Bộ Phân Tích đọc online – Tập I
Tạng Vi Diệu Pháp (ABHIDHAMMAPIṬAKA)
Dịch Việt: Hoà Thượng Tịnh Sự SANTAKICCO
Nguồn: https://www.budsas.org
MỤC LỤC
Lời tựa
Lời giới thiệu
[01]
Uẩn Phân tích theo Kinh
Uẩn Phân tích theo Vi Diệu Pháp
[02]
Uẩn Phân tích theo Vi Diệu Pháp (tiếp theo)
Phần Uẩn Vấn Ðáp
[03]
Xứ Phân tích theo Kinh
Xứ Phân tích theo Vi Diệu Pháp
Phần Xứ Vấn Ðáp
[04]
Giới Phân tích theo Kinh
Giới Phân tích theo Vi Diệu Pháp
Phần Giới Vấn Ðáp
[05]
Ðế Phân tích theo Kinh
Ðế Phân tích theo Vi Diệu Pháp
Phần Ðế Vấn Ðáp
[06]
Quyền Phân tích theo Vi Diệu Pháp
Phần Quyền Vấn Ðáp
[07]
Duyên khởi Phân tích theo Kinh
Mẫu Ðề Vi Diệu Pháp
Duyên khởi Phân theo Vi Diệu Pháp
[08]
Duyên khởi Phân theo Vi Diệu Pháp (tiếp theo)
[09]
Niệm Xứ Phân tích theo Kinh
Niệm Xứ Phân tích theo Vi Diệu Pháp
Phần Niệm Xứ Vấn Ðáp
[10]
Tứ Chánh Cần Phân tích theo Kinh
Tứ Chánh Cần Phân tích theo Vi Diệu Pháp
Phần Tứ Chánh Cần Vấn Ðáp
Tứ Thần Túc Phân tích theo Kinh
Tứ Thần Túc Phân tích theo Vi Diệu Pháp
Phần Tứ Thần Túc Vấn Ðáp
[11]
Giác chi Phân tích theo Kinh
Giác chi Phân tích theo Vi Diệu Pháp
Phần Giác chi Vấn Ðáp
Ðạo Phân tích theo Kinh
Ðạo Phân tích theo Vi Diệu Pháp
Phần Ðạo Vấn Ðáp
UẨN PHÂN TÍCH (KHANDHAVIBHAṄGO)
PHÂN TÍCH THEO KINH (SUTTANTABHĀJANĪYA).
[1] Ngũ uẩn là sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn.
SẮC UẨN (Rūpakhandho)
[2] Ở ÐÂY THẾ NÀO LÀ SẮC UẨN [1]?
Bất cứ sắc gì thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại; bên trong hoặc bên ngoài, thô hoặc tế, xấu hoặc tốt, hay là sắc nào xa gần mà gồm chung, tổng kết lại. Ðây gọi là sắc uẩn.
[3] Ở ÐÂY SẮC QUÁ KHỨ[2] LÀ THẾ NÀO?
Sắc nào đã qua, đã tiêu diệt, đã lìa mất, đã biến chuyển, đã biến diệt, đã biến hoạt, đã sanh rồi diệt, đã vượt khỏi, gom lại thành phần quá khứ; tức là bốn đại hiển và sắc nương bốn đại hiển. Ðây gọi là sắc quá khứ.
Ở ÐÂY SẮC VỊ LAI[3] LÀ THẾ NÀO?
Sắc nào chưa sanh, chưa có, chưa thành, chưa xuất hiện, chưa khởi phát, chưa hiện khởi, chưa sanh khởi, chưa tương sanh, chưa khởi dậy, chưa ứng khởi, chưa xẩy đến, gom lại thành phần vị lai; tức là bốn đại hiển và sắc nương bốn đại hiển. Dây gọi là sắc vị lai.
Ở ÐÂY SẮC HIỆN TẠI[4] LÀ THẾ NÀO?
Sắc nào đang sanh, đang có, đang thành, đang xuất hiện, đang phát khởi, đang sanh khởi, đang tương sanh, đang dậy khởi, đang ứng khởi, đang sanh tồn, gom lại thành phần hiện tại; tức là bốn đại hiển. Ðây gọi là sắc hiện tại.
[4] Ở ÐÂY SẮC BÊN TRONG[5] THẾ NÀO?
Sắc nào thuộc bên trong của mỗi chúng sanh, thuộc phần riêng, thuộc tư hữu, thuộc cá nhân, thành do thủ; tức là bốn đại hiển và sắc nương bốn đại hiển, đây gọi là sắc bên trong.
Ở ÐÂY SẮC BÊN NGOÀI[6] LÀ THẾ NÀO?
Sắc nào thuộc bên trong của các chúng sanh khác, nhân vật khác, thuộc phần riêng, thuộc tư hữu, thuộc cá nhân, thành do thủ tức là bốn đại hiển, và sắc nương, bốn đại hiển. Ðây gọi là sắc bên ngoài.
[5] Ở ÐÂY SẮC THÔ[7] LÀ THẾ NÀO?
Tức nhãn xứ..(trùng).. xúc xứ. Ðây gọi là sắc thô.
Ở ÐÂY SẮC TẾ[8] LÀ THẾ NÀO?
Tức nữ quyền..(trùng)..đoàn thực. Ðây gọi là sắc tế.
[6] Ở ÐÂY SẮC XẤU[9] LÀ THẾ NÀO?
Sắc nào đối với các chúng sanh, bị khinh thường, khinh khi, khinh bỉ, khinh miệt, không ái mộ, xấu xa, biết là xấu xa, cho là xấu xa, không đáng ưa chuộng, không đáng ham thích, không đáng vừa lòng, như sắc, thinh, khí, vị, xúc. Ðây gọi là sắc xấu.
Ở ÐÂY SẮC TỐT[10] LÀ THẾ NÀO?
Sắc nào đối với các chúng sanh, không bị khinh thường, không bị khinh khi, không bị khinh bỉ, không bị khinh miệt, được ái mộ, tốt đẹp, biết là tốt đẹp, cho là tốt đẹp, đáng ưa chuộng, đáng ham thích, đáng vừa lòng, như sắc, thinh, khí, vị, xúc. Ðây gọi là sắc tốt.
Hoặc do so sánh sắc nầy với sắc kia nên được nhận là sắc xấu sắc tốt.
[7] Ở ÐÂY SẮC XA[11] LÀ THẾ NÀO
Tức nữ quyền… (trùng)… đoàn thực; hoặc giả có thứ sắc nào khác không cận kề, không tiếp giáp, ở xa, không gần. Ðây gọi là sắc xa.
Ở ÐÂY SẮC GẦN[12] LÀ THẾ NÀO?
Tức là nhãn xứ..(trùng).. xúc xứ; hoặc giả có sắc nào khác cận kề, tiếp giáp, ở gần, không xa. Ðây gọi là sắc gần.
Hoặc do so sánh sắc nầy sắc kia, nên được nhận là sắc xa sắc gần.
THỌ UẨN (Vedanākhandho)
[8] Ở ÐÂY THẾ NÀO LÀ THỌ UẨN?
Bất cứ tưởng gì thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại, bên trong hoặc bên ngoài, thô hoặc tế, xấu hoặc tốt, hay là thọ nào xa, gần, mà gồm chung, tổng kết lại. Ðây gọi là thọ uẩn.
[9] Ở ÐÂY, THỌ QUÁ KHỨ[13] LÀ THẾ NÀO?
Thọ nào đã qua, đã tiêu diệt, đã lìa mất, đã biến chuyển, đã biến diệt, đã biến hoại, đã sanh rồi diệt, đã vượt khỏi, gom lại thành phần quá khứ, tức là thọ lạc, thọ khổ, thọ phi khổ phi lạc. Ðây gọi là thọ quá khứ.
Ở ÐÂY THỌ VỊ LAI[14] LÀ THẾ NÀO?
Thọ nào chưa sanh, chưa có, chưa thành, chưa xuất hiện, chưa khởi phát, chưa hiện khởi, chưa sanh khởi, chưa tương sanh, chưa dậy khởi, chưa ứng khởi, chưa xẩy đến, gom lại thành phần vị lai, tức là thọ lạc, thọ khổ, thọ phi khổ phi lạc. Ðây gọi là thọ vị lai.
Ở ÐÂY, THỌ HIỆN TẠI LÀ THẾ NÀO[15]?
Thọ nào đang sanh, đang có, đang thành, đang xuất hiện, đang phát khởi, đang sanh khởi, đang tương sanh, đang dậy khởi, đang ứng khởi, đang sanh tồn, gom lại thành phần hiện tại; tức là thọ lạc, thọ khổ, thọ phi khổ phi lạc. Ðây gọi là thọ hiện tại.
[10] Ở ÐÂY THỌ BÊN TRONG[16] LÀ THẾ NÀO?
Thọ nào thuộc bên trong của mỗi chúng sanh, thuộc phần riêng, thuộc tư hữu, thuộc cá nhân, thành do thủ; tức là thọ lạc, thọ khổ, thọ phi khổ phi lạc. đây gọi là thọ bên trong.
Ở ÐÂY THỌ BÊN NGOÀI[17] LÀ THẾ NÀO?
Thọ nào thuộc bên trong của các chúng sanh khác, nhân vật khác, thuộc phần riêng, thuộc tư hữu, thuộc cá nhân, thành do thủ tức là thọ lạc, thọ khổ, thọ phi khổ phi lạc. Ðây gọi là thọ bên ngoài.
[11] Ở ÐÂY THỌ THÔ THỌ TẾ[18] LÀ THẾ NÀO?
Thọ bất thiện là thọ thô, thọ thiện và vô ký là tế; thọ thiện và bất thiện là thô, thọ vô ký là tế; thọ khổ là thô, thọ lạc và thọ phi khổ lạc là tế; thọ khổ và thọ lạc là thô, thọ phi khổ phi lạc là tế; thọ của người không nhập thiền là thô, thọ của người nhập thiền là tế; thọ cảnh lậu là thô, thọ phi cảnh lậu là tế; hoặc so sánh thọ nầy thọ kia nên được nhận là thọ thô thọ tế.
[12] Ở ÐÂY, THỌ XẤU THỌ TỐT[19] LÀ THẾ NÀO?
Thọ bất thiện là xấu, thọ thiện và vô ký là tốt; thọ thiện và bất thiện là xấu, thọ vô ký là tốt; thọ khổ là xấu, thọ lạc và thọ phi khổ phi lạc là tốt; thọ lạc và thọ khổ là xấu, thọ phi khổ phi lạc là tốt; thọ của người không nhập thiền là xấu, thọ của người nhập thiền là tốt; thọ cảnh lậu là xấu, thọ phi cảnh lậu là tốt; hoặc so sánh thọ nầy thọ kia nên được nhận là thọ xấu thọ tốt.
[13] Ở ÐÂY THỌ XA LÀ THẾ NÀO[20]?
Thọ bất thiện xa với thọ thiện và vô ký; thọ thiện và vô ký xa với thọ thiện; Thọ thiện xa với thọ bất thiện và vô ký; thọ bất thiện và vô ký xa với thọ thiện; thọ vô ký xa với thọ thiện và bất thiện; thọ thiện và bất thiện xa với thọ vô ký; thọ khổ xa với thọ lạc và phi khổ phi lạc; thọ lạc và phi khổ phi lạc xa với thọ khổ; thọ lạc xa với thọ khổ và phi khổ phi lạc; thọ khổ và phi khổ phi lạc xa với thọ lạc; thọ phi khổ phi lạc xa với thọ lạc và thọ khổ; thọ lạc và thọ khổ xa với thọ phi khổ phi lạc; thọ của người không nhập thiền xa với thọ của người nhập thiền, thọ của người nhập thiền xa với thọ của người không nhập thiền, thọ cảnh lậu xa với thọ phi cảnh lậu; thọ phi cảnh lậu xa với thọ cảnh lậu. Ðây được gọi là thọ xa.
Ở ÐÂY, THỌ GẦN[21] LÀ THẾ NÀO?
Thọ bất thiện gần với thọ bất thiện; Thọ thiện gần với thọ thiện; thọ vô ký gần với thọ vô ký; thọ khổ gần với thọ khổ; thọ lạc gần với thọ lạc; thọ phi khổ phi lạc gần với thọ phi khổ phi lạc, thọ của người không nhập thiền gần với thọ của người không nhập thiền, thọ của người nhập thiền gần với thọ của người nhập thiền, thọ cảnh lậu gần với thọ cảnh lậu; thọ phi cảnh lậu gần với thọ phi cảnh lậu. Ðây gọi là thọ gần.
Hoặc so sánh thọ nầy với thọ kia, nên được gọi là thọ xa thọ gần.
TƯỞNG UẨN (Saññakkhandho)
[14] Ở ÐÂY THẾ NÀO LÀ TƯỞNG UẨN?
Bất cứ tưởng gì thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại, bên trong hoặc bên ngoài, thô hoặc tế, xấu hoặc tốt, hay là tưởng nào xa, gần, mà gom chung, tóm lại thành một nhóm. Ðây gọi là tưởngï uẩn.
[15] Ở ÐÂY, TƯỞNG QUÁ KHỨ[22] LÀ THẾ NÀO?
Tưởng nào đã qua, đã tiêu diệt, đã lìa mất, đã biến chuyển, đã biên diệt, đã biến hoại, đã sanh rồi diệt, đã vượt khỏi, gom lại thành phần quá khứ, tức là tưởng sanh từ nhãn xúc, tưởng sanh từ nhĩ xúc, tưởng sanh từ tỷ xúc, tưởng sanh từ thiệt xúc, tưởng sanh từ thân xúc, tưởng sanh từ ý xúc. Ðây gọi là tưởng quá khứ.
Ở ÐÂY TƯỞNG VỊ LAI[23] LÀ THẾ NÀO?
Tưởng nào chưa sanh, chưa có, chưa thành, chưa xuất hiện, chưa phát khởi, chưa hiện khởi, chưa sanh khởi, chưa tương sanh, chưa dậy khởi, chưa ứng khởi, chưa xẩy đến, gom lại thành phần vị lai, tức là tưởng sanh từ nhãn xúc… (trùng)… tưởng sanh từ ý xúc. Ðây gọi là tưởng vị lai.
Ở ÐÂY, TƯỞNG HIỆN TẠI[24] LÀ THẾ NÀO?
Tưởng nào đang sanh, đang có, đang thành, đang xuất hiện, đang phát khởi, đang hiện khởi, đang sanh khởi, đang tương sanh, đang dậy khởi, đang ứng khởi, đang sanh tồn, gom lại thành phần hiện tại; tức là tưởng sanh từ nhãn xúc… (trùng)… tưởng sanh từ ý xúc. Ðây gọi là tưởng hiện tại.
[16] Ở ÐÂY, TƯỞNG BÊN TRONG[25] LÀ THẾ NÀO?
Tưởng nào thuộc bên trong của mỗi chúng sanh, thuộc phần riêng, thuộc tư hữu, thuộc cá nhân, thành do thủ; tức là tưởng sanh từ nhãn xúc… (trùng)… tưởng sanh từ ý xúc. Ðây gọi là tưởng bên trong.
Ở ÐÂY, TƯỞNG BÊN NGOÀI[26] LÀ THẾ NÀO?
Tưởng nào thuộc bên trong của các chúng sanh khác, nhân vật khác, thuộc phần riêng, thuộc tư hữu, thuộc cá nhân, thành do thủ tức là tưởng sanh từ nhãn xúc… (trùng)… tưởng sanh từ ý xúc. Ðây gọi là tưởng bên ngoài.
[17] Ở ÐÂY, TƯỞNG THÔ TƯỞNG TẾ[27] LÀ THẾ NÀO?
Tưởng sanh từ xúc đối chiếu là thô, tưởng sanh từ xúc định danh là tế; Tưởng bất thiện là thô, tưởng thiện và vô ký là tế; tưởng thiện và bất thiện là thô, tưởng vô ký là tế; tưởng tương ưng thọ khổ là thô, tưởng tương ưng thọ lạc và phi khổ phi lạc là tế; tưởng tương ưng lạc và khổ là thô, tưởng tương ưng phi khổ phi lạc là tế; tưởng của người không nhập thiền là thô, tưởng của người nhập thiền là tế; tưởng cảnh lậu là thô, tưởng phi cảnh lậu là tế; hoặc so sánh tưởng nầy tưởng kia nên được nhận là tưởng thô tưởng tế.
[18] Ở ÐÂY, TƯỞNG XẤU TƯỞNG TỐT[28] LÀ THẾ NÀO?
Tưởng bất thiện là xấu, tưởng thiện và vô ký là tốt; tưởng thiện và bất thiện là xấu, tưởng vô ký là tốt; tưởng tương ưng thọ khổ là xấu, tưởng tương ưng thọ lạc và phi khổ phi lạc là tốt; tưởng tương ưng thọ lạc và khổ là xấu, tưởng tương ưng thọ phi khổ phi lạc là tốt; tưởng của người không nhập thiền là xấu, tưởng của người nhập thiền là tốt; tưởng cảnh lậu là xấu, tưởng phi cảnh lậu là tốt; hoặc do so sánh tưởng nầy tưởng kia nên được nhận là tưởng xấu tưởng tốt.
[19] Ở ÐÂY TƯỞNG XA[29] LÀ THẾ NÀO?
Tưởng bất thiện xa với tưởng thiện và vô ký; tưởng thiện và vô ký xa với tưởng bất thiện; Tưởng thiện xa với tưởng bất thiện và vô ký; tưởng bất thiện và vô ký xa với tưởng thiện; tưởng vô ký xa với tưởng thiện và bất thiện; tưởng thiện và bất thiện xa với tưởng vô ký; tưởng tương ưng thọ khổ xa với tưởng tương ưng thọ lạc và phi khổ phi lạc; tưởng tương ưng thọ lạc và phi khổ phi lạc xa với tưởng tương ưng thọ khổ; tưởng tương ưng thọ lạc xa với tưởng tương ưng thọ khổ và phi khổ phi lạc; tưởng tương ưng thọ khổ và phi khổ phi lạc xa với tưởng tương ưng thọ lạc; tưởng tương ưng thọ phi khổ phi lạc xa với tưởng tương ưng thọ lạc và khổ; tưởng tương ưng thọ lạc và khổ xa với tưởng tương ưng thọ phi khổ phi lạc; tưởng của người không nhập thiền xa với tưởng của người nhập thiền, tưởng của người nhập thiền xa với tưởng của người không nhập thiền, tưởng cảnh lậu xa với tưởng phi cảnh lậu; tưởng phi cảnh lậu xa với tưởng cảnh lậu. Ðây được gọi là tưởng xa.
Ở ÐÂY, TƯỞNG GẦN[30] LÀ THẾ NÀO?
Tưởng bất thiện gần với tưởng bất thiện; Tưởng thiện gần với tưởng thiện; tưởngï vô ký gần với tưởng vô ký; tưởng tương ưng thọ khổ gần với tưởng tương ưng thọ khổ; tưởng tương ưng thọ lạc gần với tưởng tương ưng thọ lạc; tưởng tương ưng thọ phi khổ phi lạc gần với tưởng tương ưng thọ phi khổ phi lạc, tưởng của người không nhập thiền gần với tưởng của người không nhập thiền, tưởng của người nhập thiền gần với tưởng của người nhập thiền, tưởng cảnh lậu gần với tưởng cảnh lậu; tưởng phi cảnh lậu gần với tưởng phi cảnh lậu. Ðây gọi là tưởng gần.
Hoặc do so sánh tưởng nầy với tưởng kia, nên được gọi là tưởng xa tưởng gần.
HÀNH UẨN (Sankhārakkhandho)
[20] Ở ÐÂY THẾ NÀO LÀ HÀNH UẨN?
Bất cứ hành gì thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại, bên trong hoặc bên ngoài, thô hoặc tế, xấu hoặc tốt, hay là hành nào xa, gần, mà gom chung, tóm lại thành một nhóm. Ðây gọi là hành uẩn.
[21] Ở ÐÂY, HÀNH QUÁ KHỨ[31] LÀ THẾ NÀO?
Hành nào đã qua, đã tiêu diệt, đã lìa mất, đã biến chuyển, đã biên diệt, đã biến hoại, đã sanh rồi diệt, đã vượt khỏi, gom lại thành phần quá khứ, tức là tư sanh từ nhãn xúc, tư sanh từ nhĩ xúc, tư sanh từ tỷ xúc, tư sanh từ thiệt xúc, tư sanh từ thân xúc, tư sanh từ ý xúc. Ðây gọi là hành quá khứ.
Ở ÐÂY HÀNH VỊ LAI[32] LÀ THẾ NÀO?
Hành nào chưa sanh, chưa có, chưa thành, chưa xuất hiện, chưa phát khởi, chưa hiện khởi, chưa sanh khởi, chưa tương sanh, chưa dậy khởi, chưa ứng khởi, chưa xẩy đến, gom lại thành phần vị lai, tức là tư sanh từ nhãn xúc… (trùng)… tư sanh từ ý xúc. Ðây gọi là hành vị lai.
Ở ÐÂY, HÀNH HIỆN TẠI[33] LÀ THẾ NÀO?
Hành nào đang sanh, đang có, đang thành, đang xuất hiện, đang phát khởi, đang sanh khởi, đang hiện khởi, đang tương sanh, đang dậy khởi, đang ứng khởi, đang sanh tồn, gom lại thành phần hiện tại; tức là tư sanh từ nhãn xúc… (trùng)… tư sanh từ ý xúc. Ðây gọi là hành hiện tại.
[22] Ở ÐÂY HÀNH BÊN TRONG[34] LÀ THẾ NÀO?
Hành nào thuộc bên trong của mỗi chúng sanh, thuộc phần riêng, thuộc tư hữu, thuộc cá nhân, thành do thủ; tức là tư sanh từ nhãn xúc… (trùng)… tư sanh từ ý xúc. Ðây gọi là hành bên trong.
Ở ÐÂY HÀNH BÊN NGOÀI[35] LÀ THẾ NÀO?
Hành nào thuộc bên trong của các chúng sanh khác, nhân vật khác, thuộc phần riêng, thuộc tư hữu, thuộc cá nhân, thành do thủ tức là tư sanh từ nhãn xúc… (trùng)… tư sanh từ ý xúc. Ðây gọi là hành bên ngoài.
[23] Ở ÐÂY HÀNH THÔ HÀNH TẾ[36] LÀ THẾ NÀO?
Hành bất thiện là thô, hành thiện và vô ký là tế; hành thiện và bất thiện là thô, hành vô ký là tế; hành tương ưng thọ khổ là thô, hành tương ưng thọ lạc và phi khổ lạc là tế; hành tương ưng thọ lạc và khổ là thô, hành tương ưng thọ phi khổ phi lạc là tế; hành của người không nhập thiền là thô, hành của người nhập thiền là tế; hành cảnh lậu là thô, hành phi cảnh lậu là tế; hoặc so sánh hành nầy hành kia nên được nhận là hành thô hành tế.
[24] Ở ÐÂY, HÀNH XẤU HÀNH TỐT[37] LÀ THẾ NÀO?
Hành bất thiện là xấu, hành thiện và vô ký là tốt; hành thiện và bất thiện là xấu, hành vô ký là tốt; hành tương ưng thọ khổ là xấu, hành tương ưng thọ lạc và phi khổ phi lạc là tốt; hành tương ưng thọ lạc và khổ là xấu, hành tương ưng thọ phi khổ phi lạc là tốt; hành của người không nhập thiền là xấu, hành của người nhập thiền là tốt; hành cảnh lậu là xấu, hành phi cảnh lậu là tốt; hoặc do so sánh hành nầy hành kia mà được nhận là hành xấu hành tốt.
[25] Ở ÐÂY HÀNH XA[38] LÀ THẾ NÀO?
Hành bất thiện xa với hành thiện và vô ký; hành thiện và vô ký xa với hành bất thiện; hành thiện xa với hành bất thiện và vô ký; hành bất thiện và vô ký xa với hành thiện; hành vô ký xa với hành thiện và bất thiện; hành thiện và bất thiện xa với hành vô ký; hành tương ưng thọ khổ xa với hành tương ưng thọ lạc và phi khổ phi lạc; hành tương ưng thọ lạc và phi khổ phi lạc xa với hành tương ưng thọ khổ; hành tương ưng thọ lạc xa với hành tương ưng thọ khổ và phi khổ phi lạc; hành tương ưng thọ khổ và phi khổ phi lạc xa với hành tương ưng thọ lạc; hành tương ưng thọ phi khổ phi lạc xa với hành tương ưng thọ lạc và khổ; hành tương ưng thọ lạc và khổ xa với hành tương ưng thọ phi khổ phi lạc; hành của người không nhập thiền xa với hành của người nhập thiền, hành của người nhập thiền xa với hành của người không nhập thiền, hành cảnh lậu xa với hành phi cảnh lậu; hành phi cảnh lậu xa với hành cảnh lậu. Ðây được gọi là hành xa.
Ở ÐÂY, HÀNH GẦN[39] LÀ THẾ NÀO?
Hành bất thiện gần với hành bất thiện; Hành thiện gần với hành thiện; hành vô ký gần với hành vô ký; hành tương ưng thọ khổ gần với hành tương ưng thọ khổ; hành tương ưng thọ lạc gần với hành tương ưng thọ lạc; hành tương ưng thọ phi khổ phi lạc gần với hành tương ưng thọ phi khổ phi lạc, hành của người không nhập thiền gần với hành của người không nhập thiền, hành của người nhập thiền gần với hành của người nhập thiền, hành cảnh lậu gần với hành cảnh lậu; hành phi cảnh lậu gần với hành phi cảnh lậu. Ðây gọi là hành gần.
Hoặc do so sánh hành nầy với hành kia, nên được gọi là hành xa hành gần.
THỨC UẨN (Viññānakkhandho)
[26] Ở ÐÂY THẾ NÀO LÀ THỨC UẨN?
Bất cứ thức gì thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại, bên trong hoặc bên ngoài, thô hoặc tế, xấu hoặc tốt, xa hoặc gần, mà gom chung, tổng kết lại. Ðây gọi là thức uẩn.
[27] Ở ÐÂY, THỨC QUÁ KHỨ[40] LÀ THẾ NÀO?
Thức nào đã qua, đã tiêu diệt, đã lìa mất, đã biến chuyển, đã biên diệt, đã biến hoại, đã sanh rồi diệt, đã vượt khỏi, gom lại thành phần quá khứ, tức là nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức. Ðây gọi là thức quá khứ.
Ở ÐÂY THỨC VỊ LAI[41] LÀ THẾ NÀO?
Thức nào chưa sanh, chưa có, chưa thành, chưa xuất hiện, chưa phát khởi, chưa hiện khởi, chưa sanh khởi, chưa tương sanh, chưa dậy khởi, chưa ứng khởi, chưa xẩy đến, gom lại thành phần vị lai, tức là nhãn thức… (trùng)… ý thức. Ðây gọi là thức vị lai.
Ở ÐÂY, THỨC HIỆN TẠI[42] LÀ THẾ NÀO?
Thức nào đang sanh, đang có, đang thành, đang xuất hiện, đang hiện khởi, đang phát khởi, đang sanh khởi, đang tương sanh, đang dậy khởi, đang ứng khởi, đang sanh tồn, gom lại thành phần hiện tại; tức là nhãn thức… (trùng)… ý thức. Ðây gọi là thức hiện tại.
[28] Ở ÐÂY THỨC BÊN TRONG[43] LÀ THẾ NÀO?
Thức nào thuộc bên trong của mỗi chúng sanh, thuộc phần riêng, thuộc tư hữu, thuộc cá nhân, thành do thủ; tức là nhãn thức… (trùng)… ý thức. Ðây gọi là thức bên trong.
Ở ÐÂY THỨC BÊN NGOÀI[44] LÀ THẾ NÀO?
Thức nào thuộc bên trong của các chúng sanh khác, nhân vật khác, thuộc phần riêng, thuộc tư hữu, thuộc cá nhân, thành do thủ tức là từ nhãn thức… (trùng)… ý thức. Ðây gọi là thức bên ngoài.
[29] Ở ÐÂY THỨC THÔ THỨC TẾ[45] LÀ THẾ NÀO?
Thức bất thiện là thô, thức thiện và vô ký là tế; thức thiện và bất thiện là thô, thức vô ký là tế; thức tương ưng thọ khổ là thô, thức tương ưng thọ lạc và phi khổ lạc là tế; thức tương ưng thọ lạc và khổ là thô, thức tương ưng thọ phi khổ phi lạc là tế; thức của người không nhập thiền là thô, thức của người nhập thiền là tế; thức cảnh lậu là thô, thức phi cảnh lậu là tế; hoặc do so sánh thức nầy thức kia mà được nhận là thức thô thức tế.
[30] Ở ÐÂY, THỨC XẤU THỨC TỐT[46] LÀ THẾ NÀO?
Thức bất thiện là xấu, thức thiện và vô ký là tốt; thức thiện và bất thiện là xấu, thức vô ký là tốt; thức tương ưng thọ khổ là xấu, thức tương ưng thọ lạc và phi khổ phi lạc là tốt; thức tương ưng thọ lạc là khổ là xấu, thức tương ưng thọ phi khổ phi lạc là tốt; thức của người không nhập thiền là xấu, thức của người nhập thiền là tốt; thức cảnh lậu là xấu, thức phi cảnh lậu là tốt; hoặc so sánh thức nầy thức kia mà được nhận là thức xấu thức tốt.
[31] Ở ÐÂY THỨC XA[47] LÀ THẾ NÀO?
Thức bất thiện xa với thức thiện và vô ký; thức thiện và vô ký xa với thức bất thiện; thức thiện xa với thức bất thiện và vô ký; thức bất thiện và vô ký xa với thức thiện; thức vô ký xa với thức thiện và bất thiện; thức thiện và bất thiện xa với thức vô ký; thức tương ưng thọ khổ xa với thức tương ưng thọ lạc và phi khổ phi lạc; thức tương ưng thọ lạc và phi khổ phi lạc xa với thức tương ưng thọ khổ; thức tương ưng thọ lạc xa với thức tương ưng thọ khổ và phi khổ phi lạc; thức tương ưng thọ khổ và phi khổ phi lạc xa với thức tương ưng thọ lạc; thức tương ưng thọ phi khổ phi lạc xa với thức tương ưng thọ lạc và khổ; thức tương ưng thọ lạc và thọ khổ xa với thức tương ưng thọ phi khổ phi lạc; thức của người không nhập thiền xa với thức của người nhập thiền, thức của người nhập thiền xa với thức của người không nhập thiền, thức cảnh lậu xa với thức phi cảnh lậu; thức phi cảnh lậu xa với thức cảnh lậu. Ðây được gọi là thức xa.
Ở ÐÂY, THỨC GẦN[48] LÀ THẾ NÀO?
Thức bất thiện gần với thức bất thiện; thức thiện gần với thức thiện; thức vô ký gần với thức vô ký; thức tương ưng thọ khổ gần với thức tương ưng thọ khổ; thức tương ưng thọ lạc gần với thức tương ưng thọ lạc; thức tương ưng thọ phi khổ phi lạc gần với thức tương ưng thọ phi khổ phi lạc, thức của người không nhập thiền gần với thức của người không nhập thiền, thức của người nhập thiền gần với thức của người nhập thiền, thức cảnh lậu gần với thức cảnh lậu; thức phi cảnh lậu gần với thức phi cảnh lậu. Ðây gọi là thức gần.
Hoặc do so sánh thức nầy với thức kia, nên được gọi là thức xa thức gần.
DỨT PHẦN PHÂN TÍCH THEO KINH
PHÂN TÍCH THEO VI DIỆU PHÁP
(ABHIDHAMMABHĀJANĪYA)
[32] Ngũ uẩn là sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn.
SẮC UẨN (Rūpakkhandho)
Ở ÐÂY THẾ NÀO LÀ SẮC UẨN?
[33] Sắc uẩn phân theo một loại: Tất cả sắc là phi nhân, là vô nhân, là bất tương ưng nhân, là hữu duyên, là hữu vi, là thể hoại, là hiệp thế, là cảnh lậu, là cảnh triền, là cảnh phược, là cảnh bộc, là cảnh phối, là cảnh cái, là cảnh khinh thị, là cảnh thủ, là cảnh phiền não, là vô ký, là bất tri cảnh, là phi sở hữu tâm, là bất tương ưng tâm, là phi dị thục phi dị thục nhân, là phi phiền toái cảnh phiền não, là phi hữu tầm hữu tứ, là phi vô tầm hữu tứ, là phi vô tầm vô tứ, là phi câu hành hỷ, là phi câu hành lạc, là phi câu hành xả, là phi kiến đạo phi tiến đạo ưng trừ, là phi hữu nhân kiến đạo tiến đạo ưng trừ, là phi nhân đến tích tập, phi nhân đến tịch diệt, là phi hữu học phi vô học, là hy thiểu, là dục giới, là phi sắc giới, là phi vô sắc giới, là hệ thuộc, là bất định, là phi dẫn xuất, là hiện sanh, là được sáu thức ứng tri, là vô thường bị già chi phối. Sắc uẩn phân theo một loại là như vậy.
[34] SẮC UẨN PHÂN THEO HAI LOẠI:
– Có sắc thủ, có sắc phi thủ.
– Có sắc do thủ, có sắc phi do thủ.
– Có sắc do thủ cảnh thủ, có sắc phi do thủ cảnh thủ.
– Có sắc hữu kiến, có sắc vô kiến.
– Có sắc hữu đối chiếu, có sắc vô đối chiếu.
– Có sắc quyền, Có sắc phi quyền.
– Có sắc đại hiển, Có sắc phi đại hiển.
– Có sắc biểu tri, Có sắc phi biểu tri.
– Có sắc do tâm sở sanh, Có sắc phi do tâm sở sanh.
– Có sắc đồng hiện hữu với tâm, Có sắc phi đồng hiện hữu với tâm.
– Có sắc tùy chuyển với tâm, Có sắc phi tùy chuyển với tâm.
– Có sắc nội phần, Có sắc ngoại phần.
– Có sắc thô, Có sắc tế.
– Có sắc viễn, Có sắc cận…(trùng)… Có sắc đoàn thực, Có sắc phi đoàn thực.
Sắc uẩn phân theo hai loại là như vậy.
[35] SẮC UẨN PHÂN THEO BA LOẠI:
– Sắc nào là sắc nội phần ấy là sắc y sinh; Sắc nào là sắc ngoại phần ấy có sắc y sinh, có sắc phi y sinh.
– Sắc nào là sắc nội phần ấy là sắc do thủ, Sắc nào là sắc ngoại phần ấy có sắc do thủ, có sắc phi do thủ.
– Sắc nào là sắc nội phần ấy là sắc do thủ cảnh; Sắc nào là sắc ngoại phần ấy có sắc do thủ cảnh thủ, có sắc phi do thủ cảnh thủ…(trùng)…
– Sắc nào là sắc nội phần ấy là sắc đoàn thực; Sắc nào là sắc ngoại phần ấy có sắc đoàn thực, có sắc phi đoàn thực.
Sắc uẩn phân theo ba loại là như vậy.
[36] SẮC UẨN PHÂN THEO BỐN LOẠI:
– Sắc nào là sắc y sinh, sắc ấy có sắc do thủ có sắc phi do thủ; Sắc nào là sắc phi y sinh, sắc ấy có sắc do thủ có sắc phi do thủ.
– Sắc nào là sắc y sinh, sắc ấy có sắc do thủ, cảnh thủ, có sắc phi do thủ cảnh thủ; Sắc nào là sắc phi y sinh, sắc ấy có sắc do thủ cảnh thủ, có sắc phi do thủ cảnh thủ.
– Sắc nào là sắc y sinh, sắc ấy có sắc hữu đối chiếu, có sắc vô đối chiếu, Sắc nào là sắc phi y sinh, sắc ấy có sắc hữu đối chiếu, có sắc vô đối chiếu.
– Sắc nào là sắc y sinh, sắc ấy có sắc thô, có sắc tế; Sắc nào là sắc phi y sinh, sắc ấy có sắc thô, có sắc tế.
– Sắc nào là sắc y sinh, sắc ấy có sắc viễn, có sắc cận; Sắc nào là sắc phi y sinh, sắc ấy có sắc viễn, có sắc cận…(trùng )…
– Sắc thấy được sắc nghe được, sắc cảm được, sắc biết được.
Sắc uẩn phân theo bốn loại là như vậy.
[37] SẮC UẨN PHÂN THEO NĂM LOẠI:
– Ðiạ giới, hỏa giới, thủy giới, phong giới và sắc y sinh.
Sắc uẩn phân theo năm loại là như vậy.
[38] SẮC UẨN PHÂN THEO SÁU LOẠI
– Sắc nhãn ứng tri, sắc nhĩ ứng tri, sắc tỷ ứng tri, sắc thiệt ứng tri, sắc thân ứng tri, sắc ý ứng tri[49].
Sắc uẩn phân theo sáu loại là như vậy.
[39] SẮC UẨN PHÂN THEO BẢY LOẠI
– Sắc nhãn ứng tri… (trùng)… sắc ý giới ứng tri, sắc ý thức giới ứng tri.
Sắc uẩn phân theo bảy loại là như vậy.
[40] SẮC UẨN PHÂN THEO TÁM LOẠI
– Sắc nhãn ứng tri…(trùng)… sắc thân ứng tri có xúc lạc, có xúc khổ, sắc ý giới ứng tri, sắc ý thức giới ứng tri.
Sắc uẩn phân theo tám loại là như vậy.
[41] SẮC UẨN PHÂN THEO CHÍN LOẠI
-Nhãn quyền[50], nhĩ quyền, tỷ quyền, thiệt quyền, thân quyền, nữ quyền, nam quyền, mạng quyền và sắc phi quyền.
Sắc uẩn phân theo chín loại là như vậy.
[42] SẮC UẨN PHÂN THEO MƯỜI LOẠI
– Nhãn quyền …(trùng)… mạng quyền, sắc phi quyền có loại hữu đối chiếu[51], có loại vô đối chiếu.
Sắc uẩn phân theo mười loại là như vậy.
[43] SẮC UẨN PHÂN THEO MƯỜI MỘT LOẠI:
– Nhãn xứ, nhĩ xứ, tỷ xứ, thiệt xứ, thân xứ, sắc xứ, thinh xứ, khí xứ, vị xứ, xúc xứ, và sắc vô kiến vô đối chiếu liên quan pháp xứ.
Sắc uẩn phân theo mười một loại là như vậy.
ÐÂY GỌI LÀ SẮC UẨN
THỌ UẨN (Vedanākkhandho)
Ở ÐÂY THẾ NÀO LÀ THỌ UẨN?
[44] Thọ uẩn phân theo một loại: Thọ tương ưng xúc.
– Thọ uẩn phân theo hai loại: Có thọ hữu nhân, có thọ vô nhân.
– Thọ uẩn phân theo ba loại: Có thọ thiện, có thọ bất thiện, có thọ vô ký.
– Thọ uẩn phân theo bốn loại: Có thọ dục giới, có thọ sắc giới, có thọ vô sắc giới, có thọ phi hệ thuộc.
– Thọ uẩn phân theo năm loại: Có thọ lạc quyền, có thọ khổ quyền, có thọ hỷ quyền, có thọ ưu quyền, có thọ xả quyền.
– Thọ uẩn phân theo sáu loại: Thọ sanh từ nhãn xúc, thọ sanh từ nhĩ xúc, thọ sanh từ tỷ xúc, thọ sanh từ thiệt xúc, thọ sanh từ thân xúc, thọ sanh từ ý xúc.
Thọ uẩn phân theo sáu loại là như vậy.
– Thọ uẩn phân theo bảy loại: Thọ sanh từ nhãn xúc …(trùng)… thọ sanh từ thân xúc, thọ sanh từ ý giới xúc, thọ sanh từ ý thức giới xúc.
Thọ uẩn phân theo bảy loại là như vậy.
– Thọ uẩn phân theo tám loại: Thọ sanh từ nhãn xúc …(trùng)… thọ sanh từ thân xúc có lạc, có khổ, thọ sanh từ ý giới xúc, thọ sanh từ ý thức giới xúc.
Thọ uẩn phân theo tám loại là như vậy.
– Thọ uẩn phân theo chín loại: Thọ sanh từ nhãn xúc …(trùng)… thọ sanh từ thân xúc, thọ sanh từ ý giới xúc, thọ sanh từ ý thức giới xúc có thiện, có bất thiện, có vô ký.
Thọ uẩn phân theo chín loại là như vậy.
– Thọ uẩn phân theo mười loại: Thọ sanh từ nhãn xúc …(trùng)… thọ sanh từ thân xúc có lạc, có khổ, thọ sanh từ ý giới xúc, thọ sanh từ ý thức giới xúc có thiện, có bất thiện, có vô ký.
Thọ uẩn phân theo mười loại là như vậy.
[45] Thọ uẩn phân theo một loại: Thọ tương ưng xúc.
– Thọ uẩn phân theo hai loại: Có thọ hữu nhân, có thọ vô nhân.
– Thọ uẩn phân theo ba loại: Có thọ dị thục, có thọ dị thục nhân, Có thọ phi dị thục, phi dị thục nhân.
Có thọ do thủ cảnh thủ, Có thọ phi do thủ cảnh thủ, Có thọ phi do thủ phi cảnh thủ.
Có thọ phiền toái cảnh phiền não, Có thọ phi phiền toái cảnh phiền não, Có thọ phi phiền toái phi cảnh phiền não.
Có thọ hữu tầm hữu tứ, Có thọ vô tầm hữu tứ, có thọ vô tầm vô tứ.
Có thọ đáng do kiến đạo đoạn trừ[52], Có thọ đáng do tiến đạo đoạn trừ[53],Có thọ không đáng do kiến đạo đoạn trừ .
Có thọ hữu nhân đáng do kiến đạo đoạn trừ, Có thọ hữu nhân đáng do tiến đạo đoạn trừ, Có thọ hữu nhân đáng do kiến đạo tiến đạo đoạn trừ.
Có thọ nhân đến tích tập[54],có thọ nhân đến tịch diệt[55], có thọ phi nhân đến tích tập phi nhân đến tịch diệt.
Có thọ hữu học, có thọ vô học, Có thọ phi hữu học phi vô học.
Có thọ hy thiểu, có thọ đáo đại, có thọ vô lượng.
Có thọ biết cảnh hy thiểu, có thọ biết cảnh đáo đại, có thọ biết cảnh vô lượng.
Có thọ ty hạ, có thọ trung bình, có thọ tinh lương.
Có thọ cố định phần tà, có thọ cố định phần chánh, có thọ phi cố định.
Có thọ đạo thành cảnh, có thọ đạo thành nhân, có thọ đạo thành trưởng.
Có thọ sanh tồn, có thọ vị sanh tồn, có thọ chuẩn sanh.
Có thọ quá khứ, có thọ vị lai, có thọ hiện tại.
Có thọ biết cảnh quá khứ, có thọ biết cảnh vị lai, có thọ biết cảnh hiện tại.
Có thọ nội phần, có thọ ngoại phần, có thọ nội ngoại phần.
Có thọ biết cảnh nội phần, có thọ biết cảnh ngoại phần, có thọ biết cảnh nội ngoại… (trùng) ….
Thọ uẩn phân theo mười loại là như vậy.
PHẦN CĂN NHỊ ÐỀ (Dukamūlakaṃ)
[46] Thọ uẩn phân theo một loại: Thọ tương ưng xúc.
Thọ uẩn phân theo hai loại: Có thọ tương ưng nhân, Có thọ bất tương ưng nhân.
Có thọ phi nhân hữu nhân, Có thọ phi nhân vô nhân.
Có thọ hiệp thế, có thọ siêu thế.
Có thọ đáng vài tâm biết[56], Có thọ không đáng vài tâm biết[57]
Có thọ cảnh lậu, có thọ phi cảnh lậu.
Có thọ tương ưng lậu, có thọ bất tương ưng lậu.
Có thọ bất tương ưng lậu, Có thọ tương ưng lậu phi cảnh lậu.
Có thọ cảnh triền, có thọ phi cảnh triền.
Có thọ tương ưng triền, có thọ bất tương ưng triền.
Có thọ bất tương ưng triền cảnh triền, có thọ bất tương ưng triền phi cảnh triền.
Có thọ cảnh phược, có thọ phi cảnh phược.
Có thọ tương ưng phược, có thọ bất tương ưng phược.
Có thọ bất tương ưng phược cảnh phược, có thọ bất tương ưng phược phi cảnh phược.
Có thọ cảnh bộc, có thọ phi cảnh bộc.
Có thọ tương ưng bộc, có thọ bất tương ưng bộc.
Có thọ bất tương ưng bộc cảnh bộc, có thọ bất tương ưng bộc phi cảnh bộc.
Có thọ cảnh phối, có thọ phi cảnh phối.
Có thọ tương ưng phối, có thọ bất tương ưng phối.
Có thọ bất tương ưng phối cảnh phối, có thọ bất tương ưng phối phi cảnh phối.
Có thọ cảnh cái, có thọ phi cảnh cái, có thọ tương ưng cái, có thọ bất tương ưng cái.
Có thọ tương ưng cái cảnh cái, có thọ bất tương ưng cái phi cảnh cái.
Có thọ cảnh khinh thị[58], có thọ phi cảnh khinh thị.
Có thọ tương ưng khinh thị, có thọ bất tương ưng khinh thị.
Có thọ bất tương ưng khinh thị cảnh khinh thị, có thọ bất tương ưng khinh thị phi cảnh khinh thị.
Có thọ do thủ, có thọ phi do thủ.
Có thọ cảnh thủ, có thọ phi cảnh thủ.
Có thọ tương ưng thủ, có thọ bất tương ưng thủ.
Có thọ bất tương ưng thủ cảnh thủ, có thọ bất tương ưng thủ phi cảnh thủ.
Có thọ cảnh phiền não, có thọ phi cảnh phiền não.
Có thọ phiền toái, có thọ phi phiền toái.
Có thọ tương ưng phiền não, có thọ bất tương ưng phiền não.
Có thọ bất tương ưng phiền não cảnh phiền não, có thọ bất tương ưng phiền não phi cảnh phiền não.
Có thọ đáng do kiến đạo đoạn trừ, có thọ không đáng do kiến đạo đoạn trừ.
Có thọ đáng do tiến đạo đoạn trừ, có thọ không đáng do tiến đạo đoạn trừ.
Có thọ hữu nhân đáng do kiến đạo đoạn trừ, có thọ phi hữu nhân đáng do kiến đạo đoạn trừ.
Có thọ hữu nhân đáng do tiến đạo đoạn trừ, có thọ phi hữu nhân đáng do tiến đạo đoạn trừ.
Có thọ hữu tầm, có thọ vô tầm.
Có thọ hữu tứ, có thọ vô tứ.
Có thọ hữu hỷ, có thọ vô hỷ.
Có thọ câu hành hỷ, có thọ phi câu hành hỷ.
Có thọ dục giới, có thọ phi dục giới.
Có thọ sắc giới, có thọ phi sắc giới.
Có thọ vô sắc giới, có thọ phi vô sắc giới.
Có thọ hệ thuộc[59], có thọ phi hệ thuộc.
Có thọ dẫn xuất[60], có thọ phi dẫn xuất.
Có thọ cố định[61], có thọ phi cố định.
Có thọ hữu thượng[62], có thọ vô thượng.
Có thọ hữu tranh[63], có thọ vô tranh.
– Thọ uẩn phân theo ba loại: Có thọ thiện, có thọ bất thiện, có thọ vô ký…(trùng)… Thọ uẩn phân theo mười loại là như vậy.
[47] Thọ uẩn phân theo một loại: Thọ tương ưng xúc.
– Thọ uẩn phân theo hai loại: Có thọ hữu tranh, có thọ vô tranh.
– Thọ uẩn phân theo ba loại: Có thọ dị thục, có thọ dị thục nhân, có thọ phi dị thục phi dị thục nhân… (trùng)… có thọ biết cảnh nội phần, có thọ biệt cảnh ngoại phần, có thọ biết cảnh nội ngoại phần…(trùng)…
Thọ uẩn phân theo mười loại là như vậy.
DỨT CĂN NHỊ ÐỀ
PHẦN CĂN TAM ÐỀ (Tikamūlakaṃ)
[48] Thọ uẩn phân theo một loại: Thọ tương ưng xúc.
Thọ uẩn phân theo hai loại: Có thọ hữu nhân có thọ vô nhân.
– Thọ uẩn phân theo ba loại: Có thọ thiện, có thọ bất thiện, có thọ vô ký… (trùng)… thọ uẩn phân theo mười loại là như vậy.
– Thọ uẩn phân theo một loại: Thọ tương ưng xúc.
– Thọ uẩn phân theo hai loại: Có thọ hữu tranh có thọ vô tranh.
– Thọ uẩn phân theo ba loại: Có thọ thiện, có thọ bất thiện, có thọ vô ký… (trùng)… thọ uẩn phân theo mười loại là như vậy.
– Thọ uẩn phân theo một loại: Thọ tương ưng xúc.
– Thọ uẩn phân theo hai loại: Có thọ hữu nhân có thọ vô nhân.
– Thọ uẩn phân theo ba loại: Có thọ dị thục, có thọ dị thục nhân, có thọ phi dị thục phi dị thục nhân… (trùng)… có thọ biết cảnh nội phần, có thọ biết cảnh ngoại phần, có thọ biết cảnh nội ngoại phần… (trùng)… Thọ uẩn phân theo mười loại là như vậy.
– Thọ uẩn phân theo một loại: Thọ tương ưng xúc.
– Thọ uẩn phân theo hai loại: Có thọ hữu tranh có thọ vô tranh.
– Thọ uẩn phân theo ba loại: Có thọ dị thục[64], có thọ dị thục nhân[65], có thọ phi dị thục phi dị thục nhân… (trùng)… có thọ biết cảnh nội phần, có thọ biết cảnh ngoại phần, có thọ biết cảnh nội ngoại phần… (trùng)… Thọ uẩn phân theo mười loại là như vậy.
DỨT CĂN TAM ÐỀ
PHẦN LƯỠNG LỢI (Ubhatovaddhakaṃ).
[49] Thọ uẩn phân theo một loại: Thọ tương ưng xúc.
– Thọ uẩn phân theo hai loại: Có thọ hữu nhân có thọ vô nhân.
– Thọ uẩn phân theo ba loại: Có thọ thiện, có thọ bất thiện, có thọ vô ký… (trùng)… thọ uẩn phân theo mười loại là như vậy.
– Thọ uẩn phân theo một loại: Thọ tương ưng xúc.
– Thọ uẩn phân theo hai loại: Có thọ tương ưng nhân, có thọ bất tươmg ưng nhân.
– Thọ uẩn phân theo ba loại: Có thọ dị thục, có thọ dị thục nhân, có thọ phi dị thục phi dị thục nhân… (trùng)… thọ uẩn phân theo mười loại là như vậy.
– Thọ uẩn phân theo một loại: Thọ tương ưng xúc.
– Thọ uẩn phân theo hai loại: Có thọ phi nhân hữu nhân, có thọ phi nhân vô nhân.
– Thọ uẩn phân theo ba loại: Có thọ do thủ cảnh thủ, có thọ phi do thủ cảnh thủ, có thọ phi do thủ phi cảnh thủ…(trùng)… thọ uẩn phân theo mười loại là như vậy.
– Thọ uẩn phân theo một loại: Thọ tương ưng xúc.
– Thọ uẩn phân theo hai loại: Có thọ hiệp thế, có thọ siêu thế.
– Thọ uẩn phân theo ba loại: Có thọ phiền toái cảnh phiền não, có thọ phi phiền toái cảnh phiền não, có thọ phi phiền toái phi cảnh phiền não…(trùng)… thọ uẩn phân theo mười loại là như vậy.
– Thọ uẩn phân theo một loại: Thọ tương ưng xúc.
– Thọ uẩn phân theo hai loại: Có thọ đáng vài tâm biết, có thọ không đáng vài tâm biết.
– Thọ uẩn phân theo ba loại: Có thọ hữu tầm hữu tứ, có thọ vô tầm hữu tứ, có thọ vô tầm vô tứ…(trùng)… thọ uẩn phân theo mười loại là như vậy.
– Thọ uẩn phân theo một loại: Thọ tương ưng xúc.
– Thọ uẩn phân theo hai loại: Có thọ cảnh lậu, có thọ phi cảnh lậu.
– Thọ uẩn phân theo ba loại: Có thọ đáng do kiến đạo đoạn trừ, có thọ đáng do tiến đạo đoạn trừ, có thọ không đáng do kiến đạo tiến đạo đoạn trừ…(trùng)… thọ uẩn phân theo mười loại là như vậy.
– Thọ uẩn phân theo một loại: Thọ tương ưng xúc.
– Thọ uẩn phân theo hai loại: Có thọ tương ưng lậu, có thọ bất tươmg ưng lậu.
– Thọ uẩn phân theo ba loại: Có thọ hữu nhân đáng do kiến đạo đoạn trừ, có thọ hữu nhân đáng do tiến đạo đoạn trừ, có thọ phi hữu nhân đáng do kiến đạo tiến đạo đoạn trừ…(trùng)… thọ uẩn phân theo mười loại là như vậy
– Thọ uẩn phân theo một loại: Thọ tương ưng xúc.
– Thọ uẩn phân theo hai loại: thọ bất tương ưng lậu cảnh lậu, có thọ bất tương ưng lậu phi cảnh lậu.
– Thọ uẩn phân theo ba loại: Có thọ nhân đến tích tập, có thọ nhân đến tịch diệt, có thọ phi nhân đến tích tập phi nhân đến tịch diệt…(trùng)… thọ uẩn phân theo mười loại là như vậy.
– Thọ uẩn phân theo một loại: Thọ tương ưng xúc.
– Thọ uẩn phân theo hai loại: Có thọ cảnh triền, có thọ phi cảnh triền.
– Thọ uẩn phân theo ba loại: Có thọ hữu học, có thọ vô học, có thọ phi hữu học phi vô học…(trùng)… thọ uẩn phân theo mười loại là như vậy.
– Thọ uẩn phân theo một loại: Thọ tương ưng xúc.
– Thọ uẩn phân theo hai loại: Có thọ tương ưng triền, có thọ bất tương ưng triền.
– Thọ uẩn phân theo ba loại: Có thọ hy thiểu, có thọ đáo đại, có thọ vô lượng…(trùng)… thọ uẩn phân theo mười loại là như vậy.
– Thọ uẩn phân theo một loại: Thọ tương ưng xúc.
– Thọ uẩn phân theo hai loại: Có thọ bất tương ưng triền cảnh triền, có thọ bất tương ưng triền phi cảnh triền.
– Thọ uẩn phân theo ba loại: Có thọ biết cảnh hy thiểu, có thọ biết cảnh đáo đại, có thọ biết cảnh vô lượng…(trùng)… thọ uẩn phân theo mười loại là như vậy.
– Thọ uẩn phân theo một loại: Thọ tương ưng xúc.
– Thọ uẩn phân theo hai loại: Có thọ cảnh phược, có thọ phi cảnh phược.
– Thọ uẩn phân theo ba loại: Có thọ ty hạ, có thọ trung bình, có thọ tinh lương…(trùng)… thọ uẩn phân theo mười loại là như vậy.
– Thọ uẩn phân theo một loại: Thọ tương ưng xúc.
– Thọ uẩn phân theo hai loại: Có thọ tương ưng phược, có thọ bất tương ưng phược.
– Thọ uẩn phân theo ba loại: Có thọ cố định phần tà, có thọ cố định phần chánh, có thọ phi cố định…(trùng)… thọ uẩn phân theo mười loại là như vậy.
– Thọ uẩn phân theo một loại: Thọ tương ưng xúc.
– Thọ uẩn phân theo hai loại: Có thọ bất tương ưng phược cảnh phược, có thọ bất tương ưng phược phi cảnh phược.
– Thọ uẩn phân theo ba loại: Có thọ đạo thành cảnh, có thọ đạo thành nhân, có thọ đạo thành trưởng…(trùng)… thọ uẩn phân theo mười loại là như vậy.
– Thọ uẩn phân theo một loại: Thọ tương ưng xúc.
– Thọ uẩn phân theo hai loại: Có thọ cảnh bộc, có thọ phi cảnh bộc.
– Thọ uẩn phân theo ba loại: Có thọ sanh tồn, có thọ vị sanh tồn, có thọ chuẩn sanh…(trùng)… thọ uẩn phân theo mười loại là như vậy.
– Thọ uẩn phân theo một loại: Thọ tương ưng xúc.
– Thọ uẩn phân theo hai loại: Có thọ tương ưng bộc, có thọ bất tương ưng bộc.
– Thọ uẩn phân theo ba loại: Có thọ quá khứ, có thọ vị lai, có thọ hiện tại…(trùng)… thọ uẩn phân theo mười loại là như vậy.
– Thọ uẩn phân theo một loại: Thọ tương ưng xúc.
– Thọ uẩn phân theo hai loại: Có thọ bất tương ưng bộc cảnh bộc, có thọ bất tương ưng bộc phi cảnh bộc.
– Thọ uẩn phân theo ba loại: Có thọ biết cảnh quá khứ, có thọ biết cảnh vị lai, có thọ biết cảnh hiện tại…(trùng)… thọ uẩn phân theo mười loại là như vậy.
– Thọ uẩn phân theo một loại: Thọ tương ưng xúc.
– Thọ uẩn phân theo hai loại: Có thọ cảnh phối, có thọ phi cảnh phối.
– Thọ uẩn phân theo ba loại: Có thọ nội phần, có thọ ngoại phần, có thọ nội ngoại phần…(trùng)… thọ uẩn phân theo mười loại là như vậy.
– Thọ uẩn phân theo một loại: Thọ tương ưng xúc.
– Thọ uẩn phân theo hai loại: Có thọ tương ưng phối, có thọ bất tương ưng phối.
– Thọ uẩn phân theo ba loại: Có thọ biết cảnh nội phần, có thọ biết cảnh ngoại phần, có thọ biết cảnh nội ngoại phần…(trùng)… thọ uẩn phân theo mười loại là như vậy.
DỨT PHẦN LƯỠNG LỢI
PHẦN PHÂN ÐA (Bahuvidhavāro)
[50] THỌ UẨN PHÂN THEO BẢY LOẠI:Có thọ thiện, có thọ bất thiện, có thọ vô ký, có thọ dục giới, có thọ sắc giới, có thọ vô sắc giới, có thọ phi hệ thuộc. Thọ uẩn phân theo bảy loại là như vậy.
Mặt khác, thọ uẩn phân theo bảy loại: Có thọ dị thục, có thọ dị thục nhân, có thọ phi dị thục phi dị thục nhân… (trùng)… có thọ biết cảnh nội phần, có thọ biết cảnh ngoại phần, có thọ biết cảnh nội ngoại phần, có thọ dục giới, có thọ sắc giới, có thọ vô sắc giới, có thọ phi hệ thuộc. Thọ uẩn phân theo bảy loại là như vậy.
[51] Thọ uẩn phân theo hai mươi bốn loại: Thọ uẩn do duyên nhãn xúc có thiện, có bất thiện, có vô ký, thọ uẩn do duyên nhĩ xúc… (trùng)… thọ uẩn do duyên tỷ xúc… (trùng)… thọ uẩn do duyên thiệt xúc… (trùng)… thọ uẩn do duyên thân xúc… (trùng)… thọ uẩn do duyên ý xúc có thiện, có bất thiện, có vô ký; thọ sanh từ nhãn xúc, thọ sanh từ nhĩ xúc, thọ sanh từ tỷ xúc, thọ sanh từ thiệt xúc, thọ sanh từ thân xúc, thọ sanh từ ý xúc. Thọ uẩn phân theo hai mươi bốn loại là như vậy.
Mặt khác, thọ uẩn phân theo hai mươi bốn loại: thọ uẩn do duyên nhãn xúc có dị thục, có dị thục nhân, có phi dị thục phi dị thục nhân… (trùng)… có biết cảnh nội phần, có biết cảnh ngoại phần, có biết cảnh nội ngoại phần, thọ uẩn do duyên nhĩ xúc… (trùng)… thọ uẩn do duyên tỷ xúc… (trùng)… thọ uẩn do duyên thiệt xúc… (trùng)… thọ uẩn do duyên thân xúc… (trùng)… thọ uẩn do duyên ý xúc có biết cảnh nội phần, có biết cảnh ngoại phần, có biết cảnh nội ngoại phần; thọ sanh từ nhãn xúc… (trùng)…, thọ sanh từ ý xúc. Thọ uẩn phân theo hai mươi bốn loại là như vậy.
[52] Thọ uẩn phân theo ba mươi loại: thọ uẩn do duyên nhãn xúc có dục giới, có sắc giới, có vô sắc giới, có phi hệ thuộc, thọ uẩn do duyên nhĩ xúc… (trùng)… thọ uẩn do duyên tỷ xúc… (trùng)… thọ uẩn do duyên thiệt xúc..(trùng)… thọ uẩn do duyên thân xúc… (trùng)… thọ uẩn do duyên ý xúc có dục giới, có sắc giới, có vô sắc giới; có phi hệ thuộc; thọ sanh từ nhãn xúc…(trùng)…, thọ sanh từ ý xúc… (trùng)… Thọ uẩn phân theo ba mươi loại là như vậy.
[53] Thọ uẩn phân thọ nhiều loại: thọ uẩn do duyên nhãn xúc có thiện, có bất thiện, có vô ký, có dục giới, có sắc giới, có vô sắc giới; có phi hệ thuộc; thọ uẩn do duyên nhĩ xúc …(trùng)… thọ uẩn do duyên tỷ xúc… (trùng)… thọ uẩn do duyên thiệt xúc… (trùng)… thọ uẩn do duyên thân xúc… (trùng)… thọ uẩn do duyên ý xúc có thiện, có bất thiện, có vô ký, có dục giới, có sắc giới, có vô sắc giới; có phi hệ thuộc; thọ sanh từ nhãn xúc… (trùng)…, thọ sanh từ ý xúc… (trùng)… Thọ uẩn phân theo nhiều loại là như vậy.
Mặt khác, thọ uẩn phân theo nhiều loại: thọ uẩn do duyên nhãn xúc có dị thục, có dị thục nhân, có phi dị thục phi dị thục nhân… (trùng)… có biết cảnh nội phần, có biết cảnh ngoại phần, có biết cảnh nội ngoại phần, có dục giới, có sắc giới, có vô sắc giới; có phi hệ thuộc; thọ uẩn do duyên nhĩ xúc… (trùng)… thọ uẩn do duyên tỷ xúc… (trùng)… thọ uẩn do duyên thiệt xúc… (trùng)… thọ uẩn do duyên thân xúc… (trùng)… thọ uẩn do duyên ý xúc có biết cảnh nội phần, có biết cảnh ngoại phần, có biết cảnh nội ngoại phần; có dục giới, có sắc giới, có vô sắc giới; có phi hệ thuộc; thọ sanh từ nhãn xúc… (trùng)…, thọ sanh từ ý xúc. Thọ uẩn phân theo nhiều loại là như vậy.
Ðây gọi là thọ uẩn.
DỨT PHẦN PHÂN ÐA
TƯỞNG UẨN (Sannākkhāndho)
Ở ÐÂY THẾ NÀO LÀ TƯỞNG UẨN?
[54] TƯỞNG UẨN PHÂN THEO MỘT LOẠI: Tưởng tương ưng xúc.
Tưởng uẩn phân theo hai loại: Có tưởng hữu nhân, có tưởng vô nhân.
– Tưởng uẩn phân theo ba loại: Có tưởng thiện, có tưởng bất thiện, có tưởng vô ký.
– Tưởng uẩn phân theo bốn loại: Có tưởng dục giới, có tưởng sắc giới, có tưởng vô sắc giới; có tưởng phi hệ thuộc.
– Tưởng uẩn phân theo năm loại: Có tưởng tương ưng lạc quyền, có tưởng tương ưng khổ quyền, có tưởng tương ưng ưu quyền, có tưởng tương ưng hỷ quyền có tưởng tương ưng xả quyền.
– Tưởng phân theo sáu loại: Tưởng sanh từ nhãn xúc, tưởng sanh từ nhĩ xúc, tưởng sanh từ tỷ xúc, tưởng sanh từ thiệt xúc, tưởng sanh từ thân xúc, tưởng sanh từ ý xúc.
– Tưởng uẩn phân theo bảy loại: Tưởng sanh từ nhãn xúc… (trùng)… tưởng sanh từ thân xúc, tưởng sanh từ ý giới xúc, tưởng sanh từ ý thức giới xúc. Tưởng uẩn phân theo bảy loại là như vậy.
– Tưởng uẩn phân theo tám loại: Tưởng sanh từ nhãn xúc… (trùng)… tưởng sanh từ thân xúc có câu hành lạc[66], có câu hành khổ[67], tưởng sanh từ ý giới xúc, tưởng sanh từ ý thức giới xúc. Tưởng uẩn phân theo tám loại là như vậy.
– Tưởng uẩn phân theo chín loại: Tưởng sanh từ nhãn xúc… (trùng)… tưởng sanh từ thân xúc, tưởng sanh từ ý giới xúc, tưởng sanh từ ý thức giới xúc có thiện, có bất thiện, có vô ký. Tưởng uẩn phân theo chín loại là như vậy.
– Tưởng uẩn phân theo mười loại: Tưởng sanh từ nhãn xúc… (trùng)… tưởng sanh từ thân xúc có câu hành lạc, có câu hành khổ, tưởng sanh từ ý giới xúc, tưởng sanh từ ý thức giới xúc có thiện, có bất thiện, có vô ký. Tưởng uẩn phân theo mười loại là như thế.
[55] Tưởng uẩn phân theo một loại: Tưởng tương ưng xúc.
– Tưởng uẩn phân theo hai loại: Có tưởng hữu nhân, có tưởng vô nhân.
– Tưởng uẩn phân theo ba loại: Có tưởng tương ưng tưởng lạc, có tưởng tương ưng tưởng khổ, có tưởng tương ưng tưởng phi khổ phi lạc.
Có tưởng dị thục, có tưởng dị thục nhân, có tưởng phi dị thục, phi dị thục nhân.
Có tưởng do thủ cảnh thủ, có tưởng phi do thủ cảnh thủ, có tưởng phi do thủ phi cảnh thủ.
Có tưởng phiền toái cảnh phiền não, có tưởng phi phiền toái cảnh phiền não, có tưởng phi phiền toái phi cảnh phiền não.
Có tưởng hữu tầm hầm tứ, có tưởng vô tầm hữu tứ, có tưởng vô tầm vô tứ.
Có tưởng câu hành hỷ, có tưởng câu hành lạc, có tưởng câu hành xả.
Có tưởng đáng đo kiến đạo đoạn trừ, có tưởng đáng đo tiến đạo đoạn trừ, có tưởng không đáng đo kiến đạo tiến đạo đoạn trừ.
Có tưởng hữu nhân đáng do kiến đạo đoạn trừ, có tưởng hữu nhân đáng do tiến đạo đoạn trừ, có tưởng phi hữu nhân đáng do kiến đạo tiến đạo đoạn trừ.
Có tưởng là nhân đến tích tập, có tưởng là nhân đến tịch diệt, có tưởng là phi nhân đến tích tập phi nhân đến tịch diệt.
Có tưởng hữu học, có tưởng vô học, có tưởng phi hữu học phi vô học.
Có tưởng hy thiểu, có tưởng đáo đại, có tưởng vô lượng.
Có tưởng biết cảnh hy thiểu, có tưởng biết cảnh đáo đại, có tưởng biết cảnh vô lượng.
Có tưởng ty hạ, có tưởng trung bình, có tưởng tinh lương.
Có tưởng cố định phần tà, có tưởng cố định phần chánh, có tưởng phi cố định.
Có tưởng đạo thành cảnh, có tưởng đạo thành nhân, có tưởng đạo thành trưởng.
Có tưởng hiện sanh[68], có tưởng vị sanh tồn[69], có tưởng chuẩn sanh[70].
Có tưởng quá khứ, có tưởng vị lai, có tưởng hiện tại.
Có tưởng biết cảnh quá khứ, có tưởng biết cảnh vị lai, có tưởng biết cảnh hiện tại.
Có tưởng nội phần, có tưởng ngoại phần, có tưởng nội ngoại phần.
Có tưởng biết cảnh nội phần, có tưởng biết cảnh ngoại phần, có tưởng biết cảnh nội ngoại phần…(trùng) ….
Tưởng uẩn phân theo mười loại là như vậy.
PHẦN CĂN NHỊ ÐỀ (Dukamūlakaṃ)
[56] TƯỞNG UẨN PHÂN THEO MỘT LOẠI: Tưởng tương ưng xúc.
Tưởng uẩn phân theo hai loại: Có tưởng tương ưng nhân, có tưởng bất tương ưng nhân.
Có tưởng phi nhân hữu nhân, có tưởng phi nhân vô nhân.
Có tưởng hiệp thế, có tưởng siêu thế.
Có tưởng đáng vài tâm biết, có tưởng không đáng vài tâm biết.
Có tưởng cảnh lậu, có tưởng phi cảnh lậu.
Có tưởng bất tương ưng lậu cảnh lậu, có tưởng bất tương ưng lậu phi cảnh lậu.
Có tưởng cảnh triền, có tưởng phi cảnh triền.
Có tưởng tương ưng triền, có tưởng bất tương ưng triền.
Có tưởng bất tương ưng triền cảnh triền, có tưởng bất tương ưng triền phi cảnh triền.
Có tưởng cảnh phược, có tưởng phi cảnh phược.
Có tưởng tương ưng phược, có tưởng bất tương ưng phược.
Có tưởng bất tương ưng phược cảnh phược, có tưởng bất tương ưng phược phi cảnh phược.
Có tưởng cảnh bộc, có tưởng phi cảnh bộc.
Có tưởng tương ưng bộc, có tưởng bất tương ưng bộc.
Có tưởng bất tương ưng bộc cảnh bộc, có tưởng bất tương ưng bộc phi cảnh bộc.
Có tưởng cảnh phối, có tưởng phi cảnh phối.
Có tưởng tương ưng phối, có tưởng bất tương ưng phối.
Có tưởng bất tương ưng phối cảnh phối, có tưởng bất tương ưng phối phi cảnh phối.
Có tưởng cảnh cái, có tưởng phi cảnh cái.
Có tưởng tương ưng cái, có tưởng bất tương ưng cái.
Có tưởng bất tương ưng cái cảnh cái, có tưởng bất tương ưng cái phi cảnh cái.
Có tưởng cảnh khinh thị, có tưởng phi cảnh khinh thị.
Có tưởng tương ưng khinh thị, có tưởng bất tương ưng khinh thị.
Có tưởng bất tương ưng khinh thị cảnh khinh thị, có tưởng bất tương ưng khinh thị phi cảnh khinh thị.
Có tưởng do thủ, có tưởng phi do thủ.
Có tưởng cảnh thủ, có tưởng phi cảnh thủ.
Có tưởng tương ưng thủ, có tưởng bất tương ưng thủ.
Có tưởng bất tương ưng thủ cảnh thủ, có tưởng bất tương ưng thủ phi cảnh thủ.
Có tưởng cảnh phiền não, có tưởng phi cảnh phiền não.
Có tưởng phiền toái, có tưởng phi phiền toái.
Có tưởng tương ưng phiền não, có tưởng bất tương ưng phiền não.
Có tưởng tương ưng phiền não cảnh phiền não, có tưởng bất tương ưng phiền não phi cảnh phiền não.
Có tưởng đáng do kiến đạo đoạn trừ, có tưởng không đáng do kiến đạo đoạn trừ.
Có tưởng đáng do tiến đạo đoạn trừ, có tưởng không đáng do tiến đạo đoạn trừ.
Có tưởng hữu nhân đáng do kiến đạo đoạn trừ, có tưởng phi hữu nhân đáng do kiến đạo đoạn trừ.
Có tưởng hữu nhân đáng do tiến đạo đoạn trừ, có tưởng phi hữu nhân đáng do tiến đạo đoạn trừ.
Có tưởng hữu tầm, có tưởng vô tầm.
Có tưởng hữu tứ, có tưởng vô tứ.
