.
Cõi địa-ngục yamalokanaraka nằm quanh 4 hướng của cõi tiểu-địa-ngục ussadanaraka, mỗi hướng có 10 cõi địa-ngục nhỏ, gồm có 40 cõi địa-ngục yamalokanaraka.
Như vậy, cõi địa-ngục yamalokanaraka xung quanh 8 đại-địa-ngục, gồm có 320 cõi địa-ngục.
Yamalokanaraka có 10 cõi địa-ngục:
1- Lohakumbhīnaraka: cõi địa-ngục nồi đồng rất sâu và to lớn sôi sùng sục không ngừng.
2- Simbalinaraka: cõi địa-ngục rừng cây gai bén nhọn có chất độc dành cho đàn bà hoặc đàn ông phạm ác-nghiệp tà-dâm.
3- Asinakhanaraka: cõi địa-ngục mà chúng-sinh sử dụng móng tay, móng chân bén nhọn của mình trở thành con dao bén xẻo da thịt trong thân của mình làm vật thực để ăn.
4- Tāmabodakanaraka: cõi địa-ngục nồi sắt nấu đồng sôi sùng sục không ngừng.
5- Ayoguḷanaraka: cõi địa-ngục tràn đầy những cục sắt cháy đỏ rực làm vật thực cho chúng-sinh trong cõi địa-ngục này.
6- Pissakapabbatanaraka: cõi địa-ngục có 4 hòn núi lớn ở 4 hướng duy chuyển được, lăn đến chà xát các chúng-sinh địa-ngục chết, rồi hoá-sinh trở lại chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy.
7- Dhusanaraka: cõi địa-ngục mà chúng-sinh sống trong cõi này chịu đói khát khủng khiếp.
8- Sītalositanaraka: cõi địa-ngục có độ lạnh kinh khủng hơn hết, chúng-sinh trong cõi này chết vì lạnh, rồi hoá-sinh trở lại. Chúa địa-ngục bắt chúng-sinh ấy ném xuống cõi địa-ngục này lại, cứ như vậy cho đến khi mãn ác-nghiệp ấy.
9- Sunakhanaraka: cõi địa-ngục có nhiều loài chó địa-ngục cắn xé ăn thịt chúng-sinh địa-ngục chết, rồi hoá-sinh trở lại như vậy.
10- Yantapāsāṇanaraka: cõi địa-ngục có hòn núi luôn luôn chạm vào nhau, chúa địa-ngục bắt chúng-sinh địa-ngục ném vào chỗ giữa 2 hòn núi chạm nhau, chúng-sinh ấy chết, rồi hoá-sinh trở lại, cứ như vậy cho đến khi mãn ác-nghiệp ấy.
Lokantarikanarakalà cõi địa-ngục lớn đặc biệt nằm khoảng trống ở giữa là nơi giáp ranh của 3 cakkavāḷa (cõi vũ trụ thế-giới).
Lokantarikanaraka: cõi địa-ngục này hoàn toàn tối đen như mực, chúng-sinh trong cõi địa-ngục này có thân hình to lớn, có móng tay, móng chân cứng và dài để bám luôn luôn vào thành ranh giới vũ trụ thế-giới .
Như vậy, các cõi địa-ngục gồm có như sau:
– Mahānaraka (cõi đại-địa-ngục) có 8 cõi
– Ussadanaraka (cõi tiểu-địa-ngục) có 128 cõi
– Yamanaraka (cõi địa-ngục yama) có 320 cõi
– Lokantarika naraka (cõi địa-ngục lokantarika) có 1 cõi.
Toàn cõi địa-ngục gồm có 457 cõi.
Nhận Xét Về Ác-Nghiệp Nặng
Ác-nghiệp nặng cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi đại-địa-ngục mahānaraka, chúng-sinh ở trong cõi đại-địa-ngục chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy trong suốt thời gian lâu dài cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy.
Tuy đã được thoát ra khỏi cõi đại-địa-ngục, nhưng ác-nghiệp ấy vẫn còn có năng lực, nên cho quả tái-sinh kiếp sau tiếp theo trong cõi tiểu-địa-ngục ussadanaraka, tiếp tục chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy theo tuần tự qua 4 cõi tiểu-địa-ngục, cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ầy.
Tuy đã được thoát ra khỏi cõi tiểu-địa-ngục, nhưng ác-nghiệp ấy vẫn còn có năng lực, nên cho quả tái-sinh kiếp sau tiếp theo trong cõi địa-ngục yamalokanaraka, tiếp tục chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy cho đến khi mãn ác-nghiệp ấy mới thoát ra khỏi cõi địa-ngục.
Nếu ác-nghiệp ấy vẫn còn có năng lực thì cho quả tái-sinh kiếp sau trong loài ngạ-quỷ, tiếp tục chịu quả khổ của ác-nghiệp cho đến mãn quả của ác-nghiệp ấy.
Chúng-sinh chịu quả khổ của ác-nghiệp trong mỗi cõi địa-ngục lâu dài hoặc mau hoàn toàn tuỳ thuộc vào ác-nghiệp nặng nhiều hoặc nặng ít, cho nên tuổi thọ của chúng-sinh trong cõi địa-ngục không nhất định.
* Như trường-hợp tỳ-khưu Devadatta sau khi chết, ác-nghiệp trọng-tội cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi đại-địa-ngục Avīci, chịu quả khổ của ác-nghiệp từ cõi địa-ngục lớn đến địa-ngục nhỏ suốt 100 ngàn đại-kiếp trái đất mới mãn quả của ác-nghiệp ấy, rồi dục-giới đại-thiện-nghiệp mới có cơ-hội cho quả tái-sinh kiếp sau trở lại làm hạng người tam-nhân trở thành Đức-Phật Độc-Giác có danh hiệu là Aṭṭhissara.
* Trường-hợp đức-vua Ajātasattu sau khi chết, ác-nghiệp trọng-tội cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi địa-ngục Lohakumbhī, chịu khổ của ác-nghiệp ấy suốt 60 ngàn năm mới mãn ác-nghiệp ấy, rồi dục-giới đại-thiện-nghiệp mới có cơ-hội cho quả tái-sinh kiếp sau trở lại làm hạng người tam-nhân trở thành Đức-Phật Độc-Giác có danh hiệu là Vijitāvī, …
Cho nên, khi được làm kiếp người mà người nào đã có tác-ý tạo ác-nghiệp nặng, người ấy sau khi chết, ác-nghiệp nặng ấy cho quả tái-sinh kiếp sau trong các cõi đại-địa-ngục, chịu quả khổ cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy.
Hậu kiếp của người ấy có cơ-hội nhờ dục-giới đại-thiện-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp sau trở lại làm người, thật là một điều quá khó.
Như Đức-Phật dạy:
“Manussattabhāvo dullabho,”
(Được sinh làm người là một điều rất khó,)
Chúng ta có diễm phúc được sinh làm người rồi, cần phải nên quý trọng, cố gắng giữ gìn tránh xa mọi ác-nghiệp dù nhẹ, bởi vì ác-nghiệp chỉ cho quả khổ trong kiếp-hiện-tại và những kiếp vị-lai mà thôi, và cố gắng tinh-tấn tạo mọi thiện-nghiệp dù nhỏ dù lớn, bởi vì thiện-nghiệp chỉ có cho quả an lạc trong kiếp-hiện-tại và vô số kiếp vị-lai mà thôi.
* Tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama là kiếp Đức-Bồ-tát Thái-tử Temiya([12])sinh ra được một tháng nhớ lại tiền-kiếp của Ngài theo tuần tự như sau:
* Tiền-kiếp của Đức-Bồ-tát Thái-tử Temiya là vị thiên nam trên cõi trời Tam-thập-tam-thiên,
* Tiền-kiếp của vị Đức-Bồ-tát thiên nam là chúng-sinh trong cõi địa-ngục Ussadanaraka là tiểu địa-ngục chịu quả khổ của ác-nghiệp suốt 80.000 năm.
*Tiền-kiếp của chúng-sinh trong cõi địa-ngục Ussadanaraka là Đức-vua Bồ-tát Kāsi ngự tại kinh thành Bārāṇasī trị vì đất nước Kāsi 20 năm. Đức-vua Kāsi đã tạo ác-nghiệp, sau khi băng hà, ác-nghiệp ấy cho quả tái-sinh trong cõi địa-ngục Ussadanaraka, chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy suốt 80.000 năm, mới thoát ra khỏi cõi địa-ngục.
Đức-Bồ-tát Thái-tử Temiya đã nhớ lại tiền-kiếp của mình như vậy, phát sinh tâm kinh sợ lúc trưởng thành lên làm vua, nên Ngài phát-nguyện đi xuất gia, không làm vua.
2- Pettivisaya: Cõi Ngạ-Quỷ
Ác-nghiệp có 12 loại, chỉ có 11 ác-nghiệp (trừ ác-nghiệp trong si-tâm hợp với phóng-tâm) cho quả là suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xảlà bất-thiện-quả vô-nhân-tâm của 11 bất-thiện-tâm gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận-sự tái-sinh kiếp sau.
* Nếu suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả ấy do năng lực của 8 tham-tâm phần nhiều cho quả tái-sinh kiếp sau bằng cách hoá-sinh trong loài ngạ-quỷ và loài a-su-ra.
Loài ngạ-quỷ và loài a-su-ra thuộc về loại chúng-sinh hoá-sinh có thân hình rất vi-tế mà mắt thường của con người không thể nhìn thấy, chỉ có bậc nào có thiên-nhãn-thông mới có khả năng nhìn thấy rõ các loài ngạ-quỷ và loài a-su-ra được; hoặc nếu khi loài ngạ-quỷ và loài a-su-ra biến hoá ra thân hình thô thì mắt thường của con người có thể nhìn thấy được.
* Loài ngạ-quỷ (petti) không có cõi riêng biệt, nên sống khắp mọi nơi như trong rừng, núi, sông, suối, biển, nghĩa-địa, xóm làng, v.v…
Loài ngạ-quỷ có nhiều nhóm, nhóm có thân hình nhỏ, nhóm có thân hình lớn, nhóm có khả năng biến hoá thành người đàn ông, đàn bà, trẻ con, tỳ-khưu, sa-di, tu-nữ, v.v… hoặc biến hoá thành các con thú như con bò, con trâu, con chó, con mèo, v.v… khi thì hiện hình rõ ràng, khi thì hiện hình mờ mờ không rõ, v.v…
Tất cả mọi loài ngạ-quỷ đều phải chịu quả khổ của ác-nghiệp, thường chịu cảnh khổ đói khát, có nhóm ăn đồ dơ dáy như nước đàm, nước miếng, máu, mủ, v.v…
Nhóm ngạ-quỷ nương nhờ nơi các núi rừng không những chịu cảnh khổ đói khát, mà còn phải chịu khổ hành hạ như chúng-sinh địa-ngục nữa.
Peta: Ngạ-quỷ có 4 loại:
1- Paradattupajīvikapeta: Loài ngạ-quỷ nuôi mạng do nương nhờ người khác hồi-hướng phần phước-thiện.
2- Khuppīpāsikapeta: Loài ngạ-quỷ thường chịu cảnh đói khát.
3-Nijjhāmataṇhikapeta: Loài ngạ-quỷ thường bị lửa thiêu đốt làm nóng rực không chịu nổi,
4- Kālakañcikapeta: Loài ngạ-quỷ trong nhóm loài a-su-ra hoặc loài ngạ-quỷ có tên giống loài a-su-ra.
Chuyện Loài Ngạ-Quỷ Kālakañcikapeta
Ngày nọ, ngạ-quỷ kālakañcikapeta khát nước dữ dôi muốn uống nước, nên đi tìm đến nơi con sông gaṇgā, bước xuống sông để uống nước, do năng lực của ác-nghiệp nước ấy biến ra đất bốc lửa khói lên nghi ngút, nhưng ngạ-quỷ ấy vẫn nghe tiếng nước chảy mà không thấy nước đâu cả, mãi đi tìm từ chiều đến sáng ngày hôm sau.
Buổi sáng hôm ấy, nhóm 30 tỳ-khưu đi khất thực, dọc theo bờ sông nhìn thấy ngạ-quỷ kāla-kañcikapeta đang đi tìm nước.
Vị tỳ-khưu đến hỏi rằng:
– Này người kia! Ngươi đang đi tìm gì vậy?
Ngạ-quỷ kālakañcikapeta thưa rằng:
– Kính bạch Ngài, con đang khát nước dữ dội, nên con đang đi tìm nước uống.
Chư tỳ-khưu nói với ngạ-quỷ rằng:
– Này người kia! Nước sông ở trước mặt, ngươi không nhìn thấy sao?
– Kính bạch Ngài, con không thấy nước, nhưng vẫn nghe tiếng nước chảy. Con đi tìm nước từ ngày hôm qua đến hôm nay vẫn chưa thấy nước.
Chư tỳ-khưu bảo ngạ-quỷ rằng:
– Này người kia! Ngươi hãy nằm ngửa xuống đây, chúng tôi sẽ múc nước cho ngươi uống no đủ.
Vâng lời chư tỳ-khưu, ngạ-quỷ ấy nằm há miệng ra, 30 vị tỳ-khưu mỗi vị theo tuần tự đem bát đi xuống sông múc nước đổ vào miệng ngạ-quỷ, nhưng chỉ vào được chút đỉnh mà thôi, bởi vì miệng của ngạ-quỷ ấy nhỏ như lỗ kim.
( Trích trong bộ chú-giải Sammohavinodanī)
Trong 4 loài ngạ-quỷ này, chỉ có loài ngạ-quỷ paradattupajīvikapeta là loài ngạ-quỷ có thể nhận được phần phước-thiện của người khác hồi hướng đến ngạ-quỷ mà thôi, bởi vì loài ngạ-quỷ này sống gần gũi với loài người.
Khi chúng biết có người làm phước-thiện, rồi hồi hướng phần phước-thiện đến ngạ-quỷ, nên chúng đến chờ đợi, khi nghe người nói lên lời hồi hướng phần phước-thiện đến cho họ, chúng liền phát sinh đại-thiện-tâm hoan-hỷ phần phước-thiện ấy, rồi nói lên lời sādhu, sādhu! Lành thay, lành thay!
Ngay khi ấy, chúng nhận được phần phước-thiện ấy, chính phần phước-thiện ấy cứu giúp chúng thoát khỏi kiếp ngạ-quỷ, được tái-sinh kiếp sau làm người hoặc làm chư-thiên hưởng mọi sự an lạc trong cõi trời dục-giới ấy.
Nếu ngạ-quỷ nào không biết, không đến, không phát sinh đại-thiện-tâm hoan-hỷ phần phước-thiện mà người khác hồi hướng thì ngạ-quỷ ấy không có cơ-hội hưởng phần phước-thiện ấy, nên nó vẫn còn phải chịu cảnh khổ đói khát như vậy.
* Như trường-hợp nhóm bà con thân quyến của đức-vua Bimbisāra([13])trong quá-khứ xa xưa, từ thời kỳ Đức-Phật Phussa xuất hiện trên thế gian, cho đến thời-kỳ Đức-Phật Gotama của chúng ta, trải qua thời gian lâu dài khoảng cách 92 đại-kiếp trái đất, có 8 Đức-Phật đã tuần tự xuất hiện trên thế gian.
Nhóm người bà con thân quyến ấy vốn là những người hộ độ Đức-Phật Phussa cùng chư tỳ-khưu-Tăng, họ đã tự tiện lấy dùng những vật thực cúng-dường của chư tỳ-khưu-Tăng, lại còn gây gỗ với nhau, đốt nhà bếp, phạm ác-nghiệp trộm cắp của chư tỳ-khưu-Tăng.
Sau khi họ chết, ác-nghiệp ấy cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi địa-ngục lớn, qua các cõi địa-ngục nhỏ, chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy, mới thoát ra khỏi cõi địa-ngục, nhưng ác-nghiệp còn dư sót cho quả tái-sinh làm loài ngạ-quỷ.
* Đến thời-kỳ Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, khi ấy đức-vua Bimbisāra ngự tại kinh thành Rājagaha, ngự đến hầu đảnh lễ Đức-Phật, kính thỉnh Đức-Phật ngày hôm sau ngự đến cung điện cùng với chư tỳ-khưu-Tăng, để đức-vua làm phước-thiện bố-thí cúng-dường.
Hay tin như vậy, sáng hôm sau, nhóm ngạ-quỷ ấy hiện đến đứng chờ sẵn. Đức-Phật ngự đến cung điện cùng với chư tỳ-khưu-Tăng, đức-vua Bimbisāra tự tay kính dâng các món vật thực, y phục đến Đức-Phật và chư tỳ-khưu-Tăng xong, đức-vua hồi hướng phần phước-thiện ấy đến cho các ngạ-quỷ đã từng là bà con thân quyến rằng: “Idaṃ me ñātīnaṃ hotu.” Phước-thiện bố-thí này, cầu mong cho được thành-tựu đến cho các bà con thân quyến của tôi.
Ngay khi ấy, nhóm ngạ-quỷ phát sinh đại-thiện-tâm vô cùng hoan hỷ thọ nhận phần phước-thiện thanh cao ấy, liền nói lên lời Sādhu! Sādhu! Lành thay! Lành thay! Tất cả nhóm ngạ-quỷ đều được thoát khỏi kiếp ngạ-quỷ đói khát, nhờ dục-giới đại-thiện-nghiệp ấy cho quả hoá-sinh làm chư-thiên trong cõi trời Tứ-đại-thiên-vương, có đầy đủ các món vật thực của chư-thiên, có lâu đài riêng, y phục lộng lẫy của chư-thiên, hưởng được mọi sự an lạc trong cõi trời ấy.
Những tích tương tự như vậy có nhiều trong bộ Petavatthu.
*Trong các bộ Chú-giải như Apādānaṭṭhakathā, Suttanipātaṭṭhakathā, Buddhvaṃsaṭṭhakathā đều trình bày rằng: Chư Đức-Bồ-tát kể từ khi đã được Đức-Phật thọ ký rồi, tiếp tục bồi bổ các pháp-hạnh ba-la-mật cho tròn đủ, trong những kiếp tử sinh luân hồi trong 3 giới 4 loài, chư Đức-Bồ-tát ấy không còn tái-sinh làm kiếp ngạ-quỷ trong 3 loại khuppīpāsikapeta, nijjhāmataṇhika-peta, kālakañcikapeta. Nếu phải tái-sinh kiếp sau trong loài ngạ-quỷ thì chỉ có tái-sinh trong loài ngạ-quỷ paradattupajīvikapeta mà thôi.
Peta: Loài ngạ-quỷ có 12 loại
Trong bộ Lokapaññatti và Chagatidīpanī trình bày ngạ-quỷ có 12 loài:
1- Vantāsapeta: loài ngạ-quỷ ăn nước miếng, đàm, đồ ói mửa,
2- Kuṇapāsapeta: loài ngạ-quỷăn tử thi người và thú-vật,
3- Gūthakhādakapeta: loài ngạ-quỷ ăn các loại phẩn,
4- Aggijālamukhapeta: loài ngạ-quỷ luôn luôn có ngọn lửa phát ra từ trong miệng,
5- Sūcimukhapeta: loài ngạ-quỷ có miệng bằng lỗ kim,
6- Taṇhaṭṭitapeta: loài ngạ-quỷ bị hành hạ bởi tham-ái đói ăn, khát uống luôn luôn,
7- Sunijjhāmakapeta: loài ngạ-quỷ có thân hình đen thui như cội cây bị cháy,
8- Satthaṅgapeta: loài ngạ-quỷ có móng tay, móng chân dài và bén nhọn như lưỡi kiếm,
9- Pabbataṅgapeta: loài ngạ-quỷ có thân hình to cao,
10- Ajagaraṅgapeta: loài ngạ-quỷ có thân hình như con trăn,
11- Vemānikapeta: loài ngạ-quỷ chịu khổ ban ngày, ban đêm hưởng an lạc trong lâu đài,
12- Mahiddhikapeta: loài ngạ-quỷ có phép biến hoá nhiều loại, là chúa của các ngạ-quỷ.