Có tưởng hữu hỷ, có tưởng vô hỷ.
Có tưởng câu hành hỷ, có tưởng phi câu hành hỷ.
Có tưởng câu hành lạc, có tưởng phi câu hành lạc.
Có tưởng câu hành xả, có tưởng phi câu hành xả.
Có tưởng dục giới, có tưởng phi dục giới.
Có tưởng sắc giới, có tưởng phi sắc giới.
Có tưởng vô sắc giới, có tưởng phi vô sắc giới.
Có tưởng hệ thuộc, có tưởng phi hệ thuộc.
Có tưởng dẫn xuất, có tưởng phi dẫn xuất.
Có tưởng cố định, có tưởng phi cố định.
Có tưởng hữu thượng, có tưởng vô thượng.
Có tưởng hữu tranh, có tưởng vô tranh.
– TƯỞNG UẨN PHÂN THEO BA LOẠI: Có tưởng thiện, có tưởng bất thiện, có tưởng vô ký… (trùng)… Tưởng uẩn phân theo mười loại là như vậy.
[57] TƯỞNG UẨN PHÂN THEO MỘT LOẠI: Tưởng tương ưng xúc.
– Tưởng uẩn phân theo hai loại: Có tưởng hữu tranh, có tưởng vô tranh.
– Tưởng uẩn phân theo ba loại: Có tưởng tương ưng thọ lạc, có tưởng tương ưng thọ khổ, có tưởng tương ưng thọ phi khổ phi lạc… (trùng)… có tưởng biết cảnh nội phần, có tưởng biệt cảnh ngoại phần, có tưởng biết cảnh nội ngoại phần… (trùng)… Tưởng uẩn phân theo mười loại là như vậy.
DỨT PHẦN CĂN NHỊ ÐỀ
PHẦN CĂN TAM ÐỀ (Tikamūlakaṃ)
[58] TƯỞNG UẨN PHÂN THEO MỘT LOẠI: Tưởng tương ưng xúc.
Tưởng uẩn phân theo hai loại: Có tưởng hữu nhân, có tưởng vô nhân.
– Tưởng uẩn phân theo ba loại: Có tưởng thiện, có tưởng bất thiện, có tưởng vô ký… (trùng)… tưởng uẩn phân theo mười loại là như vậy.
– Tưởng uẩn phân theo một loại: Tưởng tương ưng xúc.
– Tưởng uẩn phân theo hai loại: Có tưởng hữu tranh có tưởng vô tranh.
– Tưởng uẩn phân theo ba loại: Có tưởng thiện, có tưởng bất thiện, có tưởng vô ký… (trùng)… Tưởng uẩn phân theo mười loại là như vậy.
– Tưởng uẩn phân theo một loại: Tưởng tương ưng xúc.
– Tưởng uẩn phân theo hai loại: Có tưởng hữu nhân có tưởng vô nhân.
– Tưởng uẩn phân theo ba loại: Có tưởng tương ưng thọ lạc, có tưởng tương ưng thọ khổ, có tưởng tương ưng thọ phi khổ phi lạc… (trùng)… có tưởng biết cảnh nội phần, có tưởng biết cảnh ngoại phần, có tưởng biết cảnh nội ngoại phần… (trùng)… Tưởng uẩn phân theo mười loại là như vậy.
– Tưởng uẩn phân theo một loại: Tưởng tương ưng xúc.
– Tưởng uẩn phân theo hai loại: Có tưởng hữu tranh có tưởng vô tranh.
– Tưởng uẩn phân theo ba loại: Có tưởng tương ưng thọ lạc, có tưởng tương ưng thọ khổ, có tưởng tương ưng thọ phi khổ phi lạc… (trùng)… có tưởng biết cảnh nội phần, có tưởng biết cảnh ngoại phần, có tưởng biết cảnh nội ngoại phần… (trùng)… Tưởng uẩn phân theo mười loại là như vậy.
DỨT PHẦN CĂN TAM ÐỀ
PHẦN LƯỠNG LỢI (Ubhatovaddhakaṃ).
[59] TƯỞNG UẨN PHÂN THEO MỘT LOẠI: Tưởng tương ưng xúc.
– Tưởng uẩn phân theo hai loại: Có tưởng hữu nhân có tưởng vô nhân.
– Tưởng uẩn phân theo ba loại: Có tưởng thiện, có tưởng bất thiện, có tưởng vô ký…(trùng)… tưởng uẩn phân theo mười loại là như vậy.
– Tưởng uẩn phân theo một loại: Tưởng tương ưng xúc.
– Tưởng uẩn phân theo hai loại: Có tưởng tương ưng nhân, có tưởng bất tương ưng nhân.
– Tưởng uẩn phân theo ba loại: Có tưởng tương ưng thọ lạc, có tưởng tương ưng thọ khổ, có tưởng tương ưng thọ phi khổ phi lạc… (trùng)… Tưởng uẩn phân theo mười loại là như vậy.
– Tưởng uẩn phân theo một loại: Tưởng tương ưng xúc.
– Tưởng uẩn phân theo hai loại: Có tưởng phi nhân hữu nhân, có tưởng phi nhân vô nhân.
– Tưởng uẩn phân theo ba loại: Có tưởng dị thục, có tưởng dị thục nhân, có tưởng phi dị thục phi dị thục nhân… (trùng)… tưởng uẩn phân theo mười loại là như vậy.
– Tưởng uẩn phân theo một loại: Tưởng tương ưng xúc.
– Tưởng uẩn phân theo hai loại: Có tưởng hiệp thế, có tưởng siêu thế.
– Tưởng uẩn phân theo ba loại: Có tưởng do thủ cảnh thủ, có tưởng phi do thủ cảnh thủ, có tưởng phi do thủ phi cảnh thủ… (trùng)… Tưởng uẩn phân theo mười loại là như vậy.
– Tưởng uẩn phân theo một loại: Tưởng tương ưng xúc.
– Tưởng uẩn phân theo hai loại: Có tưởng đáng vài tâm biết, có tưởng không đáng vài tâm biết.
– Tưởng uẩn phân theo ba loại: Có tưởng phiền toái cảnh phiền não, có tưởng phi phiền toái cảnh phiền não, có tưởng phi phiền toái phi cảnh phiền não… (trùng)… Tưởng uẩn phân theo mười loại là như vậy.
– Tưởng uẩn phân theo một loại: Tưởng tương ưng xúc.
– Tưởng uẩn phân theo hai loại: Có tưởng đáng vài tâm biết, có tưởng không đáng vài tâm biết.
– Tưởng uẩn phân theo ba loại: Có tưởng phiền toái cảnh phiền não, có tưởng phi phiền toái cảnh phiền não, có tưởng phi phiền toái phi cảnh phiền não… (trùng) … Tưởng uẩn phân theo mười loại là như vậy.
– Tưởng uẩn phân theo một loại: Tưởng tương ưng xúc.
– Tưởng uẩn phân theo hai loại: Có tưởng cảnh lậu, có tưởng phi cảnh lậu.
– Tưởng uẩn phân theo ba loại: Có tưởng hữu tầm hữu tứ, có tưởng vô tầm hữu tứ, có tưởng vô tầm vô tứ… (trùng)… Tưởng uẩn phân theo mười loại là như vậy.
– Tưởng uẩn phân theo một loại: Tưởng tương ưng xúc.
– Tưởng uẩn phân theo hai loại: Có tưởng tương ưng lậu, có tưởng bất tương ưng lậu.
– Tưởng uẩn phân theo ba loại: Có tưởng câu hành hỷ, có tưởng câu hành lạc, có tưởng câu hành xả… (trùng)… tưởng uẩn phân theo mười loại là như vậy.
– Tưởng uẩn phân theo một loại: Tưởng tương ưng xúc.
– Tưởng uẩn phân theo hai loại: Có tưởng bất tương ưng lậu cảnh lậu, có tưởng bất tương ưng lậu phi cảnh lậu.
– Tưởng uẩn phân theo ba loại: Có tưởng đáng do kiến đạo đoạn trừ, có tưởng đáng do tiến đạo đoạn trừ, có tưởng đáng do kiến đạo tiến đạo đoạn trừ… (trùng)… Tưởng uẩn phân theo mười loại là như vậy.
– Tưởng uẩn phân theo một loại: Tưởng tương ưng xúc.
– Tưởng uẩn phân theo hai loại: Có tưởng cảnh triền, có tưởng phi cảnh triền.
– Tưởng uẩn phân theo ba loại: Có tưởng hữu nhân đáng do kiến đạo đoạn trừ, có tưởng hữu nhân đáng do tiến đạo đoạn trừ, có tưởng phi hữu nhân đáng do kiến đạo tiến đạo đoạn trừ… (trùng)… Tưởng uẩn phân theo mười loại là như vậy.
– Tưởng uẩn phân theo một loại: Tưởng tương ưng xúc.
– Tưởng uẩn phân theo hai loại: Có tưởng tương ưng triền, có tưởng bất tương ưng triền
– Tưởng uẩn phân theo ba loại: Có tưởng nhân đến tích tập, có tưởng nhân đến tịch diệt, có tưởng phi nhân đến tích tập phi nhân đến tịch diệt … (trùng)…
Tưởng uẩn phân theo mười loại là như vậy.
– Tưởng uẩn phân theo một loại: Tưởng tương ưng xúc.
– Tưởng uẩn phân theo hai loại: Có tưởng bất tương ưng triền cảnh triền, có tưởng bất tương ưng triền phi cảnh triền.
– Tưởng uẩn phân theo ba loại: Có tưởng hữu học, có tưởng vô học, có tưởng phi hữu học phi vô học… (trùng)… Tưởng uẩn phân theo mười loại là như vậy.
– Tưởng uẩn phân theo một loại: Tưởng tương ưng xúc.
– Tưởng uẩn phân theo hai loại: Có tưởng cảnh phược, có tưởng phi cảnh phược.
– Tưởng uẩn phân theo ba loại: Có tưởng hy thiểu, có tưởng đáo đại, có tưởng vô lượng… (trùng)… Tưởng uẩn phân theo mười loại là như vậy.
– Tưởng uẩn phân theo một loại: Tưởng tương ưng xúc.
– Tưởng uẩn phân theo hai loại: Có tưởng tương ưng phược, có tưởng bất tương ưng phược.
– Tưởng uẩn phân theo ba loại: Có tưởng biết cảnh hy thiểu, có tưởng biết cảnh đáo đại, có tưởng biết cảnh vô lượng… (trùng)… Tưởng uẩn phân theo mười loại là như vậy.
– Tưởng uẩn phân theo một loại: Tưởng tương ưng xúc.
– Tưởng uẩn phân theo hai loại: Có tưởng bất tương ưng phược cảnh phược, có tưởng bất tương ưng phược phi cảnh phược.
– Tưởng uẩn phân theo ba loại: Có tưởng ty hạ, có tưởng trung bình, có tưởng tinh lương… (trùng)… Tưởng uẩn phân theo mười loại là như vậy.
– Tưởng uẩn phân theo một loại: Tưởng tương ưng xúc.
– Tưởng uẩn phân theo hai loại: Có tưởng cảnh bộc, có tưởng phi cảnh bộc.
– Tưởng uẩn phân theo ba loại: Có tưởng cố định phần tà, có tưởng cố định phần chánh, có tưởng phi cố định… (trùng)… Tưởng uẩn phân theo mười loại là như vậy.
– Tưởng uẩn phân theo một loại: Tưởng tương ưng xúc.
– Tưởng uẩn phân theo hai loại: Có tưởng tương ưng bộc, có tưởng bất tương ưng bộc.
– Tưởng uẩn phân theo ba loại: Có tưởng đạo thành cảnh, có tưởng đạo thành nhân, có tưởng đạo thành trưởng… (trùng)… Tưởng uẩn phân theo mười loại là như vậy.
– Tưởng uẩn phân theo một loại: Tưởng tương ưng xúc.
– Tưởng uẩn phân theo hai loại: Có tưởng bất tương ưng bộc cảnh bộc, có tưởng bất tương ưng bộc phi cảnh bộc.
– Tưởng uẩn phân theo ba loại: Có tưởng hiện sanh, có tưởng vị sanh, có tưởng chuẩn sanh… (trùng)… Tưởng uẩn phân theo mười loại là như vậy.
– Tưởng uẩn phân theo một loại: Tưởng tương ưng xúc.
– Tưởng uẩn phân theo hai loại: Có tưởng cảnh phối, có tưởng phi cảnh phối.
– Tưởng uẩn phân theo ba loại: Có tưởng quá khứ, có tưởng vị lai, có tưởng hiện tại… (trùng)… Tưởng uẩn phân theo mười loại là như vậy.
– Tưởng uẩn phân theo một loại: Tưởng tương ưng xúc.
– Tưởng uẩn phân theo hai loại: Có tưởng tương ưng phối, có tưởng bất tương ưng phối.
– Tưởng uẩn phân theo ba loại: Có tưởng biết cảnh quá khứ, có tưởng biết cảnh vị lai, có tưởng biết cảnh hiện tại… (trùng)… Tưởng uẩn phân theo mười loại là như vậy.
– Tưởng uẩn phân theo một loại: Tưởng tương ưng xúc.
– Tưởng uẩn phân theo hai loại: Có tưởng tương ưng phối, có tưởng bất tương ưng phối.
– Tưởng uẩn phân theo ba loại: Có tưởng biết cảnh quá khứ, có tưởng biết cảnh vị lai, có tưởng biết cảnh hiện tại… (trùng)… Tưởng uẩn phân theo mười loại là như vậy.
– Tưởng uẩn phân theo một loại: Tưởng tương ưng xúc.
– Tưởng uẩn phân theo hai loại: Có tưởng bất tương ưng phối cảnh phối, có tưởng bất tương ưng phối phi cảnh phối.
– Tưởng uẩn phân theo ba loại: Có tưởng nội phần, có tưởng ngoại phần, có tưởng nội ngoại phần… (trùng)… Tưởng uẩn phân theo mười loại là như vậy.
– Tưởng uẩn phân theo một loại: Tưởng tương ưng xúc.
– Tưởng uẩn phân theo hai loại: Có tưởng cảnh cái, có tưởng phi cảnh cái.
– Tưởng uẩn phân theo ba loại: Có tưởng biết cảnh nội phần, có tưởng biết cảnh ngoại phần, có tưởng biết cảnh nội ngoại phần… (trùng)… Tưởng uẩn phân theo mười loại là như vậy.
DỨT PHẦN LƯỠNG LỢI
PHẦN PHÂN ÐA (Bahuvidhavāro)
[60] TƯỞNG UẨN PHÂN THEO BẢY LOẠI: Có tưởng thiện, có tưởng bất thiện, có tưởng vô ký, có tưởng dục giới, có tưởng sắc giới, có tưởng vô sắc giới, có tưởng phi hệ thuộc[71]. Tưởng uẩn phân theo bảy loại là như vậy.
Mặt khác, tưởng uẩn phân theo bảy loại: Có tưởng tương ưng thọ lạc, có tưởng tương ưng thọ khổ, có tưởng tương ưng phi khổ phi lạc… (trùng)… có tưởng biết cảnh nội phần, có tưởng biết cảnh ngoại phần, có tưởng biết cảnh nội ngoại phần, có tưởng dục giới, có tưởng sắc giới, có tưởng vô sắc giới, có tưởng phi hệ thuộc. Tưởng uẩn phân theo bảy loại là như vậy.
[61] TƯỞNG UẨN PHÂN THEO HAI MƯƠI BỐN LOẠI: Tưởng uẩn do duyên nhãn xúc có thiện, có bất thiện, có vô ký, tưởng uẩn do duyên nhĩ xúc … (trùng)… tưởng uẩn do duyên tỷ xúc… (trùng)… tưởng uẩn do duyên thiệt xúc… (trùng)… tưởng uẩn do duyên thân xúc…(trùng)… tưởng uẩn do duyên ý xúc có thiện, có bất thiện, có vô ký; tưởng sanh từ nhãn xúc, tưởng sanh từ nhĩ xúc, tưởng sanh từ tỷ xúc, tưởng sanh từ thiệt xúc, tưởng sanh từ thân xúc, tưởng sanh từ ý xúc. Tưởng uẩn phân theo hai mươi bốn loại là như vậy.
Mặt khác, tưởng uẩn phân theo hai mươi bốn loại: Tưởng uẩn do duyên nhãn xúc có tương ưng lạc thọ, có tương ưng khổ thọ, có tương ưng phi khổ phi lạc thọ … (trùng)… có biết cảnh nội phần, có biết cảnh ngoại phần, có biết cảnh nội ngoại phần, tưởng uẩn do duyên nhĩ xúc …(trùng)… tưởng uẩn do duyên tỷ xúc… (trùng)… tưởng uẩn do duyên thiệt xúc… (trùng)… tưởng uẩn do duyên thân xúc…(trùng)… tưởng uẩn do duyên ý xúc có biết cảnh nội phần, có biết cảnh ngoại phần, có biết cảnh nội ngoại phần; tưởng sanh từ nhãn xúc… (trùng)… tưởng sanh từ ý xúc. Tưởng uẩn phân theo hai mươi bốn loại là như vậy.
[62] TƯỞNG UẨN PHÂN THEO BA MƯƠI LOẠI: Tưởng uẩn do duyên nhãn xúc có dục giới, có sắc giới, có vô sắc giới, có phi hệ thuộc, tưởng uẩn do duyên nhĩ xúc… (trùng)… tưởng uẩn do duyên tỷ xúc… (trùng)… tưởng uẩn do duyên thiệt xúc… (trùng)… tưởng uẩn do duyên thân xúc… (trùng)… tưởng uẩn do duyên ý xúc có dục giới, có sắc giới, có vô sắc giới; có phi hệ thuộc; tưởng sanh từ nhãn xúc… (trùng)… tưởng sanh từ ý xúc… (trùng)… Tưởng uẩn phân theo ba mươi loại là như vậy.
[63] TƯỞNG UẨN PHÂN THEO NHIỀU LOẠI: Tưởng uẩn do duyên nhãn xúc có thiện, có bất thiện, có vô ký, có dục giới, có sắc giới, có vô sắc giới; có phi hệ thuộc; tưởng uẩn do duyên nhĩ xúc… (trùng)… tưởng uẩn do duyên tỷ xúc… (trùng)… tưởng uẩn do duyên thiệt xúc… (trùng)… tưởng uẩn do duyên thân xúc… (trùng)… tưởng uẩn do duyên ý xúc có thiện, có bất thiện, có vô ký, có dục giới, có sắc giới, có vô sắc giới; có phi hệ thuộc; tưởng uẩn sanh từ nhãn xúc… (trùng)… tưởng sanh từ ý xúc… (trùng)… Tưởng uẩn phân theo nhiều loại là như vậy.
Mặt khác, tưởng uẩn phân theo nhiều loại: Tưởng uẩn do duyên nhãn xúc có tuơng ưng thọ lạc, có tương ưng thọ khổ, có tương ưng thọ phi khổ phi lạc… (trùng) … có biết cảnh nội phần, có biết cảnh ngoại phần, có biết cảnh nội ngoại phần, có dục giới, có sắc giới, có vô sắc giới; có phi hệ thuộc; tưởng uẩn do duyên nhĩ xúc … (trùng)… tưởng uẩn do duyên tỷ xúc… (trùng)… tưởng uẩn do duyên thiệt xúc… (trùng)… tưởng uẩn do duyên thân xúc… (trùng)… tưởng uẩn do duyên ý xúc có biết cảnh nội phần, có biết cảnh ngoại phần, có biết cảnh nội ngoại phần; có dục giới, có sắc giới, có vô sắc giới; có phi hệ thuộc; tưởng sanh từ nhãn xúc… (trùng)… tưởng sanh từ ý xúc. Tưởng uẩn phân theo nhiều loại là như vậy.
Ðây gọi là tưởng uẩn
DỨT PHẦN ÐA
[1] Rūpakhandha.
[2] Atītarūpa.
[3] Anāgatarūpa.
[4] Paccuppannarūpa.
[5] Ajjhattarūpa.
[6] Bahiddhārūpa.
[7] Olārikarūpa.
[8] Sukhumarūpa.
[9] Hīnarūpa.
[10] Paṇītarūpa.
[11] Dūrerūpa.
[12] Santike rūpa.
[13] Atītavedanā.
[14] Anāgatavedanā.
[15] Paccupannavedanā.
[16] Ajjhattavedanā.
[17] Bahiddhāvedanā.
[18] Vedanā olārikā sukhumā.
[19] Vedanā hīnā panītā.
[20] Vedanā dūre.
[21] Vadanā santike.
[22] Saññā atītā.
[23] Sañña anāgatā.
[24] Sañña paccupannā.
[25] Sañña ajjhattā.
[26] Sañña bahiddhā.
[27] Sañña olātikā sukhumā.
[28] Sañña hīnā panītā.
[29] Sañña dūre.
[30] Sañña santike.
[31] Sankhārā atītā.
[32] Sankhāra anāgatā.
[33] Sankhāra paccuppannā.
[34] Sankhāra ajjhattā.
[35] Sankhāra bahiddhā
[36] Sankhāra olārikā sukhumā.
[37] Sankhāra hīnā panītā.
[38] Sankhāra dūre.
[39] Sankhāra santike.
[40] Vīnnānam atitam.
[41] Vīnnānam anāgatam.
[42] Vīnnānam paccuppannām.
[43] Vīnnānam ajjhattam.
[44] Vīnnānam bahiddhā.
[45] Vīnnānam clārikam sukhumam.
[46] Vīnnānam hīnam panitam.
[47] Vīnnānam durè.
[48] Vīnnānam santike.
[49] Ứng tri: Viññeyya, đáng bị biết bởi. Sắc nhãn ứng tri: cakkhuvinneyyam rūpam: Sắc đáng bị mắt thấy v.v…
[50] Quyền – Indriya; nhãn quyền (cakkhudriya): khả năng giới hạn của mắt v.v…
[51] Hữu đối chiếu – Sappatigha ; sắc có đối tượng.
[52] Do kiến đạo đoạn trừ – dassanena pahātabbā, là tưởng bất thiện mà đáng bị đoạn trừ bởi trí Sơ đạo hay Tu Ðà Hườn đạo.
[53] Do tiến đạo đoạn trừ – bhāvanāya pahātabbā, là tưởng bất thiện mà đáng bị đoạn trừ bởi trí Nhị đạo, Tam đạo và Tứ đạo.
[54] Tưởng trong bất thiện và thiện hiệp thế là nghiệp đưa đến quả luân hồi, nên gọi là tưởng đến tích tập (ācayagāmī vedana).
[55] Tưởng trong thiện siêu thế (đạo) là nhân đưa đến quả Níp Bàn, dứt luân hồi, nên gọi là tưởng nhân đến tịch diệt (apacayyagāmī vedanā)
[56] Kenaci vinneyo, là loại tưởng chỉ có một số tâm biết thôi, thí dụ: Tưởng siêu thế chỉ có tâm đổng lực dục giới hợp trí biết .v.v…
[57] Kenaci na vinneyo, là loại tưởng không được một số tâm biết. Thí dụ: Tưởng siêu thể, tâm bất thiện không biết được .v.v…
[58] Parāmattha – Cảnh khinh thị, là ám chỉ đối tượng của tà kiến. Parāmāsa (khinh thị) là tà kiến.
[59] Pariyāpanna, hệ thuộc, liên quan luân hồi,. Ở đây chỉ cho pháp hiệp thế.
[60] Niyyanika, dẫn xuất, đem khỏi luân hồi. Ở đây chỉ cho phép siêu thế.
[61] Niyata, pháp cố định, là tưởng trong tâm thiện hay bất thiện mà nhất định sanh quả.
[62] Sa–uttara, hữu thượng, pháp còn tương đối, còn có pháp cao hơn, tức là chỉ cho pháp hiệp thế.
[63] Sarana (sa + rana) , pháp có sự rối loạn, đấu tranh, nên gọi là pháp hữu tranh, tức là chỉ có bất thiện.
[64] Tưởng dị thục (vipākavedanā), tưởng uẩn thuộc tâm quả.
[65] Tưởng dị thục nhân (Vipākadhamma), tưởng uẩn thuộc pháp nhan, tức là tưởng trong tâm thiện và tâm bất thiện.
[66] Câu hành lạc – Sukhasahagata, tức là đồng sanh với lạc tưởng.
[67] Câu hành khổ – dhukkhasahagata, tức là đồng sanh với khổ tưởng.
[68] Uppanno – Hiện sanh, là tưởng uẩn hiệp trong 121 tâm đang sanh khởi.
[69] Anuppanno – Vị sanh, là tưởng uẩn sẽ sanh và cũng chưa chắc gì sanh ra, như là tưởng uẩn trong tâm thiện và tâm tố.
[70] Uppādi – Chuẩn sanh-, là tưởng uẩn sẵn sàng sanh ra, như là tưởng uẩn trong tâm quả, vì rằng đã có nhân tố.
[71] Tưởng phi hệ thuộc (apariyāpannā) là chỉ do Tưởng uẩn Siêu thế (lokuttara).
Uẩn Phân tích theo Vi Diệu Pháp (Tiếp theo)
HÀNH UẨN (Sannākkhāndho)
Ở ÐÂY THẾ NÀO LÀ HÀNH UẨN?
[64] HÀNH UẨN PHÂN THEO MỘT LOẠI: Hành tương ưng tâm.
Hành uẩn phân theo hai loại: Có hành nhân, có hành phi nhân.
– Hành uẩn phân theo ba loại: Có hành thiện, có hành bất thiện, có hành vô ký.
– Hành uẩn phân theo bốn loại: Có hành dục giới, có hành sắc giới, có hành vô sắc giới; có hành phi hệ thuộc[1].
– Hành uẩn phân theo năm loại: Có hành tương ưng lạc quyền, có hành tương ưng khổ quyền, có hành tương ưng hỷ quyền, có hành tương ưng ưu quyền.
Có hành tương ưng xả quyền.
– Hành phân theo sáu loại: Tư [2] sanh từ nhãn xúc, tư sanh từ nhĩ xúc, tư sanh từ tỷ xúc, tư sanh từ thiệt xúc, tư sanh từ thân xúc, tư sanh từ ý xúc. Hành uẩn phân theo sáu loại là như vậy.
– Hành uẩn phân theo bảy loại: Tư sanh từ nhãn xúc …(trùng)… tư sanh từ thân xúc, tư sanh từ ý giới xúc, tư sanh từ ý thức giới xúc. Hành uẩn phân theo bảy loại là như vậy.
– Hành uẩn phân theo tám loại: Tư sanh từ nhãn xúc …(trùng)… tư sanh từ thân xúc có câu hành lạc, có câu hành khổ, từ sanh từ ý giới xúc, tư sanh từ ý thức giới xúc. Hành uẩn phân theo tám loại là như vậy.
– Hành uẩn phân theo chín loại: Tư sanh từ nhãn xúc …(trùng)… tư sanh từ ý giới xúc, tư sanh từ ý thức giới xúc có thiện, có bất thiện, có vô ký. Hành uẩn phân theo chín loại là như vậy.
– Hành uẩn phân theo mười loại: Tư sanh từ nhãn xúc …(trùng)… tư sanh từ thân xúc có câu hành lạc, có câu hành khổ, tư sanh từ ý giới xúc có thiện, có bất thiện, có vô ký. Hành uẩn phân theo mười loại là như thế.
[65] HÀNH UẨN PHÂN THEO MỘT LOẠI: Hành tương ưng tâm.
– Hành uẩn phân theo hai loại: Có hành nhân, có hành phi nhân.
– Hành uẩn phân theo ba loại: Có hành tương ưng thọ lạc, có hành tương ưng thọ khổ, có hành tương ưng thọ phi khổ phi lạc.
Có hành dị thục, có hành dị thục nhân, có hành phi dị thục, phi dị thục nhân.
Có hành do thủ cảnh thủ, có hành phi do thủ cảnh thủ, có hành phi do thủ phi cảnh thủ.
Có hành phiền toái cảnh phiền não, có hành phi phiền toái cảnh phiền não, có hành phi phiền toái phi cảnh phiền não.
Có hành hữu tầm hữu tứ, có hành vô tầm hữu tứ, có hành vô tầm vô tứ.
Có hành câu hành hỷ, có hành câu hành lạc, có hành câu hành xả.
Có hành đáng do kiến đạo đoạn trừ, có hành đáng do tiến đạo đoạn trừ, có hành đáng do kiến đạo tiến đạo đoạn trừ.
Có hành hữu nhân đáng do kiến đạo đoạn trừ, có hành hữu nhân đáng do tiến đạo đoạn trừ, có hành phi hữu nhân đáng do kiến đạo tiến đạo đoạn trừ.
Có hành nhân đến tích tập, có hành nhân đến tịch diệt, có hành phi nhân đến tích tập phi nhân đến tịch diệt.
Có hành hữu học, có hành vô học, có hành phi hữu học phi vô học.
Có hành hy thiểu, có hành đáo đại, có hành vô lượng.
Có hành biết cảnh hy thiểu, có hành biết cảnh đáo đại, có hành biết cảnh vô lượng.
Có hành ty hạ, có hành trung bình, có hành tinh lương.
Có hành cố định phần tà, có hành cố định phần chánh, có hành phi cố định.
Có hành đạo thành cảnh, có hành đạo thành nhân, có hành đạo thành trưởng.
Có hành hiện sanh, có hành vị sanh, có hành chuẩn sanh[3].
Có hành quá khứ, có hành vị lai, có hành hiện tại.
Có hành biết cảnh quá khứ, có hành biết cảnh vị lai, có hành biết cảnh hiện tại.
Có hành nội phần, có hành ngoại phần, có hành nội ngoại phần.
Có hành biết cảnh nội phần, có hành biết cảnh ngoại phần, có hành biết cảnh nội ngoại phần…(trùng) ….
Hành uẩn phân theo mười loại là như vậy.
PHẦN CĂN NHỊ ÐỀ (Dukamūlakam)
[66]- HÀNH UẨN PHÂN THEO MỘT LOẠI: Hành tương ưng tâm.
Hành uẩn phân theo hai loại: Có hành hữu nhân, có hành vô nhân.
Có hành tương ưng nhân, có hành bất tương ưng nhân.
Có hành nhân hữu nhân, có hành hữu nhân phi nhân.
Có hành nhân tương ưng nhân, có hành tương ưng nhân phi nhân.
Có hành phi nhân hữu nhân, có hành phi nhân vô nhân.
Có hành hiệp thế, có hành siêu thế.
Có hành đáng vài tâm biết, có hành không đáng vài tâm biết.
Có hành lậu, có hành phi lậu.
Có hành cảnh lậu, có hành phi cảnh lậu.
Có hành tương ưng lậu, có hành bất tương ưng lậu.
Có hành lậu cảnh lậu, có hành phi lậu cảnh lậu.
Có hành bất tương ưng lậu cảnh lậu, có hành bất tương ưng lậu phi cảnh lậu.
Có hành triền, có hành phi triền.
Có hành cảnh triền, có hành phi cảnh triền.
Có hành tương ưng triền, có hành bất tương ưng triền.
Có hành triền cảnh triền, có hành cảnh triền phi triền.
Có hành triền tương ưng triền, có hành tương ưng triền phi triền.
Có hành bất tương ưng triền cảnh triền, có hành bất tương ưng triền phi cảnh triền.
Có hành phược, có hành phi phược.
Có hành cảnh phược, có hành phi cảnh phược.
Có hành tương ưng phược, có hành bất tương ưng phược.
Có hành phược cảnh phược, có hành cảnh phược phi phược.
Có hành phược tương ưng phược, có hành tương ưng phược phi phược.
Có hành bất tương ưng phược cảnh phược, có hành bất tương ưng phược phi cảnh phược.
Có hành bộc, có hành phi bộc.
Có hành cảnh bộc, có hành phi cảnh bộc.
Có hành tương ưng bộc, có hành bất tương ưng bộc.
Có hành bộc cảnh bộc, có hành cảnh bộc phi bộc.
Có hành bộc tương ưng bộc, có hành tương ưng bộc phi bộc.
Có hành bất tương ưng bộc cảnh bộc, có hành bất tương ưng bộc phi cảnh bộc.
Có hành phối, có hành phi phối.
Có hành cảnh phối, có hành phi cảnh phối.
Có hành tương ưng phối, có hành bất tương ưng phối.
Có hành phối cảnh phối, có hành cảnh phối phi phối.
Có hành phối tương ưng phối, có hành tương ưng phối phi phối.
Có hành bất tương ưng phối cảnh phối, có hành bất tương ưng phối phi cảnh phối.
Có hành cái, có hành phi cái.
Có hành cảnh cái, có hành phi cảnh cái.
Có hành tương ưng cái, có hành bất tương ưng cái.
Có hành cái cảnh cái, có hành cảnh cái phi cái.
Có hành cái tương ưng cái, có hành bất tương ưng cái cảnh cái.
Có hành bất tương ưng cái cảnh cái, có hành bất tương ưng cái phi cảnh cái.
Có hành khinh thị, có hành phi khinh thị.
Có hành cảnh khinh thị, có hành phi cảnh khinh thị.
Có hành tương ưng khinh thị, có hành bất tương ưng khinh thị.
Có hành khinh thị cảnh khinh thị, có hành cảnh khinh thị phi khinh thị.
Có hành bất tương ưng khinh thị cảnh khinh thị, có hành bất tương ưng khinh thị phi cảnh khinh thị.
Có hành do thủ, có hành phi do thủ.
Có hành thủ, có hành phi thủ.
Có hành cảnh thủ, có hành phi cảnh thủ.
Có hành tương ưng thủ, có hành bất tương ưng thủ.
Có hành thủ cảnh thủ, có hành cảnh thu phi thủ.
Có hành thủ tương ưng thủ, có hành tương ưng thủ phi thủ.
Có hành bất tương ưng thủ cảnh thủ, có hành bất tương ưng thủ phi cảnh thủ.
Có hành phiền não, có hành phi phiền não.
Có hành cảnh phiền não, có hành phi cảnh phiền não.
Có hành phiền toái, có hành phi phiền toái.
Có hành tương ưng phiền não, có hành bất tương ưng phiền não.
Có hành phiền não cảnh phiền não, có hành cảnh phiền não phi cảnh phiền não.
Có hành phiền não phiền toái, có hành phiền toái phi phiền não.
Có hành phiền não tương ưng phiền não, có hành tương ưng phiền não phi phiền não.
Có hành bất tương ưng phiền não cảnh phiền não, có hành bất tương ưng phiền não phi cảnh phiền não.
Có hành đáng do kiến đạo đoạn trừ, có hành không đáng do kiến đạo đoạn trừ.
Có hành đáng do tiến đạo đoạn trừ, có hành không đáng do tiến đạo đoạn trừ.
Có hành hữu nhân đáng do kiến đạo đoạn trừ, có hành phi hữu nhân đáng do kiến đạo đoạn trừ.
Có hành hữu nhân đáng do tiến đạo đoạn trừ, có hành phi hữu nhân đáng do tiến đạo đoạn trừ.
Có hành hữu tầm, có hành vô tầm.
Có hành hữu tứ, có hành vô tứ.
Có hành hữu hỷ, có hành vô hỷ.
Có hành câu hành hỷ, có hành phi câu hành hỷ.
Có hành câu hành lạc, có hành phi câu hành lạc.
Có hành câu hành xả, có hành phi câu hành xả.
Có hành dục giới, có hành phi dục giới.
Có hành sắc giới, có hành phi sắc giới.
Có hành vô sắc giới, có hành phi vô sắc giới.
Có hành hệ thuộc, có hành phi hệ thuộc.
Có hành dẫn xuất, có hành phi dẫn xuất.
Có hành cố định, có hành phi cố định.
Có hành hữu thượng, có hành vô thượng.
Có hành hữu tranh, có hành vô tranh.
– Hành uẩn phân theo ba loại: Có hành thiện, có hành bất thiện, có hành vô ký… (trùng)… Hành uẩn phân theo mười loại là như vậy.
[67] HÀNH UẨN PHÂN THEO MỘT LOẠI: Hành tương ưng tâm.
– Hành uẩn phân theo hai loại: Có hành hữu tranh, có hành vô tranh.
– Hành uẩn phân theo ba loại: Có hành tương ưng thọ lạc, có hành tương ưng thọ khổ, có hành tương ưng thọ phi khổ phi lạc… (trùng)… có hành biết cảnh nội phần, có hành biết cảnh ngoại phần, có hành biết cảnh nội ngoại phần… (trùng) …
Hành uẩn phân theo mười loại là như vậy.
DỨT PHẦN CĂN NHỊ ÐỀ
PHẦN CĂN TAM ÐỀ (Tīkamūlakaṃ)
[68] HÀNH UẨN PHÂN THEO MỘT LOẠI: Hành tương ưng tâm.
Hành uẩn phân theo hai loại: Có hành nhân, có hành phi nhân.
– Hành uẩn phân theo ba loại: Có hành thiện, có hành bất thiện, có hành vô ký… (trùng)… hành uẩn phân theo mười loại là như vậy.
– Hành uẩn phân theo một loại: Hành tương ưng tâm.
– Hành uẩn phân theo hai loại: Có hành hữu tranh có hành vô tranh.
– Hành uẩn phân theo ba loại: Có hành thiện, có hành bất thiện, có hành vô ký… (trùng)… hành uẩn phân theo mười loại là như vậy.
– Hành uẩn phân theo một loại: Hành tương ưng tâm.
– Hành uẩn phân theo hai loại: Có hành là nhân có hành phi nhân.
– Hành uẩn phân theo ba loại: Có hành tương ưng thọ lạc, có hành tương ưng thọ khổ, có hành tương ưng thọ phi khổ phi lạc… (trùng)… có hành biết cảnh nội phần, có hành biết cảnh ngoại phần, có hành biết cảnh nội ngoại phần… (trùng)… hành uẩn phân theo mười loại là như vậy.
– Hành uẩn phân theo một loại: Hành tương ưng tâm.
– Hành uẩn phân theo hai loại: Có hành hữu tranh có hành vô tranh.
– Hành uẩn phân theo ba loại: Có hành tương ưng thọ lạc, có hành tương ưng thọ khổ, có hành tương ưng thọ phi khổ phi lạc… (trùng)… có hành biết cảnh nội phần, có hành biết cảnh ngoại phần, có hành biết cảnh nội ngoại phần… (trùng)… hành uẩn phân theo mười loại là như vậy.
DỨT PHẦN CĂN TAM ÐỀ
PHẦN LƯỠNG LỢI (Ubhatovaddhakaṃ).
[69] HÀNH UẨN PHÂN THEO MỘT LOẠI: Hành tương ưng tâm
– Hành uẩn phân theo hai loại: Có hành nhân, có hành phi nhân.
– Hành uẩn phân theo ba loại: Có hành thiện, có hành bất thiện, có hành vô ký… (trùng)… hành uẩn phân theo mười loại là như vậy.
– Hành uẩn phân theo một loại: Hành tương ưng tâm.
– Hành uẩn phân theo hai loại: Có hành hữu nhân, có hành vô nhân.
– Hành uẩn phân theo ba loại: Có hành tương ưng thọ lạc, có hành tương ưng thọ khổ, có hành tương ưng thọ phi khổ phi lạc… (trùng)…
Hành uẩn phân theo mười loại là như vậy.
– Hành uẩn phân theo một loại: Hành tương ưng tâm.
– Hành uẩn phân theo hai loại: Có hành tương ưng nhân, có hành bất tương ưng nhân.
– Hành uẩn phân theo ba loại: Có hành dị thục, có hành dị thục nhân, có hành phi dị thục phi dị thục nhân… (trùng)… hành uẩn phân theo mười loại là như vậy.
– Hành uẩn phân theo một loại: Hành tương ưng tâm.
– Hành uẩn phân theo hai loại: Có hành nhân hữu nhân, có hành hữu nhân phi nhân.
– Hành uẩn phân theo ba loại: Có hành do thủ cảnh thủ, có hành phi do thủ cảnh thủ, có hành phi do thủ phi cảnh thủ… (trùng)… hành uẩn phân theo mười loại là như vậy.
– Hành uẩn phân theo một loại: Hành tương ưng tâm.
– Hành uẩn phân theo hai loại: Có hành nhân tương ưng nhân, có hành tương ưng nhân phi nhân.
– Hành uẩn phân theo ba loại: Có hành phiền toái cảnh phiền não, có hành phi phiền toái cảnh phiền não, có hành phi phiền toái phi cảnh phiền não… (trùng)… hành uẩn phân theo mười loại là như vậy.
– Hành uẩn phân theo một loại: Hành tương ưng tâm.
– Hành uẩn phân theo hai loại: Có hành phi nhân hữu nhân, có hành phi nhân vô nhân.
– Hành uẩn phân theo ba loại: Có hành hữu tầm hữu tứ, có hành vô tầm hữu tứ, có hành vô tầm vô tứ… (trùng)… hành uẩn phân theo mười loại là như vậy.
– Hành uẩn phân theo một loại: Hành tương ưng tâm.
– Hành uẩn phân theo hai loại: Có hành hiệp thế, có hành siêu thế.
– Hành uẩn phân theo ba loại: Có hành câu hành hỷ, có hành câu hành lạc, có hành câu hành xả… (trùng)… hành uẩn phân theo mười loại là như vậy.
– Hành uẩn phân theo một loại: Hành tương ưng tâm.
– Hành uẩn phân theo hai loại: Có hành đáng vài tâm biết, có hành không đáng vài tâm biết.
– Hành uẩn phân theo ba loại: Có hành đáng do kiến đạo đoạn trừ, có hành đáng do tiến đạo đoạn trừ, có hành không đáng do kiến đạo tiến đạo đoạn trừ… (trùng) … hành uẩn phân theo mười loại là như vậy
– Hành uẩn phân theo một loại: Hành tương ưng tâm.
– Hành uẩn phân theo hai loại: Có hành lậu, có hành phi lậu.
– Hành uẩn phân theo ba loại: Có hành hữu nhân đáng do kiến đạo đoạn trừ, có hành hữu nhân đáng do tiến đạo đoạn trừ, có hành phi hữu nhân đáng do kiến đạo tiến đạo đoạn trừ… (trùng)… hành uẩn phân theo mười loại là như vậy
– Hành uẩn phân theo một loại: Hành tương ưng tâm.
– Hành uẩn phân theo hai loại: Có hành cảnh lậu, có hành phi cảnh lậu.
– Hành uẩn phân theo ba loại: Có hành nhân đến tích tập, có hành nhân đến tịch diệt, có hành phi nhân đến tích tập phi nhân đến tịch diệt … (trùng)…
Hành uẩn phân theo mười loại là như vậy.
– Hành uẩn phân theo một loại: Hành tương ưng tâm.
– Hành uẩn phân theo hai loại: Có hành tương ưng lậu, có hành bất tương ưng lậu.
– Hành uẩn phân theo ba loại: Có hành hữu học, có hành vô học, có hành phi hữu học phi vô học… (trùng)… hành uẩn phân theo mười loại là như vậy.
– Hành uẩn phân theo một loại: Hành tương ưng tâm.
– Hành uẩn phân theo hai loại: Có hành lậu cảnh lậu, có hành cảnh lậu phi lậu.
– Hành uẩn phân theo ba loại: Có hành hy thiểu, có hành đáo đại, có hành vô lượng…(trùng)… hành uẩn phân theo mười loại là như vậy.
– Hành uẩn phân theo một loại: Hành tương ưng tâm.
– Hành uẩn phân theo hai loại: Có hành lậu tương ưng lậu, có hành tương ưng lậu phi lậu.
– Hành uẩn phân theo ba loại: Có hành cảnh hy thiểu, có hành cảnh đáo đại, có hành cảnh vô lượng… (trùng)… hành uẩn phân theo mười loại là như vậy.
– Hành uẩn phân theo một loại: Hành tương ưng tâm.
– Hành uẩn phân theo hai loại: Có hành bất tương ưng lậu cảnh lậu, có hành bất tương ưng lậu phi cảnh lậu.
– Hành uẩn phân theo ba loại: Có hành biết cảnh hy thiểu, có hành biết cảnh đáo đại, có hành biết cảnh vô lượng… (trùng)… hành uẩn phân theo mười loại là như vậy.
– Hành uẩn phân theo một loại: Hành tương ưng tâm.
– Hành uẩn phân theo hai loại: Có hành bất tương ưng lậu cảnh lậu, có hành bất tương ưng lậu phi cảnh lậu.
– Hành uẩn phân theo ba loại: Có hành ty hạ, có hành trung bình, có hành tinh lương… (trùng)… hành uẩn phân theo mười loại là như vậy.
– Hành uẩn phân theo một loại: Hành tương ưng tâm.
– Hành uẩn phân theo hai loại: Có hành triền, có hành phi triền.
– Hành uẩn phân theo ba loại: Có hành cố định phần tà, có hành cố định phần chánh, có hành phi cố định… (trùng)… hành uẩn phân theo mười loại là như vậy.
– Hành uẩn phân theo một loại: Hành tương ưng tâm.
– Hành uẩn phân theo hai loại: Có hành cảnh triền, có hành phi cảnh triền.
– Hành uẩn phân theo ba loại: Có hành đạo thành cảnh, có hành đạo thành nhân, có hành đạo thành trưởng… (trùng)… hành uẩn phân theo mười loại là như vậy.
– Hành uẩn phân theo một loại: Hành tương ưng tâm.
– Hành uẩn phân theo hai loại: Có hành tương ưng triền, có hành bất tương ưng triền.
– Hành uẩn phân theo ba loại: Có hành hiện sanh, có hành vị sanh, có hành chuẩn sanh… (trùng)… hành uẩn phân theo mười loại là như vậy.
– Hành uẩn phân theo một loại: Hành tương ưng tâm.
– Hành uẩn phân theo hai loại: Có hành triền cảnh triền, có hành cảnh triền phi triền.
– Hành uẩn phân theo ba loại: Có hành quá khứ, có hành vị lai, có hành hiện tại… (trùng)… hành uẩn phân theo mười loại là như vậy.
– Hành uẩn phân theo một loại: Hành tương ưng tâm.
– Hành uẩn phân theo hai loại: Có hành triền tương ưng triền, có hành tương ưng triền phi triền.
– Hành uẩn phân theo ba loại: Có hành biết cảnh quá khứ, có hành biết cảnh vị lai, có hành biết cảnh hiện tại… (trùng)… hành uẩn phân theo mười loại là như vậy.
– Hành uẩn phân theo một loại: Hành tương ưng tâm.
– Hành uẩn phân theo hai loại: Có hành bất tương ưng triền cảnh triền, có hành bất tương ưng triền phi cảnh triền.
– Hành uẩn phân theo ba loại: Có hành nội phần, có hành ngoại phần, có hành nội ngoại phần… (trùng)… hành uẩn phân theo mười loại là như vậy.
– Hành uẩn phân theo một loại: Hành tương ưng tâm.
– Hành uẩn phân theo hai loại: Có hành phược, có hành phi phược.
– Hành uẩn phân theo ba loại: Có hành cảnh nội phần, có hành cảnh ngoại phần, có hành cảnh nội ngoại phần… (trùng)… hành uẩn phân theo mười loại là như vậy.
DỨT PHẦN LƯỠNG LỢI
PHẦN PHÂN ÐA (Bahuvidhavāro)
[70] HÀNH UẨN PHÂN THEO BẢY LOẠI: Có hành thiện, có hành bất thiện, có hành vô ký, có hành dục giới, có hành sắc giới, có hành vô sắc giới, có hành phi hệ thuộc. Hành uẩn phân theo bảy loại là như vậy.
Mặt khác, hành uẩn phân theo bảy loại: Có hành tương ưng thọ lạc, có hành tương ưng thọ khổ, có hành tương ưng thọ phi khổ phi lạc… (trùng)… có hành biết cảnh nội phần, có hành biết cảnh ngoại phần, có hành biết cảnh nội ngoại phần, có hành dục giới, có hành sắc giới, có hành vô sắc giới, có hành phi hệ thuộc… (trùng)… Hành uẩn phân theo bảy loại là như vậy.
[71] HÀNH UẨN PHÂN THEO HAI MƯƠI BỐN LOẠI: Hành uẩn do duyên nhãn xúc có thiện, có bất thiện, có vô ký, hành uẩn do duyên nhĩ xúc … (trùng)… hành uẩn do duyên tỷ xúc… (trùng)… hành uẩn do duyên thiệt xúc… (trùng)… hành uẩn do duyên thân xúc… (trùng)… hành uẩn do duyên ý xúc có thiện, có bất thiện, có vô ký; tư sanh từ nhãn xúc, tư sanh từ ý xúc. Hành uẩn phân theo hai mươi bốn loại là như vậy.
Mặt khác, hành uẩn phân theo hai mươi bốn loại: hành uẩn do duyên nhãn xúc có tương ưng lạc thọ, có tương ưng khổ thọ, có tương ưng phi khổ phi lạc thọ … (trùng)… có biết cảnh nội phần, có biết cảnh ngoại phần, có biết cảnh nội ngoại phần, hành uẩn do duyên nhĩ xúc … (trùng)… hành uẩn do duyên tỷ xúc… (trùng)… hành uẩn do duyên thiệt xúc… (trùng)… hành uẩn do duyên thân xúc… (trùng)… hành uẩn do duyên ý xúc có biết cảnh nội phần, có biết cảnh ngoại phần, có biết cảnh nội ngoại phần; tư sanh từ nhãn xúc… (trùng)… tư sanh từ ý xúc. Hành uẩn phân theo hai mươi bốn loại là như vậy.
[72] HÀNH UẨN PHÂN THEO BA MƯƠI LOẠI: hành uẩn do duyên nhãn xúc có dục giới, có sắc giới, có vô sắc giới, có phi hệ thuộc, hành uẩn do duyên nhĩ xúc… (trùng)… hành uẩn do duyên tỷ xúc… (trùng)… hành uẩn do duyên thiệt xúc… (trùng)… hành uẩn do duyên thân xúc… (trùng)… hành uẩn do duyên ý xúc có dục giới, có sắc giới, có vô sắc giới; có phi hệ thuộc; hành sanh từ nhãn xúc… (trùng)… hành sanh từ ý xúc… (trùng)… Hành uẩn phân theo ba mươi loại là như vậy.
[73] HÀNH UẨN PHÂN THEO NHIỀU LOẠI: hành uẩn do duyên nhãn xúc có thiện, có bất thiện, có vô ký, có dục giới, có sắc giới, có vô sắc giới; có phi hệ thuộc; hành uẩn do duyên nhĩ xúc… (trùng)… hành uẩn do duyên tỷ xúc… (trùng)… hành uẩn do duyên thiệt xúc… (trùng)… hành uẩn do duyên thân xúc… (trùng)… hành uẩn do duyên ý xúc có thiện, có bất thiện, có vô ký, có dục giới, có sắc giới, có vô sắc giới; có phi hệ thuộc; tư sanh từ nhãn xúc… (trùng)… tư sanh từ ý xúc… (trùng)… Hành uẩn phân theo nhiều loại là như vậy.
Mặt khác, hành uẩn phân theo nhiều loại: hành uẩn do duyên nhãn xúc có tuơng ưng thọ lạc, có tương ưng thọ khổ, có tương ưng thọ phi khổ phi lạc… (trùng)… có biết cảnh nội phần, có biết cảnh ngoại phần, có biết cảnh nội ngoại phần, có dục giới, có sắc giới, có vô sắc giới; có phi hệ thuộc; hành uẩn do duyên nhĩ xúc… (trùng)… hành uẩn do duyên tỷ xúc… (trùng)… hành uẩn do duyên thiệt xúc… (trùng)… hành uẩn do duyên thân xúc… (trùng)… hành uẩn do duyên ý xúc có biết cảnh nội phần, có biết cảnh ngoại phần, có biết cảnh nội ngoại phần; có dục giới, có sắc giới, có vô sắc giới; có phi hệ thuộc; tư sanh từ nhãn xúc… (trùng)… tư sanh từ ý xúc. Hành uẩn phân theo nhiều loại là như vậy.
Ðây gọi là hành uẩn.
DỨT PHẦN PHÂN ÐA
THỨC UẨN (Vinnānakkhandho)
Ở ÐÂY THẾ NÀO LÀ THỨC UẨN?
[74] THỨC UẨN PHÂN THEO MỘT LOẠI: Thức tương ưng xúc.
Thức uẩn phân theo hai loại: Có thức hữu nhân, có thức vô nhân.
– Thức uẩn phân theo ba loại: Có thức thiện, có thức bất thiện, có thức vô ký.
– Thức uẩn phân theo bốn loại: có thức dục giới, có thức sắc giới, có thức vô sắc giới; có thức phi hệ thuộc.
– Thức uẩn phân theo năm loại: Có thức tương ưng lạc quyền, có thức tương ưng khổ quyền, có thức tương ưng hỷ quyền, có thức tương ưng ưu quyền có thức tương ưng xả quyền.
– Thức phân theo sáu loại: nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức. Thức uẩn phân theo sáu loại là như vậy.
– Thức uẩn phân theo bảy loại: nhãn thức …(trùng)…, thân thức, ý giới thức, ý thức giới. Thức uẩn phân theo bảy loại là như vậy.
– Thức uẩn phân theo tám loại: Nhãn xúc …(trùng)… thân thức có câu hành lạc, có câu hành khổ, ý giới, ý thức giới. Thức uẩn phân theo tám loại là như vậy.
– Thức uẩn phân theo chín loại: Nhãn thức …(trùng)… thân thức, ý giới, ý thức giới, có thiện, có bất thiện, có vô ký. Thức uẩn phân theo chín loại là như vậy.
– Thức uẩn phân theo mười loại: Nhãn thức …(trùng)… thân thức có câu hành lạc, có câu hành khổ, ý giới, ý giới thức có thiện, có bất thiện, có vô ký. Thức uẩn phân theo mười loại là như vậy.
[75] THỨC UẨN PHÂN THEO MỘT LOẠI: Thức tương ưng xúc.
– Thức uẩn phân theo hai loại: Có thức hữu nhân, có thức vô nhân.
– Thức uẩn phân theo ba loại: Có thức tương ưng thọ lạc, có thức tương ưng thọ khổ, Có thức tương ưng thọ phi khổ phi lạc.Có thức dị thục, có thức dị thục nhân, có thức phi dị thục, phi dị thục nhân.
Có thức do thủ cảnh thủ, có thức phi do thủ cảnh thủ, có thức phi do thủ phi cảnh thủ.
Có thức phiền toái cảnh phiền não, có thức phi phiền toái cảnh phiền não, có thức phi phiền toái phi cảnh phiền não.
Có thức hữu tầm hữu tứ, có thức vô tầm hữu tứ, có thức vô tầm vô tứ.
Có thức câu hành hỷ, có thức câu hành lạc, có thức câu hành xả.
Có thức đáng do kiến đạo đoạn trừ, Có thức đáng do tiến đạo đoạn trừ, có thức không đáng do kiến đạo tiến đạo đoạn trừ.
Có thức hữu nhân đáng do kiến đạo đoạn trừ, Có thức hữu nhân đáng do tiến đạo đoạn trừ, Có thức phi hữu nhân đáng do kiến đạo tiến đạo đoạn trừ.
Có thức nhân đến tích tập, có thức nhân đến tịch diệt, có thức là phi nhân đến tích tập phi nhân đến tịch diệt.
Có thức hữu học, có thức vô học, có thức phi hữu học phi vô học.
Có thức hy thiểu, có thức đáo đại, có thức vô lượng.
Có thức biết cảnh hy thiểu, có thức biết cảnh đáo đại, có thức biết cảnh vô lượng.
Có thức ty hạ, có thức trung bình, có thức tinh lương.
Có thức cố định phần tà, có thức cố định phần chánh, có thức phi cố định.
Có thức đạo thành cảnh, có thức đạo tành nhân, có thức đạo thành trưởng.
Có thức hiện sanh, có thức vị sanh, có thức chuẩn sanh[4].
Có thức biết cảnh quá khứ, có thức biết cảnh vị lai, có thức biết cảnh hiện tại.
Có thức nội phần, có thức ngoại phần, có thức nội ngoại phần.
Có thức biết cảnh nội phần, có thức biết cảnh ngoại phần, có thức biết cảnh nội ngoại phần…(trùng) ….
Thức uẩn phân theo mười loại là như vậy.
PHẦN CĂN NHỊ ÐỀ (Dukamūlakaṃ)
[76] THỨC UẨN PHÂN THEO MỘT LOẠI: Thức tương ưng xúc.
Thức uẩn phân theo hai loại: Có thức tương ưng nhân, có thức bất tương ưng nhân.
Có thức phi nhân hữu nhân, có thức phi nhân vô nhân.
Có thức hiệp thế, có thức siêu thế.
Có thức đáng vài tâm biết, có thức không đáng vài tâm biết.
Có thức cảnh lậu, có thức phi cảnh lậu.
Có thức tương ưng lậu, có thức bất tương ưng lậu.
Có thức bất tương ưng lậu cảnh lậu, có thức bất tương ưng lậu phi cảnh lậu.
Có thức cảnh triền, có thức phi cảnh triền.
Có thức tương ưng triền, có thức bất tương ưng triền.
Có thức bất tương ưng triền cảnh triền, có thức bất tương ưng triền phi cảnh triền.
Có thức cảnh phược, có thức phi cảnh phược.
Có thức tương ưng phược, có thức bất tương ưng phược.
Có thức bất tương ưng phược cảnh phược, có thức bất tương ưng phược phi cảnh phược.
Có thức cảnh bộc, có thức phi cảnh bộc.
Có thức tương ưng bộc, có thức bất tương ưng bộc.
Có thức bất tương ưng bộc cảnh bộc, có thức bất tương ưng bộc phi cảnh bộc.
Có thức cảnh phối, có thức phi cảnh phối.
Có thức tương ưng phối, có thức bất tương ưng phối.
Có thức bất tương ưng phối cảnh phối, có thức bất tương ưng phối phi cảnh phối.
Có thức cảnh cái, có thức phi cảnh cái.
Có thức tương ưng cái, có thức bất tương ưng cái.
Có thức bất tương ưng cái cảnh cái, có thức bất tương ưng cái phi cảnh cái.
Có thức cảnh khinh thị, có thức phi cảnh khinh thị.
Có thức tương ưng khinh thị, có thức bất tương ưng khinh thị.
Có thức bất tương ưng khinh thị cảnh khinh thị, có thức bất tương ưng khinh thị phi cảnh khinh thị.
Có thức do thủ, có thức do phi thủ.
Có thức cảnh thủ, có thức phi cảnh thủ.
Có thức tương ưng thủ, có thức bất tương ưng thủ.
Có thức bất tương ưng thủ cảnh thủ, có thức bất tương ưng thủ phi cảnh thủ.
Có thức cảnh phiền não, có thức phi cảnh phiền não.
Có thức phiền toái, có thức phi phiền toái.
Có thức tương ưng phiền não, có thức bất tương ưng phiền não.
Có thức bất tương ưng phiền não cảnh phiền não, có thức bất tương ưng phiền não phi cảnh phiền não.
Có thức đáng do kiến đạo đoạn trừ, có thức không đáng do kiến đạo đoạn trừ.
Có thức đáng do tiến đạo đoạn trừ, có thức không đáng do tiến đạo đoạn trừ.
Có thức hữu nhân đáng do kiến đạo đoạn trừ, có thức phi hữu nhân đáng do kiến đạo đoạn trừ.
Có thức hữu nhân đáng do tiến đạo đoạn trừ, có thức phi hữu nhân đáng do tiến đạo đoạn trừ.
Có thức hữu tầm, có thức vô tầm.
Có thức hữu tứ, có thức vô tứ.
Có thức hữu hỷ, có thức vô hỷ.
Có thức câu hành hỷ, có thức phi câu hành hỷ.
Có thức câu hành lạc, có thức phi câu hành lạc.
Có thức câu hành xả, có thức phi câu hành xả.
Có thức dục giới, có thức phi dục giới.
Có thức sắc giới, có thức phi sắc giới.
Có thức vô sắc giới, có thức phi vô sắc giới.
Có thức hệ thuộc, có thức phi hệ thuộc.
Có thức dẫn xuất, có thức phi dẫn xuất.
Có thức cố định, có thức phi cố định.
Có thức hữu thượng, có thức vô thượng.
Có thức hữu tranh, có thức vô tranh.
– Thức uẩn phân theo ba loại: Có thức thiện, có thức bất thiện, có thức vô ký…(trùng)… Thức uẩn phân theo mười loại là như vậy.
[77] THỨC UẨN PHÂN THEO MỘT LOẠI: Thức tương ưng xúc.
– Thức uẩn phân theo hai loại: Có thức hữu tranh, có thức vô tranh.
– Thức uẩn phân theo ba loại: Có thức tương ưng thọ lạc, có thức tương ưng thọ khổ, có thức tương ưng thọ phi khổ phi lạc… (trùng)… có thức biết cảnh nội phần, có thức biết cảnh ngoại phần, có thức biết cảnh nội ngoại phần … (trùng) …
Thức uẩn phân theo mười loại là như vậy.
DỨT PHẦN CĂN NHỊ ÐỀ
PHẦN CĂN TAM ÐỀ (Tikamūlakaṃ)
[78] THỨC UẨN PHÂN THEO MỘT LOẠI: Thức tương ưng xúc.
Thức uẩn phân theo hai loại: Có thức hữu nhân, có thức vô nhân.
– Thức uẩn phân theo ba loại: Có thức thiện, có thức bất thiện, có thức vô ký… (trùng)… thức uẩn phân theo mười loại là như vậy.
– Thức uẩn phân theo một loại: Thức tương ưng xúc.
– Thức uẩn phân theo hai loại: Có thức hữu tranh có thức vô tranh.
– Thức uẩn phân theo ba loại: Có thức thiện, có thức bất thiện, có thức vô ký… (trùng)… Thức uẩn phân theo mười loại là như vậy.
– Thức uẩn phân theo một loại: Thức tương ưng xúc.
– Thức uẩn phân theo hai loại: Có thức hữu nhân có thức vô nhân.
– Thức uẩn phân theo ba loại: Có thức tương ưng thọ lạc, có thức tương ưng thọ khổ, có thức tương ưng thọ phi khổ phi lạc… (trùng)… có thức biết cảnh nội phần, có thức biết cảnh ngoại phần, có thức biết cảnh nội ngoại phần… (trùng)… Thức uẩn phân theo mười loại là như vậy.
– Thức uẩn phân theo một loại: Thức tương ưng xúc.
– Thức uẩn phân theo hai loại: Có thức hữu tranh có thức vô tranh.
– Thức uẩn phân theo ba loại: Có thức tương ưng thọ lạc, có thức tương ưng thọ khổ, có thức tương ưng thọ phi khổ phi lạc… (trùng)… có thức biết cảnh nội phần, có thức biết cảnh ngoại phần, có thức biết cảnh nội ngoại phần… (trùng)… Thức uẩn phân theo mười loại là như vậy.
DỨT PHẦN CĂN TAM ÐỀ
PHẦN LƯỠNG LỢI (Ubhatovaddhakaṃ).
[79] THỨC UẨN PHÂN THEO MỘT LOẠI: Thức tương ưng xúc
– Thức uẩn phân theo hai loại: Có thức hữu nhân, có thức vô nhân.
– Thức uẩn phân theo ba loại: Có thức thiện, có thức bất thiện, có thức vô ký… (trùng)… thức uẩn phân theo mười loại là như vậy.
– Thức uẩn phân theo một loại: Thức tương ưng xúc.
– Thức uẩn phân theo hai loại: Có thức tương ưng nhân, có thức bất tương ưng nhân.
– Thức uẩn phân theo ba loại: Có thức tương ưng thọ lạc, có thức tương ưng thọ khổ, có thức tương ưng thọ phi khổ phi lạc… (trùng)…
Thức uẩn phân theo mười loại là như vậy.
– Thức uẩn phân theo một loại: Thức tương ưng xúc.
– Thức uẩn phân theo hai loại: Có thức phi nhân hữu nhân, có thức phi nhân vô nhân.
– Thức uẩn phân theo ba loại: Có thức dị thục, có thức dị thục nhân, có thức phi dị thục phi dị thục nhân… (trùng)… Thức uẩn phân theo mười loại là như vậy.
– Thức uẩn phân theo một loại: Thức tương ưng xúc.
– Thức uẩn phân theo hai loại: Có thức hiệp thế, có thức siêu thế.
– Thức uẩn phân theo ba loại: Có thức do thủ cảnh thủ, có thức phi do thủ cảnh thủ, có thức phi do thủ phi cảnh thủ… (trùng)… Thức uẩn phân theo mười loại là như vậy.
– Thức uẩn phân theo một loại: Thức tương ưng xúc.
– Thức uẩn phân theo hai loại: Có thức đáng vài tâm biết, có thức không đáng vài tâm biết.
– Thức uẩn phân theo ba loại: Có thức phiền toái cảnh phiền não, có thức phi phiền toái cảnh phiền não, có thức phi phiền toái phi cảnh phiền não… (trùng)… Thức uẩn phân theo mười loại là như vậy.
– Thức uẩn phân theo một loại: Thức tương ưng xúc.
– Thức uẩn phân theo hai loại: Có thức cảnh lậu, có thức phi cảnh lậu.
– Thức uẩn phân theo ba loại: Có thức hữu tầm hữu tứ, có thức vô tầm hữu tứ, có thức vô tầm vô tứ… (trùng)… thức uẩn phân theo mười loại là như vậy.
– Thức uẩn phân theo một loại: Thức tương ưng xúc.
– Thức uẩn phân theo hai loại: Có thức tương ưng lậu, có thức bất tương ưng lậu.
– Thức uẩn phân theo ba loại: Có thức câu thức hỷ, có thức câu thức lạc, có thức câu thức xả… (trùng)… Thức uẩn phân theo mười loại là như vậy.
– Thức uẩn phân theo một loại: Thức tương ưng xúc.
– Thức uẩn phân theo hai loại: Có thức bất tương ưng lậu cảnh lậu, có thức bất tương ưng lậu phi cảnh lậu.
– Thức uẩn phân theo ba loại: Có thức đáng do kiến đạo đoạn trừ, có thức đáng do tiến đạo đoạn trừ, có thức không đáng do kiến đạo tiến đạo đoạn trừ… (trùng) … Thức uẩn phân theo mười loại là như vậy.
– Thức uẩn phân theo một loại: Thức tương ưng xúc.
– Thức uẩn phân theo hai loại: Có thức cảnh triền, có thức phi cảnh triền.
– Thức uẩn phân theo ba loại: Có thức hữu nhân đáng do kiến đạo đoạn trừ, có thức hữu nhân đáng do tiến đạo đoạn trừ, có thức phi hữu nhân đáng do kiến đạo tiến đạo đoạn trừ… (trùng)… Thức uẩn phân theo mười loại là như vậy.
– Thức uẩn phân theo một loại: Thức tương ưng xúc.
– Thức uẩn phân theo hai loại:. Có thức tương ưng triền, có thức bất tương ưng triền.
– Thức uẩn phân theo ba loại: Có thức nhân đến tích tập, có thức nhân đến tịch diệt, có thức phi nhân đến tích tập phi nhân đến tịch diệt… (trùng)…
Thức uẩn phân theo mười loại là như vậy.
– Thức uẩn phân theo một loại: Thức tương ưng xúc.
– Thức uẩn phân theo hai loại: Có thức bất tương ưng triền cảnh triền, có thức bất tương ưng triền phi cảnh triền.
– Thức uẩn phân theo ba loại: Có thức hữu học, có thức vô học, có thức phi hữu học phi vô học… (trùng)… Thức uẩn phân theo mười loại là như vậy.
– Thức uẩn phân theo một loại: Thức tương ưng xúc.
– Thức uẩn phân theo hai loại: Có thức cảnh phược, có thức phi cảnh phược.
– Thức uẩn phân theo ba loại: Có thức hy thiểu, có thức đáo đại, có thức vô lượng… (trùng)… Thức uẩn phân theo mười loại là như vậy.
– Thức uẩn phân theo một loại: Thức tương ưng xúc.
– Thức uẩn phân theo hai loại: Có thức tương ưng phược, có thức bất tương ưng phược.
– Thức uẩn phân theo ba loại: Có thức biết cảnh hy thiểu, có thức biết cảnh đáo đại, có thức biết cảnh vô lượng… (trùng)… Thức uẩn phân theo mười loại là như vậy.
– Thức uẩn phân theo một loại: Thức tương ưng xúc.
– Thức uẩn phân theo hai loại: Có thức bất tương ưng phược cảnh phược, có thức bất tương ưng phược phi cảnh phược.
– Thức uẩn phân theo ba loại: Có thức ty hạ, có thức trung bình, có thức tinh lương… (trùng)… Thức uẩn phân theo mười loại là như vậy.
– Thức uẩn phân theo một loại: Thức tương ưng xúc.
– Thức uẩn phân theo hai loại: Có thức cảnh bộc, có thức phi cảnh bộc.
– Thức uẩn phân theo ba loại: Có thức cố định phần tà, có thức cố định phần chánh, có thức phi cố định… (trùng)… Thức uẩn phân theo mười loại là như vậy.
– Thức uẩn phân theo một loại: Thức tương ưng xúc.
– Thức uẩn phân theo hai loại: Có thức tương ưng bộc, có thức bất tương ưng bộc.
– Thức uẩn phân theo ba loại: Có thức đạo thành cảnh, có thức đạo thành nhân, có thức đạo thành trưởng…(trùng)… thức uẩn phân theo mười loại là như vậy.
– Thức uẩn phân theo một loại: Thức tương ưng xúc.
– Thức uẩn phân theo hai loại: Có thức bất tương ưng bộc cảnh bộc, có thức bất tương ưng bộc phi cảnh bộc.
– Thức uẩn phân theo ba loại: Có thức hiện sanh, có thức vị sanh, có thức chuẩn sanh… (trùng)… Thức uẩn phân theo mười loại là như vậy.
– Thức uẩn phân theo một loại: Thức tương ưng xúc.
– Thức uẩn phân theo hai loại: Có thức cảnh phối, có thức phi cảnh phối.
– Thức uẩn phân theo ba loại: Có thức quá khứ, có thức vị lai, có thức hiện tại…(trùng)… thức uẩn phân theo mười loại là như vậy.
– Thức uẩn phân theo một loại: Thức tương ưng xúc.
– Thức uẩn phân theo hai loại: Có thức tương ưng phối, có thức bất tương ưng phối.
– Thức uẩn phân theo ba loại: Có thức biết cảnh quá khứ, có thức biết cảnh vị lai, có thức biết cảnh hiện tại… (trùng)… Thức uẩn phân theo mười loại là như vậy.
– Thức uẩn phân theo một loại: Thức tương ưng xúc.
– Thức uẩn phân theo hai loại: Có thức bất tương ưng phối cảnh phối, có thức bất tương ưng phối phi cảnh phối.
– Thức uẩn phân theo ba loại: Có thức nội phần, có thức ngoại phần, có thức nội ngoại phần… (trùng)… Thức uẩn phân theo mười loại là như vậy.
– Thức uẩn phân theo một loại: Thức tương ưng xúc.
– Thức uẩn phân theo hai loại: Có thức cảnh cái, có thức phi cảnh cái.
– Thức uẩn phân theo ba loại: Có thức biết cảnh nội phần, có thức biết cảnh ngoại phần, có thức biết cảnh nội ngoại phần… (trùng)… Thức uẩn phân theo mười loại là như vậy.
DỨT PHẦN LƯỠNG LỢI
PHẦN PHÂN ÐA (Bahuvidhavāro)
[80] THỨC UẨN PHÂN THEO BẢY LOẠI: Có thức thiện, có thức bất thiện, có thức vô ký, có thức dục giới, có thức sắc giới, có thức vô sắc giới, có thức phi hệ thuộc. Thức uẩn phân theo bảy loại là như vậy.
Mặt khác, thức uẩn phân theo bảy loại: Có thức tương ưng thọ lạc, có thức tương ưng thọ khổ, có thức tương ưng phi khổ phi lạc… (trùng)… có thức biết cảnh nội phần, có thức biết cảnh ngoại phần, có thức biết cảnh nội ngoại phần, có thức dục giới, có thức sắc giới, có thức vô sắc giới, có thức phi hệ thuộc. Thức uẩn phân theo bảy loại là như vậy.