Peta: Loài ngạ-quỷ có 21 loại
Trong Luật-tạng và bộ lakkaṇasamyutta Pāḷi trình bày ngạ-quỷ có 21 loài:
1- Aṭṭhisaṅkhasikapeta: loài ngạ-quỷ có bộ xương không có thịt,
2- Maṃsapesikapeta: loài ngạ-quỷ có từng cục thịt không có xương,
3- Maṃsapiṇḍapeta: loài ngạ-quỷ có cục thịt,
4- Nicchaviparisapeta: loài ngạ-quỷ không có da
5- Asilomapeta: loài ngạ-quỷ có lông nhọn như kiếm,
6- Sattilomapeta: loài ngạ-quỷ có lông nhọn như mũi lao,
7- Usulomapeta: loài ngạ-quỷ có lông dài như mũi tên,
8- Sūcilomapeta: loài ngạ-quỷ có lông như mũi kim,
9- Dutiyasūcilomapeta: loài ngạ-quỷ có lông như mũi kim dài,
10- Kumbhaṇḍapeta: loài ngạ-quỷ có tinh-hoàn to lớn,
11- Gūthakūpanimuggapeta: loài ngạ-quỷ chìm trong hầm phẩn,
12- Gūthakhādakapeta: loài ngạ-quỷ ăn phẩn,
13- Nicchavitakapeta: loài nữ ngạ-quỷ không có da,
14- Duggandhapeta: loài ngạ-quỷ có mùi hôi,
15- Ogilinīpeta: loài ngạ-quỷ có thân hình như than hồng,
16- Asīsapeta: loài ngạ-quỷ không có đầu,
17- Bhikkhupeta: loài ngạ-quỷ có hình dáng như tỳ-khưu,
18- Bhikkhunīpeta: loài ngạ-quỷ có hình dáng như tỳ-khưu-ni,
19- Sikkhamānapeta: loài ngạ-quỷ có hình dáng như sikkhamānā,
20- Sāmaṇerapeta: loài ngạ-quỷ có hình dáng như sa-di,
21- Sāmaṇerīpeta: loài ngạ-quỷ có hình dáng như sa-di-ni.
Nhận Xét Về Loài Ngạ-Quỷ
Loài ngạ-quỷ có 4 loài, có 12 loài, có 21 loài, ngoài ra còn có loài ngạ-quỷ khác rải rác trong các bộ khác, trong tất cả các loài ngạ-quỷ ấy chỉ có loài ngạ-quỷ paradattupajīvikapetacó thể thọ nhận được phần phước-thiện mà những người khác nhất là bà con thân quyến hồi hướng đến cho chúng mà thôi. Số loài ngạ-quỷ còn lại không thể nhận được phần phước-thiện mà bà con thân quyến hồi hướng, bởi vì chúng ở cách xa loài người, vả lại quả ác-nghiệp của chúng vẫn còn nặng.
* Đối với loài ngạ-quỷ paradattupajīvikapeta sống gần gũi với loài người, vả lại quả ác-nghiệp
của chúng đã giảm nhiều, nên nhẹ, chúng chờ cơ-hội nhận phần phước-thiện mà người khác nhất là bà con thân quyến hồi hướng đến cho chúng.
Loài ngạ-quỷparadattupajīvikapeta có thể có 2 nhóm:
* Tiền-kiếp (nhóm ngạ-quỷ) đã từng tạo ác-nghiệp nặng, sau khi chết, ác-nghiệp ấy cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi đại-địa-ngục (mahā-naraka), chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp tại cõi đại-địa-ngục ấy xong, nhưng năng lực của ác-nghiệp vẫn còn, nên tiếp tục cho quả tái-sinh kiếp sau trong các cõi tiểu-địa-ngục (ussadanaraka) theo tuần tự cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp tại cõi tiểu-địa-ngục ấy xong, nếu năng lực của ác-nghiệp vẫn còn thì tiếp tục cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi địa-ngục yamalokanaraka, tiếp tục chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp tại cõi địa-ngục ấy xong, mới thoát ra khỏi cõi địa-ngục.
* Nếu có dục-giới đại-thiện-nghiệp đã tích luỹ từ những kiếp quá-khứ xa xưa của chúng-sinh địa-ngục ấy thì chính dục-giới đại-thiện-nghiệp ấy cho quả tái-sinh kiếp sau trở lại làm người hoặc làm chư-thiên trên cõi trời dục-giới, hưởng mọi an lạc trong cõi trời ấy.
* Nếu không có dục-giới đại-thiện-nghiệp nào có cơ-hội cho quả thì ác-nghiệp còn dư sót ấy cho quả tái-sinh kiếp sau làm loài ngạ-quỷ paradattupajīvikapeta sống gần gũi với loài người chờ cơ-hội nhận phần phước-thiện mà người khác, nhất là bà con thân quyến hồi hướng đến cho chúng. (như trường-hợp bà con thân quyến của đức-vua Bimbisāra).
* Nếu loài ngạ-quỷ nào hay biết đến chờ cơ-hội phát sinh dục-giới đại-thiện-tâm hoan-hỷ nói lên lời “Sādhu! Sādhu! Lành thay! Lành thay!” thì loài ngạ-quỷ ấy thọ nhận được phần phước-thiện mà người khác, nhất là bà con thân quyến hồi hướng đến cho họ. Ngay khi ấy, loài ngạ-quỷ ấy thoát khỏi kiếp ngạ-quỷ, nhờ dục-giới đại-thiện-nghiệp ấy cho quả tái-sinh kiếp sau trở lại làm người hoặc làm chư-thiên trên cõi trời, hưởng mọi an lạc trong cõi trời ấy.
* Nếu loài ngạ-quỷ nào không hay tin, không đến chờ thì loài ngạ-quỷ ấy không có cơ-hội thọ nhận được phần phước-thiện mà người khác, hoặc bà con thân quyến hồi hướng đến cho họ, cho nên họ vẫn còn kiếp ngạ-quỷ như vậy.
* Kiếp-hiện-tại người nào thường có tham-tâm dính mắc trong của cải tài-sản của mình.
Đến lúc gần lâm chung người ấy lưu luyến của cải tài-sản với tham-tâmtiếc nuối, nênsau khi người ấy chết, ác-nghiệp trong tham-tâm cho quả tái-sinh kiếp sau trong loài ngạ-quỷparadattupajīvikapeta tại quanh ngôi nhà có nhiều của cải tài-sản ấy. Hoặc người nào sắp lâm chung với tham-tâm lưu luyến ngôi nhà, con cháu, v.v… Người ấy sau khi chết, ác-nghiệp trong tham-tâm ấy cho quả tái-sinh kiếp sau trong loài ngạ-quỷparadattupajīvikapeta tại ngôi nhà ấy. Loài ngạ-quỷ ấy đôi khi báo mộng cho con cháu biết, hoặc hiện hình cho con cháu thấy mờ mờ.
* Trong trường-hợp này, bà con thân quyến thỉnh chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng có giới đức trong sạch đến nhà làm phước-thiện bố-thí, rồi hồi hướng phần phước-thiện bố-thí ấy đến loài ngạ-quỷ thân quyến của mình rằng:
“Idaṃ no ñātīnaṃ hotu, sukhitā hontu ñātayo.”
Cầu mong phần phước-thiện thanh cao này được thành-tựu đến thân quyến của chúng tôi.
* Nếu loài ngạ-quỷ ấy hiểu biết về phước-thiện, phát sinh đại-thiện-tâm vô cùng hoan hỷ nói lên lời “Sādhu! Sādhu! Lành thay! Lành thay!” Rồi thọ nhận được phần phước-thiện bố-thí ấy. Ngay khi ấy, loài ngạ-quỷ ấy thoát khỏi kiếp ngạ-quỷ, nhờ dục-giới đại-thiện-nghiệp ấy cho quả tái-sinh kiếp sau trở lại làm người hoặc làm chư-thiên trên cõi trời, hưởng mọi an lạc trong cõi trời ấy.
Hồi Hướng Phước-Thiện Đến Người Chết
Vấn: Một người thân nào đã chết, gia đình bà con thân quyến thỉnh chư Đại-đức tỳ-khưu có giới đức trong sạch tụng kinh, làm phước-thiện bố-thí, để hồi hướng phần phước-thiện bố-thí đến cho người thân ấy đã chếtcó được thành-tựu hay không?
Đáp: Bà con thân quyến thỉnh chư Đại-đức tỳ-khưu có giới đức trong sạch tụng kinh, làm phước thiện bố-thí, rồi hồi hướng phần phước-thiện bố-thí đến cho người thân nào đã chết.
Trường-hợp nếu người thân ấy sau khi chết, ác-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp sau trong loài ngạ-quỷ paradattupajīvikapeta đếnchờ đợi sẵn để phát sinh dục-giới đại-thiện-tâm nói lời hoan-hỷ rằng: “Sādhu! Sādhu! Lành thay! Lành thay!” Rồi thọ nhận phần phước-thiện bố-thí ấy.
Chỉ có trường-hợp, kiếp sau của người thân ấy là kiếp ngạ-quỷ ấy mới được thành-tựu thọ nhận phần phước-thiện bố-thí của bà con thân quyến hồi hướng mà thôi.
Ngoài ra, người thân ấy sau khi chết, nếu ác-nghiệp hoặc thiện-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp sau trong một loài chúng-sinh nào khác thì chúng-sinh ấy không có cơ-hội nhận được phần phước-thiện bố-thí của bà con thân quyến.
* Nhưng trường-hợp, nếu thí chủ bà con thân quyến hồi hướng phần phước-thiện bố-thí đến cho tất cả mọi thân quyến đã quá vãng, không có chỉ định đến một riêng người nào rằng:
“Idaṃ no ñātīnaṃ hotu, sukhitā hontu ñātayo.”
“Mong phước-thiện bố-thí này được thành-tựu đến cho các bà con thân quyến ngạ-quỷ của chúng con, xin các bà con thân quyến ngạ-quỷ được hưởng mọi sự an lạc.”
Thì chắc chắn có số thân quyến của kiếp nào của mình nhận được phần phước-thiện bố-thí ấy, bởi vì trong vòng tử sinh luân hồi từ vô thuỷ cho đến kiếp-hiện-tại này, chắc chắn có vô số thân quyến đã quá vãng ấy. Trong vô số ấy ắt có số sinh trong loài ngạ-quỷ paradattupajīvika-peta đếnchờ đợi sẵn để phát sinh dục-giới đại-thiện-tâm nói lời hoan-hỷ rằng:“ Sādhu! Sādhu! Lành thay! Lành thay!” Rồi thọ nhận phần phước-thiện bố-thí ấy.
* Để biết vấn đề tử rồi sinh này, trước tiên nên tìm hiểu về sự chết gọi là cuticitta: tử-tâm là quả-tâm cuối cùng của kiếp-hiện-tại diệt và kế tiếp theo sự tái-sinh kiếp sau gọi là paṭi-sandhicitta: tái-sinh-tâm là quả-tâm bắt đầu kiếp sau sinh cùng trong cận-tử-lộ-trình-tâm (maraṇāsannavīthicitta) đối với các hạng phàm-nhân và 3 bậc Thánh-nhân bậc thấp (bậc Thánh-Nhập-lưu, bậc Thánh-Nhất-lai, bậc Thánh-Bất-lai) vẫn còn tham-ái.([14])
Đồ Biểu Ý-Môn-Cận-Tử-Lộ-Trình-Tâm
(Kāmajavanamanodvāramaraṇāsannavīthi)
Kiếp hiện tại
bha na da ma ja ja ja ja ja ta ta cu paṭ bhabha
Kiếp sau
Ý-Môn-Cận-Tử-Lộ-Trình-Tâm
Dục-giới tác-hành-tâm ý-môn-cận-tử-lộ-trình-tâm
(Kāmajavanamanodvāramaraṇāsannavīthi) có các tâm sinh rồi diệt liên tục như sau:
* Bhavaṅgacitta: Hộ-kiếp-tâm viết tắt bha
* Bhavaṅgacalana: Hộ-kiếp-tâm rung động vt na
* Bhavaṅgupaccheda: Hộ-kiếp-tâm bị ngưng vt da
* Manodvāravajjanacitta: Ý-môn-hướng-tâm vt ma
* Javanacitta: Tác-hành-tâm vt ja
* Tadālambanacitta: Tiếp-đối-tượng-tâm vt ta
* Cuticitta: Tử-tâm vt cu
* Paṭisandhicitta: Tái-sinh-tâm vt paṭ
* Bhavaṅgacitta: Hộ-kiếp-tâm vt bha
Giải thích:
1- Bhavaṅgacitta: Hộ-kiếp-tâm là quả-tâm có đối-tượng cũ quá-khứ, theo hộ trì, giữ gìn kiếp hiện-tại này, sinh rồi diệt, (viết tắt bha), làm duyên cho tâm tiếp theo,
2- Bhavaṅgacalana: Hộ-kiếp-tâm rung động do 1 trong 3 đối-tượng mới là kamma, hoặc kammanimitta, hoặc gatinimitta, nhưng vẫn còn giữ đối-tượng cũ quá-khứ, phát sinh 1 sát-na-tâm rồi diệt, (viết tắt na), làm duyên cho tâm tiếp theo,
3- Bhavaṅgupaccheda: Hộ-kiếp-tâm bị ngưng đối-tượng cũ quá-khứ, bởi vì 1 trong 3 đối-tượng mới là kamma, hoặc kammanimitta, hoặc gatinimitta phát sinh 1 sát-na-tâm rồi diệt, (viết tắt da), làm duyên cho tâm tiếp theo,
4- Manodvāravajjanacitta: Ý-môn-hướng-tâm tiếp nhận 1 trong 3 đối-tượng mới là kamma: thiện-nghiệp hoặc ác-nghiệp, hoặc kammanimitta: hiện tượng của thiện-nghiệp hoặc ác-nghiệp, hoặc gatinimitta: cõi ác-giới hoặc cõi thiện-giới, phát sinh 1 sát-na-tâm rồi diệt, (viết tắt ma), làm duyên cho tâm tiếp theo,
5- Javanacitta: Tác-hành-tâm là tâm làm phận sự tạo nghiệp (thiện-nghiệp hoặc ác-nghiệp) có 1 trong 3 đối-tượng giống như Ý-môn-hướng-tâm trước, phát sinh chỉ có 5 sát-na-tâm yếu ớt rồi diệt, (viết tắt ja), làm duyên cho tâm tiếp theo,
6- Tadārammaṇacitta: Tiếp-đối-tượng tâm là tâm tiếp đối-tượng sót lại của tác-hành-tâm, phát sinh 2 sát-na tâm rồi diệt, (viết tắt ta), làmduyên cho tâm tiếp theo,
7- Cuticitta: Tử-tâm là quả-tâm cuối cùng của kiếp hiện-tại có đối-tượng cũ quá-khứ, làm phận sự chuyển kiếp (chết), chấm dứt kiếp hiện-tại, phát sinh 1 sát-na tâm rồi diệt, (viết tắt cu) làm duyên cho tâm tiếp theo,
8- Paṭisandhicitta: Tái-sinh-tâm là quả-tâm làm phận sự tái-sinh bắt đầu của kiếp sau kế tiếp, có 1 trong 3 đối-tượng là kamma hoặc kammanimitta hoặc gatinimitta giống như Ý-môn-hướng-tâm, phát sinh 1 sát-na-tâm rồi diệt, (viết tắt pat), làm duyên cho tâm tiếp theo,
9- Bhavaṅgacitta: Hộ-kiếp-tâm là quả-tâm có đối-tượng giống như tái-sinh-tâm (kiếp-hiện-tại), theo hộ trì, giữ gìn kiếp hiện-tại này, sinh rồi diệt, (viết tắt bha), chấm dứt ý-môn cận-tử-lộ-trình-tâm.
Theo dục-giới tác-hành-tâm ý-môn-cận-tử lộ-trình-tâm thì cuticitta: tử-tâm cuối cùng của kiếp hiện-tại diệt và tiếp theo paṭisandhicitta:tái-sinh-tâm sinh bắt đầu của kiếp sau kế tiếp chỉ có cách nhau 1 sát-na-tâm sinh rồi diệt mà thôi, không có thời gian khoảng cách chờ đợi.
Như vậy, cuticitta: tử-tâm (chết) là quả-tâm cuối cùng của kiếp-hiện-tại và paṭisandhicitta: tái-sinh-tâm là quả-tâm bắt đầu của kiếp saukhông có thời gian khoảng cách, nghĩa là cuticitta: tử-tâm diệt liền tiếp theo paṭisandhi-citta: tái-sinh-tâm sinh, trong cùng cận-tử-lộ-trình-tâm (maraṇāsannavīthi).
Nói nôm na là kiếp-hiện-tại và kiếp sau khoảng cách thời gian 1 sát-na-tâm sinh rồi diệt.
* Kiếp-hiện-tại hạng phàm-nhân sau khi chết, nếu ác-nghiệp có cơ-hội cho quả tái-sinh kiếp sau thì sinh 1 trong 4 cõi ác-giới là cõi địa-ngục, hoặc cõi a-su-ra, hoặc cõi ngạ-quỷ, hoặc loài súc-sinh.
Chúng-sinh trong cõi địa-ngục, cõi a-su-ra, loài súc-sinh không hay biết đến phước-thiện bố-thí của bà con thân quyến hồi hướng đến cho họ.
Trong tích Tirokuṭṭapetavatthu([15]), Đức-Phật dạy có câu kệ rằng:
“Idaṃ vo ñātīnaṃ hotu, sukhitā hontu ñātayo.”
Mong phước-thiện bố-thí này được thành-tựu đến bà con thân quyến ngạ-quỷ của các con, xin bà con thân quyến ngạ-quỷ ấy được hưởng mọi sự an lạc.
Và “Evameva ito dinnaṃ, petānaṃ upakappati.
Phước-thiện bố-thí mà thân quyến cõi người đã hồi hướng, được thành-tựu đến các ngạ-quỷ như vậy.
Loài ngạ-quỷ ở đây đó là loài ngạ-quỷ para-dattupajīvikapeta bà con thân quyến của đức-vua Bimbisāra đến đang chờ đợi để phát sinh dục-giới đại-thiện-tâm vô cùng hoan-hỷ nói lời “ Sādhu! Sādhu! Lành thay! Lành thay!” Rồi thọ nhận phần phước-thiện bố-thí của đức-vua Bimbisāra.
Còn lại các loài ngạ-quỷ khác không có cơ-hội nhận phần phước-thiện của bà con thân quyến hoặc người khác hồi hướng, bởi vì chúng sống cách xa loài người, nên không hay biết, vả lại chúng đang còn chịu quả của ác-nghiệp.
* Kiếp-hiện-tại hạng phàm-nhân sau khi chết, nếu dục-giới đại-thiện-nghiệp có cơ-hội cho quả tái-sinh kiếp sauthì đầu-thai làm người, hoặc hoá-sinh làm chư-thiên trong 6 cõi trời dục-giới.
Đầu-thai làm người không hay biết gì đến phần phước-thiện bố-thí (dānakusala) của bà con thân quyến hoặc người khác hồi hướng; còn chư-thiên trong cõi trời dục-giới dù có biết cũng không quan tâm đến, bởi vì phần phước-thiện bố-thí ấy là tầm thường, nhưng nếu có phước-thiện nghe pháp (dhammassavanakusala) hoặc thuyết-pháp (dhammadesanākusala) thì chư-thiên đều vô cùng hoan-hỷ thọ nhận phước-thiện ấy, bởi vì Đức-Phật dạy rằng:
“ Sabbadānaṃ dhammadānaṃ jināti,”
Phước-thiện pháp-thí là cao quý hơn tất cả mọi phước-thiện bố-thí.
Ba Thánh-nhân bậc thấp (bậc Thánh-Nhập-lưu, bậc Thánh-Nhất-lai, bậc Thánh-Bất-lai) sau khi chết, chắc chắn thiện-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi thiện-giới tuỳ theo quả của thiện-nghiệp ấy, các bậc Thánh ấy không quan tâm đến phước-thiện bố-thí tầm thường của bà con thân quyến hồi hướng.
Ác-nghiệp trong 8 tham-tâm phần nhiều cho quả tái-sinh kiếp sau trong các loài ngạ-quỷ và loài a-su-ra.
3- Asurabhūmi: Cõi A-Su-Ra
Loài A-su-rahoặc loài A-su-ra-kā-ya là nhóm chúng-sinh trong cõi A-su-ra không vui tươi, cuộc sống thiếu thốn thân tâm không vui tươi, sầu não.
Loài A-su-ra có 3 loài:
1- Deva-Asura: A-su-ra là chư-thiên,
2- Petti-Asura: A-su-ra là loài ngạ-quỷ,
3- Niraya-Asura: A-su-ra là chúng-sinh địa- ngục
1- Deva-Asura: chư-thiên A-su-ra có 6 vị:
1- Vepacitta-Asura: Vepacitta A-su-ra,
2- Subali-Asura: Subali A-su-ra,
3- Rāhu-Asura: Rāhu A-su-ra,
4- Pahāra-Asura: Pahāra A-su-ra,
5- Sambaratī-Asura: Sambaratī A-su-ra,
6- Vinipātika-Asura: Vinipātika A-su-ra.
A-Su-Ra Nghịch Với Đức-Vua Trời Sakka
A-su-ra nghịch với đức-vua trời Sakka trên cõi trời Tam-thập-tam-thiên có 5 vị A-su-ra là Vepacitta A-su-ra đứng đầu và Subali A-su-ra, Rāhu A-su-ra, Pahāra A-su-ra, Sambaratī A-su-ra cùng nhóm thuộc hạ của mỗi vị trụ ở phía dưới núi Sineru, còn đức-vua trời Sakka cùng chư-thiên trên cõi trời Tam-thập-tam-thiên trụ ở trên đỉnh núi Sineru, cho nên 5 vị A-su-ra cùng nhóm thuộc hạ ghép chung trong cõi trời Tam-thập-tam-thiên.
Nhóm quân A-su-ra đứng đầu vịVepacitta A-su-ra thường dẫn lên đánh nhau với đức-vua trời Sakka cùng chư-thiên khi bại, khi thắng. Cuộc chiến giữa vịVepacitta A-su-ra với đức-vua trời Sakka bằng cách đấu phép, nên không có thương vong, bởi vì bên nào thua rút lui vào thành đóng cửa lại, bên thắng không thể vào thành được, nên đành phải rút quân trở về thành của mình.
Trong thời-kỳ Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, đức-vua trời Sakka ngự đến hầu đảnh lễ Đức-Phật, lắng nghe chánh-pháp, trở thành bậc Thánh-Nhập-lưu. Từ đó, cuộc chiến giữa vịVepacitta A-su-ra với đức-vua trời Sakka không còn đấu phép mà đấu bằng trí-tuệ, nên vịVepacitta A-su-ra thua thật sự, đức-vua trời Sakka toàn thắng thật sự.
* Vinipātika-asura cùng nhóm thuộc hạcó thân hình nhỏ hơn và oai lực kém thua chư-thiên cõi trời Tam-thập-tam-thiên. Vinipātika-Asura không có chỗ ở riêng biệt, nương nhờ cõi người, nơi rùng núi, cây cối, chỗ thờ ngoài trời, v.v… chỗ ở của bhumaṭṭhadevatā: chư-thiên trên mặt đất, cho nên nhóm Vinipātika-Asura trở thành thuộc hạ của bhumaṭṭhadevatā thuộc về chư-thiên cõi trời Tứ-đại-thiên-vương.
2- Petti-asura: a-su-ra loài ngạ-quỷ có 3 nhóm:
1- Kālakañcikapeta-asura: asura là loài ngạ- quỷ kālakañcikapeta
2- Vemānikapeta-asura: asura là loài ngạ-quỷ vemānikapeta
3-Āvudhikapeta-asura: asura là loài ngạ-quỷ āvudhikapeta.
* Kālakañcikapeta-asuralà loài ngạ-quỷ kālakañcika thuộc về loài A-su-ra như trình bày trong loài ngạ-quỷ.
*Vemānikapeta-asura là loài ngạ-quỷ vemānika ban ngày chịu quả khổ của ác-nghiệp, nhưng đến
ban đêm lại hưởng mọi sự an lạc như chư-thiên trên cõi trời Tam-thập-tam-thiên. Vì vậy, loài ngạ-quỷ vemānikapeta này gọi là loài A-su-ra.
* Āvudhikapeta-asuralà loài ngạ-quỷ āvudhika sát hại lẫn nhau bằng vũ khí khác nhau, cho nên loài ngạ-quỷ āvudhika này gọi là loài A-su-ra.
Chư-thiên cõi trời Tam-thập-tam-thiên yêu thương, kính mến nhau, còn nhóm ngạ-quỷ āvudhika sát hại lẫn nhau bằng vũ khí.
3- Niraya-asura: A-su-ra là chúng-sinh địa-ngục có 1 loài ngạ-quỷ phải chịu quả khổ trong cõi địa-ngục Lokantarikanaraka.
Cõi địa-ngục Lokantarikanaraka là khoảng trống ở giữa nơi giáp ranh của 3 vũ trụ thế-giới, tất cả mọi chúng-sinh cõi địa-ngục lokantarika-naraka này đều dính vào thành vũ trụ, như con dơi dính vào vách, trong khoảng trống cõi địa-ngục này tối đen như mực, phía dưới có nước lạnh kinh khủng, nếu chúng-sinh địa-ngục rơi xuống chết ngay tức thì.
Chúng-sinh trong cõi địa-ngục này bị đói khát dữ dội, chúng lần mò đi kiếm đồ ăn, nếu khi chúng gặp nhau tưởng là đồ ăn, 2 bên nhào đến cắn xé nhau, buông tay nên cả 2 bên bị rơi xuống nước lạnh đều chết, rồi hoá sinh trở lại.
Chúng-sinh cõi địa-ngục này gọi là A-su-ra, bởi vì chúng sát hại lẫn nhau.
Nhân Sinh Trong Loài A-Su-Ra
Trong cõi người này, người nào là người có quyền lực, giàu có nhưng là người thiểu trí, ít học, nên không biết phân biệt bậc thiện-trí cao thượng (paṇḍita) đáng kính trọng, và kẻ ác-nhân (bāla) đáng chê trách. Người ấy chê trách, khinh thường bậc thiện-trí cao thượng, và ngược lại kính trọng, tán dương ca tụng kẻ ác-nhân.
Người ấy sau khi chết, ác-nghiệp ấy cho quả tái-sinh kiếp sau trong loài A-su-ra như vậy.
4- Tiracchānabhūmi: Cõi Súc-Sinh
Ác-nghiệp có 12 loại, chỉ có 11 ác-nghiệp(trừ ác-nghiệp trong si-tâm hợp với phóng-tâm) cho quả là suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xảlà bất-thiện-quả vô-nhân-tâm của 11 bất-thiện-tâm gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận- sự tái-sinh kiếp sau.
* Nếu suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả ấy do năng của si-tâm phần nhiều cho quả tái-sinh kiếp sau loài súc-sinh (tiracchāna).
Tiracchāna: là loài chúng-sinh thường di chuyển với cột xương sống nằm ngang gọi là loài súc-sinh.
Loài súc-sinh có ý-nghĩa rộng gồm tất cả các loài sinh vật lớn nhỏ có sự sống, sự chết, có tử sinh luân hồi trong các loài. Loài súc-sinh có thân hình to lớn nhất và nhỏ bé nhất, không có cõi riêng biệt, phần đông sinh sống chung trong cõi người, được phân loại có 4 nhóm loài súc-sinh như sau:
1- Apadatiracchāna: nhóm loài súc-sinh không có chân như con rắn, con lươn, con cá, con trùn, v.v…
2- Dvipadatiracchāna: nhóm loài súc-sinh có 2 chân như con chim, con gà, con vịt, v.v…
3- Catupadatiracchāna: nhóm loài súc-sinh có 4 chân như con bò, con trâu, con voi, v.v…
4- Bahupadatiracchāna: nhóm loài súc-sinh có nhiều chân như con rít, con cuốn chiếu, v.v …
Tất cả các loài súc-sinh này có chỗ ở khác nhau, có nhóm loài súc-sinh nương nhờ sinh sống trên mặt đất, có nhóm loài súc-sinh nương nhờ sinh sống dưới nước nhiều hơn loài súc-sinh trên mặt đất,
Giảng giải đặc biệt về loài súc-sinh như nāga, kinnara, sīha, garuḍa,
* Nāga: con rắn độc có 4 loài:
1- Kaṭṭhamukha: loài rắn độc, nếu người nào bị nó cắn thì toàn thân người ấy bị cứng đờ không còn cử động được nữa, đau đớn vô cùng.
2- Pūtimukha: loài rắn độc, nếu người nào bị nó cắn thì vết thương người ấy bị thối và nước mủ chảy ra.
3- Aggimukha: loài rắn độc, nếu người nào bị nó cắn thì toàn thân người ấy bị nóng rực, chỗ vết thương bị cháy bỏng như bị phỏng lửa.
4- Satthamukha: loài rắn độc, nếu người nào bị nó cắn thì người ấy như bị sét đánh.
* Sự sinh của loài Nāga có 4 cách:
1- Aṇḍaja: loài Nāga sinh ra từ trứng,
2- Jalābuja: loài Nāga sinh ra từ trong bụng,
3- Saṃsedaja: loài Nāga sinh ra từ mồ hôi chảy ra,
4- Opapātika: loài Nāga hoá-sinh ra to lớn ngaytức thì.
Đặc biệt loài Nāga gọi là loài long nam, long nữ ở cõi long cung, trong các lâu đài nguy nga tráng lệ toàn bằng vàng, bạc, các thứ ngọc, v.v… phát sinh do quả của thiện-nghiệp.
Trong cõi long cung có Đức Long-vương trị vì các long nam, long nữ, tất cả loài long này đều có phép thần thông biến hoá ra thành loài người, chư-thiên, loài thú, v.v… do quả của thiện-nghiệp gọi là (vipāka-iddhi) tuỳ theo khả năng của mỗi long nam, long nữ.
Mặc dù long nam, long nữ có khả năng biến hoá ra loài người già trẻ khác nhau như thế nào, khi có 1 trong 5 trường-hợp xảy ra vẫn trở lại loài long như trước. Năm trường-hợp ([16]) là
1- Trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau, là loài long,
2- Trong khi lột da thay da mới, phải hoàn trở lại loài long,
3- Trong khi giao cấu với loài khác phái, phải hoàn trở lại loài long,
4- Trong khi nằm ngủ say, tự nhiên hoàn trở lại loài long, bởi vì không có trí nhớ biết mình,
5- Trong thời-kỳ chuyển kiếp (chết), phải hoàn trở lại loài long.
Tuổi thọ của loài nāga nhiều hoặc ít không có chắc chắn, tuỳ theo quả của nghiệp.
* Kinnara:loài kinnara đực và kinnara cái là loài thú có phần giống như người, ngựa và có phần giống như chim như sau:
– Thân hình, đầu, mặt, 2 con mắt, 2 lỗ mũi giống như người,
– Cái miệng nhô ra phía trước giống như mỏ con ngựa,
– 2 bàn tay, 2 bàn chân có móng dài giống như chân chim.
Loài kinnara có nhiều loại, thông thường rất sợ nước.
* Sīha: Sư tử có 4 loại:
1- Tiṇasīha là loài sư tử có thân hình bằng con bò trẻ màu đỏ, ở trong rừng sâu ăn cỏ.
2- Kāḷasīha là loài sư tử có thân hình bằng con bò trẻ màu đen, ở trong rừng sâu ăn cỏ.
3- Paṇḍusīha: là loài sư tử có thân hình bằng con bò trẻ màu như lá cây vàng, ở trong rừng sâu, ăn thịt các loài thú khác.
4- Kesarasīha: là loài sư tử chúa có thân hình bằng con trâu, môi, đuôi, chân có màu đỏ, từ đầu cho đến lưng có 3 sọc màu đỏ bao quanh 2 mông vòng cổ có lông dài, từ 2 vai đến toàn thân có màu vàng lẫn trắng, ở trong rừng Himavanta, ăn thịt các loài thú khác.
Sīha: con sư tử là chúa của các loài thú.
* Garuḍa: con garuḍa có thân hình giống như loài chim, nên ghép vào loài chim, Con garuḍa là con chim lớn nhất, là vua của các loài chim, sống trong rừng sâu, ăn các loài nāga rắn, rồng (long).
Loài súc-sinh thông thường có 3 sự biết:
1- Gocarasaññā: biết kiếm ăn, ngủ, nghỉ,…
2- Kāmasaññā: biết giao cấu và truyền giống,
3- Maraṇasaññā: biết sợ chết.
Nếu Đức-Bồ-tát sinh làm loài súc-sinh thì sinh làm giống đực không nhỏ hơn con chim sẻ cũng không lớn hơn con voi, Đức-Bồ-tát loài súc-sinh đực có sự hiểu biết rất phi thường.
Nhận Xét Về Loài Súc-Sinh
Thời-kỳ paṭisandhikāla và pavattikāla của loài súc-sinh:
* Trong thời-kỳ paṭisandhikāla tái-sinh kiếp sau chỉ có 11 bất-thiện-tâm (ác-tâm) (trừ ác-nghiệp trong si-tâm hợp với phóng-tâm) cho quả chỉ có 1 quả-tâm là suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là bất-thiện-quả vô-nhân-tâm của 11 bất-thiện-tâm gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận-sự tái-sinh kiếp sau.
* Nếu suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả ấy do năng lực của si-tâm phần nhiều cho quả tái-sinh kiếp sau là loài súc-sinh (tiracchāna).
* Trong thời-kỳ pavattikāla sau khi đã tái-sinh làm loài súc-sinh rồi, 12 bất-thiện-tâm (ác-tâm) đều có khả năng cho quả là 7 bất-thiện-quả-vô-nhân-tâm trong kiếp hiện hữu chịu quả khổ của ác-nghiệp.
Đặc biệt có số loài súc-sinh, tuy trong thời-kỳ tái-sinh với suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả, nhưng trong thời-kỳ sau khi tái-sinh kiếp hiện hữu có số loài súc-sinh như con ngựa-báu, voi-báu của Đức-chuyển-luân-Thánh-vương có khả năng đặc biệt bay trên hư không do quả của thiện-nghiệp trong kiếp quá-khứ, có số con chó, con mèo được người chủ nuôi nấng, chăm sóc chu đáo, v.v… đó là do quả của thiện-nghiệp trong kiếp quá-khứ.
Tuy các long-nam, long-nữ có khả năng biến hoá ra thành người, chư-thiên, v.v… có nhiều phép mầu thành-tựu do quả của thiện-nghiệp (vipāka-iddhi), nghe chánh-pháp của chư bậc thiện-trí, nhưng chắc chắn không thể chứng đắc các bậc thiền sắc-giới, cũng không thể chứng-ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, không thể chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả nào được, bởi vì các long-nam, long-nữ ấy thuộc về loài duggati-ahetuka vô-nhân cõi ác-giới.
Chỉ có hạng người tam-nhân mới có khả năng chứng đắc các bậc thiền sắc-giới, bậc thiền vô-sắc-giới, chứng-ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-nhân mà thôi.
Kāmasugatibhūmi: Cõi Thiện Dục-Giới
Cõi thiện-dục-giới gồm có 7 cõi:
1- Manussabhūmi: Cõi người,
2- Catumahārājikābhūmi: Cõi Tứ-đại-thiên- vương,
3- Tavatiṃsābhūmi: Cõi Tam-thập-tam-thiên,
4- Yamābhūmi: Cõi Dạ-ma-thiên,
5- Tusitābhūmi: Cõi Đâu-suất-đà-thiên,
6- Nimmānaratibhūmi: Cõi Hoá-lạc-thiên,
7- Paranimmitavasavattibhūmi: Cõi Tha-hoá- tự-tại-thiên.
Kāmasahacaritā sugati: kāmasugati
Cõi thiện-dục-giới là cõi phát sinh cùng với kāmataṇhā: ái-dục gọi là kāmasugatibhūmi.
Cõi thiện-dục-giới có7 cõi là nơi nương nhờ sinh sống của loài người và chư-thiên 6 cõi trời dục-giới liên quan đến kāmataṇhā mong muốn trong 5 đối-tượng ái-dục (kāmārammaṇa) là:
1- Rūpataṇhā:sắc-ái là tâm tham-ái trong những đối-tượng sắc xinh đẹp,
2- Saddataṇhā:thanh-ái là tâm tham-ái trong những đối-tượng âm thanh hay,
3- Gandhataṇhā:hương-ái là tâm tham-ái trong những đối-tượng hương thơm tho,
4- Rasataṇhā:vị-ái là tâm tham-ái trong những đối-tượng vị ngon lành,
5- Phoṭṭhabbataṇhā:xúc-ái là tâm tham-ái trong những đối-tượng xúc êm ái.
* Chúng-sinh sinh trong 7 cõi thiện-dục-giới là quả của 8 dục-giới đại-thiện-nghiệp trong 8 dục-giới đại-thiện-tâm cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi người, 6 cõi trời dục-giới.
Manussabhūmi: Cõi Người
Manussabhūmi: cõi người là nơi sinh sống của loài người (manussa).
Loài người (manussa) ở 4 châu lớn (dīpa):
1- Uttarakurudīpa: Bắc-cưu-lưu-châu,
2- Pubbavidehadīpa: Đông-thắng-thần-châu,
3- Aparagoyānadīpa:Tây-ngưu-hoá-châu,
4- Jambūdīpa: Nam-thiện-bộ-châu.
Bốn châu này nằm ở 4 hướng của núi Sineru.
1- Uttarakurudīpa: Bắc-cưu-lưu-châu nằm ở hướng Bắc của núi Sineru. Loài người ở Uttara-kurudīpa nàycó 3 đức tính là:
* Khôngchấp thủ của cải tài-sản là của mình,
* Không chấp thủ con trai,con gái, vợ, chồng là của mình,
* Có tuổi thọ đúng 1.000 năm.
Loài người ở Uttarakurudīpa này có ngũ-giới
là thường giới, sau khi hết tuổi thọ chết, chắc chắn dục-giới đại-thiện-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp sau làm thiên nam hoặc thiên nữ trên cõi trời dục-giới. Kiếp chư-thiên sau khi chết, sẽ tái-sinh kiếp sau trong cõi nào tuỳ theo nghiệp của vị chư-thiên ấy.
– Nếu ác-nghiệp cho quả thì tái-sinh kiếp sau trong cõi ác-giới (cõi địa-ngục, cõi a-su-ra, cõi ngạ-quỷ, loài súc-sinh),
– Nếu dục-giới đại-thiện-nghiệp cho quả thì tái-sinh kiếp sau trong người hoặc cõi trời dục-giới.
2- Pubbavidehadīpa: Đông-thắng-thần-châu nằm ở hướng Đông của núi Sineru. Loài người ở pubbavidehadīpa này có tuổi thọ 700 năm.
3-Aparagoyānadīpa:Tây-ngưu-hoá-châu nằm ở hướng Tây của núi Sineru. Loài người ở aparagoyānadīpa nàycó tuổi thọ 500 năm.
4- Jambūdīpa: Nam-thiện-bộ-châu nằm ở hướng Nam của núi Sineru là trái đất mà chúng ta đang sống.Con người ở Jambūdīpa của chúng ta có tuổi thọ không nhất định, tuỳ theo thời-kỳ thiện-pháp hoặc ác-pháp tăng trưởng hoặc suy đồi.
* Nếu thời-kỳ nào loài người ở Jambūdīpa có thân-hành-thiện, khẩu-hành-thiện, ý-hành-thiện, mọi thiện-pháp tăng trưởng đến tột bậc thì thời-kỳ ấy loài người ở Jambūdīpa có tuổi thọ đến a-tăng-kỳ ([17]) năm.
* Nếu thời-kỳ nào loài người ở Jambūdīpa có thân-hành-ác, khẩu-hành-ác, ý-hành-ác mọi ác-pháp tăng trưởng đến cuối cùng thì thời-kỳ ấy loài người ở Jambūdīpa có tuổi thọ chỉ còn 10 năm.
Tuổi thọ của loài người trong 4 châu dựa theo bộ Chú-giải Samyuttanikāyaṭṭhakathā rằng:
“Jambūdīpavāsinaṃ āyuppamāṇam natthi, Pubbavidehānaṃ sattavassasatāyukā, Apara-goyānavāsīnaṃ pañcavassasatāyukā, Uttara- kuruvāsīnaṃ vassasahassāyukā. Tesaṃ tesaṃ parittadīpavāsīmampi tadanugatikāva.”
Loài người sống trong Bắc-cưu-lưu-châu có tuổi thọ 1000 năm, loài người sống trong Tây-ngưu-hoá-châu có tuổi thọ 500 năm, loài người sống trong Đông-thắng-thần-châu có tuổi thọ 700 năm, loài người sống trong Nam-thiện-bộ-châu có tuổi thọ không nhất định. Loài người trong các châu nhỏ phụ thuộc của 4 châu lớn có tuổi thọ nhiều hoặc ít tuỳ thuộc vào châu lớn.
Loài người (manussa) trong châu này đề cập trực tiếp đến Jambūdīpa: Nam-thiện-bộ-châu, còn 3 châu chỉ là gián tiếp mà thôi.