[81] THỨC UẨN PHÂN THEO HAI MƯƠI BỐN LOẠI: Thức uẩn do duyên nhãn xúc có thiện, có bất thiện, có vô ký, thức uẩn do duyên nhĩ xúc… (trùng)… thức uẩn do duyên tỷ xúc… (trùng)… thức uẩn do duyên thiệt xúc… (trùng)… thức uẩn do duyên thân xúc…(trùng)… thức uẩn do duyên ý xúc có thiện, có bất thiện, có vô ký; nhãn thức… (trùng)… ý thức. Thức uẩn phân theo hai mươi bốn loại là như vậy.
Mặt khác, thức uẩn phân theo hai mươi bốn loại: thức uẩn do duyên nhãn xúc có tương ưng lạc thọ, có tương ưng khổ thọ, có tương ưng phi khổ phi lạc thọ … (trùng)… có biết cảnh nội phần, có biết cảnh ngoại phần, có biết cảnh nội ngoại phần, thức uẩn do duyên nhĩ xúc… (trùng)… thức uẩn do duyên tỷ xúc… (trùng)… thức uẩn do duyên thiệt xúc… (trùng)… thức uẩn do duyên thân xúc… (trùng)… thức uẩn do duyên ý xúc có biết cảnh nội phần, có biết cảnh ngoại phần, có biết cảnh nội ngoại phần; nhãn thức… (trùng)… ý thức. Thức uẩn phân theo hai mươi bốn loại là như vậy.
[72] THỨC UẨN PHÂN THEO BA MƯƠI LOẠI: Thức uẩn do duyên nhãn xúc có dục giới, có sắc giới, có vô sắc giới, có phi hệ thuộc, thức uẩn do duyên nhĩ xúc… (trùng)… thức uẩn do duyên tỷ xúc… (trùng)… thức uẩn do duyên thiệt xúc… (trùng)… thức uẩn do duyên thân xúc… (trùng)… thức uẩn do duyên ý xúc có dục giới, có sắc giới, có vô sắc giới; có phi hệ thuộc; nhãn thức… (trùng)… ý thức. Thức uẩn phân theo ba mươi loại là như vậy.
[83] THỨC UẨN PHÂN THỨC NHIỀU LOẠI: Thức uẩn do duyên nhãn xúc có thiện, có bất thiện, có vô ký, có dục giới, có sắc giới, có vô sắc giới; có phi hệ thuộc; thức uẩn do duyên nhĩ xúc… (trùng)… thức uẩn do duyên tỷ xúc… (trùng)… thức uẩn do duyên thiệt xúc… (trùng)… thức uẩn do duyên thân xúc… (trùng)… thức uẩn do duyên ý xúc có thiện, có bất thiện, có vô ký, có dục giới, có sắc giới, có vô sắc giới; có phi hệ thuộc; nhãn thức… (trùng)… ý thức. Thức uẩn phân theo nhiều loại là như vậy.
Mặt khác, thức uẩn phân theo nhiều loại: Thức uẩn do duyên nhãn xúc có tuơng ưng thọ lạc, có tương ưng thọ khổ, có tương ưng thọ phi khổ phi lạc… (trùng)… có biết cảnh nội phần, có biết cảnh ngoại phần, có biết cảnh nội ngoại phần, có dục giới, có sắc giới, có vô sắc giới; có phi hệ thuộc; thức uẩn do duyên nhĩ xúc… (trùng)… thức uẩn do duyên tỷ xúc… (trùng)… thức uẩn do duyên thiệt xúc… (trùng)… thức uẩn do duyên thân xúc… (trùng)… thức uẩn do duyên ý xúc có biết cảnh nội phần, có biết cảnh ngoại phần, có biết cảnh nội ngoại phần; có dục giới, có sắc giới, có vô sắc giới; có phi hệ thuộc; nhãn thức… (trùng)… ý thức. Thức uẩn phân theo nhiều loại là như vậy.
DỨT PHẦN PHÂN ÐA
DỨT PHÂN TÍCH THEO VI DIỆU PHÁP
PHẦN VẤN ÐÁP (Pañhāpucchakam)
[84] NGŨ UẨN là sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn. đối với năm uẩn có bao nhiêu uẩn thiện? – Bao nhiêu uẩn bất thiện?- Bao nhiêu uẩn vô ký?… (trùng)… Bao nhiêu uẩn hữu tranh[5]? – Bao nhiêu uẩn vô tranh[6].
[85] SẮC UẨN là vô ký; bốn uẩn[7] có thể là thiện, có thể là bất thiện, có thể là vô ký. Hai uẩn[8] không nên nói là tương ưng thọ lạc, tương ưng thọ khổ, tương ưng thọ phi khổ phi lạc; ba uẩn có thể là tương ưng thọ lạc, có thể là tương ưng tho khổ, có thể là tương ưng thọ phi khổ phi lạc. Sắc uẩn là phi dị thục phi dị thục nhân; bốn uẩn có thể là dị thục, có thể là dị thục nhân, có thể là phi dị thục phi dị thục nhân. Sắc uẩn có thể là do thủ cảnh thủ, có thể là phi do thủ cảnh thủ, bốn uẩn có thể là do thủ cảnh thủ, có thể là phi do thủ phi cảnh thủ. Sắc uẩn là phi phiền toái cảnh phiền não, bốn uẩn có thể là phiền toái cảnh phiền não, có thể là phi phiền toái cảnh phiền não, có thể là phi phiền toái phi cảnh phiền não. Sắc uẩn là vô tầm vô tứ; ba uẩn có thể là hữu tầm hữu tứ, có thể là vô tầm hữu tứ, có thể là vô tầm vô tứ; hành uẩn có thể là hữu tầm hữu tứ, có thể là vô tầm hữu tứ, có thể là vô tầm vô tứ, có thể không nên nói là hữu tầm hữu tứ, vô tầm hữu tứ, vô tầm vô tứ. Sắc uẩn không nên nói là câu hành hỷ, câu hành lạc, câu hành xả; thọ uẩn có thể là câu hành hỷ, không là câu hành lạc, không là câu hành xả, có thể không nên nói là câu hành hỷ; ba uẩn có thể là câu hành hỷ, có thể là câu hành lạc, có thể là câu hành xả. Sắc uẩn là không đáng do kiến đạo tiến đạo đoạn trừ; bốn uẩn có thể là đáng do kiến đạo đoạn trừ, có thể không đáng do tiến đạo đoạn trừ, có thể không đáng do kiến đạo tiến đạo đoạn trừ. Sắc uẩn là phi hữu nhân đáng do kiến đạo tiến đạo đoạn trừ; bốn uẩn có thể là hữu nhân đáng do kiến đạo đoạn trừ, có thể hữu nhân đáng do tiến đạo đoạn trừ, có thể phi hữu nhân đáng do kiến đạo tiến đạo đoạn trừ. Sắc uẩn là phi nhân đến tích tập phi nhân đến tịch diệt; bốn uẩn có thể là nhân đến tích tập, có thể là nhân đến tịch diệt có thể là phi nhân đến tích tập phi nhân đến tịch diệt. Sắc uẩn là phi hữu học phi vô học; bốn uẩn có thể là hữu học, có thể là vô học, có thể là phi hữu học, phi vô học. Sắc uẩn là hy thiểu; bốn uẩn có thể là hy thiểu, có thể là đáo đại, có thể là vô lượng. Sắc uẩn là bất tri cảnh; bốn uẩn có thể là biết cảnh hy thiểu; có thể là biết cảnh đáo đại; có thể là biết cảnh vô lượng; có thể không nên nói là biết cảnh hy thiểu, biết cảnh đáo đại, biết cảnh vô lượng. Sắc uẩn là trung bình; bốn uẩn có thể là ty hạ, có thể là trung bình, có thể là tinh lương. Sắc uẩn là phi cố định; bốn uẩn có thể là cố định phần tà, có thể là cố định phần chánh, có thể là phi cố định. Sắc uẩn là vô cảnh; bốn uẩn có thể là đạo thành cảnh, có thể là đạo thành nhân, có thể là đạo thành trưởng. Ngũ uẩn có thể là hiện sanh, có thể là vị sanh, có thể là chuẩn sanh, có thể là quá khứ, có thể là vị lai, có thể là hiện tại. Sắc uẩn là bất tri cảnh; bốn uẩn có thể là biết cảnh quá khứ, có thể là biết cảnh vị lai, có thể là biết cảnh hiện tại; có thể không nên nói là biết cảnh quá khứ, biết cảnh vị lai, biết cảnh hiện tại. Ngũ uẩn có thể là nội phần, có thể là ngoại phần, có thể là nội ngoại phần. Sắc uẩn là bất tri cảnh; bốn uẩn có thể là biết cảnh nội phần, có thể là biết cảnh ngoại phần, có thể là biết nội ngoại phần; có thể không nên nói là biết cảnh nội phần, biết cảnh ngoại phần, biết cảnh nội ngoại phần. Bốn uẩn là vô kiến vô đối chiếu; sắc uẩn có thể là hữu kiến hữu đối chiếu, có thể là vô kiến hữu đối chiếu, có thể là vô kiến vô đối chiếu[9].
[86] Bốn uẩn là phi nhân[10], hành uẩn có thể là nhân, có thể là phi nhân. Sắc uẩn là vô nhân[11], bốn uẩn có thể là hữu nhân, có thể là vô nhân. Sắc uẩn là bất tương ưng nhân; bốn uẩn có thể là tương ưng nhân, có thể là bất tương ưng nhân. Sắc uẩn không nên nói là nhân hữu nhân, hay hữu nhân phi nhân; ba uẩn không nên nói là nhân hữu nhân, có thể là hữu nhân phi nhân, có thể không nên nói là hữu nhân phi nhân; hành uẩn có thể là nhân hữu nhân, có thể là hữu nhân phi nhân, có thể không nên nói là nhân hữu nhân, hay hữu nhân mà phi nhân. Sắc uẩn không nên nói là nhân tương ưng nhân, hay tương ưng nhân mà phi nhân; ba uẩn không nên nói là nhân và tương ưng nhân, có thể là tương ưng nhân phi nhân, có thể không nên nói là tương ưng nhân phi nhân; hành uẩn có thể là nhân tương ưng nhân, có thể là tương ưng nhân phi nhân, có thể không nói là nhân tương ưng nhân, tương ưng nhân phi nhân. Sắc uẩn là phi nhân vô nhân; ba uẩn có thể là phi nhân hữu nhân, có thể là phi nhân vô nhân; hành uẩn có thể là phi nhân hữu nhân; có thể là phi nhân vô nhân; có thể là không nên nói là phi nhân hữu nhân, phi nhân vô nhân[12].
[87] Ngũ uẩn là hữu duyên, là hữu vi. Bốn uẩn là vô kiến, sắc uẩn có thể là hữu kiến, có thể là vô kiến. Bốn uẩn là vô đối chiếu; sắc uẩn có thể là hữu đối chiếu, có thể là vô đối chiếu. Sắc uẩn là sắc; bốn uẩn là phi sắc. Sắc uẩn là hiệp thế; bốn uẩn có thể là hiệp thế, có thể là siêu thế. Ngũ uẩn đáng vài tâm biết, cũng không đáng vài tâm biết[13].
[88] Bốn uẩn là phi lậu; hành uẩn có thể là lậu[14], có thể là phi lậu. Sắc uẩn là cảnh lậu; bốn uẩn có thể là cảnh lậu, có thể là phi cảnh lậu. Sắc uẩn là bất tương ưng lậu; bốn uẩn có thể là tương ưng lậu, có thể bất tương ưng lậu. Sắc uẩn không nên nói là lậu cảnh lậu, nhưng là cảnh lậu phi lậu; ba uẩn không nên nói là lậu cảnh lậu; có thể là cảnh lậu phi lậu, có thể không nên nói là cảnh lậu phi lậu; hành uẩn có thể là lậu cảnh lậu, có thể là cảnh lậu phi lậu, có thể không nên nói là lậu cảnh lậu hay cảnh lậu phi lậu. Sắc uẩn không nên nói là lậu tương ưng lậu, hay tương ưng lậu phi lậu; ba uẩn không nên nói là lậu tương ưng lậu, nhưng có thể là tương ưng lậu phi lậu, cũng có thể không nên nói là tương ưng lậu phi lậu; hành uẩn có thể là lậu tương ưng lậu, có thể là tương ưng lậu phi lậu, có thể không nên nói là tương ưng lậu phi lậu hay lậu tương ưng lậu. Sắc uẩn là bất tương ưng lậu cảnh lậu; bốn uẩn có thể là bất tương ưng lậu cảnh lậu; bốn uẩn có thể là bất tương ưng lậu cảnh lậu, có thể là bất tương ưng lậu phi cảnh lậu, có thể không nên nói là bất tương ưng lậu cảnh lậu hay bất tương ưng lậu phi cảnh lậu[15].
[89] Bốn uẩn là phi triền[16]; hành uẩn có thể là triền, có thể là phi triền. Sắc uẩn là cảnh triền; bốn uẩn có thể là cảnh triền, có thể là phi cảnh triền. Sắc uẩn là bất tương ưng triền; bốn uẩn có thể là tương ưng triền, có thể là bất tương ưng triền. Sắc uẩn không nên nói là triền cảnh triền, nhưng là cảnh triền mà phi triền; ba uẩn không nên nói là triền cảnh triền, có thể là cảnh triền phi triền, cũng có thể là không nên nói là cảnh triền phi triền; hành uẩn có thể là triền cảnh triền, có thể là cảnh triền phi triền, cũng có thể không nên nói là triền cảnh triền hay cảnh triền phi triền. Sắc uẩn không nên nói là triền tương ưng triền hay tương ưng triền phi triền; ba uẩn không nên nói là triền tương ưng triền, cũng có thể là tương ưng triền phi triền, có thể không nên nói tương ưng triền phi triền; hàn uẩn có thể là triền tương ưng triền, có thể là tương ưng triền phi triền, cũng có thể không nên nói là triền tương ưng triền hay tương ưng triền phi triền. Sắc uẩn là bất tương ưng triền cảnh triền; bốn uẩn có thể là bất tương ưng triền cảnh triền, có thể là bất tương ưng triền phi cảnh triền, cũng có thể không nên nói là bất tương ưng triền cảnh triền hay bất tương ưng triền phi cảnh triền[17].
[90] Bốn uẩn là phi phược[18], hành uẩn có thể là phược, có thể là phi phược. sắc uẩn là cảnh phược; bốn uẩn có thể là cảnh phược, có thể là phi cảnh phược. Bốn uẩn có thể là tương ưng phược, có thể là bất tương ưng phược; sắc uẩn không nên nói là tương ưng phược hay bất tương ưng phược. Sắc uẩn không nên nói là phược cảnh phược, nhưng là cảnh phược phi phược; ba uẩn không nên nói là phược cảnh phược, có thể cảnh phược phi phược, cũng có thể không nên nói là cảnh phược phi phược; hành uẩn có thể là phược cảnh phược, có thể là cảnh phược phi phược, cũng có thể không nên nói phược cảnh phược hay cảnh phược mà phi phược. Sắc uẩn không nên nói phược tương ưng phược hay tương ưng phược mà phi phược; ba uẩn không nên nói phược tương ưng phược, có thể là tương ưng phược phi phược, cũng có thể không nên nói là tương ưng phược phi phược; hành uẩn có thể là phược tương ưng phược, có thể là tương ưng phược phi phược, cũng có thể không nên nói là phược tương ưng phược hay tương ưng phược phi phược. Sắc uẩn là bất tương ưng phược cảnh phược; bốn uẩn có thể là bất tương ưng phược cảnh phược, có thể bất tương ưng phược phi cảnh phược, cũng có thể không nên nói là bất tương ưng phược cảnh phược hay bất tương ưng phược phi cảnh phược.
[91] Bốn uẩn là phi bộc[19]…(trùng)… là phi phối[20]…(trùng)… là phi cái[21]; hành uẩn có thể là cái, có thể là phi cái. Sắc uẩn là cảnh cái; bốn uẩn có thể là cảnh cái, có thể là phi cảnh cái. Sắc uẩn là bất tương ưng cái, bốn uẩn có thể là tương ưng cái, có thể là bất tương ưng cái. Sắc uẩn không nên nói là cái cảnh cái, nhưng là cảnh cái phi cái; ba uẩn không nên nói là cái cảnh cái, có thể là cảnh cái phi cái, cũng có thể không nên nói là cái cảnh cái hay cảnh cái phi cái. Sắc uẩn không nên nói là cái tương ưng cái hay tương ưng cái phi cái; ba uẩn không nên nói là cái tương ưng cái, có thể là tương ưng cái phi cái, cũng có thể không nên nói là tương ưng cái phi cái; hành uẩn có thể là cái tương ưng cái, có thể là tương ưng cái phi cái, cũng có thể không nên nói là cái tương ưng cái hay tương ưng cái phi cái. Sắc uẩn là bất tương ưng cái cảnh cái; Bốn uẩn có thể là bất tương ưng cái cảnh cái, có thể là bất tương ưng cái phi cảnh cái cũng không nên nói bất tương ưng cái cảnh cái, hay bất tương ưng cái phi cảnh cái.
[92] Bốn uẩn là phi khinh thị[22]; hành uẩn có thể là khinh thị, có thể là phi khinh thị. Sắc uẩn là cảnh khinh thị; bốn uẩn có thể là cảnh khinh thị, có thể là phi cảnh khinh thị. Sắc uẩn là bất tương ưng khinh thị; ba uẩn có thể là tương ưng khinh thị, có thể là bất tương ưng khinh thị. hành uẩn có thể là tương ưng khinh thị, có thể là bất tương ưng khinh thị, cũng có thể không nên nói tương ưng khinh thị hay bất tương ưng khinh thị. Sắc uẩn không nên nói là khinh thị cảnh khinh thị, nhưng là cảnh khinh thị mà phi khinh thị; ba uẩn không nên nói là khinh thị cảnh khinh thị, có thể là cảnh khinh thị phi khinh thị, cũng có thể không nên nói là khinh thị phi khinh thị. Hành uẩn có thể là khinh thị cảnh khinh thị, có thể là cảnh khinh thị phi khinh thị, cũng có thể không nên nói là khinh thị cảnh khinh thị hay cảnh khinh thị phi khinh thị. Sắc uẩn bất tương ưng khinh thị cảnh khinh thị; bốn uẩn có thể là bất tương ưng khinh thị cảnh khinh thị, có thể là bất tương ưng khinh thị phi cảnh khinh thị, cũng có thể không nên nói là bất tương ưng khinh thị cảnh khinh thị hay bất tương ưng khinh thị phi cảnh khinh thị.
[93] Sắc uẩn là bất tri cảnh[23]; bốn uẩn là hữu tri cảnh. Bốn uẩn là phi tâm; thức uẩn là tâm. Ba uẩn là sở hữu tâm; hai uẩn là phi sở hữu tâm. Ba uẩn là tương ưng tâm; sắc uẩn là bất tương ưng tâm; thức uẩn không nên nói là tương ưng tâm hay bất tương ưng tâm. Ba uẩn là hòa với tâm, sắc uẩn phi hòa với tâm; thức uẩn không nên nói là hòa với tâm hay phi hòa với tâm. Ba uẩn có tâm sở sanh[24]; thức uẩn là phi tâm sở sanh; sắc uẩn có thể là tâm sở sanh, có thể là phi tâm sở sanh. Ba uẩn là đồng hiện hữu với tâm; thức uẩn là phi đồng hiện hữu với tâm; sắc uẩn có thể đồng hiện hữu với tâm, có thể phi đồng hiện hữu với tâm. Ba uẩn là tùy chuyển với tâm; thức uẩn là phi tùy chuyển với tâm; sắc uẩn có thể tùy chuyển với tâm, có thể phi tùy chuyển với tâm. Ba uẩn hòa tâm tâm sở sanh; hai uẩn phi hòa tâm tâm sở sanh. Ba uẩn là hòa tâm tâm sở sanh đồng hiện hữu với tâm; hai uẩn là phi hòa tâm tâm sở sanh đồng hiện hữu với tâm. Ba uẩn là hòa tâm tâm sở sanh tùy chuyển tâm; hai uẩn là phi hòa tâm tâm sở sanh tùy chuyển với tâm. Ba uẩn là ngoại phần; thức uẩn là nội phần; sắc uẩn có thể là nội phần, có thể là ngoại phần. Bốn uẩn là phi y sinh; sắc uẩn có thể là y sinh, có thể là phi y sinh; có thể thành do thủ, có thể phi thành do thủ.
[94] Bốn uẩn là phi thủ[25]; hành uẩn có thể là thủ, có thể là phi thủ. Sắc uẩn là cảnh thủ; bốn uẩn có thể là cảnh thủ, có thể là phi cảnh thủ. Sắc uẩn là bất tương ưng thủ; bốn uẩn có thể là tương ưng thủ, có thể là bất tương ưng thủ. Sắc uẩn không nên nói là thủ cảnh thủ, nhưng là cảnh thủ mà phi thủ; ba uẩn không nên nói là thủ cảnh thủ, có thể là cảnh thủ phi thủ, cũng có thể không nên nói cảnh thủ phi thủ. Hành uẩn có thể là thủ cảnh thủ, có thể là cảnh thủ phi thủ, có thể không nên nói là thủ cảnh thủ hay cảnh thủ phi thủ. Sắc uẩn không nên nói thủ tương ưng thủ hay tương ưng thủ phi thủ; ba uẩn không nên nói thủ tương ưng thủ, có thể là tương ưng thủ phi thủ, cũng có thể không nên nói là tương ưng thủ phi thủ, hành uẩn có thể là thủ tương ưng thủ, có thể là tương ưng thu phi thủ, có thể không nên nói là thủ tương ưng thủ hay tương ưng thủ phi thủ. Sắc uẩn là bất tương ưng thủ cảnh thủ, bốn uẩn có thể là bất tương ưng thủ cảnh thủ, có thể là bất tương ưng thủ phi cảnh thủ, cũng có thể không nên nói là bất tương ưng thủ cảnh thủ hay bất tương ưng thủ phi cảnh thủ.
[95] Bốn uẩn là phi phiền não[26]; hành uẩn có thể là phiền não, có thể là phi phiền não. Sắc uẩn có thể là cảnh phiền não; bốn uẩn có thể là cảnh phiền não có thể là phi cảnh phiền não. Sắc uẩn là phi cảnh phiền toái [27]; bốn uẩn có thể là phiền toái có thể là phi phiền toái. Sắc uẩn là bất tương ưng phiền não; bốn uẩn có thể là tương ưng phiền não, có thể là bất tương ưng phiền não. Sắc uẩn không nên nói là phiền não cảnh phiền não, nhưng là cảnh phiền não phi phiền não; ba uẩn không nên nói là phiền não cảnh phiền não, có thể là cảnh phiền não phi phiền não, có thể không nên nói cảnh phiền não phi phiền não. Hành uẩn có thể là phiền não cảnh phiền não, có thể là cảnh phiền não phi phiền não, có thể không nên nói phiền não cảnh phiền não hay cảnh phiền não mà phi phiền não. Sắc uẩn không nên nói phiền não phiền toái, hay phiền toái phi phiền não, ba uẩn không nên nói phiền não phiền toái, có thể là phiền toái phi phiền não, có thể không nên nói phiền toái phi phiền não, hành uẩn có thể là phiền não phiền toái, có thể là phiền toái phi phiền não; có thể không nên nói phiền não phiền toái hay phiền toái mà phi phiền não. Sắc uẩn không nên nói phiền não tương ưng phiền não hay tương ưng phiền não phi phiền não; ba uẩn không nên nói phiền não tương ưng phiền não, có thể là phiền tương ưng phiền não phi phiền não, cũng có thể không nên nói là tương ưng phiền não phi phiền não; hành uẩn có thể là phiền não tương ưng phiền não, có thể tương ưng phiền não phi phiền não, cũng có thể không nên nói phiền não tương ưng phiền não hay tương ưng phiền não mà phi phiền não. Sắc uẩn là bất tương ưng phiền não cảnh phiền não;bốn uẩn có thể là bất tương ưng phiền não cảnh phiền não có thể là bất tương ưng phiền não phi cảnh phiền não.
[96] Sắc uẩn là không đáng do kiến đạo đoạn trừ; bốn uẩn có thể là đáng do kiến đạo đoạn trừ, có thể là không đáng do kiến đạo đoạn trừ. Sắc uẩn không đáng do tiến đạo đoạn trừ; bốn uẩn có thể là đáng do tiến đạo đoạn trừ, có thể là không đáng do tiến đạo đoạn trừ. Sắc uẩn là phi hữu nhân đáng do kiến đạo đoạn trừ, bốn uẩn có thể là hữu nhân đáng do kiến đạo đoạn trừ, có thể là phi hữu nhân đáng do kiến đạo đoạn trừ. Sắc uẩn là phi hữu nhân đáng do tiến đạo đoạn trừ, bốn uẩn có thể là hữu nhân đáng do tiến đạo đoạn trừ, có thể là phi hữu nhân đáng do tiến đạo đoạn trừ. Sắc uẩn là vô tầm; bốn uẩn có thể là hữu tầm, có thể là vô tầm. Sắc uẩn là vô tứ, bốn uẩn có thể là hữu tứ, có thể là vô tứ. Sắc uẩn là vô hỷ, bốn uẩn có thể là hữu hỷ, có thể là vô hỷ. Sắc uẩn là phi câu hành hỷ, bốn uẩn là câu hành hỷ, có thể là phi câu hành hỷ. Hai uẩn là phi câu hành lạc, ba uẩn có thể là câu hành lạc. có thể là phi câu hành lạc. Hai uẩn là phi câu hành xả, ba uẩn có thể là câu hành xả. có thể là phi câu hành xả. Sắc uẩn là dục giới; bốn uẩn có thể là dục giới, có thể là phi dục giới. Sắc uẩn là phi sắc giới; bốn uẩn có thể là sắc giới, có thể là phi sắc giới. Sắc uẩn là phi vô sắc giới, bốn uẩn có thể là vô sắc giới, có thể là phi vô sắc giới. Sắc uẩn là hệ thuộc; bốn có thể là hệ thuộc, có thể là phi hệ thuộc. Sắc uẩn là phi dẫn xuất; bốn có thể là dẫn xuất, có thể là phi dẫn xuất. Sắc uẩn là phi cố định; bốn có thể là cố định, có thể là phi cố định. Sắc uẩn là hữu thượng; bốn uẩn có thể là hữu thượng, có thể là vô thượng. Sắc uẩn là vô tranh; bốn uẩn có thể là hữu tranh, có thể là vô tranh[28].
DỨT PHẦN VẤN ÐÁP
HOÀN THÀNH UẨN PHÂN TÍCH
[1] Hành phi hệ thuộc – apariyāpanna, là chỉ cho hành uẩn siêu thế.
[2] Năm mươi sở hữu tâm (cetasika) ngoài thọ và tưởng, được xem là hành uẩn, trong đó Tư tâm sở (cetanācetasika) được kể là căn của hành uẩn.
[3] Xem chú thích ở phần tưởng uẩn: hiện sanh, vị sanh , chuẩn sanh.
[4] Xem chú thích: Hiện sanh , vị sanh, chuẩn sanh trong phần tưởng uẩn.
[5] Hữu tranh – Sarana (Sa + rana).
[6] Vô tranh – arana (a + rana)
[7] Bốn uẩn nầy là bốn danh uẩn: Thọ tưởng, hành, thức. Nhưng ở một vài chỗ khác trong đây, nói bốn uẩn nên hiểu chưa hẳn chỉ bốn danh uẩn.
[8] Hai uẩn nầy là sắc uẩn và thọ uẩn. Trong mọi chỗ khác thì không nên hỏi luôn luôn là như vậy, tùy chi pháp.
[9] Cả đoạn (85) là phần vấn đáp ngũ uẩn theo đầu đề tam (titamātikā) . Xem trong bộ Dhammasagina (Pháp tụ)
[10] Phi nhân (nahetu), không phải là nhân. sáu tâm sở hành uẩn là tham, sân, si, vô tham, vô sân, vô si là nhân (hetu), còn pháp ngoài ra là phi nhân.
[11] Vô nhân (ahetuka), tức là pháp không có nhân phối hợp.
[12] Ðoạn (86) là phần vấn đáp ngũ uẩn theo đầu đề nhị (dukamatikā) . Xem trong bộ Dhammasangini Phần Tụ Nhân (hetugocchaka)
[13] Phần nhị đề Tiểu Ðỉnh ( Cūlantaraduka)
[14] Lậu (āsava)
[15] Phần Tụ Lậu (āsavagocchaka) trong đầu đề nhị (dukamātikā)
[16] Triền (Saññojana)
[17] Phần Tụ triền (Saññojanagocchaka) trong Ðầu đề nhị (Dukamātikā)
[18] Phược (gantha). Phần tự phược (ganthagocchaka).
[19] Bộc (ogha) . Phần Tụ bộc (oghagocchaka)
[20] Phối (yoga). Phần Tụ phối (yogagocchaka)
[21] Cái (Nīvarana). Phần Tụ cái (Nivaranagocchaka)
[22] Khinh thị (parāmāsa) . Phần tụ khinh thị (pārāmāsagocchaka)
[23] Phần Nhị đề đại đỉnh (mahantaraduka)
[24] Có tâm sở sanh (cittasamutthāna), l2 pháp có tâm làm nhân sanh ra, tức là sở hữu tâm và sắc tâm (cittajarūpa)
[25] Thủ (upādāna). Phần tự thủ (upādānagocchaka).
[26] Phiền não (kilesa), chỉ cho mười phiền não là: Tham, sân, si, mạn, tà kiến, hoài nghi, hôn trầm, phóng dật, vô tàm, vô úy (Theo Vi Diệu Pháp), Phần Tụ phiền não (kilesagocchaka).
[27] Phiền toái (sankilittha), chỉ cho pháp bất thiện là mười hai tâm bất thện và mười bốn sở hữu tâm bất thiện.
[28] Phần Nhị Ðề Yêu Bối (pitthiduka) trong đầu đề nhị (Dukamātika). Xem bộ Dhammasaṅginī.
XỨ PHÂN TÍCH (ĀYATANAVIBHAṄGO)
PHÂN THEO KINH (Suttantavibhājanīyaṃ)
[97] THẬP NHỊ XỨ là nhãn xứ, sắc xứ, nhĩ xứ, thinh xứ, tỷ xứ, khí xứ, thiệt xứ, vị xứ, thân xứ, xúc xứ, ý xứ, pháp xứ.
[98] NHÃN là vô thường, khổ não, vô ngã, có tính biến dịch; sắc là vô thường, khổ não, vô ngã, có tính biến dịch; nhĩ là vô thường, khổ não, vô ngã, có tính biến dịch; thinh là vô thường, khổ não, vô ngã, có tính biến dịch; tỷ là vô thường, khổ não, vô ngã, có tính biến dịch; khí là vô thường, khổ não, vô ngã, có tính biến dịch; thiệt là vô thường, khổ não, vô ngã, có tính biến dịch; vị là vô thường, khổ não, vô ngã, có tính biến dịch; thân là vô thường, khổ não, vô ngã, có tính biến dịch; xúc là vô thường, khổ não, vô ngã, có tính biến dịch; ý là vô thường, khổ não, vô ngã, có tính biến dịch; pháp là vô thường, khổ não, vô ngã, có tính biến dịch.
DỨT PHÂN PHÂN THEO KINH
PHÂN THEO VI DIỆU PHÁP (Abhidhammabhājanīyaṃ)
[99] THẬP NHỊ XỨ là nhãn xứ, nhĩ xứ, tỷ xứ, thiệt xứ, thân xứ, ý xứ, sắc xứ, thinh xứ, khí xứ, vị xứ, xúc xứ, pháp xứ.
[100] Ở ÐÂY THẾ NÀO LÀ NHÃN XỨ [1]?
Nhãn là tinh chất nương bốn đại hiển…(trùng)…[2] đó là làng trống không. Ðây gọi là nhãn xứ.
Ở ÐÂY THẾ NÀO LÀ NHĨ XỨ[3], TỶ XỨ[4]Ù… THIỆT XỨ[5]… THÂN XỨ[6]?
Thân nào là tinh chất nương bốn đại hiển…(trùng)… đó là làng trống không. Ðây gọi là thân xứ.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ Ý XỨ[7]
Ý xứ phân theo một loại là tương ưng xúc. Ý xứ phân theo hai loại có: Có hữu nhân, có vô nhân.
Ý xứ phân theo ba loại: Có thiện, có bất thiện, có vô ký… (trùng)…[8]. Ý xứ phân theo nhiều loại là như vậy.
Ðây gọi là ý xứ.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ SẮC XỨ[9]?
Sắc nào là hình sắc nương bốn đại hiển… (trùng)… đó là sắc giới. Ðây gọi là sắc xứ.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ THINH XỨ[10]… KHÍ XỨ[11]… VỊ XỨ[12]… XÚC XỨ[13]?
Tức địa giới … (trùng) … đó là xúc giới. Ðây gọi là xúc xứ.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ PHÁP XỨ[14]?
Tức thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn; hoặc là có sắc vô kiến vô đối chiếu liên quan pháp xứ và vô vi giới.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ THỌ UẨN[15]?
Thọ uẩn phân theo một loại là: Thọ uẩn tương ưng xúc…(trùng)… Thọ uẩn phân theo nhiều loại là như vậy. Ðây gọi là thọ uẩn.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ TƯỞNG UẨN[16]?
Tưởng uẩn phân theo một loại là: Tưởng uẩn tương ưng xúc…(trùng)… Tưởng uẩn phân theo nhiều loại là như vậy. Ðây gọi là tưởng uẩn.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ HÀNH UẨN[17]?
Hành uẩn phân theo mốt loại là: Hành uẩn tương ưng tâm…(trùng)… Hành uẩn phân theo nhiều loại là như vậy. Ðây gọi là hành uẩn.
Ở ÐÂY THẾ NÀO GỌI LÀ SẮC VÔ KIẾN VÔ ÐỐI CHIẾU LIÊN QUAN PHÁP XỨ[18]?
Tức nữ quyền…(trùng)… đoàn thực. Ðây gọi là sắc vô kiến vô đối chiếu liên quan pháp xứ.
Ở ÐÂY THẾ NÀO LÀ VÔ VI GIỚI[19]?
Tức là sự dứt ái, dứt sân, dứt si,. Ðây dọi là vô vi giới. Ðây gọi là pháp xứ.
DỨT PHẦN PHÂN THEO VI DIỆU PHÁP
PHẦN VẤN ÐÁP (Pañhāpucchakaṃ)
[101] THẬP NHỊ XỨ là: Nhãn xứ, sắc xứ… (trùng)… ý xứ, pháp xứ.
ÐỐI VỚI THẬP NHỊ XỨ CÓ BAO NHIÊU THIỆN? CÓ BAO NHIÊU BẤT THIỆN? CÓ BAO NHIÊU VÔ KÝ? …(trùng)… CÓ BAO NHIÊU HỮU TRANH? CÓ BAO NHIÊU VÔ TRANH?
[102] MƯỜI XỨ[20] là vô ký; hai xứ có thể là thiện, có thể là bất thiện, có thể là vô ký. Mười xứ không nên nói là tương ưng thọ lạc, tương ưng thọ khổ hay tương ưng thọ phi khổ phi lạc. Ý xứ có thể là tương ưng thọ lạc, có thể là tương ưng thọ khổ có thể là tương ưng thọ phi khổ phi lạc; pháp xứ có thể là tương ưng thọ lạc, có thể là tương ưng thọ khổ có thể là tương ưng thọ phi khổ, phi lạc; có thể không nên nói là tương ưng thọ lạc, tương ưng thọ khổ, tương ưng thọ phi khổ phi lạc. Mười xứ là pháp phi dị thục phi dị thục nhân; hai xứ có thể là pháp dị thục, có thể là pháp dị thục nhân, có thể là pháp phi dị thục phi dị thục nhân. Năm xứ[21] là do thủ cảnh thủ; thinh xứ là phi do thủ cảnh thủ, bốn xứ có thể là do thủ cảnh thủ, có thể là phi do thủ cảnh thủ, có thể là phi do thủ phi cảnh thủ; hai xứ có thể là do thủ cảnh thủ, có thể là phi do thủ cảnh thủ, có thể là phi do thủ phi cảnh thủ. Mười xứ là phi phiền toái cảnh phiền não; hai xứ có thể là phiền toái cảnh phiền não; có thể là phi phiền toái cảnh phiền não; có thể là phi phiền toái phi cảnh phiền não. Mười xứ là vô tầm vô tứ; ý xứ có thể là hữu tầm hữu tứ, có thể là vô tầm hữu tứ, có thể là vô tầm vô tứ, pháp xứ có thể là hữu tầm hữu tứ, có thể là vô tầm hữu tứ, có thể là vô tầm vô tứ, có thể không nên nói là hữu tầm hữu tứ hay vô tầm hữu tứ hay vô tầm vô tứ. Mười xứ không nên nói là câu hành hỷ hay câu hành lạc, hay câu hành xả. Hai xứ có thể là câu hành hỷ, có thể là câu hành lạc, có thể là câu hành xả; có thể không nên nói là câu hành hỷ câu hành lạc, hay câu hành xả. Mười xứ là không đáng do kiến đạo tiến đạo đoạn trừ, hai xứ có thể là đáng do kiến đạo đoạn trừ, có thể là đáng do tiến đạo đoạn trừ, có thể là không đáng do kiến đạo tiến đạo đoạn trừ. Mười xứ là phi hữu nhân đáng do kiến đạo tiến đạo đoạn trừ, hai xứ có thể là hữu nhân đáng do kiến đạo đoạn trừ, có thể là hữu nhân đáng do tiến đạo đoạn trừ, có thể là phi hữu nhân đáng do kiến đạo tiến đạo đoạn trừ. Mười xứ là phi nhân đến tích tập, phi nhân đến tịch diệt, hai xứ có thể là nhân đến tích tập, có thể là nhân đến tịch diệt, có thể là phi nhân đến tích tập, có thể là phi nhân đến tịch diệt. Mười xứ là phi hữu học phi vô học, hai xứ có thể là hữu học, có thể là vô học, có thể là phi hữu học phi vô học. Mười xứ là hy thiểu, hai xứ có thể là hy thiểu, có thể là đáo đại, có thể là vô lượng. Mười xứ là bất tri cảnh, hai xứ có thể là biết cảnh hy thiểu, có thể là biết cảnh đáo đại, có thể là biết cảnh vô lượng, có thể không nên nói là biết cảnh hy thiểu, biết cảnh đáo đại, biết cảnh vô lượng. Mười xứ là trung bình, hai xứ có thể là ty hạ, có thể là trung bình, có thể là tinh lương. Mười xứ là phi cố định, hai xứ có thể là cố định phần tà, có thể là cố định phần chánh, có thể là phi cố định. Mười xứ là vô cảnh, hai xứ có thể là đạo thành cảnh, có thể là đạo thành nhân, có thể là đạo thành trưởng. có thể không nên nói là đạo thành cảnh, hay đạo thành nhân, hay đạo thành trưởng. Năm xứ có thể là hiện sanh, có thể là chuẩn sanh, không nên nói là vị sanh, thinh xứ có thể là hiện sanh, có thể là vị sanh, không nên nói là chuẩn sanh, năm xứ có thể là hiện sanh, có thể là chuẩn sanh, có thể là vị sanh, pháp xứ có thể là hiện sanh, có thể là vị sanh, có thể là chuẩn sanh, có thể không nên nói là hiện sanh, hay vị sanh, hay chuẩn sanh. Mười một xứ có thể là quá khứ, có thể là vị lai, có thể là hiện tại. pháp xứ có thể là quá khứ, có thể là vị lai, có thể là hiện tại, có thể không nên nói là quá khứ, hay vị lai, hay hiện tại. Mười xứ là bất tri cảnh, hai xứ có thể là biết cảnh quá khứ, có thể là biết cảnh vị lai, có thể là biết cảnh hiện tại, có thể không nên nói là biết cảnh quá khứ, hay biết cảnh vị lai, hay biết cảnh hiện tại. Mười hai xứ có thể là nội phần, có thể là ngoại phần, có thể là nội ngoại phần. Mười xứ là bất tri cảnh, hai xứ có thể là biết cảnh nội phần, có thể là biết cảnh ngoại phần, có thể là biết cảnh nội ngoại phần, có thể không nên nói là biết cảnh nội phần, hay biết cảnh ngoại phần, hay biết cảnh nội ngoại phần. Sắc xứ là hữu kiến hữu đối chiếu; chín xứ là vô kiến hữu đối chiếu; hai xứ là vô kiến vô đối chiếu.
[103] Mười một xứ là phi nhân; pháp xứ có thể là nhân, có thể là phi nhân. Mười xứ là vô nhân; hai xứ có thể là vô nhân, có thể là hữu nhân. Mười xứ là bất tương ưng nhân; hai xứ có thể là tương ưng nhân có thể là bất tương ưng nhân. Mười xứ không nên nói là nhân hữu nhân hay hữu nhân vô nhân; ý xứ không nên nói là nhân hữu nhân, có thể là hữu nhân phi nhân, có thể không nên nói là nhân hữu nhân phi nhân; pháp xứ có thể là nhân hữu nhân, có thể là hữu nhân phi nhân, có thể không nên nói là nhân hữu nhân, hữu nhân phi nhân. Mười xứ không nên nói là nhân tương ưng nhân, hay tương ưng nhân phi nhân; ý xứ không nên nói là nhân tương ưng nhân, có thể là tương ưng nhân phi nhân, có thể không nên nói là tương ưng nhân phi nhân; pháp xứ có thể nhân tương ưng nhân, có thể là tương ưng nhân phi nhân, có thể không nên nói là nhân tương ưng nhân, hay tương ưng nhân phi nhân. Mười xứ là phi nhân vô nhân; ý xứ có thể là phi nhân hữu nhân; phi nhân vô nhân; pháp xứ có thể là phi nhân hữu nhân, có thể là phi nhân vô nhân, có thể không nên nói là phi nhân hữu nhân hay phi nhân vô nhân.
[104] Mười một xứ là hữu duyên; pháp xứ có thể là hữu duyên có thể là vô duyên. Mười một xứ là hữu vi; pháp xứ có thể là hữu vi, có thể là vô vi. Mười một xứ là vô kiến. sắc xứ là hữu kiến. Mười xứ là hữu đối chiếu, hai xứ là vô đối chiếu. Mười xứ là sắc, ý xứ là phi sắc; pháp xứ có thể là sắc, có thể là phi sắc. Mười xứ là hiệp thế; hai xứ có thể là hiệp thế, có thể là siêu thế. Mười hai xứ đáng do vài tâm biết[22], không đáng do vài tâm biết[23].
[105] Mười một xứ là phi lậu[24], pháp xứ có thể là lậu có thể là phi lậu. Mười xứ là cảnh lậu; hai xứ có thể là cảnh lậu, có thể là phi cảnh lậu. Mươi xứ là bất tương ưng lậu; hai xứ có thể là tương ưng lậu, có thể là bất tương ưng lậu. Mười xứ không nên nói là lậu cảnh lậu, có thể là cảnh lậu phi lậu; ý xứ không nên nói là lậu cảnh lậu, có thể là cảnh lậu phi lậu, có thể không nên nói là cảnh lậu phi lậu; pháp xứ có thể là lậu cảnh lậu, có thể là cảnh lậu phi lậu, có thể không nên nói là lậu cảnh lậu, hay cảnh lậu phi lậu. Mười xứ không nên nói lậu tương ưng lậu, có thể tương ưng lậu phi lậu; ý xứ không nên nói là lậu tương ưng lậu, có thể là tương ưng lậu phi lậu; có thể không nên nói là tương ưng lậu phi lậu; pháp xứ có thể là lậu tương ưng lậu, có thể là tương ưng lậu phi lậu, có thể không nên nói là lậu tương ưng lậu hay tương ưng lậu phi lậu. Mười xứ là bất tương lậu cảnh lậu; hai xứ có thể là bất tương ưng lậu cảnh lậu, có thể là bất tương ưng lậu phi cảnh lậu, có thể không nên nói là bất tương ưng lậu cảnh lậu hay bất tương ưng lậu phi cảnh lậu.
[106] Mười một xứ là phi triền; pháp xứ có thể là triền, có thể là phi triền. Mười xứ là cảnh triền; hai xứ có thể là cảnh triền, có thể là phi cảnh triền. Mười xứ là bất tương ưng triền; hai xứ có thể là tương ưng triền, có thể là bất tương ưng triền. Mười xứ không nên nói là triền cảnh triền, nhưng là cảnh triền phi triền; ý xứ không nên nói là triền cảnh triền, có thể là cảnh triền phi triền, có thể không nên nói là cảnh triền phi triền, pháp xứ có thể là triền cảnh triền, có thể là cảnh triền phi triền, có thể không nên nói là triền cảnh triền hay cảnh triền phi triền. Mười xứ không nên nói là triền tương ưng triền, hay tương ưng triền phi triền; ý xứ không nên nói là triền tương ưng triền, có thể là tương ưng triền phi triền, có thể không nên nói là tương ưng triền phi triền; pháp xứ có thể là triền tương ưng triền, có thể tương ưng triền phi triền, có thể không nên nói là triền tương ưng triền hay tương ưng triền phi triền. Mười xứ là bất tương ưng triền cảnh triền; hai xứ có thể là bất tương ưng triền cảnh triền, có thể là bất tương ưng triền phi cảnh triền, có thể không nên nói là bất tương ưng triền cảnh triền hay bất tương ưng triền phi cảnh triền.
[107] Mười một xứ là phi phược[25]; pháp xứ có thể là phược, có thể là phi phược. Mười xứ là cảnh phược; hai xứ có thể là cảnh phược, có thể là phi cảnh phược. Mười xứ là bất tương ưng phược; hai xứ có thể là tương ưng phược, có thể là bất tương ưng phược. Mười xứ không nên nói là phược cảnh phược, nhưng là cảnh phược phi phược; ý xứ không nên nói là phược cảnh phược, có thể là cảnh phược phi phược, có thể không nên nói là cảnh phược phi phược, pháp xứ có thể là phược cảnh phược, có thể là cảnh phược phi phược, có thể không nên nói là phược cảnh phược hay cảnh phược phi phược. Mười xứ không nên nói là phược tương ưng phược, hay tương ưng phược phi phược; ý xứ không nên nói là phược tương ưng phược, có thể là tương ưng phược phi phược, có thể không nên nói là tương ưng phược phi phược; pháp xứ có thể là phược tương ưng phược, có thể tương ưng phược phi phược, có thể không nên nói là phược tương ưng phược hay tương ưng phược phi phược. Mười xứ là bất tương ưng phược cảnh phược; hai xứ có thể là bất tương ưng phược cảnh phược, có thể là bất tương ưng phược phi cảnh phược, có thể không nên nói là bất tương ưng phược cảnh phược hay bất tương ưng phược phi cảnh phược.
[108] Mười một xứ là phi bộc[26]…(trùng)..ḷà phi phối[27]…(trùng)… là phi cái[28]; pháp xứ có thể là cái, có thể là phi cái. Mười xứ là cảnh cái; hai xứ có thể là cảnh cái, có thể là phi cảnh cái. Mười xứ là bất tương ưng cái; hai xứ có thể là tương ưng cái, có thể là bất tương ưng cái. Mười xứ không nên nói là cái cảnh cái, nhưng là cảnh cái phi cái; ý xứ không nên nói là cái cảnh cái, có thể là cảnh cái phi cái, có thể không nên nói là cảnh cái phi cái, pháp xứ có thể là cái cảnh cái, có thể là cảnh cái phi cái, có thể không nên nói là cái cảnh cái hay cảnh cái phi cái. Mười xứ không nên nói là cái tương ưng cái, hay tương ưng cái mà phi cái; ý xứ không nên nói là cái tương ưng cái, có thể là tương ưng cái mà phi cái, có thể không nên nói là tương ưng cái mà phi cái; pháp xứ có thể là cái tương ưng cái, có thể tương ưng cái phi cái, có thể không nên nói là cái tương ưng cái hay tương ưng cái phi cái. Mười xứ là bất tương ưng cái cảnh cái; hai xứ có thể là bất tương ưng cái cảnh cái, có thể là bất tương ưng cái phi cảnh cái, có thể không nên nói là bất tương ưng cái cảnh cái hay bất tương ưng cái phi cảnh cái.
[109] Mười một xứ là phi khinh thị[29]; pháp xứ có thể là khinh thị, có thể là phi khinh thị. Mười xứ là cảnh khinh thị; hai xứ có thể là cảnh khinh thị, có thể là phi cảnh khinh thị. Mười xứ là bất tương ưng khinh thị; ý xứ có thể là tương ưng khinh thị, có thể là bất tương ưng khinh thị. Pháp xứ có thể tương ưng khinh thị có thể là bất tương ưng khinh thị, có thể không nên nói là tương ưng khinh thị hay bất tương ưng khinh thị. Mười xứ không nên nói là khinh thị cảnh khinh thị, nhưng là cảnh khinh thị phi khinh thị, ý xứ không nên nói là khinh thị cảnh khinh thị, có thể là cảnh khinh thị phi khinh thị, có thể không nên nói là cảnh khinh thị phi khinh thị, pháp xứ có thể là khinh thị cảnh khinh thị, có thể là cảnh khinh thị phi khinh thị. có thể không nên nói là khinh thị cảnh khinh thị, hay cảnh khinh thị phi khinh thị; Mười xứ là bất tương ưng khinh thị cảnh khinh thị, hai xứ có thể là bất tương ưng khinh thị cảnh khinh thị, có thể là bất tương ưng khinh thị phi cảnh khinh thị; có thể không nên nói là bất tương ưng khinh thị cảnh khinh thị, hay bất tương ưng khinh thị phi cảnh khinh thị.
[110] Mười xứ là bất tri cảnh[30], ý xứ là hữu tri cảnh, pháp xứ có thể là hữu tri cảnh, có thể là bất tri cảnh. Ý xứ là tâm; mười một xứ là phi tâm. Mười một xứ là phi sỡ hữu tâm. Pháp xứ có thể là sỡ hữu tâm, có thể là phi sỡ hữu tâm. Mười xứ là bất tương ưng tâm; Pháp xứ có thể là tương ưng tâm, có thể là bất tương ưng tâm, ý xứ không nên nói là tương ưng tâm hay bất tương ưng tâm. Mười xứ là phi hòa với tâm, pháp xứ có thể là hòa với tâm, có thể là phi hòa với tâm, ý xứ không nên nói là hòa với tâm hay phi hòa với tâm. Sáu xứ là phi tâm sở sanh; Sáu xứ có thể là tâm sở sanh, có thể là phi tâm sở sanh. Mười một xứ là phi đồng hiện hữu với tâm; pháp xứ có thể là đồng hiện hữu với tâm, có thể là phi đồng hiện hữu với tâm. Mười một xứ là phi tùy chuyển với tâm; pháp xứ có thể là tùy chuyển với tâm, có thể là phi tùy chuyển với tâm. Mười một xứ là phi hòa với tâm tâm sở sanh; pháp xứ có thể là hòa với tâm tâm sở sanh, có thể là phi hòa với tâm tâm sở sanh. Mười một xứ là phi hòa với tâm tâm sở sanh đồng hiện hữu với tâm; pháp xứ có thể là hòa với tâm tâm sở sanh đồng hiện hữu với tâm, có thể là phi hòa với tâm tâm sở sanh đồng hiện hữu với tâm. Mười một xứ là phi hòa với tâm tâm sở sanh tùy chuyển với tâm, pháp xứ có thể là hòa với tâm tâm sở sanh tùy chuyển với tâm, có thể là phi hòa với tâm tâm sở sanh tùy chuyển với tâm. Sáu xứ là nội phần, Sáu xứ là ngoại phần. Chín xứ là y sinh; hai xứ là phi y sinh; pháp xứ có thể là y sinh; có thể là phi y sinh; Năm xứ là do thủ; thinh xứ là phi do thủ; sáu xứ có thể là do thủ, có thể là phi do thủ.
[111] Mười một xứ là phi thủ[31]; pháp xứ có thể là thủ, có thể là phi thủ. Mười xứ là cảnh thủ; hai xứ có thể là cảnh thủ, có thể là phi cảnh thủ. Mười xứ là bất tương ưng thủ; hai xứ có thể là tương ưng thủ, có thể là bất tương ưng thủ. Mười xứ không nên nói là thủ cảnh thủ, nhưng là cảnh thủ phi thủ, ý xứ không nên nói là thủ cảnh thủ phi thủ, có thể là cảnh thủ phi thủ, có thể không nên nói là cảnh thủ phi thủ, pháp xứ có thể là thủ cảnh thủ có thể là cảnh thủ phi thủ, có thể không nên nói là thủ cảnh thủ, hay cảnh thủ phi thủ; Mười xứ không nên nói là thủ tương ưng thủ, hay tương ưng thủ mà phi thủ, ý xứ không nên nói là thủ tương ưng thủ; có thể là tương ưng thủ phi thủ, có thể không nên nói là tương ưng thủ phi thủ; pháp xứ có thể là thủ tương ưng thủ, có thể là tương ưng thủ phi thủ, có thể không nên nói là thủ tương ưng thủ hay tương ưng thủ phi thủ. Mười xứ là bất tương ưng thủ cảnh thủ, hai xứ có thể là bất tương ưng thủ cảnh thủ, có thể là bất tương ưng thủ phi cảnh thủ, có thể không nên nói là bất tương ưng thủ cảnh thủ hay bất tương ưng thủ phi cảnh thủ.
[112] Mười một xứ là phi phiền não[32]; pháp xứ có thể là phiền não, có thể là phi phiền não. Mười xứ là cảnh phiền não; hai xứ có thể là cảnh phiền não, có thể là phi cảnh phiền não. Mười xứ là phi phiền toái[33]; hai xứ có thể là phiền toái, có thể là phi phiền toáiṂười xứ là bất tương ưng phiền não; hai xứ có thể là tương ưng phiền não, có thể là bất tương ưng phiền não. Mười xứ không nên nói là phiền não cảnh phiền não, nhưng là cảnh phiền não phi phiền não, ý xứ không nên nói là phiền não cảnh phiền não, có thể là cảnh phiền não phi phiền não, có thể không nên nói là cảnh phiền não phi phiền não, pháp xứ có thể là phiền não cảnh phiền não có thể là cảnh phiền não phi phiền não, có thể không nên nói là phiền não cảnh phiền não, hay cảnh phiền não phi phiền não. Mười xứ không nên nói là phiền toái phiền não hay phiền toái phi phiền não; ý xứ không nên nói là phiền não phiền toái, có thể là phiền toái phi phiền não, có thể không nên nói là phiền toái phi phiền não; pháp xứ có thể là phiền não phiền toái, có thể là phiền toái phi phiền não, có thể không nên nói là phiền não phiền toái, hay phiền toái phi phiền não. Mười xứ không nên nói là phiền não tương ưng phiền não, hay tương ưng phiền não mà phi phiền não, ý xứ không nên nói là phiền não tương ưng phiền não; có thể là tương ưng phiền não phi phiền não, có thể không nên nói là tương ưng phiền não phi phiền não; pháp xứ có thể là phiền não tương ưng phiền não, có thể là tương ưng phiền não phi phiền não, có thể không nên nói là phiền não tương ưng phiền não hay tương ưng phiền não phi phiền não. Mười xứ là bất tương ưng phiền não cảnh phiền não, hai xứ có thể là bất tương ưng phiền não cảnh phiền não, có thể là bất tương ưng phiền não phi cảnh phiền não, có thể không nên nói là bất tương ưng phiền não cảnh phiền não, hay bất tương ưng phiền não phi cảnh phiền não.
[113] Mười xứ là không đáng do kiến đạo đoạn trừ; hai xứ có thể là đáng do kiến đạo đoạn trừ; có thể là không đáng do kiến đạo đoạn trừ. Mười xứ là không đáng do tiến đạo đoạn trừ; hai xứ có thể là đáng do tiến đạo đoạn trừ; có thể là không đáng do tiến đạo đoạn trừ. Mười xứ là phi hữu nhân đáng do kiến đạo đoạn trừ; hai xứ có thể là hữu nhân đáng do kiến đạo đoạn trừ; có thể là phi hữu nhân đáng do kiến đạo đoạn trừ. Mười xứ là phi hữu nhân đáng do tiến đạo đoạn trừ; hai xứ có thể là hữu nhân đáng do tiến đạo đoạn trừ; có thể là phi hữu nhân đáng do tiến đạo đoạn trừ. Mười xứ là vô tầm; hai xứ có thể là hữu tầm có thể là vô tầm. Mười xứ là vô tứ; hai xứ có thể là hữu tứ có thể là vô tứ. Mười xứ là vô hỷ; hai xứ có thể là hữu hỷ có thể là vô hỷ. Mười xứ là phi câu hành hỷ; hai xứ có thể là câu hành hỷ, có thể là phi câu hành hỷ. Mười xứ là phi câu hành lạc; hai xứ có thể là câu hành lạc, có thể là phi câu hành lạc. Mười xứ là phi câu hành xả; hai xứ có thể là câu hành xả, có thể là phi câu hành xả. Mười xứ là dục giới, hai xứ có thể là dục giới, có thể là phi dục giới. Mười xứ là phi sắc giới; hai xứ có thể là sắc giới, có thể là phi sắc giới. Mười xứ là phi vô sắc giới; hai xứ có thể là vô sắc giới, có thể là phi vô sắc giới. Mười xứ là hệ thuộc; hai xứ có thể là hệ thuộc, có thể là phi hệ thuộc. Mười xứ là phi dẫn xuất; hai xứ có thể là dẫn xuất, có thể là phi dẫn xuất. Mười xứ là phi cố định; hai xứ có thể là cố định, có thể là phi cố định. Mười xứ là hữu thượng; hai xứ có thể là hữu thượng, có thể là vô thượng. Mười xứ là vô tranh; hai xứ có thể là hữu tranh, có thể là vô tranh.
DỨT PHẦN VẤN ÐÁP
HOÀN THÀNH XỨ PHÂN TÍCH
[1] Cakkhāyatana.
[2] Nên xem Bộ Pháp Tụ, bài 516.
[3] Sotāyatana.
[4] Ghānāyatana.
[5] Jivhāyatana.
[6] Kāyāyatana.
[7] Manāyatana.
[8] Xem phần UẨN PHÂN TÍCH, bài 74.
[9] Rūpāyatana.
[10] Saddāyatana.
[11] Gandhāyatana.
[12] Rasāyatana.
[13] Photthabbāyatana.
[14] Dhammāyatana.
[15] Vedanakkhanodha.
[16] Saññākkhandha.
[17] Saṅkhārakkhandha.
[18] Rūpam anidassanam appatigham dhammāyatanapariyāpannam.
[19] Asaṅkhala dhātu.
[20] Mười xứ chỗ nầy là mười xứ thô thuộc sắc pháp như nhãn xứ, sắc xứ… nhưng cần hiểu là không phải trong mọi trường hợp nói mười xứ đều chỉ là mười xứ thô.
[21] Năm xứ ở đây là năm xứ (sắc nghiệp) thô, tức là nhãn xứ, nhĩ xứ, tỹ xứ, thiệt xứ, thân xứ.
[22] Như sắc xứ chỉ có tâm nhãn thức biết và bốn mươi bốn tâm dục giới khác cũng có thể biết v.v..
[23] Như sắc xứ, tâm nhĩ thức và các tâm thiền không biết được….v.v..
[24] Lậu (āsava).
[25] Phược (gantha).
[26] Bộc (ogha).
[27] Phối (yoga).
[28] Cái (Nivarana).
[29] Khinh thị (parāmāsa).
[30] Sắc pháp vô tri không biết cảnh; mười xứ thô thuộc sắc pháp nên không biết cảnh. Con mắt (nhãn xứ) chỉ là đối chiếu (nhìn) cảnh sắc, còn phận sự biết cảnh sắc là do tâm nhãn thức (cakkhuviññāna).. vv.
[31] Thủ (upādāna).
[32] Phiền não (kilesa).
[33] Phiền toái (sankilittha).
GIỚI PHÂN TÍCH (DHĀTUVIBHAṄGO)
PHÂN THEO KINH (Suttantabhājanīyam)
[114] SÁU GIỚI là địa giới, hỏa giới, thủy giới, phong giới, hư không giới và thức giới.
[115] Ở ÐÂY, ÐỊA GIỚI [1] LÀ THẾ NÀO?
Ðịa giới có hai thứ là nội phần và ngoại phần.
Ở ÐÂY THẾ NÀO LÀ ÐỊA GIỚI NỘI PHẦN[2]?
Chất gì là sự cứng sượng, tình trạng thô rắn, tình trạng cứng sượng, trạng thái cứng sượng thuộc phần trong, phần riêng, thành sắc nội do thủ, như là tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, tủy, thận, tim, gan, mạng mỡ, dạ dày, phổi, ruột già, ruột non, vật thực mới, phẫn hay là có chất nào khác là sự thô rắn, tình trạng chai sượng, tình trạng cứng sượng, trạng thái cứng sượng thuộc phần trong, phần riêng, thành sắc nội do thủ. Ðây gọi là địa giới nội phần.
Ở ÐÂY THẾ NÀO LÀ ÐỊA GIỚI NGOẠI PHẦN[3]?
Chất gì là sự thô rắn, tình trạng chai sượng, tình trạng cứng sượng, trạng thái cứng sượng thuộc bên ngoài, thành sắc ngoại phi do thủ, như là sắc, đồng, chì trắng, chì đen, bạch kim, ngọc trai, ngọc ước, ngọc lưu ly, xa cừ, cẩm thạch, san hô, bạc, vàng, ngọc ru-bi, ngọc thạch, cỏ, cây, sỏi, gạch, đất, đá, núi, hoặc có chất nào khác là sự khô rắn, tình trạng trai sượng, tình trạng cứng sượng, trạng thái cứng sượng thuộc bên ngoài, thành sắc ngoại phi do thủ. Ðây gọi là địa giới ngoại phần.
Ðịa giới nội phần và địa giới ngoại phần gồm lại, gom chung thành một phần. Ðây gọi là địa giới.
[116] Ở ÐÂY, THỦY GIỚI[4] LÀ THẾ NÀO?
Thủy giới có hai loại là nội phần và ngoại phần.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ THỦY GIỚI NỘI PHẦN[5]?
Chất gì là sự tươm ướt, cách tươm ướt, sự quến dẻo, trạng thái khắn dính của sắc thuộc bên trong, phần riêng, thành sắc nội do thủ, như là mật, đàm, mũ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, đầu da, nước miếng, nước mũi, nước nhớt, nước tiểu, hoặc có thứ nào khác là sự tươm ướt, cách tươm ướt, sự quến dẻo, trạng thái khắn dính của sắc, thuộc bên trong, phần riêng, thành sắc nôïi do thủ. Ðây gọi là thủy giới nôïi phần.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ THỦY GIỚI NGOẠI PHẦN[6]?
Chất gì là sự tươm ướt, cách tươm ướt, sự quến dẻo, cách quến dẻo,trạng thái khắn dính của sắc thuộc bên ngoài, thành sắc ngoại phi do thủ, như là vị chất rễ cây, vị chất thân cây, vị chất da cây, vị chất lá cây, vị chất hoa, vị chất trái, sữa tươi, sữa đặc, bơ trong, bơ tươi, dầu, mật ong, đường mía, nước trong đất hay trên hư không, hoặc có chất nào khác là sự tươm ướt, cách tươm ướt, cách quến dẻo, sự quến dẻo, trạng thái khắn dính của sắc thuộc bên ngoài, thành sắc ngoại phi do thủ. Ðây gọi là thủy giới ngoại phần.
Thủy giới nội phần và thủy giới ngoại phần gồm lại. gom chung thành một phần. Ðây gọi là thủy giới.
[117] Ở ÐÂY, HỎA GIỚI[7] LÀ THẾ NÀO?
Hỏa giới có hai loại là nội phần và ngoại phần.
Ở ÐÂY THẾ NÀO LÀ HỎA GIỚI NỘI PHẦN[8]?
Chất gì là sự nóng bỏng, cách nóng bỏng, sự nực nội, cách nực nội, sự ấm áp, cách ấm áp, thuộc bên trong, phần riêng, thành sắc nội do thủ, như là chất mà làm nóng nãy, chất mà làm hao mòn, chất mà làm thiêu hủy và chất mà làm tiêu hóa chất ăn uống, nhai nếm, hoặc có chất nào khác là sự nóng bỏng, cách nóng bõng, sự nực nội, cách nực nội, sự ấm áp, cách ấm áp thuộc bên trong, phần riêng, thành sắc nôïi do thủ. Ðây gọi là hỏa giới nôïi phần.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ HỎA GIỚI NGOẠI PHẦN[9]?
Chất gì là sự nóng bỏng, cách nóng bỏng, sự nực nội, cách nực nội, sự ấm áp, cách ấm áp, thuộc bên ngoài, thành sắc ngoại phi do thủ, như là lửa củi, lửa đá, lửa cỏ, lửa phân bò, lửa trấu, lửa rác, lửa sấm sét, chất nóng của lửa, chất nóng của mặt trời, chất nóng trong đống gỗ, chất nóng trong đống cỏ, chất nóng trong đống lúa, chất nóng trong đống tro, hoặc có chất nào khác là sự nóng bỏng, cách nóng bõng, sự nực nội, cách nực nội, sự ấm áp, cách ấm áp thuộc bên ngoài, thành sắc ngoại phi do thủ. Ðây gọi là hỏa giới ngoại phần.
Hỏa giới nội phần và hỏa giới ngoại phần gồm lại. gom chung thành một phần. Ðây gọi là hỏa giới.
[118] Ở ÐÂY, PHONG GIỚI[10] LÀ THẾ NÀO?
Phong giới có hai loại là nội phần và ngoại phần.
Ở ÐÂY THẾ NÀO LÀ PHONG GIỚI NỘI PHẦN[11]?
Chất gì là sự thổi phồng, căng phồng, lây động của sắc thuộc bên trong, phần riêng, thành sắc nội do thủ, như là gió thổi lên, gió thổi xuống, gió trong bụng, gió trong ruột, gió khắp chi thể, gió như vũ khí, gió như dao cạo, gió qua tim, hơi thở ra, hơi thở vào, hoặc có chất nào khác là sự thổi phồng, căng phồng, lây động của sắc thuộc bên trong, phần riêng, thành sắc nội do thủ .Ðây gọi là phong giới nôïi phần.
Ở ÐÂY THẾ NÀO LÀ PHONG GIỚI NGOẠI PHẦN[12]?
Chất gì là sự thổi phồng, căng phồng, trạng thái lây động của sắc thuộc bên ngoài, thành sắc ngoại phi do thủ, như là gió đông, gió nam, gió tây, gió bắc, gió cuốn bụi, gió không cuốn bụi, gió lạnh, gió nóng, gió nhỏ, gió lớn, gió độ thấp, gió độ cao, gió do cánh chim, gió do đại bàng, gió do quạt, gió do thổi, hoặc có chất nào khác là sự thổi phồng, căng phồng, trạng thái lây động của sắc bên ngoài, thành sắc ngoài phi do thủ. Ðây gọi là phong giới ngoại phần.
Phong giới nội phần và phong giới ngoại phần gồm lại, gom chung thành một phần. Ðây gọi là phong giới.
[119] Ở ÐÂY, HƯ KHÔNG GIỚI[13] LÀ THẾ NÀO?
Hư không giới có hai thứ là nội phần và ngoại phần.
Ở ÐÂY THẾ NÀO LÀ HƯ KHÔNG GIỚI NỘI PHẦN[14]?
Cái gì là khoảng trống, hiện tượng khoảng trống, sự trống không, hiện tượng trống không, kẽ hở, hiện tượng kẽ hở, không đụng chạm với máu thịt, thuộc bên trong, phần riêng, thành sắc nội do thủ như là lỗ tai, lỗ mũi, cửa miệng, lỗ nuốt thức ăn uống nhai nếm, chỗ chứa thức ăn uống nhai nếm, đường cho ra thức ăn uống nhai nếm theo phía dưới, hoặc có chi khác là khoảng trống, hiện tượng khoảng trống, sự trống không, hiện tượng trống không, kẽ hở, hiện tượng kẽ hở, không đụng chạm với máu thịt, thuộc phần riêng, bên trong, thành sắc nội do thủ. Ðây gọi là hư không giới nôïi phần.
Ở ÐÂY THẾ NÀO LÀ HƯ KHÔNG GIỚI NGOẠI PHẦN[15]?
Cái gì là khoảng trống, hiện tượng khoảng trống, sự trống không, hiện tượng trống không, kẽ hở, hiện tượng kẽ hở, không đụng chạm với các sắc đại hiển, thuộc bên ngoài, thành sắc ngoại phi do thủ. Ðây gọi là hư không giới ngoại phần.
Hư không giới nội phần và hư không giới ngoại phần gồm lại, gom chung thành một phần. Ðây gọi là hư không giới.
[120] Ở ÐÂY, THỨC GIỚI[16] LÀ THẾ NÀO?
Nhãn thức giới, nhĩ thức giới, tỷ thức giới, thiệt thức giới, thân thức giới, ý thức giới. Ðây gọi là thức giới. Ðây gọi là sáu giới.
[121] Mặt khác, có sáu giới là lạc giới, khổ giới, hỷ giới, ưu giới, xả giới, vô minh giới.
Ở ÐÂY THẾ NÀO LÀ LẠC GIỚI[17]?
Cái chi là sự sãng khoái thuộc về thân, sự dễ chịu thuộc về thân, trạng thái cảm thọ sãng khoái dễ chịu sanh từ thân xúc, sự cảm giác sãng khoái dễ chịu sanh từ thân xúc. Ðây gọi là lạc giới.
Ở ÐÂY THẾ NÀO LÀ HỶ GIỚI[18]?
Cái chi là sự sãng khoái thuộc về tâm, sự dễ chịu thuộc về tâm, trạng thái cảm thọ sãng khoái dễ chịu sanh từ tâm xúc, sự cảm giác sãng khoái dễ chịu sanh từ tâm xúc. Ðây gọi là hỷ giới.
Ở ÐÂY THẾ NÀO LÀ KHỔ GIỚI[19]?
Cái chi là sự bất an thuộc về thân, sự đau đớn thuộc về thân, trạng thái cảm thọ bất an đau đớn sanh từ thân xúc, sự cảm giác bất an đau đớn sanh từ thân xúc. Ðây gọi là khổ giới.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ ƯU GIỚI[20]?
Cái chi là sự bất an thuộc về tâm, sự khó chịu thuộc về tâm, trạng thái cảm thọ bất an khó chịu sanh từ tâm xúc, sự cảm giác bất an, khó chịu sanh từ tâm xúc. Ðây gọi là ưu giới.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ XẢ GIỚI[21]?
Cái chi là sự không vui không buồn thuộc về tâm, trạng thái cảm thọ phi khổ phi lạc sanh từ tâm xúc, sự cảm thọ phi khổ phi lạc sanh từ tâm xúc. Ðây gọi là xả giới.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ VÔ MINH GIỚI[22]?
Cái chi là sự không biết, không thấy… (trùng)…[23] vô minh then chốt, si là căn bất thiện. Ðây gọi là vô minh giới. Ðây cũng là sáu giới.
[122] Mặt khác, có sáu giới là dục giới, sân giới, hại giới, xuất ly giới, vô sân giới, bất hại giới.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ DỤC GIỚI[24]?
Sự nghĩ ngợi tương ưng với dục, sự tầm cầu, sự tư duy, sự chăm chú, sự hướng tâm, đem tâm khắn khít, tà tư duy. Ðây gọi là dục giới. Phía dưới tận cùng là địa ngục vô gián, phía trên tột đỉnh là cỏi trời Tha Hóa Tự tại, trong khoảng giữa đó có uẩn xứ giới, sự hiện hành ở đấy, hệ thuộc ở đấy, tức sắc, thọ tưởng, hành, thức. Ðây gọi là dục giới.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ SÂN GIỚI[25]?
Sự nghĩ ngợi tương ưng với sân độc, sự tầm cầu… (trùng)… tà tư duy. Ðây gọi là sân giới. Hoặc là sự khiềm khích của tâm trong mười việc hiềm khích, thái độ phẫn nộ, phản kháng, chống đối, giận dữ, giận hờn, tức giận, nóng nảy, ám hại, quyết ám hại sự sân độc của tâm, ý ám hại, sự hiềm hận, thái độ hiềm hận, cách hiềm hận, sự hãm hại, cách hãm hại, thái độ hãm hại, sự sân độc, cách sân độc, thái độ sân độc, sự đối lập, phản đối, hung dữ, lỗ mãng, sự bất bình của tâm. Ðây gọi là sân giới.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ HẠI GIỚI[26]?
Sự suy nghĩ tương ưng với não hại, sự tầm cầu… (trùng)… tà tư duy. Ðây gọi là hại giới. Trong đời nầy có một số kẻ nhiểu hại chúng sanh bằng phương tiện nào đó như là bằng tay hoặc bằng cục đất, bằng gậy gộc, bằng khí giới, bằng sợi dây; việc như vậy là sự nhiểu nhương, nhiểu hại, hãm hiếp, hãm hại, kích nộ, cừu địch, uy hiếp người khác. Ðây gọi là hại giới.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ XUẤT LY GIỚI[27]?
Sự nghĩ ngợi tương ưng với xuất ly, sự tầm cầu… (trùng)… chánh tư duy. Ðây gọi là xuất ly giới. Tất cả pháp thiện cũng là xuất ly giới.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ VÔ SÂN GIỚI[28]?
Sự nghĩ ngợi tương ưng với vô sân độc, sự tầm cầu… (trùng)… chánh tư duy. Ðây gọi là vô sân giới. Sự thân thiện đối với các chúng sanh, hài hòa, thái độ hài hòa, có từ tâm giải thoát. Ðây gọi là vô sân giới.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ BẤT HẠI GIỚI[29]?
Sự suy nghĩ tương ưng với bất bại, sự tầm cầu, sự tư duy, sự chăm chú, sự hướng tâm, đem tâm khắn khít, chánh tư duy. Ðây gọi là bất hại giới. Sự thương xót đối với các chúng sanh, sự trắc ẩn, thái độ trắc ẩn, có bi tâm giải thoát. Ðây gọi là bất hại giới. Ðây cũng là sáu giới.
[123] Như thế, ba phần sáu giới này gom lại thành một là mười tám giới.
DỨT PHẦN PHÂN THEO KINH
PHÂN THEO VI DIỆU PHÁP (Abhidhammabhājanīyaṃ)
[124] MƯỜI TÁM GIỚI là nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới, nhĩ giới, thinh giới, nhĩ thức giới, tỷ giới, khí giới, tỷ thức giới, thiệt giới, vị giới, thiệt thức giới, thân giới, xúc giới, thân thức giới, ý giới, pháp giới, ý thức giới.
[125] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ NHÃN GIỚI[30]?
Con mắt là tinh chất nương bốn đại hiển… (trùng)… đó làng trống không. Ðây là nhãn giới.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ SẮC GIỚI[31]?
Sắc nào là ánh sáng nương bốn đại hiển… (trùng)… Ðó là sắc giới. Ðây gọi là sắc giới.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ NHÃN THỨC GIỚI[32]?
Tâm, ý, tâm địa[33], tâm trạng[34], bạch tịnh[35], ý, ý xứ, ý quyền, thức, thức uẩn sanh khởi y cứ vào mắt và cảnh sắc, nhãn thức giới sanh từ đó. Ðây gọi là nhãn thức giới.
[126] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ NHĨ GIỚI[36]?
Lỗ tai là tinh chất nương bốn đại hiển… (trùng)… đó là làng trống không. Ðây gọi là nhĩ giới.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ THINH GIỚI[37]?
Tiếng nào nương theo bốn đại hiển, vô kiến hữu đối chiếu… (trùng)… đó là thinh giới. Ðây gọi là thinh giới.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ NHĨ THỨC GIỚI[38]?
Tâm, ý, tâm địa, tâm tạng, bạch tịnh, ý, ý xứ, ý quyền, thức, thức uẩn sanh khởi y cứ vào tai và cảnh thinh, nhĩ thức giới sanh từ đó. Ðây gọi là nhĩ thức giới.
[127] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ TỶ GIỚI[39]?
Mũi là tinh chất nương bốn đại hiển… (trùng)… đó là làng trống không. Ðây gọi là tỷ giới.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ KHÍ GIỚI[40]?
Mùi hơi nào nương theo bốn đại hiển, vô kiến hữu đối chiếu… (trùng)… đó là khí giới. Ðây gọi là khí giới.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ TỶ THỨC GIỚI[41]?
Tâm, ý, tâm địa, tâm tạng, bạch tịnh, ý, ý xứ, ý quyền, thức, thức uẩn sanh khởi y cứ vào mũi và cảnh khí, tỷ thức giới sanh từ đó. Ðây gọi là tỷ thức giới.
[128] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ THIỆT GIỚI[42]?
Lưỡi là tinh chất nương bốn đại hiển… (trùng)… đó là làng trống không. Ðây gọi là thiệt giới.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ VỊ GIỚI[43]?
Vị chất nào nương theo bốn đại hiển, vô kiến hữu đối chiếu… (trùng)… đó là vị giới. Ðây gọi là vị giới.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ THIỆT THỨC GIỚI[44]?
Tâm, ý, tâm địa, tâm tạng, bạch tịnh, ý, ý xứ, ý quyền, thức, thức uẩn sanh khởi y cứ vào lưỡi và cảnh vị, thiệt thức giới sanh từ đó. Ðây gọi là thiệt thức giới.
[129] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ THÂN GIỚI[45]?
Thân là tinh chất nương bốn đại hiển… (trùng)… đó là làng trống không. Ðây gọi là thân giới.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ XÚC GIỚI[46]?
Ðịa giới… (trùng)… đó là xúc giới. Ðây gọi là xúc giới.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ THÂN THỨC GIỚI[47]?
Tâm, ý, tâm địa, tâm tạng, bạch tịnh, ý, ý xứ, ý quyền, thức, thức uẩn sanh khởi y cứ vào thân và cảnh xúc, thân thức giới sanh từ đó. Ðây gọi là thân thức giới.
[130] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ Ý GIỚI[48]?
Tâm, ý, tâm địa, tâm tạng, bạch tịnh, ý, ý xứ, ý quyền, thức, thức uẩn, ý giới sanh tiếp nối sát na diệt của nhãn thức giới đã sanh ra rồi… (trùng)… của nhĩ thức giới đã sanh ra rồi… (trùng)… của tỷ thức giới đã sanh ra rồi… (trùng)… của thiệt thức giới đã sanh ra rồi. Tâm, ý, tâm địa, tâm tạng, bạch tịnh, ý, ý xứ, ý quyền, thức, thức uẩn, ý giới sanh tiếp nối sát na diệt của thân thức giới đã sanh ra rồi. Hay là sự sơ khởi[49] thu cảnh đối với các pháp. Ðây gọi là ý giới.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ PHÁP GIỚI[50]?
Thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn cùng sắc mà vô kiến vô đối chiếu liên quan pháp xứ và vô vi giới. Ở đây thọ uẩn là thế nào? Thọ uẩn phân theo một loại là thọ tương ưng xúc. Thọ uẩn phân theo hai loại là có thọ hữu nhân, có thọ vô nhân. Thọ uẩn phân theo ba loại là có thọ thiện, có thọ bất thiện, có thọ vô ký… (trùng)… thọ uẩn phân theo nhiều loại là như vậy. Ðây gọi là thọ uẩn.
Ở đây tưởng uẩn là thế nào? Tưởng uẩn phân theo một loại là tưởng tương ưng xúc. Tưởng uẩn phân theo hai loại là có tưởng hữu nhân, có tưởng vô nhân. Tưởng uẩn phân theo ba loại là có tưởng thiện, có tưởng bất thiện, có tưởng vô ký… (trùng)… tưởng uẩn phân theo nhiều loại là như vậy. Ðây gọi là tưởng uẩn.
Ở đây hành uẩn là thế nào? Hành uẩn phân theo một loại là hành tương ưng tâm. Hành uẩn phân theo hai loại là có hành nhân, có hành phi nhân. Hành uẩn phân theo ba loại là có hành thiện, có hành bất thiện, có hành vô ký… (trùng)… hành uẩn phân theo nhiều loại là như vậy. Ðây gọi là hành uẩn.
Ở đây sắc vô kiến vô đối chiếu liên quan pháp xứ là thế nào? Tức là nữ quyền… (trùng)… đoàn thực. Ðây gọi là sắc vô kiến vô đối chiếu liên quan pháp xứ.
Ở đây vô vi giới là thế nào? Tức là sự đoạn tận tham, đoạn tận sân, đoạn tận si. Ðây gọi là vô vi giới. Ðây gọi là pháp giới.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ Ý THỨC GIỚI[51]?
Ý giới sanh tiếp nối sát na diệt của nhãn thức giới đã sanh rồi; tâm, ý, tâm tạng… (trùng)… ý thức giới sanh tiếp nối sát na diệt của ý giới… (trùng)… của nhĩ thức giới… (trùng)… của tỷ thức giới… (trùng)… của thiệt thức giới… (trùng)… ý giới sanh tiếp nối sát na diệt của thân thức giới đã sanh rồi; tâm, ý, tâm địa… (trùng)… ý thức giới sanh tiếp nối sát na diệt của ý giới, hay là tâm, ý, tâm địa, tâm tạng, bạch tịnh, ý, ý xứ, ý quyền, thức, thức uẩn sanh ý cứ vào ý và cảnh pháp, ý thức giới sanh từ đó. Ðây gọi là ý thứ giới.
DỨT PHẦN PHÂN THEO VI DIỆU PHÁP
PHẦN VẤN ÐÁP (Pañhāpucchakaṃ)
[131] MƯỜI TÁM GIỚI là nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới, nhĩ giới, thinh giới, nhĩ thức giới, tỷ giới, khí giới, tỷ thức giới, thiệt giới, vị giới, thiệt thức giới, thân giới, xúc giới, thân thức giới, ý giới, pháp giới, ý thức giới. TRONG MƯỜI TÁM GIỚI CÓ BAO NHIÊU LÀ THIỆN? CÓ BAO NHIÊU LÀ BẤT THIỆN? CÓ BAO NHIÊU LÀ VÔ KÝ?… (trùng)… CÓ BAO NHIÊU LÀ HỮU TRANH? CÓ BAO NHIÊU LÀ VÔ TRANH?
[132] MƯỜI SÁU[52] giới là vô ký; hai giới[53] có thể là thiện, có thể là bất thiện, có thể là vô ký.
Mười giới không nên nói là tương ưng thọ lạc, hay tương ưng thọ khổ hay tương ưng thọ phi khổ phi lạc; năm giới là tương ưng thọ phi khổ phi lạc; thân thức giới có thể là tương ưng thọ lạc, có thể là tương ưng thọ khổ; ý thức giới có thể là tương ưng thọ lạc, có thể là tương ưng thọ khổ, có thể là tương ưng thọ phi khổ phi lạc; pháp giới có thể là tương ưng thọ khổ, có thể là tương ưng thọ lạc, có thể là tương ưng thọ phi khổ phi lạc, có thể không nên nói là tương ưng thọ lạc hay tương ưng thọ khổ, hay tương ưng thọ phi khổ phi lạc
Mười giới là pháp phi dị thục phi dị thục nhân; năm giới là dị thục; hai giới có thể là dị thục, có thể là dị thục nhân, có thể là pháp phi dị thục phi dị thục nhân.
Mười giới là do thủ cảnh thủ; thinh giới là phi do thủ cảnh thủ; năm giới có thể là do thủ cảnh thủ, có thể là phi do thủ cảnh thủ; hai giới có thể là do thủ cảnh thủ, có thể là phi do thủ cảnh thủ, có thể là phi do thủ phi cảnh thủ.
Mười sáu giới là phi phiền toái cảnh phiền não; hai giới có thể là phiền toái cảnh phiền não, có thể là phi phiền toái cảnh phiền não, có thể là phi phiền toái phi cảnh phiền não.
Mười lăm giới là vô tầm vô tứ; ý giới là hữu tầm hữu tứ; ý thức giới có thể là hữu tầm hữu tứ, có thể là vô tầm vô tứ, có thể là vô tầm vô tứ; pháp giới có thể là hữu tầm hữu tứ, có thể là vô tầm hữu tứ, có thể là vô tầm vô tứ, có thể không nên nói là hữu tầm hữu tứ, hay vô tầm hữu tứ hay vô tầm vô tứ.
Mười giới không nên nói là câu hành hỷ, hay câu hành lạc, hay câu hành xả; năm giới là câu hành xả; thân thức giới câu hành hỷ, mà có thể là câu hành lạc, không phải câu hành xả, có thể không nên nói là câu hành lạc; hai giới có thể là câu hành hỷ, có thể là câu hành lạc, có thể là câu hành xả, có thể không nên nói là câu hành hỷ hay câu hành lạc hay câu hành xả.
Mười sáu giới là không đáng do kiến đạo tiến đạo đoạn trừ; hai giới có thể là đáng do kiến đạo đoạn trừ, có thể là đáng do tiến đạo đoạn trừ, có thề là không đáng do kiến đạo tiến đạo đoạn trừ
Mười sáu giới là phi hữu nhân đáng do kiến đạo tiến đạo đoạn trừ; hai giới có thể là hữu nhân đáng do kiến đạo đoạn trừ, có thể là hữu nhân đáng do kiến đạo đoạn trừ, có thể là phi hữu nhân đáng do kiến đạo tiến đạo đoạn trừ.
Mười sáu giới là phi nhân đến tích tập phi nhân đến tịch diệt; hai giới có thể là nhân đến tích lập, có thể là nhân đến tịch diệt, có thể là phi nhân đến tịch tập phi nhân đến tịch diệt.
Mười sáu giới là phi hữu học phi vô học; hai giới có thể là hữu học, có thể là vô học, có thể là phi hữu học phi vô học.
Mười sáu giới là hy thiểu, hai giới có thể là hy thiểu, có thể là đáo đại, có thể là vô lượng.
Mười giới là bất tri cảnh; sáu giới là biết cảnh hy thiểu; hai giới có thể là biết cảnh hy thiểu, có thể là biết cảnh đáo đại, có thể là biết cảnh vô lượng, có thể không nên nói là biết cảnh hy thiểu hay biết cảnh đáo đại, hay biết cảnh vô lượng.
Mười sáu giới là trung bình; hai giới có thể là ty hạ, có thể là trung bình, có thể là tinh lương.
Mười sáu giới là phi cố định; hai giới có thể là cố định phần tà, có thể là cố định phần chánh, có thể là phi cố định.
Mười giới là vô cảnh; sáu giới không nên nói là có đạo thành cảnh hay có đạo thành nhân hay có đạo thành trưởng; hai giới có thể là có đạo thành cảnh, có thể có đạo thành nhân, có thể có đạo thành trưởng, có thể không nên nói là có đạo thành cảnh hay có đạo thành nhân hay có đạo thành trưởng.
Mười giới có thể là sinh tồn, có thể là chuẩn sanh, không nên nói là vị sanh; thinh giới có thể là sinh tồn, có thể là vị sanh tồn, không nên nói là chuẩn sanh; sáu giới có thể là sinh tồn, có thể là vị sanh tồn, có thể là chuẩn sanh; pháp giới có thể là sinh tồn, có thể là vị sanh tồn, có thể là chuẩn sanh, có thể không nên nói là sanh tồn hay vị sanh tồn hay chuẩn sanh.
Mười bảy giới có thể là quá khứ, có thể là vị lai, có thể là hiện tại; pháp giới có thể là quá khứ, có thể là vị lai, có thể là hiện tại, có thể không nên nói là quá khứ, hay vị lai, hay hiện tại.
Mười giới là bất tri cảnh; sáu giới là biết cảnh hiện tại; hai giới có thể biết cảnh quá khứ, có thể biết cảnh vị lai, có thể biết cảnh hiện tại, có thể không nên nói là biết cảnh quá khứ, hay biết cảnh vị lai, hay biết cảnh hiện tại.
(Mười tám giới) có thể là nội phần, có thể là ngoại phần, có thể là nội ngoại phần.
Mười giới là bất tri cảnh; sáu giới có thể biết cảnh nội phần, có thể biết cảnh ngoại phần, có thể biết cảnh nội ngoại phần, hai giới có thể biết cảnh nội phần, có thể biết cảnh ngoại phần, có thể biết cảnh nội ngoại phần, có thể không nên nói là biết cảnh nội phần, hay biết cảnh ngoại phần, hay biết cảnh nội ngoại phần.
Sắc giới là hữu kiến hữu đối chiếu; chín giới là vô kiến hữu đối chiếu; tám giới là vô kiến vô đối chiếu.
[133] MƯỜI BẢY GIỚI là phi nhân; pháp giới có thể là nhân, có thể là phi nhân.
Mười sáu giới là vô nhân[54], hai giới có thể là hữu nhân, có thể là vô nhân.
Mười sáu giới không nên nói là nhân hữu nhân hay hữu nhân phi nhân; ý thứ giới không nên nói là nhân hữu nhân hay hữu nhân phi nhân, ý thức giới không nên nói là nhân hữu nhân, mà có thể nói là hữu nhân phi nhân; pháp giới có thể là nhân hữu nhân, có thể là hữu nhân phi nhân, cũng có thể không nên nói là nhân hữu nhân hay hữu nhân phi nhân.
Mười sáu giới không nên nói là nhân tương ưng nhân hay tương ưng nhân phi nhân; ý thức giới không nên nói là nhân tương ưng nhân, mà có thể là tương ưng nhân phi nhân, cũng có thể không nên nói là tương ưng nhân phi nhân; pháp giới có thể là nhân tương ưng nhân, có thể là tương ưng nhân phi nhân, cũng có thể không nên nói là nhân tương ưng nhân hay tương ưng nhân phi nhân.
Mười sáu giới là phi nhân vô nhân; ý thức giới có thể là phi nhân hữu nhân, có thể là phi nhân vô nhân; pháp giới có thể là phi nhân hữu nhân, có thể là phi nhân vô nhân, cũng có thể không nên nói là phi nhân hữu nhân hay phi nhân vô nhân.
[134] MƯỜI BẢY GIỚI là hữu duyên; pháp giới có thể là hữu duyên, có thể là vô duyên.
Mười bảy giới là hữu vi; pháp giới có thể là hữu vi, có thể là vô vi.
Mười bảy giới là vô kiến, sắc giới là hữu kiến.
Mười giới là hữu đối chiếu; tám giới là vô đối chiếu
Mười giới là sắc, bảy giới là phi sắc; pháp giới có thể là sắc, có thể là phi sắc.
Mười sáu giới là hiệp thế; hai giới có thể là hiệp thế, có thể là siêu thế.
(Mười tám giới) đáng vài tâm biết, không đáng vài tâm biết.
[135] MƯỜI BẢY GIỚI là phi lậu[55]; pháp giới có thể là lậu, có thể là phi lậu.
Mười sáu giới là cảnh lậu; hai giới có thể là cảnh lậu, có thể là phi cảnh lậu.
Mười sáu giới là bất tương ưng lậu; hai giới có thể là tương ưng lậu, có thể là bất tương ưng lậu.
Mười sáu giới không nên nói là lậu cảnh lậu mà là cảnh lậu phi lậu; ý thức giới không nên nói là lậu cảnh lậu, mà có thể là cảnh lậu phi lậu, cũng có thể không nên nói là cảnh lậu phi lậu; pháp giới có thể là lậu cảnh lậu, có thể là cảnh lậu phi lậu, cũng có thể không nên nói là lậu cảnh lậu hay cảnh lậu phi lậu.
Mười sáu giới không nên nói là lậu tương ưng lậu, hay tương ưng lậu phi lậu; ý thức giới không nên nói là lậu tương ưng lậu, mà có thể là tương ưng lậu phi lậu, cũng có thể không nên nói là tương ưng lậu phi lậu; pháp giới có thể là lậu tương ưng lậu, có thể là tương ưng lậu phi lậu, cũng có thể không nên nói là lậu tương ưng lậu hay tương ưng lậu phi lậu
Mười sáu giới là bất tương ưng lậu cảnh lậu; hai giới có thể là bất tương ưng lậu cảnh lậu, có thể là bất tương ưng lậu phi cảnh lậu, cũng có thể không nên nói là bất tương ưng lậu cảnh lậu hay bất tương ưng lậu phi cảnh lậu.
[136] MƯỜI BẢY GIỚI là phi triền[56]; pháp giới có thề là triền, có thể là phi triền.
Mười sáu giới là cảnh triền; hai giới có thể là cảnh triền, có thể là phi cảnh triền.
Mười sáu giới là bất tương ưng triền; hai giới có thể là tương ưng triền, có thể là bất tương ưng triền.
Mười sáu giới không nên nói là triền cảnh triền, mà là cảnh triền phi triền; ý thức giới không nên nói là triền cảnh triền, mà có thể nói là cảnh triền phi triền, cũng có thể không nên nói là cảnh triền phi triền; pháp giới có thể là triền cảnh triền, có thể là cảnh triền phi triền, cũng có thể không nên nói là triền cảnh triền hay cảnh triền phi triền.
Mười sáu giới không nên nói là triền tương ưng triền, hay tương ưng triền phi triền; ý thức giới không nên nói là triền tương ưng triền, mà có thể là tương ưng triền phi triền, cũng có thể không nên nói là tương ưng triền phi triền; pháp giới có thể là triền tương ưng triền, có thể là tương ưng triền phi triền, có thể không nên nói là triền tương ưng triền hay tương ưng triền phi triền.
Mười sáu giới là bất tương ưng triền cảnh triền; hai giới có thể là bất tương ưng triền cảnh triền, có thể là bất tương ưng triền phi cảnh triền, cũng có thể không nên nói là bất tương ưng triền cảnh triền hay bất tương ưng triền phi cảnh triền.
[137] MƯỜI BẢY GIỚI là phi phược[57]; pháp giới có thể là phược, có thể là phi phược.
Mười sáu giới là cảnh phược; hai giới có thể là cảnh phược, có thể là phi cảnh phược.
Mười sáu giới là bất tương ưng phược; hai giới có thể là tương ưng phược, có thể là bất tương ưng phược.
Mười sáu giới không nên nói là phược cảnh phược, mà là cảnh phược phi phược; ý thức giới không nên nói là phược cảnh phược, mà có thể là cảnh phược phi phược, cũng có thể không nên nói là cảnh phược phi phược; pháp giới có thể là phược cảnh phược, có thể là cảnh phược phi phược, có thể không nên nói là phược cảnh phược hay cảnh phược phi phược.
Mười sáu giới không nên nói là phược tương ưng phược, hay tương ưng phược phi phược; ý thức giới không nên nói là phược tương ưng phược, mà có thể là tương ưng phược phi phược, cũng có thể không nên nói là tương ưng phược phi phược; pháp giới có thể là phược tương ưng phược, có thể là tương ưng phược phi phược, cũng có thể không nên nói là phược tương ưng phược hay tương ưng phược phi phược
Mười sáu giới là bất tương ưng phược cảnh phược; hai giới có thể là bất tương ưng phược cảnh phược, có thể là bất tương ưng phược phi cảnh phược, cũng có thể không nên nói là bất tương ưng phược cảnh phược hay bất tương ưng phược phi cảnh phược.
[138] Mười bảy giới là phi bộc[58]… (trùng)… phi phối[59]… (trùng)… phi cái[60]; pháp giới có thể là cái, có thể là phi cái.
Mười sáu giới là cảnh cái; hai giới có thể là cảnh cái, có thể là phi cảnh cái.
Mười sáu giới là bất tương ưng cái; hai giới có thể là tương ưng cái, có thể là bất tương ưng cái.
Mười sáu giới không nên nói là cái cảnh cái, mà là cảnh cái phi cái; ý thức giới không nên nói là cái cảnh cái, mà có thể là cảnh cái phi cái, cũng có thể không nên nói là cảnh cái phi cái; pháp giới có thể là cái cảnh cái, có thể là cảnh cái phi cái, có thể không nên nói là cái cảnh cái hay cảnh cái phi cái.
Mười sáu giới không nên nói là cái tương ưng cái, hay tương ưng cái phi cái; ý thức giới không nên nói là cái tương ưng cái, mà có thể là tương ưng cái phi cái, cũng có thể không nên nói là tương ưng cái phi cái; pháp giới có thể là cái tương ưng cái, có thể là tương ưng cái phi cái, cũng có thể không nên nói là cái tương ưng cái hay tương ưng cái phi cái
Mười sáu giới là bất tương ưng cái cảnh cái; hai giới có thể là bất tương ưng cái cảnh cái, có thể là bất tương ưng cái phi cảnh cái, cũng có thể không nên nói là bất tương ưng cái cảnh cái hay bất tương ưng cái phi cảnh cái.
[139] MƯỜI BẢY GIỚI là phi khinh thị[61]; pháp giới có thể là khinh thị, có thể là phi khinh thị.
Mười sáu giới là cảnh khinh thị; hai giới có thể là cảnh khinh thị, có thể là phi cảnh khinh thị.
Mười sáu giới là bất tương ưng khinh thị; ý thức giới có thể là tương ưng khinh thị, có thể là bất tương ưng khinh thị, pháp giới có thể là tương ưng khinh thị, có thể là bất tương ưng khinh thị, có thể không nên nói là tương ưng khinh thị, hay bất tương ưng khinh thị.
Mười sáu giới không nên nói là khinh thị cảnh khinh thị, mà là cảnh khinh thị phi khinh thị; ý thức giới không nên nói là khinh thị cảnh khinh thị, mà có thể là cảnh khinh thị phi khinh thị, cũng có thể không nên nói là cảnh khinh thị phi khinh thị; pháp giới có thể là khinh thị cảnh khinh thị, có thể là cảnh khinh thị phi khinh thị, có thể không nên nói là khinh thị cảnh khinh thị hay cảnh khinh thị phi khinh thị.
Mười sáu giới là bất tương ưng khinh thị cảnh khinh thị; hai giới có thể là bất tương ưng khinh thị cảnh khinh thị, có thể là bất tương ưng khinh thị phi cảnh khinh thị, cũng có thể không nên nói là bất tương ưng khinh thị cảnh khinh thị hay bất tương ưng khinh thị phi cảnh khinh thị.
[140] MƯỜI GIỚI là bất tri cảnh; bảy giới là hữu tri cảnh; pháp giới có thể là bất tri cảnh, có thể là hữu tri cảnh.
Mười một giới là phi tâm; bảy giới là tâm.
Mười bảy giới là phi sở hữu tâm; pháp giới có thể là sở hữu tâm, có thể là phi sở hữu tâm.
Mười giới là bất tương ưng tâm; pháp giới có thể là tương ưng tâm, có thể là bất tương ưng tâm; bảy giới không nên nói là tương ưng tâm hay bất tương ưng tâm.
Mười giới phi hòa với tâm, pháp giới có thể là hòa với tâm, có thể là phi hòa với tâm; bảy giới không nên nói là hòa với tâm hay phi hòa với tâm.
Mười hai giới là phi tâm sở sanh; sáu giới có thể là tâm sở sanh, có thể là phi tâm sở sanh.
Mười bảy giới là phi đồng hiện hữu với tâm; pháp giới có thể là đồng hiện hữu với tâm, có thể là không phi đồng hiện hữu với tâm.
Mười bảy giới là phi tùy chuyển với tâm; pháp giới có thể là tùy chuyển với tâm, có thể là phi tùy chuyển với tâm.
Mười bảy giới là phi hòa tâm tâm sở sanh; pháp giới có thể là hòa tâm tâm sở sanh, có thể là phi hòa tâm tâm sở sanh.
Mười bảy giới phi hòa tâm tâm sở sanh đồng hiện hữu với tâm; pháp giới có thể là hòa tâm tâm sở sanh đồng hiện hữu với tâm, có thể là phi hòa tâm tâm sở sanh đồng hiện hữu với tâm.
Mười bảy giới phi hòa tâm tâm sở sanh tùy chuyển với tâm; pháp giới có thể là hòa tâm tâm sở sanh tùy chuyển với tâm, có thể là phi hòa tâm tâm sở sanh tùy chuyển với tâm.
Mười hai giới thuộc nội phần; sáu giới thuộc ngoại phần.
Chín giới là y sinh; tám giới là phi y sinh; pháp giới có thể là y sinh, có thể là phi y sinh.
Mười giới là do thủ; thinh giới là phi do thủ; bảy giới có thể là thủ, có thể là phi do thủ.
[141] MƯỜI BẢY GIỚI là phi thủ[62]; pháp giới có thể là thủ, có thể là phi thủ.
Mười sáu giới là cảnh thủ; hai giới có thể là cảnh thủ, có thể là phi cảnh thủ.
Mười sáu giới là bất tương ưng thủ; hai giới có thể là tương ưng thủ, có thể là bất tương ưng thủ.
Mười sáu giới không nên nói là thủ cảnh thủ, mà là cảnh thủ phi thủ; ý thức giới không nên nói là thủ cảnh thủ, mà có thể là cảnh thủ phi thủ, cũng có thể không nên nói là cảnh thủ phi thủ; pháp giới có thể là thủ cảnh thủ, có thể là cảnh thủ phi thủ, có thể không nên nói là thủ cảnh thủ hay cảnh thủ phi thủ.
Mười sáu giới không nên nói là thủ tương ưng thủ, hay tương ưng thủ phi thủ; ý thức giới không nên nói là thủ tương ưng thủ, mà có thể là tương ưng thủ phi thủ, cũng có thể không nên nói là tương ưng thủ phi thủ; pháp giới có thể là thủ tương ưng thủ, có thể là tương ưng thủ phi thủ, cũng có thể không nên nói là thủ tương ưng thủ hay tương ưng thủ phi thủ
Mười sáu giới là bất tương ưng thủ cảnh thủ; hai giới có thể là bất tương ưng thủ cảnh thủ, có thể là bất tương ưng thủ phi cảnh thủ.
[142] MƯỜI BẢY GIỚI là phi phiền não[63]; pháp giới là có thể là phiền não, có thể là phi phiền não.
Mười sáu giới là cảnh phiền não; hai giới có thể là cảnh phiền não, có thể là phi cảnh phiền não.
Mười sáu giới là phi phiền toái[64]; hai giới có thể là phiền toái, có thể là phi phiền toái.
Mười sáu giới là bất tương ưng phiền não; hai giới có thể là tương ưng phiền não, có thể là bất tương ưng phiền não.
Mười sáu giới không nên nói là phiền não cảnh phiền não, mà là cảnh phiền não phi phiền não; ý thức giới không nên nói là phiền não cảnh phiền não, mà có thể là cảnh phiền não phi phiền não, cũng có thể không nên nói là cảnh phiền não phi phiền não; pháp giới có thể là phiền não cảnh phiền não, có thể là cảnh phiền não phi phiền não, có thể không nên nói là phiền não cảnh phiền não hay cảnh phiền não phi phiền não.
Mười sáu giới không nên nói là phiền não phiền toái hay phiền toái phi phiền não; ý thức giới không nên nói là phiền não phiền toái, có thể là phiền toái phi phiền não, cũng có thể không nên nói là phiền toái phi phiền não; pháp giới có thể là phiền não phiền toái, có thể phiền toái phi phiền não, có thể không nên nói là phiền não phiền toái, hay phiền toái phi phiền não.
Mười sáu giới không nên nói là phiền não tương ưng phiền não, hay tương ưng phiền não phi phiền não; ý thức giới không nên nói là phiền não tương ưng phiền não, mà có thể là tương ưng phiền não phi phiền não, cũng có thể không nên nói là tương ưng phiền não phi phiền não; pháp giới có thể là phiền não tương ưng phiền não, có thể là tương ưng phiền não phi phiền não, cũng có thể không nên nói là phiền não tương ưng phiền não hay tương ưng phiền não phi phiền não.
Mười sáu giới là bất tương ưng phiền não cảnh phiền não; hai giới có thể là bất tương ưng phiền não cảnh phiền não, có thể là bất tương ưng phiền não phi cảnh phiền não, cũng có thể không nên nói là bất tương ưng phiền não cảnh phiền não hay bất tương ưng phiền não phi cảnh phiền não.
[143] MƯỜI SÁU GIỚI không đáng do kiến đạo đoạn trừ; hai giới có thể là đáng do kiến đạo đoạn trừ, có thể là không đáng do kiến đạo đoạn trừ.
Mười sáu giới là không đáng do tiến đạo đoạn trừ; hai giới có thể là đáng do tiến đạo đoạn trừ, có thể là không đáng do tiến đạo đoạn trừ.
Mười sáu giới là phi hữu nhân đáng do kiến đạo đoạn trừ; hai giới có thể là hữu nhân đáng do kiến đạo đoạn trừ, có thể là phi hữu nhân đáng do kiến đạo đoạn trừ.
Mười sáu giới là phi hữu nhân đáng do tiến đạo đoạn trừ; hai giới có thể là hữu nhân đáng do tiến đạo đoạn trừ, có thể là phi hữu nhân đáng do tiến đạo đoạn trừ.
Mười lăm giới là vô tầm; ý giới là hữu tầm; hai giới có thể là hữu tầm, có thể là vô tầm.
Mười lăm giới là vô tứ; ý giới là hữu tứ; hai giới có thể là hữu tứ, có thể là vô tứ.
Mười sáu giới là vô hỷ[65]; hai giới có thể là hữu hỷ, có thể là vô hỷ.
Mười sáu giới là phi câu hành hỷ; hai giới có thể là câu hành hỷ, có thể là phi câu hành hỷ.
Mười lăm giới là phi câu hành lạc; ba giới có thể là câu hành lạc, có thể là phi câu hành lạc.
Mười một giới là phi câu hành xả; năm giới là câu hành xả; hai giới có thể là câu hành xả, có thể là phi câu hành xả.
Mười sáu giới là dục giới; hai giới có thể là dục giới, có thể là phi dục giới.
Mười sáu giới là phi sắc giới; hai giới có thể là sắc giới, có thể là phi sắc giới.
Mười sáu giới là phi vô sắc giới; hai giới có thể là vô sắc giới, có thể là phi vô sắc giới.
Mười sáu giới là hệ thuộc[66]; hai giới có thể là hệ thuộc, có thể là phi hệ thuộc[67].
Mười sáu giới là phi dẫn xuất; hai giới có thể là dẫn xuất, có thể là phi dẫn xuất.
Mười sáu giới là phi cố định; hai giới có thể là cố định, có thể là phi cố định.
Mười sáu giới là hữu thượng; hai giới có thể là hữu thượng, có thể là vô thượng.
Mười sáu giới là vô tranh; hai giới có thể là hữu tranh, có thể là vô tranh.
DỨT PHẦN VẤN ÐÁP
TRỌN VẸN GIỚI PHÂN TÍCH
[1] Pathavīdhātu.
[2] Ajjhattikā pathavīdhātu.
[3] Bāhirā pathavīdhātu.
[4] Āpodhātu.
[5] Ajjhattikā āpodhātu.
[6] Bāhirā āpodhātu.
[7] Tejodhātu.
[8] Ajjhattikā tejodhātu.
[9] Bāhirā tejodhātu.
[10] Vāyodhātu.
[11] Ajjhattikā vāyodhātu.
[12] Bāhirā vāyodhātu.
[13] Ākāsadhātu.
[14] Ajjhattikā ākāsadhātu.
[15] Bāhirā ākāsadhātu.
[16] Vinnanadhātu.
[17] Sukhadhātu.
[18] Somanassadhātu.
[19] Dukkhadhātu.
[20] Domanassadhātu.
[21] Upekkhadhātu.
[22] Avijjādhātu.
[23] Xem Bộ Pháp Tụ (Dhammasanginī), bài 300.
[24] Kāmadhātu.
[25] Byāpādadhātu.
[26] Vihimsādhātu.
[27] Nekkhammadhātu.
[28] Abyāpādadhātu.
[29] Avihimsādhātu.
[30] Cakkhudhātu.
[31] Rūpadhātu.
[32] Cakkhuviññānadhātu.
[33] Mānasa: Một tên gọi cho tâm.
[34] Hadaya: Một tên gọi cho tâm, không phải chỉ cho sắc trái tim.
[35] Paṇdara: Một tên gọi cho tâm. Vì tâm không có màu sắc như xanh, vàng hay trắng… nên gọi là bạch tịnh.
[36] Sotadhātu.
[37] Saddadhātu.
[38] Sotāviññaṇadhātu.
[39] Ghānadhātu.
[40] Gandhadhātu.
[41] Ghānaviññāṇadhātu
[42] Jivhādhātu.
[43] Rasadhātu.
[44] Jivhāviññāṇadhātu
[45] Kāyadhātu.
[46] Phoṭṭhabbadhātu.
[47] Kāyaviññāṇadhātu.
[48] Manodhātu.
[49] Pathamasamannāhāra, sự thu cảnh sơ khởi, là chỉ cho tâm khai ngũ môn (pañcadvārāvajjanacitta), tâm nầy sanh trước tiên của lộ tâm ngũ môn, thuộc tâm ý giới.
[50] Dhammadhātu.
[51] Manoviññāṇadhātu.
[52] Những số lượng trình bày tóm tắt trong phần nầy, bậc trí nên hiểu theo chi pháp.
[53] Những số lượng trình bày tóm tắt trong phần nầy, bậc trí nên hiểu theo chi pháp.
[54] Nhân (hetu).
[55] Lậu (āsava).
[56] Triền (sañiojana).
[57] Phược (gantha).
[58] Bộc (ogha).
[59] Phối (yoga).
[60] Cái (nīvarana).
[61] Khinh thị (parāmāsa).
[62] Thủ (upādāna).
[63] Phiền não (kilesa).
[64] Phiền toái (sankilittha).
[65] Hỷ (pīti). Ở đây là pīticetasika (sở hữu hỷ, hỷ tâm sở), chớ không phải là somanassavedanā (thọ hỷ).
[66] Hệ thuộc (pariyāpanna) là pháp hiệp thế (lokiya).
[67] Phi hệ thuộc (apariyāpannā) là pháp Siêu thế (lokuttara).
ÐẾ PHÂN TÍCH (SACCAVIBHAṄGO)
PHÂN THEO KINH (Suttantabhājanīyaṃ)
[144] BỐN THÁNH ÐẾ là khổ Thánh đế, khổ tập Thánh đế, khổ diệt Thánh đế, khổ diệt hành lộ Thánh đế.
KHỔ THÁNH ÐẾ (Dukkhaṃ ariyasaccaṃ)
[145] Ở ÐÂY, KHỔ THÁNH ÐẾ LÀ THẾ NÀO?
Khổ sanh, khổ già, khổ chết [1], khổ sầu, bi, ưu, ai, khổ hội hợp với vật không yêu thích, khổ xa lìa vật yêu thích, khổ không được điều mong muốn, tóm lại là khổ năm thủ uẩn.
[146] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ SANH[2]?
Ðối với mỗi mỗi chúng sanh, có sự kiện sanh ra, sanh khởi, hiện ra, phát sanh ra thân hữu tình ấy, hiện khởi các uẩn, thành tựu các xứ. Ðây gọi là sanh.
[147] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ GIÀ[3]?
Ðối với mỗi mỗi chúng sanh, có sự kiện cũ kỹ, già nua, răng long, tóc bạc, da nhăn, giảm thọ, chín mùi các căn trong thân hữu tình ấy. Ðây gọi là già.
[148] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ CHẾT[4]?
Ðối với mỗi mỗi chúng sanh, từ thân hữu tình ấy có sự chuyển biến, đổi đời, hư hoại, tiêu mất, chết, tán vong, quá vãng, tan rã uẩn, bỏ xác, dứt mạng quyền. Ðây gọi là chết.
[149] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ SẦU[5]?
Tức là sự sầu muộn, sự buồn rầu, thái độ buồn rầu, buồn bực bên trong, não nề trong lòng, đốt lòng, ưu bi, bị tên sầu khi gặp nỗi khổ nào đó, khi xẩy đến điều suy vong nào đó như gặp suy vong thân quyến hoặc gặp sự suy vong tài sản, hoặc gặp sự suy vong bệnh tật, hoặc gặp sự suy vong giới hạnh, hay gặp sự suy vong tri kiến. Ðây gọi là sầu.
[150] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ BI[6]?
Tức là sự khóc lóc, khóc kể, khóc than, la khóc, thái độ khóc than, thái độ la khóc, sự phát ngôn, kể lễ, kêu gào, thút thít, than van, thái độ than van khi gặp nỗi khổ nào đó, khi xẩy đến điều suy vong tài sản, hoặc gặp suy vong tật bịnh, hoặc gặp suy vong giới hạnh, hay gặp suy vong tri kiến. Ðây gọi là bi.
[151] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ KHỔ[7]?
Tức là sự bất an thuộc về thân, sự đau đớn thuộc về thân, tình trạng cảm thọ bất an đau đớn sanh từ thân xúc, sự cảm giác bất an đau đớn sanh từ thân xúc. Ðây gọi là khổ.
[152] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ ƯU[8]?
Tức là sự bất an thuộc về tâm, sự đau đớn thuộc về tâm, tình trạng cảm thọ bất an đau đớn sanh từ tâm xúc, sự cảm giác bất an đau đớn sanh từ tâm xúc. Ðây gọi là ưu.
[153] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ AI[9]?
Tức là sự bi ai, sự ai oán, thái độ bi ai, thái độ ai oán khi gặp nỗi khổ nào đó, khi xẩy đến điều suy vong nào đó, như gặp suy vong thân quyến, hoặc gặp suy vong tài sản hoặc gặp suy vong bệnh tật, hoặc gặp suy vong giới hạnh hay gặp sự suy vong tri kiến. Ðây gọi là ai.
[154] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ KHỔ KẾT HỢP VẬT KHÔNG YÊU THÍCH[10]?
Ở đời này có nhân vật như sắc, thinh, khí, vị xúc mà không thích, không ưa, không vừa lòng; hay người mà muốn gây bất lợi, muốn gây vô ích, muốn gây bất lạc, muốn gây bất ổn, sự đi chung, gặp gỡ, hiệp cùng, hòa lẫn với những nhân vật ấy. Ðây gọi là khổ hội hiệp vật không yêu thích.
[155] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ KHỔ XA LÌA VẬT YÊU THÍCH[11]?
Ở đời nầy, có nhân vật như sắc, thinh, khí, vị, xúc mà ưa thích, ham muốn vừa lòng, hay người như mong đem lợi ích, mong đem may mắn, mong đem an lạc, mong đem an ổn, tức là mẹ hay cha, hoặc anh em, chị em, bạn bè, thân hữu, bà con huyết thống, sự không được hội ngộ, không được trùng phùng, không được chung sống, không được hòa mình với các nhân vật ấy. Ðây gọi là khổ xa lìa vật yêu thích.
[156] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ KHỔ KHÔNG ÐƯỢC ÐIỀU MONG MUỐN[12]?
Khi loài hữu tình có sự sanh khởi lên ước muốn như sau: “Ôi mong rằng chúng ta không có sự sanh và sự sanh đừng xẩy đến với chúng ta”, nhưng điều đó không thể toại nguyện. Ðây là khổ không được điều mong muốn. Khi loài hữu tình có sự già… (trùng)… Khi loài hữu tình có sự bịnh… (trùng)… Khi loài hữu tình có sự chết… (trùng)… Khi loài hữu tình có sầu bi khổ ưu ai, khởi lên ước muốn như sau: “Ôi mong rằng chúng ta không có sầu bi khổ ưu ai và sầu bi khổ ưu ai đừng xẩy đến với chúng ta”, nhưng điều đó không thể toại nguyện. Ðây là khổ không được điều mong muốn.
[157] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ TÓM LƯỢC KHỔ NĂM THỦ UẨN[13]?
Như là sắc thủ uẩn, thọ thủ uẩn, tưởng thủ uẩn, hành thủ uẩn, thức thủ uẩn. Ðây gọi là tóm lược khổ năm thủ uẩn.
ÐÂY GỌI LÀ KHỔ THÁNH ÐẾ
KHỔ TẬP THÁNH ÐẾ (Dukkhasamudayo ariyasaccaṃ)
[158] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ KHỔ TẬP THÁNH ÐẾ?
Tức là ái nầy thành điều kiện tái sanh, câu hành hỷ tham, quyến luyến cảnh nầy cảnh kia, tức là dục ái, hữu ái, phi hữu ái.
[159] LẠI NỮA, ÁI ÐÓ KHI SANH, SANH CHỖ NÀO? KHI TRỤ, TRỤ CHỖ NÀO?
Tức là trong thế gian có sắc khả ái, sắc mãn ý[14]; ái đó khi sanh, sanh ở đây, khi trụ, trụ ở đấy.
SẮC KHẢ ÁI, SẮC MÃN Ý TRONG THẾ GIAN LÀ GÌ?
Mắt là sắc khả ái, sắc mãn ý trong thế gian; ái đó khi sanh, sanh ở đấy, khi trụ, trụ ở đây. Tai… (trùng)… mũi… (trùng)… lưỡi… (trùng)… thân… (trùng)… ý là sắc khả ái, sắc mãn ý trong thế gian; ái đó khi sanh, sanh ở đấy, khi trụ, trụ ở đấy.
Sắc là sắc khả ái, sắc mãn ý trong thế gian; ái đó khi sanh, sanh ở đấy, khi trụ, trụ ở đấy. Thinh… (trùng)… hương… (trùng)… vị… (trùng)… xúc… (trùng)… pháp là sắc khả ái, sắc mãn ý trong thế gian; ái đó khi sanh, sanh ở đấy, khi trụ, trụ ở đấy.
Nhãn thức là sắc khả ái, sắc mãn ý trong thế gian; ái đó khi sanh, sanh ở đấy, khi trụ, trụ ở đấy. Nhĩ thức… (trùng)… tỷ thức… (trùng)… thiệt thức… (trùng)… thân thức… (trùng)… ý thức là sắc khả ái, sắc mãn ý trong thế gian; ái đó khi sanh, sanh ở đấy, khi trụ, trụ ở đấy.
Nhãn xúc là sắc khả ái, sắc mãn ý trong thế gian; ái đó khi sanh, sanh ở đấy, khi trụ, trụ ở đấy. Nhĩ xúc… (trùng)… tỷ xúc… (trùng)… thiệt xúc… (trùng)… thân xúc… (trùng)… ý xúc là sắc khả ái, sắc mãn ý trong thế gian; ái đó khi sanh, sanh ở đấy, khi trụ, trụ ở đấy.
Thọ sanh từ nhãn xúc là sắc khả ái, sắc mãn ý trong thế gian; ái đó khi sanh, sanh ở đấy, khi trụ, trụ ở đấy. thọ sanh từ nhĩ xúc… (trùng)… thọ sanh từ tỷ xúc… (trùng)… thọ sanh từ thiệt xúc… (trùng)… thọ sanh từ thân xúc… (trùng)… thọ sanh từ ý xúc là sắc khả ái, sắc mãn ý trong thế gian; ái đó khi sanh, sanh ở đấy, khi trụ, trụ ở đấy.
Sắc tưởng[15] là sắc khả ái, sắc mãn ý trong thế gian; ái đó khi sanh, sanh ở đấy, khi trụ, trụ ở đấy. Thinh tưởng… (trùng)… hương tưởng… (trùng)… vị tưởng… (trùng)… xúc tưởng… (trùng)… pháp tưởng là sắc khả ái, sắc mãn ý trong thế gian; ái đó khi sanh, sanh ở đấy, khi trụ, trụ ở đấy.
Sắc tư[16] là sắc khả ái, sắc mãn ý trong thế gian; ái đó khi sanh, sanh ở đấy, khi trụ, trụ ở đấy. Thinh tư… (trùng)… hương tư… (trùng)… vị tư… (trùng)… xúc tư… (trùng)… pháp tư là sắc khả ái, sắc mãn ý trong thế gian; ái đó khi sanh, sanh ở đấy, khi trụ, trụ ở đấy.
Sắc ái[17] là sắc khả ái, sắc mãn ý trong thế gian; ái đó khi sanh, sanh ở đấy, khi trụ, trụ ở đấy. Thinh ái (trùng)… hương ái… (trùng)… vị ái… (trùng)… xúc ái… (trùng)… pháp ái là sắc khả ái, sắc mãn ý trong thế gian; ái đó khi sanh, sanh ở đấy, khi trụ, trụ ở đấy.
Sắc tầm[18] là sắc khả ái, sắc mãn ý trong thế gian; ái đó khi sanh, sanh ở đấy, khi trụ, trụ ở đấy. Thinh tầm (trùng)… hương tầm… (trùng)… vị tầm… (trùng)… xúc tầm… (trùng)… pháp tầm là sắc khả ái, sắc mãn ý trong thế gian; ái đó khi sanh, sanh ở đấy, khi trụ, trụ ở đấy.
Sắc tứ[19] là sắc khả ái, sắc mãn ý trong thế gian; ái đó khi sanh, sanh ở đấy, khi trụ, trụ ở đấy. Thinh tứ (trùng)… hương tứ… (trùng)… vị tứ… (trùng)… xúc tứ… (trùng)… pháp tứ là sắc khả ái, sắc mãn ý trong thế gian; ái đó khi sanh, sanh ở đấy, khi trụ, trụ ở đấy.
ÐÂY GỌI LÀ KHỔ TẬP THÁNH ÐẾ
KHỔ DIỆT THÁNH ÐẾ (Dukkhanirodhaṃ ariyasaccaṃ)
[160] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ KHỔ DIỆT THÁNH ÐẾ?
Tức là sự hoàn toàn đoạn ly, xả bỏ, dứt bỏ, giải thoát, bất luyến đối với ái kia.
[161] LẠI NỮA, ÁI ÐÓ KHI BỊ TRỪ, TRỪ CHỖ NÀO? KHI BỊ DIỆT, DIỆT CHỖ NÀO?
Tức là trong thế gian có sắc khả ái, sắc mãn ý, khi bị trừ, trừ ở đấy, khi bị diệt, diệt ở đấy.
SẮC KHẢ ÁI, SẮC MÃN Ý TRONG THẾ GIAN LÀ GÌ?
Mắt là sắc khả ái, sắc mãn ý trong thế gian; ái đó khi bị trừ, trừ ở đấy, khi bị diệt, diệt ở đấy. Tai… (trùng)… mũi… (trùng)… lưỡi… (trùng)… thân… (trùng)… ý là sắc khả ái, sắc mãn ý trong thế gian; ái đó khi bị trừ, trừ ở đấy, khi bị diệt, diệt ở đấy.
Sắc là sắc khả ái, sắc mãn ý trong thế gian; ái đó khi bị trừ, trừ ở đấy, khi bị diệt, diệt ở đấy. Thinh… (trùng)… hương… (trùng)… vị… (trùng)… xúc… (trùng)… pháp là sắc khả ái, sắc mãn ý trong thế gian; ái đó khi bị trừ, trừ ở đấy, khi bị diệt, diệt ở đấy.
Nhãn thức là sắc khả ái, sắc mãn ý trong thế gian; ái đó khi bị trừ, trừ ở đấy, khi bị diệt, diệt ở đấy. Nhĩ thức… (trùng)… tỷ thức… (trùng)… thiệt thức… (trùng)… thân thức… (trùng)… ý thức là sắc khả ái, sắc mãn ý trong thế gian; ái đó khi bị trừ, trừ ở đấy, khi bị diệt, diệt ở đấy.
Nhãn xúc là sắc khả ái, sắc mãn ý trong thế gian; ái đó khi bị trừ, trừ ở đấy, khi bị diệt, diệt ở đấy. Nhĩ xúc… (trùng)… tỷ xúc… (trùng)… thiệt xúc… (trùng)… thân xúc… (trùng)… ý xúc là sắc khả ái, sắc mãn ý trong thế gian; ái đó khi bị trừ, trừ ở đấy, khi bị diệt, diệt ở đấy.
Thọ sanh từ nhãn xúc là sắc khả ái, sắc mãn ý trong thế gian; ái đó khi bị trừ, trừ ở đấy, khi bị diệt, diệt ở đấy. Thọ sanh từ nhĩ xúc… (trùng)… thọ sanh từ tỷ xúc… (trùng)… thọ sanh từ thiệt xúc… (trùng)… thọ sanh từ thân xúc… (trùng)… thọ sanh từ ý xúc là sắc khả ái, sắc mãn ý trong thế gian; ái đó khi bị trừ, trừ ở đấy, khi bị diệt, diệt ở đấy.
Sắc tưởng là sắc khả ái, sắc mãn ý trong thế gian; ái đó khi bị trừ, trừ ở đấy, khi bị diệt, diệt ở đấy. Thinh tưởng… (trùng)… hương tưởng… (trùng)… vị tưởng… (trùng)… xúc tưởng… (trùng)… pháp tưởng là sắc khả ái, sắc mãn ý trong thế gian; ái đó khi bị trừ, trừ ở đấy, khi bị diệt, diệt ở đấy.
Sắc tư là sắc khả ái, sắc mãn ý trong thế gian; ái đó khi bị trừ, trừ ở đấy, khi bị diệt, diệt ở đấy. Thinh tư… (trùng)… hương tư… (trùng)… vị tư… (trùng)… xúc tư… (trùng)… pháp tư là sắc khả ái, sắc mãn ý trong thế gian; ái đó khi bị trừ, trừ ở đấy, khi bị diệt, diệt ở đấy.
Sắc ái là sắc khả ái, sắc mãn ý trong thế gian; ái đó khi bị trừ, trừ ở đấy, khi bị diệt, diệt ở đấy. Thinh ái… (trùng)… hương ái… (trùng)… vị ái… (trùng)… xúc ái… (trùng)… pháp ái là sắc khả ái, sắc mãn ý trong thế gian; ái đó khi bị trừ, trừ ở đấy, khi bị diệt, diệt ở đấy.
Sắc tầm là sắc khả ái, sắc mãn ý trong thế gian; ái đó khi bị trừ, trừ ở đấy, khi bị diệt, diệt ở đấy. Thinh tầm… (trùng)… hương tầm… (trùng)… vị tầm… (trùng)… xúc tầm… (trùng)… pháp tầm là sắc khả ái, sắc mãn ý trong thế gian; ái đó khi bị trừ, trừ ở đấy, khi bị diệt, diệt ở đấy.
Sắc tứ là sắc khả ái, sắc mãn ý trong thế gian; ái đó khi bị trừ, trừ ở đấy, khi bị diệt, diệt ở đấy. Thinh tứ… (trùng)… hương tứ… (trùng)… vị tứ… (trùng)… xúc tứ… (trùng)… pháp tứ là sắc khả ái, sắc mãn ý trong thế gian; ái đó khi bị trừ, trừ ở đấy, khi bị diệt, diệt ở đấy.
ÐÂY GỌI LÀ KHỔ DIỆT THÁNH ÐẾ
KHỔ DIỆT HÀNH LỘ THÁNH ÐẾ (Dukkhanirodhagāmīnipatipadā ariyasaccaṃ)
[162] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ KHỔ DIỆT HÀNH LỘ THÁNH ÐẾ?
Chính là Thánh Ðạo tám chi nầy, như là chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định.
[163] Ở ÐÂY, CHÁNH KIẾN[20] LÀ THẾ NÀO?
Tức là trí hiểu về khổ, trí hiểu về khổ tập, trí hiểu về khổ diệt, trí hiểu về khổ diệt hành lộ. Ðây gọi là chánh kiến.
[164] Ở ÐÂY, CHÁNH TƯ DUY[21] LÀ THẾ NÀO?
Tức là sự suy nghĩ xuất ly, sự suy nghĩ vô sân độc, suy nghĩ bất hại nhiểu. Ðây gọi là chánh tư duy.
[165] Ở ÐÂY, CHÁNH NGỮ[22] LÀ THẾ NÀO?
Tức là sự ngăn trừ lời nói dối, ngăn trừ lời nói đâm thọc, ngăn trừ lời nói ác độc, ngăn trừ chuyện nhãm nhí. Ðây gọi là chánh ngữ.
[166] Ở ÐÂY, CHÁNH NGHIỆP[23] LÀ THẾ NÀO?
Tức là sự ngăn trừ sát sanh, ngăn trừ trộm cắp, ngăn trừ tà hạnh dục lạc. Ðây gọi là chánh nghiệp.
[167] Ở ÐÂY, CHÁNH MẠNG[24] LÀ THẾ NÀO?
Tức là, vị Thánh Thinh Văn từ bỏ tà mạng, nuôi sống bằng chánh mạng. Ðây gọi là chánh mạng.
[168] Ở ÐÂY, CHÁNH TINH TẤN[25] LÀ THẾ NÀO?
Tức là ở đây, vị tỳ khưu đối với các ác bất thiện pháp chưa sanh bèn khởi lên ước muốn tinh tấn, chuyên cần, quyết tâm, kiên trì làm cho không sanh đối với các ác bất thiện pháp đã sanh… (trùng)… đoạn trừ. Ðối với các thiện pháp chưa sanh, bèn khởi ước muốn tinh tấn, chuyên cần, quyết tâm, kiên trì làm cho sanh. Ðối với các thiện pháp đã sanh, bèn khởi ước muốn tinh tấn, chuyên cần, quyết tâm, kiên trì làm cho tăng thịnh, nới rộng, phát triển, hoàn bị. Ðây gọi là chánh tinh tấn.
[169] Ở ÐÂY, CHÁNH NIỆM[26] LÀ THẾ NÀO?
Tức là ở đây, vị tỳ khưu trú tùy quán thân trong thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, ức niệm, đào thải tham ưu ở đời. Tùy quán thọ trong các thọ… (trùng)… Tùy quán tâm trong tâm… (trùng)… Tùy quán pháp trong các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, ức niệm, đào thải tham ưu ở đời. Ðây gọi là chánh niệm.
[170] Ở ÐÂY, CHÁNH ÐỊNH[27] LÀ THẾ NÀO?
Tức là ở đây, vị tỳ khưu ly dục, ly bất thiện pháp, chứng và trú Sơ thiền một pháp hỷ lạc sanh do ly dục, có tầm có tứ; tịnh chỉ tầm tứ chứng và trứ Nhị thiền một pháp hỷ lạc sanh từ định, nội tỉnh nhất tâm, không tầm không tứ; ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, với thân hưởng lạc, chứng và trú Tam thiền, một pháp mà chư Thánh gọi là xả niệm lạc trú; bỏ lạc, bỏ khổ, dập tắt hỷ ưu trước kia, chứng và trú tứ thiền, một pháp xả niệm thanh tịnh phi khổ phi lạc. Ðây là chánh định.
ÐÂY GỌI LÀ KHỔ DIỆT HÀNH LỘ THÁNH ÐẾ
DỨT PHẦN PHÂN THEO KINH
PHÂN THEO VI DIỆU PHÁP (Abhidhammabhājanīyaṃ)
[171] BỐN THÁNH ÐẾ là khổ, khổ tập, khổ diệt và khổ diệt hành lộ.
[172] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ KHỔ TẬP[28]?
Ái. Ðây là khổ tập.
[173] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ KHỔ[29]?
Các phiền não còn lại, các pháp bất thiện còn lại, ba căn thiện cảnh lậu, các pháp thiện cảnh lậu còn lại, các dị thục cảnh lậu[30] của pháp thiện, bất thiện, các pháp thành tố[31] phi thiện phi bất thiện phi quả nghiệp, tất cả sắc. Ðây gọi là khổ.
[174] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ KHỔ DIỆT[32]?
Sự đoạn trừ ái. Ðây là khổ diệt.
[175] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ KHỔ DIỆT HÀNH LỘ[33]?
Ở đây, khi nào vị tỳ khưu tu tập thiền siêu thế, pháp dẫn xuất, nhân tịch diệt, để đoạn trừ thiên kiến, đạt đến đệ nhất địa vức, ly các dục… (trùng)… chứng và trú Sơ thiền, hành nan đắc trì; trong khi ấy có đạo tám chi là chánh kiến… (trùng)… chánh định.
[176] Ở ÐÂY, CHÁNH KIẾN LÀ THẾ NÀO?
Tức là sự thông hiểu, hiểu rõ… (trùng)… vô si, trạch pháp chánh kiến, trạch pháp giác chi, đạo chi, liên quan đạo[34]. Ðây gọi là chánh kiến.
[177] Ở ÐÂY, CHÁNH TƯ DUY LÀ THẾ NÀO?
Tức là sự tìm cảnh, sự nghĩ ngợi… (trùng)… chánh tư duy chi đạo, liên quan đạo. Ðây gọi là chánh tư duy.
[178] Ở ÐÂY, CHÁNH NGỮ LÀ THẾ NÀO?
Tức là sự chừa bỏ bốn ngữ ác hạnh, ngăn trừ, kiêng tránh, lánh xa, không tạo tác, không hành vi, không vi phạm, không vượt mức, đã dẹp bỏ, thành chánh ngữ đạo chi, liên quan đạo. Ðây gọi là chánh ngữ.
[179] Ở ÐÂY, CHÁNH NGHIỆP LÀ THẾ NÀO?
Tức là sự chừa bỏ ba thân ác hạnh, ngăn trừ, kiêng tránh, lánh xa, không tạo tác, không hành vi, không vi phạm, không vượt mức, đã dẹp bỏ, thành chánh nghiệp đạo chi, liên quan đạo. Ðây gọi là chánh nghiệp.
[180] Ở ÐÂY, CHÁNH MẠNG LÀ THẾ NÀO?
Tức là sự chừa bỏ tà mạng, ngăn trừ, kiêng tránh, lánh xa, không tạo tác, không hành vi, không vi phạm, không vượt mức, đã dẹp bỏ, thành chánh mạng đạo chi, liên quan đạo. Ðây gọi là chánh mạng.
[181] Ở ÐÂY, CHÁNH TINH TẤN LÀ THẾ NÀO?
Tức là pháp cần cố thuộc về tâm… (trùng)… thành chánh tinh tấn, cần giác chi, đạo chi, liên quan đạo. Ðây gọi là chánh tinh tấn.
[182] Ở ÐÂY, CHÁNH NIỆM LÀ THẾ NÀO?
Tức là niệm, tùy niệm… (trùng)… thành chánh niệm, niệm giác chi, đạo chi, liên quan đạo. Ðây gọi là chánh niệm.
[183] Ở ÐÂY, CHÁNH ÐỊNH LÀ THẾ NÀO?
Tức là sự trụ lại của tâm… (trùng)… thành chánh định, định giác chi, đạo chi, liên quan đạo. Ðây gọi là chánh định.
Ðây gọi là khổ diệt hành lộ; các pháp còn lại tương ưng với khổ diệt hành lộ.
[184] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ KHỔ TẬP[35]?
Ái và các phiền não ngoài ra[36]. Ðây gọi là khổ tập.
[185] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ KHỔ[37]?
Các pháp bất thiện còn lại, ba căn thiện cảnh lậu, các pháp thiện cảnh lậu còn lại, các dị thục cảnh lậu của pháp thiện và bất thiện, các pháp thành tố phi thiện phi bất thiện phi quả nghiệp, tất cả sắc. Ðây gọi là khổ.
[186] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ KHỔ DIỆT[38]?
Sự đoạn trừ ái và các phiền não còn lại. Ðây gọi là khổ diệt.
[187] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ KHỔ DIỆT HÀNH LỘ[39]?
Ở đây, khi nào vị tỳ khưu tu tập thiền siêu thế, pháp dẫn xuất, nhân tịch diệt để đoạn trừ thiên kiến, đạt đến đệ nhất địa vức, ly các dục… (trùng)… chứng và trú Sơ thiền, hành nan đắc trì; trong khi ấy có đạo tám chi là chánh kiến… (trùng)… chánh định. Ðây gọi là khổ diệt hành lộ; các pháp còn lại tương ưng với khổ diệt hành lộ.
[188] Ở ÐÂY, KHỔ TẬP LÀ THẾ NÀO?
Ái và các phiền não còn lại và các pháp bất thiện còn lại. Ðây gọi là khổ tập[40].
[189] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ KHỔ?
Ba căn thiện cảnh lậu, các pháp thiện cảnh lậu còn lại, các dị thục cảnh lậu của pháp thiện bất thiện, những pháp thành tố phi thiện phi bất thiện quả nghiệp, tất cả sắc. Ðây gọi là khổ.
[190] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ KHỔ DIỆT?
Sự đoạn trừ ái, các pháp thiện còn lại, và các pháp bất thiện còn lại. Ðây gọi là khổ diệt.
[191] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ KHỔ DIỆT HÀNH LỘ?
Ở đây, khi nào vị tỳ khưu tu tập thiền siêu thế, pháp dẫn xuất, nhân tịch diệt để đoạn trừ thiên kiến, đạt đến đệ nhất địa vức, ly các dục… (trùng)… chứng và trú Sơ thiền, hành nan đắc trì; trong khi ấy có đạo tám chi là chánh kiến… (trùng)… chánh định. Ðây gọi là khổ diệt hành lộ; các pháp còn lại tương ưng với khổ diệt hành lộ.
[192] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ KHỔ TẬP?
Ái và các phiền não còn lại, các pháp bất thiện còn lại và ba căn thiện cảnh lậu. Ðây gọi là khổ tập[41].
[193] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ KHỔ?
Các pháp thiện cảnh lậu còn lại, các dị thục cảnh lậu của pháp thiện bất thiện, các pháp thành tố phi thiện phi bất thiện phi quả nghiệp và tất cả sắc. Ðây gọi là khổ.
[194] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ KHỔ DIỆT?
Sự đoạn trừ ái, các phiền não còn lại, các pháp bất thiện còn lại, ba căn thiện cảnh lậu. Ðây gọi là khổ diệt.
[195] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ KHỔ DIỆT HÀNH LỘ?
Ở đây, khi nào vị tỳ khưu tu tập thiền Siêu thế, pháp dẫn xuất, nhân tịch diệt để đoạn trừ thiên kiến, đạt đến đệ nhất địa vức, ly các dục… (trùng)… chứng và trú Sơ thiền, hành nan đắc trì; trong khi ấy có đạo tám chi là chánh kiến… (trùng)… chánh định. Ðây gọi là khổ diệt hành lộ; các pháp còn lại tương ưng với khổ diệt hành lộ.
[196] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ KHỔ TẬP?
Ái, các phiền não còn lại, các pháp bất thiện còn lại, ba căn thiện cảnh lậu, các pháp thiện cảnh lậu còn lại[42]. Ðây gọi là khổ tập.
[197] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ KHỔ?
Các dị thục của các pháp thiện bất thiện cảnh lậu, các pháp thành tố phi thiện phi bất thiện phi quả nghiệp, và tất cả sắc. Ðây gọi là khổ.
[198] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ KHỔ DIỆT?
Sự đoạn trừ ái, các phiền não còn lại, các pháp bất thiện còn lại, ba căn thiện cảnh lậu, các pháp thiện cảnh lậu còn lại. Ðây gọi là khổ diệt.
[199] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ KHỔ DIỆT HÀNH LỘ?
Ở đây, khi nào vị tỳ khưu tu tập thiền Siêu thế, pháp dẫn xuất, nhân tịch diệt để đoạn trừ thiên kiến, đạt đến đệ nhất địa vức, ly các dục… (trùng)… chứng và trú Sơ thiền, hành nan đắc trì; trong khi ấy có đạo tám chi là chánh kiến… (trùng)… chánh định. Ðây gọi là khổ diệt hành lộ; các pháp còn lại tương ưng với khổ diệt hành lộ.
[200] BỐN ÐẾ là khổ, khổ tập, khổ diệt, khổ diệt hành lộ.
[201] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ KHỔ TẬP?
Ái. Ðây gọi là khổ tập.
[202] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ KHỔ?
Các phiền não còn lại, các pháp bất thiện còn lại, ba nhân thiện cảnh lậu, các pháp thiện cảnh lậu còn lại, các dị thục cảnh lậu của các pháp thiện bất thiện, các pháp thành tố phi thiện phi bất thiện phi quả nghiệp và tất cả sắc. Ðây gọi là khổ.
[203] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ KHỔ DIỆT?
Sự đoạn tận ái. Ðây gọi là khổ diệt.
[204] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ KHỔ DIỆT HÀNH LỘ?
Ở đây, khi nào vị tỳ khưu tu tập thiền siêu thế, pháp dẫn xuất, nhân tịch diệt, để đoạn trừ thiên kiến, đạt đến đệ nhất địa vức, ly các dục… (trùng)… chứng và trú Sơ thiền, hành nan đắc trì; trong khi ấy có đạo tám chi là chánh kiến… (trùng)… chánh định. Ðây gọi là khổ diệt hành lộ; các pháp còn lại tương ưng với khổ diệt hành lộ.
[205] Ở ÐÂY, CHÁNH KIẾN LÀ THẾ NÀO?
Tức là sự thông hiểu, hiểu rõ… (trùng)… vô si, trạch pháp, chánh kiến, trạch pháp giác chi, đạo chi, liên quan đạo. Ðây gọi là chánh kiến.
[206] Ở ÐÂY, CHÁNH TƯ DUY LÀ THẾ NÀO?
Tức là sự tìm cảnh, sự nghĩ ngợi sự tư duy … (trùng)… đạo chi, liên quan đạo. Ðây gọi là chánh tư duy.
[207] Ở ÐÂY, CHÁNH TINH TẤN LÀ THẾ NÀO?
Tức là pháp cần cố thuộc về tâm… (trùng)… thành chánh tinh tấn, cần giác chi, đạo chi, liên quan đạo. Ðây gọi là chánh tinh tấn.
[208] Ở ÐÂY, CHÁNH NIỆM LÀ THẾ NÀO?
Tức là niệm, tùy niệm… (trùng)… thành chánh niệm, niệm giác chi, đạo chi, liên quan đạo. Ðây gọi là chánh niệm.
[209] Ở ÐÂY, CHÁNH ÐỊNH LÀ THẾ NÀO?
Tức là sự đình trụ lại của tâm… (trùng)… thành chánh định, định giác chi, đạo chi, liên quan đạo. Ðây gọi là chánh định. Ðây gọi là khổ diệt hành lộ; các pháp còn lại tương ưng với khổ diệt hành lộ… (trùng)…
[210] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ KHỔ TẬP?
Ái, các phiền não còn lại, các pháp bất thiện còn lại, ba căn thiện cảnh lậu, các pháp thiện cảnh lậu còn lại. Ðây gọi là khổ tập.
[211] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ KHỔ?
Các dị thục của các pháp thiện bất thiện cảnh lậu, các pháp thành tố phi thiện phi bất thiện phi quả nghiệp, và tất cả sắc. Ðây gọi là khổ.
[212] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ KHỔ DIỆT?
Sự đoạn trừ ái, các phiền não còn lại, các pháp bất thiện còn lại, ba căn thiện cảnh lậu, các pháp thiện cảnh lậu còn lại. Ðây gọi là khổ diệt.
[213] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ KHỔ DIỆT HÀNH LỘ?
Ở đây, khi nào vị tỳ khưu tu tập thiền Siêu thế, pháp dẫn xuất, nhân tịch diệt để đoạn trừ thiên kiến, đạt đến đệ nhất địa vức, ly các dục… (trùng)… chứng và trú Sơ thiền, hành nan đắc trì; trong khi ấy có đạo tám chi là chánh kiến… (trùng)… chánh định. Ðây gọi là khổ diệt hành lộ; các pháp còn lại tương ưng với khổ diệt hành lộ.
[214] BỐN ÐẾ là khổ, khổ tập, khổ diệt, khổ diệt hành lộ.
[215] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ KHỔ TẬP?
Ái. Ðây gọi là khổ tập.
[216] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ KHỔ?
Các phiền não còn lại, các pháp bất thiện còn lại, ba căn thiện cảnh lậu còn lại, các dị thục cảnh lậu của các pháp thiện bất thiện, các pháp thành tố phi thiện phi bất thiện phi quả nghiệp và tất cả sắc. Ðây gọi là khổ.
[217] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ KHỔ DIỆT?
Sự đoạn trừ ái. Ðây gọi là khổ diệt.
[218] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ KHỔ DIỆT HÀNH LỘ?