Loài người (manussa) trong Jambūdīpa: nam-thiện-bộ châu có những đức tính ưu việt mà loài người trong 3 châu: Pubbavidehādīpa, Aparagoyānadīpa, Uttarakurudīpa khôngsánh được, với những định-nghĩa như sau:
* Mano ussannaṃ etesanti: manussā.
Tâm dũng mãnh là tâm của manussā: loài người trong Nam-thiện-bộ-châu.
Loài người trong Nam-thiện-bộ-châu có tâm dũng mãnh trong thiện-pháp thì cực thiện, trong ác-pháp thì cực ác:
* Trong thiện-pháp thì cực thiện nghĩa là tâm của loài người Nam-thiện-bộ-châu có khả năng trở thành Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác, Đức-Phật Độc-Giác, bậc Thánh-A-ra-hán tối-thượng-Thanh-văn-giác, bậc Thánh-A-ra-hán đại-Thanh-văn-giác. chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới, 4 bậc thiền vô-sắc-giới, các phép thần-thông, Đức-vua chuyển-luân-thánh-vương.
* Trong ác-pháp thì cực ác nghĩa là tâm của loài người Nam-thiện-bộ-châu tạo ác-nghiệp trọng-tội:
* Pañcānantariyakamma: ngũ vô-gián ác-nghiệp trọng-tội là giết cha, giết mẹ, giết bậc Thánh-A-ra-hán, làm bầm máu bàn chân của Đức-Phật, chia rẽ chư tỳ-khưu-Tăng. Sau khi chết chắc chắn ác-nghiệp trọng-tội ấy cho quả tái-sinh kiếp kế tiếp không gián đoạn trong cõi đại-địa-ngục Avīci, chịu thiêu đốt trong suốt thời gian lâu dài trong cõi đại-địa-ngục cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy, và
* Niyatamicchādiṭṭhikamma: 3 ác-nghiệp tà-kiến cố-định hoàn toàn không tin nghiệp và quả của nghiệp là vô-quả-tà-kiến, vô-nhân-tà-kiến, vô-hành-tà-kiến. Sau khi chết chắc chắn ác-nghiệp tà-kiến cố-định ấy cho quả tái-sinh kiếp kế tiếp trong cõi đại-địa-ngục Avīci, chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy không có thời gian thoát ra khỏi cõi đại-địa-ngục ấy.
* Kāraṇākaraṇaṃ manati jānātīti: manusso.
Hiểu biết rõ nhân tốt và nhân xấu gọi là loài người đó là loài người trong Nam-thiện-bộ-châu.
Loài người trong Nam-thiện-bộ-châu có trí-tuệ thấy rõ biết rõ nhân và quả phát sinh các pháp trong tam-giới, siêu-tam-giới.
Ví dụ: Cakkhuviññāṇa: nhãn-thức-tâm phát sinh do đối-tượng sắc tiếp xúc với nhãn-tịnh-sắc; sotaviññāna: nhĩ-thức-tâm phát sinh do đối-tượng thanh tiếp xúc với nhĩ-tịnh-sắc, v.v…
Trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ biết rõ thật-tánh của danh-pháp, sắc-pháp có sự sinh, sự diệt, hiện rõ 3 trạng-thái chung: trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã, … do nhờ hiểu biết rõ nhân tốt, nhân xấu.
* Atthānatthaṃ manati jānātīti: manusso.
Hiểu biết rõ hành động thiện, hành động ác gọi là loài người đó là loài người trong Nam-thiện-bộ-châu.
Loài người trong Nam-thiện-bộ-châu biết rõ nếu thân hành điều ác, khẩu nói điều ác, ý nghĩ điều ác thì có quả khổ, có hại; nếu thân hành điều thiện, khẩu nói điều thiện, ý nghĩ điều thiện thì được quả an lạc, có lợi ích; biết rõ sự lợi ích trong kiếp-hiện-tại, nhiều kiếp vị-lai, nhất là sự lợi ích cao thượng Niết-bàn giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong 3 giới 4 loài.
* Kusalākusalaṃ manati jānātīti: manusso.
Hiểu biết rõ thiện-nghiệp, bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) gọi là loài người đó là loài người trong Nam-thiện-bộ-châu.
Loài người trong Nam-thiện-bộ-châu biết rõ tham, sân, si là nhân bất-thiện (nhân ác) đồng sinh với bất-thiện-tâm tạo bất-thiện-nghiệp; biết rõ vô-tham, vô-sân, vô-si là nhân thiện đồng sinh với thiện-tâm tạo thiện-nghiệp.
Loài người trong Nam-thiện-bộ-châu có 3 đức tính ưu việt là:
1-Sūrabhāva: có tâm dũng cảm trong phước-thiện bố-thí, giữ giới, thực-hành pháp-hành-thiền-định, pháp-hành-thiền-tuệ
2- Satimanta: có niệm vững vàng trong ân-đức Tam-bảo: ân-đức-Phật-bảo, ân-đức-Pháp-bảo, ân-đức-Tăng-bảo,
3- Brahmacariyāvāsa: thực-hành phạm-hạnh cao thượng được đó là xuất gia trở thành tỳ-khưu, thực-hành pháp-hành-giới, pháp-hành-thiền-định, pháp-hành-thiền-tuệ.
Manussa: Loài người
Bộ Chú-giải phân loại các loài người trong Nam-thiện-bộ-châu như sau:
* Manussa-manussa: Người như người thật,
* Manussa-deva: Người như chư-thiên,
* Manussa-tiracchāna: Người như loài súc-sinh,
* Manussa-peta: Người như loài ngạ-quỷ,
* Manussa-nerayika: Người như chúng-sinh trong cõi địa-ngục,…
* Manussa-manussa: Người như người thật như thế nào?
Người như người thật nghĩa là người ấy có thân người và tâm người.
Tâm người là tác-ý thiện-tâm giữ gìn ngũ-giới là thường-giới của loài người một cách trong sạch và trọn vẹn, hành thập-thiện-nghiệp là thiện-pháp của loài người đầy đủ, nên thân, khẩu, ý trong sạch do dục-giới đại-thiện-tâm trong sạch, không bị ô nhiễm bởi mọi phiền não.
Ngũ-giớicó 5 giới là:
1- Tránh xa sự sát-sinh, không giết hại người và các chúng-sinh khác dù nhỏ dù lớn,
2- Tránh xa sự trộm-cắp, không chiếm đoạt của cải tài-sản của công lẫn của tư,
3- Tránh xa sự tà-dâm, không quan hệ tình dục với vợ hoặc chồng, con cháu của người khác,
4- Tránh xa sự nói dối, không nói điều dối trá, lừa gạt người khác,
5- Tránh xa sự uống rượu và các chất say là nhân sinh sự thất niệm dể duôi, nghĩa là không uống các thứ rượu và các chất say như thuốc phiện, thuốc lá, nước bia, v.v… là nhân sinh thất niệm dể duôi quên mình.
Thập-thiện-nghiệpcó 10 thiện-nghiệp là:
1- Không sát-sinh, mà phóng sinh,
2- Không trộm-cắp, mà bố-thí,
3- Không tà-dâm, mà giữ gìn hạnh phúc của mình và của người khác.
Đó là 3 thiện-nghiệp, phần nhiều liên quan đến thân-thiện-nghiệp.
4- Không nói dối, mà nói lời chân-thật,
5- Không nói lời chia rẽ, mà nói lời hoà thuận,
6- Không nói lời thô-tục, mà nói lời hoà nhã,
7- Không nói lời vô-ích, mà nói lời hữu-ích.
Đó là 4 thiện-nghiệp, phần nhiều liên quan đến khẩu-thiện-nghiệp.
8- Không tham lam của cải người khác một cách phi pháp, mà trao đổi một cách hợp pháp,
9- Không thù-hận người khác, mà có tâm từ đối với mọi người, mọi chúng-sinh,
10- Có chánh-kiến thấy đúng, biết đúng theo thật-tánh của các pháp.
Đó là 3 thiện-nghiệp thuộc về ý-nghiệp.
Người như người thậtnghĩa là người ấy có thân người và tâm người, là người có đầy đủ ngũ-giới là thường-giới (niccasīla) của loài người và thập-thiện-nghiệp là thiện-pháp của loài người (manussadhamma).
Nếu người nào có đầy đủ ngũ-giới là thường- giới của loài người và thập-thiện-nghiệp là thiện-pháp của loài người thì người ấy trong cuộc sống hiện-tại có thân và tâm thường được an lạc. Sau khi người ấy chết, dục-giới đại-thiện-nghiệp ấy có cơ-hội cho quả tái-sinh kiếp sau trở lại làm ngườicao quý.
* Manussa-deva: Người như chư-thiênnhư thế nào?
Người như chư-thiên nghĩa là người ấy có thân người và tâm như chư-thiên.
Tâm chư-thiên có 5 pháp là:
1- Saddhā: đức-tin: Người có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo: nơi Đức-Phật-bảo, nơi Đức-Pháp-bảo, nơi Đức-Tăng-bảo; tin nghiệp và quả của nghiệp, tin rằng: thiện-nghiệp cho quả an lạc, ác-nghiệp cho quả khổ, trong kiếp-hiện-tại và vô số kiếp vị-lai.
2- Sīla: giới-đức: Người có giới-hạnh đầy đủ và trong sạch theo địa vị của mỗi người.
* Nếu là hạng người tại gia thì có ngũ-giới là thường-giới, hoặc bát-giới, cửu-giới trong các ngày giới, thập-giới của người tại gia([18]).
* Đối với bậc xuất gia, nếu là sa-di thì có 10 giới sa-di, 10 pháp hoại sa-di, 10 pháp hành phạt sa-di, 75 điều thực-hành, 14 pháp-hành của sa-di. Nếu là tỳ-khưu thì có tứ-thanh-tịnh-giới, 14 pháp-hành của tỳ-khưu.
3- Suta: nghe nhiều hiểu rộng: Người thường học hỏi trong chánh-pháp của Đức-Phật, thường gần gũi thân cận với bậc thiện-trí, lắng nghe chánh-pháp của bậc thiện-trí, rồi thực-hành theo chánh-pháp của bậc thiện-trí.
4- Cāga: phước-thiện bố-thí: Người không có tâm keo kiệt, bủn xỉn trong của cải tài-sản của mình, bởi vì người ấy suy xét đúng đắn rằng:
“Tất cả mọi thứ của cải trong đời này như là của chung, mà người nào có quả phước-thiện bố-thí thì tạm thời thừa hưởng nhiều hoặc ít, lâu hoặc mau một phần của cải tài-sản ấy. Chỉ có nghiệp mới thật sự là của riêng mình mà thôi.
Vì vậy, ta nên sử dụng phần của cải mà ta đang tạm thời thừa hưởng, đem ra làm phước-thiện bố-thí đến cho người khác, để trở thành thiện-nghiệp bố-thí vĩnh viễn là của riêng ta trong kiếp-hiện-tại và vô số kiếp vị-lai mà thôi.”
Do suy xét như vậy, nên người ấy đem của cải ra làm phước-thiện bố-thí đến người khác.
5- Paññā: trí-tuệ: Người có trí-tuệ học hỏi hiểu biết rõ về pháp-học Phật-giáo, rồi thực-hành pháp-hành-thiền-định, dẫn đến chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới, 4 bậc thiền sắc-giới, hoặc thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ, dẫn đến chứng-ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn.
Nếu người nào có đầy đủ 5 pháp chư-thiên ấy thì gọi người ấy là người như chư-thiên cóthân ngườivà tâm như chư-thiên.
Trong kiếp-hiện-tại nếu người ấy không chứng đắc bậc thiền nào và chưa trở thành bậc Thánh-A-ra-hán thì sau khi người ấy chết, dục-giới đại-thiện-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp sau làm chư-thiên trên cõi trời dục-giới.
* Nếu người ấy đã chứng đắc bậc thiền nào, thì sau khi chết, chắc chắn thiện-nghiệp của bậc thiền ấy cho quả tái-sinh kiếp sau trên cõi sắc-giới hoặc cõi vô-sắc-giới tuỳ theo quả-tâm của bậc thiền ấy.
* Nếu người ấy đã trở thành bậc Thánh-A-ra-hán thì sau khi chết gọi là tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong 3 giới 4 loài.
* Manussa-tiracchāna: Người như loài súc-sinh như thế nào?
Người như loài súc-sinh nghĩa là người ấy có thân người và tâm như loài súc-sinh.
Tâm loài súc-sinh là bất-thiện-tâm không biết hổ-thẹn tội-lỗi, không biết ghê-sợ tội-lỗi.
Nếu có tham-tâm phát sinh thì loài súc-sinh hành động theo tham-tâm; nếu có sân-tâm phát sinh thì loài súc-sinh hành động theo sân-tâm; nếu có si-tâm phát sinh thì loài súc-sinh hành động theo si-tâm.
Loài súc-sinh thường hành động do năng lực của mọi phiền-não như vậy, tạo mọi ác-nghiệp, nên tự làm khổ mình, làm khổ người, khổ chúng-sinh.
Nếu người nào không biết hổ-thẹn tội-lỗi, không biết ghê-sợ tội-lỗi, hành động theo năng lực của mọi phiền-não.
Nếu khi tham-tâm phát sinh thì hành động theo tham-tâm, nếu khi sân-tâm phát sinh thì hành động theo sân-tâm, nếu khi si-tâm phát sinh thì hành động theo si-tâm. Người ấy không có trí-tuệ chế ngự được mọi phiền-não, tạo mọi ác-nghiệp, tự làm khổ mình, làm khổ người, chúng-sinh khác.
Người nào hành động do năng lực của mọi phiền-não, tạo mọi ác-nghiệp như vậy, gọi người ấy là người như loài súc-sinh, có thân người và tâm như loài súc-sinh.
Người ấy sau khi chết, ác-nghiệp ấy có cơ-hội cho quả tái-sinh kiếp sau làm loài súc-sinh.
* Manussa-peta: Người như loài ngạ-quỷnhư thế nào?
Người như loài ngạ-quỷ nghĩa là người ấy có thân người và tâm như loài ngạ-quỷ.
Tâm loài ngạ-quỷ là tham-tâm thèm muốn, khao khát, bởi vì đói khát, lạnh lẽo không sao chịu đựng nổi, không có chỗ ở, v.v…
Người nào có cuộc sống đói khổ, lạnh lẽo, thiếu thốn mọi thứ, nên tham-tâm thường phát sinh thèm muốn, khao khát ăn no, mặc ấm, có chỗ ở. v.v….
Như vậy, gọi người ấy là người như loài ngạ-quỷ, có thân người và tâm như loài ngạ-quỷ.
Người nào có tâm keo kiệt, bủn xỉn trong của cải tài-sản của mình, không muốn đem ra làm phước-thiện bố-thí đến cho người nghèo khổ khác, thậm chí còn phát sinh tham-tâm vơ vét của người khác đem về làm của riêng mình nữa, do năng lực của tham-tâm thèm muốn không biết đủ, Người ấy cũng gọi là người như loài ngạ-quỷ, có thân người và tâm như loài ngạ-quỷ.
Người ấy sau khi chết, ác-nghiệp ấy có cơ-hội cho quả tái-sinh kiếp sau trong loài ngạ-quỷ.
* Manussa-nerayika: Người như chúng-sinh trong cõi địa-ngục như thế nào?
Người như chúng-sinh trong cõi địa-ngục nghĩa là người ấy có thân người và tâm như chúng-sinh địa-ngục.
Người nào có ác-tâm cướp của giết người, chiếm đoạt của cải tài-sản của người khác một cách phi pháp, hoặc làm những việc phạm pháp, nên người ấy bị bắt, bị đánh đập hành hạ khảo tra, cuối cùng phải chịu tội trước cơ quan pháp luật. Người ấy bị tù đày trong ngục tù, phải chịu bao nỗi khổ cực, bởi vì tội ác của mình.
Người ấy bị giam cầm trong nhà tù, không được tự do theo ý muốn của mình, nên gọi là người như chúng-sinh địa-ngục, có thân người và tâm như chúng-sinh địa-ngục.
Người ấy sau khi chết, ác-nghiệp ấy có cơ-hội cho quả tái-sinh kiếp sau làm chúng-sinh trong cõi địa-ngục.
Loài Người Trong Cõi Nam-Thiện-Bộ-Châu
Loài người trong cõi Nam-thiện-bộ-châu có các hạng người khác nhau do phân loại theo thân và tâm như vậy.
Thật ra, loài người trong cõi Nam-thiện-bộ-châu chỉ có 3 hạng người cơ bản là
1- Hạng người tam-nhân,
2- Hạng người nhị-nhân
3- Hạng người vô-nhân cõi thiện-giới.
12 Loại Chúng-sinh
Chúng-sinh có 12 loại:
* Hạng phàm-nhân (puthujjanapuggala) có 4:
1- Duggati-ahetukapuggala: Hạng chúng-sinh vô-nhân cõi ác-giới,
2- Sugati-ahetukapuggala: Hạng người vô-nhân cõi thiện-giới,
3- Dvihetukapuggala: Hạng người nhị-nhân,
4- Tihetukapuggala: Hạng người tam-nhân
* Bậc Thánh-nhân (ariyapuggala) có 8 bậc:
1- Sotāpattimaggapuggala: Bậc Nhập-lưu- Thánh-đạo,
2- Sotāpattiphalapuggala: Bậc Nhập-lưu-Thánh-quả,
3- Sakadāgāmimaggapuggala: Bậc Nhất-lai Thánh-đạo,
4- Sakadāgāmiphalapuggala: Bậc Nhất-lai Thánh-quả
5- Anāgāmimaggapuggala: Bậc Bất-lai-Thánh- đạo,
6- Anāgāmiphalapuggala: Bậc Bất-lai-Thánh- quả,
7- Arahattamaggapuggala: Bậc A-ra-hán-Thánh-đạo,
8- Arahattaphalapuggala: Bậc A-ra-hán-Thánh-quả.
Chúng-sinh có 12 loại trong tam-giới gồm có 31 cõi như sau:
* Cõi ác-giới có 4 cõichỉ có 1 hạng chúng-sinh là hạng chúng-sinh vô-nhân cõi ác-giới,
* Cõi người và cõi Tứ-đại-thiên-vương có 11 hạng người là 3 hạng phàm-nhân (trừ hạng chúng-sinh vô-nhân cõi ác-giới) và 8 bậc Thánh-nhân.
* Cõi Tam-thập-tam-thiên, cõi Dạ-ma-thiên, cõi Đâu-suất-đà-thiên, cõi Hoá-lạc-thiên, cõi Tha-hoá-tự-tại-thiên, 5 cõi này có 10 hạng: 2 hạng phàm-nhân (trừ hạng chúng-sinh vô-nhân cõi ác-giới và hạng người vô-nhân cõi thiện-giới) và 8 bậc Thánh-nhân.
* Cõi trời sắc-giới đệ-nhất-thiền 3 cõi, đệ-nhị-thiền 3 cõi, đệ-tam-thiền 3 cõi và cõi Quảng-quả-thiên, 10 cõi này có 9 hạng là hạng phàm nhân tam-nhân và 8 bậc Thánh-nhân,
* Cõi trời sắc-giới Vô-tưởng-thiên chỉ có 1 hạng là hạng vô-nhân cõi thiện-giới,
* Cõi trời sắc-giới Tịnh-cư-thiên gồm có 5 cõi, có 3 bậc Thánh-nhân là Bậc Nhất-lai-Thánh-quả, bậc A-ra-hán-Thánh-đạo, bậc A-ra-hán-Thánh-quả,
* Cõi vô-sắc-giới có 4 cõi, có 8 hạng là hạng phàm-nhân tam-nhân, 7 bậc Thánh-nhân (trừ bậc Nhập-lưu-Thánh-đạo).
Devabhūmi: Cõi Trời Dục-Giới
Cõi trời dục-giới là chỗ ở của toàn thể chư-thiên dục-giới. Cõi trời dục-giới có 6 cõi:
1- Cātumahārājikābhūmi: cõi trời Tứ-đại- thiên-vương,
2- Tāvatiṃsābhūmi:cõi trời Tam-thập-tam-thiên,
3- Yāmābhūmi: cõi trời Dạ-ma-thiên,
4- Tusitābhūmi: cõi trời Đâu-suất-đà-thiên,
5-Nimmānaratībhūmi: cõi trời Hoá-lạc-thiên,
6- Paranimmitavasavattībhūmi:cõi trời Tha- hoá-tự-tại-thiên.
1- Cātumahārājikābhūmi: Cõi Trời Tứ-Đại-Thiên-Vương:
Cõi trời Tứ-đại-thiên-vương là cõi thứ nhất trong 6 cõi trời dục-giới nằm vị trí từ khoảng giữa núi Sineru ngang bằng đỉnh núi Yugandhara xuống đến mặt đất tiếp xúc cõi người, là nơi mà toàn thể chư-thiên cõi trời này có 4 đức-thiên-vương trị vì tất cả chư-thiên trong cõi trời này, nên gọi Cātumahārājikā-bhūmi: cõi trời tứ đại-thiên-vương là 4 Đức-thiên-vương trị vì:
1- Đức-thiên-vương Dhataraṭṭha trụ ở hướng Đông của núi Sineru trị vì nhóm chư-thiên Gandhabba,
2- Đức-thiên-vươngViruḷhaka trụ ở hướng Nam của núi Sineru trị vì nhóm chư-thiên Kumbhaṇḍa,
3- Đức-thiên-vương Virūpakkha trụ ở hướng Tây của núi Sineru trị vì nhóm chư-thiên Nāga,
4- Đức-thiên-vương Kuvera hoặc Vessa-vaṇa trụ ở hướng Bắc của núi Sineru trị vì nhóm chư-thiên Yakkha.
Tất cả chư-thiên trong cõi trời Tứ-đại-thiên-vương đều là thuộc hạ của 4 Đức-vua-trời, có nhiều nhóm:
* Pabbataṭṭhadevatā: chư-thiên trú ở núi,
* Ākāsaṭṭhadevatā: chư-thiên ở trên hư không,
* Khiḍḍāpadosikadevatā: chư-thiên ham chơi quên ăn chết,
* Manopadosikadevatā: chư-thiên chết vì sân,
* Sītavalāhakadevatā: chư-thiên làm khí lạnh,
* Uṇhavalāhakadevatā: chư-thiên làm khí nóng,
* Candimādevaputtadevatā: chư-thiên ở trên mặt trăng,
* Suriyadevaputtadevatā: chư-thiên ở trên mặt trời…
Chư-thiên cõitrời Tứ-đại-thiên-vương nương nhờ 3 nơi gọi là:
1-Bhummaṭṭhadevatā: chư-thiên nương nhờ ở trên mặt đất,
2- Rukkhadevatā: chư-thiên nương nhờ ở trên cây,
3- Ākāsaṭṭhadevatā: chư-thiên nương nhờ ở trên hư-không.
1- Bhummaṭṭhadevatā chư-thiên nương nhờ ở trên mặt đất như thế nào?
Chư-thiên nương nhờ ở trên mặt đất như núi, sông, biển, xung quanh chùa, ngôi tháp, cội đại Bồ-đề, nhà nghỉ mát, nhà ở, v.v… nếu chư-thiên nương nhờ ở nơi nào thì nơi ấy là chỗ ở của mình.
2- Rukkhadevatā chư-thiên nương nhờ ở trên cây như thế nào?
Chư-thiên nương nhờ ở trên cây có 2 nhóm:
* Nhóm chư-thiên có lâu đài đặt trên ngọn cây,
* Nhóm chư-thiên có lâu đài đặt trên các cành cây xung quanh.
3- Ākāsaṭṭhadevatā chư-thiên nương nhờ ở trên hư-không như thế nào?
Chư-thiên nương nhờ ở trên hư-không, lâu đài lớn hoặc nhỏ của mỗi vị phát sinh bằng 7 loại báu do năng lực của dục-giới đại-thiện-nghiệp của mỗi vị chư-thiên.
Tuy nhiên, có những lâu đài phát sinh bằng 6 loại báu, hoặc 5 loại báu, thậm chí chỉ có 1 hoặc 2 loại báu, tất cả lâu đài ấy đều phát sinh do năng lực của dục-giới đại-thiện-nghiệp của mỗi vị chư-thiên.
4 Đức-thiên-vương mỗi vị có mỗi lâu đài to lớn bằng thất báu nguy nga lộng lẫy.
Tứ-đại-thiên-vương là 4 Đức-vua-trời hộ trì cõi người, nên gọi là Catulokapāla.
Chư-Thiên Ác Cõi Tứ-Đại-Thiên-Vương
Chư-thiên ác cõi Tứ-đại-thiên-vương có 4 nhóm:
1- Yakkha, yakkhī là nam yakkha, nữ yakkhī,
2- Gandhabba, gandhabbī là nam gandhabba, nữ gandhabbī,
3- Kumbhaṇḍa, kumbhaṇḍī là nam kumbhaṇḍa, nữ kumbhaṇḍī,
4- Nāga, nāgī là nam nāga, nữ nāgī.
1- Yakkhadevatā: Chư-thiên yakkha (dạ-xoa) có 2 nhóm:
* Yakkhadevatā là loài yakkha có thân hình xinh đẹp có hào quang như chư-thiên,
* Yakkhatiracchāna là loài yakkha có thânhình xấu xí không có hào quang như loài súc-sinh.
Chư-thiên yakkha này nếu khi phát sinh ác-tâm muốn hành hạ chúng-sinh địa-ngục thì hoá ra chúa địa-ngục hiện xuống cõi địa-ngục, hành hạ chúng-sinh địa-ngục, nếu muốn ăn thịt chúng-sinh địa-ngục thì hoá ra con kên kên, con quạ, con chó bắt chúng-sinh địa-ngục để ăn thịt.
Yakkha (dạ-xoa) thích ăn xác chết làm vật thực.
Nhóm yakkha, yakkhī này ở trong sự cai quản do Đức-vua-trời Kuvera hoặc Vessavaṇa.
2- Gandhabbadevatā (Chư-thiên gandhabba) có 2 nhóm :
* Nhóm chư-thiêngandhabba nương nhờ sinh trên cây có mùi thơm, rồi vĩnh viễn trú tại nơi cây ấy mãi mãi, dù cho cây ấy bị ngã hoặc bị chết vẫn không dời sang cây khác. Nếu người nào chặt cây ấy đem về làm nhà, đóng tủ, bàn ghế, v.v… làm bất cứ dụng cụ nào thì vị chư-thiên gandhabba ấy vẫn đi theo nương nhờ nơi vật dụng ấy.
Vì vậy, đôi khi chư-thiên gandhabba ấy hiện hình ra để chủ nhân nhìn thấy; đôi khi chư-thiên gandhabba ấy không hài lòng làm quấy nhiễu trong gia đình với nhiều cách như làm cho người trong nhà bị bệnh hoạn ốm đau, làm cho của cải tài-sản hư hao không rõ nguyên-nhân, v.v…
Chư-thiên gandhabba có tính chất khác với vị chư-thiênrukkhadevatā là vị chư-thiên cũng nương nhờ sinh trên cây, nhưng khi cây ấy chết hoặc bị người ta chặt cây ấy, vị chư-thiên rukkha-devatā sẽ dời sang nương nhờ nơi cây khác.
* Nhóm chư-thiêngandhabba nương nhờ nơi thân người, người ta thường gọi là người bị phi nhân nhập, hoặc người có người âm nhập. Người nào bị chư-thiêngandhabba nhập vào rồi, người ấy không còn tự chủ nữa, không biết mình, cho đến khi chư-thiêngandhabba xuất ra, thì người ấy mới trở lại bình thường như trước.
Nhóm chư-thiên gandhabba, gandhabbī này ở trong sự cai quản của Đức-vua-trời Dhataraṭṭha.
2- Kumbhaṇḍadevatā (Chư-thiên kumbhaṇḍa) có thân hình to lớn, mắt lồi màu đỏ, có 2 nhóm:
* Nhóm chư-thiên kumbhaṇḍa ở trong cõi người có phận-sự giữ gìn các kho báu, những viên ngọc quý báu, ngọc maṇi trên núi cao, ngôi bảo tháp, rừng rậm, cây cao to lớn, hồ nước lớn tự nhiên, các con sông sâu, v.v… những nơi nào mà Đức-thiên-vương truyền lệnh cho vịchư-thiên kumbhaṇḍa nào có phận-sự giữ gìn, nếu người nào xâm nhập vào nơi ấy thì vị chư-thiên kumbhaṇḍa ấy trừng phạt người ấy.
* Nhóm chư-thiên kumbhaṇḍa ở trong cõi địa-ngục, làm phận-sự chúa địa-ngục, chư-thiên kumbhaṇḍa hoá ra kên kênkumbhaṇḍa, quạ kumbhaṇḍa, chó kumbhaṇḍa hành hạ chúng-sinh
địa-ngục, hoặc bắt chúng-sinh địa-ngục để ăn thịt.
Nhóm chư-thiên kumbhaṇḍa, kumbhaṇḍī này ở trong sự cai quản của Đức-vua-trời Viruḷhaka.
4- Nāgadevatā (Chư-thiên nāga:long) ở dưới mặt đất và ở dưới núi gọi là paṭhavīdevatā.
Nāgadevatā có phép biến hoá do quả của nghiệp (vipāka-iddhi) có khả năng hoá ra thành người, chư-thiên, con cọp, sư tử, v.v… Nāga-devatā phát sinh ác-tâm thích hành hạ chúng-sinh địa-ngục giống như yakkhadevatā, kumbhaṇḍadevatā.
Nhóm chư-thiên nāga, nāgī này ở trong sự cai quản của Đức-vua-trời Virūpakkha.
Chư-thiên trong cõi Tứ-đại-thiên-vương có ác-tâm hung dữ, 4 nhóm này không những thích hành hạ các chúng-sinh khác, mà còn hành hạ đồng loại với nhau nữa.
Vì vậy, mỗi Đức-thiên-vương cai quản, trừng phạt mỗi nhóm.
Tóm lại chư-thiên trong cõiTứ-đại-thiên-vương có nhiều nhóm, có nhóm thiện, có nhóm ác, có nhóm chánh-kiến, có nhóm tà-kiến, có nhóm có đức-tin nơi Tam-bảo, có nhóm không có đức-tin nơi Tam-bảo, có nhóm hộ trì loài người, có nhóm quấy nhiễu loài người, v.v…
* Chư-thiêntrong cõiTứ-đại-thiên-vương có tuổi thọ 500 năm cõi trời, so với thời gian cõi người 9 triệu năm, bởi vì 1 ngày và 1 đêm bằng 50 năm cõi người.
2- Tāvatiṃsābhūmi:
Cõi Trời Tam-Thập-Tam-Thiên
Cõi trời Tam-thập-tam-thiên là cõi trời thứ nhì trong 6 cõi trời dục-giới nằm vị trí trên đỉnh núi Sineru.
Cõi trời Tam-thập-tam-thiên này có sự tích được tóm lược như sau:
Trong thời quá-khứ, một xóm nhà tên gọi là Macalagāma, có nhóm người sahapuññakārī (nhóm cùng làm phước-thiện với nhau) gồm có 33 người đàn ông, người đứng đầu tên là Māghamānava.
Nhóm 33 người này cùng nhau làm vệ sinh xung quanh xóm làng, các đường sá, các ngõ hẻm đều sạch sẽ, để thuận tiện cho mọi người qua lại. Trên các con đường, rải rác làm chỗ đặt nồi nước sạch, để cho mọi người qua lại uống nước, xây dựng trại nghỉ chân dọc đường, để cho những người qua lại có chỗ nghỉ chân.
Nhóm 33 người này đồng tâm nhất trí với nhau làm mọi phước-thiện, cho nên sau khi nhóm 33 người này chết, dục-giới đại-thiện-nghiệp ấy cho quả tái-sinh kiếp sau lên cõi trời dục-giới thứ nhì, tiền-kiếp của Māghamānavatrở thành Đức-vua-trời Inda hoặc Đức-vua-trời Sakka và tiền-kiếp của 32 người bạn thân trở thành 32 vị chư-thiên bậc cao trên cõi trời dục-giới thứ nhì.
Vì vậy, cõi trời dục-giới thứ nhì gọi là Tāvatiṃsābhūmi:cõi trời Tam-thập-tam-thiên (cõi trời 33 vị chư-thiên).
Vấn: Ngoài cõi tam-giới này ra, còn các cõi tam-giới khác có tên gọi là cõi trời Tam-thập-tam-thiên hay không?
Đáp: Các cõi tam-giới khác, cõi trời dục-giới thứ nhì cũng bắt chước tên gọi là cõi trời Tam-thập-tam-thiên.
Vị Trí Của 6 Cõi Trời Dục-Giới
1- Cõi trời Tứ-đại-thiên-vương nằm vị trí ở khoảng giữa núi Sineru, cách mặt đất loài người khoảng 42.000 do-tuần (yojana),
2- Cõi trời Tam-thập-tam-thiên nằm vị trí ở trên đỉnh núi Sineru, cách cõi trời Tứ-đại-thiên-vương khoảng 42.000 do-tuần (yojana),
3- Cõi trời Dạ-ma-thiên nằm ở trên hư không cao cách cõi trời Tam-thập-tam-thiên khoảng 42.000 do-tuần (yojana),
4- Cõi trời Đâu-suất-đà-thiên nằm ở trên hư không cao cách cõi trời Dạ-ma-thiên khoảng 42.000 do-tuần (yojana),
5- Cõi trời Hoá-lạc-thiên nằm ở trên hư không cao cách cõi trời Đâu-suất-đà-thiên khoảng 42.000 do-tuần (yojana),
6- Cõi trời Tha-hoá-tự-tại-thiên nằm ở trên hư không cao, cách cõi trời Hoá-lạc-thiên khoảng 42.000 do-tuần (yojana).
Cõi trời Tam-thập-tam-thiênnằm vị trí ở trên đỉnh núi Sineru có bề mặt diện tích hình vuông mỗi cạnh khoảng 42.000 do-tuần (yojana),
ngay trung tâm có kinh thành Sudassana bề rộng mỗi cạnh 10.000 do-tuần, tất cả mặt bằng trên đỉnh núi Sineru thành-tựu bằng thất báu.
Toàn thể chư-thiên trong cõi trời Tam-thập-tam-thiên có 2 nhóm: nhóm bhummaṭṭhadevatā và nhóm ākāsaṭṭhadevatā.
* Nhóm bhummaṭṭhadevatā đó là Đức-vua-trời Inda và 32 vị thiên nam cao quý cùng với nhóm chư-thiên thuộc hạ và 5 nhóm chư-thiên a-su-ra trú ngụ dưới núi Sineru cũng ở trong nhóm lớn bhummaṭṭhadevatā.
* Nhómākāsaṭṭhadevatā có những lâu đài nổi trong hư không phía trên đỉnh núi Sineru.
Trung tâm kinh thành Sudassana có đại lâu đài Vejayanta là nơi ngự của Đức-vua-trời Sakka.
* Hướng Đông của kinh thành Sudassana có khu vườn Nandavana rộng 1000 do-tuần, trong vườn có 2 hồ nước: hồ lớnMahānanda và hồ Cūḷananda, xung quanh hồ nước lát đá quý, để ngồi nghỉ ngơi.
* Hướng Tây của kinh thành Sudassana có khu vườn Cittaladā rộng 500 do-tuần, có 2 hồ nước: hồ lớn Vicitta và hồ cūḷacitta,
* Hướng Bắc của kinh thành Sudassana có khu vườn Missakavana rộng 500 do-tuần, có 2 hồ nước: hồDhammā và hồ Sudhammā,
* Hướng Nam của kinh thành Sudassana có khu vườn Phārusakavana rộng 700 do-tuần, có 2 hồ nước: hồ Bhaddā và hồ Subhaddā.
Khu vườn 4 hướng này là nơi du ngoạn tiêu khiển của chư-thiên cõi trời Tam-thập-tam-thiên.
* Hướng Đông Bắc của kinh thành Sudassana có 2 khu vườn: khu vườn Puṇḍarika không rõ bề rộng và khuvườn Mahāvana rộng 700 do-tuần.
Cūḷāmaṇi Cetiya Và Sudhammasabhā
* Khu vườn Puṇḍarika có cây pārichatta hoặc parijāta cao 100 do-tuần có cành vươn rộng ra 50 do-tuần, khi đến mùa trổ hoa có mùi thơm toả ra xa 100 do-tuần.
Phía dưới tàng câypārichatta có tấm đá quý làm chỗ ngồi gọi là Paṇḍukambalasilā bề ngang 50 do-tuần, bề dọc 60 do-tuần, bề dày 15 do-tuần có màu đỏ hồng như màu hoa.
* Ngôi bảo-thápCūḷāmaṇicetiya nơi tôn thờ Xá-lợiRăng nhọn bên phải của Đức-Phật Gotama và nắm tóc của Đức-Bồ-tát Siddhattha, khi Đức-Bồ-tát đi xuất gia, cắt tóc ném lên hư không. Khi ấy, Đức-vua-trời Sakka hiện xuống, hứng đón nhận nắm tóc, đem về tôn thờ trên ngôi bảo-tháp Cūḷāmaṇi này.
* Hội-trường Sudhammasabhā là nơi mà tất cả chư-thiên tụ hội nghe pháp hoặc đàm đạo pháp tại cõi trời Tam-thập-tam-thiên.
* Khu vườnMahāvana có hồ nước rộng tên gọi là Sunandā và có lâu đài nguy nga tráng lệ là nơi du ngoạn tiêu khiển của Đức-vua-trời Sakka.
Tính Chất Cõi Trời Tam-Thập-Tam-Thiên
Chư-thiên là thiên-nam, hoặc thiên-nữ trong cõi trời Tam-thập-tam-thiên có những tính chất đặc biệt như sau:
* Nếu là thiên-nam thì có thân hình dáng dấp trẻ trung trong độ tuổi 20, và nếu là thiên-nữ thì có thân hình trẻ đẹp trong độ tuổi 16. Tất cả mọi thiên-nam, thiên-nữ vẫn duy trì độ tuổi ấy cho đến hết tuổi thọ 1.000 năm tuổi trời, so với thời gian trong cõi người là 36 triệu năm, bởi vì 1 ngày 1 đêm trong cõi trời Tam-thập-tam-thiên bằng 100 năm trong cõi người.
Tất cả mọi thiên-nam, thiên-nữ trong cõi trời Tam-thập-tam-thiên không có già, bệnh, tóc bạc, răng rụng, da nhăn, v.v… vẫn duy trì sự trẻ trung, xinh đẹp cho đến hết tuổi thọ (chết) biến mất không có thi thể.
* Vật thực, nước uống của tất cả mọi thiên-nam, thiên-nữ là vô cùng vi tế, cho nên trong thân thể không có thải ra các chất cặn bã, nghĩa là không có tiểu tiện, đại tiện. Các thiên nữ không có kinh nguyệt, không có thai,bởi vì thiên-nam, thiên-nữ trong cõi trời Tam-thập-tam-thiên đều hoá sinh. (Tuy nhiên cũng có số ít thiên-nữ trong cõi bhūmmaṭṭha-devatā giống như người-nữ trong cõi người).
Theo lệ thường, chư-thiên trong cõi trời Tam-thập-tam-thiên này:
* Nếu thiên-nam, thiên-nữ là con thì hoá-sinh tại nơi vế của vị chư-thiên,
* Nếu thiên-nữ là vợ thì hoá-sinh tại chỗ nằm của vị thiên-nam. Mỗi vị thiên-nam có 500, 700, 1.000, v.v… thiên-nữ làm vợ.
* Nếu thiên-nam, thiên-nữ là vị hầu hạ thì hoá-sinh xung quanh chỗ nằm của vị chư-thiên,
* Nếu thiên-nam, thiên-nữ là vị giúp công việc thì hoá-sinh trong lâu đài, hoặc trong phạm vi lâu đài của vị chư-thiên,
* Nếu thiên-nam, thiên-nữ hoá-sinh ở khoảng bên ngoài giữa 2 lâu đài của 2 vị chư-thiên, nếu có sự tranh chấp giữa 2 vị chư-thiên muốn thiên-nam hoặc thiên-nữ ầy là thuộc hạ của mình thì dẫn nhau đến hầu Đức-vua-trời Sakka phán xét.
Đức-vua-trời phán xét rằng:
“Vịthiên-nam, hoặc thiên-nữ ấy hiện ra gần với lâu đài của vị chư-thiên nào thì thiên-nam, hoặc thiên-nữ ấy thuộc về vị chư-thiên ấy.”
“Vịthiên-nam, hoặc thiên-nữ ấy hiện ra ngay khoảng giữa 2 lâu đài của 2 vị chư-thiên, nếu thiên-nam, hoặc thiên-nữ nhìn về hướng lâu đài vị chư-thiên nào thì thuộc về vị chư-thiên ấy.”
“Vịthiên-nam, hoặc thiên-nữ ấy hiện ra ngay chính khoảng giữa 2 lâu đài của 2 vị chư-thiên, nếu thiên-nam, hoặc thiên-nữ nhìn thẳng, không hướng về lâu đài của vị chư-thiên nào thì thiên-nam, thiên-nữ ấy thuộc về của Đức-vua-trời.”