Ở đây, khi nào vị tỳ khưu tu tập thiền siêu thế, pháp dẫn xuất, nhân tịch diệt, để đoạn trừ thiên kiến, đạt đến đệ nhất địa vức, ly các dục… (trùng)… chứng và trú Sơ thiền, hành nan đắc trì; trong khi đó có xúc… (trùng)… có bất phóng dật. Ðây gọi là khổ diệt hành lộ… (trùng)…
[219] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ KHỔ TẬP?
Ái, các phiền não còn lại, các pháp bất thiện còn lại, ba căn thiện cảnh lậu, các pháp thiện cảnh lậu còn lại. Ðây gọi là khổ tập.
[220] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ KHỔ?
Các dị thục của các pháp thiện bất thiện cảnh lậu, các pháp thành tố phi thiện phi bất thiện phi quả nghiệp, và tất cả sắc. Ðây gọi là khổ.
[221] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ KHỔ DIỆT?
Sự đoạn trừ ái, các phiền não còn lại, các pháp bất thiện còn lại, ba căn thiện cảnh lậu, các pháp thiện cảnh lậu còn lại. Ðây gọi là khổ diệt.
[222] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ KHỔ DIỆT HÀNH LỘ?
Ở đây, khi nào vị tỳ khưu tu tập thiền siêu thế, pháp dẫn xuất, nhân tịch diệt, để đoạn trừ thiên kiến, đạt đến đệ nhất địa vức, ly các dục… (trùng)… chứng và trú Sơ thiền, hành nan đắc trì; trong khi ấy có xúc… (trùng)… có bất phóng dật. Ðây gọi là khổ diệt hành lộ.
DỨT PHẦN PHÂN THEO VI DIỆU PHÁP
PHẦN VẤN ÐÁP (Pañhāpucchakaṃ)
[223] BỐN THÁNH ÐẾ là khổ Thánh đế, khổ tập Thánh đế, khổ diệt Thánh đế, khổ diệt hành lộ Thánh đế. Trong bốn Thánh đế CÓ BAO NHIÊU LÀ THIỆN? CÓ BAO NHIÊU LÀ BẤT THIỆN? CÓ BAO NHIÊU LÀ VÔ KÝ?… (trùng)… CÓ BAO NHIÊU LÀ HỮU TRANH? CÓ BAO NHIÊU LÀ VÔ TRANH?[43]
[224] TẬP ÐẾ là bất thiện; đạo đế là thiện; diệt đế là pháp vô ký; khổ đế có thể là thiện, có thể là bất thiện, có thể là vô ký.
Hai đế có thể là tương ưng thọ lạc, có thể là tương ưng thọ phi khổ phi lạc; diệt đế không nên nói là tương ưng thọ lạc, hay tương ưng thọ khổ hay tương ưng thọ phi khổ phi lạc; khổ đế có thể là tương ưng thọ lạc, có thể là tương ưng thọ khổ, có thể là tương ưng thọ phi khổ phi lạc, có thể không nên nói là tương ưng thọ lạc hay tương ưng thọ khổ, hay tương ưng thọ phi khổ phi lạc
Hai đế là pháp dị thục nhân; diệt đế là pháp phi dị thục phi dị thục nhân; khổ đế có thể là dị thục, có thể là dị thục nhân, có thể là phi dị thục phi dị thục nhân.
Tập đế là phi do thủ cảnh thủ; hai đế là phi do thủ phi cảnh thủ; khổ đế có thể là do thủ cảnh thủ, có thể là phi do thủ cảnh thủ.
Tập đế là phi phiền toái cảnh phiền não; hai đế là phi phiền toái phi cảnh phiền não; khổ đế có thể là phiền toái cảnh phiền não, có thể là phi phiền toái cảnh phiền não.
Tập đế là hữu tầm hữu tứ; diệt đế là vô tầm vô tứ; đạo đế có thể là hữu tầm hữu tứ, có thể là vô tầm hữu tứ, có thể là vô tầm vô tứ; khổ đế có thể là vô tầm hữu tứ, có thể là hữu tầm hữu tứ, có thể là vô tầm vô tứ, có thể không nên nói là hữu tầm hữu tứ, hay vô tầm hữu tứ hay vô tầm vô tứ.
Hai đế có thể là câu hành hỷ, có thể là câu hành lạc, có thể là câu hành xả; diệt đế không nên nói là câu hành hỷ, hay câu hành lạc, hay câu hành xả; khổ đế có thể là câu hành hỷ, có thể là câu hành lạc, có thể là câu hành xả, có thể không nên nói là câu hành hỷ hay câu hành lạc hay câu hành xả.
Hai đế là không đáng do kiến đạo tiến đạo đoạn trừ; tập đế có thể là đáng do kiến đạo đoạn trừ, có thể là đáng do tiến đạo đoạn trừ; khổ đế có thể là đáng do kiến đạo đoạn trừ, có thể là đáng do tiến đạo đoạn trừ, có thể là không đáng do kiến đạo tiến đạo đoạn trừ
Hai đế là phi hữu nhân đáng do kiến đạo tiến đạo đoạn trừ; tập đế có thể là hữu nhân đáng do kiến đạo đoạn trừ, có thể là hữu nhân đáng do kiến đạo đoạn trừ; khổ đế có thể là hữu nhân đáng do kiến đạo đoạn trừ, có thể là hữu nhân đáng do tiến đạo đoạn trừ, có thể là phi hữu nhân đáng do kiến đạo tiến đạo đoạn trừ.
Tập đế là nhân đến tích tập; đạo đế là nhân đến tịch diệt; diệt đế là phi nhân đến tích tập phi nhân đến tịch diệt; khổ đế có thể là nhân đến tích lập, có thể là phi nhân đến tích tập phi nhân đến tịch diệt.
Ðạo đế là hữu học; ba đế là phi hữu học phi vô học.
Tập đế là hy thiểu; hai đế là vô lượng; khổ đế có thể là hy thiểu, có thể là đáo đại.
Diệt đế là bất tri cảnh; đạo đế là biết cảnh vô lượng; tập đế có thể là biết cảnh hy thiểu, có thể là biết cảnh đáo đại, không biết cảnh vô lượng, có thể không nên nói là biết cảnh hy thiểu hay biết cảnh đáo đại; khổ đế có thể là biết cảnh hy thiểu, có thể là biết cảnh đáo đại, có thể là biết cảnh vô lượng, có thể không nên nói là biết cảnh hy thiểu hay biết cảnh đáo đại, hay biết cảnh vô lượng.
Tập đế là ty hạ; hai đế là tinh lương; khổ đế có thể là ty hạ, có thể là trung bình.
Diệt đế là phi cố định; đạo đế là cố định phần chánh; hai đế có thể là cố định phần tà, có thể là phi cố định.
Diệt đế là bất tri cảnh; tập đế không nên nói là có đạo thành cảnh hay có đạo thành nhân hay có đạo thành trưởng; đạo đế không có đạo thành cảnh, mà có thể có đạo thành nhân, hay có thể có đạo thành trưởng, có thể không nên nói là có đạo thành nhân hay có đạo thành trưởng; khổ đế có đạo thành cảnh, không phải có đạo thành nhân, có thể có đạo thành trưởng, có thể không nên nói là có đạo thành cảnh hay có đạo thành trưởng.
Hai đế có thể là sinh tồn, có thể là vị sanh tồn, không nên nói là chuẩn sanh; diệt đế không nên nói là sinh tồn hay vị sanh tồn hay chuẩn sanh; khổ đế có thể là sanh tồn, có thể là phi sanh tồn, có thể là chuẩn sanh.
Ba đế có thể là quá khứ, có thể là vị lai, có thể là hiện tại; diệt đế không nên nói là quá khứ, hay vị lai, hay hiện tại.
Diệt đế là bất tri cảnh; đạo đế không nên nói là biết cảnh quá khứ, hay biết cảnh vị lai, hay biết cảnh hiện tại; hai đế có thể biết cảnh quá khứ, có thể biết cảnh vị lai, có thể biết cảnh hiện tại, có thể không nên nói là biết cảnh quá khứ, hay biết cảnh vị lai, hay biết cảnh hiện tại.
Diệt đế là ngoại phần; ba đế có thể là nội phần, có thể là ngoại phần, có thể là nội ngoại phần.
Diệt đế là bất tri cảnh; đạo đế là biết cảnh ngoại phần; tập đế có thể biết cảnh nội phần, có thể biết cảnh ngoại phần, có thể biết cảnh nội ngoại phần; khổ đế có thể biết cảnh nội phần, có thể biết cảnh ngoại phần, có thể biết cảnh nội ngoại phần, có thể không nên nói là biết cảnh nội phần, hay biết cảnh ngoại phần, hay biết cảnh nội ngoại phần.
Ba đế là vô kiến vô đối chiếu; khổ đế có thể là hữu kiến hữu đối chiếu có thể là vô kiến hữu đối chiếu có thể là vô kiến vô đối chiếu.
[225] TẬP ÐẾ là nhân[44]; diệt đế là phi nhân; hai đế có thể là nhân, có thể là phi nhân.
Hai đế là hữu nhân; diệt đế là vô nhân, khổ đế có thể là hữu nhân, có thể là vô nhân.
Hai đế là tương ưng nhân; diệt đế là bất tương ưng nhân; khổ đế có thể là tương ưng nhân, có thể là bất tương ưng nhân.
Tập đế là nhân hữu nhân; diệt đế không nên nói là nhân hữu nhân hay hữu nhân phi nhân; đạo đế có thể là nhân hữu nhân, có thể là hữu nhân phi nhân; khổ đế có thể là nhân hữu nhân, có thể là hữu nhân phi nhân, có thể không nên nói là nhân hữu nhân hay hữu nhân phi nhân.
Tập đế là nhân tương ưng nhân; diệt đế không nên nói là nhân tương ưng nhân hay tương ưng nhân phi nhân; đạo đế có thể là nhân tương ưng nhân, có thể là tương ưng nhân phi nhân; khổ đế có thể là nhân tương ưng nhân, có thể là tương ưng nhân phi nhân, có thể không nên nói là nhân tương ưng nhân hay tương ưng nhân phi nhân.
Diệt đế là phi nhân vô nhân; tập đế không nên nói là phi nhân hữu nhân hay phi nhân vô nhân; đạo đế có thể là phi nhân hữu nhân, có thể không nên nói là phi nhân hữu nhân hay phi nhân vô nhân; khổ đế có thể là phi nhân vô nhân, có thể là phi nhân hữu nhân, có thể không nên nói là phi nhân hữu nhân hay phi nhân vô nhân.
[226] BA ÐẾ là hữu duyên; diệt đế là vô duyên.
Ba đế là hữu vi; diệt đế là vô vi.
Ba đế là bất kiến, khổ đế là hữu kiến có thể là vô kiến.
Ba đế là vô đối chiếu; khổ đế có thể là hữu đối chiếu có thể là vô đối chiếu
Ba đế là phi sắc; khổ đế có thể là sắc, có thể là phi sắc.
Hai đế là hiệp thế; hai đế là siêu thế.
(Bốn đế) là đáng cho vài tâm biết, cũng không đáng cho vài tâm biết.
[227] TẬP ÐẾ là lậu[45]; hai đế là phi lậu; khổ đế có thể là lậu, có thể là phi lậu.
Hai đế là cảnh lậu; hai đế là phi cảnh lậu.
Tập đế là tương ưng lậu; hai đế là bất tương ưng lậu; khổ đế có thể là tương ưng lậu, có thể là bất tương ưng lậu.
Tập đế là lậu cảnh lậu; hai đế không nên nói là lậu cảnh lậu hay cảnh lậu phi lậu; khổ đế có thể là lậu cảnh lậu, có thể là cảnh lậu phi lậu.
Tập đế là lậu tương ưng lậu; hai đế không nên nói là lậu tương ưng lậu hay tương ưng lậu phi lậu; khổ đế có thể là tương ưng lậu phi lậu, có thể không nên nói là lậu tương ưng lậu hay tương ưng lậu phi lậu.
Hai đế là bất tương ưng lậu phi cảnh lậu; tập đế không nên nói là bất tương ưng lậu cảnh lậu hay bất tương ưng lậu phi cảnh lậu; khổ đế có thể là bất tương ưng lậu cảnh lậu, có thể không nên nói là bất tương ưng lậu cảnh lậu hay bất tương ưng lậu phi cảnh lậu.
[228] TẬP ÐẾ là triền[46]; hai đế là phi triền; khổ đế có thể là triền, có thể là phi triền.
Tập đế là tương ưng triền; hai đế là bất tương ưng triền; khổ đế có thể là tương ưng triền, có thể là bất tương ưng triền.
Tập đế là triền cảnh triền; hai đế không nên nói là triền cảnh triền hay cảnh triền phi triền; khổ đế có thể là triền cảnh triền, hay là cảnh triền phi triền.
Tập đế là triền tương ưng triền; hai đế không nên nói là triền tương ưng triền hay tương ưng triền phi triền; khổ đế có thể là triền tương ưng triền, có thể không nên nói là triền tương ưng triền hay tương ưng triền phi triền.
Hai đế là bất tương ưng triền phi cảnh triền; tập đế không nên nói là bất tương ưng triền cảnh triền hay bất tương ưng triền phi cảnh triền; khổ đế có thể là bất tương ưng triền cảnh triền, có thể không nên nói là bất tương ưng triền cảnh triền hay bất tương ưng triền phi cảnh triền.
[229] TẬP ÐẾ là phược[47]; hai đế là phi phược; khổ đế có thể là phược, có thể là phi phược.
Hai đế là cảnh phược; hai đế là phi cảnh phược.
Hai đế là bất tương ưng phược; hai đế có thể là tương ưng phược, có thể là bất tương ưng phược.
Tập đế là phược cảnh phược; hai đế không nên nói là phược cảnh phược hay cảnh phược phi phược; khổ đế có thể là phược cảnh phược, có thể là cảnh phược phi phược.
Tập đế là phược tương ưng phược, có thể không nên nói là phược tương ưng phược hay tương ưng phược phi phược; hai đế không nên nói là phược tương ưng phược hay tương ưng phược phi phược; khổ đế có thể là phược tương ưng phược, có thể là tương ưng phược phi phược, có thể không nên nói là phược tương ưng phược hay tương ưng phược phi phược.
Hai đế là bất tương ưng phược phi cảnh phược; hai đế có thể là bất tương ưng phược cảnh phược, có thể không nên nói là bất tương ưng phược cảnh phược hay bất tương ưng phược phi cảnh phược.
[230] TẬP ÐẾ là bộc[48]… (trùng)… là phối[49]… (trùng)… là cái[50]; hai đế là phi cái; khổ đế có thể là cái, có thể là phi cái.
Hai đế là cảnh cái; hai đế là phi cảnh cái.
Tập đế là tương ưng cái; hai đế là bất tương ưng cái; khổ đế có thể là tương ưng cái, có thể là bất tương ưng cái.
Tập đế là cái cảnh cái; hai đế không nên nói là cái cảnh cái hay cảnh cái phi cái; khổ đế có thể là cái cảnh cái, có thể là cảnh cái phi cái.
Tập đế là cái tương ưng cái; hai đế không nên nói là cái tương ưng cái hay tương ưng cái phi cái; khổ đế có thể là cái tương ưng cái, có thể là tương ưng cái phi cái, có thể không nên nói là cái tương ưng cái hay tương ưng cái phi cái.
Hai đế là bất tương ưng cái phi cảnh cái; tập đế không nên nói là bất tương ưng cái cảnh cái hay bất tương ưng cái phi cảnh cái; khổ đế có thể là bất tương ưng cái cảnh cái, có thể không nên nói là bất tương ưng cái cảnh cái hay bất tương ưng cái phi cảnh cái.
[231] BA ÐẾ là phi khinh thị[51]; khổ đế có thể là khinh thị, có thể là phi khinh thị.
Hai đế là cảnh khinh thị; hai đế là phi cảnh khinh thị.
Hai đế là bất tương ưng khinh thị; tập đế có thể là tương ưng khinh thị, có thể là bất tương ưng khinh thị; khổ đế có thể là tương ưng khinh thị, có thể là bất tương ưng khinh thị, có thể không nên nói là tương ưng khinh thị hay bất tương ưng khinh thị.
Tập đế không nên nói là khinh thị cảnh khinh thị mà là cảnh khinh thị phi khinh thị; hai đế không nên nói là khinh thị cảnh khinh thị hay cảnh khinh thị phi khinh thị; khổ đế có thể là khinh thị cảnh khinh thị, có thể là cảnh khinh thị phi khinh thị.
Hai đế là bất tương ưng khinh thị cảnh khinh thị; hai đế có thể là bất tương ưng khinh thị phi cảnh khinh thị, có thể không nên nói là bất tương ưng khinh thị cảnh khinh thị hay bất tương ưng khinh thị phi cảnh khinh thị.
[232] HAI ÐẾ là hữu tri cảnh[52]; diệt đế là bất tri cảnh; khổ đế có thể là hữu tri cảnh, có thể là bất tri cảnh.
Ba đế là phi tâm; khổ đế có thể là tâm, có thể là phi tâm.
Hai đế là sở hữu tâm, diệt đế là phi sở hữu tâm; khổ đế có thể là sở hữu tâm, có thể là phi sở hữu tâm.
Hai đế là tương ưng tâm, diệt đế là bất tương ưng tâm; khổ đế có thể là tương ưng tâm, có thể là bất tương ưng tâm, có thể không nên nói là tương ưng tâm hay bất tương ưng tâm.
Hai đế là hòa với tâm, diệt đế phi hòa với tâm, khổ đế có thể là hòa với tâm, có thể là phi hòa với tâm, có thể không nên nói là hòa với tâm hay phi hòa với tâm.
Hai đế có tâm sở sanh; diệt đế là phi tâm sở sanh; khổ đế có thể là có tâm sở sanh, có thể là phi tâm sở sanh.
Hai đế là đồng hiện hữu với tâm; diệt đế là phi đồng hiện hữu với tâm; khổ đế có thể là đồng hiện hữu với tâm, có thể là phi đồng hiện hữu với tâm.
Hai đế là tùy chuyển với tâm; diệt đế là phi tùy chuyển với tâm; khổ đế có thể là tùy chuyển với tâm, có thể là phi tùy chuyển với tâm.
Hai đế là hòa tâm tâm sở sanh; diệt đế là phi hòa tâm tâm sở sanh; khổ đế có thể là hòa tâm tâm sở sanh, có thể là phi hòa tâm tâm sở sanh.
Hai đế là hòa tâm tâm sở sanh đồng hiện hữu với tâm; diệt đế phi hòa tâm tâm sở sanh đồng hiện hữu với tâm; khổ đế có thể là hòa tâm tâm sở sanh đồng hiện hữu với tâm, có thể là phi hòa tâm tâm sở sanh đồng hiện hữu với tâm.
Hai đế là hòa tâm tâm sở sanh tùy chuyển với tâm; diệt đế phi hòa tâm tâm sở sanh tùy chuyển với tâm; khổ đế có thể là hòa tâm tâm sở sanh tùy chuyển với tâm, có thể là phi hòa tâm tâm sở sanh tùy chuyển với tâm.
Ba đế là ngoại phần; khổ đế có thể là nội phần, có thể là ngoại phần.
Ba đế là phi y sinh; khổ đế có thể là y sinh, có thể là phi y sinh.
Ba đế là phi do thủ; khổ đế có thể là thủ, có thể là phi do thủ.
[233] TẬP ÐẾ là thủ[53]; hai đế là phi thủ; khổ đế có thể là thủ, có thể là phi thủ.
Hai đế là cảnh thủ; hai đế là phi cảnh thủ.
Hai đế là bất tương ưng thủ; hai đế có thể là tương ưng thủ, có thể là bất tương ưng thủ.
Tập đế là thủ cảnh thủ; hai đế không nên nói là thủ cảnh thủ hay cảnh thủ phi thủ; khổ đế có thể là thủ cảnh thủ, có thể là cảnh thủ phi thủ.
Tập đế có thể là thủ tương ưng thủ, có thể không nên nói là thủ tương ưng thủ hay tương ưng thủ phi thủ; hai đế không nên nói là thủ tương ưng thủ hay tương ưng thủ phi thủ; khổ đế có thể là thủ tương ưng thủ, có thể là tương ưng thủ phi thủ, có thể không nên nói là thủ tương ưng thủ hay tương ưng thủ phi thủ.
Hai đế là bất tương ưng thủ phi cảnh thủ; hai đế có thể là bất tương ưng thủ cảnh thủ, có thể không nên nói là bất tương ưng thủ cảnh thủ hay bất tương ưng thủ phi cảnh thủ.
[234] TẬP ÐẾ là phiền não[54]; hai đế là phi phiền não; khổ đế có thể là phiền não, có thể là phi phiền não.
Hai đế là cảnh phiền não; hai đế là phi cảnh phiền não.
Tập đế là phiền toái[55]; hai đế là phiền toái; khổ đế có thể là phiền toái, có thể là phi phiền toái.
Tập đế là tương ưng phiền não; hai đế là bất tương ưng phiền não; khổ đế có thể là tương ưng phiền não, có thể là bất tương ưng phiền não.
Tập đế là phiền não cảnh phiền não; hai đế không nên nói là phiền não cảnh phiền não hay cảnh phiền não phi phiền não; khổ đế có thể là phiền não cảnh phiền não, có thể là cảnh phiền não phi phiền não.
Tập đế là phiền não phiền toái; hai đế không nên nói là phiền não phiền toái hay phiền toái phi phiền não; khổ đế có thể là phiền não phiền toái, có thể là phiền toái phi phiền não, có thể không nên nói là phiền não phiền toái hay phiền toái phi phiền não.
Tập đế là phiền não tương ưng phiền não; hai đế không nên nói là phiền não tương ưng phiền não hay tương ưng phiền não phi phiền não; khổ đế có thể là phiền não tương ưng phiền não, có thể là tương ưng phiền não phi phiền não, có thể không nên nói là phiền não tương ưng phiền não hay tương ưng phiền não phi phiền não.
Hai đế là bất tương ưng phiền não phi cảnh phiền não; tập đế không nên nói là bất tương ưng phiền não cảnh phiền não hay tương ưng phiền não phi cảnh phiền não; khổ đế có thể là bất tương ưng phiền não cảnh phiền não, có thể bất tương ưng phiền não phi cảnh phiền não, có thể không nên nói là bất tương ưng phiền não cảnh phiền não hay bất tương ưng phiền não phi cảnh phiền não.
[235] HAI ÐẾ không đáng do kiến đạo đoạn trừ[56]; hai đế có thể đáng do kiến đạo đoạn trừ, có thể là không đáng do kiến đạo đoạn trừ.
Hai đế không đáng do tiến đạo đoạn trừ; hai đế có thể đáng do tiến đạo đoạn trừ, có thể không đáng do tiến đạo đoạn trừ.
Hai đế là phi hữu nhân đáng do kiến đạo đoạn trừ; có thể là hữu nhân đáng do kiến đạo đoạn trừ, có thể là phi hữu nhân đáng do kiến đạo đoạn trừ.
Hai đế là phi hữu nhân đáng do tiến đạo đoạn trừ; hai đế có thể là hữu nhân đáng do tiến đạo đoạn trừ, có thể là phi hữu nhân đáng do tiến đạo đoạn trừ.
Tập đế là hữu tầm; diệt đế là vô tầm; hai đế có thể là hữu tầm, có thể là vô tầm.
Tập đế là hữu tứ; diệt đế là vô tứ; hai đế có thể là hữu tứ, có thể là vô tứ.
Diệt đế là vô hỷ; ba đế có thể là hữu hỷ, có thể là vô hỷ.
Diệt đế là phi câu hành hỷ; ba đế có thể là câu hành hỷ, có thể là phi câu hành hỷ.
Diệt đế là phi câu hành lạc; ba đế có thể là câu hành lạc, có thể là phi câu hành lạc.
Diệt đế là phi câu hành xả; ba đế có thể là câu hành xả, có thể là phi câu hành xả.
Tập đế là dục giới; hai đế là phi dục giới; khổ đế có thể là dục giới, có thể là phi dục giới.
Ba đế là phi sắc giới; khổ đế có thể là sắc giới, có thể là phi sắc giới.
Ba đế là phi vô sắc giới; khổ đế có thể là vô sắc giới, có thể là phi vô sắc giới.
Hai đế là hệ thuộc; hai đế là phi hệ thuộc.
Ðạo đế là pháp dẫn xuất; ba đế là pháp phi dẫn xuất.
Ðạo đế là cố định; diệt đế là phi cố định; hai đế có thể là cố định, có thể là phi cố định.
Hai đế là hữu thượng; hai đế là vô thượng.
Tập đế là hữu tranh; hai đế là vô tranh; khổ đế có thể là hữu tranh, có thể là vô tranh.
DỨT PHẦN VẤN ÐÁP
TRỌN VẸN ÐẾ PHÂN TÍCH
[1] Ở đây, nguyên bản không thấy nói đến KHỔ BỆNH.
[2] Jāti.
[3] Jarā.
[4] Maraṇa.
[5] Soka.
[6] Parideva.
[7] Dukkha.
[8] Domanassa.
[9] Ūpāyāsa.
[10] Appiyehi sampayogo.
[11] Piyehi vippayogo.
[12] Yampiccham na labhati tampi.
[13] Pañcupādānakkhandha.
[14] Sắc khả ái (piyarūpam) là đối tượng yêu thích; sắc mãn ý (sātarūpam) là đối tượng đẹp ý vui lòng. Sắc khả ái, sắc mãn ý ở đây chỉ về đối tượng của ái bám víu, gồm mọi thứ trong đời chớ không phải nói riêng CẢNH SẮC.
[15] Sắc tưởng (rūpasaññā) cảnh sắc nhớ lại. Thinh… v.v…
[16] Sắc tư (rūpasancetanā) cảnh sắc do cố nhìn thấy…
[17] Sắc ái (rūpatanhā) cảnh sắc mà quyến luyến…
[18] Sắc tầm (rūpavitakka) cảnh sắc do tìm kiếm, mơ nghĩ đến…
[19] Sắc tứ (rūpavicāra) cảnh sắc do đặc biệt quan tâm…
[20] Sammāditthi.
[21] Sammāsankappa.
[22] Sammāvācā.
[23] Sammākammanto.
[24] Sammā ājīvo.
[25] Sammāvāyāmo.
[26] Sammāsati.
[27] Sammāsamādhi.
[28] Dukkhasamudayo. Ở đây nguyên bản lại trình bày KHỔ TẬP trước KHỔ, không biết có sự nhằm lẫn chăng? các đoạn sau cũng thế.
[29] Dukkhaṃ.
[30] Các dị thục cảnh lậu (sāsavā vipākā) là các tâm quả hiệp thế.
[31] Pháp tố (kiriyā), tức là các tâm duy tác vô nhân và hữu nhân, ngoài nhân thiện, bất thiện, quả.
[32] Dukkhanirodha.
[33] Dukkhanirodhagāminīpatipāda.
[34] Ðạo đế ở đây được trình bày theo hai phương diện là Bát chánh đạo trong tâm đại thiện (mahākusalacitta) và Bát chánh đạo trong thiện Siêu thế (lokuttarakusalacitta) tức tâm đạo (maggacitta).
[35] Dukkasamudaya.
[36] Ở đây, Tập đế được nói rộng hơn: Tanhā ca avasesā kilesā.
[37] Dukkha.
[38] Dukkhanirodha.
[39] Dukkhanirodhagāminīpatipadā.
[40] Tập đế nói rộng hơn nữa: Tanhā ca avasesā ca kilesā avassā ca akusalā dhammā.
[41] Tập đế nói rộng hơn nữa là: Tanhā ca avasesā ca kilesā avasesā ca akusalā dhammā tīni ca kusalamulāni sāsavāni.
[42] Ở đây, các pháp thiện cảnh lậu (sāsavā kusalā dhammā) cũng được xem là tập đế.
[43] Vấn đáp theo Tikamātika (Mẫu đề tam).
[44] Nhân (hetu). Vấn đáp theo Ðầu đề nhị (ḍukamātikā), phần Tụ nhân (hetugocchaka).
[45] Lậu (āsava); Phần Tụ lậu (āsavagocchaka).
[46] Triền (sañiojana). Phần Tụ triền (sañiojanagocchaka).
[47] Phược (gantha).
[48] Bộc (ogha).
[49] Phối (yoga).
[50] Cái (Nīvarana). Phần Tụ cái (Nivaranagocchaka).
[51] Khinh thị (parāmāsa). Phần Tụ Khinh thị (parāmāsagocchaka).
[52] Phần nhị đề Ðại đỉnh (mahantaraduka).
[53] Thủ (upādāna). Phần Tụ thủ (upādānagocchaka).
[54] Phiền não (kilesa). Phần Tụ phiền não (kilesagocchaka).
[55] Phiền toái (Sankilittha).
[56] Nhị đề Yêu bối (Piṭṭhiduka).
QUYỀN PHÂN TÍCH (INDRIYAVIBHAṄGO)
PHÂN TÍCH THEO VI DIỆU PHÁP (Abhidhammabhājanīyaṃ)
[236] HAI MƯƠI HAI QUYỀN là: Nhãn quyền, nhĩ quyền, tỷ quyền, thiệt quyền, thân quyền, ý quyền, nữ quyền, nam quyền, mạng quyền, lạc quyền, khổ quyền, hỷ quyền, ưu quyền, xả quyền, tín quyền, tấn quyền, niệm quyền, định quyền, tuệ quyền, tri vị tri quyền, tri dĩ tri quyền, tri cụ tri quyền.
[237] Ở ÐÂY, NHÃN QUYỀN [1] LÀ THẾ NÀO?
Mắt nào là tinh chất nương bốn đại hiển… (trùng)…[2] đó là làng bỏ trống. Ðây gọi là nhãn quyền.
Ở ÐÂY, NHĨ QUYỀN[3] LÀ THẾ NÀO? … (trùng)… TỶ QUYỀN[4] LÀ THẾ NÀO? … (trùng)… THIỆT QUYỀN[5] LÀ THẾ NÀO? … (trùng)… THÂN QUYỀN[6] LÀ THẾ NÀO?
Thân nào là tinh chất nương bốn đại hiển… (trùng)… đó là làng bỏ trống. Ðây gọi là thân quyền.
Ở ÐÂY, Ý QUYỀN[7] LÀ THẾ NÀO?
Ý quyền phân theo một loại: ý quyền tương ưng xúc… (trùng)…[8] ý quyền phân theo nhiều loại là như vậy. Ðây gọi là ý quyền.
[238] Ở ÐÂY, NỮ QUYỀN[9] LÀ THẾ NÀO?
Sắc nào của nữ, là nữ căn, tướng nữ, nết nữ, thái độ nữ, tánh hạnh nữ, trạng thái nữ. Ðây gọi là nữ quyền.
Ở ÐÂY, NAM QUYỀN[10] LÀ THẾ NÀO?
Sắc nào của nam, nam căn, tướng nam, nết nam, thái độ nam, tánh hạnh nam, trạng thái nam. Ðây gọi là nam quyền.
Ở ÐÂY, MẠNG QUYỀN[11] LÀ THẾ NÀO?
Mạng quyền phân theo hai loại: có mạng quyền sắc, có mạng quyền phi sắc.
Ở ÐÂY, MẠNG QUYỀN SẮC[12] LÀ THẾ NÀO?
Sắc nào là thọ mạng, sự duy trì, sự nuôi sống, sự nuôi dưỡng, sự tiếp diễn, sự tồn tại, sự giữ gìn, sự sống còn, quyền sống còn của các pháp sắc kia. Ðây gọi là mạng quyền sắc[13].
Ở ÐÂY, MẠNG QUYỀN PHI SẮC[14] LÀ THẾ NÀO?
Sắc nào là sự thọ mạng, sự duy trì, sự nuôi sống, sự nuôi dưỡng, sự tiếp diễn, sự tồn tại, sự giữ gìn, sự sống còn, quyền sống còn của các pháp phi sắc kia. Ðây gọi là mạng quyền phi sắc[15].
[239] Ở ÐÂY, LẠC QUYỀN[16] LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự sảng khoái thuộc về thân, sự dễ chịu thuộc về thân, trạng thái cảm thọ sãng khoái dễ chịu sanh từ thân xúc, sự cảm giác sãng khoái dễ chịu sanh từ thân xúc. Ðây gọi là lạc quyền.
Ở ÐÂY, KHỔ QUYỀN[17] LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự bất an thuộc về thân, sự khó chịu thuộc về thân, trạng thái cảm thọ bất an khó chịu sanh từ thân xúc, sự cảm giác bất an khó chịu sanh từ thân xúc. Ðây gọi là khổ quyền.
Ở ÐÂY, HỶ QUYỀN[18] LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự sảng khoái thuộc về tâm, sự dễ chịu thuộc về tâm, trạng thái cảm thọ sãng khoái dễ chịu sanh từ tâm xúc, sự cảm giác sãng khoái dễ chịu sanh từ tâm xúc. Ðây gọi là hỷ quyền.
Ở ÐÂY, ƯU QUYỀN[19] LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự bất an thuộc về tâm, sự khó chịu thuộc về tâm, trạng thái cảm thọ bất an khó chịu sanh từ tâm xúc, sự cảm giác bất an khó chịu sanh từ tâm xúc. Ðây gọi là ưu quyền.
Ở ÐÂY, XẢ QUYỀN[20] LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự không vui không buồn thuộc về tâm, trạng thái cảm thọ không khổ không lạc sanh từ tâm xúc, sự cảm giác không khổ không lạc sanh từ tâm xúc. Ðây gọi là xả quyền.
[240] Ở ÐÂY, TÍN QUYỀN[21] LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự tin tưởng, sự tin cậy, sự tín nhiệm, sự tịnh tín, tín là tín quyền, tín lực. Ðây gọi là tín quyền.
Ở ÐÂY, TẤN QUYỀN[22] LÀ THẾ NÀO?
Cái chi thuộc về tâm là sự cố gắng, cần cố, ráng sức, chuyên cần, tinh cần, siêng năng, nỗ lực, dốc lòng, nghị lực, không nhủn chí, không bỏ qua nguyện vọng, không bỏ qua phận sự, phò trì trách nhiệm, tấn là tấn quyền, tấn lực, chánh tinh tấn. Ðây gọi là tấn quyền.
Ở ÐÂY, NIỆM QUYỀN[23] LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự nhớ, sự tùy niệm, sự tưởng niệm, trạng thái ký ức, cách ghi nhận, sự không lơ đãng, sự không quên, niệm là niệm quyền, niệm lực, chánh niệm. Ðây gọi là niệm quyền.
Ở ÐÂY, ÐỊNH QUYỀN[24] LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự đình trụ của tâm, sự vững trú, sự vững vàng, sự không tán loạn, sự không lao chao, tính cách tâm không xao xuyến, chỉ tịnh, định quyền, định lực, chánh định. Ðây gọi là định quyền.
Ở ÐÂY, TUỆ QUYỀN[25] LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là trí hiểu, hiểu rõ, lựa chọn, cân nhắc… (trùng)… vô si, trạch pháp, chánh kiến. Ðây gọi là tuệ quyền.
[241] Ở ÐÂY, TRI VỊ TRI QUYỀN[26] LÀ THẾ NÀO?
Trí tuệ mà biết pháp chưa từng biết, thấy pháp chưa từng thấy, chứng đạt pháp chưa từng chứng đạt, hiểu pháp chưa từng hiểu, tác chứng pháp chưa từng tác chứng; cái chi là trí hiểu, hiểu rõ… (trùng)… vô si, trạch pháp, chánh kiến, trạch pháp giác chi, chi đạo, liên quan đạo. Ðây gọi là tri vị tri quyền.
Ở ÐÂY, TRI DĨ TRI QUYỀN[27] LÀ THẾ NÀO?
Trong sự tác chứng các pháp đã được hiểu, được thấy, được đạt, được thông, được chứng đắc, cái chi là trí hiểu, hiểu rõ… (trùng)… vô si, trạch pháp, chánh kiến, trạch pháp giác chi, chi đạo, liên quan đạo. Ðây gọi là tri dĩ tri quyền.
Ở ÐÂY, TRI CỤ TRI QUYỀN[28] LÀ THẾ NÀO?
Ðối với các pháp đã thấu triệt, chi là sự toàn tri, là trí hiểu, hiểu rõ… (trùng)… vô si, trạch pháp, chánh kiến, trạch pháp giác chi, chi đạo, liên quan đạo. Ðây gọi là tri cụ tri quyền.
DỨT PHÂN TÍCH THEO VI DIỆU PHÁP
PHẦN VẤN ÐÁP (Pañhāpucchakaṃ)
[242] HAI MƯƠI HAI QUYỀN là: Nhãn quyền, nhĩ quyền, tỷ quyền, thiệt quyền, thân quyền, ý quyền, nữ quyền, nam quyền, mạng quyền, lạc quyền, khổ quyền, hỷ quyền, ưu quyền, xả quyền, tín quyền, tấn quyền, niệm quyền, định quyền, tuệ quyền, tri vị tri quyền, tri dĩ tri quyền, tri cụ tri quyền. ÐỐI VỚI HAI MƯƠI HAI QUYỀN CÓ BAO NHIÊU LÀ THIỆN? CÓ BAO NHIÊU LÀ BẤT THIỆN? CÓ BAO NHIÊU LÀ VÔ KÝ?… (trùng)… CÓ BAO NHIÊU LÀ HỮU TRANH? CÓ BAO NHIÊU LÀ VÔ TRANH?
[243] MƯỜI QUYỀN là vô ký; ưu quyền là bất thiện; tri vị tri quyền là thiện; bốn quyền có thể là thiện, có thể là vô ký; sáu quyền có thể là thiện, có thể là bất thiện, có thể là vô ký.
Mười quyền không nên nói là tương ưng thọ lạc, tương ưng thọ khổ hay tương ưng thọ phi khổ phi lạc; sáu quyền có thể là tương ưng thọ lạc, có thể là tương ưng thọ phi khổ phi lạc; ba quyền có thể là tương ưng thọ lạc, có thể là tương ưng thọ khổ, có thể là tương ưng thọ phi khổ phi lạc; mạng quyền có thể là tương ưng thọ lạc, có thể là tương ưng thọ khổ, có thể là tương ưng thọ phi khổ phi lạc, có thể không nên nói là tương ưng thọ lạc hay tương ưng thọ khổ hay tương ưng thọ phi khổ phi lạc.
Bảy quyền là phi dị thục phi dị thục nhân; ba quyền là dị thục; hai quyền là dị thục nhân; tri dĩ tri quyền có thể là dị thục, có thể là dị thục nhân; chín quyền có thể là dị thục, có thể là dị thục nhân, có thể là phi dị thục phi dị thục nhân.
Chín quyền là do thủ cảnh thủ; ưu quyền là phi do thủ cảnh thủ; ba quyền là phi do thủ phi cảnh thủ; chín quyền có thể là do thủ cảnh thủ, có thể là phi do thủ cảnh thủ, có thể là phi do thủ phi cảnh thủ.
Chín quyền là phi phiền toái cảnh phiền não; ưu quyền là phiền toái cảnh phiền não; ba quyền là phi phiền toái phi cảnh phiền não; ba quyền có thể là phi phiền toái cảnh phiền não, có thể là phi phiền toái phi cảnh phiền não; sáu quyền có thể là phiền toái cảnh phiền não, có thể là phi phiền toái cảnh phiền não, có thể là phi phiền toái phi cảnh phiền não.
Chín quyền là vô tầm vô tứ, ưu quyền là hữu tầm hữu tứ; xả quyền có thể là hữu tầm hữu tứ, có thể là vô tầm vô tứ; mười một quyền có thể là hữu tầm hữu tứ, có thể là vô tầm hữu tứ, có thể là vô tầm vô tứ.
Mười một quyền không nên nói là câu hành hỷ hay câu hành lạc hay câu hành xả; hỷ quyền có thể là câu hành hỷ mà không câu hành lạc, không câu hành xả; có thể không nên nói là câu hành hỷ; sáu quyền có thể là câu hành hỷ, có thể là câu hành lạc, có thể là câu hành xả; bốn quyền có thể là câu hành hỷ, có thể là câu hành lạc, có thể là câu hành xả, có thể không nên nói là câu hành hỷ hay câu hành lạc hay câu hành xả.
Mười lăm quyền là không đáng do kiến đạo tiến đạo đoạn trừ; ưu quyền có thể là đáng do kiến đạo đoạn trừ, có thể là đáng do tiến đạo đoạn trừ; sáu quyền có thể là đáng do kiến đạo đoạn trừ, có thể là đáng do tiến đạo đoạn trừ, có thể là không đáng do kiến đạo tiến đạo đoạn trừ.
Mười lăm quyền là phi hữu nhân đáng do kiến đạo tiến đạo đoạn trừ; ưu quyền có thể là hữu nhân đáng do kiến đạo đoạn trừ, có thể là hữu nhân đáng do tiến đạo đoạn trừ; sáu quyền có thể là hữu nhân đáng do kiến đạo đoạn trừ, có thể là hữu nhân đáng do tiến đạo đoạn trừ, có thể là phi hữu nhân đáng do kiến đạo tiến đạo đoạn trừ.
Mười quyền là phi nhân đến tích tập phi nhân đến tịch diệt; ưu quyền là nhân đến tích tập; tri vị tri quyền là nhân đến tịch diệt, tri dĩ tri quyền có thể là nhân đến tịch diệt, có thể là phi nhân đến tích tập phi nhân đến tịch diệt; chín quyền có thể là nhân đến tích tập, có thể là nhân đến tịch diệt, có thể là phi nhân đến tích tập phi nhân đến tịch diệt.
Mười quyền là phi hữu học phi vô học; hai quyền là hữu học; tri cụ tri quyền la vô học; chín quyền có thể là hữu học, có thể là vô học, có thể là phi hữu học phi vô học.
Mười quyền là hy thiểu; ba quyền là vô lượng; chín quyền có thể là hy thiểu, có thể là đáo đại, có thể là vô lượng.
Bảy quyền là vô cảnh; hai quyền là biết cảnh hy thiểu; ba quyền là biết cảnh vô lượng; ưu quyền có thể là biết cảnh hy thiểu, có thể là biết cảnh đáo đại, không biết cảnh vô lượng, có thể không nên nói là biết cảnh hy thiểu hay biết cảnh đáo đại; chín quyền có thể là biết cảnh hy thiểu, có thể là biết cảnh đáo đại, có thể là biết cảnh vô lượng, có thể không nên nói là biết cảnh hy thiểu hay biết cảnh đáo đại hay biết cảnh vô lượng.
Chín quyền là trung bình; ưu quyền là ty hạ; ba quyền là tinh lương; ba quyền có thể trung bình, có thể tinh lương; sáu quyền có thể là ty hạ, có thể là trung bình, có thể là tinh lương.
Mười quyền là phi cố định; tri vị tri quyền là cố định phần chánh; bốn quyền có thể là cố định phần chánh, có thể là phi cố định; ưu quyền có thể là cố định phần tà, có thể là phi cố định; sáu quyền có thể là cố định phần tà, có thể là cố định phần chánh, có thể là phi cố định.
Bảy quyền là vô cảnh; bốn quyền không nên nói là có đạo thành cảnh hay có đạo thành nhân hay có đạo thành trưởng; tri vị tri quyền không phải có đạo thành cảnh, có thể có đạo thành nhân, có thể có đạo thành trưởng, có thể không nên nói là có đạo thành nhân hay có đạo thành trưởng; tri dĩ tri quyền không phải có đạo thành cảnh, có thể có đạo thành nhân, có thể có đạo thành trưởng, có thể không nên nói là có đạo thành nhân hay có đạo thành trưởng; chín quyền có thể là có đạo thành cảnh, có thể có đạo thành nhân, có thể có đạo thành trưởng, có thể không nên nói là có đạo thành cảnh hay có đạo thành nhân hay có đạo thành trưởng.
Mười quyền có thể là hiện sanh, có thể là chuẩn sanh, không nên nói là vị sanh; hai quyền có thể là hiện sanh, có thể là vị sanh không nên nói là chuẩn sanh; mười quyền có thể là hiện sanh, có thể là vị sanh, có thể là chuẩn sanh.
(Hai muơi hai quyền) có thể là quá khứ, có thể là vị lai, có thể là hiện tại.
Bảy quyền là vô cảnh; hai quyền là biết cảnh hiện tại; ba quyền không nên nói là biết cảnh quá khứ, hay biết cảnh vị lai, hay biết cảnh hiện tại; mười quyền có thể là biết cảnh quá khứ, có thể là biết cảnh vị lai, có thể là biết cảnh hiện tại, có thể không nên nói là biết cảnh quá khứ hay biết cảnh vị lai hay biết cảnh hiện tại.
(Hai mươi hai quyền) có thể là nội phần, có thể là ngoại phần, có thể là nội ngoại phần.
Bảy quyền là vô cảnh; ba quyền là biết cảnh ngoại phần; bốn quyền có thể là biết cảnh nội phần, có thể là biết cảnh ngoại phần, có thể là biết cảnh nội ngoại phần; tám quyền có thể là biết cảnh nội phần, có thể là biết cảnh ngoại phần, có thể là biết cảnh nội ngoại phần, có thể không nên nói là biết cảnh nội phần hay biết cảnh ngoại phần, hay biết cảnh nội ngoại phần.
Năm quyền là vô kiến hữu đối chiếu; mười bảy quyền là vô kiến vô đối chiếu.
[244] BỐN QUYỀN là nhân[29]; mười tám quyền là phi nhân.
Bảy quyền là hữu nhân; chín quyền là vô nhân; sáu quyền có thể là hữu nhân, có thể là vô nhân.
Bảy quyền là tương ưng nhân; chín quyền là bất tương ưng nhân; sáu quyền có thể là tương ưng nhân, có thể là bất tương ưng nhân.
Bốn quyền là nhân hữu nhân; chín quyền không nên nói là nhân hữu nhân, hay hữu nhân phi nhân; ba quyền không nên nói là nhân hữu nhân nhưng là hữu nhân phi nhân; sáu quyền không nên nói là nhân hữu nhân, có thể là hữu nhân phi nhân, có thể không nên nói là hữu nhân phi nhân.
Bốn quyền là nhân tương ưng nhân; chín quyền không nên nói là nhân tương ưng nhân, hay tương ưng nhân phi nhân; ba quyền không nên nói là nhân tương ưng nhân, nhưng là tương ưng nhân phi nhân; sáu quyền không nên nói là nhân tương ưng nhân, có thể là tương ưng nhân phi nhân, có thể không nên nói là tương ưng nhân phi nhân.
Chín quyền là phi nhân vô nhân; ba quyền là phi nhân hữu nhân; bốn quyền không nên nói là phi nhân hữu nhân hay phi nhân vô nhân; sáu quyền có thể là phi nhân hữu nhân, có thể là phi nhân vô nhân.
[245] (HAI MƯƠI HAI QUYỀN) là hữu duyên, là hữu vi, là vô kiến.
Năm quyền là hữu đối chiếu; mười bảy quyền là vô đối chiếu.
Bảy quyền là sắc; mười bốn quyền là phi sắc; mạng quyền có thể là sắc, có thể là phi sắc.
Mười quyền là hiệp thế; ba quyền là siêu thế; chín quyền có thể là hiệp thế, có thể là siêu thế.
(Hai mươi hai quyền) có phần đáng bị biết, có phần không đáng bị biết.
[246] (HAI MƯƠI HAI QUYỀN) là phi lậu[30].
Mười quyền là cảnh lậu; ba quyền là phi cảnh lậu; chín quyền có thể là cảnh lậu, có thể là phi cảnh lậu.
Mười lăm quyền là bất tương ưng lậu; ưu quyền là tương ưng lậu; sáu quyền có thể là tương ưng lậu, có thể là bất tương ưng lậu.
Mười quyền không nên nói là lậu cảnh lậu, nhưng là cảnh lậu phi lậu; ba quyền không nên nói là lậu cảnh lậu hay cảnh lậu phi lậu; chín quyền không nên nói là lậu cảnh lậu, có thể là cảnh lậu phi lậu, có thể không nên nói là cảnh lậu phi lậu.
Mười lăm quyền không nên nói là lậu tương ưng lậu hay tương ưng lậu phi lậu; ưu quyền không nên nói là lậu tương ưng lậu, nhưng là tương ưng lậu phi lậu; sáu quyền không nên nói là lậu tương ưng lậu, có thể là tương ưng lậu phi lậu, có thể không nên nói là tương ưng lậu phi lậu.
Chín quyền là bất tương ưng lậu cảnh lậu; ba quyền là bất tương ưng lậu phi cảnh lậu; ưu quyền không nên nói là bất tương ưng lậu cảnh lậu hay bất tương ưng lậu phi cảnh lậu; ba quyền có thể là bất tương ưng lậu cảnh lậu, có thể là bất tương ưng lậu phi cảnh lậu, có thể không nên nói là bất tương ưng lậu cảnh lậu hay bất tương ưng lậu phi cảnh lậu.
[247] (HAI MƯƠI HAI QUYỀN) là phi triền[31].
Mười quyền là cảnh triền; ba quyền là phi cảnh triền; chín quyền có thể là cảnh triền, có thể là phi cảnh triền.
Mười lăm quyền là bất tương ưng triền; ưu quyền là tương ưng triền; sáu quyền có thể là tương ưng triền, có thể là bất tương ưng triền.
Mười quyền không nên nói là triền cảnh triền, nhưng là cảnh triền phi triền; ba quyền không nên nói là triền cảnh triền hay cảnh triền phi triền; chín quyền không nên nói là triền cảnh triền, có thể là cảnh triền phi triền, có thể không nên nói là cảnh triền phi triền.
Mười lăm quyền không nên nói là triền tương ưng triền hay tương ưng triền phi triền; ưu quyền không nên nói là triền tương ưng triền, nhưng là tương ưng triền phi triền; sáu quyền không nên nói là triền tương ưng triền, có thể là tương ưng triền phi triền, có thể không nên nói là tương ưng triền phi triền.
Chín quyền là bất tương ưng triền cảnh triền; ba quyền là bất tương ưng triền phi cảnh triền; ưu quyền không nên nói là bất tương ưng triền cảnh triền hay bất tương ưng triền phi cảnh triền; ba quyền có thể là bất tương ưng triền cảnh triền, có thể là bất tương ưng triền phi cảnh triền, sáu quyền có thể là bất tương ưng triền, phi cảnh triền, có thể không nên nói là bất tương ưng triền cảnh triền hay bất tương ưng triền phi cảnh triền.
[248] (HAI MƯƠI HAI QUYỀN) là phi phược[32].
Mười quyền là cảnh phược; ba quyền là phi cảnh phược; chín quyền có thể là cảnh phược, có thể là phi cảnh phược.
Mười lăm quyền là bất tương ưng phược; ưu quyền là tương ưng phược; sáu quyền có thể là tương ưng phược, có thể là bất tương ưng phược.
Mười quyền không nên nói là phược cảnh phược, nhưng là cảnh phược phi phược; ba quyền không nên nói là phược cảnh phược hay cảnh phược phi phược; chín quyền không nên nói là phược cảnh phược, có thể là cảnh phược phi phược, có thể không nên nói là cảnh phược phi phược.
Mười lăm quyền không nên nói là phược tương ưng phược hay tương ưng phược phi phược; ưu quyền không nên nói là phược tương ưng phược, nhưng là tương ưng phược phi phược; sáu quyền không nên nói là phược tương ưng phược, có thể là tương ưng phược phi phược, có thể không nên nói là tương ưng phược phi phược.
Chín quyền là bất tương ưng phược cảnh phược; ba quyền là bất tương ưng phược phi cảnh phược; ưu quyền không nên nói là bất tương ưng phược cảnh phược hay bất tương ưng phược phi cảnh phược; ba quyền có thể là bất tương ưng phược cảnh phược, có thể là bất tương ưng phược phi cảnh phược, sáu quyền có thể là bất tương ưng phược cảnh phược, có thể là bất tương ưng phược phi cảnh phược, có thể không nên nói là bất tương ưng phược cảnh phược hay bất tương ưng phược phi cảnh phược.
[249] (HAI MƯỜI HAI QUYỀN) là phi bộc[33]… (trùng)… là phi phối[34]… (trùng)… là phi cái[35]… (trùng)…
Mười quyền là cảnh cái; ba quyền là phi cảnh cái; chín quyền có thể là cảnh cái, có thể là phi cảnh cái.
Mười lăm quyền là bất tương ưng cái; ưu quyền là tương ưng cái; sáu quyền có thể là tương ưng cái, có thể là bất tương ưng cái.
Mười quyền không nên nói là cái cảnh cái, nhưng là cảnh cái phi cái; ba quyền không nên nói là cái cảnh cái hay cảnh cái phi cái; chín quyền không nên nói là cái cảnh cái, có thể là cảnh cái phi cái, có thể nói là cảnh cái phi cái.
Mười bốn quyền không nên nói là cái tương ưng cái hay tương ưng cái phi cái; ưu quyền không nên nói là cái tương ưng cái, hay là tương ưng cái phi cái; sáu quyền không nên nói là cái tương ưng cái, có thể là tương ưng cái phi cái, có thể không nên nói là tương ưng cái phi cái.
Chín quyền là bất tương ưng cái cảnh cái; ba quyền là bất tương ưng cái phi cảnh cái; ưu quyền không nên nói là bất tương ưng cái cảnh cái hay bất tương ưng cái phi cảnh cái; ba quyền có thể là bất tương ưng cái cảnh cái, có thể là bất tương ưng cái phi cảnh cái, sáu quyền có thể là bất tương ưng cái cảnh cái, có thể là bất tương ưng cái phi cảnh cái, có thể không nên nói là bất tương ưng cái cảnh cái hay bất tương ưng cái phi cảnh cái.
[250] (HAI MƯƠI HAI QUYỀN) là phi khinh thị[36].
Mười quyền là cảnh khinh thị; ba quyền là phi cảnh khinh thị; chín quyền có thể là cảnh khinh thị, có thể là phi cảnh khinh thị.
Mười sáu quyền là bất tương ưng khinh thị; sáu quyền có thể là tương ưng khinh thị, có thể là bất tương ưng khinh thị.
Mười quyền không nên nói là khinh thị cảnh khinh thị, nhưng là cảnh khinh thị phi khinh thị; ba quyền không nên nói là khinh thị cảnh khinh thị hay cảnh khinh thị phi khinh thị; chín quyền không nên nói là khinh thị cảnh khinh thị, có thể là cảnh khinh thị phi khinh thị, có thể không nên nói là cảnh khinh thị phi khinh thị.
Mười quyền là bất tương ưng khinh thị cảnh khinh thị; ba quyền là bất tương ưng khinh thị phi cảnh khinh thị; ba quyền có thể là bất tương ưng khinh thị cảnh khinh thị, có thể là bất tương ưng khinh thị phi cảnh khinh thị; sáu quyền có thể là bất tương ưng khinh thị cảnh khinh thị, có thể là bất tương ưng khinh thị phi cảnh khinh thị, có thể không nên nói là bất tương ưng khinh thị cảnh khinh thị hay bất tương ưng khinh thị phi cảnh khinh thị.
[251] BẢY QUYỀN là bất tri cảnh[37]; mười bốn quyền là hữu tri cảnh; mạng quyền có thể là hữu tri cảnh, có thể là bất tri cảnh.
Hai mươi mốt quyền là phi tâm; ý quyền là tâm.
Mười ba quyền là sở hữu tâm; tám quyền là phi sở hữu tâm; mạng quyền có thể là sở hữu tâm, có thể là phi sở hữu tâm.
Mười ba quyền là tương ưng tâm; bảy quyền là bất tương ưng tâm; mạng quyền có thể là tương ưng tâm, có thể là bất tương ưng tâm; ý quyền không nên nói là tương ưng tâm hay bất tương ưng tâm.
Mười ba quyền là hòa với tâm; bảy quyền là phi hòa với tâm; mạng quyền có thể là hòa với tâm, có thể là phi hòa với tâm; ý quyền không nên nói là hòa với tâm hay phi hòa với tâm.
Mười ba quyền là tâm sở sanh; tám quyền là phi tâm sở sanh; mạng quyền có thể là tâm sở sanh, có thể là phi tâm sở sanh.
Mười ba quyền là đồng hiện hữu với tâm; tám quyền là phi đồng hiện hữu với tâm; mạng quyền có thể là đồng hiện hữu với tâm, có thể là phi đồng hiện hữu với tâm.
Mười ba quyền là tùy chuyển với tâm; tám quyền là phi tùy chuyển với tâm; mạng quyền có thể là tùy chuyển với tâm, có thể là phi tùy chuyển với tâm.
Mười ba quyền là hòa tâm tâm sở sanh; tám quyền là phi hòa tâm tâm sở sanh; mạng quyền có thể là hòa tâm tâm sở sanh, có thể là phi hòa tâm tâm sở sanh.
Mười ba quyền là hòa tâm tâm sở sanh đồng hiện hữu với tâm; tám quyền là phi hòa tâm tâm sở sanh đồng hiện hữu với tâm; mạng quyền có thể là hòa tâm tâm sở sanh đồng hiện hữu với tâm, có thể là phi hòa tâm tâm sở sanh đồng hiện hữu với tâm.
Mười ba quyền là hòa tâm tâm sở sanh tùy chuyển với tâm; tám quyền là phi hòa tâm tâm sở sanh tùy chuyển với tâm; mạng quyền có thể là hòa tâm tâm sở sanh tùy chuyển với tâm, có thể là phi hòa tâm tâm sở sanh tùy chuyển với tâm.
Mười sáu quyền là ngoại phần; sáu quyền là nội phần.
Bảy quyền là y sinh, mười bốn quyền là phi y sinh, mạng quyền có thể là y sinh, có thể là phi y sinh.
Chín quyền là do thủ; bốn quyền là phi do thủ; chín quyền có thể là do thủ, có thể là phi do thủ.
[252] (HAI MƯƠI HAI QUYỀN) là phi thủ[38].
Mười quyền là cảnh thủ; ba quyền là phi cảnh thủ; chín quyền có thể là cảnh thủ, có thể là phi cảnh thủ.
Mười sáu quyền là bất tương ưng thủ; sáu quyền có thể là tương ưng thủ, có thể là bất tương ưng thủ.
Mười quyền không nên nói là thủ cảnh thủ, nhưng là cảnh thủ phi thủ; ba quyền không nên nói là thủ cảnh thủ hay cảnh thủ phi thủ; chín quyền không nên nói là thủ cảnh thủ, có thể là cảnh thủ phi thủ, có thể không nên nói là cảnh thủ phi thủ.
Mười sáu quyền không nên nói là thủ tương ưng thủ hay tương ưng thủ mà phi thủ; sáu quyền không nên nói là thủ tương ưng thủ, có thể là tương ưng thủ phi thủ, có thể không nên nói là tương ưng thủ phi thủ.
Mười quyền là bất tương ưng thủ cảnh thủ; ba quyền là bất tương ưng thủ phi cảnh thủ; ba quyền có thể là bất tương ưng thủ cảnh thủ, có thể là bất tương ưng thủ phi cảnh thủ; sáu quyền có thể là bất tương ưng thủ cảnh thủ, có thể là bất tương ưng thủ phi cảnh thủ, có thể không nên nói là bất tương ưng thủ cảnh thủ hay bất tương ưng thủ phi cảnh thủ.
[253] (HAI MƯƠI HAI QUYỀN) là phi phiền não[39].
Mười quyền là cảnh phiền não; ba quyền là phi cảnh phiền não; chín quyền có thể là cảnh phiền não, có thể là phi cảnh phiền não.
Mười lăm quyền là phi phiền toái; ưu quyền là phiền toái; sáu quyền có thể là phiền toái, có thể là phi phiền toái.
Mười lăm quyền là bất tương ưng phiền não; ưu quyền là tương ưng phiền não; sáu quyền có thể là tương ưng phiền não, có thể là bất tương ưng phiền não.
Mười quyền không nên nói là phiền não cảnh phiền não, nhưng là cảnh phiền não phi phiền não; ba quyền không nên nói là phiền não cảnh phiền não hay cảnh phiền não phi phiền não; chín quyền không nên nói là phiền não cảnh phiền não, có thể là cảnh phiền não phi phiền não, có thể không nên nói là cảnh phiền não phi phiền não.
Mười lăm quyền không nên nói là phiền não phiền toái hay phiền toái phi phiền não; ưu quyền không nên nói là phiền não phiền toái, nhưng là phiền toái phi phiền não; sáu quyền không nên nói là phiền não phiền toái, nhưng có thể là phiền toái phi phiền não, có thể không nên nói là phiền toái phi phiền não.
Mười lăm quyền không nên nói là phiền não tương ưng phiền não hay tương ưng phiền não phi phiền não; ưu quyền không nên nói là phiền não tương ưng phiền não, nhưng là tương ưng phiền não phi phiền não; sáu quyền không nên nói là phiền não tương ưng phiền não, có thể là tương ưng phiền não phi phiền não, có thể không nên nói là tương ưng phiền não phi phiền não.
Chín quyền là bất tương ưng phiền não cảnh phiền não; ba quyền là bất tương ưng phiền não phi cảnh phiền não; ưu quyền không nên nói là bất tương ưng phiền não cảnh phiền não hay bất tương ưng phiền não phi cảnh phiền não; ba quyền có thể là bất tương ưng phiền não cảnh phiền não, có thể là bất tương ưng phiền não phi cảnh phiền não, sáu quyền có thể là bất tương ưng phiền não cảnh phiền não, có thể là bất tương ưng phiền não phi cảnh phiền não, có thể không nên nói là bất tương ưng phiền não cảnh phiền não hay bất tương ưng phiền não phi cảnh phiền não.
[254] MƯỜI LĂM QUYỀN là không đáng do kiến đạo đoạn trừ[40], bảy quyền có thể là đáng do kiến đạo đoạn trừ, có thể là không đáng do kiến đạo đoạn trừ.
Mười lăm quyền là không đáng do tiến đạo đoạn trừ, bảy quyền có thể là đáng do tiến đạo đoạn trừ, có thể là không đáng do tiến đạo đoạn trừ.
Mười lăm quyền là phi hữu nhân đáng do kiến đạo đoạn trừ, bảy quyền có thể là hữu nhân đáng do kiến đạo đoạn trừ, có thể là phi hữu nhân đáng do kiến đạo đoạn trừ.
Mười lăm quyền là phi hữu nhân đáng do tiến đạo đoạn trừ, bảy quyền có thể là hữu nhân đáng do tiến đạo đoạn trừ, có thể là phi hữu nhân đáng do tiến đạo đoạn trừ.
Chín quyền là vô tầm; ưu quyền là hữu tầm; mười hai quyền có thể là hữu tầm, có thể là vô tầm.
Chín quyền là vô tứ; ưu quyền là hữu tứ; mười hai quyền có thể là hữu tứ, có thể là vô tứ.
Mười một quyền là vô hỷ; mười một quyền có thể là hữu hỷ, có thể là vô hỷ.
Mười một quyền là phi câu hành hỷ; mười một quyền có thể là câu hành hỷ, có thể là phi câu hành hỷ.
Mười hai quyền là phi câu hành lạc; mười quyền có thể là câu hành lạc, có thể là phi câu hành lạc.
Mười hai quyền là phi câu hành xả; mười quyền có thể là câu hành xả, có thể là phi câu hành xả.
Mười quyền là dục giới; ba quyền là phi dục giới; chín quyền có thể là dục giới, có thể là phi dục giới.
Mười ba quyền là phi sắc giới; chín quyền có thể là sắc giới, có thể là phi sắc giới.
Mười bốn quyền là phi vô sắc giới; tám quyền có thể là vô sắc giới, có thể là phi vô sắc giới.
Mười quyền là hệ thuộc[41]; ba quyền là phi hệ thuộc[42]; chín quyền có thể là hệ thuộc, có thể là phi hệ thuộc.
Mười một quyền là phi dẫn xuất; tri vị tri quyền là dẫn xuất; mười quyền có thể là dẫn xuất, có thể là phi dẫn xuất.
Mười quyền là phi cố định; tri vị tri quyền là cố định; mười một quyền có thể là cố định, có thể là phi cố định.
Mười quyền là hữu thượng; ba quyền là vô thượng; chín quyền có thể là hữu thượng, có thể là vô thượng.
Mười lăm quyền là vô tranh; ưu quyền là hữu tranh; sáu quyền có thể là hữu tranh, có thể là vô tranh.
DỨT PHẦN VẤN ÐÁP
DỨT TRỌN VẸN QUYỀN PHÂN TÍCH
[1] Cakkhindriya.
[2] Xem Pháp Tụ, bài 516.
[3] Sotindriya.
[4] Ghanindriya.
[5] Jivhindriya.
[6] Kāyindriya.
[7] Manindriya.
[8] Xem Pháp Tụ, hay xem bài 74.
[9] Itthindriya.
[10] Purisindriya.
[11] Jīvitindriya.
[12] Rūpajīvitindriya.
[13] Mạng quyền sắc, tức là sắc pháp mạng quyền, duy trì sắc pháp.
[14] Arūpajīvitindriya
[15] Mạng quyền phi sắc, tức là tâm sở mạng quyền, duy trì danh pháp (cũng gọi là danh mạng quyền).
[16] Sukhindriya.
[17] Dukkhindriya.
[18] Somanassindriya.
[19] Domanassindriya.
[20] Upekkhindriya.
[21] Saddhindriya.
[22] Viriyindriya.
[23] Satindriya.
[24] Samādhindriya.
[25] Paññidriya.
[26] Anaññataññassāmītindriya.
[27] Aññindriya.
[28] Aññātāvindriya..
[29] Nhân (hetu). Phần Tụ nhân (hetugocchaka).
[30] Lậu (āsava). Phần tụ lậu (āsavagocchaka).
[31] Triền (saññojana). Phần Tụ triền (saññojanagocchaka).
[32] Phược (gantha). Phần tụ phược (ganthagocchaka).
[33] Bộc (ogha). Tụ bộc (Oghagocchaka).
[34] Phối (Yoga). Tụ phối (Yogagocchaka).
[35] Cái (Nīvarana). Tụ cái (Nīvaranagocchaka).
[36] Khinh thị (parāmāsa). Tụ khinh thị (parāmāsagocchaka).
[37] Phần nhị đề Ðại đỉnh (Mahantaraduka).
[38] Phần Tụ Thủ (upādānagocchaka).
[39] Phần Tụ phiền não (kilesagocchaka).
[40] Phần Nhị đề Yêu bối (Piṭṭhīduka).
[41] Hệ thuộc (pariyāpanna) tức Pháp Hiệp thế (lokiyadhammā).
[42] Phi hệ thuộc (a pariyāpanna) tức Pháp Siêu thế (lokuttaradhammā).
DUYÊN KHỞI PHÂN TÍCH (PACCAYĀKĀRAVIBHANGO)
PHÂN TÍCH THEO KINH (Suttantabhājanīyaṃ)
[255] HÀNH có do duyên vô minh, thức có do duyên hành, danh sắc có do duyên thức, lục nhập có do duyên danh sắc, xúc có do duyên lục nhập, thọ có do duyên xúc, ái có do duyên thọ, thủ có do duyên ái, hữu có do duyên thủ, sanh có do duyên hữu, lão tử sầu bi khổ ưu ai có do duyên sanh; như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy.
[256] Ở ÐÂY, VÔ MINH [1] LÀ THẾ NÀO?
Sự không hiểu về khổ, sự không hiểu về khổ tập, sự không hiểu về khổ diệt, sự không hiểu về khổ diệt hành lộ. Ðây gọi là vô minh.
[257] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ HÀNH[2] DO DUYÊN VÔ MINH?
Tức là phúc hành, phi phúc hành, bất động hành, thân hành, khẩu hành, ý hành.
Ở ÐÂY, PHÚC HÀNH[3] LÀ THẾ NÀO?
Tư thiện dục giới, sắc giới tạo bố thí thành, trì giới thành, tu tiến thành. Ðây gọi là phúc hành.
Ở ÐÂY, PHI PHÚC HÀNH[4] LÀ THẾ NÀO?
Tư bất thiện dục giới, đây gọi là phi phúc hành.
Ở ÐÂY, BẤT ÐỘNG HÀNH[5] LÀ THẾ NÀO?
Tư thiện vô sắc giới. Ðây gọi là bất động hành.
Ở ÐÂY, THÂN HÀNH[6] LÀ THẾ NÀO?
Thân cố quyết là thân hành, khẩu cố quyết là khẩu hành[7], ý cố quyết là tâm hành[8].
Ðây gọi là hành do duyên vô minh.
[258] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ THỨC[9] DO DUYÊN HÀNH?
Nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức. Ðây gọi là thức do duyên hành.
[259] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ DANH SẮC[10] DO DUYÊN THỨC?
Có danh, có sắc.
Ở ÐÂY, DANH[11] LÀ THẾ NÀO?
Tức thọ, tưởng, tư, xúc, tác ý. Ðây gọi là danh.
Ở ÐÂY, SẮC[12] LÀ THẾ NÀO?
Tức bốn đại hiển và sắc nương bốn đại hiển. Ðây gọi là sắc.
Như vậy, đây là danh, đây là sắc. Ðây gọi là danh sắc do duyên thức.
[260] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ LỤC NHẬP[13] DO DUYÊN DANH SẮC?
Tức nhãn xứ, nhĩ xứ, tỷ xứ, thiệt xứ, thân xứ, ý xứ. Ðây gọi là lục nhập do duyên danh sắc.
[261] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ XÚC[14] DO DUYÊN LỤC NHẬP?
Tức nhãn xúc, nhĩ xúc, tỷ xúc, thiệt xúc, thân xúc, ý xúc. Ðây gọi là xúc do duyên lục nhập.
[262] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ THỌ[15] DO DUYÊN XÚC?
Tức thọ sanh từ nhãn xúc, thọ sanh từ nhĩ xúc, thọ sanh từ tỷ xúc, thọ sanh từ thiệt xúc, thọ sanh từ thân xúc, thọ sanh từ ý xúc. Ðây gọi là thọ do duyên xúc.
[263] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ ÁI[16] DO DUYÊN THỌ?
Tức sắc ái, thinh ái, khí ái, vị ái, xúc ái, pháp ái. Ðây gọi là ái do duyên thọ.
[264] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ THỦ[17] DO DUYÊN ÁI?
Tức là dục thủ, kiến thủ, giới cấm thủ, ngã chấp thủ. Ðây gọi là thủ do duyên ái.
[265] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ HỮU[18] DO DUYÊN THỦ?
Hữu phân theo hai loại: có nghiệp hữu, có sanh hữu.
Ở ÐÂY, NGHIỆP HỮU[19] LÀ THẾ NÀO?
Tức phúc hành, phi phúc hành, bất động hành. Ðây gọi là nghiệp hữu. Tất cả nghiệp đưa đến hữu là nghiệp hữu.
Ở ÐÂY, SANH HỮU[20] LÀ THẾ NÀO?
Tức là dục hữu, sắc hữu, vô sắc hữu, tưởng hữu, vô tưởng hữu, phi tưởng phi phi tưởng xứ hữu, nhất uẩn hữu, tứ uẩn hữu, ngũ uẩn hữu. Ðây gọi là sanh hữu. Nghiệp hữu nầy là như thế, sanh hữu nầy là như thế, đây gọi là hữu do duyên thủ.
[266] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ SANH[21] DO DUYÊN HỮU?
Ðối với mỗi chúng sanh, có sự kiện sanh ra, sanh khởi, hiện ra, phát ra từ thân hữu tình ấy, hiện khởi các uẩn, thành tựu các xứ. Ðây gọi là sanh do duyên hữu.
[267] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ LÃO TỬ[22] DO DUYÊN SANH?
Có lão, có tử.
Ở ÐÂY, LÃO[23] LÀ THẾ NÀO?
Ðối với mỗi chúng sanh, có sự kiện cũ kỹ, già nua, răng long, tóc bạc, da nhăn, giảm thọ, chín mùi các căn trong thân hữu tình ấy. Ðây gọi là già.
Ở ÐÂY, TỬ[24] LÀ THẾ NÀO?