Các thiên-nam, các thiên-nữ trên cõi trời Tam-thập-tam-thiên có hào quang toả ra rộng lớn khác nhau, có những đồ trang sức các loại châu báu quý giá khác nhau, có lâu đài to lớn nguy nga tráng lệ khác nhau, có thân hình xinh đẹp sạch sẽ, v.v…tiếp xúc với các đối-tượng tốt, đó là do quả của các phước-thiện khác nhau, khác với loài người có thân hình ô-trọc.
Cho nên, chư-thiên nếu tiếp xúc với mùi của loài người thì dù cách xa 100 do-tuần vẫn không thể chịu đựng nổi.
Cõi trời Tam-thập-tam-thiên có toàn những đối-tượng tốt thật vô cùng hoan hỷ mà trong cõi người không sao sánh được, nhất là khu vườn Nandavana là nơi thật vô cùng hoan hỷ bậc nhất
trong cõi trời Tam-thập-tam-thiên.
Thật vậy, thiên-nam, thiên-nữ nào có nỗi khổ tâm vì lo sợ chết, nếu khi đi đến du ngoạn tiêu khiển trong khuvườn Nandavana thì cảm nhận vô cùng hoan hỷ, nên không còn khổ tâm nữa.
Đức-Vua-Trời Sakka
Đức-Vua-Trời Sakka là đức-vua cao cả nhất trong cõi trời Tam-thập-tam-thiên và cõi trời Tứ-đại-thiên-vương. Đức-Vua-Trời Sakka ngự tại lâu đài bằng vàng gọi là Vejayanta trong cõi trời Tam-thập-tam-thiên. Lâu đàiVejayanta cao 1000 do-tuần có những cây cột cờ cao 300 do-tuần cẩn bằng thất báu cắm xung quanh lâu đài.
* Đức-Vua-Trời Sakka có chiếc xe cũng có tên Vejayanta, phía trước xe là chỗ ngồi của vị thiên-nam lái xe Mātali dài 50 do-tuần, phần giữa xe là chỗ ngồi của Đức-Vua-Trời Sakka dài 50 do-tuần, phía sau xe dài 50 do-tuần, chiếc xe Vejayanta gồm có chiều dài 150 do-tuần, bề rộng 50 do-tuần. Chiếc ngai của Đức-Vua-Trời Sakka trên chiếc xe thành-tựu bằng thất báu có chiều cao 1 do-tuần, bề rộng 1 do-tuần, phía trên có chiếc lọng lớn 3 do-tuần, có 1.000 con ngựa báu trang hoàng những đồ trang sức quý giá để kéo chiếc xeVejayanta. (1.000 con ngựa báu không phải là loài súc-sinh mà chính là thiên-nam trên cõi trời biến hoá ra con ngựa báu.)
* Nếu khi Đức-Vua-Trời Sakka muốn cỡi voi thì có con voi báu Erāvaṇa to lớn 150 do-tuần được trang hoàng lộng lẫy, voi báu Erāvaṇa này không phải là loài súc-sinh mà chính là vị thiên-nam biến hoá ra voi báu, …
Để trở thành Đức-Vua-Trời Sakka cần phải thực-hành 7 pháp:
1- Nuôi dưỡng cha mẹ một cách cung kính và chu đáo,
2- Tôn kính bậc trưởng lão trong dòng họ và người trong đời,
3- Nói năng dịu dàng lễ phép đối với mọi người
4- Không nói lời chia rẽ mà nói lời hoà thuận,
5- Không có tính keo kiệt trong của cải tài-sản của mình mà hoan-hỷ làm phước-thiện bố-thí,
6- Có tính chân thật với mình và mọi người,
7- Chế ngự được tính sân hận.
Cõi Trời Tam-Thập-Tam-Thiên
Cõi trời Tam-thập-tam-thiên có kinh thành Sudassana, 4 khu vườn giải trí công cộng, đặc biệt có 2 khu vườn Puṇḍarika và Mahāvana,
Khu vườn Mahāvana là nơi mà Đức-Vua-Trời Sakka đến du lãm giải trí.
* Khu vườn Puṇḍarika là nơi đặc biệt quan trọng hơn các nơi khác, bởi vì có ngôi bảo-tháp Cūḷāmaṇicetiya, nơi tôn thờ Xá-lợi của Đức-Phật Gotama, tảng đá Paṇḍukambalasilā dưới tàn cây Parichatta mà Đức-Phật Gotama đã từng ngự đến ngồi thuyết Abhidhammapiṭaka: Tạng Vi-Diệu-Pháp gồm có 7 bộ, trong mùa hạ thứ 7 của Đức-Phật tại cung trời Tam-thập-tam-thiên và hội-trường Sudhammasabhā là nơi mà tất cả chư-thiên tụ hội nghe pháp hoặc đàm đạo pháp.
Hội-Trường Sudhammasabhā
Hội-trường Sudhammasabhā nằm gần cây Parichatta. Cây Parichatta mỗi năm trổ hoa một lần, khi đến thời-kỳ trổ hoa, lá cây trở thành màu vàng, nhìn thấy lá màu vàng như vậy, thiên-nam, thiên-nữ vui mừng hoan hỷ sẽ được nhìn thấy hoa parichatta, đến khi gần trổ hoa, tất cả lá vàng đều rụng cả, tiếp theo toàn câyparichatta trổ hoa màu đỏ toả ra ánh sáng xung quanh 500 do-tuần, mùi thơm của hoa theo chiều gió 100 do-tuần.
Hội-trường Sudhammasabhā là nơi mà các thiên-nam, thiên-nữ hoan-hỷ tụ hội lắng nghe thuyết-pháp hoặc đàm đạo pháp có Đức-Vua-Trời Sakka chủ trì.
* Hội-trường Sudhammasabhā được thành-tựu bằng thất báu, có chiều cao 500 do-tuần, rộng 300 do-tuần, nền lát bằng ngọc quý, cột bằng vàng, v.v… tất cả đều thành-tựu bằng 7 thứ báu.
Bên trong hội-trường, phía trên ngay ở giữa có một pháp-toà thành-tựu bằng thất báu quý giá cao 3 do-tuần, để vị Pháp sư ngồi thuyết pháp.
Phía dưới có chỗ ngồi của Đức-Vua-Trời Sakka, kế tiếp 32 chỗ ngồi của 32 vị thiên-nam bậc cao và tiếp theo các thiên-nam, thiên-nữ theo thứ tự từ cao đến thấp.
Khi đến thời-kỳ nghe pháp tại hội trưòngSudhammasabhā, Đức-Vua-Trời Sakka thổi tù- và bằng vỏ ốc gọi là vijayuttara dài 140 cùi tay, tiếng tù-và vang xa trong kinh thành Sudassana, ngoài kinh thành, và thổi tù-và chỉ một lần, âm thanh kéo dài lâu 4 tháng của cõi người.
Tất cả thiên-nam, thiên-nữ ở trong cõi trời Tam-thập-tam-thiên này nghe tiếng tù-và báo hiệu, tất cả thiên-nam, thiên-nữ khắp mọi nơi đều đến hội-trườngSudhammasabhā.
Đức-Vua-Trời Sakka ra khỏi lâu đài Vejayanta cùng với 4 Chánh-cung-hoàng-hậu là Nandā, Cittā, Sudhammā, Sujā lên voi báu Eravaṇa dẫn đầu tất cả thiên-nam, thiên-nữ ngự đến hội-trường Sudhammasabhā.
Pháp-sư là vị phạm-thiên Sunaṅkumāra từ cõi phạm-thiên hiện xuống thuyết-pháp, nếu khi vị phạm-thiên không hiện xuống thì Đức-Vua-Trời Sakka sẽ thay thế thuyết-pháp hoặc vị thiên nam nào có khả năng cũng thuyết-pháp được.
Đức-Vua-Trời Sakka Tủi Phận
Đức-Vua-Trời Sakka có uy quyền bậc nhất trong cõi trời Tam-thập-tam-thiên tư duy rằng:
Ta là Đức-vua-trời là do nhờ quả báu của mọi phước-thiện mà tiền-kiếp của ta đã tạo trong thời-kỳ không có Phật-giáo, nên hào quang, những món đồ trang sức, lâu đài, … của ta không thể sánh với các thiên-nam mà tiền-kiếp của họ đã tạo mọi phước-thiện trong thời-kỳ có Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, nên các thiên-nam ấy có hào quang sáng choang cả hội trường, có những món đồ trang sức quý giá lộng lẫy, thậm chí có những lâu đài cũng nguy nga tráng lệ hơn ta gấp bội.
Vậy, ta nên tìm cơ-hội để tạo phước-thiện bố-thí cúng-dường đến các Ngài đại-trưởng-lão có giới-đức cao thượng.
Với thiên-nhãn đặc biệt hơn toàn thể chư-thiên trong cõi trời Tam-thập-tam-thiên, Đức-Vua-Trời Sakka thấy rõ biết rõ Ngài đại-trưởng-lão Mahākassapa nhập diệt-thọ-tưởng (nirodha-samāpatti) suốt 7 ngày đêm, Ngàiđại-trưởng-lão vừa xả diệt-thọ-tưởng.
Theo lệ thường, sau khi xả diệt-thọ-tưởng, Ngài đại-trưởng-lão đi khất thực đến tế độ người nghèo khổ, để cho họ có được vô-lượng phước-thiện bố-thí và có được vô-lượng quả báu cao quý.
Sau khi, thấy rõ biết rõ như vậy, nên Đức-Vua-Trời Sakka truyền gọi Chánh-cung-hoàng-hậu Sujā cùng nhau xuất hiện xuống cõi người, hoá thân thành hai ông bà lão thợ dệt nghèo khổ trong một căn nhà lá đầu đường trên con đường mà Ngài đại-trưởng-lão Mahākassapa sẽ đi khất thực ngang qua.
Ngài đại-trưởng-lão Mahākassapa đi đến nhìn thấy căn nhà lá nghĩ rằng: Hai ông bà thợ dệt này già cả như thế mà còn phải làm việc, chắc hẳn là người nghèo khổ nên tế độ.
Nhìn thấy Ngài đại-trưởng-lão đứng trước cổng nhà, ông lão đi ra đảnh lễ dưới hai bàn chân của Ngài, rồi xin nhận cái bát.
Ngài đại-trưởng-lão trao cái bát với tâm bi, ông lão cung-kính đón nhận cái bát vào nhà, bỏ đầy vật thực ngon lành với vị trời, hai ông bà lão cùng nhau đem ra kính dâng lên Ngài đại-trưởng-lão Mahākassapa cái bát bốc lên mùi thơm tho của vật thực toả ra khắp kinh thành Rājagaha.
Khi nhận cái bát, Ngài đại-trưởng-lão suy xét rằng: “Hai ông bà lão này là ai mà có món vật thực như vật thực của Đức-vua-trời vậy!”
Ngài đại-trưởng-lão biết ngay hai ông bà lão này chính là Đức-Vua-Trời Sakka và Chánh-cung hoàng-hậu Sujā hoá thân thành hai ông bà lão nghèo khổ như vậy. Ngài đại-trưởng-lão quở trách rằng:
– Này Đức-Vua-Trời Sakka! Đức-vua đã giành cơ-hội của người nghèo khổ, đã làm việc không nên làm, đối với địa vị cao cả như Đức-vua-trời!
Nghe Ngài đại-trưởng-lão Mahākassapa trách như vậy, Đức-Vua-Trời Sakka kính bạch rằng:
– Kính bạch Ngài đại-trưởng-lão, chúng con cũng là phận nghèo nàn trên cõi trời Tam-thập-tam-thiên. Tuy con là Đức-vua-trời, nhưng hào quang, đồ trang sức, lâu đài,…. không thể sánh với các thiên-nam mà tiền-kiếp của họ đã tạo mọi phước-thiện trong thời-kỳ có Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, nên các thiên-nam ấy có hào quang sáng choang cả hội trường, có những món đồ trang sức quý giá lộng lẫy, thậm chí có những lâu đài cũng nguy nga tráng lệ hơn chúng con gấp bội.
Cho nên, chúng con cũng là phận nghèo nàn. Bạch Ngài.
Ngài đại-trưởng-lão Mahākassapa dạy rằng:
– Này Đức-Vua-Trời Sakka! Từ nay đức-vua không nên lừa cúng-dường lão Tăng như vậy nữa.
– Kính bạch Ngài đại-trưởng-lão, nếu chúng con lừa cúng-dường lên Ngài đại-trưởng-lão như vậy thì chúng con có được phước-thiện hay không? Bạch Ngài.
– Này Đức-Vua-Trời Sakka! Đức-vua vẫn có được phước-thiện vậy.
Đức-Vua-Trời Sakka và Chánh-cung-hoàng-hậu Sujātā vô cùng hoan hỷ, thành kính đảnh lễ Ngài đại-trưởng-lão Mahākassapa, rồi xin phép hồi cung trời Tam-thập-tam-thiên. Đức-Vua-Trời Sakka và Chánh-cung-hoàng-hậu Sujā bay lên hư không thốt lên lời hoan-hỷ 3 lần rằng:
“- Aho dānaṃ paramadānaṃ Kassape supaṭiṭ-ṭhitaṃ!
– Aho dānaṃ paramadānaṃ Kassape supaṭiṭ-ṭhitaṃ!
– Aho dānaṃ paramadānaṃ Kassape supatiṭ-ṭhitaṃ!”([19])
“A! hạnh phúc quá! Phước-thiện mà chúng ta đã tạo do nương nhờ nơi Ngài đại-trưởng-lão Mahākassapa, thật là phước-thiện bố-thí cao quý nhất, vững chắc nhất.” (3 lần).
Do nhờ năng lực của phước-thiện bố-thí cúng-dường đến Ngài đại-trưởng-lão Mahākassapa, từ đó, Đức-Vua-Trời Sakka có hào quang sáng ngời,có những món đồ trang sức quý giá lộng lẫy, thậm chí có những lâu đài cũng nguy nga tráng lệ không thua kém thiên-nam nào trong cõi trời Tam-thập-tam-thiên.
Đức-Vua-Trời Sakka Trở Thành Bậc Thánh-Nhập-Lưu
Một thuở nọ Đức-Thế-Tôn ngự tại động núi Veriyaka miền bắc của xóm làng Ambasaṇḍa hướng Bắc của kinh thành Rājagaha. Khi ấy, Đức-Vua-Trời Sakka thấy 5 hiện tượng gần chết của chư-thiên, nên phát sinh tâm sợ chết, Đức-Vua-Trời Sakka ngự xuống cõi người cùng với vị thiên-nam Pañcasikha đến hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, bạch hỏi 14 câu hỏi.
Đức-Thế-Tôn truyền dạy giải đáp xong 14 câu hỏi.([20]) Đức-Vua-Trời Sakka chứng-ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu-Thánh-đạo, Nhập-lưu-Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-Nhập-lưu,
Đức-Vua-Trời Sakka thành kính đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, xin phép hồi cung trở về cõi trời Tam-thập-tam-thiên. Ngay tại nơi ấy, Đức-Vua-Trời Sakka chuyển kiếp (cuti: chết), rồi hoá-sinh kiếp sau (paṭisandhi) trở lại Đức-Vua-Trời Sakka (kiếp mới).
Kiếp Vị-Lai Của Đức-Vua-Trời Sakka
* Trong thời kỳ vị lai, khi Đức-Vua-Trời Sakka hết tuổi thọ ở cõi trời Tam-thập-tam-thiên sẽ chuyển kiếp (cuti: chết), rồi tái-sinh kiếp sau (paṭisandhi) xuống làm người trong cõi người, sẽ trở thành Đức-vua-chuyển-luân-thánh-vương,sẽ trở thành bậc Thánh-Nhất-laitại cõi người.
* Khi Đức-vua-chuyển-luân-thánh-vương hết tuổi thọ tại cõi người sẽ chuyển kiếp (cuti: chết), rồi hoá-sinh kiếp sau (paṭisandhi) lên cõi trời Tam-thập-tam-thiên, làm vị thiên-nam, rồi sẽ trở thành bậc Thánh-Bất-lai chứng đắc đến đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm, sau khi đó sẽ chuyển kiếp (cuti: chết), đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-nghiệp cho quả hoá-sinh kiếp sau (paṭisandhi) lên 5 cõitrời sắc-giới Suddhāvāsa: Tịnh-cư-thiên, hết tuổi thọ cõi trời bậc thấp hoá-sinh kiếp sau lên cõi trời bậc cao theo tuần tự, từ cõi Avihā, đến cõi Atappā, cõi Sudassā, cõi Sudassī,cho đến cõi Akaniṭṭhā cuối cùng.
* Trong cõi trời sắc-giớiAkaniṭṭhā, hậu kiếp của Đức-Vua-Trời Sakka sẽ trở thành bậc Thánh-A-ra-hán, rồi sẽ tịch diệt Niết-bàn tại cõi sắc-giới này, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong tam-giới.
(Theo chú-giải bộ Dī. Mahāvaggaṭṭhakathā, kinh Sakkapañhāsuttavaṇṇanā).
Tích Thiên-Nam Rāhu-Asurinda([21])
Trong cõi trời Tam-thập-tam-thiên có vị thiên-nam tên Rāhu-asurinda có thân hình to lớn nhất trong 6 cõi trời dục-giới.
Thân hình của vị thiên-nam Rāhu-asurinda có chiều cao 4.800 do-tuần, 2 vai rộng 112 do-tuần, chiều rộng vòng quanh thân hình có 600 do-tuần, 2 bàn tay, 2 bàn chân mỗi bàn lớn 200 do-tuần, ngón tay dài 50 do-tuần, cái đầu to 900 do-tuần, trán rộng 30 do-tuần, 2 con mắt khoảng cách 50 do-tuần, lỗ mũi dài 300 do-tuần, miệng rộng 300 do-tuần.
Vị thiên-nam Rāhu-asurinda có thân hình to lớn là vị phó-vương trong cung điện của loài a-su-ra-kā-ya ở phía dưới núi Sineru. Khi nghe các chư-thiên tán dương ca tụng ân-đức của Đức-Phật Gotama, vị thiên-nam Rāhu-asurinda cũng muốn hiện xuống cõi người đến hầu Đức-Phật Gotama, nhưng suy nghĩ rằng:
“Ta có thân hình to lớn như thế này, nếu hiện xuống hầu Đức-Phật Gotama với thân hình nhỏ bé thì ta không thể cúi mặt nhìn thấy Đức-Phật được. Do suy nghĩ như vậy, nên không đến hầu Đức-Phật.”
Một thời gian sau, nghe toàn thể chư-thiên đều tán dương ca tụng ân-đức của Đức-Phật Gotama vô lượng, nên vị thiên-nam Rāhu-asurinda suy nghĩ rằng:
“Đức-Phật Gotama có 32 tướng của bậc đại-nhân, có ân-đức vô thượng như thế nào? vả lại Đức-Phật xuất hiện trên thế gian là điều khó, rất hy hữu. Vậy, ta cũng nên cố gắng đến hầu Đức-Phật Gotama một lần cho biết.”
Khi ấy, biết rõ điều suy xét của thiên-nam Rāhu-asurinda, Đức-Phật nghĩ rằng:
Khi thiên-nam Rāhu-asurinda đến hầu, Như-lai nên ở trong oai nghi nào trong 4 oai nghi đi, đứng, ngồi, nằm. Con người đứng hoặc ngồi dù thấp cũng như cao. Vậy, Như-lai nên ở trong oai nghi nằm nghiêng bên phải (Tathāgataseyyā), để thiên-nam Rāhu-asurinda nhìn thấy Như-lai trong oai nghi nằm nghiêng bên phải ấy.
Sau khi nghĩ như vậy, Đức-Phật truyền bảo Ngài Đại-đức Ānanda rằng:
– Này Ānanda! Con nên đặt chiếc giường nằm của Như-lai bên ngoài gần trước cửa cốc gandhakuṭi này, Như-lai sẽ nằm ở chỗ ấy.
Vâng lời Đức-Thế-Tôn, Ngài Đại-đức Ānanda đặt chiếc giường gần trước cửa cốc gandhakuṭi xong, Đức-Thế-Tôn ngự đến nằm nghiêng bên phải, tay phải chống cái đầu.
Khi ấy, vị thiên-nam Rāhu-asurinda từ trên cõi trời Tam-thập-tam-thiên hiện xuống hầu Đức-Thế-Tôn, đứng ngửa mặt lên chấp 2 tay trên trán nhìn Đức-Phật, như đứa bé ngửa mặt nhìn lên mặt trăng trên hư không. Đức-Thế-Tôn truyền hỏi rằng:
– Này Rāhu-asurinda! Ngươi đứng nhìn thấy Như-lai như thế nào?