Ðối với mỗi chúng sanh, từ thân hữu tình ấy có sự chuyển biến, đổi đời hư hoại, tiêu mất, chết, tán vong, quá vãng, tan rã ngũ uẩn, bỏ xác, dứt mạng quyền. Ðây gọi là tử. Lão nầy là như thế, tử nầy là như thế. Ðây gọi là lão tử.
[268] Ở ÐÂY, SẦU[25] LÀ THẾ NÀO?
Tức là sự sầu muộn, sự buồn rầu, thái độ buồn rầu, buồn bực trong lòng, não ruột trong lòng, nội tâm nóng bỏng, ưu tư, bị tên sầu khi gặp nỗi khổ nào đó, khi xẩy đến điều suy vong nào đó như gặp sự suy vong thân quyến, hoặc gặp sự suy vong tài sản, hoặc gặp sự suy vong bệnh tật, hoặc gặp sự suy vong giới hạnh, hay gặp sự suy vong tri kiến. Ðây gọi là sầu.
[269] Ở ÐÂY, BI[26] LÀ THẾ NÀO?
Tức là sự khóc lóc, khóc kể, khóc than, la khóc, thái độ khóc, thái độ than, thái độ la khóc, sự phát ngôn, kể lễ, kêu gào, thút thít, than oán, thái độ than oán, khi gặp nỗi khổ nào đó, khi xẩy đến điều suy vong thân quyến, hoặc gặp suy vong tài sản, hoặc gặp suy vong tật bệnh, hoặc gặp suy vong giới hạnh, hay gặp suy vong tri kiến. Ðây gọi là bi.
[270] Ở ÐÂY, KHỔ[27] LÀ THẾ NÀO?
Tức là sự bất an thuộc về thân, sự đau đớn thuộc về thân, tình trạng cảm thọ bất an đau đớn sanh từ thân xúc, sự cảm giác bất an đau đớn sanh từ thân xúc. Ðây gọi là khổ.
[271] Ở ÐÂY, ƯU[28] LÀ THẾ NÀO?
Tức là sự bất an thuộc về tâm, sự đau đớn thuộc về tâm, tình trạng cảm thọ bất an đau đớn sanh từ tâm xúc, sự cảm giác bất an đau đớn sanh từ tâm xúc. Ðây gọi là ưu.
[272] Ở ÐÂY, AI[29] LÀ THẾ NÀO?
Tức là sự ai bi, thái độ ai bi, sự ai oán, thái độ ai oán khi gặp nỗi khổ nào đó, khi xẩy đến điều suy vong nào đó, như gặp suy vong thân quyến, hoặc gặp suy vong tài sản, hoặc gặp suy vong bệnh tật, hoặc suy vong giới hạnh, hay gặp suy vong tri kiến. Ðây gọi là ai.
[273] NÓI RẰNG: “NHƯ VẬY LÀ SỰ TẬP KHỞI[30] CỦA TOÀN BỘ KHỔ UẨN NẦY”, tức là sự tập trung, sự tựu trung, sự họp chung, sự hiện hành của toàn bộ khổ uẩn nầy có như vậy. Bởi lẽ ấy nên được nói: “NHƯ VẬY LÀ SỰ TẬP KHỞI CỦA TOÀN BỘ KHỔ UẨN NẦY”.
DỨT PHẦN PHÂN THEO KINH
MẪU ÐỀ VI DIỆU PHÁP (Abhidhammamātikā)
PHẦN TỨ ÐỀ DUYÊN KHỞI (Paccayacatukkaṃ)
VÔ MINH CĂN (Avijjāmūlakaṃ)
[274] HÀNH do duyên vô minh, thức[31] do duyên hành, danh[32] do duyên thức, lục nhập do duyên danh, xúc do duyên nhập đệ lục[33], thọ do duyên xúc, ái do duyên thọ, thủ do duyên ái, hữu do duyên thủ, sanh do duyên hữu, lão tử do duyên sanh. Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy.
[275] HÀNH do duyên vô minh, thức do duyên hành, danh do duyên thức, xúc do duyên danh[34], thọ do duyên xúc, ái do duyên thọ, thủ do duyên ái, hữu do duyên thủ, sanh do duyên hữu, lão tử do duyên sanh. Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy.
[276] HÀNH do duyên vô minh, thức do duyên hành, danh sắc do duyên thức, nhập đệ lục do duyên danh sắc, xúc do duyên nhập đệ lục, thọ do duyên xúc, ái do duyên thọ, thủ do duyên ái, hữu do duyên thủ, sanh do duyên hữu, lão tử do duyên sanh. Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy.
[277] HÀNH do duyên vô minh, thức do duyên hành, danh sắc do duyên thức, lục nhập do duyên danh sắc, xúc do duyên lục nhập, thọ do duyên xúc, ái do duyên thọ, thủ do duyên ái, hữu do duyên thủ, sanh do duyên hữu, lão tử do duyên sanh. Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy.
DỨT TỨ ÐỀ DUYÊN KHỞI
PHẦN TỨ ÐỀ NHÂN (Hetucatukkaṃ)
VÔ MINH CĂN (Avijjāmūlakaṃ)
[278] HÀNH DO DUYÊN VÔ MINH, có vô minh làm nhân; thức do duyên hành, có hành làm nhân; danh do duyên thức, có thức làm nhân; nhập đệ lục do duyên danh, có danh làm nhân; xúc do duyên nhập đệ lục, có nhập đệ lục làm nhân; thọ do duyên xúc, có xúc làm nhân; ái do duyên thọ, có thọ làm nhân; thủ do duyên ái, có ái làm nhân; hữu do duyên thủ; sanh do duyên hữu; lão tử do duyên sanh. Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy.
[279] HÀNH DO DUYÊN VÔ MINH, có vô minh làm nhân; thức do duyên hành, có hành làm nhân; danh do duyên thức, có thức làm nhân; xúc do duyên danh, có danh làm nhân; thọ do duyên xúc, có xúc làm nhân; ái do duyên thọ, có thọ làm nhân; thủ do duyên ái, có ái làm nhân; hữu do duyên thủ, có thủ làm nhân; sanh do duyên hữu, có hữu làm nhân; lão tử do duyên sanh, có sanh làm nhân. Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy.
[280] HÀNH DO DUYÊN VÔ MINH, có vô minh làm nhân; thức do duyên hành, có hành làm nhân; danh sắc do duyên thức, có thức làm nhân; nhập đệ lục do duyên danh sắc, có danh sắc làm nhân; xúc do duyên nhập đệ lục, có nhập đệ lục làm nhân; thọ do duyên xúc, có xúc làm nhân; ái do duyên thọ, có thọ làm nhân; thủ do duyên ái, có ái làm nhân; hữu do duyên thủ; sanh do duyên hữu; lão tử do duyên sanh. Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy.
[281] HÀNH DO DUYÊN VÔ MINH, có vô minh làm nhân; thức do duyên hành, có hành làm nhân; danh sắc do duyên thức, có thức làm nhân; lục nhập do duyên danh sắc, có danh sắc làm nhân; xúc do duyên lục nhập, có lục nhập làm nhân; thọ do duyên xúc, có xúc làm nhân; ái do duyên thọ, có thọ làm nhân; thủ do duyên ái, có ái làm nhân; hữu do duyên thủ; sanh do duyên hữu; lão tử do duyên sanh. Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy.
DỨT PHẦN TỨ ÐỀ NHÂN
PHẦN TỨ ÐỀ TƯƠNG ƯNG (Sampayuttacatukkaṃ)
VÔ MINH CĂN (Avijjāmūlakaṃ)
[282] HÀNH DO DUYÊN VÔ MINH, tương ưng vô minh[35]; thức do duyên hành, tương ưng hành; danh do duyên thức, tương ưng thức; nhập đệ lục do duyên danh, tương ưng danh; xúc do duyên nhập đệ lục, tương ưng nhập đệ lục; thọ do duyên xúc, tương ưng xúc; ái do duyên thọ, tương ưng thọ; thủ do duyên ái, tương ưng ái; hữu do duyên thủ[36], tương ưng thủ; sanh do duyên hữu, tương ưng hữu; lão tử do duyên sanh, tương ưng sanh. Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy.
[283] HÀNH DO DUYÊN VÔ MINH, tương ưng vô minh; thức do duyên hành, tương ưng hành; danh do duyên thức, tương ưng thức; xúc do duyên danh, tương ưng danh; thọ do duyên xúc, tương ưng xúc; ái do duyên thọ, tương ưng thọ; thủ do duyên ái, tương ưng ái; hữu do duyên thủ; sanh do duyên hữu; lão tử do duyên sanh. Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy.
[284] HÀNH DO DUYÊN VÔ MINH, tương ưng vô minh; thức do duyên hành, tương ưng hành; danh sắc do duyên thức, danh tương ưng với thức; nhập đệ lục do duyên danh sắc, tương ưng danh; xúc do duyên nhập đệ lục, tương ưng nhập đệ lục; thọ do duyên xúc, tương ưng xúc; ái do duyên thọ, tương ưng thọ; thủ do duyên ái, tương ưng ái; hữu do duyên thủ; sanh do duyên hữu; lão tử do duyên sanh. Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy.
[285] HÀNH DO DUYÊN VÔ MINH, tương ưng vô minh; thức do duyên hành, tương ưng hành; danh sắc do duyên thức, danh tương ưng thức; lục nhập do duyên danh sắc, tương ưng danh; xúc do duyên lục nhập, tương ưng lục nhập; thọ do duyên xúc, tương ưng xúc; ái do duyên thọ, tương ưng thọ; thủ do duyên ái, tương ưng ái; hữu do duyên thủ; sanh do duyên hữu; lão tử do duyên sanh. Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy.
DỨT PHẦN TỨ ÐỀ TƯƠNG ƯNG
PHẦN TỨ ÐỀ HỖ TƯƠNG (Aññamaññacatakaṃ)
VÔ MINH CĂN (Avijjāmūlakaṃ)
[286] HÀNH DO DUYÊN VÔ MINH[37], vô minh cũng do duyên hành; thức do duyên hành, hành cũng do duyên thức; danh do duyên thức, thức cũng do duyên danh; nhập đệ lục do duyên danh, danh cũng do duyên nhập đệ lục; xúc do duyên nhập đệ lục, nhập đệ lục cũng do duyên xúc; thọ do duyên xúc, xúc cũng do duyên thọ; ái do duyên thọ, thọ cũng do duyên ái; thủ do duyên ái, ái cũng do duyên thủ; hữu do duyên thủ; sanh do duyên hữu; lão tử do duyên sanh. Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy.
[287] HÀNH DO DUYÊN VÔ MINH, vô minh cũng do duyên hành; thức do duyên hành, hành cũng do duyên thức; danh do duyên thức, thức cũng do duyên danh; xúc do duyên danh, danh cũng do duyên xúc; thọ do duyên xúc, xúc cũng do duyên thọ; ái do duyên thọ, thọ cũng do duyên ái; thủ do duyên ái, ái cũng do duyên thủ; hữu do duyên thủ; sanh do duyên hữu; lão tử do duyên sanh. Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy.
[288] HÀNH DO DUYÊN VÔ MINH, vô minh cũng do duyên hành; thức do duyên hành, hành cũng do duyên thức; danh sắc do duyên thức, thức cũng do duyên danh sắc; nhập đệ lục do duyên danh sắc, danh sắc cũng do duyên nhập đệ lục; xúc do duyên nhập đệ lục, nhập đệ lục cũng do duyên xúc; thọ do duyên xúc, xúc cũng do duyên thọ; ái do duyên thọ, thọ cũng do duyên ái; thủ do duyên ái, ái cũng do duyên thủ; hữu do duyên thủ; sanh do duyên hữu; lão tử do duyên sanh. Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy.
[289] HÀNH DO DUYÊN VÔ MINH, vô minh cũng do duyên hành; thức do duyên hành, hành cũng do duyên thức; danh sắc do duyên thức, thức cũng do duyên danh sắc; lục nhập do duyên danh sắc, danh sắc cũng do duyên lục nhập; xúc do duyên lục nhập, lục nhập cũng do duyên xúc; thọ do duyên xúc, xúc cũng do duyên thọ; ái do duyên thọ, thọ cũng do duyên ái; thủ do duyên ái, ái cũng do duyên thủ; hữu do duyên thủ; sanh do duyên hữu; lão tử do duyên sanh. Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy.
DỨT PHẦN TỨ ÐỀ HỖ TƯƠNG
TÁM PHẦN TỨ ÐỀ (Aṭṭhakacatukkaṃ)
(HÀNH CĂN v.v…)
[290] VÔ MINH DO DUYÊN HÀNH… (trùng)… vô minh do duyên thức… (trùng)… vô minh do duyên danh… (trùng)… vô minh do duyên nhập đệ lục… (trùng)… vô minh do duyên xúc… (trùng)… vô minh do duyên thọ… (trùng)… vô minh do duyên ái… (trùng)… vô minh do duyên thủ… (trùng)… hành do duyên vô minh; thức do duyên hành, danh sắc do duyên thức, lục nhập do duyên danh sắc, xúc do duyên lục nhập, thọ do duyên xúc, ái do duyên thọ, thủ do duyên ái, hữu do duyên thủ, sanh do duyên hữu, lão tử do duyên sanh. Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy.
DỨT PHẦN MẪU ÐỀ
PHẦN THEO VI DIỆU PHÁP (ABHIDHAMMABHĀJANĪYAṂ)
XIỂN MINH BẤT THIỆN (Akusalaniddeso)
MƯỜI HAI TÂM BẤT THIỆN
TÂM BẤT THIỆN THỨ NHẤT
(PHẦN TỨ ÐỀ DUYÊN KHỞI – PACCAYACATUKKA)
[291] THẾ NÀO LÀ CÁC PHÁP BẤT THIỆN?
Khi nào tâm bất thiện sanh khởi câu hành hỷ, tương ưng tà kiến, bắt cảnh sắc hoặc cảnh thinh, hoặc cảnh khí, hoặc cảnh vị, hoặc cảnh xúc, hoặc cảnh pháp, hay cảnh chi chi; trong khi ấy có hành do duyên vô minh, có thức do duyên hành, có danh do duyên thức, có lục nhập do duyên danh, có xúc do duyên nhập đệ lục, có thọ do duyên xúc, có ái do duyên thọ, có thủ do duyên ái, có hữu do duyên thủ, có sanh do duyên hữu, có lão tử do duyên sanh. Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy.
[292] Ở ÐÂY, VÔ MINH LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự không biết, không thấy… (trùng)… vô minh như then chốt, si là căn bất thiện. Ðây gọi là vô minh.
[293] Ở ÐÂY, HÀNH DO DUYÊN VÔ MINH LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự tính toán, sự cố quyết, thái độ cố quyết. Ðây gọi là hành do duyên vô minh.
[294] Ở ÐÂY, THỨC DO DUYÊN HÀNH LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là tâm, ý, tâm địa, tâm tạng, bạch tịnh, ý, ý xứ, ý quyền, thức, thức uẩn, ý thức giới sanh từ đó. Ðây gọi là thức do duyên hành.
[295] Ở ÐÂY, DANH DO DUYÊN THỨC LÀ THẾ NÀO?
Tức thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn. Ðây gọi là danh do duyên thức.
[296] Ở ÐÂY, NHẬP ÐỆ LỤC DO DUYÊN DANH LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là tâm, ý, tâm địa, tâm tạng, bạch tịnh, ý, ý xứ, ý quyền, thức, thức uẩn, ý thức giới sanh từ đó. Ðây gọi là nhập đệ lục do duyên danh.
[297] Ở ÐÂY, XÚC DO DUYÊN NHẬP ÐỆ LỤC LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự đụng chạm, sự va chạm, sự đối xúc, tình trạng đối xúc. Ðây gọi là xúc do duyên nhập đệ lục.
[298] Ở ÐÂY, THỌ DO DUYÊN XÚC LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự sảng khoái thuộc về tâm, sự dễ chịu thuộc về tâm, trạng thái cảm thọ sãng khoái dễ chịu sanh từ tâm xúc, sự cảm giác sãng khoái dễ chịu sanh từ tâm xúc. Ðây gọi là thọ do duyên xúc.
[299] Ở ÐÂY, ÁI DO DUYÊN THỌ LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự tham luyến, tham đắm, vương vấn, thỏa thích, vui thích, hoan lạc, sự tham đắm của tâm. Ðây gọi là ái do duyên thọ.
[300] Ở ÐÂY, THỦ DO DUYÊN ÁI LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là kiến, thiên kiến… (trùng)… ngoại đạo xứ, nghịch chấp. Ðây gọi là thủ do duyên ái.
[301] Ở ÐÂY, HỮU DO DUYÊN THỦ LÀ THẾ NÀO?
Tức là thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn, trừ ra thủ. Ðây gọi là hữu do duyên thủ.
[302] Ở ÐÂY, SANH DO DUYÊN HỮU LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự sanh, sự sanh ra, sự xuất hiện, sự phát khởi, sự hiện khởi của những pháp ấy. Ðây gọi là sanh do duyên hữu.
[303] Ở ÐÂY, LÃO TỬ DO DUYÊN SANH LÀ THẾ NÀO?
Tức là có lão, có tử.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ LÃO?
Cái chi là sự già nua, sự cũ kỹ, sự giảm thọ của các pháp ấy. Ðây gọi là già.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ TỬ?
Cái chi là sự hoại tận, sự biến hoại, sự tiêu tán, sự phân tán, tình trạng vô thường, sự biến mất của các pháp ấy. Ðây gọi là tử. Lão nầy và tử nầy là như thế. Ðây gọi là lão tử do duyên sanh.
[304] NÓI RẰNG “NHƯ VẬY LÀ TẬP KHỞI CỦA TOÀN BỘ KHỔ UẨN NẦY”. Tức là sự tập trung, sự tựu trung, sự họp chung, sự hiện hành của toàn bộ khổ uẩn nầy có như vậy. Bởi lẽ ấy nên được nói rằng: “NHƯ VẬY LÀ TẬP KHỞI CỦA TOÀN BỘ KHỔ UẨN NẦY”.
[305] Trong khi ấy có hành do duyên vô minh, có thức do duyên hành, có danh do duyên thức, có xúc do duyên danh, có thọ do duyên xúc, có ái do duyên thọ, có thủ do duyên ái, có hữu do duyên thủ, có sanh do duyên hữu, có lão tử do duyên sanh. Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy.
[306] Ở ÐÂY, VÔ MINH LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự không biết, không thấy… (trùng)… vô minh như then chốt, si là căn bất thiện. Ðây gọi là vô minh.
Ở ÐÂY, HÀNH DO DUYÊN VÔ MINH LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự tính toán, sự cố quyết, thái độ cố quyết. Ðây gọi là hành do duyên vô minh.
Ở ÐÂY, THỨC DO DUYÊN HÀNH LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là tâm, ý, tâm địa… (trùng)… ý thức giới sanh từ đó. Ðây gọi là thức do duyên hành.
Ở ÐÂY, DANH DO DUYÊN THỨC LÀ THẾ NÀO?
Tức thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn. Ðây gọi là danh do duyên thức.
NÓI RẰNG: “XÚC DO DUYÊN DANH”. Ở ÐÂY DANH LÀ THẾ NÀO?
Tức thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn trừ ra xúc. Ðây gọi là danh.
Ở ÐÂY, XÚC DO DUYÊN DANH LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự đụng chạm, sự va chạm, sự đối xúc, tình trạng đối xúc. Ðây gọi là xúc do duyên danh… (trùng)… bởi lẽ ấy được nói rằng: “Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy”.
[307] TRONG KHI ẤY có hành do duyên vô minh, có thức do duyên hành, có danh sắc do duyên thức, có nhập đệ lục do duyên danh sắc, có xúc do duyên nhập đệ lục, có thọ do duyên xúc, có ái do duyên thọ, có thủ do duyên ái, có hữu do duyên thủ, có sanh do duyên hữu, có lão tử do duyên sanh. Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy.
[308] Ở ÐÂY, VÔ MINH LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự không biết, không thấy… (trùng)… vô minh như then chốt, si là căn bất thiện. Ðây gọi là vô minh.
Ở ÐÂY, HÀNH DO DUYÊN VÔ MINH LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự tính toán, sự cố quyết, thái độ cố quyết. Ðây gọi là hành do duyên vô minh.
Ở ÐÂY, THỨC DO DUYÊN HÀNH LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là tâm, ý, tâm địa… (trùng)… ý thức giới sanh từ đó. Ðây gọi là thức do duyên hành.
Ở ÐÂY, DANH SẮC DO DUYÊN THỨC LÀ THẾ NÀO?
Tức là có danh, có sắc. Ở đây, thế nào là danh? Thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn; đây gọi là danh. Ở đây, thế nào là sắc? Sự tích tập của nhãn xứ, sự tích tập của nhĩ xứ, sự tích tập của tỷ xứ, sự tích tập của thiệt xứ, sự tích tập của thân xứ hoặc có sắc nào khác sanh từ tâm, có tâm là nhân, có tâm làm sở sanh; đây gọi là sắc. Danh nầy và sắc nầy là như thế. Ðây gọi là danh sắc do duyên thức.
NÓI RẰNG: “NHẬP ÐỆ LỤC DO DUYÊN DANH SẮC”
Tức là có danh có sắc. Ở đây, thế nào là danh? Thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn. Ở đây, thế nào là sắc? Tức là sắc nào mà ý thức giới nương vào tồn tại. Ðây gọi là sắc. Danh nầy và sắc nầy là như thế. Ðây gọi là danh sắc.
Ở ÐÂY, NHẬP ÐỆ LỤC DO DUYÊN DANH SẮC LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là tâm, ý, tâm địa… (trùng)… ý thức giới sanh từ đó. Ðây gọi là nhập đệ lục do duyên danh sắc.
Ở ÐÂY, XÚC DO DUYÊN NHẬP ÐỆ LỤC LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự đụng chạm, sự va chạm, sự đối xúc, tình trạng đối xúc. Ðây gọi là xúc do duyên nhập đệ lục… (trùng)… bởi lẽ ấy được nói rằng: “Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy”.
[309] TRONG KHI ẤY có hành do duyên vô minh, có thức do duyên hành, có danh sắc do duyên thức, có lục nhập do duyên danh sắc, có xúc do duyên lục nhập, có thọ do duyên xúc, có ái do duyên thọ, có thủ do duyên ái, có hữu do duyên thủ, có sanh do duyên hữu, có lão tử do duyên sanh. Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy.
[310] Ở ÐÂY, VÔ MINH LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự không biết, không thấy… (trùng)… vô minh như then chốt, si là căn bất thiện. Ðây gọi là vô minh.
Ở ÐÂY, HÀNH DO DUYÊN VÔ MINH LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự tính toán, sự cố quyết, thái độ cố quyết. Ðây gọi là hành do duyên vô minh.
Ở ÐÂY, THỨC DO DUYÊN HÀNH LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là tâm, ý, tâm địa… (trùng)… ý thức giới sanh từ đó. Ðây gọi là thức do duyên hành.
Ở ÐÂY, DANH SẮC DO DUYÊN THỨC LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là có danh, có sắc. Ở đây, thế nào là danh? Thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn. Ðây gọi là danh. Ở đây, thế nào là sắc? Sự tích tập của nhãn xứ… (trùng)… sự tích tập của thân xứ, hoặc có sắc nào khác sanh từ tâm, có tâm làm nhân, có tâm làm sở sanh. Ðây gọi là sắc. Danh nầy và sắc nầy là như thế. Ðây gọi là danh sắc do duyên thức.
NÓI RẰNG: “LỤC NHẬP DO DUYÊN DANH SẮC”
Tức là có danh có sắc. Ở đây, thế nào là danh? Thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn; đây gọi là danh. Ở đây, thế nào là sắc? Bốn đại hiển và sắc nào mà ý thức giới nương vào tồn tại; đây gọi là sắc. Danh nầy và sắc nầy là như thế. Ðây gọi là danh sắc.
Ở ÐÂY, LỤC NHẬP DO DUYÊN DANH SẮC LÀ THẾ NÀO?
Tức là nhãn xứ, nhĩ xứ, tỷ xứ, thiệt xứ, thân xứ, ý xứ. Ðây gọi là lục nhập do duyên danh sắc.
Ở ÐÂY, XÚC DO DUYÊN LỤC NHẬP LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự đụng chạm, sự va chạm, sự đối xúc, tình trạng đối xúc. Ðây gọi là xúc do duyên lục nhập… (trùng)… bởi lẽ ấy được nói rằng: “Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy”.
DỨT PHẦN TỨ ÐỀ DUYÊN KHỞI
PHẦN TỨ ÐỀ NHÂN (Hetucatukkaṃ)
[311] TRONG KHI ẤY, hành do duyên vô minh có vô minh làm nhân; thức do duyên hành có hành làm nhân, danh do duyên thức có thức làm nhân, nhập đệ lục do duyên danh có danh làm nhân, xúc do duyên nhập đệ lục có nhập đệ lục làm nhân, thọ do duyên xúc có xúc làm nhân, ái do duyên tho có thọ làm nhân, thủ do duyên ái có ái làm nhân, hữu do duyên thủ, sanh do duyên hữu, lão tử do duyên sanh. Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy.
[312] Ở ÐÂY, VÔ MINH LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự không biết, không thấy… (trùng)… vô minh như then chốt, si là căn bất thiện. Ðây gọi là vô minh.
Ở ÐÂY, HÀNH DO DUYÊN VÔ MINH CÓ VÔ MINH LÀM NHÂN NHƯ THẾ NÀO?
Cái chi là sự tính toán, sự cố quyết, thái độ cố quyết. Ðây gọi là hành do duyên vô minh có vô minh làm nhân.
Ở ÐÂY, THỨC DO DUYÊN HÀNH CÓ HÀNH LÀM NHÂN NHƯ THẾ NÀO?
Cái chi là tâm, ý, tâm địa… (trùng)… ý thức giới sanh từ đó. Ðây gọi là thức do duyên hành có hành làm nhân.
Ở ÐÂY, DANH DO DUYÊN THỨC CÓ THỨC LÀM NHÂN LÀ THẾ NÀO?
Tức thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn. Ðây gọi là danh do duyên thức có thức làm nhân.
Ở ÐÂY, NHẬP ÐỆ LỤC DO DUYÊN DANH CÓ DANH LÀM NHÂN LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là tâm, ý, tâm địa… (trùng)… ý thức giới sanh từ đó. Ðây gọi là nhập đệ lục do duyên danh có danh làm nhân.
Ở ÐÂY, XÚC DO DUYÊN NHẬP ÐỆ LỤC CÓ NHẬP ÐỆ LỤC LÀM NHÂN LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự đụng chạm, sự va chạm, sự đối xúc, tình trạng đối xúc. Ðây gọi là xúc do duyên nhập đệ lục có nhập đệ lục làm nhân.
Ở ÐÂY, THỌ DO DUYÊN XÚC CÓ XÚC LÀM NHÂN LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự sảng khoái thuộc về tâm, sự dễ chịu thuộc về tâm, trạng thái cảm thọ sãng khoái dễ chịu sanh từ tâm xúc, sự cảm giác sãng khoái dễ chịu sanh từ tâm xúc. Ðây gọi là thọ do duyên xúc có xúc làm nhân.
Ở ÐÂY, ÁI DO DUYÊN THỌ CÓ THỌ LÀM NHÂN LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự tham luyến, tham đắm… (trùng)… sự tham đắm của tâm. Ðây gọi là ái do duyên thọ có thọ làm nhân.
Ở ÐÂY, THỦ DO DUYÊN ÁI CÓ ÁI LÀM NHÂN LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là kiến, thiên kiến, kiến chấp, kiến trù lâm, kiến hý luận, kiến tranh chấp, kiến triền, chấp trước, cố chấp, thiên chấp, khinh thị, sái đường, tà đạo, tà tánh, ngoại đạo xứ, nghịch chấp. Ðây gọi là thủ do duyên ái có ái làm nhân… (trùng)… bởi lẽ ấy được nói rằng: “Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy”.
[313] TRONG KHI ẤY, hành do duyên vô minh có vô minh làm nhân, thức do duyên hành có hành làm nhân, danh do duyên thức có thức làm nhân, xúc do duyên danh có danh làm nhân, thọ do duyên xúc có xúc làm nhân, ái do duyên thọ có thọ làm nhân, thủ do duyên ái có ái làm nhân, hữu do duyên thủ, sanh do duyên hữu, lão tử do duyên sanh. Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy.
[314] Ở ÐÂY, VÔ MINH LÀ THẾ NÀO?
Cái gì là sự không biết, không thấy… (trùng)… vô minh như then chốt, si là căn bất thiện. Ðây gọi là vô minh.
Ở ÐÂY, HÀNH DO DUYÊN VÔ MINH CÓ VÔ MINH LÀM NHÂN LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự tính toán, sự cố quyết, thái độ cố quyết. Ðây gọi là hành do duyên vô minh có vô minh làm nhân.
Ở ÐÂY, THỨC DO DUYÊN HÀNH CÓ HÀNH LÀM NHÂN LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là tâm, ý, tâm địa… (trùng)… ý thức giới sanh từ đó. Ðây gọi là thức do duyên hành có hành làm nhân.
Ở ÐÂY, DANH DO DUYÊN THỨC CÓ THỨC LÀM NHÂN LÀ THẾ NÀO?
Tức thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn. Ðây gọi là danh do duyên thức có thức làm nhân.
NÓI RẰNG: “XÚC DO DUYÊN DANH CÓ DANH LÀM NHÂN”
Ở đây thế nào là danh? Tức thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn trừ ra xúc; đây gọi là danh. Ở đây, xúc do duyên danh có danh làm nhân là thế nào?
Cái chi là sự đụng chạm, sự va chạm, sự đối xúc, tình trạng đối xúc. Ðây gọi là xúc do duyên danh có danh làm nhân… (trùng)… bởi lẽ ấy được gọi là “Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy”.
[315] TRONG KHI ẤY, hành do duyên vô minh có vô minh làm nhân, thức do duyên hành có hành làm nhân, danh sắc do duyên thức có thức làm nhân, nhập đệ lục do duyên danh sắc có danh sắc làm nhân, xúc do duyên nhập đệ lục có nhập đệ lục làm nhân, thọ do duyên xúc có xúc làm nhân, ái do duyên thọ có thọ làm nhân, thủ do duyên ái có ái làm nhân, hữu do duyên thủ, sanh do duyên hữu, lão tử do duyên sanh. Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy.
[316] Ở ÐÂY, VÔ MINH LÀ THẾ NÀO?
Cái gì là sự không biết, không thấy… (trùng)… vô minh như then chốt, si là căn bất thiện. Ðây gọi là vô minh.
Ở ÐÂY, HÀNH DO DUYÊN VÔ MINH CÓ VÔ MINH LÀM NHÂN LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự tính toán, sự cố quyết, thái độ cố quyết. Ðây gọi là hành do duyên vô minh có vô minh làm nhân.
Ở ÐÂY, THỨC DO DUYÊN HÀNH CÓ HÀNH LÀM NHÂN LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là tâm, ý, tâm địa… (trùng)… ý thức giới sanh từ đó. Ðây gọi là thức do duyên hành có hành làm nhân.
Ở ÐÂY, DANH SẮC DO DUYÊN THỨC CÓ THỨC LÀM NHÂN LÀ THẾ NÀO?
Tức là có danh, có sắc. Ở đây, thế nào là danh? Thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn; đây gọi là danh. Ở đây, thế nào là sắc? Sự tích tập của nhãn xứ… (trùng)… sự tích tập của thân xứ, hoặc có sắc nào khác sanh từ tâm, có tâm làm nhân, có tâm làm sở sanh. Ðây gọi là sắc; danh nầy và sắc nầy là như thế. Ðây gọi là danh sắc do duyên thức có thức làm nhân.
NÓI RẰNG: “NHẬP ÐỆ LỤC DO DUYÊN DANH SẮC CÓ DANH SẮC LÀM NHÂN”
Tức là có danh, có sắc. Ở đây, thế nào là danh? Thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn. Ở đây, thế nào là sắc? Sắc nào mà ý thức giới nương vào tồn tại; đây gọi là sắc. Danh nầy, sắc nầy là như thế. Ðây gọi là danh sắc.
Ở ÐÂY, NHẬP ÐỆ LỤC DO DUYÊN DANH SẮC CÓ DANH SẮC LÀM NHÂN LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là tâm, ý, tâm địa… (trùng)… ý thức giới sanh từ đó. Ðây gọi là nhập đệ lục do duyên danh sắc có danh sắc làm nhân..
Ở ÐÂY, XÚC DO DUYÊN NHẬP ÐỆ LỤC CÓ NHẬP ÐỆ LỤC LÀM NHÂN LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự đụng chạm, sự va chạm, sự đối xúc, tình trạng đối xúc. Ðây gọi là xúc do duyên nhập đệ lục có nhập đệ lục làm nhân… (trùng)… bởi lẽ ấy được nói rằng: “Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy”.
[317] TRONG KHI ẤY, hành do duyên vô minh có vô minh làm nhân, thức do duyên hành có hành làm nhân, danh sắc do duyên thức có thức làm nhân, lục nhập do duyên danh sắc có danh sắc làm nhân, xúc do duyên lục nhập có lục nhập làm nhân, thọ do duyên xúc có xúc làm nhân, ái do duyên thọ có thọ làm nhân, thủ do duyên ái có ái làm nhân, hữu do duyên thủ, sanh do duyên hữu, lão tử do duyên sanh. Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy.
[318] Ở ÐÂY, VÔ MINH LÀ THẾ NÀO?
Cái gì là sự không biết, không thấy… (trùng)… vô minh như then chốt, si là căn bất thiện. Ðây gọi là vô minh.
Ở ÐÂY, HÀNH DO DUYÊN VÔ MINH CÓ VÔ MINH LÀM NHÂN LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự tính toán, sự cố quyết, thái độ cố quyết. Ðây gọi là hành do duyên vô minh có vô minh làm nhân.
Ở ÐÂY, THỨC DO DUYÊN HÀNH CÓ HÀNH LÀM NHÂN LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là tâm, ý, tâm địa… (trùng)… ý thức giới sanh từ đó. Ðây gọi là thức do duyên hành có hành làm nhân.
Ở ÐÂY, DANH SẮC DO DUYÊN THỨC CÓ THỨC LÀM NHÂN LÀ THẾ NÀO?
Tức là có danh, có sắc. Ở đây, thế nào là danh? Thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn; đây gọi là danh. Ở đây, thế nào là sắc? Sự tích tập của nhãn xứ… (trùng)… sự tích tập của thân xứ; hoặc có sắc nào khác sanh từ tâm, có tâm làm nhân, có tâm làm sở sanh, đây gọi là sắc. Danh nầy và sắc nầy là như thế. Ðây gọi là danh sắc do duyên thức có thức làm nhân.
NÓI RẰNG: “LỤC NHẬP DO DUYÊN DANH SẮC CÓ DANH SẮC LÀM NHÂN”
Tức là có danh, có sắc. Ở đây, thế nào là danh? Thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn; đây gọi là danh. Ở đây, thế nào là sắc? Sắc bốn đại hiển và sắc nào mà ý thức giới nương vào tồn tại đây gọi là sắc. Danh nầy và sắc nầy là như thế. Ðây gọi là danh sắc.
Ở ÐÂY, LỤC NHẬP DO DUYÊN DANH SẮC CÓ DANH SẮC LÀM NHÂN LÀ THẾ NÀO?
Tức là nhãn xứ… (trùng)… ý xứ. Ðây gọi là lục nhập do duyên danh sắc có danh sắc làm nhân..
Ở ÐÂY, XÚC DO DUYÊN LỤC NHẬP CÓ LỤC NHẬP LÀM NHÂN LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự đụng chạm, sự va chạm, sự đối xúc, tình trạng đối xúc. Ðây gọi là xúc do duyên lục nhập có lục nhập làm nhân… (trùng)… bởi lẽ ấy được nói rằng: “Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy”.
DỨT PHẦN TỨ ÐỀ NHÂN
PHẦN TỨ ÐỀ TƯƠNG ƯNG (Sampayuttacatukkaṃ)
[319] TRONG KHI ẤY, có hành do duyên vô minh tương ưng vô minh, có thức do duyên hành tương ưng hành, có danh do duyên thức tương ưng thức, có nhập đệ lục do duyên danh tương ưng danh, có xúc do duyên nhập đệ lục tương ưng nhập đệ lục, có thọ do duyên xúc tương ưng xúc, có ái do duyên thọ tương ưng tho, có thủ do duyên ái tương ưng ái, có hữu do duyên thủ, có sanh do duyên hữu, có lão tử do duyên sanh. Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy.
[320] Ở ÐÂY, VÔ MINH LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự không biết, không thấy… (trùng)… vô minh như then chốt, si là căn bất thiện. Ðây gọi là vô minh.
Ở ÐÂY, HÀNH DO DUYÊN VÔ MINH TƯƠNG ƯNG VÔ MINH LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự tính toán, sự cố quyết, thái độ cố quyết. Ðây gọi là hành do duyên vô minh, tương ưng vô minh.
Ở ÐÂY, THỨC DO DUYÊN HÀNH TƯƠNG ƯNG HÀNH LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là tâm, ý, tâm địa… (trùng)… ý thức giới sanh từ đó. Ðây gọi là thức do duyên hành tương ưng hành.
Ở ÐÂY, DANH DO DUYÊN THỨC TƯƠNG ƯNG THỨC LÀ THẾ NÀO?
Tức thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn. Ðây gọi là danh do duyên thức tương ưng thức.
Ở ÐÂY, NHẬP ÐỆ LỤC DO DUYÊN DANH TƯƠNG ƯNG DANH LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là tâm, ý, tâm địa… (trùng)… ý thức giới sanh từ đó. Ðây gọi là nhập đệ lục do duyên danh tương ưng danh.
Ở ÐÂY, XÚC DO DUYÊN NHẬP ÐỆ LỤC TƯƠNG ƯNG NHẬP ÐỆ LỤC LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự đụng chạm, sự va chạm, sự đối xúc, tình trạng đối xúc. Ðây gọi là xúc do duyên nhập đệ lục tương ưng nhập đệ lục.
Ở ÐÂY, THỌ DO DUYÊN XÚC TƯƠNG ƯNG XÚC LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự sảng khoái thuộc về tâm, sự dễ chịu thuộc về tâm, trạng thái cảm thọ sãng khoái dễ chịu sanh từ tâm xúc, sự cảm giác sãng khoái dễ chịu sanh từ tâm xúc. Ðây gọi là thọ do duyên xúc tương ưng xúc.
Ở ÐÂY, ÁI DO DUYÊN THỌ TƯƠNG ƯNG THỌ LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự tham luyến, tham đắm… (trùng)… sự tham đắm của tâm. Ðây gọi là ái do duyên thọ tương ưng thọ.
Ở ÐÂY, THỦ DO DUYÊN ÁI TƯƠNG ƯNG ÁI LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là kiến, thiên kiến… (trùng)… ngoại đạo xứ, nghịch chấp. Ðây gọi là thủ do duyên ái tương ưng ái… (trùng)… bởi lẽ ấy được nói rằng: “Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy”.
[321] TRONG KHI ẤY, có hành do duyên vô minh tương ưng vô minh, có thức do duyên hành tương ưng hành, có danh do duyên thức tương ưng thức, có xúc do duyên danh tương ưng danh, có thọ do duyên xúc tương ưng xúc, có ái do duyên thọ tương ưng tho, có thủ do duyên ái tương ưng ái, có hữu do duyên thủ, có sanh do duyên hữu, có lão tử do duyên sanh. Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy.
[322] Ở ÐÂY, VÔ MINH LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự không biết, không thấy… (trùng)… vô minh như then chốt, si là căn bất thiện. Ðây gọi là vô minh.
Ở ÐÂY, HÀNH DO DUYÊN VÔ MINH TƯƠNG ƯNG VÔ MINH LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự tính toán, sự cố quyết, thái độ cố quyết. Ðây gọi là hành do duyên vô minh, tương ưng vô minh.
Ở ÐÂY, THỨC DO DUYÊN HÀNH TƯƠNG ƯNG HÀNH LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là tâm, ý, tâm địa… (trùng)… ý thức giới sanh từ đó. Ðây gọi là thức do duyên hành tương ưng hành.
Ở ÐÂY, DANH DO DUYÊN THỨC TƯƠNG ƯNG THỨC LÀ THẾ NÀO?
Tức thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn. Ðây gọi là danh do duyên thức tương ưng thức.
NÓI RẰNG: “XÚC DO DUYÊN DANH TƯƠNG ƯNG DANH”
Ở đây thế nào là danh? Thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn trừ ra xúc. đây gọi là danh. Ở đây, xúc do duyên danh tương ưng danh là thế nào?
Cái chi là sự đụng chạm, sự va chạm, sự đối xúc, tình trạng đối xúc. Ðây gọi là xúc do duyên danh tương ưng danh… (trùng)… bởi lẽ ấy được gọi là “Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy”.
[323] TRONG KHI ẤY, có hành do duyên vô minh tương ưng vô minh, có thức do duyên hành tương ưng hành, có danh sắc do duyên thức danh tương ưng thức, có nhập đệ lục do duyên danh sắc tương ưng danh, có xúc do duyên nhập đệ lục tương ưng nhập đệ lục, có thọ do duyên xúc tương ưng xúc, có ái do duyên thọ tương ưng tho, có thủ do duyên ái tương ưng ái, có hữu do duyên thủ, có sanh do duyên hữu, có lão tử do duyên sanh. Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy.
[324] Ở ÐÂY, VÔ MINH LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự không biết, không thấy… (trùng)… vô minh như then chốt, si là căn bất thiện. Ðây gọi là vô minh.
Ở ÐÂY, HÀNH DO DUYÊN VÔ MINH TƯƠNG ƯNG VÔ MINH LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự tính toán, sự cố quyết, thái độ cố quyết. Ðây gọi là hành do duyên vô minh, tương ưng vô minh.
Ở ÐÂY, THỨC DO DUYÊN HÀNH TƯƠNG ƯNG HÀNH LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là tâm, ý, tâm địa… (trùng)… ý thức giới sanh từ đó. Ðây gọi là thức do duyên hành tương ưng hành.
Ở ÐÂY, DANH SẮC DO DUYÊN THỨC TƯƠNG ƯNG THỨC LÀ THẾ NÀO?
Tức là có danh, có sắc. Ở đây, thế nào là danh? Thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn; đây gọi là danh. Ở đây, thế nào là sắc? Sự tích tập của nhãn xứ… (trùng)… sự tích tập của thân xứ, hoặc có sắc nào khác sanh từ tâm, có tâm làm nhân, có tâm làm sở sanh; đây gọi là sắc. Danh nầy và sắc nầy là như thế. Ðây gọi là danh sắc do duyên thức tương ưng thức.
NÓI RẰNG: “NHẬP ÐỆ LỤC DO DUYÊN DANH SẮC TƯƠNG ƯNG DANH SẮC”.
Tức là có danh, có sắc. Ở đây, thế nào là danh? Thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn; đây gọi là danh. Ở đây, thế nào là sắc? Sắc nào mà ý thức giới nương vào tồn tại; đây gọi là sắc. Danh nầy và sắc nầy là như thế. Ðây gọi là danh sắc.
Ở ÐÂY, NHẬP ÐỆ LỤC DO DUYÊN DANH TƯƠNG ƯNG DANH LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là tâm, ý, tâm địa… (trùng)… ý thức giới sanh từ đó. Ðây gọi là nhập đệ lục do duyên danh sắc có danh sắc làm nhân..
Ở ÐÂY, XÚC DO DUYÊN NHẬP ÐỆ LỤC TƯƠNG ƯNG NHẬP ÐỆ LỤC LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự đụng chạm, sự va chạm, sự đối xúc, tình trạng đối xúc. Ðây gọi là xúc do duyên nhập đệ lục có nhập đệ lục làm nhân… (trùng)… bởi lẽ ấy được nói rằng: “Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy”.
[325] TRONG KHI ẤY, có hành do duyên vô minh tương ưng vô minh, có thức do duyên hành tương ưng hành, có danh sắc do duyên thức danh tương ưng thức, có lục nhập do duyên danh sắc tương ưng danh, có xúc do duyên lục nhập tương ưng lục nhập, có thọ do duyên xúc tương ưng xúc, có ái do duyên thọ tương ưng tho, có thủ do duyên ái tương ưng ái, có hữu do duyên thủ, có sanh do duyên hữu, có lão tử do duyên sanh. Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy.
[326] Ở ÐÂY, VÔ MINH LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự không biết, không thấy… (trùng)… vô minh như then chốt, si là căn bất thiện. Ðây gọi là vô minh.
Ở ÐÂY, HÀNH DO DUYÊN VÔ MINH TƯƠNG ƯNG VÔ MINH LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự tính toán, sự cố quyết, thái độ cố quyết. Ðây gọi là hành do duyên vô minh, tương ưng vô minh.
Ở ÐÂY, THỨC DO DUYÊN HÀNH TƯƠNG ƯNG HÀNH LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là tâm, ý, tâm địa… (trùng)… ý thức giới sanh từ đó. Ðây gọi là thức do duyên hành tương ưng hành.
Ở ÐÂY, DANH SẮC DO DUYÊN THỨC DANH TƯƠNG ƯNG THỨC LÀ THẾ NÀO?
Tức là có danh, có sắc. Ở đây, thế nào là danh? Thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn; đây gọi là danh. Ở đây, thế nào là sắc? Sự tích tập của nhãn xứ… (trùng)… sự tích tập của thân xứ, hoặc có sắc nào khác sanh từ tâm, có tâm làm nhân, có tâm làm sở sanh; đây gọi là sắc. Danh nầy và sắc nầy là như thế. Ðây gọi là danh sắc do duyên thức danh tương ưng thức.
NÓI RẰNG: “LỤC NHẬP DO DUYÊN DANH SẮC TƯƠNG ƯNG DANH”
Tức là có danh, có sắc. Ở đây, thế nào là danh? Thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn; đây gọi là danh. Ở đây, thế nào là sắc? Bốn đại hiển và sắc nào mà ý thức giới nương vào tồn tại; đây gọi là sắc. Danh nầy và sắc nầy là như thế. Ðây gọi là danh sắc.
Ở ÐÂY, LỤC NHẬP DO DUYÊN DANH TƯƠNG ƯNG DANH LÀ THẾ NÀO?
Tức là nhãn xứ… (trùng)… ý xứ. Ðây gọi là lục nhập[38] do duyên danh sắc tương ưng danh.
Ở ÐÂY, XÚC DO DUYÊN LỤC NHẬP TƯƠNG ƯNG LỤC NHẬP LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự đụng chạm, sự va chạm, sự đối xúc, tình trạng đối xúc. Ðây gọi là xúc do duyên lục nhập có lục nhập làm nhân… (trùng)… bởi lẽ ấy được nói rằng: “Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy”.
DỨT PHẦN TỨ ÐỀ TƯƠNG ƯNG
PHẦN TỨ ÐỀ HỖ TƯƠNG (Aññamaññacatukkam)
[327] TRONG KHI ẤY, hành do duyên vô minh, vô minh cũng do duyên hành; thức do duyên hành, hành cũng do duyên thức; danh do duyên thức, thức cũng do duyên danh; nhập đệ lục do duyên danh, danh cũng do duyên nhập đệ lục; xúc do duyên nhập đệ lục, nhập đệ lục cũng do duyên xúc; thọ do duyên xúc, xúc cũng do duyên thọ; ái do duyên thọ, thọ cũng do duyên ái; thủ do duyên ái, ái cũng do duyên thủ; hữu do duyên thủ; sanh do duyên hữu; lão tử do duyên sanh. Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy.
[328] Ở ÐÂY, VÔ MINH LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự không biết, không thấy… (trùng)… vô minh như then chốt, si là căn bất thiện. Ðây gọi là vô minh.
[329] Ở ÐÂY, HÀNH DO DUYÊN VÔ MINH LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự tính toán, sự cố quyết, thái độ cố quyết. Ðây gọi là hành do duyên vô minh.
Ở ÐÂY, VÔ MINH CŨNG DO DUYÊN HÀNH LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự không biết, không thấy… (trùng)… vô minh như then chốt, si là căn bất thiện. Ðây gọi là vô minh cũng do duyên hành.
[330] Ở ÐÂY, THỨC DO DUYÊN HÀNH LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là tâm, ý, tâm địa… (trùng)… ý thức giới sanh từ đó. Ðây gọi là thức do duyên hành.
Ở ÐÂY, HÀNH CŨNG DO DUYÊN THỨC LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự tính toán, sự cố quyết, thái độ cố quyết. Ðây gọi là hành cũng do duyên thức.
[331] Ở ÐÂY, DANH DO DUYÊN THỨC LÀ THẾ NÀO?
Tức thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn. Ðây gọi là danh do duyên thức.
Ở ÐÂY, THỨC CŨNG DO DUYÊN DANH LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là tâm, ý, tâm địa… (trùng)… ý thức giới sanh từ đó. Ðây gọi là thức cũng do duyên danh.
[332] Ở ÐÂY, NHẬP ÐỆ LỤC DO DUYÊN DANH LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là tâm, ý, tâm địa… (trùng)… ý thức giới sanh từ đó. Ðây gọi là nhập đệ lục do duyên danh.
Ở ÐÂY, DANH CŨNG DO DUYÊN NHẬP ÐỆ LỤC LÀ THẾ NÀO?
Tức thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn. Ðây gọi là danh cũng do duyên nhập đệ lục.
[333] Ở ÐÂY, XÚC DO DUYÊN NHẬP ÐỆ LỤC LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự đụng chạm, sự va chạm, sự đối xúc, tình trạng đối xúc. Ðây gọi là xúc do duyên nhập đệ lục.
Ở ÐÂY, NHẬP ÐỆ LỤC CŨNG DO DUYÊN XÚC LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là tâm, ý, tâm địa… (trùng)… ý thức giới sanh từ đó. Ðây gọi là nhập đệ lục cũng do duyên xúc.
[334] Ở ÐÂY, THỌ DO DUYÊN XÚC LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự sảng khoái thuộc về tâm, sự dễ chịu thuộc về tâm, trạng thái cảm thọ sãng khoái dễ chịu sanh từ tâm xúc, sự cảm giác sãng khoái dễ chịu sanh từ tâm xúc. Ðây gọi là thọ do duyên xúc.
Ở ÐÂY, XÚC CŨNG DO DUYÊN THỌ LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự đụng chạm, sự va chạm, sự đối xúc, tình trạng đối xúc. Ðây gọi là xúc cũng do duyên thọ.
[335] Ở ÐÂY, ÁI DO DUYÊN THỌ LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự tham luyến, tham đắm… (trùng)… sự tham đắm của tâm. Ðây gọi là ái do duyên thọ.
Ở ÐÂY, THỌ CŨNG DO DUYÊN ÁI LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự sảng khoái thuộc về tâm, sự dễ chịu thuộc về tâm, trạng thái cảm thọ sãng khoái dễ chịu sanh từ tâm xúc, sự cảm giác sãng khoái dễ chịu sanh từ tâm xúc. Ðây gọi là thọ cũng do duyên ái.
[336] Ở ÐÂY, THỦ DO DUYÊN ÁI LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là kiến, thiên kiến… (trùng)… ngoại đạo xứ, nghịch chấp. Ðây gọi là thủ do duyên ái.
Ở ÐÂY, ÁI CŨNG DO DUYÊN THỦ LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự tham luyến, tham đắm… (trùng)… sự tham đắm của tâm. Ðây gọi là ái cũng do duyên thủ.
[337] Ở ÐÂY, HỮU DO DUYÊN THỦ LÀ THẾ NÀO?
Tức là thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn, trừ ra thủ. Ðây gọi là hữu do duyên thủ.
[338] Ở ÐÂY, SANH DO DUYÊN HỮU LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự sanh, sự sanh ra, sự xuất hiện, sự phát khởi, sự hiện khởi của những pháp ấy. Ðây gọi là sanh do duyên hữu.
[339] Ở ÐÂY, LÃO TỬ DO DUYÊN SANH LÀ THẾ NÀO?
Tức là có lão, có tử. Ở đây, thế nào là lão? Cái chi là sự già nua, sự cũ kỹ, sự giảm thọ của các pháp ấy; đây gọi là lão. Ở đây, thế nào là tử? Cái chi là sự hoại tận, sự biến hoại, sự tiêu tán, sự phân tán, sự vô thường, sự biến mất của các pháp ấy; đây gọi là tử. Lão nầy và tử nầy là như thế. Ðây gọi là lão tử do duyên sanh.
[340] NÓI RẰNG “NHƯ VẬY LÀ TẬP KHỞI CỦA TOÀN BỘ KHỔ UẨN NẦY” tức là sự tập trung, sự tựu trung, sự họp chung, sự hiện hành của toàn bộ khổ uẩn nầy có như vậy. Bởi lẽ ấy nên được nói rằng: “Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy”.
[341] TRONG KHI ẤY, hành do duyên vô minh, vô minh cũng do duyên hành; thức do duyên hành, hành cũng do duyên thức; danh do duyên thức, thức cũng do duyên danh; xúc do duyên danh, danh cũng do duyên xúc; thọ do duyên xúc, xúc cũng do duyên thọ; ái do duyên thọ, thọ cũng do duyên ái; thủ do duyên ái, ái cũng do duyên thủ; hữu do duyên thủ; sanh do duyên hữu; lão tử do duyên sanh. Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy.
[342] Ở ÐÂY, VÔ MINH LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự không biết, không thấy… (trùng)… vô minh như then chốt, si là căn bất thiện. Ðây gọi là vô minh.
Ở ÐÂY, HÀNH DO DUYÊN VÔ MINH LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự tính toán, sự cố quyết, thái độ cố quyết. Ðây gọi là hành do duyên vô minh.
Ở ÐÂY, VÔ MINH CŨNG DO DUYÊN HÀNH LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự không biết, không thấy… (trùng)… vô minh như then chốt, si là căn bất thiện. Ðây gọi là vô minh cũng do duyên hành.
Ở ÐÂY, THỨC DO DUYÊN HÀNH LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là tâm, ý, tâm địa… (trùng)… ý thức giới sanh từ đó. Ðây gọi là thức do duyên hành.
Ở ÐÂY, HÀNH CŨNG DO DUYÊN THỨC LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự tính toán, sự cố quyết, thái độ cố quyết. Ðây gọi là hành cũng do duyên thức.
Ở ÐÂY, DANH DO DUYÊN THỨC LÀ THẾ NÀO?
Tức thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn. Ðây gọi là danh do duyên thức.
Ở ÐÂY, THỨC CŨNG DO DUYÊN DANH LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là tâm, ý, tâm địa… (trùng)… ý thức giới sanh từ đó. Ðây gọi là thức cũng do duyên danh.
NÓI RẰNG: “XÚC DO DUYÊN DANH”
Ở đây thế nào là danh? Thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn trừ ra xúc. Ðây gọi là danh. Ở đây xúc do duyên danh là thế nào? Cái chi là sự đụng chạm, sự va chạm, sự đối xúc, tình trạng đối xúc. Ðây gọi là xúc do duyên danh.
Ở ÐÂY, DANH CŨNG DO DUYÊN XÚC LÀ THẾ NÀO?
Tức thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn. Ðây gọi là danh cũng do duyên xúc… (trùng)… bởi lẽ ấy, được nói rằng: “Như vầy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy”.
[343] TRONG KHI ẤY, hành do duyên vô minh, vô minh cũng do duyên hành; thức do duyên hành, hành cũng do duyên thức; danh sắc do duyên thức, thức cũng do duyên danh sắc; nhập đệ lục do duyên danh sắc, danh sắc cũng do duyên nhập đệ lục; xúc do duyên nhập đệ lục, nhập đệ lục cũng do duyên xúc; thọ do duyên xúc, xúc cũng do duyên thọ; ái do duyên thọ, thọ cũng do duyên ái; thủ do duyên ái, ái cũng do duyên thủ; hữu do duyên thủ; sanh do duyên hữu; lão tử do duyên sanh. Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy.
[344] Ở ÐÂY, VÔ MINH LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự không biết, không thấy… (trùng)… vô minh như then chốt, si là căn bất thiện. Ðây gọi là vô minh.
Ở ÐÂY, HÀNH DO DUYÊN VÔ MINH LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự tính toán, sự cố quyết, thái độ cố quyết. Ðây gọi là hành do duyên vô minh.
Ở ÐÂY, VÔ MINH CŨNG DO DUYÊN HÀNH LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự không biết, không thấy… (trùng)… vô minh như then chốt, si là căn bất thiện. Ðây gọi là vô minh cũng do duyên hành.
Ở ÐÂY, THỨC DO DUYÊN HÀNH LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là tâm, ý, tâm địa… (trùng)… ý thức giới sanh từ đó. Ðây gọi là thức do duyên hành.
Ở ÐÂY, HÀNH CŨNG DO DUYÊN THỨC LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự tính toán, sự cố quyết, thái độ cố quyết. Ðây gọi là hành cũng do duyên thức.
Ở ÐÂY, DANH SẮC DO DUYÊN THỨC LÀ THẾ NÀO?
Tức là có danh, có sắc. Ở đây, thế nào là danh? Thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn; đây gọi là danh. Ở đây, thế nào là sắc? Sự tích tập của nhãn xứ… (trùng)… sự tích tập của thân xứ, hoặc có sắc nào khác sanh từ tâm, có tâm là nhân, có tâm làm sở sanh; đây gọi là sắc. Danh nầy và sắc nầy là như thế. Ðây gọi là danh sắc do duyên thức.
NÓI RẰNG: “THỨC CŨNG DO DUYÊN DANH SẮC”
Tức là có danh, có sắc. Ở đây, thế nào là danh? Thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, đây gọi là danh. Ở đây, thế nào là sắc? Sắc nào mà ý thức giới nương vào tồn tại; đây gọi là sắc. Danh nầy và sắc nầy là như thế, đây gọi là danh sắc. Ở đây thức cũng do duyên danh sắc là thế nào? Cái chi là tâm, ý, tâm địa… (trùng)… ý thức giới sanh từ đó. Ðây gọi là thức cũng do duyên danh sắc.
NÓI RẰNG: “NHẬP ÐỆ LỤC DO DUYÊN DANH SẮC”
Tức là có danh có sắc. Ở đây, thế nào là danh? Thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn. Ðây gọi là danh. Ở đây thế nào là sắc? Sắc nào mà ý thức giới nương vào tồn tại; đây gọi là sắc. Danh nầy và sắc nầy là như thế; đây gọi là danh sắc. Ở đây, nhập đệ lục do duyên danh sắc là thế nào? Cái chi là tâm, ý, tâm địa… (trùng)… ý thức giới sanh từ đó. Ðây gọi là nhập đệ lục do duyên danh sắc.
Ở ÐÂY, DANH SẮC CŨNG DO DUYÊN NHẬP ÐỆ LỤC LÀ THẾ NÀO?
Tức là có danh, có sắc. Ở đây, thế nào là danh? Thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn; đây gọi là danh. Ở đây, thế nào là sắc? Sự tích tập của nhãn xứ… (trùng)… sự tích tập của thân xứ, hoặc có sắc nào khác sanh từ tâm, có tâm là nhân, có tâm làm sở sanh; đây gọi là sắc. Danh nầy và sắc nầy là như thế. Ðây gọi là danh sắc cũng do duyên nhập đệ lục.
Ở ÐÂY, XÚC DO DUYÊN NHẬP ÐỆ LỤC LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự đụng chạm, sự va chạm, sự đối xúc, tình trạng đối xúc. Ðây gọi là xúc do duyên nhập đệ lục.
Ở ÐÂY, NHẬP ÐỆ LỤC CŨNG DO DUYÊN XÚC LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là tâm, ý, tâm địa… (trùng)… ý thức giới sanh từ đó. Ðây gọi là nhập đệ lục cũng do duyên xúc… (trùng)… bởi lẽ ấy được nói rằng: “Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy”.
[345] TRONG KHI ẤY, hành do duyên vô minh, vô minh cũng do duyên hành; thức do duyên hành, hành cũng do duyên thức; danh sắc do duyên thức, thức cũng do duyên danh sắc; lục nhập do duyên danh sắc, danh sắc cũng do duyên lục nhập; xúc do duyên lục nhập, lục nhập cũng do duyên xúc; thọ do duyên xúc, xúc cũng do duyên thọ; ái do duyên thọ, thọ cũng do duyên ái; thủ do duyên ái, ái cũng do duyên thủ; hữu do duyên thủ; sanh do duyên hữu; lão tử do duyên sanh. Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy.
[346] Ở ÐÂY, VÔ MINH LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự không biết, không thấy… (trùng)… vô minh như then chốt, si là căn bất thiện. Ðây gọi là vô minh.
Ở ÐÂY, HÀNH DO DUYÊN VÔ MINH LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự tính toán, sự cố quyết, thái độ cố quyết. Ðây gọi là hành do duyên vô minh.
Ở ÐÂY, VÔ MINH CŨNG DO DUYÊN HÀNH LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự không biết, không thấy… (trùng)… vô minh như then chốt, si là căn bất thiện. Ðây gọi là vô minh cũng do duyên hành.
Ở ÐÂY, THỨC DO DUYÊN HÀNH LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là tâm, ý, tâm địa… (trùng)… ý thức giới sanh từ đó. Ðây gọi là thức do duyên hành.
Ở ÐÂY, HÀNH CŨNG DO DUYÊN THỨC LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự tính toán, sự cố quyết, thái độ cố quyết. Ðây gọi là hành cũng do duyên thức.
Ở ÐÂY, DANH SẮC DO DUYÊN THỨC LÀ THẾ NÀO?
Tức có danh, có sắc. Ở đây, thế nào là danh? Thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn; đây gọi là danh. Ở đây, thế nào là sắc? Sự tích tập của nhãn xứ… (trùng)… sự tích tập của thân xứ, hoặc có sắc nào khác sanh từ tâm, có tâm là nhân, có tâm làm sở sanh; đây gọi là sắc. Danh nầy và sắc nầy là như thế. Ðây gọi là danh sắc do duyên thức.
NÓI RẰNG: “THỨC CŨNG DO DUYÊN DANH SẮC”
Tức là có danh, có sắc. Ở đây, thế nào là danh? Thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, đây gọi là danh. Ở đây, thế nào là sắc? Sắc nào mà ý thức giới nương vào tồn tại; đây gọi là sắc. Danh nầy và sắc nầy là như thế. Ðây gọi là danh sắc. Ở đây thức cũng do duyên danh sắc là thế nào? Cái chi là tâm, ý, tâm địa… (trùng)… ý thức giới sanh từ đó. Ðây gọi là thức cũng do duyên danh sắc.
NÓI RẰNG: “LỤC NHẬP DO DUYÊN DANH SẮC”
Tức là có danh, có sắc. Ở đây, thế nào là danh? Thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn. Ðây gọi là danh. Ở đây thế nào là sắc? Bốn đại hiển và sắc nào mà ý thức giới nương vào tồn tại; đây gọi là sắc. Danh nầy và sắc nầy là như thế. Ðây gọi là danh sắc. Ở đây lục nhập do duyên danh sắc là thế nào? Tức là nhãn xứ… (trùng)… ý xứ. Ðây gọi là lục nhập do duyên danh sắc.
Ở ÐÂY, DANH SẮC CŨNG DO DUYÊN LỤC NHẬP LÀ THẾ NÀO?
Tức là có danh, có sắc. Ở đây, thế nào là danh? Thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn; đây gọi là danh. Ở đây, thế nào là sắc? Sự tích tập của nhãn xứ… (trùng)… sự tích tập của thân xứ, hoặc có sắc nào khác sanh từ tâm, có tâm là nhân, có tâm làm sở sanh. Ðây gọi là sắc. Danh nầy và sắc nầy là như thế. Ðây gọi là danh sắc cũng do duyên lục nhập.
Ở ÐÂY, XÚC DO DUYÊN LỤC NHẬP LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự đụng chạm, sự va chạm, sự đối xúc, tình trạng đối xúc. Ðây gọi là xúc do duyên lục nhập.
Ở ÐÂY, LỤC NHẬP CŨNG DO DUYÊN XÚC LÀ THẾ NÀO?
Tức nhãn xứ… (trùng)… ý xứ. Ðây gọi là lục nhập cũng do duyên xúc… (trùng)… bởi lẽ ấy được nói rằng: “Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy”.
DỨT PHẦN TỨ ÐỀ HỖ TƯƠNG
DỨT TÂM BẤT THIỆN THỨ NHẤT
[1] Avijjā.
[2] Saṅkhāra.
[3] Puññābhisaṅkhāra.
[4] Āpuññābhisaṅkhāra.
[5] Aneñjābhisaṅkhāra.
[6] Kāyasaṅkhāra.
[7] Vacīsaṅkhāra.
[8] Manosaṅkhāra.
[9] Viññāna.
[10] Nāmarūpa.
[11] Nāma.
[12] Rūpa.
[13] Salāyatana.
[14] Phassa.
[15] Vedanā.
[16] Tanhā.
[17] Upādāna.
[18] Bhāva.
[19] Kammabhava.
[20] Upapattibhava.
[21] Jāti.
[22] Jarāmaraṇa.
[23] Jarā.
[24] Marana.
[25] Soka.
[26] Parideva.
[27] Dukkha.
[28] Domanassa.
[29] Upāyāsa.
[30] Samudaya.
[31] Thức ở đây chỉ cho thức uẩn tái tục.
[32] Danh ở đây chỉ cho thọ, tưởng, hành uẩn cùng ở trong tâm tái tục.
[33] Nhập đệ lục (chatthāyatana), chỉ cho xứ thứ sáu trong sáu xứ, tức là ý xứ. Ở đây, không nói đến cả lục nhập (sáu xứ) vì vẫn có trường hợp danh chỉ làm duyên cho ý nhập mà không là duyên cho lục nhập. Như cõi Phạm Thiên Vô Sắc, không có năm nhập (ayatana) sắc thần kinh (pasādarūpa)…
[34] Một hệ thống y tương sinh (paticcasamuppāda) khác. Danh làm duyên cho xúc, tức là thọ, tưởng uẩn làm duyên cho hành uẩn xúc.
[35] Toàn bộ khổ uẩn nầy do ái tham làm tập khởi; trong tâm ấy có bốn danh uẩn tương ưng (sampayutta) nhau, tức là thọ, tưởng, hành, thức, thọ là thọ uẩn, sở hữu tâm: tư, si, xúc, ái, thủ trong duyên sinh là hành uẩn, thức hay nhập đệ lục là thức uẩn v.v… Vì thế hành do duyên vô minh, tương ưng vô minh…
[36] Hữu do duyên thủ, sanh do duyên hữu, lão tử do duyên sanh, không thể nói là hữu tương ưng thủ, sanh tương ưng hữu, lão tử tương ưng sanh, vì lẽ hữu và thủ… là duyên trợ được nhưng không tương ưng được.
[37] Vì sở hữu tư (hành) và sở hữu si (vô minh) đồng sanh và hỗ tương trong một sát na tâm bất thiện chẳng hạn thì tư duyên si, mà si cũng duyên được cho tư.
[38] Sd và B chatthāyatana (nhập đệ lục)
TÂM BẤT THIỆN THỨ HAI – THỨ BA – THỨ TƯ
[347] THẾ NÀO LÀ CÁC PHÁP BẤT THIỆN
Khi nào tâm bất thiện sanh khởi câu hành hỷ, tương ưng tà kiến hữu dẫn… (trùng)… câu hành hỷ bất tương ưng tà kiến… (trùng)… câu hành hỷ bất tương ưng tà kiến hữu dẫn, bắt cảnh sắc… (trùng)… cảnh pháp, hoặc cảnh chi chi; trong khi đó có hành do duyên vô minh, có thức do duyên hành, có danh do duyên thức, có nhập đệ lục do duyên danh, có xúc do duyên nhập đệ lục, có thọ do duyên xúc, có ái do duyên thọ, có thắng giải do duyên ái, có hữu do duyên thắng giải, có sanh do duyên hữu, có lão tử do duyên sanh. Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy.
[348] Ở ÐÂY, VÔ MINH LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự không biết, không thấy… (trùng)… vô minh như then chốt, si là căn bất thiện. Ðây gọi là vô minh.
Ở ÐÂY, HÀNH DO DUYÊN VÔ MINH LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự tính toán, sự cố quyết, thái độ cố quyết. Ðây gọi là hành do duyên vô minh… (trùng)…
Ở ÐÂY, THẮNG GIẢI DO DUYÊN ÁI LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự quyết đoán của tâm, cách quyết đoán, thái độ quyết đoán cảnh. Ðây gọi là thắng giải do duyên ái.
Ở ÐÂY, HỮU DO DUYÊN THẮNG GIẢI LÀ THẾ NÀO?
Tức là thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn trừ ra thắng giải. Ðây gọi là hữu do duyên thắng giải… (trùng)… bởi lẽ ấy được nói rằng: “Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy”.
DỨT TÂM BẤT THIỆN THỨ TƯ
TÂM BẤT THIỆN THỨ NĂM
[349] THẾ NÀO LÀ CÁC PHÁP BẤT THIỆN?
Khi nào tâm bất thiện sanh khởi câu hành xả tương ưng tà kiến, bắt cảnh sắc… (trùng)… cảnh pháp, hoặc cảnh chi chi; trong khi đó có hành do duyên vô minh, có thức do duyên hành, có danh do duyên thức, có nhập đệ lục do duyên danh, có xúc do duyên nhập đệ lục, có thọ do duyên xúc, có ái do duyên thọ, có thủ do duyên ái, có hữu do duyên thủ, có sanh do duyên hữu, có lão tử do duyên sanh. Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy.
[350] Ở ÐÂY, VÔ MINH LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự không biết, không thấy… (trùng)… vô minh như then chốt, si là căn bất thiện. Ðây gọi là vô minh… (trùng)…
Ở ÐÂY, THỌ DO DUYÊN XÚC LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự không vui không buồn thuộc về tâm, trạng thái cảm thọ phi khổ phi lạc sanh từ tâm xúc, sự cảm giác phi khổ phi lạc sanh từ tâm xúc. Ðây gọi là thọ do duyên xúc… (trùng)… bởi lẽ ấy, được nói rằng: “Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy”… (trùng)…
DỨT TÂM BẤT THIỆN THỨ NĂM
TÂM BẤT THIỆN THỨ SÁU – THỨ BẢY – THỨ TÁM
[351] THẾ NÀO LÀ CÁC PHÁP BẤT THIỆN?
Khi nào tâm bất thiện sanh khởi, câu hành xả, tương ưng tà kiến hữu dẫn… (trùng)… câu hành xả, bất tương ưng tà kiến… (trùng)… câu hành xả, bất tương ưng tà kiến hữu dẫn, bắt cảnh sắc… (trùng)… cảnh pháp, hoặc cảnh chi chi; trong khi ấy có hành do duyên vô minh, có thức do duyên hành, có danh do duyên thức, có nhập đệ lục do duyên danh, có xúc do duyên nhập đệ lục, có thọ do duyên xúc, có ái do duyên thọ, có thắng giải do duyên ái, có hữu do duyên thắng giải, có sanh do duyên hữu, có lão tử do duyên sanh. Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy… (trùng)…
DỨT TÂM BẤT THIỆN THỨ TÁM
TÂM BẤT THIỆN THỨ CHÍN – THỨ MƯỜI
[352] THẾ NÀO LÀ CÁC PHÁP BẤT THIỆN?
Khi nào tâm bất thiện sanh khởi, câu hành ưu, tương ưng phẫn nộ… (trùng)… câu hành ưu tương ưng phẫn nộ hữu dẫn, bắt cảnh sắc… (trùng)… cảnh pháp, hoặc cảnh chi chi; trong khi đó có hành do duyên vô minh, có thức do duyên hành, có danh do duyên thức, có nhập đệ lục do duyên danh, có xúc do duyên nhập đệ lục, có thọ do duyên xúc, có phẫn nộ do duyên thọ, có thắng giải do duyên phẫn nộ, có hữu do duyên thắng giải, có sanh do duyên hữu, có lão tử do duyên sanh. Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy.