Vị thiên-nam Rāhu-asurinda bạch với Đức-Thế-Tôn rằng:
– Kính bạch Đức-Thế-Tôn, Con không biết Đức-Thế-Tôn có nhiều oai lực vô thượng phi thường như thế này, thế mà con tưởng rằng: con không thể cúi mặt mình nhìn thấy được, nên trước đây con không đến hầu Đức-Thế-Tôn.
– Này Rāhu-asurinda! Khi tạo tất cả mọi pháp-hạnh ba-la-mật, Như-lai không hề cúi mặt rụt rè tạo các pháp-hạnh ba-la-mật, không hề thoái chí nản lòng tạo, bồi bổ các pháp-hạnh ba-la-mật cho được đầy đủ trọn vẹn. Vì vậy, những chúng-sinh có ý muốn nhìn thấy Như-lai, không cần phải cúi mặt xuống nhìn thấy Như-lai, như ngươi suy nghĩ.
Thấy rõ biết rõ vị thiên-nam Rāhu-asurinda phát sinh đức-tin trong sạch, nên Đức-Phật thuyết-pháp tế độ vị thiên-nam Rāhu-asurinda.
* Sau khi lắng nghe Đức-Phật thuyết-pháp xong, vị thiên-nam Rāhu-asurinda phát sinh đức-tin trong sạch kính xin quy y nương nhờ nơi Đức-Thế-Tôn, Đức-Pháp-bảo, chư tỳ-khưu-Tăng-bảo đến trọn kiếp.
Vị thiên-nam Rāhu-asurinda kính lễ Đức-Phật, xin phép trở về cõi trời Tam-thập-tam-thiên.
* Chư-thiêntrong cõi trời Tam-thập-tam-thiên có tuổi thọ 1.000 năm cõi trời, so với thời gian cõi người 36 triệu năm, bởi vì 1 ngày và 1 đêm bằng 100 năm cõi người.
3- Yāmābhūmi: Cõi Trời Dạ-Ma-Thiên
Cõi trời Dạ-ma-thiên là cõi trời thứ ba nằm ở trên hư không cao cách cõi trời Tam-thập-tam-thiên khoảng 42.000 do-tuần (yojana).
Tất cả chư-thiên trong cõi trời này không có khổ, có sự an lạc, nên gọi là Yāmābhūmi: cõi trời Dạ-ma-thiên .
Đức-vua-trời Suyāma hoặc Đức-vua-trời Yāma trị vì toàn thể chư-thiên trong cõi trời Dạ-ma-thiên.
Tất cả chư-thiên trong cõi trời Dạ-ma-thiên này không có nhóm bhummaṭṭhadevatā mà chỉ có nhóm chư-thiên ākāsaṭṭhadevatā mà thôi. Tất cả chư-thiên có thân hình, hào quang, lâu đài, các món đồ trang sức, v.v… hưởng mọi sự an lạc trong cõi trời này vi tế hơn cõi trời Tam-thập-tam-thiên.
* Chư-thiêntrong cõi trời Dạ-ma-thiên có tuổi thọ 2.000 năm cõi trời, so với thời gian cõi người 144 triệu năm, bởi vì 1 ngày và 1 đêm bằng 200 năm cõi người.
4-Tusitābhūmi: Cõi Trời Đâu-Suất-Đà-Thiên
Cõi trời Đâu-suất-đà-thiên là cõi trời thứ tư nằm ở trên hư không cao cách cõi trời Dạ-ma-thiên khoảng 42.000 do-tuần (yojana).
Toàn thể chư-thiên trong cõi trời Đâu-suất-đà-thiên có tâm hoan-hỷ và luôn luôn vui tươi an lạc trong cõi trời, nghĩa là chư-thiên không có khổ tâm chỉ có tâm thường an lạc mà thôi. Vì vậy, cõi trời này gọi là Tusitābhūmi:cõi trờiĐâu-suất-đà-thiên rất cao quý.
Thật vây, tất cả chư Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác khi đã hoàn thành đầy đủ trọn vẹn 30 pháp-hạnh ba-la-mật: 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc hạ, 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc trung, 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc thượng chắc chắn sẽ trở thành Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác.
Chư Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác ấy kiếp áp chót đều hoá-sinh làm vị thiên-nam Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác trên cõi trời Đâu-suất-đà-thiên này chờ đợi đến thời-kỳ đúng lúc, hợp thời sẽ tái-sinh kiếp sau làm người trong cõi người, để trở thành Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác.
Trong kiếp trái đất này gọi là bhaddakappa thật vô cùng diễm phúc gồm có 5 Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác xuất hiện trên thế gian.
Trong thời quá-khứ đã có 3 Đức-Phật đã xuất hiện là Đức-Phật Kakusandha, Đức-Phật Koṇā-gamana, Đức-Phật Kassapa; trong thời hiện-tại Đức-Phật Gotama của chúng ta đã xuất hiện, giáo-pháp của Đức-Phật vẫn đang còn lưu truyền trên thế gian, và trong thời kiếp vị-lai Đức-Phật Metteyya sẽ xuất hiện trên thế gian cùng trong kiếp trái đất này.
Vấn: Trong thời vị lai đến thời-kỳ nào Đức-Phật Metteyya sẽ xuất hiện trên thế gian cùng trong kiếp trái đất này ?
Đáp: Trong thời hiện-tại Phật-lịch 2557 năm, giáo-pháp của Đức-Phật Gotama đang còn lưu truyền trên thế gian cho đến Phật-lịch 5000 năm, giáo-pháp của Đức-Phật hoàn toàn bị tiêu hoại, bởi vì các hàng thanh văn đệ tử của Đức-Phật trong cõi người này, không còn một ai biết đến Phật-giáo nữa.
Từ đó, ác-pháp càng ngày càng tăng trưởng, ngược lại thiện-pháp càng ngày càng suy giảm, nên tuổi thọ của con người càng ngày càng giảm dần, giảm dần cho đến khi tuổi thọ của loài người chỉ còn 10 năm mà thôi.
Khi ấy, một thảm hoạ khủng khiếp sẽ xảy ra, loài người chém giết lẫn nhau vô cùng tàn khốc, không phân biệt cha mẹ, con cái, bà con thân quyến, một số người hoảng sợ chạy trốn vào rừng núi thoát thân.
Biết nạn chém giết không còn nữa, số người còn sống sót ấy gặp lại nhau cam kết không sát hại nhau nữa. Từ đó, con người biết hổ-thẹn tội lỗi, biết ghê-sợ tội lỗi, nên thiện-pháp bắt đầu càng ngày càng tăng trưởng, ngược lại ác-pháp càng ngày càng suy giảm, tuổi thọ của con người càng ngày càng tăng dần, tăng dần cho đến tột đỉnh a-tăng-kỳ ([22]) năm.
Trong thời-kỳ ấy con người bắt đầu sống thất niệm dể duôi, nên ác-pháp phát sinh. Vì vậy, tuổi thọ con người lại bắt đầu giảm dần, giảm dần cho đến khi thời đại con người có tuổi thọ còn khoảng 80.000 năm. Khi ấy, Đức-Bồ-tát-Chánh-Đẳng-Giác tiền-kiếp của Đức-Phật Metteyya, chuyển kiếp (cuti: chết) từ cõi trời Đâu-suất-đà-thiên, tái-sinh kiếp sau (paṭisandhi) đầu thai làm người trong cõi người này, rồi sẽ trở thành Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Metteyya.
Chư Đức-Bồ-tát mỗi bậc khi đã tạo đầy đủ trọn vẹn các pháp-hạnh ba-la-mật của mình xong rồi, kiếp áp chót đều sinh trong cõi trời Đâu-suất-đà-thiên này. Cho nên, cõi trời Đâu-suất-đà-thiên là cõi trời cao quý hơn các cõi trời dục-giới khác.
Đức-vua-trời Santussita trị vì toàn thể chư-thiên trong cõi trời Đâu-suất-đà-thiên. Tất cả chư-thiên trong cõi trời Đâu-suất-đà-thiên này chỉ có nhóm chư-thiên ākāsaṭṭhadevatā mà thôi. Tất cả chư-thiên có thân hình, hào quang, lâu đài, các món đồ trang sức, v.v… hưởng mọi sự an lạc trong cõi trời này vi tế hơn cõi trời Dạ-ma-thiên.
* Chư-thiêntrong cõi trời Đâu-suất-đà-thiên có tuổi thọ 4.000 năm cõi trời, so với thời gian cõi người 576 triệu năm, bởi vì 1 ngày và 1 đêm bằng 400 năm cõi người.
5- Nimmānaratībhūmi: Cõi Trời Hoá-Lạc-Thiên
Cõi trời Hoá-lạc-thiên là cõi trời thứ năm nằm ở trên hư không cao cách cõi trời Đâu-suất-đà-thiên khoảng 42.000 do-tuần (yojana).
Toàn thể chư-thiên trong cõi trời này có khả năng tự hoá ra 5 đối-tượng ngũ dục theo ý muốn của mình, rồi hưởng sự an lạc trong các đối-tượng ấy. Vì vậy, cõi này gọi là Nimmānaratī-bhūmi: cõi trời Hoá-lạc-thiên.
Trong 6 cõi trời dục-giới, từ cõi trời Tứ-đại-thiên-vương, Tam-thập-tam-thiên, Dạ-ma-thiên, Đâu-suất-đà-thiên các thiên-nam, thiên-nữ đều có cặp có đôi riêng biệt của mỗi vị, nhưng cõi trời Hoá-lạc-thiên và cõi trời Tha-hoá-tự-tai-thiên không có cặp có đôi riêng biệt của mỗi vị.
Thiên-nam hoặc thiên-nữ trong cõi trời Hoá-lạc-thiên nếu khi nào muốn hưởng an lạc trong đối-tượng ngũ-dục thì khi ấy tự mình hoá ra thiên-nữ hoặc thiên-nam khác phái theo ý muốn của mình, để hưởng sự an lạc trong đối-tượng ngũ-dục ấy xong, rồi cho biến mất.
Đức-vua-trời Sunimmita hoặc Đức-vua-trời Nimmita trị vì toàn thể chư-thiên trong cõi trời Hoá-lạc-thiên. Tất cả chư-thiên trong cõi trời Hoá-lạc-thiên này chỉ có nhóm chư-thiên ākāsaṭṭhadevatā mà thôi. Tất cả chư-thiên có thân hình, hào quang, lâu đài, các món đồ trang sức, v.v… hưởng mọi sự an lạc trong cõi trời này vi tế hơn cõi trời Đâu-suất-đà-thiên.
* Chư-thiêntrong cõi trời Hoá-lạc-thiên có tuổi thọ 8.000 năm cõi trời, so với thời gian cõi người 2.304 triệu năm, bởi vì 1 ngày và 1 đêm bằng 800 năm cõi người.
6- Paranimmitavasavattībhūmi: Cõi Trời Tha-Hoá-Tự-Tại- Thiên
Cõi trời Tha-hoá-tự-tại-thiên là cõi trời thứ sáu cao nhất trong 6 cõi trời dục-giới nằm ở trên hư không cao cách cõi trời Hoá-lạc-thiên khoảng 42.000 do-tuần (yojana).
Toàn thể chư-thiên trong cõi trời Tha-hoá-tự-tại-thiên muốn hưởng an lạc trong đối-tượng ngũ-dục đều do vị chư-thiên thuộc hạ biết rõ sự ham muốn ấy nên hoá ra đối-tượng ấy theo ý muốn. Vì vậy, cõi này gọi là Paranimmita-vasavattībhūmi: cõi trời Tha-hoá-tự-tại-thiên.
Thiên-nam hoặc thiên-nữ trong cõi trời Tha-hoá-tự-tại-thiên này, nếu khi nào muốn hưởng an lạc trong đối-tượng ngũ-dục thì vị chư-thiên thuộc hạ biết rõ sự ham muốn ấy, nên hoá ra đối-tượng ấy theo ý muốn.
Thiên-nam, thiên-nữ trong cõi trời Tha-hoá-tự-tại-thiên giống như thiên-nam, thiên-nữ trong cõi trời Hoá-lạc-thiên đềukhông có cặp có đôi riêng biệt của mỗi vị.
Đức-vua-trời Paranimmita hoặc Đức-vua-trời Vasavattī trị vì toàn thể chư-thiên trong cõi trời Tha-hoá-tự-tại-thiên. Tất cả chư-thiên trong cõi trời Tha-hoá-tự-tại-thiên này chỉ có nhóm chư-thiên ākāsaṭṭhadevatā mà thôi. Tất cả chư-thiên có thân hình, hào quang, lâu đài, các món đồ trang sức, v.v… hưởng mọi sự an lạc trong cõi trời này vi tế hơn cõi trời Hoá-lạc-thiên.
* Chư-thiên trong cõi trời Tha-hoá-tự-tại-thiên có tuổi thọ 16.000 năm cõi trời, so với thời gian cõi người 9.216 triệu năm, bởi vì 1 ngày và 1 đêm bằng 1.600 năm cõi người.
* Đức-vua-trời Vasavattī không chỉ trị vì cõi trời Tha-hoá-tự-tại-thiên, mà còn có oai lực cai quản cả 6 cõi trời dục-giới nữa.
* Cõi trời Tha-hoá-tự-tại-thiên có Ác-ma-thiên (devaputtamāra) có nhiều oai lực muốn tất cả chúng-sinh đều ở trong quyền năng của mình, không muốn ai thoát khỏi.
Thật vậy, khi Ác-ma-thiên biết Đức-Bồ-tát Siddhattha đi xuất gia, để trở thành Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác, rồi Ngài sẽ thuyết-pháp tế độ chúng-sinh giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong 3 giới 4 loài, thoát khỏi quyền năng của mình, nên Ác-ma-thiên từ cõi trời Tha-hóa-tự-tại-thiên hiện xuống ngăn cản Đức-Bồ-tát Siddhattha, nhưng y bất lực, đành trở về cõi trời.
Đến khi Đức-Bồ-tát Siddhattha ngự đến ngồi trên bồ-đoàn quý báu, vào buổi chiều ngày rằm tháng tư (âm-lịch), để trở thành Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác. Khi ấy, Ác-ma-thiên cầm đầu thiên-ma-binh, thiên-ma-tướng từ cõi trời Tha-hóa-tự-tại-thiên hiện đến cội Đại-Bồ-đề nơi Đức-Bồ-tát Siddhattha đang ngự trên bồ-đoàn quý báu, Ác-ma-thiên sử dụng mọi phép mầu cực kỳ lợi hại, cốt để đuổi Đức-Bồ-tát rời khỏi nơi Bồ-đề, giành ngôi bồ-đoàn quý báu ấy, để Đức-Bồ-tát Siddhattha không thể chứng đắc thành Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác, nhưng Ác-ma-thiên hoàn toàn bất lực, thất bại thê thảm, nên Ác-ma-thiên cùngthiên-ma-binh, thiên-ma tướng bỏ chạy trở về cõi trời Tha-hóa-tự-tại-thiên.
Đêm rằm tháng tư ấy, Đức-Bồ-tát Siddhatthachứng-ngộ chân-lý tứ Thánh-đế đầu tiên không thầy chỉ dạy, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, diệt-đoạn-tuyệt được mọi phiền-não, mọi tham-ái không còn dư sót, đặc biệt diệt mọi tiền-khiên tật, trở thành bậc Thánh-A-ra-hán đầu tiên trong toàn thế giới chúng-sinh, gọi là Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Gotama vào canh chót đêm rằm tháng tư ấy.
Sau khi Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, Ác-ma-thiên-vương đếnkính thỉnh Đức-Phật tịch diệt Niết-bàn, bởi vì y không muốn chúng-sinh nào theo thực-hành chánh-pháp của Đức-Phật, để giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong 3 giới 4 loài, thoát ra khỏi quyền năng của y, nhưng Đức-Phậtkhông chấp thuận theo lời thỉnh mời của Ác-ma-thiên.
Nhận Xét Về Phật-Giáo Trong Cõi Người Và Cõi Trời Dục-Giới
Buddhasāsana: Phật-giáo có 3 loại:
1- Pariyatti-sāsana: Pháp-học Phật-giáo đó là học Tam-tạng Pāḷi, Chú-giải Pāḷi,
2- Paṭipatti-sāsana: Pháp-hành Phật-giáo đó là thực-hành pháp-hành-giới, pháp-hành-thiền-định, pháp-hành-thiền-tuệ,…
3- Paṭivedha-sāsana: Pháp-thành Phật-giáo đó là 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn gọi là 9 pháp siêu-tam-giới.
* Trong cõi người, Phật-giáo được phát triển như sau:
– Từ thời-kỳ Đức-Phật cho đến nay vẫn còn duy trì được truyền thống xuất giatỳ-khưu, sa-di, và có cận-sự-nam, cận-sự-nữ,…
– Vềpháp-học Phật-giáo, các hàng thanh-văn đệ tử vẫn cònhọc Tam-tạngPāḷi, và Chú-giải Pāḷi,
– Vềpháp-hành Phật-giáo, các hàng thanh-văn đệ tử vẫn còn thực-hành pháp-hành-giới, pháp-hành-thiền-định, pháp-hành-thiền-tuệ,…
– Về pháp-thành Phật-giáo, các hàng thanh-văn đệ tử vẫn còn thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ, nhưng chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành 4 bậc Thánh-nhân: bậc Thánh-Nhập-lưu, bậc Thánh-Nhất-lai, bậc Thánh-Bất-lai, bậc Thánh-A-ra-hán, đó là điều không thể biết rõ được.
* Trong cõi trời dục-giới, Phật-giáo được phát triển như sau:
– Trên cõi trời dục-giới từ xưa cho đến nay vẫn không có tỳ-khưu, sa-di, và cận-sự-nam, cận-sự-nữ,
– Về pháp-học Phật-giáo, các thiên-nam, thiên-nữ chỉ có nghe chánh-pháp và thuyết giảng chánh-pháp mà thôi.
– Vềpháp-hành Phật-giáo, các thiên-nam, các thiên-nữ có khả năng thực-hành pháp-hành-thiền-định, pháp-hành-thiền-tuệ,…
– Về pháp-thành Phật-giáo, đó là 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn trở thành 4 bậc Thánh-nhân: bậc Thánh-Nhập-lưu, bậc Thánh-Nhất-lai, bậc Thánh-Bất-lai, bậc Thánh-A-ra-hán.
Trên cõi trời dục-giới, các thiên-nam, các thiên-nữ là bậc Thánh-Nhập-lưu, bậc Thánh-Nhất-lai nhiều vô số, bởi vì, trong thời-kỳ Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thế gian lần đầu tiên thuyết-pháp bài kinh Dhammacakkappavattana-sutta (kinh Chuyển-pháp-luân) tế độ nhóm 5 tỳ-khưu: Ngài đại-trưởng-lão Koṇḍañña, Ngài Vappa, Ngài Bhaddiya, Ngài Mahānāma, Ngài Assaji.
Sau khi Đức-Phật thuyết xong bài kinh Chuyển-pháp-luân, trong nhóm 5 tỳ-khưu ấy chỉ có Ngài đại-trưởng-lão Koṇḍañña chứng-ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu-Thánh-đạo, Nhập-lưu-Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-Nhập-lưu là bậc Thánh-thanh-văn đệ tử đầu tiên của Đức-Phật Gotama mà thôi. Trong khi ấy, có 180 triệuchư-thiên, phạm-thiên cũng trở thành bậc Thánh-Nhập-lưu,… Các vị chư-thiên, phạm-thiên ấy đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, xin phép trở về cõi trời của mỗi vị.
Khi Đức-Phật thuyết-pháp tế độ tỳ-khưu trẻ Rāhula trở thành bậc Thánh-A-ra-hán, đồng thời khi ấy, có vô số chư-thiên, phạm-thiên cũng trở thành các bậc Thánh-nhân, đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, rồi xin phép trở về cõi trời của mỗi vị.
Đức-Phật thuyết-pháp tế độ chúng-sinh chư-thiên và nhân loại trong suốt 45 năm, có số trở thành bậc Thánh-Nhập-lưu, có số trở thành bậc Thánh-Nhất-lai, những bậc Thánh-nhân ấy sau khi chết, chắc chắn thiện-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp sau làm chư-thiên trên cõi trời dục-giới, hoặc làm phạm-thiên trên cõi trời sắc-giới.
* Nếu số nào trở thành bậc Thánh-Bất-lai thì sau khi chết, chắc chắn sắc-giới thiện-nghiệp cho quả hoá sinh lên cõi trời sắc-giới, tuỳ theo quả của sắc-giới thiện-nghiệp,
* Nếu số nào trở thành bậc Thánh-A-ra-hán đến khi hết tuổi thọ (chết), đồng thời tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong 3 giới 4 loài.
Như vậy, trong thời-kỳ này 6 cõi trời dục-giới chắc chắn có vô số thiên-nam, thiên-nữ là bậc Thánh-nhân đang hiện hữu.
Trong cõi trời dục-giới, thiên-nam, thiên-nữ có khả năng thực-hành pháp-hành-thiền-định dẫn đến chứng đắc bậc thiền sắc-giới.
Và thiên-nam, thiên-nữ cũng có khả năng thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ dẫn đến chứng-ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-nhân trong Phật-giáo.
Cõi Thiện-Giới
Tóm lại tuổi thọ chúng sinh trong 7 cõi thiện-giới: cõi người và 6 cõi trời dục-giới:
1- Loài người trong cõi Nam-thiện-bộ-châu (trái đất mà chúng ta đang sống) có tuổi thọ không nhất định, khi có tuổi thọ cao tối đa tột đỉnh a-tăng-kỳ năm và khi có tuổi thọ thấp tối thiểu tột cùng chỉ còn 10 năm.
2- Thiên-nam, thiên-nữ trong cõi trời Tứ-đại-thiên-vương có tuổi thọ 500 năm cõi trời, so với thời gian cõi người 9 triệu năm, bởi vì 1 ngày và 1 đêm cõi trời này bằng 50 năm cõi người.
3- Thiên-nam, thiên-nữ trong cõi trời Tam-thập-tam-thiên có tuổi thọ 1.000 năm cõi trời, so với thời gian cõi người 36 triệu năm, bởi vì 1 ngày và 1 đêm cõi trời này bằng 100 năm cõi người.
4- Thiên-nam, thiên-nữ trong cõi trời Dạ-ma-thiên có tuổi thọ 2.000 năm cõi trời, so với thời gian cõi người 144 triệu năm, bởi vì 1 ngày và 1 đêm cõi trời này bằng 200 năm cõi người.
5- Thiên-nam, thiên-nữ trong cõi trời Đâu-suất-đà-thiên có tuổi thọ 4.000 năm cõi trời, so với thời gian cõi người 576 triệu năm, bởi vì 1 ngày và 1 đêm cõi trời này bằng 400 năm cõi người.
6- Thiên-nam, thiên-nữ trong cõi trời Hoá-lạc-thiên có tuổi thọ 8.000 năm cõi trời, so với thời gian cõi người 2.304 triệu năm, bởi vì 1 ngày và 1 đêm cõi trời này bằng 800 năm cõi người.
7- Thiên-nam, thiên-nữtrong cõi trời Tha-hoá-tự-tại-thiên có tuổi thọ 16.000 năm cõi trời, so với thời gian cõi người 9.216 triệu năm, bởi vì 1 ngày và 1 đêm bằng 1.600 năm cõi người.
Triệu Chứng Của Chư-Thiên Trước Khi Chết
Mỗi vị thiên-nam, hoặc thiên-nữ sắp hết tuổi thọ tại cõi trời ấy, thường có pubbanimitta:([23]) 5 triệu-chứng báo trước phát sinh là:
1-Mālā milāyanti: những vòng hoa héo,
2- Vatthāni kilissanti: Những y phục bạc màu,
3- Kacchehi sedā muccanti: Mồ hôi chảy ra từ 2 bên nách,
4- Kāye dubbaṇṇiyaṃ okkamati: Sắc thân không còn xinh đẹp,
5- Devo devāsane nābhiramati: Chư-thiên không còn hài lòng cõi trời đang sống.
Thiên-nam, hoặc thiên-nữ nếu có 5 triệu-chứng báo trước phát sinh thì vị thiên-nam hoặc thiên-nữ sắp hết tuổi thọ tại cõi trời ấy, phải cuti: chuyển kiếp (chết), rồi sẽ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhi) trong cõi khác:
– Nếu dục-giới đại-thiện-nghiệp cho quả thì tái-sinh kiếp sau làm người hoặc làm chư-thiên trong cõi trời cao hơn hoặc cõi trời thấp hơn hoặc cõi trời cũ như kiếp trước.
– Nếu ác-nghiệp cho quả thì tái-sinh kiếp sau trong 4 cõi ác-giới: cõi địa-ngục, cõi a-su-ra, cõi ngạ-quỷ, loài súc-sinh, tuỳ theo năng lực của quả ác-nghiệp ấy.
[9] Bộ Dhammapadaṭṭhakathā, Yamakavagga, Devadattavatthu.
[10] Dī. Sīlakkhandhavagga, Kinh Sāmaññaphalasutta
[11] Bộ Jātakaṭṭhakathā, Tích Nimijātaka
[12]Xem đầy đủ trong quyển Pháp-Hạnh Ba-La-Mật, tập 3, tích Temiya jātaka của Bộ Nền Tảng Phật-Giáo cùng soạn giả.
[13] Xem đầy đủ trong quyển V, phần hoan-hỷ phước-thiện của bộ Nền Tảng Phật-Giáo, cùng soạn giả.
[14] Bậc Thánh-A-ra-hán không còn tham-ái, đến khi chết gọi là tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong 3 giới 4 loài.
[15] Bộ Petavatthu, Tích Tirokuṭṭapetavatthu
[16] Trong chú-giải Dhammapadaṭṭhakathā, tích Erakapattanāgarāja,
Samyuttanikaaya aṭṭhakathā, Vi. Mahāvaggaṭṭhakathā, …
[17] A-tăng-kỳ (asaṅkhyeyya) là đơn vị số lượng: số 1 đứng trước 140 số 0, Viết tắt 10140
[18]Tìm hiểu đầy đủ trong quyển Pháp-Hành-Giới cùng soạn giả.
[19] Chú-giải Dhammapada, Mahākassapattherapiṇḍapātadinnavatthu
[20]Bộ Dī. Mahāvagga, Sakkapañhāsutta, và Aṭṭhakathā
[21] Dī. theo Sīlakkhandhavagg aṭṭhakathā, Soṇadaṇḍasuttavaṇṇanā
[22]Asaṅkhyeyya: a-tăng-kỳ là đơn vị số lượng số 1 trước 140 số 0
[23] Khu. Itivuttakapāḷi, Pañcapubbanimittasutta
Đoạn Kết
* 12 Bất-thiện-tâm có 12 bất-thiện-nghiệp hoặc 12 ác-nghiệp cho quả trong 2 thời-kỳ:
1- Thời-kỳ tái-sinh (paṭisandhikāla) chỉ có 11 ác-nghiệp (trừ ác-nghiệp trong si-tâm hợp với phóng-tâm) cho quả có 1 quả-tâm là suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của 11 ác-nghiệp làm phận-sự tái-sinh kiếp sau trong 4 cõi ác-giới đó là cõi địa-ngục, cõi a-su-ra, cõi ngạ-quỷ, loài súc-sinh, thuộc về loại chúng sinh duggati-ahetuka-puggala: chúng-sinh vô-nhân trong cõi ác-giới.
2- Thời-kỳ sau khi tái-sinh (pavattikāla) 12 ác-nghiệp cho quả có 7 bất-thiện-quả vô-nhân-tâm là quả của 12 bất-thiện-tâm trong kiếp-hiện-tại, khi hội đủ nhân-duyên tiếp nhận đối-tượng xấu không đáng hài lòng.
* 8 dục-giới đại-thiện-tâm có 8 dục-giới đại-thiện-nghiệp cho quả trong 2 thời-kỳ:
1- Thời-kỳ tái-sinh (paṭisandhikāla) 8 dục-giới đại-thiện-nghiệp cho quả có 9 quả-tâm là 8 dục-giới đại-quả-tâm và 1 suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của 8 dục-giới đại-thiện-nghiệp làm phận-sự tái-sinh kiếp sau trong 7 cõi thiện-giới đó là cõi người và 6 cõi trời dục-giới thuộc về 3 hạng người hoặc 3 hạng chư-thiên:
* Hạng người tam-nhân (tihetukapuggala),
* Hạng người nhị-nhân (dvihetukapuggala),
* Hạng người vô-nhân (ahetukapuggala).
2- Thời-kỳ sau khi tái-sinh (pavattikāla) 8 dục-giới đại-thiện-nghiệp cho quả có 16 quả-tâm là 8 dục-giới đại-quả-tâm và 8 thiện-quả vô-nhân-tâm đều là quả của 8 dục-giới đại-thiện-tâm trong kiếp-hiện-tại, khi hội đủ nhân-duyên tiếp nhận đối-tượng tốt đáng hài lòng.
* Đặc biệt loài người trong cõi Nam-thiện-bộ-châu này, chính là kiếp trái đất mà chúng ta đang sinh sống có tính chất khác biệt với các cõi khác như:
* Chúng sinh trong cõi địa-ngục, cõi a-su-ra, ngạ-quỷ trong thời-kỳ tái-sinh, ác-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp sau, tiếp theo trong thời-kỳ sau khi tái-sinh chỉ có ác-nghiệp cho quả khổ mà thôi, còn những thiện-nghiệp không có cơ-hội cho quả an-lạc.
* Chư thiên-nam, thiên-nữ trong 6 cõi trời dục-giới, chư phạm-thiên trong 15 cõi trời sắc-giới, 4 cõi trời vô-sắc-giới trong thời-kỳ tái-sinh, thiện-nghiệp cho quả hoá-sinh kiếp sau, tiếp theo trong thời-kỳ sau khi tái-sinh chỉ có những thiện-nghiệp cho quả an-lạc mà thôi, còn những ác-nghiệp không có cơ-hội cho quả khổ.
* Riêng loài người sinh sống trong cõi Nam-thiện-bộ-châu, kiếp trái đất này, trong thời-kỳ tái-sinh, dục-giới đại-thiện-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp sau đầu thai làm người, tiếp theo trong thời-kỳ sau khi tái-sinh không chỉ có những dục-giới đại-thiện-nghiệp cho quả an-lạc mà thôi, mà còn những ác-nghiệp cũng có cơ-hội cho quả khổ nữa.
Cho nên, trong cuộc sống hiện-tại của mỗi người khi thì dục-giới thiện-nghiệp có cơ-hội cho quả an-lạc, khi thì ác-nghiệp có cơ-hội cho quả khổ.
– 8 Dục-giới đại-thiện-nghiệp trong 8 dục-giới đại-thiện-tâm cho quả có 16 quả-tâm.
– 12 Ác-nghiệp trong 12 bất-thiện-tâm cho quả có 7 bất-thiện-quả vô-nhân-tâm.
* Mỗi thiện-nghiệp, mỗi ác-nghiệp nào đều có khả năng cho quả trong kiếp-hiện-tại, nếu kiếp-hiện-tại không có có cơ-hội cho quả thì nghiệp ấy mới trở thành vô-hiệu-quả-nghiệp.
* Mỗi thiện-nghiệp, mỗi ác-nghiệp nào đều có khả năng cho quả tái-sinh kiếp sau kế tiếp, nếu kiếp sau kế tiếp không có cơ-hội cho quả thì nghiệp ấy mới trở thành vô-hiệu-quả-nghiệp. * Tất cả mọi thiện-nghiệp, mọi mỗi ác-nghiệp đã tích-luỹ từ vô-lượng kiếp trong quá-khứ đều có khả năng cho quả trong vô-lượng kiếp vị lai kể từ kiếp thứ 3 cho đến kiếp chót trở thành bậc Thánh-A-ra-hán, trước khi tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong tam-giới.
Sau khi Bậc Thánh-A-ra-hán đã tịch diệt Niết-bàn rồi, tất cả mọi thiện-nghiệp, mọi ác-nghiệp mới thật sự trở thành vô-hiệu-quả-nghiệp mà thôi.
Hễ chúng sinh còn trong vòng tử sinh luân hồi trong 3 giới 4 loài thì mọi thiện-nghiệp, mọi ác-nghiệp hiện-tại và trong thời quá-khứ vẫn còn có khả năng, vẫn có cơ-hội cho quả của chúng, không có nghiệp nào gọi là vô-hiệu-quả-nghiệp cả.
* Nếu không hiểu biết về nghiệp và quả của nghiệp thì khi dục-giới thiện-nghiệp của mình có cơ-hội cho quả tốt, an-lạc, cho là gặp may mắn, hoặc nhờ người này, nhờ người kia hỗ-trợ, giúp-đỡ; nhưng khi ác-nghiệp của mình có cơ-hội cho quả xấu, đau khổ thì cho là gặp rủi ro, hoặc do người này, do người kia làm hại, gây ra sự đau khổ cho mình.
Thật ra, nếu khi dục-giới thiện-nghiệp có cơ-hội cho quả tốt thì khiến cho người này, người khác đến hỗ-trợ, giúp-đỡ, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an-lạc, đến chủ nhân của dục-giới thiện-nghiệp.
Trái lại, nếu khi ác-nghiệp có cơ-hội cho quả xấu thì khiến cho người này, người khác đến làm khổ, gây thiệt hại, để đem lại sự bất lợi, sự thoái hoá, sự đau khổ đến chủ nhân của ác-nghiệp.
Cho nên, bậc thiện-trí có đức-tin nơi Đức-Phật dạy về nghiệp rằng:
“Kammassako’mhi kammadāyādo kamma-yoni kammabandhu kammappaṭisaraṇo, yaṃ kammaṃ karissāmi kalyāṇaṃ vā pāpakaṃ vā tassa dāyādo bhavissāmi.([1])
Ta có nghiệp là của riêng, ta là người thừa hưởng quả của nghiệp, nghiệp là nhân sinh ra ta, nghiệp là bà con thân quyến của ta, nghiệp là nơi nương nhờ của ta. Ta sẽ tạo nghiệp nào ‘thiện-nghiệp hoặc ác-nghiệp’ ta sẽ là người thừa hưởng quả của thiện-nghiệp hoặc ác-nghiệp ấy.
Bậc thiện-trí có đức-tin nơi nghiệp và quả của nghiệp của mình, nếu khi thiện-nghiệp của mình cho quả, thì bậc thiện-trí thừa hưởng quả tốt, sự an-lạc của thiện-nghiệp ấy; hoặc nếu khi ác-nghiệp của mình cho quả, thì bậc thiện-trí chấp nhận quả xấu, sự đau khổ của ác-nghiệp ấy, mà không hề trách cứ một ai cả.
Đối với bậc thiện-trí có nhận thức đúng đắn rằng: Nghiệp và quả của nghiệp thật là công bằng tự nhiên, không hề thiên vị một ai cả, dù là Đức-Phật, huống hồ đối với ta.
Quyển VI-DIỆU-PHÁP HIỆN THỰC TRONG CUỘC SỐNG được giảng giải về 12 bất-thiện-tâm và 8 dục-giới đại-thiện-tâm, sự phát sinh của mỗi tâm.
Tác-ý tâm-sở (cetanācetasika) gọi là nghiệp, nếu đồng sinh với bất-thiện-tâm thì gọi là bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp), nếu đồng sinh với dục-giới đại-thiện-tâm thì gọi là dục-giới đại-thiện-nghiệp. Ác-nghiệp cho quả khổ, dục-giới đại-thiện-nghiệp cho quả an-lạc.
Nếu người nào không muốn khổ trong 4 cõi ác-giới: cõi địa-ngục, cõi a-su-ra, cõi ngạ-quỷ, loài súc-sinh trong kiếp sau thì có 3 cách:
* Cách thứ nhất là người ấy thực-hành pháp-hành giới, giữ gìn giới hạnh trong sạch và đầy đủ trọn vẹn, thường tránh xa mọi ác-nghiệp do thân-hành-ác, khẩu-hành-ác, ý-hành-ác, và thường tạo mọi thiện-nghiệp do thân, khẩu, ý trở thành thường thiện-nghiệp. Sau khi người ấy chết, dục-giới thiện-nghiệp có cơ-hội cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi thiện-giới là cõi người, 6 cõi trời dục-giới, hưởng mọi sự an-lạc.
* Cách thứ nhì là người ấy thực-hành pháp-hành-thiền-định dẫn đến chứng đắc bậc thiền sắc-giới thiện-tâm nào, rồi giữ gìn cho đến gần chết. Sau khi người ấy chết, chắc chắn sắc-giới thiện-nghiệp ấy cho quả tái-sinh kiếp sau trên cõi trời sắc-giới phạm-thiên tương xứng với quả của bậc thiền ấy, hưởng mọi sự an-lạc vi tế.
* Cách thứ ba là người ấy thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ dẫn đến chứng-ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu-Thánh-đạo, Nhập-lưu-Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-Nhập-lưu. Sau khi bậc Thánh-Nhập-lưu chết, vĩnh viễn không còn tái-sinh kiếp sau trong 4 cõi ác-giới, mà chỉ có tái-sinh kiếp sau trong các cõi thiện-giới mà thôi. Bậc Thánh-Nhập-lưu chỉ còn tử sinh luân hồi nhiều nhất 7 kiếp nữa, rồi sẽ trở thành bậc Thánh-A-ra-hán, sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong 3 giới 4 loài.
Nếu người nào muốn hưởng mọi sự an-lạc trong các cõi thiện-giới thì người ấy cố gắng tinh-tấn tạo mọi thiện-nghiệp như dục-giới thiện-nghiệp, và có khả năng tạo sắc-giới thiện-nghiệp, vô-sắc-giới thiện-nghiệp, siêu-tam-giới thiện-nghiệp, bởi vì chỉ có thiện-nghiệp mới mới cho quả an-lạc mà thôi, trái lại chỉ có ác-nghiệp mới cho quả khổ mà thôi.
Ngoài thiện-nghiệp, ác-nghiệp ra, không có một đấng tối cao nào có uy quyền ban cho ai sự an-lạc hoặc hành hạ ai chịu khổ cả.
Mỗi người đều có quyền hoàn toàn chủ động lựa chọn nên tạo thiện-nghiệp nào hoặc ác-nghiệp nào thuộc về nghiệp riêng của mình, nhưng mỗi người hoàn toàn bị động hưởng quả của thiện-nghiệp ấy hoặc chịu quả của ác-nghiệp ấy. Đó là đúng theo định luật công bằng của nghiệp và quả của nghiệp.
Phật Lịch 2.557 / Tháng 4-2014
Rừng Núi Viên Không,
Xã Tóc-tiên, Huyện Tân-thành,
Tỉnh Bà-rịa – Vũng-tàu.
Tỳ-khưu Hộ-Pháp
(Dhammarakkhita Bhikkhu)
(Aggamahāpaṇḍita)
Patthanā
Iminā puññakammena,
Sukhī bhavāma sabbadā.
Ciraṃ tiṭṭhatu saddhammo,
Loke sattā sumaṅgalā.
Vietnam ca raṭṭhikā sabbe,
Janā pappontu sāsane.
Vuḍḍhiṃ viruḷhivepullaṃ,
Patthayāmi nirantaraṃ.
Năng lực phước-thiện thanh cao này,
Cho chúng con thường được an-lạc.
Cầu mong chánh-pháp được trường tồn,
Tất cả chúng sinh được hạnh phúc.
Dân tộc Việt Nam được phát triển,
Tiến hoá hưng thịnh trong Phật-giáo,
Bần sư cầu nguyện với tâm thành,
Hằng mong được thành-tựu như nguyện.
* Ciraṃ tiṭṭhatu saddhammo lokasmiṃ,
* Ciraṃ tiṭṭhatu saddhammo Vietnam-raṭṭhe.
* Cầu nguyện chánh-pháp được trường tồn
trên thế gian.
* Cầu nguyện chánh-pháp được trường tồn
trên tổ quốc Viêt-Nam thân yêu.
* Buddhasāsanaṃ ciraṃ tiṭṭhatu.
* Cầu mong Phật-giáo được trường tồn.
SÁCH THAM KHẢO VÀ TRÍCH DẪN
* Bộ Tam-tạng Pāḷi và các bộ Aṭṭhakathāpāḷi,
* Bộ Abhidhammatthasaṅgaha của Ngài Đại-Trưởng-Lão Anuruddha,
* Toàn bộ sách giáo khoa “Paramatthajotika” của Ngài Đại-Trưởng-Lão Bhaddanta Saddham-majotika,
* Các bộ sách của Ngài Đại-Trưởng-Lão Ledi Sayadaw, v.v…
[1] Aṅg. Pañcanipāta, kinh Abhiṇhapaccavekkhitabbaṭṭhānasutta