[353] Ở ÐÂY, VÔ MINH LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự không biết, không thấy… (trùng)… vô minh như then chốt, si là căn bất thiện. Ðây gọi là vô minh… (trùng)…
Ở ÐÂY, THỌ DO DUYÊN XÚC LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự bất an thuộc về tâm, sự khó chịu thuộc về tâm, trạng thái cảm thọ bất an khó chịu sanh từ tâm xúc, sự cảm giác bất an khó chịu sanh từ tâm xúc. Ðây gọi là thọ do duyên xúc.
Ở ÐÂY, PHẪN NỘ DO DUYÊN THỌ LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự hiềm khích của tâm, sự phẫn nộ… (trùng)… sự hung dữ, sự lỗ mảng, sự không hoan hỷ của tâm. Ðây gọi là sự phẫn nộ do duyên thọ.
Ở ÐÂY, THẮNG GIẢI DO DUYÊN PHẪN NỘ LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự quyết đoán, cách quyết đoán, thái độ quyết đoán cảnh. Ðây gọi là thắng giải do duyên phẫn nộ.
Ở ÐÂY, HỮU DO DUYÊN THẮNG GIẢI LÀ THẾ NÀO?
Tức thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn trừ ra thắng giải. Ðây gọi là hữu do duyên thắng giải… (trùng)… bởi lẽ ấy được nói rằng: “Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy”… (trùng)…
DỨT TÂM BẤT THIỆN THỨ MƯỜI
TÂM BẤT THIỆN THỨ MƯỜI MỘT
[354] THẾ NÀO LÀ CÁC PHÁP BẤT THIỆN?
Khi nào tâm bất thiện sanh khởi câu hành xả, tương ưng hoài nghi, bắt cảnh sắc… (trùng)… cảnh pháp, hoặc cảnh chi chi; trong khi ấy có hành do duyên vô minh, có thức do duyên hành, có danh do duyên thức, có nhập đệ lục do duyên danh, có xúc do duyên nhập đệ lục, có thọ do duyên xúc, có hoài nghi do duyên thọ, có hữu do duyên hoài nghi, có sanh do duyên hữu, có lão tử do duyên sanh. Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy.
[355] Ở ÐÂY, VÔ MINH LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự không biết, không thấy… (trùng)… vô minh như then chốt, si là căn bất thiện. Ðây gọi là vô minh… (trùng)…
Ở ÐÂY, THỌ DO DUYÊN XÚC LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự không vui không buồn thuộc về tâm, trạng thái cảm thọ phi khổ phi lạc sanh từ tâm xúc, sự cảm giác phi khổ phi lạc sanh từ tâm xúc. Ðây gọi là thọ do duyên xúc.
Ở ÐÂY, HOÀI NGHI DO DUYÊN THỌ LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự do dự, cách do dự, thái độ do dự, sự dị nghị, sự không xác định, sự lưỡng ước, sự phân vân, sự ngờ vực, sự không nhất quyết, tính vớ vẩn, sự lẩn quẩn, sự không quyết đoán, tình trạng lay động của tâm, rối ý. Ðây gọi là hoài nghi do duyên thọ.
Ở ÐÂY, HỮU DO DUYÊN HOÀI NGHI LÀ THẾ NÀO?
Tức thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn trừ ra hoài nghi. Ðây gọi là hữu do duyên hoài nghi… (trùng)… bởi lẽ ấy được nói rằng: “Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy”… (trùng)…
DỨT TÂM BẤT THIỆN THỨ MƯỜI MỘT
TÂM BẤT THIỆN THỨ MƯỜI HAI
[356] THẾ NÀO LÀ CÁC PHÁP BẤT THIỆN?
Khi nào tâm bất thiện sanh khởi câu hành xả, tương ưng điệu cử, bắt cảnh sắc… (trùng)… cảnh pháp, hoặc cảnh chi chi; trong khi ấy có hành do duyên vô minh, có thức do duyên hành, có danh do duyên thức, có nhập đệ lục do duyên danh, có xúc do duyên nhập đệ lục, có thọ do duyên xúc, có điệu cử do duyên thọ, có thắng giải do duyên điệu cử, có hữu do duyên thắng giải, có sanh do duyên hữu, có lão tử do duyên sanh. Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy.
[357] Ở ÐÂY, VÔ MINH LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự không biết, không thấy… (trùng)… vô minh như then chốt, si là căn bất thiện. Ðây gọi là vô minh… (trùng)…
Ở ÐÂY, THỌ DO DUYÊN XÚC LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự không vui không buồn thuộc về tâm, trạng thái cảm thọ phi khổ phi lạc sanh từ tâm xúc, sự cảm giác phi khổ phi lạc sanh từ tâm xúc. Ðây gọi là thọ do duyên xúc.
Ở ÐÂY, ÐIỆU CỬ DO DUYÊN THỌ LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự phóng dật của tâm, sự không vắng lặng, tâm lao chao, tình trạng tán loạn của tâm. Ðây gọi là điệu cử do duyên thọ.
Ở ÐÂY, THẮNG GIẢI DO DUYÊN ÐIỆU CỬ LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự quyết đoán, cách quyết đoán, thái độ quyết đoán cảnh. Ðây gọi là thắng giải do duyên điệu cử.
Ở ÐÂY, HỮU DO DUYÊN THẮNG GIẢI LÀ THẾ NÀO?
Tức thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn trừ ra thắng giải. Ðây gọi là hữu do duyên thắng giải… (trùng)… bởi lẽ ấy được nói rằng: “Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy”.
DỨT TÂM BẤT THIỆN THỨ HAI
DỨT PHẦN XIỂN MINH BẤT THIỆN
XIỂN MINH THIỆN (Kusalaniddeso)
TÁM TÂM THIỆN DỤC GIỚI (Kāmavacarakusalacitta)
TÂM ÐẠI THIỆN THỨ NHẤT
[358] THẾ NÀO LÀ CÁC PHÁP THIỆN?
Khi nào tâm thiện sanh khởi câu hành hỷ, tương ưng trí, bắt cảnh sắc… (trùng)… cảnh pháp, hay cảnh chi chi; trong khi đó có hành do duyên căn thiện [1], có thức do duyên hành, có danh do duyên thức, có nhập đệ lục do duyên danh, có xúc do duyên nhập đệ lục, có thọ do duyên xúc, có tịnh tín[2] do duyên thọ, có thắng giải[3] do duyên tịnh tín, có hữu[4] do duyên thắng giải, có sanh do duyên hữu, có lão tử do duyên sanh. Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy.
[359] Ở ÐÂY, CĂN THIỆN LÀ THẾ NÀO?
Tức là vô tham, vô sân, vô si. Ở đây thế nào là vô tham? Cái chi là sự không tham muốn, không nhiễm đắm, không tham đắm, không tham luyến, không quyến luyến, thái độ không quyến luyến, không tham ác, vô tham là căn thiện. Ðây gọi là vô tham.
Ở ÐÂY THẾ NÀO LÀ VÔ SÂN?
Cái chi là không phiền giận, không hờn giận, thái độ không hờn giận, không sân độc, không sân ác, vô sân là căn thiện. Ðây gọi là vô sân.
Ở ÐÂY THẾ NÀO LÀ VÔ SI?
Cái chi là sự hiểu biết, sự hiểu rõ… (trùng)… vô si, trạch pháp, chánh kiến. Ðây gọi là vô si. Ðây gọi là căn thiện.
Ở ÐÂY, HÀNH DO DUYÊN CĂN THIỆN LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự tính toán, sự cố quyết, thái độ cố quyết. Ðây gọi là hành do duyên căn thiện… (trùng)…
Ở ÐÂY, THỌ DO DUYÊN XÚC LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự sảng khoái thuộc về tâm, sự dễ chịu thuộc về tâm, trạng thái cảm thọ sãng khoái dễ chịu sanh từ tâm xúc, sự cảm giác sãng khoái dễ chịu sanh từ tâm xúc. Ðây gọi là thọ do duyên xúc.
Ở ÐÂY, TỊNH TÍN DO DUYÊN THỌ LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự tin tưởng, sự tin cậy, sự tín nhiệm, sự tín mộ. Ðây gọi là tịnh tín do duyên thọ.
Ở ÐÂY, THẮNG GIẢI DO DUYÊN TỊNH TÍN LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự quyết đoán của tâm, cách quyết đoán, thái độ quyết đoán cảnh. Ðây gọi là thắng giải do duyên tịnh tín.
Ở ÐÂY, HỮU DO DUYÊN THẮNG GIẢI LÀ THẾ NÀO?
Tức thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn, trừ ra thắng giải. Ðây gọi là hữu do duyên thắng giải… (trùng)… bởi lẽ ấy được nói rằng: “Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy”.
DỨT TÂM ÐẠI THIỆN THỨ NHẤT
TÂM ÐẠI THIỆN THỨ HAI – THỨ BA – THỨ TƯ
[360] THẾ NÀO LÀ CÁC PHÁP THIỆN?
Khi nào tâm thiện sanh khởi câu hành hỷ, tương ưng trí hữu dẫn… (trùng)… câu hành hỷ, bất tương ưng trí… (trùng)… câu hành hỷ, bất tương ưng trí hữu dẫn, bắt cảnh sắc… (trùng)… cảnh pháp, hay cảnh chi chi; trong khi đó có hành do duyên căn thiện, có thức do duyên hành, có danh do duyên thức, có nhập đệ lục do duyên danh, có xúc do duyên nhập đệ lục, có thọ do duyên xúc, có tịnh tín do duyên thọ, có thắng giải do duyên tịnh tín, có hữu do duyên thắng giải, có sanh do duyên hữu, có lão tử do duyên sanh. Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy.
[361] Ở ÐÂY, CĂN THIỆN LÀ THẾ NÀO?
Tức là vô tham, vô sân. Ở đây thế nào là vô tham? Cái chi là sự không tham muốn, không nhiễm đắm, không tham đắm, không tham luyến, không quyến luyến, thái độ không quyến luyến, không tham ác, vô tham là căn thiện. Ðây gọi là vô tham.
Ở ÐÂY THẾ NÀO LÀ VÔ SÂN?
Cái chi là sự không phiền giận, không hờn giận, thái độ không hờn giận, không sân độc, không sân ác, vô sân là căn thiện. Ðây gọi là vô sân. Ðây gọi là căn thiện.
Ở ÐÂY, HÀNH DO DUYÊN CĂN THIỆN LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự tính toán, sự cố quyết, thái độ cố quyết. Ðây gọi là hành do duyên căn thiện… (trùng)… bởi lẽ ấy được nói rằng: “Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy”.
DỨT TÂM ÐẠI THIỆN THỨ TƯ
TÂM ÐẠI THIỆN THỨ NĂM – THỨ SÁU
[362] THẾ NÀO LÀ CÁC PHÁP THIỆN?
Khi nào tâm thiện sanh khởi, câu hành xả, tương ưng trí… (trùng)… câu hành xả, bất tương ưng trí hữu dẫn, bắt cảnh sắc… (trùng)… cảnh pháp, hay cảnh chi chi; trong khi đó có hành do duyên căn thiện, có thức do duyên hành, có danh do duyên thức, có nhập đệ lục do duyên danh, có xúc do duyên nhập đệ lục, có thọ do duyên xúc, có tịnh tín do duyên thọ, có thắng giải do duyên tịnh tín, có hữu do duyên thắng giải, có sanh do duyên hữu, có lão tử do duyên sanh. Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy.
[363] Ở ÐÂY, CĂN THIỆN LÀ THẾ NÀO?
Tức là vô tham, vô sân, vô si… (trùng)… Ðây gọi là căn thiện.
Ở ÐÂY, HÀNH DO DUYÊN CĂN THIỆN LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự tính toán, sự cố quyết, thái độ cố quyết. Ðây gọi là hành do duyên căn thiện… (trùng)…
Ở ÐÂY, THỌ DO DUYÊN XÚC LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự không vui không buồn thuộc về tâm, trạng thái cảm thọ phi khổ phi lạc sanh từ tâm xúc, sự cảm giác phi khổ phi lạc sanh từ tâm xúc. Ðây gọi là thọ do duyên xúc… (trùng)… bởi lẽ ấy được nói rằng: “Như vầy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy”.
DỨT TÂM ÐẠI THIỆN THỨ SÁU
TÂM ÐẠI THIỆN THỨ BẢY – THỨ TÁM
[364] THẾ NÀO LÀ CÁC PHÁP THIỆN?
Khi nào tâm thiện sanh khởi, câu hành xả, bất tương ưng trí… (trùng)… câu hành xả, bất tương ưng trí hữu dẫn, bắt cảnh sắc… (trùng)… cảnh pháp, hay cảnh chi chi; trong khi đó có hành do duyên căn thiện, có thức do duyên hành, có danh do duyên thức, có nhập đệ lục do duyên danh, có xúc do duyên nhập đệ lục, có thọ do duyên xúc, có tịnh tín do duyên thọ, có thắng giải do duyên tịnh tín, có hữu do duyên thắng giải, có sanh do duyên hữu, có lão tử do duyên sanh. Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy.
[365] Ở ÐÂY, CĂN THIỆN LÀ THẾ NÀO?
Tức là vô tham, vô sân… (trùng)… Ðây gọi là căn thiện.
Ở ÐÂY, HÀNH DO DUYÊN CĂN THIỆN LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự tính toán, sự cố quyết, thái độ cố quyết. Ðây gọi là hành do duyên căn thiện… (trùng)… bởi lẽ ấy được nói rằng: “Như vầy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy”.
DỨT TÂM ÐẠI THIỆN THỨ TÁM
DỨT TÁM TÂM THIỆN DỤC GIỚI
TÂM THIỆN SẮC GIỚI (Rūpāvacarakusalacitta)
[366] THẾ NÀO LÀ CÁC PHÁP THIỆN?
Khi nào vị tu tiến theo con đường để đạt đến sắc giới, ly các dục… (trùng)… chứng và trú Sơ thiền đề mục đất; trong khi ấy có hành do duyên căn thiện, có thức do duyên hành, có danh do duyên thức, có nhập đệ lục do duyên danh, có xúc do duyên nhập đệ lục, có thọ do duyên xúc, có tịnh tín do duyên thọ, có thắng giải do duyên tịnh tín, có hữu do duyên thắng giải, có sanh do duyên hữu, có lão tử do duyên sanh. Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy.
[367] Ở ÐÂY, CĂN THIỆN LÀ THẾ NÀO?
Tức là vô tham, vô sân, vô si… (trùng)… Ðây gọi là căn thiện.
Ở ÐÂY, HÀNH DO DUYÊN CĂN THIỆN LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự tính toán, sự cố quyết, thái độ cố quyết. Ðây gọi là hành do duyên căn thiện… (trùng)… bởi lẽ ấy được nói rằng: “Như vầy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy”.
DỨT TÂM THIỆN SẮC GIỚI
TÂM THIỆN VÔ SẮC GIỚI (Arūpāvacarakusalacitta)
[368] THẾ NÀO LÀ CÁC PHÁP THIỆN?
Khi nào vị tu tiến theo con đường để đạt đến vô sắc giới, do vượt qua mọi vô sở hữu xứ, đoạn trừ lạc… (trùng)… chứng và trú tứ thiền, câu hành tưởng phi tưởng phi, phi tưởng xứ; trong khi ấy có hành do duyên căn thiện, có thức do duyên hành, có danh do duyên thức, có nhập đệ lục do duyên danh, có xúc do duyên nhập đệ lục, có thọ do duyên xúc, có tịnh tín do duyên thọ, có thắng giải do duyên tịnh tín, có hữu do duyên thắng giải, có sanh do duyên hữu, có lão tử do duyên sanh. Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy.
[369] Ở ÐÂY, CĂN THIỆN LÀ THẾ NÀO?
Tức là vô tham, vô sân, vô si… (trùng)… Ðây gọi là căn thiện.
Ở ÐÂY, HÀNH DO DUYÊN CĂN THIỆN LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự tính toán, sự cố quyết, thái độ cố quyết. Ðây gọi là hành do duyên căn thiện… (trùng)…
Ở ÐÂY, THỌ DO DUYÊN XÚC LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự không vui không buồn thuộc về tâm, trạng thái cảm thọ phi khổ phi lạc sanh từ tâm xúc. Sự cảm giác phi khổ phi lạc sanh từ tâm xúc. Ðây gọi là thọ do duyên xúc… (trùng)… bởi lẽ ấy được nói rằng: “Như vầy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy”.
DỨT TÂM THIỆN SẮC GIỚI
TÂM THIỆN SIÊU THẾ (Lokuttarakusalacitta)
[370] THẾ NÀO LÀ CÁC PHÁP THIỆN?
Khi nào vị tu tiến thiền Siêu thế, pháp dẫn xuất, nhân tịch diệt, đoạn trừ thiên kiến, chứng đạt đệ nhất địa vức, ly các dục… (trùng)… chứng và trú Sơ thiền, hành nan đắc trì; trong khi ấy có hành do duyên căn thiện, có thức do duyên hành, có danh do duyên thức, có nhập đệ lục do duyên danh, có xúc do duyên nhập đệ lục, có thọ do duyên xúc, có tịnh tín do duyên thọ, có thắng giải do duyên tịnh tín, có hữu do duyên thắng giải, có sanh do duyên hữu, có lão tử do duyên sanh. Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy.
[371] Ở ÐÂY, CĂN THIỆN LÀ THẾ NÀO?
Tức vô tham, vô sân, vô si… (trùng)… Ở đây thế nào là vô si? Cái chi là sự hiểu biết, sự hiểu rõ… (trùng)… vô si, trạch pháp, chánh kiến, trạch pháp giác chi, chi đạo, liên quan đạo. Ðây gọi là vô si. Ðây gọi là căn thiện.
Ở ÐÂY, HÀNH DO DUYÊN CĂN THIỆN LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự tính toán, sự cố quyết, thái độ cố quyết. Ðây gọi là hành do duyên căn thiện… (trùng)…
Ở ÐÂY, THỌ DO DUYÊN XÚC LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự sảng khoái thuộc về tâm, sự dễ chịu thuộc về tâm, trạng thái cảm thọ sãng khoái dễ chịu sanh từ tâm xúc, sự cảm giác sãng khoái dễ chịu sanh từ tâm xúc. Ðây gọi là thọ do duyên xúc
Ở ÐÂY, TỊNH TÍN DO DUYÊN THỌ LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự tin tưởng, sự tin cậy, sự tín nhiệm, sự tín mộ. Ðây gọi là tịnh tín do duyên thọ.
Ở ÐÂY, THẮNG GIẢI DO DUYÊN TỊNH TÍN LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự quyết đoán của tâm, tính cách quyết đoán, thái độ quyết đoán cảnh. Ðây gọi là thắng giải do duyên tịnh tín.
Ở ÐÂY, HỮU DO DUYÊN THẮNG GIẢI LÀ THẾ NÀO?
Tức là thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn trừ ra thắng giải. Ðây gọi là hữu do duyên thắng giải… (trùng)… Nói rằng: “Như vầy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy” tức là sự tập trung, sự tựu trung, sự họp chung, sự hiện hành của toàn bộ khổ uẩn nầy có như vậy. Bởi lẽ ấy được nói rằng: “Như vậy là sự tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy”.
DỨT TÂM THIỆN SIÊU THẾ
DỨT XIỂN MINH THIỆN
XIỂN MINH VÔ KÝ (Abyākataniddeso)
TÁM TÂM DỊ THỤC THIỆN VÔ NHÂN (Ahetukakusalavipākacitta)
TÂM DỊ THỤC THIỆN VÔ NHÂN THỨ NHẤT
[372] THẾ NÀO LÀ CÁC PHÁP VÔ KÝ?
Khi nào nhãn thức dị thục do sự tạo tác tích lũy nghiệp thiện dục giới, sanh khởi câu hành xả, bắt cảnh sắc; trong khi ấy có thức do duyên hành, có danh do duyên thức, có nhập đệ lục do duyên danh, có xúc do duyên nhập đệ lục, có thọ do duyên xúc, có hữu do duyên thọ, có sanh do duyên hữu, có lão tử do duyên sanh. Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy.
[373] Ở ÐÂY, HÀNH LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự tính toán, sự cố quyết, thái độ cố quyết. Ðây gọi là hành.
Ở ÐÂY, THỨC DO DUYÊN HÀNH LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là tâm, ý, tâm địa… (trùng)… ý thức giới sanh từ đó. Ðây gọi là thức do duyên hành.
Ở ÐÂY, DANH DO DUYÊN THỨC LÀ THẾ NÀO?
Tức thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn. Ðây gọi là danh do duyên thức.
Ở ÐÂY, NHẬP ÐỆ LỤC DO DUYÊN DANH LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là tâm, ý, tâm địa… (trùng)… ý thức giới sanh từ đó. Ðây gọi là nhập đệ lục do duyên danh.
Ở ÐÂY, XÚC DO DUYÊN NHẬP ÐỆ LỤC LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự đụng chạm, sự va chạm, sự đối xúc, trạng thái đối xúc. Ðây gọi là xúc do duyên nhập đệ lục.
Ở ÐÂY, THỌ DO DUYÊN XÚC LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự không vui không buồn thuộc về tâm, trạng thái cảm thọ phi khổ phi lạc sanh từ tâm xúc, sự cảm giác phi khổ phi lạc sanh từ tâm xúc. Ðây gọi là thọ do duyên xúc.
Ở ÐÂY, HỮU DO DUYÊN THỌ LÀ THẾ NÀO?
Tức là tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn trừ ra thọ. Ðây gọi là hữu do duyên thọ… (trùng)… bởi lẽ ấy được nói rằng: “Như vầy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy”.
[374] TRONG KHI ẤY, thức do duyên hành có hành làm nhân, danh do duyên thức có thức làm nhân, nhập đệ lục do duyên danh có danh làm nhân, xúc do duyên nhập đệ lục có nhập đệ lục làm nhân, thọ do duyên xúc có xúc làm nhân, hữu do duyên thọ, sanh do duyên hữu, lão tử do duyên sanh. Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy.
[375] TRONG KHI ẤY, có thức do duyên hành tương ưng hành, có danh do duyên thức tương ưng thức, có nhập đệ lục do duyên danh tương ưng danh, có xúc do duyên nhập đệ lục tương ưng nhập đệ lục, có thọ do duyên xúc tương ưng xúc, có hữu do duyên thọ, có sanh do duyên hữu, có lão tử do duyên sanh. Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy.
[376] TRONG KHI ẤY, thức do duyên hành, hành cũng do duyên thức; danh do duyên thức, thức cũng do duyên danh; nhập đệ lục do duyên danh, danh cũng do duyên nhập đệ lục; xúc do duyên nhập đệ lục, nhập đệ lục cũng do duyên xúc; thọ do duyên xúc, xúc cũng do duyên thọ; hữu do duyên thọ, sanh do duyên hữu, lão tử do duyên sanh. Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy.
DỨT TÂM DỊ THỤC THIỆN VÔ NHÂN THỨ NHẤT
TÂM DỊ THỤC THIỆN VÔ NHÂN THỨ HAI – THỨ BA – THỨ TƯ – THỨ NĂM
[377] THẾ NÀO LÀ CÁC PHÁP VÔ KÝ?
Khi nào nhĩ thức dị thục do sự tạo tác tích lũy nghiệp thiện dục giới, sanh khởi câu hành xả, bắt cảnh thinh… (trùng)… tỷ thức… (trùng)… sanh khởi câu hành xả, bắt cảnh khí… (trùng)… thiệt thức… sanh khởi, câu hành xả, bắt cảnh vị… (trùng)… thân thức… sanh khởi, câu hành lạc, bắt cảnh xúc; trong khi ấy có thức do duyên hành, có danh do duyên thức, có nhập đệ lục do duyên danh, có xúc do duyên nhập đệ lục, có thọ do duyên xúc, có hữu do duyên thọ, có sanh do duyên hữu, có lão tử do duyên sanh. Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy.
[378] Ở ÐÂY, HÀNH LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự tính toán, sự cố quyết, thái độ cố quyết. Ðây gọi là hành… (trùng)…
Ở ÐÂY, THỌ DO DUYÊN XÚC LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự sảng khoái thuộc về thân, sự dễ chịu thuộc về thân, trạng thái cảm thọ sãng khoái dễ chịu sanh từ thân xúc sự cảm giác sãng khoái dễ chịu sanh từ thân xúc. Ðây gọi là thọ do duyên xúc.
Ở ÐÂY, HỮU DO DUYÊN THỌ LÀ THẾ NÀO?
Tức là tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn trừ ra thọ. Ðây gọi là hữu do duyên thọ… (trùng)… bởi lẽ ấy được nói rằng: “Như vầy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy”.
DỨT TÂM DỊ THỤC THIỆN VÔ NHÂN THỨ NĂM
TÂM DỊ THỤC THIỆN VÔ NHÂN THỨ SÁU
[379] THẾ NÀO LÀ CÁC PHÁP VÔ KÝ?
Khi nào ý giới dị thục do sự tạo tác tích lũy nghiệp thiện dục giới, sanh khởi câu hành xả, bắt cảnh sắc… (trùng)… cảnh xúc, hoặc cảnh chi chi; trong khi ấy có thức do duyên hành, có danh do duyên thức, có nhập đệ lục do duyên danh, có xúc do duyên nhập đệ lục, có thọ do duyên xúc, có thắng giải do duyên thọ, có hữu do duyên thắng giải, có sanh do duyên hữu, có lão tử do duyên sanh. Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy.
[380] Ở ÐÂY, HÀNH LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự tính toán, sự cố quyết, thái độ cố quyết. Ðây gọi là hành.
Ở ÐÂY, THỨC DO DUYÊN HÀNH LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là tâm, ý, tâm địa… (trùng)… ý thức giới sanh từ đó. Ðây gọi là thức do duyên hành… (trùng)…
Ở ÐÂY, THỌ DO DUYÊN XÚC LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự không vui không buồn thuộc về tâm, trạng thái cảm thọ phi khổ phi lạc sanh từ tâm xúc, sự cảm giác phi khổ phi lạc sanh từ tâm xúc. Ðây gọi là thọ do duyên xúc.
Ở ÐÂY, THẮNG GIẢI DO DUYÊN THỌ LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự quyết đoán của tâm, cách quyết đoán, thái độ quyết đoán cảnh. Ðây gọi là thắng giải do duyên thọ.
Ở ÐÂY, HỮU DO DUYÊN THẮNG GIẢI LÀ THẾ NÀO?
Tức là thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn trừ ra thắng giải. Ðây gọi là hữu do duyên thắng giải… (trùng)… bởi lẽ ấy được nói rằng: “Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy”.
DỨT TÂM DỊ THỤC THIỆN VÔ NHÂN THỨ SÁU
TÂM DỊ THỤC THIỆN VÔ NHÂN THỨ BẢY
[381] THẾ NÀO LÀ CÁC PHÁP VÔ KÝ?
Khi nào ý thức giới dị thục do sự tạo tác tích lũy nghiệp thiện dục giới, sanh khởi câu hành hỷ, bắt cảnh sắc… (trùng)… cảnh pháp, hoặc cảnh chi chi; trong khi ấy có thức do duyên hành, có danh do duyên thức, có nhập đệ lục do duyên danh, có xúc do duyên nhập đệ lục, có thọ do duyên xúc, có thắng giải do duyên thọ, có hữu do duyên thắng giải, có sanh do duyên hữu, có lão tử do duyên sanh. Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy.
[382] Ở ÐÂY, HÀNH LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự tính toán, sự cố quyết, thái độ cố quyết. Ðây gọi là hành.
Ở ÐÂY, THỨC DO DUYÊN HÀNH LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là tâm, ý, tâm địa… (trùng)… ý thức giới sanh từ đó. Ðây gọi là thức do duyên hành… (trùng)…
Ở ÐÂY, THỌ DO DUYÊN XÚC LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự sảng khoái thuộc về tâm, sự dễ chịu thuộc về tâm, trạng thái cảm thọ sãng khoái dễ chịu sanh từ tâm xúc, sự cảm giác sãng khoái dễ chịu sanh từ tâm xúc. Ðây gọi là thọ do duyên xúc.
Ở ÐÂY, THẮNG GIẢI DO DUYÊN THỌ LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự quyết đoán của tâm, cách quyết đoán, thái độ quyết đoán cảnh. Ðây gọi là thắng giải do duyên thọ.
Ở ÐÂY, HỮU DO DUYÊN THẮNG GIẢI LÀ THẾ NÀO?
Tức là thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn trừ ra thắng giải. Ðây gọi là hữu do duyên thắng giải… (trùng)… bởi lẽ ấy được nói rằng: “Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy”.
DỨT TÂM DỊ THỤC THIỆN VÔ NHÂN THỨ BẢY
TÂM DỊ THỤC THIỆN VÔ NHÂN THỨ TÁM
[383] THẾ NÀO LÀ CÁC PHÁP VÔ KÝ?
Khi nào ý thức giới dị thục do sự tạo tác tích lũy nghiệp thiện dục giới, sanh khởi câu hành xả, bắt cảnh sắc… (trùng)… cảnh pháp, hoặc cảnh chi chi; trong khi ấy có thức do duyên hành, có danh do duyên thức, có nhập đệ lục do duyên danh, có xúc do duyên nhập đệ lục, có thọ do duyên xúc, có thắng giải do duyên thọ, có hữu do duyên thắng giải, có sanh do duyên hữu, có lão tử do duyên sanh. Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy.
[384] Ở ÐÂY, HÀNH LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự tính toán, sự cố quyết, thái độ cố quyết. Ðây gọi là hành.
Ở ÐÂY, THỨC DO DUYÊN HÀNH LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là tâm, ý, tâm địa… (trùng)… ý thức giới sanh từ đó. Ðây gọi là thức do duyên hành… (trùng)…
Ở ÐÂY, THỌ DO DUYÊN XÚC LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự không vui không buồn thuộc về tâm, trạng thái cảm thọ phi khổ phi lạc sanh từ tâm xúc, sự cảm giác phi khổ phi lạc sanh từ tâm xúc. Ðây gọi là thọ do duyên xúc.
Ở ÐÂY, THẮNG GIẢI DO DUYÊN THỌ LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự quyết đoán của tâm, cách quyết đoán, thái độ quyết đoán cảnh. Ðây gọi là thắng giải do duyên thọ.
Ở ÐÂY, HỮU DO DUYÊN THẮNG GIẢI LÀ THẾ NÀO?
Tức là thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn trừ ra thắng giải. Ðây gọi là hữu do duyên thắng giải… (trùng)… bởi lẽ ấy được nói rằng: “Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy”.
DỨT TÂM DỊ THỤC THIỆN VÔ NHÂN THỨ TÁM
DỨT TÂM DỊ THỤC THIỆN VÔ NHÂN
TÁM TÂM DỊ THỤC DỤC GIỚI HỮU NHÂN (Sahetukakāmāvacarakusalavipākacitta)
[385] THẾ NÀO LÀ CÁC PHÁP VÔ KÝ?
Khi nào ý thức giới dị thục do sự tạo tác tích lũy nghiệp thiện dục giới, sanh khởi câu hành hỷ tương ưng trí… (trùng)… câu hành hỷ tương ưng trí hữu dẫn… (trùng)… câu hành hỷ bất tương ưng trí… (trùng)… câu hành hỷ bất tương ưng trí hữu dẫn… (trùng)… câu hành xả tương ưng trí… (trùng)… câu hành xả tương ưng trí hữu dẫn… (trùng)… câu hành xả bất tương ưng trí… (trùng)… câu hành xả bất tương ưng trí hữu dẫn bắt cảnh sắc… (trùng)… cảnh pháp, hoặc cảnh chi chi; trong khi ấy có thức do duyên hành, có danh do duyên thức, có nhập đệ lục do duyên danh, có xúc do duyên nhập đệ lục, có thọ do duyên xúc, có tịnh tín do duyên thọ, có thắng giải do duyên tịnh tín, có hữu do duyên thắng giải, có sanh do duyên hữu, có lão tử do duyên sanh. Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy.
[386] Ở ÐÂY, HÀNH LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự tính toán, sự cố quyết, thái độ cố quyết. Ðây gọi là hành.
Ở ÐÂY, THỨC DO DUYÊN HÀNH LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là tâm, ý, tâm địa… (trùng)… ý thức giới sanh từ đó. Ðây gọi là thức do duyên hành… (trùng)…
Ở ÐÂY, TỊNH TÍN DO DUYÊN THỌ LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự tin tưởng, sự tin cậy, sự tín nhiệm, sự tín mộ. Ðây gọi là tịnh tín do duyên thọ.
Ở ÐÂY, THẮNG GIẢI DO DUYÊN TỊNH TÍN LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự quyết đoán của tâm, cách quyết đoán, thái độ quyết đoán cảnh. Ðây gọi là thắng giải do duyên tịnh tín.
Ở ÐÂY, HỮU DO DUYÊN THẮNG GIẢI LÀ THẾ NÀO?
Tức thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn trừ ra thắng giải. Ðây gọi là hữu do duyên thắng giải… (trùng)… bởi lẽ ấy được nói rằng: “Như vầy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy”.
DỨT TÂM DỊ THỤC DỤC GIỚI HỮU NHÂN
TÂM DỊ THỤC SẮC GIỚI (Rūpāvacaravipākacitta)
[387] THẾ NÀO LÀ CÁC PHÁP VÔ KÝ?
Khi nào vị tu tiến theo con đường để đạt đến sắc giới, ly các dục… (trùng)… chứng và trú sơ thiền, đề mục đất; trong khi ấy có xúc… (trùng)… có bất phóng dật. Ðây là các pháp thiện. Do sự tạo tác tích lũy nghiệp thiện sắc giới đó, bậc ly các dục… (trùng)… chứng và trú sơ thiền, đề mục đất, thành tựu dị thục; trong khi ấy có thức do duyên hành, có danh do duyên thức, có nhập đệ lục do duyên danh, có xúc do duyên nhập đệ lục, có thọ do duyên xúc, có tịnh tín do duyên thọ, có thắng giải do duyên tịnh tín, có hữu do duyên thắng giải, có sanh do duyên hữu, có lão tử do duyên sanh. Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy.
DỨT TÂM DỊ THỤC SẮC GIỚI
TÂM DỊ THỤC VÔ SẮC GIỚI (Arūpāvacaravipākacitta)
[388] THẾ NÀO LÀ CÁC PHÁP VÔ KÝ?
Khi nào vị tu tiến theo con đường để đạt đến vô sắc giới, do vượt qua mọi vô sở hữu xứ, đoạn trừ lạc… (trùng)… chứng và trú tứ thiền, câu hành tưởng phi tưởng phi, phi tưởng xứ; trong khi ấy có xúc… (trùng)… có bất phóng dật. Ðây là các pháp thiện. Do sự tạo tác tích lũy nghiệp thiện vô sắc giới đó, bậc vượt qua mọi vô sở hữu xứ, đoạn trừ lạc… (trùng)… chứng và trú tứ thiền, câu hành tưởng phi tưởng phi, phi tưởng xứ, thành tựu dị thục; trong khi ấy có thức do duyên hành, có danh do duyên thức, có nhập đệ lục do duyên danh, có xúc do duyên nhập đệ lục, có thọ do duyên xúc, có tịnh tín do duyên thọ, có thắng giải do duyên tịnh tín, có hữu do duyên thắng giải, có sanh do duyên hữu, có lão tử do duyên sanh. Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy.
DỨT TÂM DỊ THỤC VÔ SẮC GIỚI
TÂM DỊ THỤC SIÊU THẾ (Lokuttaravipākacitta)
[389] THẾ NÀO LÀ CÁC PHÁP VÔ KÝ?
Khi nào vị tu tiến thiền Siêu thế, pháp dẫn xuất, nhân tịch diệt, đoạn trừ thiên kiến, chứng đạt đệ nhất địa vức, ly các dục… (trùng)… chứng và trú Sơ thiền, hành nan đắc trì; trong khi ấy có xúc… (trùng)… có bất phóng dật. Ðây là các pháp thiện. Do sự tạo tác tu tiến thiền Siêu thế đó, bậc ly các dục… (trùng)… chứng và trú Sơ thiền không tánh, hành nan đắc trì, thành tựu quả; trong khi ấy có thức do duyên hành, có danh do duyên thức, có nhập đệ lục do duyên danh, có xúc do duyên nhập đệ lục, có thọ do duyên xúc, có tịnh tín do duyên thọ, có thắng giải do duyên tịnh tín, có hữu do duyên thắng giải, có sanh do duyên hữu, có lão tử do duyên sanh. Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy.
BẢY TÂM DỊ THỤC BẤT THIỆN (Akusalavipākacitta)
TÂM DỊ THỤC BẤT THIỆN THỨ NHẤT – THỨ HAI – THỨ BA – THỨ TƯ – THỨ NĂM
[390] THẾ NÀO LÀ CÁC PHÁP VÔ KÝ?
Khi nào tâm nhãn thức dị thục do sự tạo tác tích lũy nghiệp bất thiện, sanh khởi câu hành xả, bắt cảnh sắc… (trùng)… nhĩ thức… sanh khởi câu hành xả, bắt cảnh thinh… (trùng)… tỷ thức… sanh khởi, câu hành xả, bắt cảnh khí… (trùng)… thiệt thức… sanh khởi, câu hành xả, bắt cảnh vị… (trùng)… thân thức… sanh khởi, câu hành khổ, bắt cảnh xúc; trong khi ấy có thức do duyên hành, có danh do duyên thức, có nhập đệ lục do duyên danh, có xúc do duyên nhập đệ lục, có thọ do duyên xúc, có hữu do duyên thọ, có sanh do duyên hữu, có lão tử do duyên sanh. Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy.
[391] Ở ÐÂY, HÀNH LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự tính toán, sự cố quyết, thái độ cố quyết. Ðây gọi là hành.
Ở ÐÂY, THỨC DO DUYÊN HÀNH LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là tâm, ý, tâm địa… (trùng)… ý thức giới sanh từ đó. Ðây gọi là thức do duyên hành… (trùng)…
Ở ÐÂY, THỌ DO DUYÊN XÚC LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự bất an thuộc về thân, sự khó chịu thuộc về thân, trạng thái cảm thọ bất an khó chịu sanh từ thân xúc, sự cảm giác bất an khó chịu sanh từ thân xúc. Ðây gọi là thọ do duyên xúc.
Ở ÐÂY, HỮU DO DUYÊN THỌ LÀ THẾ NÀO?
Tức là tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn trừ ra thọ. Ðây gọi là hữu do duyên thọ… (trùng)… bởi lẽ ấy được nói rằng: “Như vầy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy”.
TÂM DỊ THỤC BẤT THIỆN THỨ SÁU
[392] THẾ NÀO LÀ CÁC PHÁP VÔ KÝ?
Khi nào ý giới, dị thục do sự tạo tác tích lũy nghiệp bất thiện, sanh khởi câu hành xả, bắt cảnh sắc… (trùng)… cảnh xúc hoặc cảnh chi chi; trong khi ấy có thức do duyên hành, có danh do duyên thức, có nhập đệ lục do duyên danh, có xúc do duyên nhập đệ lục, có thọ do duyên xúc, có thắng giải do duyên thọ, có hữu do duyên thắng giải, có sanh do duyên hữu, có lão tử do duyên sanh. Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy.
[393] Ở ÐÂY, HÀNH LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự tính toán, sự cố quyết, thái độ cố quyết. Ðây gọi là hành.
Ở ÐÂY, THỨC DO DUYÊN HÀNH LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là tâm, ý, tâm địa… (trùng)… ý thức giới sanh từ đó. Ðây gọi là thức do duyên hành… (trùng)…
Ở ÐÂY, THỌ DO DUYÊN XÚC LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự không vui không buồn thuộc về tâm, trạng thái cảm thọ phi khổ phi lạc sanh từ tâm xúc, sự cảm giác phi khổ phi lạc sanh từ tâm xúc. Ðây gọi là thọ do duyên xúc.
Ở ÐÂY, THẮNG GIẢI DO DUYÊN THỌ LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự quyết đoán của tâm, cách quyết đoán, thái độ quyết đoán cảnh. Ðây gọi là thắng giải do duyên thọ.
Ở ÐÂY, HỮU DO DUYÊN THẮNG GIẢI LÀ THẾ NÀO?
Tức là thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn trừ ra thắng giải. Ðây gọi là hữu do duyên thắng giải… (trùng)… bởi lẽ ấy, được nói rằng: “Như vầy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy”.
TÂM DỊ THỤC BẤT THIỆN THỨ BẢY
[394] THẾ NÀO LÀ CÁC PHÁP VÔ KÝ?
Khi nào ý thức giới dị thục do sự tạo tác tích lũy nghiệp bất thiện, sanh khởi câu hành xả, bắt cảnh sắc… (trùng)… cảnh pháp, hoặc cảnh chi chi; trong khi ấy có thức do duyên hành, có danh do duyên thức, có nhập đệ lục do duyên danh, có xúc do duyên nhập đệ lục, có thọ do duyên xúc, có thắng giải do duyên thọ, có hữu do duyên thắng giải, có sanh do duyên hữu, có lão tử do duyên sanh. Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy.
[395] Ở ÐÂY, HÀNH LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự tính toán, sự cố quyết, thái độ cố quyết. Ðây gọi là hành.
Ở ÐÂY, THỨC DO DUYÊN HÀNH LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là tâm, ý, tâm địa… (trùng)… ý thức giới sanh từ đó. Ðây gọi là thức do duyên hành… (trùng)… bởi lẽ ấy, được nói rằng: “Như vầy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy”.
DỨT TÂM DỊ THỤC BẤT THIỆN
BA TÂM TỐ VÔ NHÂN (Ahetukakiriyācitta)
[396] THẾ NÀO LÀ CÁC PHÁP VÔ KÝ?
Khi nào ý giới sanh khởi thuộc tố, phi thiện phi bất thiện, phi quả nghiệp, câu hành xả bắt cảnh sắc… (trùng)… cảnh xúc, hoặc cảnh chi chi… (trùng)… ý thức giới sanh khởi thuộc tố, phi thiện phi bất thiện, phi quả nghiệp, câu hành hỷ, bắt cảnh sắc… (trùng)… cảnh pháp, hoặc cảnh chi chi… (trùng)… ý thức giới sanh khởi thuộc tố, phi thiện phi bất thiện, phi quả nghiệp, câu hành xả, bắt cảnh sắc… (trùng)… cảnh pháp, hoặc cảnh chi chi… (trùng)… trong khi ấy có thức do duyên hành, có danh do duyên thức, có nhập đệ lục do duyên danh, có xúc do duyên nhập đệ lục, có thọ do duyên xúc, có thắng giải do duyên thọ, có hữu do duyên thắng giải, có sanh do duyên hữu, có lão tử do duyên sanh. Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy.
TÁM TÂM TỐ DỤC GIỚI HỮU NHÂN (Sahetukakāmāvacarakiriyācitta)
[397] THẾ NÀO LÀ CÁC PHÁP VÔ KÝ?
Khi nào ý giới sanh khởi, thuộc tố, phi thiện phi bất thiện, phi quả nghiệp, câu hành hỷ tương ưng trí… (trùng)… câu hành hỷ tương ưng trí hữu dẫn… (trùng)… câu hành hỷ bất tương ưng trí… (trùng)… câu hành hỷ bất tương ưng trí hữu dẫn… (trùng)… câu hành xả tương ưng trí… (trùng)… câu hành xả tương ưng trí hữu dẫn… (trùng)… câu hành xả bất tương ưng trí… (trùng)… câu hành xả bất tương ưng trí hữu dẫn, bắt cảnh sắc… (trùng)… cảnh pháp, hoặc cảnh chi chi; trong khi ấy có thức do duyên hành, có danh do duyên thức, có nhập đệ lục do duyên danh, có xúc do duyên nhập đệ lục, có thọ do duyên xúc, có tịnh tín do duyên thọ, có thắng giải do duyên tịnh tín, có hữu do duyên thắng giải, có sanh do duyên hữu, có lão tử do duyên sanh. Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy.
TÂM TỐ SẮC GIỚI (Rūpāvacarakiriyācitta)
[398] THẾ NÀO LÀ CÁC PHÁP VÔ KÝ?
Khi nào vị tu tiến thiền sắc giới, thuộc tố, phi thiện phi bất thiện, phi quả của nghiệp, hiện tại lạc trú, ly các dục… (trùng)… chứng và trú Sơ thiền đề mục đất; trong khi ấy có thức do duyên hành, có danh do duyên thức, có nhập đệ lục do duyên danh, có xúc do duyên nhập đệ lục, có thọ do duyên xúc, có tịnh tín do duyên thọ, có thắng giải do duyên tịnh tín, có hữu do duyên thắng giải, có sanh do duyên hữu, có lão tử do duyên sanh. Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy.
TÂM TỐ VÔ SẮC GIỚI (Arūpāvacarakiriyācitta)
[399] THẾ NÀO LÀ CÁC PHÁP VÔ KÝ?
Khi nào vị tu thiền vô sắc giới, thuộc tố, phi thiện phi bất thiện, phi quả của nghiệp, hiện tại lạc trú, vượt qua mọi vô sở hữu xứ, đoạn trừ lạc… (trùng)… chứng và trú tứ thiền câu hành tưởng phi tưởng phi phi tưởng xứ; trong khi ấy có thức do duyên hành, có danh do duyên thức, có nhập đệ lục do duyên danh, có xúc do duyên nhập đệ lục, có thọ do duyên xúc, có tịnh tín do duyên thọ, có thắng giải do duyên tịnh tín, có hữu do duyên thắng giải, có sanh do duyên hữu, có lão tử do duyên sanh. Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy.
DỨT XIỂN MINH VÔ KÝ
XIỂN MINH THIỆN VÔ MINH CĂN (Avijjāmūlakakusalaniddeso)
TÂM ÐẠI THIỆN THỨ NHẤT
[400] THẾ NÀO LÀ CÁC PHÁP THIỆN?
Khi nào có tâm thiện dục giới sanh khởi, câu hành hỷ tương ưng trí, bắt cảnh sắc… (trùng)… cảnh pháp, hoặc cảnh chi chi; trong khi ấy có hành do duyên vô minh, có thức do duyên hành, có danh do duyên thức, có nhập đệ lục do duyên danh, có xúc do duyên nhập đệ lục, có thọ do duyên xúc, có tịnh tín do duyên thọ, có thắng giải do duyên tịnh tín, có hữu do duyên thắng giải, có sanh do duyên hữu, có lão tử do duyên sanh. Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy.
[401] Ở ÐÂY, HÀNH DO DUYÊN VÔ MINH LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự tính toán, sự cố quyết, thái độ cố quyết. Ðây gọi là hành do duyên vô minh… (trùng)…
Ở ÐÂY, THỌ DO DUYÊN XÚC LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự sảng khoái thuộc về tâm, sự dễ chịu thuộc về tâm, trạng thái cảm thọ sãng khoái dễ chịu sanh từ tâm xúc, sự cảm giác sãng khoái dễ chịu sanh từ tâm xúc. Ðây gọi là thọ do duyên xúc.
Ở ÐÂY, TỊNH TÍN DO DUYÊN THỌ LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự tin tưởng, sự tin cậy, sự tín nhiệm, sự tín mộ. Ðây gọi là tịnh tín do duyên thọ.
Ở ÐÂY, THẮNG GIẢI DO DUYÊN TỊNH TÍN LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự quyết đoán của tâm, cách quyết đoán, thái độ quyết đoán cảnh. Ðây gọi là thắng giải do duyên tịnh tín.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ HỮU DO DUYÊN THẮNG GIẢI?
Tức thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn trừ ra thắng giải. Ðây gọi là hữu do duyên thắng giải… (trùng)… bởi lẽ ấy được nói rằng: “Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy”.
[402] TRONG KHI ẤY, có hành do duyên vô minh, có thức do duyên hành, có danh do duyên thức, có xúc do duyên danh, có thọ do duyên xúc, có tịnh tín do duyên thọ, có thắng giải do duyên tịnh tín, có hữu do duyên thắng giải, có sanh do duyên hữu, có lão tử do duyên sanh. Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy.
[403] TRONG KHI ẤY, có hành do duyên vô minh, có thức do duyên hành, có danh sắc do duyên thức, có nhập đệ lục do duyên danh sắc, có xúc do duyên nhập đệ lục, có thọ do duyên xúc, có tịnh tín do duyên thọ, có thắng giải do duyên tịnh tín, có hữu do duyên thắng giải, có sanh do duyên hữu, có lão tử do duyên sanh. Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy.
[404] TRONG KHI ẤY, có hành do duyên vô minh, có thức do duyên hành, có danh sắc do duyên thức, có lục nhập do duyên danh sắc, có xúc do duyên lục nhập, có thọ do duyên xúc, có tịnh tín do duyên thọ, có thắng giải do duyên tịnh tín, có hữu do duyên thắng giải, có sanh do duyên hữu, có lão tử do duyên sanh. Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy.
TÂM ÐẠI THIỆN THỨ HAI – THỨ BA – THỨ TƯ – THỨ NĂM – THỨ SÁU – THỨ BẢY – THỨ TÁM
[405] THẾ NÀO LÀ CÁC PHÁP THIỆN?
Khi nào có tâm thiện dục giới sanh khởi câu hành hỷ tương ưng trí hữu dẫn… (trùng)… câu hành hỷ bất tương ưng trí… (trùng)… câu hành hỷ bất tương ưng trí hữu dẫn… (trùng)… câu hành xả tương ưng trí… (trùng)… câu hành xả tương ưng trí hữu dẫn… (trùng)… câu hành xả bất tương ưng trí… (trùng)… câu hành xả bất tương ưng trí hữu dẫn, bắt cảnh sắc… (trùng)… cảnh pháp, hoặc cảnh chi chi; trong khi ấy có hành do duyên vô minh, có thức do duyên hành, có danh do duyên thức, có nhập đệ lục do duyên danh, có xúc do duyên nhập đệ lục, có thọ do duyên xúc, có tịnh tín do duyên thọ, có thắng giải do duyên tịnh tín, có hữu do duyên thắng giải, có sanh do duyên hữu, có lão tử do duyên sanh. Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy.
TÂM THIỆN SẮC GIỚI (Rūpāvacarakusalacitta)
[406] THẾ NÀO LÀ CÁC PHÁP THIỆN?
Khi nào vị tu tiến theo con đường để đạt đến sắc giới, ly các dục… (trùng)… chứng và trú Sơ thiền, đề mục đất; trong khi ấy có hành do duyên vô minh, có thức do duyên hành, có danh do duyên thức, có nhập đệ lục do duyên danh, có xúc do duyên nhập đệ lục, có thọ do duyên xúc, có tịnh tín do duyên thọ, có thắng giải do duyên tịnh tín, có hữu do duyên thắng giải, có sanh do duyên hữu, có lão tử do duyên sanh. Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy.
TÂM THIỆN VÔ SẮC GIỚI (Arūpāvacarakusalacitta)
[407] THẾ NÀO LÀ CÁC PHÁP THIỆN?
Khi nào các vị tu tiến theo con đường để đạt đến vô sắc giới, vượt qua mọi vô sở hữu xứ, đoạn trừ lạc… (trùng)… chứng và trú tứ thiền câu hành tưởng, phi tưởng phi phi tưởng xứ; trong khi ấy có hành do duyên vô minh, có thức do duyên hành, có danh do duyên thức, có nhập đệ lục do duyên danh, có xúc do duyên nhập đệ lục, có thọ do duyên xúc, có tịnh tín do duyên thọ, có thắng giải do duyên tịnh tín, có hữu do duyên thắng giải, có sanh do duyên hữu, có lão tử do duyên sanh. Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy.
TÂM THIỆN SIÊU THẾ (Lokuttarakusalacitta)
[408] THẾ NÀO LÀ CÁC PHÁP THIỆN?
Khi nào vị tu tiến thiền Siêu thế, pháp dẫn xuất, nhân tịch diệt, đoạn trừ thiên kiến, chứng đạt đệ nhất địa vức, ly các dục… (trùng)… chứng và trú Sơ thiền, hành nan đắc trì; trong khi ấy có hành do duyên vô minh, có thức do duyên hành, có danh do duyên thức, có nhập đệ lục do duyên danh, có xúc do duyên nhập đệ lục, có thọ do duyên xúc, có tịnh tín do duyên thọ, có thắng giải do duyên tịnh tín, có hữu do duyên thắng giải, có sanh do duyên hữu, có lão tử do duyên sanh. Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy.
DỨT XIỂN MINH THIỆN VÔ MINH CĂN
XIỂN MINH DỊ THỤC THIỆN CĂN (Kusalamūlakavipākaniddesa)
TÁM TÂM DỊ THỤC THIỆN VÔ NHÂN (Ahetukakusalavipākacitta)
TÂM DỊ THỤC THIỆN VÔ NHÂN THỨ NHẤT
[409] THẾ NÀO LÀ CÁC PHÁP VÔ KÝ?
Khi nào nhãn thức dị thục quả sanh khởi do sự tạo tác tích lũy nghiệp thiện dục giới, câu hành xả, bắt cảnh sắc; trong khi ấy có hành do duyên căn thiện, có thức do duyên hành, có danh do duyên thức, có nhập đệ lục do duyên danh, có xúc do duyên nhập đệ lục, có thọ do duyên xúc, có hữu do duyên thọ, có sanh do duyên hữu, có lão tử do duyên sanh. Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy.
[410] Ở ÐÂY, HÀNH DO DUYÊN CĂN THIỆN LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự tính toán, sự cố quyết, thái độ cố quyết. Ðây gọi là hành do duyên căn thiện… (trùng)… bởi lẽ ấy được nói rằng: “Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy”.
TÂM DỊ THỤC THIỆN VÔ NHÂN THỨ HAI- THỨ BA -THỨ TƯ – THỨ NĂM – THỨ SÁU – THỨ BẢY – THỨ TÁM
[411] THẾ NÀO LÀ CÁC PHÁP VÔ KÝ?
Khi nào nhĩ thức dị thục sanh khởi, do sự tạo tác tích lũy của nghiệp thiện dục giới, câu hành xả, bắt cảnh thinh… (trùng)… tỷ thức sanh khởi câu hành xả, bắt cảnh khí… (trùng)… thiệt thức sanh khởi, câu hành xả, bắt cảnh vị… (trùng)… thân thức sanh khởi, câu hành lạc, bắt cảnh xúc; ý thức sanh khởi, câu hành xả, bắt cảnh sắc… (trùng)… cảnh pháp, hoặc cảnh chi chi… (trùng)… ý thức giới sanh khởi, câu hành hỷ, bắt cảnh sắc… (trùng)… cảnh pháp, hoặc cảnh chi chi… (trùng)… ý thức giới sanh khởi câu hành xả, bắt cảnh sắc… (trùng)… cảnh pháp, hoặc cảnh chi chi; trong khi ấy có hành do duyên căn thiện, có thức do duyên hành, có danh do duyên thức, có nhập đệ lục do duyên danh, có xúc do duyên nhập đệ lục, có thọ do duyên xúc, có thắng giải do duyên thọ, có hữu do duyên thắng giải, có sanh do duyên hữu, có lão tử do duyên sanh. Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy.
TÁM TÂM DỊ THỤC DỤC GIỚI HỮU NHÂN (Sahetukāmāvacaravipākacitta)
[412] THẾ NÀO LÀ CÁC PHÁP VÔ KÝ?
Khi nào ý thức giới dị thục quả sanh khởi do sự tạo tác, tích lũy nghiệp thiện dục giới, câu hành hỷ tương ưng trí… (trùng)… câu hành hỷ tương ưng trí hữu dẫn… (trùng)… câu hành hỷ bất tương ưng trí… (trùng)… câu hành hỷ bất tương ưng trí hữu dẫn… (trùng)… câu hành xả tương ưng trí… (trùng)… câu hành xả tương ưng trí hữu dẫn… (trùng)… câu hành xả bất tương ưng trí… (trùng)… câu hành xả bất tương ưng trí hữu dẫn bắt cảnh sắc… (trùng)… cảnh pháp, hoặc cảnh chi chi; trong khi ấy có hành do duyên căn thiện, có thức do duyên hành, có danh do duyên thức, có nhập đệ lục do duyên danh, có xúc do duyên nhập đệ lục, có thọ do duyên xúc, có tịnh tín do duyên thọ, có thắng giải do duyên tịnh tín, có hữu do duyên thắng giải, có sanh do duyên hữu, có lão tử do duyên sanh. Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy.
TÂM DỊ THỤC SẮC GIỚI (Rūpāvacaravipākacitta)
[413] THẾ NÀO LÀ CÁC PHÁP VÔ KÝ?
Khi nào vị tu tiến theo con đường để đạt đến Sắc giới, ly các dục… (trùng)… chứng và trú sơ thiền, đề mục đất; trong khi ấy có xúc… (trùng)… có bất phóng dật. Ðây là các pháp thiện. Do sự tạo tác tích lũy nghiệp thiện sắc giới đó, bậc ly các dục… (trùng)… chứng và trú sơ thiền, đề mục đất thành tựu dị thục; trong khi ấy có hành do duyên vô minh, có thức do duyên hành, có danh do duyên thức, có nhập đệ lục do duyên danh, có xúc do duyên nhập đệ lục, có thọ do duyên xúc, có tịnh tín do duyên thọ, có thắng giải do duyên tịnh tín, có hữu do duyên thắng giải, có sanh do duyên hữu, có lão tử do duyên sanh. Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy.
TÂM DỊ THỤC VÔ SẮC GIỚI (Arūpāvacaravipākacitta)
[414] THẾ NÀO LÀ CÁC PHÁP VÔ KÝ?
Khi nào vị tu tiến theo con đường để đạt đến vô sắc giới, do vượt qua mọi vô sở hữu xứ, đoạn trừ lạc chứng và trú tứ thiền câu hành tưởng phi tưởng phi phi tưởng xứ; trong khi ấy có xúc… (trùng)… có bất phóng dật. Ðây là các pháp thiện. Do sự tạo tác tích lũy nghiệp thiện vô sắc giới đó, bậc vượt qua mọi vô sở hữu xứ, đoạn trừ lạc… (trùng)… chứng và trú tứ thiền câu hành tưởng phi tưởng phi phi tưởng xứ thành tựu dị thục; trong khi ấy có hành do duyên căn thiện, có thức do duyên hành, có danh do duyên thức, có nhập đệ lục do duyên danh, có xúc do duyên nhập đệ lục, có thọ do duyên xúc, có tịnh tín do duyên thọ, có thắng giải do duyên tịnh tín, có hữu do duyên thắng giải, có sanh do duyên hữu, có lão tử do duyên sanh. Như vầy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy.
TÂM DỊ THỤC SIÊU THẾ (Lokuttaravipākacitta)
[415] THẾ NÀO LÀ CÁC PHÁP VÔ KÝ?
Khi nào vị tu tiến thiền Siêu thế, pháp dẫn xuất, nhân tịch diệt, để đoạn trừ thiên kiến, đạt đến đệ nhất địa vức, ly các dục… (trùng)… chứng và trú Sơ thiền, hành nan đắc trì; trong khi ấy có xúc… (trùng)… có bất phóng dật. Ðây là các pháp thiện. Do sự tạo tác tu tiến thiền Siêu thế đó, nên bậc ly các dục… (trùng)… chứng và trú Sơ thiền không tánh, hành nan đắc trì; trong khi ấy có hành do duyên căn thiện, có thức do duyên hành, có danh do duyên thức, có nhập đệ lục do duyên danh, có xúc do duyên nhập đệ lục, có thọ do duyên xúc, có tịnh tín do duyên thọ, có thắng giải do duyên tịnh tín, có hữu do duyên thắng giải, có sanh do duyên hữu, có lão tử do duyên sanh, như vầy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy.
DỨT XIỂN MINH DỊ THỤC THIỆN CĂN
XIỂN MINH DỊ THỤC BẤT THIỆN CĂN (Akusalamūlakavipākacitta)
BẢY TÂM DỊ THỤC QUẢ BẤT THIỆN (Akusalavipākacitta)
TÂM DỊ THỤC QUẢ BẤT THIỆN THỨ NHẤT
[416] THẾ NÀO LÀ CÁC PHÁP VÔ KÝ?
Khi nào do sự tạo các tích lũy nghiệp bất thiện, quả nhãn thức sanh khởi câu hành xả, bắt cảnh sắc; trong khi ấy có hành do duyên căn bất thiện, có thức do duyên hành, có danh do duyên thức, có nhập đệ lục do duyên danh, có xúc do duyên nhập đệ lục, có thọ do duyên xúc, có hữu do duyên thọ, có sanh do duyên hữu, có lão tử do duyên sanh, như vầy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy.
[417] Ở ÐÂY, HÀNH DO DUYÊN CĂN BẤT THIỆN LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự tính toán, sự cố quyết, thái độ cố quyết. Ðây gọi là hành do duyên căn bất thiện… (trùng)… bởi lẽ ấy được nói rằng: “Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy”.
TÂM DỊ THỤC QUẢ BẤT THIỆN THỨ NHÌ – THỨ BA – THỨ TƯ – THỨ NĂM – THỨ SÁU
[418] THẾ NÀO LÀ CÁC PHÁP VÔ KÝ?
Khi nào có sự tạo các tích lũy nghiệp bất thiện, quả nhĩ thức sanh khởi, câu hành xả, bắt cảnh thinh… (trùng)… tỷ thức sanh khởi, câu hành xả, bắt cảnh khí… (trùng)… thiệt thức sanh khởi, câu hành xả, bắt cảnh vị… (trùng)… thân thức sanh khởi, câu hành khổ, bắt cảnh xúc… (trùng)… ý giới sanh khởi, câu hành xả, bắt cảnh sắc… (trùng)… cảnh xúc, hoặc cảnh chi chi; trong khi ấy có hành do duyên căn bất thiện, có thức do duyên hành, có danh do duyên thức, có nhập đệ lục do duyên danh, có xúc do duyên nhập đệ lục, có thọ do duyên xúc, có thắng giải do duyên thọ, có hữu do duyên thắng giải, có sanh do duyên hữu, có lão tử do duyên sanh, như vầy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy.
TÂM DỊ THỤC QUẢ BẤT THIỆN THỨ BẢY
[419] THẾ NÀO LÀ CÁC PHÁP VÔ KÝ?
Khi nào ý thức giới dị thục do sự tạo tác tích lũy nghiệp bất thiện sanh khởi, câu hành xả bắt cảnh sắc… (trùng)… cảnh pháp, hoặc cảnh chi chi; trong khi ấy có hành do duyên căn bất thiện, có thức do duyên hành, có danh do duyên thức, có nhập đệ lục do duyên danh, có xúc do duyên nhập đệ lục, có thọ do duyên xúc, có thắng giải do duyên thọ, có hữu do duyên thắng giải, có sanh do duyên hữu, có lão tử do duyên sanh, như vầy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy.
[420] Ở ÐÂY, HÀNH DO DUYÊN CĂN BẤT THIỆN LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự tính toán, sự cố quyết, thái độ cố quyết. Ðây gọi là hành do duyên căn bất thiện.
[421] Ở ÐÂY, THỨC DO DUYÊN HÀNH LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là tâm, ý, tâm địa… (trùng)… ý thức giới sanh từ đó. Ðây gọi là thức do duyên hành.
[422] Ở ÐÂY, DANH DO DUYÊN THỨC LÀ THẾ NÀO?
Tức là thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn. Ðây gọi là danh do duyên thức.
[423] Ở ÐÂY, NHẬP ÐỆ LỤC DO DUYÊN DANH LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là tâm, ý, tâm địa… (trùng)… ý thức giới sanh từ đó. Ðây gọi là nhập đệ lục do duyên danh.
[424] Ở ÐÂY, XÚC DO DUYÊN NHẬP ÐỆ LỤC LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự đụng chạm, sự va chạm, sự đối xúc, tình trạng đối xúc. Ðây gọi là xúc do duyên nhập đệ lục.
[425] Ở ÐÂY, THỌ DO DUYÊN XÚC LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự không vui không buồn thuộc về tâm, trạng thái cảm thọ phi khổ phi lạc sanh từ tâm xúc, sự cảm giác phi khổ phi lạc sanh từ tâm xúc. Ðây gọi là thọ do duyên xúc.
[426] Ở ÐÂY, THẮNG GIẢI DO DUYÊN THỌ LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự quyết đoán, cách quyết đoán, thái độ quyết đoán cảnh. Ðây gọi là thắng giải do duyên thọ.
[427] Ở ÐÂY, HỮU DO DUYÊN THẮNG GIẢI LÀ THẾ NÀO?
Tức là thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn trừ ra thắng giải. Ðây gọi là hữu do duyên thắng giải.
[428] Ở ÐÂY, SANH DO DUYÊN HỮU LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự sanh, sự sanh ra, sự xuất hiện, sự phát khởi, sự hiện khởi của những pháp ấy. Ðây gọi là sanh do duyên hữu.
[429] Ở ÐÂY, LÃO TỬ DO DUYÊN SANH LÀ THẾ NÀO?
Tức là có lão, có tử.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ LÃO?
Cái chi là sự già nua, cũ kỹ, sự giảm thọ của các pháp ấy. Ðây gọi là già.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ TỬ?
Cái chi là sự hoại tận, sự biến hoại, sự tiêu tán, sự phân tán, sự vô thường, sự biến mất của các pháp ấy. Ðây gọi là tử. Lão nầy và tử nầy là như thế. Ðây gọi là lão tử do duyên sanh.
[430] NÓI RẰNG “NHƯ VẦY LÀ TẬP KHỞI CỦA TOÀN BỘ KHỔ UẨN NẦY”, tức là sự tập trung, sự tựu trung, sự họp chung, sự hiện hành của toàn bộ khổ uẩn nầy có như vậy. Bởi lẽ ấy nên được nói rằng: “Như vầy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy”.
DỨT XIỂN MINH DỊ THỤC BẤT THIỆN CĂN
DỨT PHÂN THEO VI DIỆU PHÁP
DỨT TOÀN BỘ DUYÊN KHỞI PHÂN TÍCH
[1] Căn thiện (kusalamūla) tức là vô tham (alobha), vô sân (adosa) và vô si (amoha). Căn thiện nầy vẫn có thể do vô minh trong kiếp sống làm duyên được, nhưng không trực tiếp duyên câu sanh (sahajāta) hay hỗ tương (aññamañña) hoặc tương ưng (sampayutta).
[2] Pasāda = Saddhācetasika (sở hữu tâm tín).
[3] Adhimokkha tức là adhimokkhacetasika (sở hữu tâm thắng giải).
[4] Hava = Cetanācetasika (sở hữu tâm tư) đề đốc thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp.
NIỆM XỨ PHÂN TÍCH (SATIPATTHĀNAVIBHAṄGO)
PHÂN THEO KINH (Suttantabhājanīyaṃ)
[431] BỐN NIỆM XỨ [1]:
Nơi đây vị tỳ khưu sống năng quán thân đối với thân nội phần, sống năng quán thân đối với thân ngoại phần, sống năng quán thân đối với thân nội ngoại phần, nhiệt tâm, tỉnh giác, ức niệm, diệt trừ tham ưu ở đời.
Sống năng quán thọ đối với các thọ nội phần, sống năng quán thọ đối với các thọ ngoại phần, sống năng quán thọ đối với các thọ nội ngoại phần, nhiệt tâm, tỉnh giác, ức niệm, diệt trừ tham ưu ở đời.
Sống năng quán tâm đối với các tâm nội phần, sống năng quán tâm đối với các tâm ngoại phần, sống năng quán tâm đối với các tâm nội ngoại phần, nhiệt tâm, tỉnh giác, ức niệm, diệt trừ tham ưu ở đời.
Sống năng quán pháp đối với các pháp nội phần, sống năng quán pháp đối với các pháp ngoại phần, sống năng quán pháp đối với các pháp nội ngoại phần, nhiệt tâm, tỉnh giác, ức niệm, diệt trừ tham ưu ở đời.
XIỂN MINH QUÁN THÂN (Kāyānupassanāniddeso)
[432] VỊ TỲ KHƯU SỐNG NĂNG QUÁN THÂN ÐỐI VỚI THÂN NỘI PHẦN LÀ SAO[2]?
Nơi đây, vị tỳ khưu quán tưởng thân bên trong từ bàn chân trở lên, từ ngọn tóc trở xuống, có da bao bộc, chứa đầy những thể bất tịnh diệt: Trong thân nầy có tóc, lông, móng, răng, da thịt, gân, xương, tủy, thận, tim, gan, mạng mở, dạ dày, phổi, ruột già, ruột non, vật thực mới, phẩn, mật, đàm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, dầu da, nước miếng, nước mũi, nước nhớt, nước tiểu. Vị ấy áp dụng, tu tập làm cho sung mãn, nhận định chuẩn xác theo ấn tướng đó; vị ấy sau khi đã áp dụng, tu tập, làm sung mãn, nhận định chuẩn xác theo ấn tướng đó, mới chú tâm vào thân ngoại phần.
[433] VỊ TỲ KHƯU SỐNG NĂNG QUÁN THÂN ÐỐI VỚI THÂN NGOẠI PHẦN LÀ SAO[3]?
Nơi đây, vị tỳ khưu quán tưởng thân bên ngoài từ bàn chân trở lên, từ ngọn tóc trở xuống, có da bao bộc, chứa đầy những thể bất tịnh dị biệt; trong thân của họ có tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, tủy, thận, tim, gan, mạng mở, dạ dày, phổi, ruột già, ruột non, vật thực mới, phẩn, mật, đàm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, dầu da, nước miếng, nước mũi, nước nhớt, nước tiểu. Vị ấy áp dụng, tu tập, làm cho sung mãn, nhận định chuẩn xác theo ấn tướng đó; vị ấy sau khi đã áp dụng tu tập, làm sung mãn, nhận định chuẩn xác theo ấn tướng đó, mới chú tâm vào thân nội ngoại phần.
[434] VỊ TỲ KHƯU SỐNG NĂNG QUÁN THÂN VỚI THÂN NỘI NGOẠI PHẦN LÀ SAO[4]?
Nơi đây, vị tỳ khưu quán tưởng thân bên trong và bên ngoài; từ gót chân trở lên, từ ngọn tóc trở xuống, có da bao bọc chứa đầy những thể bất tịnh dị biệt: trong thân có tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, tủy, thận, tim, gan, mạng mở, dạ dày, phổi, ruột già, ruột non, vật thực mới, phẩn, mật, đàm, mũ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, dầu da, nước miếng, nước mũi, nước nhớt, nước tiểu. Như vậy là vị tỳ khưu sống năng quán thân đối với thân nội ngoại phần, nhiệt tâm, tỉnh giác, ức niệm diệt trừ tham ưu ở đời.
[435] NÓI RẰNG BẬC: “NĂNG QUÁN[5]”, Ở ÐÂY SỰ NĂNG QUÁN LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự hiểu biết, hiểu rõ… (trùng)… vô si, trạch pháp, chánh kiến. Ðây gọi là sự năng quán. Vị dự nhập, biến nhập, dự đáo, mãn đáo, dự đắc, hoàn đắc, thành đạt với sự năng quán nầy, bởi lẽ ấy mới gọi là BẬC NĂNG QUÁN.
[436] NÓI RẰNG “SỐNG[6]” TỨC LÀ cử động, xử sự, trông nom, duy trì, sinh sống, hành động, trú ngụ, bởi lẽ ấy gọi là SỐNG.
[437] NÓI RẰNG BẬC “NHIỆT TÂM[7]”, Ở ÐÂY SỰ NHIỆT TÂM LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự cần cố thuộc về tâm… (trùng)… chánh tinh tấn. Ðây gọi là sự nhiệt tâm. Vị dự nhập, biến nhập, dự đáo, mãn đáo, dự đắc, hoàn đắc, thành đạt với sự nhiệt tâm nầy, bởi lẽ ấy mới gọi là BẬC NHIỆT TÂM.
[438] NÓI RẰNG: “BẬC TỈNH GIÁC[8], Ở ÐÂY, SỰ TỈNH GIÁC LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự hiểu biết, hiểu rõ… (trùng)… vô si, trạch pháp, chánh kiến. Ðây gọi là sự tỉnh giác. Vị dự nhập, biến nhập, dự đáo, mãn đáo, dự đắc, hoàn đắc, thành đạt với sự tỉnh giác nầy, bởi lẽ ấy mới gọi là BẬC TỈNH GIÁC.
[439] NÓI RẰNG BẬC: “ỨC NIỆM[9]” Ở ÐÂY, SỰ ỨC NIỆM LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự nhớ đến, sự tùy niệm… (trùng)… chánh niệm. Ðây gọi là sự ức niệm. Vị dự nhập, biến nhập, dự đáo, mãn đáo, dự đắc, hoàn đắc, thành đạt với sự ức niệm nầy. Bởi lẽ ấy mới gọi là BẬC ỨC NIỆM.
[440] NÓI RẰNG: “DIỆT TRỪ THAM ƯU Ở ÐỜI[10]”, Ở ÐÂY “ÐỜI[11]” LÀ THẾ NÀO?
Ðời chính là thân nầy, hay đời là năm thủ uẩn. Ðây gọi là đời.
Ở ÐÂY, THAM[12] LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự tham luyến, tham đắm… (trùng)… tham đắm của tâm. Ðây gọi là tham.
Ở ÐÂY ƯU[13] LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự bất an, thuộc về tâm, sự khó chịu thuộc về tâm, trạng thái của cảm thọ bất an, khó chịu sanh từ tâm xúc, sự cảm giác bất an, khó chịu sanh từ tâm xúc. Ðây gọi là ưu.
Tham nầy và ưu nầy là như thế, bị hạn chế trong đời nầy, bị tẩy trừ, yên lặng, vắng lặng, tịnh chỉ, dập tắt, diệt tắt, đình chỉ, cấm chỉ, kiệt quệ, tàn rụi, tận diệt, bởi lẽ ấy được nói rằng “diệt trừ tham ưu ở đời”.
DỨT XIỂN MINH QUÁN THÂN
XIỂN MINH QUÁN THỌ (Vedanānupassanāniddeso)
[441] VỊ TỲ KHƯU SỐNG NĂNG QUÁN THỌ ÐỐI VỚI CÁC THỌ NỘI PHẦN LÀ SAO[14]?
Nơi đây, vị tỳ khưu khi đang cảm giác lạc thọ, biết rõ là ta đang cảm giác lạc thọ; khi đang cảm giác khổ thọ, biết rõ là ta đang cảm giác khổ thọ, khi đang cảm giác phi khổ phi lạc thọ, biết rõ là ta đang cảm giác phi khổ phi lac thọ, khi đang cảm giác lạc thọ thuộc về vật chất, biết rõ là ta đang cảm giác lạc thọ thuộc về vật chất; hoặc khi đang cảm giác lạc thọ không thuộc vật chất, biết rõ là ta đang cảm giác lạc thọ không thuộc vật chất; khi đang cảm giác khổ thọ thuộc về vật chất, biết rõ là ta đang cảm giác khổ thọ thuộc vật chất, hoặc khi đang cảm giác khổ thọ không thuộc vật chất thì biết rõ là ta đang cảm giác khổ thọ không thuộc vật chất; khi đang cảm giác phi khổ phi lạc thọ thuộc vật chất, biết rõ là ta đang cảm giác phi khổ phi lạc thọ thuộc vật chất; hoặc khi đang cảm giác phi khổ phi lạc thọ không thuộc vật chất thì biết rõ là ta đang cảm giác phi khổ phi lạc thọ không thuộc vật chất. Vị ấy áp dụng, tu tập, làm sung mãn, nhận định chuẩn xác theo ấn tướng đó, vị ấy sau khi đã áp dụng, tu tập, làm sung mãn, nhận định chuẩn xác ấn tướng đó, mới chú tâm vào các thọ ngoại phần.
[442] VỊ TỲ KHƯU SỐNG NĂNG QUÁN THỌ ÐỐI VỚI CÁC THỌ NGOẠI PHẦN LÀ SAO[15]?
Ở đây, vị tỳ khưu khi người khác cảm giác lạc thọ, vị ấy biết rõ là họ đang cảm giác lạc thọ; khi người khác cảm giác khổ thọ, vị ấy biết rõ là họ đang cảm giác khổ thọ; khi người khác đang cảm giác phi khổ phi lạc thọ, vị ấy biết rõ là họ đang cảm giác phi khổ phi lạc thọ; khi người khác cảm giác lạc thọ thuộc vật chất, vị ấy biết rõ là họ đang cảm giác lạc thọ thuộc vật chất; hoặc khi người khác đang cảm giác lạc thọ không thuộc vật chất, vị ấy biết rõ là họ đang cảm giác lạc thọ không thuộc vật chất; khi người khác đang cảm giác khổ thọ thuộc vật chất, vị ấy biết rõ là họ đang cảm giác khổ thọ thuộc vật chất; hoặc khi người khác đang cảm giác khổ thọ không thuộc vật chất, vị ấy biết rõ là họ đang cảm giác khổ thọ không thuộc vật chất; khi người khác cảm giác phi khổ phi lạc thọ thuộc vật chất, vị ấy biết rõ là họ đang cảm giác phi khổ phi lạc thọ thuộc vật chất; hoặc khi người khác cảm giác phi khổ phi lạc thọ không thuộc vật chất, vị ấy biết rõ là họ đang cảm giác phi khổ phi lạc thọ không thuộc vật chất. Vị ấy áp dụng, tu tập, làm sung mãn, nhận định chuẩn xác[16] theo ấn tướng đó, vị ấy sau khi đã áp dụng, tu tập, làm sung mãn, nhận định chuẩn xác ấn tướng đó, mới chú tâm vào các thọ ngoại phần.
[443] VỊ TỲ KHƯU SỐNG NĂNG QUÁN THỌ ÐỐI VỚI CÁC THỌ NỘI NGOẠI PHẦN LÀ SAO[17]?
Ở đây, vị tỳ khưu biết rõ lạc thọ là lạc thọ, biết rõ khổ thọ là khổ thọ, biết rõ phi khổ phi lạc thọ là phi khổ phi lạc thọ; biết rõ lạc thọ thuộc vật chất là lạc thọ thuộc vật chất, biết rõ lạc thọ không thuộc vật chất là lạc thọ không thuộc vật chất; biết rõ khổ thọ thuộc vật chất là khổ thọ thuộc vật chất, biết rõ khổ thọ không thuộc vật chất là khổ thọ không thuộc vật chất; biết rõ phi khổ phi lạc thọ thuộc vật chất là phi khổ phi lạc thọ thuộc vật chất; biết rõ phi khổ phi lạc thọ không thuộc vật chất là phi khổ phi lạc thọ không thuộc vật chất. Như vậy là vị tỳ khưu sống năng quán thọ đối với các thọ nội ngoại phần, nhiệt tâm, tỉnh giác, ức niệm, diệt trừ tham ưu ở đời.
[444] NÓI RẰNG: “BẬC NĂNG QUÁN”… (trùng)… NÓI RẰNG: “SỐNG”… (trùng)… NÓI RẰNG BẬC “NHIỆT TÂM”… (trùng)… NÓI RẰNG BẬC “TỈNH GIÁC”… (trùng)… NÓI RẰNG BẬC “ỨC NIỆM”… (trùng)… “NÓI RẰNG “DIỆT TRỪ THAM ƯU Ở ÐỜI”
Ở ÐÂY, ÐỜI LÀ THẾ NÀO?
Ðời chính là cảm thọ nầy, hay đời là năm thủ uẩn. Ðây gọi là đời.
Ở ÐÂY, THAM LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự tham luyến, tham đắm… (trùng)… tham đắm của tâm. Ðây gọi là tham.
Ở ÐÂY, ƯU LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự bất an thuộc về tâm, sự khó chịu thuộc về tâm, trạng thái của cảm thọ bất an khó chịu sanh từ tâm xúc, sự cảm giác bất an khó chịu sanh từ tâm xúc. Ðây gọi là ưu.
Tham nầy và ưu nầy là như thế, bị hạn chế trong đời nầy, bị tẩy trừ, yên lặng, vắng lặng, tịnh chỉ, dập tắt, diệt tắt, đình chỉ, cấm chỉ, kiệt quệ, tàn rụi, tận diệt; bởi lẽ ấy được nói rằng: “diệt trừ tham ưu ở đời”.
DỨT XIỂN MINH QUÁN THỌ
XIỂN MINH QUÁN TÂM (Cittānupassanāniddeso)
[445] VỊ TỲ KHƯU SỐNG NĂNG QUÁN TÂM ÐỐI VỚI TÂM NỘI PHẦN LÀ SAO[18]?
Ở đây, vị tỳ khưu tâm có tham, biết rõ là tâm ta có tham; hay tâm ly tham biết rõ là tâm ta ly tham; tâm có sân biết rõ là tâm ta có sân; tâm có ly sân hay biết rõ là tâm ta ly sân, tâm có si biết rõ là tâm ta có si; hay tâm ly si biết rõ là tâm ta ly si; tâm hôn trầm biết rõ là tâm ta hôn trầm; hay tâm phóng dật biết rõ là tâm ta phóng dật; tâm đáo đại biết rõ là tâm ta đáo đại; tâm không đáo đại biết rõ là tâm ta không đáo đại, tâm hữu thượng biết rõ là tâm ta hữu thượng; hay tâm vô thượng biết rõ là tâm ta vô thượng; tâm định tỉnh biết rõ là tâm ta định tỉnh; hay tâm không định tỉnh biết rõ là tâm ta không định tỉnh; tâm giải thoát biết rõ là tâm ta giải thoát; hay tâm chưa giải thoát biết rõ là tâm ta chưa giải thoát. Vị ấy áp dụng, tu tập, làm sung mãn, nhận định chuẩn xác theo ấn tướng đó, vị ấy sau khi đã áp dụng, tu tập, làm sung mãn, nhận định chuẩn xác theo ấn tướng đó, mới chú tâm vào tâm ngoại phần.
[446] VỊ TỲ KHƯU SỐNG NĂNG QUÁN TÂM VỚI TÂM NGOẠI PHẦN LÀ SAO[19]?
Ở đây, tâm của người khác có tham vị tỳ khưu biết rõ là tâm của người nầy có tham, hay tâm của người khác có ly tham vị ấy biết rõ là tâm của người nầy ly tham; tâm của người khác có sân vị ấy biết rõ là tâm của người nầy có sân, hay tâm của người khác có ly sân vị ấy biết rõ là tâm của người nầy ly sân; tâm của người khác có si vị ấy biết rõ là tâm của người nầy có si, hay tâm của người khác có ly si vị ấy biết rõ là tâm của người nầy ly si; tâm của người khác hôn trầm vị ấy biết rõ là tâm của người nầy hôn trầm; tâm của người khác phóng dật vị ấy biết rõ là tâm của người nầy phóng dật; tâm của người khác đáo đại vị ấy biết rõ là tâm của người nầy đáo đại, hay tâm của người khác không đáo đại vị ấy biết rõ là tâm của người nầy không đáo đại; tâm của người khác hữu thuợng vị ấy biết rõ là tâm của người nầy hữu thuợng; tâm của người khác vô thượng vị ấy biết rõ là tâm của người nầy vô thượng, tâm của người khác định tỉnh vị ấy biết rõ là tâm của người nầy định tỉnh; hay tâm của người khác không định tỉnh vị ấy biết rõ là tâm của người nầy không định tỉnh; tâm của người khác giải thoát vị ấy biết rõ là tâm của người nầy giải thoát; hay tâm của người khác chưa giải thoát. Vị ấy biết rõ là tâm của người nầy chưa giải thoát. Vị ấy áp dụng, tu tập, làm sung mãn, nhận định chuẩn xác theo ấn tướng đó; vị ấy sau khi đã áp dụng, tu tập, làm sung mãn, nhận định chuẩn xác theo ấn tướng đó, mới chú tâm vào tâm nội ngoại phần.
[447] VỊ TỲ KHƯU SỐNG NĂNG QUÁN TÂM ÐỐI VỚI TÂM NỘI NGOẠI PHẦN LÀ SAO[20]?
Ở đây, vị tỳ khưu biết rõ tâm có tham là tâm có tham, biết rõ tâm ly tham là tâm ly tham, biết rõ tâm có sân là tâm có sân, biết rõ tâm ly sân là tâm ly sân, biết rõ tâm có si là tâm có si, biết rõ tâm ly si là tâm ly si, biết rõ tâm hôn trầm là tâm hôn trầm, biết rõ tâm phóng dật là tâm phóng dật, biết rõ tâm đáo đại là tâm đáo đại, biết rõ tâm không đáo đại là tâm không đáo đại, biết rõ tâm hữu thượng là tâm hữu thượng, biết rõ tâm vô thượng là tâm vô thượng, biết rõ tâm định tỉnh là tâm định tỉnh, biết rõ tâm không định tỉnh là tâm không định tỉnh, biết rõ tâm giải thoát là tâm giải thoát, biết rõ tâm chưa giải thoát là tâm chưa giải thoát. Như vậy là vị tỳ khưu sống năng quán tâm với tâm nội ngoại phần, nhiệt tâm, tỉnh giác, ức niệm, diệt trừ tham ưu ở đời.
[448] NÓI RẰNG: BẬC “NĂNG QUÁN”… (trùng)… NÓI RẰNG: “SỐNG”… (trùng)… NÓI RẰNG BẬC “NHIỆT TÂM”… (trùng)… NÓI RẰNG: BẬC “TỈNH GIÁC”… (trùng)… NÓI RẰNG: BẬC “ỨC NIỆM”… (trùng)… NÓI RẰNG: “DIỆT TRỪ THAM ƯU Ở ÐỜI”.
Ở ÐÂY, ÐỜI LÀ THẾ NÀO?
Ðời chính là tâm nầy, hay đời là năm thủ uẩn. Ðây gọi là đời.
Ở ÐÂY, THAM LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự tham luyến, tham đắm… (trùng)… tham đắm của tâm. Ðây gọi là tham.
Ở ÐÂY, ƯU LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự bất an thuộc về tâm, sự khó chịu thuộc về tâm, trạng thái của cảm thọ bất an khó chịu sanh từ tâm xúc, sự cảm giác bất an, khó chịu sanh từ tâm xúc. Ðây gọi là ưu.
Tham nầy và ưu nầy là như thế, bị hạn chế trong đời nầy, bị tẩy trừ, yên lặng, vắng lặng, tịnh chỉ, dập tắt, diệt tắt, đình chỉ, cấm chỉ, kiệt quệ, tàn rụi, tận diệt, bởi lẽ ấy được nói rằng: “Diệt trừ tham ưu ở đời”.
DỨT XIỂN MINH QUÁN TÂM
XIỂN MINH QUÁN PHÁP (Dhammānupassanāniddeso)
[449] VỊ TỲ KHƯU SỐNG NĂNG QUÁN PHÁP ÐỐI VỚI CÁC PHÁP NỘI PHẦN LÀ SAO[21]?
Ở đây, vị tỳ khưu nội tâm có dục vọng vị ấy biết rõ là nội tâm ta có dục vọng, nội tâm không có dục vọng vị ấy biết rõ là nội tâm ta không có dục vọng; sự sanh khởi dục vọng chưa sanh khởi như thế nào vị ấy biết rõ thế ấy, sự đoạn trừ dục vọng đã sanh khởi như thế nào vị ấy biết rõ thế ấy, khi dục vọng đã trừ sẽ không sanh trong tương lai như thế nào vị ấy biết rõ thế ấy.
Nội tâm có sân độc… (trùng)… nội tâm có hôn thụy… (trùng)… nội tâm có trạo hối… (trùng)… nội tâm có hoài nghi vị ấy biết rõ là nội tâm ta có hoài nghi, nội tâm không có hoài nghi vị ấy biết rõ là nội tâm ta không có hoài nghi; sự sanh khởi hoài nghi chưa sanh khởi như thế nào, vị ấy biết rõ thế ấy; sự đoạn trừ hoài nghi đã sanh khởi như thế nào, vị ấy biết rõ thế ấy; khi hoài nghi đã trừ sẽ không sanh trong tương lai như thế nào, vị ấy biết rõ thế ấy.
Nội tâm có niệm giác chi, vị ấy biết rõ là nội tâm ta có niệm giác chi; Nội tâm không có niệm giác chi, vị ấy biết rõ là nội tâm ta không có niệm giác chi; sự sanh khởi niệm giác chi chưa sanh khởi như thế nào, vị ấy biết rõ như thế ấy; sự bổ túc phát triển niệm giác chi đã sanh khởi như thế nào, vị ấy biết rõ như thế ấy.
Nội tâm có trạch pháp giác chi… (trùng)… nội tâm có cần giác chi… (trùng)… nội tâm có hỷ giác chi… (trùng)… nội tâm có tịnh giác chi… (trùng)… nội tâm có định giác chi… (trùng)… nội tâm có xả giác chi, vị ấy biết rõ là nội tâm ta có xả giác chi; nội tâm không có xả giác chi, vị ấy biết rõ là nội tâm ta không có xả giác chi; sự sanh khởi xả giác chi chưa sanh khởi như thế nào, vị ấy biết rõ như thế ấy; sự bổ túc phát triển xả giác chi đã sanh khởi như thế nào, vị ấy biết rõ như thế ấy.
Vị ấy áp dụng, tu tập, làm sung mãn, nhận định chuẩn xác theo ấn tướng đó; vị ấy sau khi đã áp dụng, tu tập, làm sung mãn, nhận định chuẩn xác theo ấn tướng đó, mới chú tâm vào các pháp ngoại phần.
[450] VỊ TỲ KHƯU SỐNG NĂNG QUÁN PHÁP ÐỐI VỚI CÁC PHÁP NGOẠI PHẦN LÀ SAO[22]?
Ở đây, vị tỳ khưu đối với người khác có dục vọng, vị ấy biết rõ là người nầy có dục vọng; đối với người khác không có dục vọng, vị ấy biết rõ là người nầy không có dục vọng; sự sanh khởi dục vọng chưa sanh khởi như thế nào, vị ấy biết rõ như thế ấy; sự đoạn trừ dục vọng đã sanh khởi như thế nào, vị ấy biết rõ như thế ấy; khi dục vọng đã trừ sẽ không sanh trong tương lai như thế nào, vị ấy biết rõ như thế ấy.
Ðối với người khác có sân độc… (trùng)… đối với người khác có hôn thụy… (trùng)… đối với người khác có trạo hối… (trùng)… đối với người khác có hoài nghi, vị ấy biết rõ là người nầy có hoài nghi; đối với người khác không có hoài nghi, vị ấy biết rõ là người nầy không có hoài nghi; sự sanh khởi hoài nghi chưa sanh khởi như thế nào, vị ấy biết rõ thế ấy; sự đoạn trừ hoài nghi đã sanh khởi như thế nào, vị ấy biết rõ thế ấy; khi hoài nghi đã trừ sẽ không sanh trong tương lai như thế nào, vị ấy biết rõ thế ấy.
Ðối với người khác có niệm giác chi, vị ấy biết rõ là người nầy có niệm giác chi; đối với người khác không có niệm giác chi, vị ấy biết rõ là người nầy không có niệm giác chi; sự sanh khởi niệm giác chi chưa sanh khởi như thế nào, vị ấy biết rõ như thế ấy; sự bổ túc phát triển niệm giác chi đã sanh khởi như thế nào, vị ấy biết rõ như thế ấy.
Ðối với người khác có trạch pháp giác chi… (trùng)… đối với người khác có cần giác chi… (trùng)… đối với người khác có hỷ giác chi… (trùng)… đối với người khác có tịnh giác chi… (trùng)… đối với người khác có định giác chi… (trùng)… đối với người khác có xả giác chi, vị ấy biết rõ là người nầy có xả giác chi; đối với người khác không có xả giác chi, vị ấy biết rõ là người nầy không có xả giác chi; sự sanh khởi xả giác chi chưa sanh khởi như thế nào, vị ấy biết rõ như thế ấy; sự bổ túc phát triển xả giác chi đã sanh khởi như thế nào, vị ấy biết rõ như thế ấy. Vị ấy áp dụng, tu tập, làm sung mãn, nhận định chuẩn xác theo ấn tướng đó, vị ấy sau khi đã áp dụng, tu tập, làm sung mãn nhận định chuẩn xác theo ấn tướng đó, mới chú tâm vào các pháp nội ngoại phần.
[451] VỊ TỲ KHƯU SỐNG NĂNG QUÁN PHÁP ÐỐI VỚI CÁC PHÁP NỘI NGOẠI PHẦN LÀ SAO[23]?
Ở đây, vị tỳ khưu đang có dục vọng biết rõ là có dục vọng, không có dục vọng vị ấy biết rõ là không có dục vọng, sự sanh khởi dục vọng chưa sanh khởi như thế nào, vị ấy biết rõ thế ấy; sự đoạn trừ dục vọng đã sanh khởi như thế nào, vị ấy biết rõ thế ấy; khi dục vọng đã trừ sẽ không sanh trong tương lai như thế nào, vị ấy biết rõ thế ấy. Ðang có sân độc… (trùng)… đang có hôn thụy… (trùng)… đang có trạo hối… (trùng)… đang có hoài nghi, vị ấy biết rõ là có hoài nghi; không có hoài nghi, vị ấy biết rõ là không có hoài nghi; sự sanh khởi hoài nghi chưa sanh khởi như thế nào, vị ấy biết rõ thế ấy; sự đoạn trừ hoài nghi đã sanh khởi như thế nào, vị ấy biết rõ thế ấy; khi hoài nghi đã trừ sẽ không sanh trong tương lai như thế nào, vị ấy biết rõ thế ấy.
Ðang có niệm giác chi, vị ấy biết rõ là có niệm giác chi; không có niệm giác chi, vị ấy biết rõ là không có niệm giác chi; sự sanh khởi niệm giác chi chưa sanh khởi như thế nào, vị ấy biết rõ thế ấy; sự bổ túc phát triển niệm giác chi đã sanh khởi như thế nào, vị ấy biết rõ thế ấy.
Ðang có trạch pháp giác chi… (trùng)… Ðang có cần giác chi… (trùng)… Ðang có hỷ giác chi… (trùng)… Ðang có tịnh giác chi… (trùng)… Ðang có định giác chi… (trùng)… Ðang có xả giác chi, vị ấy biết rõ là có xả giác chi; không có xả giác chi, vị ấy biết rõ là không có xả giác chi; sự sanh khởi xả giác chi chưa sanh khởi như thế nào, vị ấy biết rõ thế ấy; sự bổ túc phát triển xả giác chi đã sanh khởi như thế nào, vị ấy biết rõ thế ấy.
Như vầy là vị tỳ khưu sống năng quán pháp đối với các pháp nội ngoại phần, nhiệt tâm, tỉnh giác, ức niệm, diệt trừ tham ưu ở đời.
[452] NÓI RẰNG: “BẬC NĂNG QUÁN” Ở ÐÂY SỰ NĂNG QUÁN LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự hiểu biết, hiểu rõ… (trùng)… vô si, trạch pháp, chánh kiến. Ðây gọi là sự năng quán, vị dự nhập, biến nhập, dự đáo, mãn đáo, dự đắc, hoàn đắc, thành đạt với sự năng quán nầy, bởi lẽ ấy mới gọi là bậc năng quán.
[453] NÓI RẰNG “SỐNG”, tức là cử động, xử sự, trông nom, duy trì, sinh sống, hành động, trú ngụ, bởi lẽ ấy gọi là sống.
[454] NÓI RẰNG: “BẬC NHIỆT TÂM”. Ở ÐÂY SỰ NHIỆT TÂM LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự cần cố thuộc về tâm… (trùng)… chánh tinh tấn. Ðây gọi là sự nhiệt tâm. Vị dự nhập, biến nhập, dự đáo, mãn đáo, dự đắc, hoàn đắc, thành đạt với sự nhiệt tâm nầy, bởi lẽ ấy mới gọi là bậc nhiệt tâm.
[455] NÓI RẰNG: “BẬC TỈNH GIÁC”. Ở ÐÂY SỰ TỈNH GIÁC LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự hiểu biết, hiểu rõ… (trùng)… vô si, trạch pháp, chánh kiến. Ðây gọi là sự tỉnh giác. Vị dự nhập, biến nhập, dự đáo, mãn đáo, dự đắc, hoàn đắc, thành đạt với sự tỉnh giác nầy, bởi lẽ ấy mới gọi là bậc tỉnh giác.
[456] NÓI RẰNG: “BẬC ỨC NIỆM”. Ở ÐÂY, SỰ ỨC NIỆM LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự nhớ đến, sự tùy niệm… (trùng)… chánh niệm. Ðây gọi là sự ức niệm. Vị dự nhập, biến nhập, dự đáo, mãn đáo, dự đắc, hoàn đắc, thành đạt với sự ức niệm nầy, bởi lẽ ấy mới gọi là bậc ức niệm.
[457] NÓI RẰNG: “DIỆT TRỪ THAM ƯU Ở ÐỜI”.
Ở ÐÂY, ÐỜI LÀ THẾ NÀO?
Ðời chính là các pháp đó, hay đời là năm thủ uẩn. Ðây gọi là đời.
Ở ÐÂY, THAM LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự tham luyến, tham đắm… (trùng)… tham đắm của tâm. Ðây gọi là tham.
Ở ÐÂY, ƯU LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự bất an thuộc về tâm, sự khó chịu thuộc về tâm, trạng thái của cảm thọ bất an khó chịu sanh từ tâm xúc, sự cảm giác bất an khó chịu sanh từ tâm xúc. Ðây gọi là ưu.
Tham nầy và ưu nầy là như thế, bị hạn chế trong đời nầy, bị tẩy trừ, yên lặng, vắng lặng, tịnh chỉ, dập tắt, diệt tắt, đình chỉ, cấm chỉ, kiệt quệ, tàn rụi, tận diệt; bởi lẽ ấy được nói rằng: “Diệt trừ tham ưu ở đời”.
DỨT XIỂN MINH QUÁN PHÁP
DỨT PHẦN PHÂN TÍCH THEO KINH
PHÂN THEO VI DIỆU PHÁP (ABHIDHAMMABHĀJANĪYAM)
[458] BỐN NIỆM XỨ là nơi đây, vị tỳ khưu sống năng quán thân đối với thân; sống năng quán thọ đối với các thọ; sống năng quán tâm đối với tâm; sống năng quán pháp đối với các pháp.
[459] VỊ TỲ KHƯU SỐNG NĂNG QUÁN THÂN ÐỐI VỚI THÂN LÀ SAO?
Ở đây, khi nào vị tỳ khưu tu tập thiền Siêu Thế, pháp dẫn xuất, nhân tịch diệt, để đoạn trừ thiên kiến, đạt đến đệ nhất địa vức, ly các dục… (trùng)… chứng và trú sơ thiền, hành nan đắc trì, năng quán thân đối với thân; trong khi ấy có chi là sự ức niệm, tùy niệm… (trùng)… chánh niệm, niệm giác chi, chi đạo, liên quan đạo. Ðây gọi là niệm xứ; các pháp còn lại là tương ưng niệm xứ.
VỊ TỲ KHƯU SỐNG NĂNG QUÁN THỌ ÐỐI VỚI CÁC THỌ LÀ SAO?
Nơi đây, khi nào vị tỳ khưu tu tập thiền Siêu Thế, pháp dẫn xuất, nhân tịch diệt, để đoạn trừ thiên kiến, đạt đến đệ nhất địa vức, ly các dục… (trùng)… chứng và trú sơ thiền, hành nan đắc trì, năng quán thọ đối với các thọ; trong khi ấy có chi là sự ức niệm, tùy niệm… (trùng)… chánh niệm, niệm giác chi, chi đạo, liên quan đạo. Ðây gọi là niệm xứ; các pháp còn lại là tương ưng niệm xứ.
VỊ TỲ KHƯU SỐNG NĂNG QUÁN TÂM ÐỐI VỚI TÂM LÀ SAO?
Ở đây, khi nào vị tỳ khưu tu tập thiền Siêu Thế, pháp dẫn xuất, nhân tịch diệt, để đoạn trừ thiên kiến, đạt đến đệ nhất địa vức, ly các dục… (trùng)… chứng và trú sơ thiền, hành nan đắc trì, năng quán tâm đối với tâm; trong khi ấy có chi là sự ức niệm, tùy niệm… (trùng)… chánh niệm, niệm giác chi, chi đạo, liên quan đạo. Ðây gọi là niệm xứ; các pháp còn lại là tương ưng niệm xứ.
VỊ TỲ KHƯU SỐNG NĂNG QUÁN PHÁP ÐỐI VỚI CÁC PHÁP LÀ SAO?
Nơi đây, khi nào vị tỳ khưu tu tập thiền Siêu Thế, pháp dẫn xuất, nhân tịch diệt, để đoạn trừ thiên kiến, đạt đến đệ nhất địa vức, ly các dục… (trùng)… chứng và trú sơ thiền, hành nan đắc trì, năng quán pháp đối với pháp; trong khi ấy có chi là sự ức niệm, tùy niệm… (trùng)… chánh niệm, niệm giác chi, chi đạo, liên quan đạo. Ðây gọi là niệm xứ; các pháp còn lại là tương ưng niệm xứ.
Ở ÐÂY, NIỆM XỨ LÀ THẾ NÀO?
Nơi đây, khi nào vị tỳ khưu tu tập thiền Siêu Thế, pháp dẫn xuất, nhân tịch diệt, để đoạn trừ thiên kiến, đạt đến đệ nhất địa vức, ly các dục… (trùng)… chứng và trú sơ thiền, hành nan đắc trì, năng quán pháp trong các pháp; trong khi ấy có chi là sự ức niệm, tùy niệm… (trùng)… chánh niệm, niệm giác chi, chi đạo, liên quan đạo. Ðây gọi là niệm xứ; các pháp còn lại là tương ưng niệm xứ.
[460] BỐN NIỆM XỨ: Nơi đây, vị tỳ khưu sống năng quán thân đối với thân; vị tỳ khưu sống năng quán thọ đối với các thọ; sống năng quán tâm đối với tâm; vị tỳ khưu sống năng quán pháp đối với các pháp.
[461] VỊ TỲ KHƯU SỐNG NĂNG QUÁN THÂN ÐỐI VỚI THÂN LÀ SAO?
Nơi đây, khi nào vị tỳ khưu tu tập thiền Siêu Thế, pháp dẫn xuất, nhân tịch diệt, để đoạn trừ thiên kiến, đạt đến đệ nhất địa vức, ly các dục… (trùng)… chứng và trú sơ thiền, hành nan đắc trì; trong khi ấy có xúc… (trùng)… có bất phóng dật. Ðây là các pháp thiện. Do sự tạo tác tu tiến thiền thiện Siêu thế đó, nên bậc ly các dục… (trùng)… chứng và trú Sơ thiền Không tánh, hành nan đắc trì, năng quán thân đối với thân thành tựu quả; trong khi ấy có chi là sự ức niệm, tùy niệm… (trùng)… chánh niệm, niệm giác chi, chi đạo, liên quan đạo. Ðây gọi là niệm xứ; các pháp còn lại là tương ưng niệm xứ.
VỊ TỲ KHƯU SỐNG NĂNG QUÁN THỌ ÐỐI VỚI CÁC THỌ LÀ SAO?
Nơi đây, khi nào vị tỳ khưu tu tập Thiền Siêu Thế, pháp dẫn xuất, nhân tịch diệt, để đoạn trừ thiên kiến, đạt đến đệ nhất địa vức, ly các dục… (trùng)… chứng và trú sơ thiền, hành nan đắc trì; trong khi ấy có xúc… (trùng)… có bất phóng dật. Ðây là các pháp thiện. Do sự tạo tác tu tiến thiền thiện Siêu thế đó, nên bậc ly các dục… (trùng)… chứng và trú Sơ thiền Không tánh, hành nan đắc trì năng quán thọ đối với các thọ, thành tựu quả trong khi ấy có chi là sự ức niệm, tùy niệm… (trùng)… chánh niệm, niệm giác chi, chi đạo, liên quan đạo. Ðây gọi là niệm xứ; các pháp còn lại là tương ưng niệm xứ.
VỊ TỲ KHƯU SỐNG NĂNG QUÁN TÂM ÐỐI VỚI TÂM LÀ SAO?
Nơi đây, khi nào vị tỳ khưu tu tập Thiền Siêu Thế, pháp dẫn xuất, nhân tịch diệt, để đoạn trừ thiên kiến, đạt đến đệ nhất địa vức, ly các dục… (trùng)… chứng và trú sơ thiền, hành nan đắc trì; trong khi ấy có xúc… (trùng)… có bất phóng dật. Ðây là các pháp thiện. Do sự tạo tác tu tiến thiền thiện Siêu thế đó, nên bậc ly các dục… (trùng)… chứng và trú Sơ thiền Không tánh, hành nan đắc trì; năng quán tâm đối với tâm, thành tựu quả, trong khi ấy có chi là sự ức niệm, tùy niệm… (trùng)… chánh niệm, niệm giác chi, chi đạo, liên quan đạo. Ðây gọi là niệm xứ; các pháp còn lại là tương ưng niệm xứ.
VỊ TỲ KHƯU SỐNG NĂNG QUÁN PHÁP ÐỐI VỚI CÁC PHÁP LÀ SAO?
Nơi đây, khi nào vị tỳ khưu tu tập Thiền Siêu Thế, pháp dẫn xuất, nhân tịch diệt, để đoạn trừ thiên kiến, đạt đến đệ nhất địa vức, ly các dục… (trùng)… chứng và trú sơ thiền, hành nan đắc trì; trong khi ấy có xúc… (trùng)… có bất phóng dật. Ðây là các pháp thiện. Do sự tạo tác tu tiến thiền thiện Siêu thế đó, nên bậc ly các dục… (trùng)… chứng và trú Sơ thiền Không tánh, hành nan đắc trì, năng quán pháp đối với các pháp, thành tựu quả; trong khi ấy có chi là sự ức niệm, tùy niệm… (trùng)… chánh niệm, niệm giác chi, chi đạo, liên quan đạo. Ðây gọi là niệm xứ; các pháp còn lại là tương ưng niệm xứ.
Ở ÐÂY, NIỆM XỨ LÀ THẾ NÀO?
Nơi đây, khi nào vị tỳ khưu tu tập Thiền Siêu Thế, pháp dẫn xuất, nhân tịch diệt, để đoạn trừ thiên kiến, đạt đến đệ nhất địa vức, ly các dục… (trùng)… chứng và trú sơ thiền, hành nan đắc trì; trong khi ấy có xúc… (trùng)… có bất phóng dật. Ðây là các pháp thiện. Do sự tạo tác tu tiến thiền thiện Siêu thế đó, nên bậc ly các dục… (trùng)… chứng và trú Sơ thiền Không tánh, hành nan đắc trì, năng quán pháp đối với các pháp, thành tựu quả; trong khi ấy có chi là sự ức niệm, tùy niệm… (trùng)… chánh niệm, niệm giác chi, chi đạo, liên quan đạo. Ðây gọi là niệm xứ; các pháp còn lại là tương ưng niệm xứ.
DỨT PHẦN PHÂN THEO VI DIỆU PHÁP
PHẦN VẤN ÐÁP (Pañhāpucchakam)
[462] BỐN NIỆM XỨ: Nơi đây, vị tỳ khưu sống năng quán thân đối với thân, nhiệt tâm tỉnh giác, ức niệm, diệt trừ tham ưu ở đời; sống năng quán thọ đối với các thọ, nhiệt tâm, tỉnh giác, ức niệm diệt trừ tham ưu ở đời; sống năng quán tâm đối với tâm, nhiệt tâm, tỉnh giác, ức niệm, để diệt trừ tham ưu ở đời; sống năng quán pháp đối với các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, ức niệm, diệt trừ tham ưu ở đời. Ðối với bốn niệm xứ có BAO NHIÊU LÀ THIỆN? CÓ BAO NHIÊU LÀ BẤT THIỆN? CÓ BAO NHIÊU LÀ VÔ KÝ?… (trùng)… CÓ BAO NHIÊU LÀ HỮU TRANH? CÓ BAO NHIÊU LÀ VÔ TRANH?
[463] (BỐN NIỆM XỨ) có thể là thiện, có thể là vô ký.
(Bốn niệm xứ) có thể là tương ưng lạc thọ, có thể là tương ưng phi khổ phi lạc thọ.
(Bốn niệm xứ) có thể là dị thục, có thể là di thục nhân.
(Bốn niệm xứ) là phi thành do thủ phi cảnh thủ.
(Bốn niệm xứ) là phi phiền toái phi cảnh phiền não.
(Bốn niệm xứ) có thể là hữu tầm hữu tứ, có thể là vô tầm hữu tứ, có thể là vô tầm vô tứ.
(Bốn niệm xứ) có thể là câu hành hỷ, có thể là câu hành lạc, có thể là câu hành xả.
(Bốn niệm xứ) là không đáng do kiến đạo tiến đạo đoạn trừ.
(Bốn niệm xứ) là phi hữu nhân đáng do kiến đạo tiến đạo đoạn trừ.
(Bốn niệm xứ) có thể là nhân tịch diệt, có thể là phi nhân tích tập phi nhân tịch diệt.
(Bốn niệm xứ) có thể là hữu học, có thể là vô học.
(Bốn niệm xứ) là vô lượng
(Bốn niệm xứ) là biết cảnh vô lượng.
(Bốn niệm xứ) là tinh lương.
(Bốn niệm xứ) có thể là cố định phần chánh, có thể là phi cố định.
(Bốn niệm xứ) là có đạo thành cảnh, có thể có đạo thành nhân, có thể có đạo thành trưởng; có thể không nên nói là có đạo thành nhân hay có đạo thành trưởng.
(Bốn niệm xứ) có thể là sinh tồn, có thể là vị sinh tồn, có thể là chuẩn sanh.
(Bốn niệm xứ) có thể là quá khứ, có thể là vị lai, có thể là hiện tại.
(Bốn niệm xứ) không nên nói là biết cảnh quá khứ hay biết cảnh vị lai hay biết cảnh hiện tại.
(Bốn niệm xứ) có thể là nội phần, có thể là ngoại phần, có thể là nội ngoại phần.
(Bốn niệm xứ) là biết cảnh nội ngoại phần.
(Bốn niệm xứ) là vô kiến vô đối chiếu.
[464] (BỐN NIỆM XỨ) là phi nhân, là hữu nhân, là tương ưng nhân, không nên nói là nhân hữu nhân mà là hữu nhân phi nhân, không nên nói là nhân tương ưng nhân mà là tương ưng nhân phi nhân. Là phi nhân hữu nhân.
(Bốn niệm xứ) là hữu duyên, là hữu vi là vô kiến. Là vô đối chiếu. Là phi sắc. Là Siêu thế. Là đáng vài tâm biết, không đáng vài tâm biết.
(Bốn niệm xứ) là phi lậu. Là phi cảnh lậu. Là bất tương ưng lậu, không nên nói là lậu cảnh lậu, hay cảnh lậu phi lậu, không nên nói là lậu tương ưng lậu, hay tương ưng lậu phi lậu. Là bất tương ưng lậu phi cảnh lậu.
(Bốn niệm xứ) là phi triền… (trùng)…
(Bốn niệm xứ) là phi phược… (trùng)…
(Bốn niệm xứ) là phi bộc… (trùng)…
(Bốn niệm xứ) là phi phối… (trùng)…
(Bốn niệm xứ) là phi cái… (trùng)…
(Bốn niệm xứ) là phi khinh thị… (trùng)…
(Bốn niệm xứ) là hữu tri cảnh. Là phi tâm. Là sở hữu tâm. Là tương ưng tâm. Là hòa với tâm. Là có tâm sở sanh. Là đồng hiện hữu với tâm. Là tùy chuyển với tâm. Là hòa tâm tâm sở sanh. Là hòa tâm tâm sở sanh đồng hiện hữu với tâm. Là hòa tâm tâm sở sanh tùy chuyển với tâm. Là ngoại phần. Là phi y sinh. Là phi do thủ.
(Bốn niệm xứ) là phi thủ… (trùng)…
(Bốn niệm xứ) là phi phiền não… (trùng)…
(Bốn niệm xứ) là không đáng do kiến đạo đoạn trừ. Là không đáng do tiến đạo đoạn trừ. Là phi hữu nhân đáng do kiến đạo đoạn trừ. Là phi hữu nhân đáng do tiến đạo đoạn trừ. Có thể là hữu tầm, có thể là vô tầm. Có thể là hữu tứ, có thể là vô tứ. Có thể là hữu hỷ, có thể là vô hỷ. Có thể là câu hành hỷ, có thể phi câu hành hỷ. Có thể là câu hành lạc, có thể là phi câu hành lạc. Có thể là câu hành xả, có thể là phi câu hành xả. Là phi dục giới, là phi sắc giới, là phi vô sắc giới. Là phi hệ thuộc. Có thể là pháp dẫn xuất, có thể là phi dẫn xuất. Có thể là cố định, có thể là phi cố định. Là vô thượng. Là vô tranh.
DỨT PHẦN VẤN ÐÁP
TRỌN VẸN NIỆM XỨ PHÂN TÍCH
[1] Cattāre satipatthānā.
[2] Ajjhattam kāye kāyānupassī.
[3] Bahiddhā kāye kāyānupassī.
[4] Ajjhattabahiddhā kāye kāyānupassī.
[5] Anupassī.
[6] Ātāpi.
[7] Viharati.
[8] Sampajāno.
[9] Satimā.
[10] Vineyya loke abhijjhādomanassam.
[11] Loka.
[12] Abhijjhā.
[13] Domanassa.
[14] Ajjhattam vedanāsu vedanānupassī.
[15] Bahiddhā vedanāsu vedanānupassī.
[16] Svavatthita.
[17] Ajjhattabahiddhā Vedanāsu Vedanānupassi.
[18] Ajjhattam citte cittānupassī.
[19] Bahiddhā citte cittānupassī.
[20] Ajjhattabahiddhā citte cittānupassī.
[21] Ajjhattam dhammesu dhammānupassī.
[22] Bahiddhā dhammesu dhammānupassī.
[23] Ajjhattabahiddhā dhammesu dhammānupassī.
CHÁNH CẦN PHÂN TÍCH (SAMMAPPADHĀNAVIBHANGO)
PHÂN THEO KINH (Suttantabhājanīyam)
[465] BỐN CHÁNH CẦN [1]
Nơi đây, vị tỳ khưu ước vọng tinh tấn chuyên cần kiên tâm phấn đấu để không cho sanh các ác bất thiện pháp chưa sanh.
Ước vọng tính tấn chuyên cần kiên tâm phấn đấu để đoạn trừ các ác bất thiện pháp đã sanh.
Ước vọng tính tấn chuyên cần kiên tâm phấn đấu để phát sanh các thiện pháp chưa sanh.
Ước vọng tính tấn chuyên cần kiên tâm phấn đấu để duy trì không cho sút giảm, gia tăng, tiến triển, phát triển, bổ túc các thiện pháp đã sanh.
[466] VỊ TỲ KHƯU ước vọng tinh tấn chuyên cần kiên tâm phấn đấu không để cho sanh các ÁC BẤT THIỆN PHÁP CHƯA SANH LÀ SAO?
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ CÁC ÁC BẤT THIỆN PHÁP CHƯA SANH?
Tức là ba căn bất thiện tham, sân, si những phiền não đồng nương căn ấy, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn tương ưng căn ấy, thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp có căn ấy làm sở sanh. Ðây gọi là các ác bất thiện pháp chưa sanh. Như thế, vị ấy ước vọng, tinh tấn, chuyên cần kiên tâm phấn đấu để không cho sanh các ác bất thiện pháp chưa sanh nầy.
[467] NÓI RẰNG: “ƯỚC VỌNG[2]”. Ở ÐÂY, SỰ ƯỚC VỌNG LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự hoài bão, lập nguyện, muốn làm, là thiện tánh pháp dục. Ðây gọi là sự ước vọng. Vị ấy sản sanh, sinh thành, khởi dậy, ứng khởi, sanh ra, sanh khởi sự ước vọng này, bởi lẽ ấy được nói rằng: “ước vọng”.
[468] NÓI RẰNG: “TINH TẤN[3]”. Ở ÐÂY, SỰ TINH TẤN LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự cần cố thuộc về tâm… (trùng)… chánh tinh tấn. Ðây gọi là sự tinh tấn.
Vị ấy dự nhập, biến nhập, dự đáo, mãn đáo, dự đắc, hoàn đắc, thành đạt với sự tinh tấn nầy; bởi lẽ ấy được nói rằng “tinh tấn”.
[469] NÓI RẰNG: “CHUYÊN CẦN[4]”. Ở ÐÂY, CẦN LÀ NHƯ THẾ NÀO?
Cái chi là sự cần cố thuộc về tâm… (trùng)… chánh tinh tấn. Ðây gọi là cần.
Vị ấy khởi sự, khởi xướng, áp dụng, tu tập, làm sung mãn pháp cần nầy, bởi lẽ ấy được nói rằng: “chuyên cần”.
[470] NÓI RẰNG: “KIÊN TÂM[5]”. Ở ÐÂY, TÂM LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là tâm ý, tâm địa… (trùng)… ý thức giới sanh từ đó. Ðây gọi là tâm.
Vị ấy kiên trì, bảo trì, ủng hộ, hỗ trợ tâm nầy, bởi lẽ ấy được nói rằng “kiên tâm”.
[471] NÓI RẰNG: “PHẤN ÐẤU[6]”. Ở ÐÂY, SỰ PHẤN ÐẤU LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự cần cố thuộc về tâm… (trùng)… chánh tinh tấn. Ðây gọi là sự phấn đấu.
Vị ấy dự nhập… (trùng)… thành đạt với sự phấn đấu nầy; bởi lẽ ấy được nói rằng: phấn đấu.
[472] VỊ TỲ KHƯU ước vọng tinh tấn chuyên cần kiên tâm phấn đấu để đoạn trừ các ÁC BẤT THIỆN PHÁP ÐÃ SANH KHỞI LÀ SAO?
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ CÁC ÁC BẤT THIỆN PHÁP ÐÃ SANH?
Tức là ba căn bất thiện tham, sân, si, những phiền não đồng nương căn ấy, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn tương ưng căn ấy, thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp có căn ấy làm sở sanh. Ðây gọi là các ác bất thiện pháp đã sanh. Như thế, vị ấy ước vọng tinh tấn chuyên cần kiên tâm phấn đấu để đoạn trừ các ác bất thiện pháp đã sanh nầy.
[473] NÓI RẰNG: “ƯỚC VỌNG”. Ở ÐÂY, SỰ ƯỚC VỌNG LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự hoài bão, lập nguyện, muốn làm, là thiện tánh pháp dục. Ðây gọi là sự ước vọng.
Vị ấy sản sanh, sinh thành, khởi dậy, ứng khởi, sanh ra, sanh khởi sự ước vọng này. Bởi lẽ ấy được nói rằng: “ước vọng”.
[474] NÓI RẰNG: “TINH TẤN”. Ở ÐÂY, SỰ TINH TẤN LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự cần cố thuộc về tâm… (trùng)… chánh tinh tấn. Ðây gọi là sự tinh tấn.
Vị ấy dự nhập… (trùng)… thành đạt với sự tinh tấn nầy. Bởi lẽ ấy được nói rằng: “tinh tấn”.
[475] NÓI RẰNG: “CHUYÊN CẦN”. Ở ÐÂY, CẦN LÀ NHƯ THẾ NÀO?
Cái chi là sự cần cố thuộc về tâm… (trùng)… chánh tinh tấn. Ðây gọi là cần.
Vị ấy khởi xướng, khởi sự, áp dụng, tu tập, làm sung mãn pháp cần nầy. Bởi lẽ ấy được nói rằng: “chuyên cần”.
[476] NÓI RẰNG: “KIÊN TÂM”. Ở ÐÂY, TÂM LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là tâm ý, tâm địa… (trùng)… ý thức giới sanh từ đó. Ðây gọi là tâm.
Vị ấy kiên trì, bảo trì, ủng hộ, hỗ trợ tâm nầy. Bởi lẽ ấy được nói rằng “kiên tâm”.
[477] NÓI RẰNG: “PHẤN ÐẤU”. Ở ÐÂY, SỰ PHẤN ÐẤU LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự cần cố thuộc về tâm… (trùng)… chánh tinh tấn. Ðây gọi là sự phấn đấu.
Vị ấy dự nhập… (trùng)… thành đạt với sự phấn đấu nầy. Bởi lẽ ấy được nói rằng: “phấn đấu”.
[478] VỊ TỲ KHƯU ước vọng tinh tấn chuyên cần quyết tâm phấn đấu để phát sanh các thiện pháp chưa sanh là sao?
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ CÁC THIỆN PHÁP CHƯA SANH?
Tức là ba căn thiện vô tham, vô sân, vô si, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn tương ưng căn ấy, thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp có căn ấy làm sở sanh. Ðây gọi là các thiện pháp chưa sanh. Như thế, vị ấy ước vọng tinh tấn chuyên cần kiên tâm phấn đấu để phát sanh các thiện pháp chưa sanh nầy.
[479] NÓI RẰNG: “ƯỚC VỌNG”… (trùng)… NÓI RẰNG “TINH TẤN”… (trùng)… NÓI RẰNG: “CHUYÊN CẦN”… (trùng)… NÓI RẰNG: “KIÊN TÂM”… (trùng)… NÓI RẰNG: “PHẤN ÐẤU”. Ở ÐÂY SỰ PHẤN ÐẤU LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự cần cố thuộc về tâm… (trùng)… chánh tinh tấn. Ðây gọi là sự phấn đấu.
Vị ấy dự nhập… (trùng)… thành đạt với sự phấn đấu nầy. Bởi lẽ ấy được nói rằng: “phấn đấu”.
[480] VỊ TỲ KHƯU ước vọng tinh tấn chuyên cần kiên tâm phấn đấu để DUY TRÌ, KHÔNG CHO SÚT GIẢM, GIA TĂNG TIẾN TRIỂN, PHÁT TRIỂN, BỔ TÚC CÁC THIỆN PHÁP ÐÃ SANH, LÀ SAO?
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ CÁC THIỆN PHÁP ÐÃ SANH?
Tức là ba căn thiện vô tham, vô sân, vô si, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn tương ưng căn ấy, thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp có căn ấy làm sở sanh. Ðây gọi là các thiện pháp đã sanh. Như thế, vị ấy ước vọng tinh tấn chuyên cần kiên tâm phấn đấu để duy trì, không cho sút giảm, gia tăng, tiến triển, phát triển, bổ túc các thiện pháp đã sanh nầy.
[481] NÓI RẰNG “ÐỂ DUY TRÌ”
Chi là sự duy trì, ấy là sự không sút giảm; chi là sự không sút giảm, ấy là sự gia tăng; chi là sự gia tăng, ấy là sự tiến triển; chi là sự tiến triển, ấy là sự phát triển; chi là sự phát triển, ấy là sự bổ túc.
[482] NÓI RẰNG: “ƯỚC VỌNG” “… (trùng)… NÓI RẰNG “TINH TẤN”… (trùng)… NÓI RẰNG “CHUYÊN CẦN”… (trùng)… NÓI RẰNG “KIÊN TÂM”… (trùng)… NÓI RẰNG “PHẤN ÐẤU”. Ở ÐÂY SỰ PHẤN ÐẤU LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự cần cố thuộc về tâm… (trùng)… chánh tinh tấn. Ðây gọi là sự phấn đấu.
Vị ấy dự nhập… (trùng)… thành đạt với sự phấn đấu nầy; bởi lẽ ấy được nói rằng “phấn đấu”.
DỨT PHẦN PHÂN THEO KINH
PHÂN THEO VI DIỆU PHÁP (Abhidhammabhājanīyaṃ)
[483] BỐN CHÁNH CẦN:
Nơi đây, vị tỳ khưu ước vọng tinh tấn chuyên cần kiên tâm phấn đấu để KHÔNG CHO SANH CÁC ÁC BẤT THIỆN pháp chưa sanh.
Ước vọng tinh tấn chuyên cần kiên tâm phấn đấu để ÐOẠN TRỪ CÁC ÁC BẤT THIỆN PHÁP ÐÃ SANH.
Ước vọng tinh tấn chuyên cần kiên tâm phấn đấu ÐỂ PHÁT SANH CÁC THIỆN PHÁP CHƯA SANH.
Ước vọng tinh tấn chuyên cần kiên tâm phấn đấu ÐỂ DUY TRÌ KHÔNG CHO SÚT GIẢM, GIA TĂNG, TIẾN TRIỂN, PHÁT TRIỂN, BỔ TÚC CÁC THIỆN PHÁP ÐÃ SANH.
[484] VỊ TỲ KHƯU ước vọng tinh tấn chuyên cần kiên tâm phấn đấu để không cho sanh các ác bất thiện pháp chưa sanh là sao?
Nơi đây, khi nào vị tỳ khưu tu tập thiền Siêu Thế, pháp dẫn xuất, nhân tịch diệt, để đoạn trừ thiên kiến, đạt đến đệ nhất địa vức, ly các dục… (trùng)… chứng và trú Sơ thiền, hành nan đắc trì; trong khi ấy vị đó ước vọng tinh tấn chuyên cần kiên tâm phấn đấu để không cho sanh các ác bất thiện pháp chưa sanh.
[485] NÓI RẰNG “ƯỚC VỌNG”. Ở ÐÂY, SỰ ƯỚC VỌNG LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự hoài bão, lập nguyện, muốn làm, là thiện tánh pháp dục. Ðây gọi là sự ước vọng.
Vị ấy sản sanh, sinh thành, khởi dậy, ứng khởi, sanh ra, sanh khởi sự ước vọng này. Bởi lẽ ấy được nói rằng “ước vọng”.
[486] NÓI RẰNG: “TINH TẤN”. Ở ÐÂY, SỰ TINH TẤN LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự cần cố thuộc về tâm, cố gắng, ráng sức, tinh cần, chuyên cần, siêng năng, nỗ lực, dốc lòng, nghị lực, không nhủn chí, không bỏ qua nguyện vọng, không bỏ qua phận sự, phò trì trách nhiệm, cần là cần quyền, chánh tinh tấn, cần giác chi, chi đạo, liên quan đạo. Ðây gọi là sự tinh tấn.
Vị ấy dự nhập, biến nhập, dự đáo, mãn đáo, dự đắc, hoàn đắc, thành đạt với sự tinh tấn nầy; bởi lẽ ấy được nói rằng “tinh tấn”.
[487] NÓI RẰNG: “CHUYÊN CẦN”. Ở ÐÂY, CẦN LÀ NHƯ THẾ NÀO?
Cái chi là sự cần cố thuộc về tâm… (trùng)… chánh tinh tấn, cần giác chi, chi đạo, liên quan đạo. Ðây gọi là cần.
Vị ấy khởi sự, khởi xướng, áp dụng, tu tập, làm sung mãn pháp cần nầy; bởi lẽ ấy được nói rằng “chuyên cần”.
[488] NÓI RẰNG: “KIÊN TÂM”. Ở ÐÂY, TÂM LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là tâm ý, tâm địa… (trùng)… ý thức giới sanh từ đó. Ðây gọi là tâm.
Vị ấy kiên trì, bảo trì, ủng hộ, hỗ trợ tâm nầy. Bởi lẽ ấy được nói rằng “kiên tâm”.
[489] NÓI RẰNG: “PHẤN ÐẤU”. Ở ÐÂY, CHÁNH CẦN LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự cần cố thuộc về tâm… (trùng)… chánh tinh tấn, cần giác chi, chi đạo, liên quan đạo. Ðây gọi là chánh cần; các pháp còn lại là tương ưng chánh cần.
[490] VỊ TỲ KHƯU ước vọng tinh tấn chuyên cần kiên tâm phấn đấu để ÐOẠN TRỪ CÁC ÁC BẤT THIỆN PHÁP ÐÃ SANH LÀ SAO?
Nơi đây, khi nào vị tỳ khưu tu tập thiền Siêu Thế, pháp dẫn xuất, nhân tịch diệt, để đoạn trừ thiên kiến, đạt đến đệ nhất địa vức, ly các dục… (trùng)… chứng và trú sơ thiền, hành nan đắc trì; trong khi ấy vị ấy ước vọng tinh tấn chuyên cần kiên tâm phấn đấu để đoạn trừ các bất thiện pháp đã sanh.
[491] NÓI RẰNG “ƯỚC VỌNG” “… (trùng)… NÓI RẰNG “TINH TẤN”… (trùng)… NÓI RẰNG “CHUYÊN CẦN”… (trùng)… NÓI RẰNG “KIÊN TÂM”… (trùng)… NÓI RẰNG “PHẤN ÐẤU”.
Ở ÐÂY, CHÁNH CẦN LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự cần cố thuộc về tâm… (trùng)… chánh tinh tấn, cần giác chi, chi đạo, liên quan đạo. Ðây gọi là chánh cần, các pháp còn lại là tương ưng chánh cần.
[492] VỊ TỲ KHƯU ước vọng tinh tấn chuyên cần kiên tâm phấn đấu để PHÁT SANH CÁC THIỆN PHÁP CHƯA SANH LÀ SAO?
Nơi đây, khi nào vị tỳ khưu tu tập thiền Siêu Thế, pháp dẫn xuất, nhân tịch diệt, để đoạn trừ thiên kiến, đạt đến đệ nhất địa vức, ly các dục… (trùng)… chứng và trú sơ thiền, hành nan đắc trì; trong khi ấy vị đó ước vọng tinh tấn chuyên cần kiên tâm phấn đấu để phát sanh các thiện pháp chưa sanh.
[493] NÓI RẰNG “ƯỚC VỌNG” “… (trùng)… NÓI RẰNG “TINH TẤN”… (trùng)… NÓI RẰNG “CHUYÊN CẦN”… (trùng)… NÓI RẰNG “KIÊN TÂM”… (trùng)… NÓI RẰNG “PHẤN ÐẤU”.
Ở ÐÂY, CHÁNH CẦN LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự cần cố thuộc về tâm… (trùng)… chánh tinh tấn, cần giác chi, chi đạo, liên quan đạo. Ðây gọi là chánh cần; những pháp còn lại là tương ưng chánh cần.
[494] VỊ TỲ KHƯU ƯỚC VỌNG TINH TẤN CHUYÊN CẦN KIÊN TÂM PHẤN ÐẤU ÐỂ DUY TRÌ[7] KHÔNG CHO SÚT GIẢM[8], GIA TĂNG[9], TIẾN TRIỂN[10], PHÁT TRIỂN[11], BỔ TÚC[12] CÁC THIỆN PHÁP ÐÃ SANH LÀ SAO?
Nơi đây, khi nào vị tỳ khưu tu tập thiền Siêu Thế, pháp dẫn xuất, nhân tịch diệt, để đoạn trừ thiên kiến, đạt đến đệ nhất địa vức, ly các dục… (trùng)… chứng và trú sơ thiền, hành nan đắc trì; trong khi ấy vị đó ước vọng tinh tấn, chuyên cần, kiên tâm phấn đấu để duy trì không cho sút giảm, gia tăng, tiến triển, phát triển, bổ túc các thiện pháp đã sanh.
[495] NÓI RẰNG “ÐỂ DUY TRÌ”
Chi là sự duy trì, ấy là sự không sút giảm; chi là sự không sút giảm, ấy là sự gia tăng; chi là sự gia tăng, ấy là sự tiến triển; chi là sự tiến triển, ấy là sự phát triển; chi là sự phát triển, ấy là sự bổ túc.
[496] NÓI RẰNG “ƯỚC VỌNG”. Ở ÐÂY, SỰ ƯỚC VỌNG LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự hoài bão, lập nguyện, muốn làm, là thiện tánh pháp dục. Ðây gọi là sự ước vọng.
Vị ấy sản sanh, sinh thành, khởi dậy, ứng khởi, sanh ra, sanh khởi sự ước vọng này, Bởi lẽ ấy được nói rằng “ước vọng”.
[497] NÓI RẰNG “TINH TẤN”. Ở ÐÂY, SỰ TINH TẤN LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự cần cố thuộc về tâm… (trùng)… chánh tinh tấn, cần giác chi, chi đạo, liên quan đạo. Ðây gọi là sự tinh tấn.
Vị ấy dự nhập… (trùng)… thành đạt với sự tinh tấn nầy; bởi lẽ ấy được nói rằng “tinh tấn”.
[498] NÓI RẰNG “CHUYÊN CẦN”. Ở ÐÂY, CẦN LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự cần cố thuộc về tâm… (trùng)… chánh tinh tấn, cần giác chi, chi đạo, liên quan đạo. Ðây gọi là cần.
Vị ấy khởi sự, khởi xướng, áp dụng, tu tập, làm sung mãn pháp cần nầy. Bởi lẽ ấy được nói rằng “chuyên cần”.
[499] NÓI RẰNG “KIÊN TÂM”. Ở ÐÂY, TÂM LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là tâm ý, tâm địa… (trùng)… ý thức giới sanh từ đó. Ðây gọi là tâm.
Vị ấy kiên trì, bảo trì, ủng hộ, hỗ trợ tâm nầy; bởi lẽ ấy được nói rằng “kiên tâm”.
[500] NÓI RẰNG “PHẤN ÐẤU”. Ở ÐÂY, CHÁNH CẦN LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự cần cố thuộc về tâm… (trùng)… chánh tinh tấn, cần giác chi, chi đạo, liên quan đạo. Ðây gọi là chánh cần; các pháp còn lại là tương ưng chánh cần.
[501] Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ CHÁNH CẦN?
Nơi đây, khi nào vị tỳ khưu tu tập thiền Siêu Thế, pháp dẫn xuất, nhân tịch diệt, để đoạn trừ thiên kiến, đạt đến đệ nhất địa vức, ly các dục… (trùng)… chứng và trú Sơ thiền, hành nan đắc trì; trong khi ấy, có chi là sự cần cố thuộc về tâm… (trùng)… chánh tinh tấn, cần giác chi, chi đạo, liên quan đạo. Ðây gọi là chánh cần, các pháp còn lại là tương ưng chánh cần.
DỨT PHẦN PHÂN THEO VI DIỆU PHÁP
PHẦN VẤN ÐÁP (Panhāpucchakaṃ)
[502] BỐN CHÁNH CẦN:
Nơi đây, vị tỳ khưu ước vọng tinh tấn chuyên cần kiên tâm phấn đấu, để không cho sanh các ác bất thiện pháp chưa sanh.
Ước vọng tinh tấn chuyên cần kiên tâm phấn đấu để đoạn trừ các ác bất thiện pháp đã sanh.
Ước vọng tinh tấn chuyên cần kiên tâm phấn đấu để phát sanh các thiện pháp chưa sanh.
Ước vọng tinh tấn chuyên cần kiên tâm phấn đấu để duy trì, không sút giảm, gia tăng, tiến triển, phát triển, bổ túc các thiện pháp đã sanh.
Trong bốn chánh cần có BAO NHIÊU LÀ THIỆN? CÓ BAO NHIÊU LÀ BẤT THIỆN? CÓ BAO NHIÊU LÀ VÔ KÝ?… (trùng)… CÓ BAO NHIÊU LÀ HỮU TRANH? CÓ BAO NHIÊU LÀ VÔ TRANH?
[503] (BỐN CHÁNH CẦN) chỉ là thiện.
(Bốn chánh cần) có thể là tương ưng lạc thọ, có thể là tương ưng xả thọ.
(Bốn chánh cần) là pháp dị thục nhân.
(Bốn chánh cần) là phi thành do thủ phi cảnh thủ.
(Bốn chánh cần) là phi phiền toái phi cảnh phiền não.
(Bốn chánh cần) có thể là hữu tầm hữu tứ, có thể là vô tầm hữu tứ, có thể là vô tầm vô tứ.
(Bốn chánh cần) có thể là câu hành hỷ, có thể là câu hành lạc, có thể là câu hành xả.
(Bốn chánh cần) là không đáng do kiến đạo tiến đạo đoạn trừ.
(Bốn chánh cần) là phi hữu nhân đáng do kiến đạo tiến đạo đoạn trừ.
(Bốn chánh cần) là nhân tịch diệt.
(Bốn chánh cần) là hữu học.
(Bốn chánh cần) là vô lượng
(Bốn chánh cần) là biết cảnh vô lượng.
(Bốn chánh cần) là tinh lương.
(Bốn chánh cần) là cố định phần chánh.
(Bốn chánh cần) không có đạo thành cảnh, mà có đạo thành nhân; có thể có đạo thành trưởng, có thể không nên nói là có đạo thành trưởng.
(Bốn chánh cần) có thể là sinh tồn; có thể là vị sanh tồn; không nên nói là chuẩn sanh.
(Bốn chánh cần) có thể là quá khứ, có thể là vị lai, có thể là hiện tại.
(Bốn chánh cần) không nên nói là biết cảnh quá khứ hay biết cảnh vị lai hay biết cảnh hiện tại.
(Bốn chánh cần) có thể là nội phần, có thể là ngoại phần, có thể là nội ngoại phần.
(Bốn chánh cần) là biết cảnh ngoại phần.
(Bốn chánh cần) là vô kiến vô đối chiếu.
[504] (BỐN CHÁNH CẦN) là phi nhân. Là hữu nhân. Là tương ưng nhân. Không nên nói là nhân hữu nhân, mà là hữu nhân phi nhân. Không nên nói là nhân tương ưng nhân, mà là tương ưng nhân phi nhân. Là phi nhân hữu nhân.
(Bốn chánh cần) là hữu duyên. Là hữu vi. Là vô kiến. Là vô đối chiếu. Là phi sắc. Là Siêu thế. Là đáng vài tâm biết; cũng không đáng vài tâm biết.
(Bốn chánh cần) là phi lậu. Là phi cảnh lậu. Là bất tương ưng lậu. Không nên nói là lậu cảnh lậu hay cảnh lậu phi lậu. Không nên nói là lậu tương ưng lậu hay tương ưng lậu phi lậu. Là bất tương ưng lậu phi cảnh lậu.
(Bốn chánh cần) là phi triền… (trùng)…
(Bốn chánh cần) là phi phược… (trùng)…
(Bốn chánh cần) là phi bộc… (trùng)…
(Bốn chánh cần) là phi phối… (trùng)…
(Bốn chánh cần) là phi cái… (trùng)…
(Bốn chánh cần) là phi khinh thị… (trùng)…
(Bốn chánh cần) là hữu tri cảnh. Là phi tâm. Là sở hữu tâm. Là tương ưng tâm. Là hòa với tâm. Là có tâm làm sở sanh. Là đồng hiện hữu với tâm. Là tùy chuyển với tâm. Là hòa tâm tâm sở sanh. Là hòa tâm tâm sở sanh đồng hiện hữu với tâm. Là hòa tâm tâm sở sanh tùy chuyển với tâm. Là ngoại phần. Là phi y sinh. Là phi do thủ.
(Bốn chánh cần) là phi thủ… (trùng)…
(Bốn chánh cần) là phi phiền não… (trùng)…
(Bốn chánh cần) là không đáng do kiến đạo đoạn trừ,ø không đáng do tiến đạo đoạn trừ. Là phi hữu nhân đáng do kiến đạo đoạn trừ. Là phi hữu nhân đáng do tiến đạo đoạn trừ. Có thể là hữu tầm, có thể là vô tầm. Có thể là hữu tứ, có thể là vô tứ. Có thể là hữu hỷ, có thể là vô hỷ. Có thể là câu hành hỷ, có thể là phi câu hành hỷ, có thể câu hành lạc, có thể là phi câu hành lạc. Có thể là câu hành xả, có thể là phi câu hành xả. Là phi dục giới. Là phi sắc giới. Là phi vô sắc giới. Là vô hệ thuộc. Là pháp dẫn xuất. Là cố định. Là vô thượng. Là vô tranh.
DỨT PHẦN VẤN ÐÁP
TRỌN VẸN CHÁNH CẦN PHÂN TÍCH
-ooOoo-
THẦN TÚC PHÂN TÍCH (IDDHIPĀDAVIBHAṄGO)
PHÂN TÍCH THEO KINH (Suttantabhājanīyaṃ)
[505] BỐN THẦN TÚC:
Nơi đây, vị tỳ khưu tu tập thần túc hợp theo dục định cần hành.
Tu tập thần túc hợp theo tấn định cần hành.
Tu tập thần túc hợp theo tâm định cần hành.
Tu tập thần túc hợp theo thẩm định cần hành.
[506] VỊ TỲ KHƯU TU TẬP THẦN TÚC HỢP THEO DỤC ÐỊNH CẦN HÀNH[13] LÀ SAO?
Nếu vị tỳ khưu lấy dục làm trưởng rồi mới đặc định, đắc nhất hành tâm; đây gọi là dục định. Vị ấy ước vọng tinh tấn chuyên cần kiên tâm phấn đấu để không cho sanh các ác bất thiện pháp chưa sanh; ước vọng tính tấn chuyên cần kiên tâm phấn đấu để đoạn trừ các ác bất thiện pháp đã sanh; ước vọng tính tấn chuyên cần kiên tâm phấn đấu để phát sanh các thiện pháp chưa sanh; ước vọng tính tấn chuyên cần kiên tâm phấn đấu để duy trì không cho sút giảm, gia tăng, tiến triển, phát triển, bổ túc các thiện pháp đã sanh; đây gọi là cần hành. Dục định nầy và cần hành nầy như thế, gồm lại gom chung thành một mà định danh là dục định cần hành.
[507] Ở ÐÂY, DỤC[14] LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự hoài bão, lập nguyện, muốn làm, là thiện tâm pháp dục. Ðây gọi là dục.
Ở ÐÂY, ÐỊNH[15] LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự đình trụ của tâm, sự vững vàng, vững trú, không tán loạn, không lao chao, tính cách tâm không xao xuyến, chỉ tịnh, định quyền, định lực, chánh định. Ðây gọi là định.
Ở ÐÂY, CẦN HÀNH[16] LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự cần cố thuộc về tâm, sự cố gắng, ráng sức, chuyên cần, tinh cần, siêng năng, nỗ lực, dốc lòng, nghị lực, không nhủn chí, không bỏ qua nguyện vọng, không bỏ qua phận sự, phò trì trách nhiệm, tấn là tấn quyền, tấn lực, chánh tinh tấn. Ðây gọi là cần hành.
Vị ấy dự nhập, biến nhập, dự đáo, mãn đáo, dự đắc, hoàn đắc, thành đạt với dục định nầy và cần hành nầy như thế. Bởi lẽ ấy được nói rằng: “Hiệp theo dục định cần hành”.
[508] NÓI RẰNG: “THẦN” tức cái chi là sự chú ý đối với các pháp ấy, sự hoàn thành, thành công, thành mãn, đắc thành, viên đắc, đạt đến, thành đạt, chứng đắc, tác chứng, thành tựu.
Nói rằng, “THẦN TÚC”, tức là thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn của bậc thực chứng.
Nói rằng “TU TẬP THẦN TÚC” tức là áp dụng tu tiến, làm sung mãn các pháp ấy, bởi lẽ đó được nói rằng “tu tập thần túc”.
[509] VỊ TỲ KHƯU TU TẬP THẦN TÚC HIỆP THEO TẤN ÐỊNH CẦN HÀNH LÀ SAO?
Nếu vị tỳ khưu lấy tấn là trưởng rồi mới đắc định, đắc nhất hành tâm. Ðây gọi là tấn định.
Vị tỳ khưu ấy ước vọng tinh tấn chuyên cần kiên tâm phấn đấu để không cho sanh các ác bất thiện pháp chưa sanh… (trùng)… để đoạn trừ các ác bất thiện pháp đã sanh… (trùng)… để phát sanh các thiện pháp chưa sanh; ước vọng tính tấn chuyên cần kiên tâm phấn đấu để duy trì không cho sút giảm, gia tăng, tiến triển, phát triển, bổ túc các thiện pháp đã sanh. Ðây gọi là cần hành. Tấn định nầy và cần hành nầy như thế, gồm lại gom chung thành một mà định danh là tấn định cần hành.
[510] Ở ÐÂY, TẤN LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự cần cố thuộc về tâm… (trùng)… chánh tinh tấn. Ðây gọi là tấn.
Ở ÐÂY, ÐỊNH LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự đình trụ của tâm, sự vững vàng, vững trú, không tán loạn, không lao chao, tính cách tâm không xao xuyến, chỉ tịnh, định quyền, định lực, chánh định. Ðây gọi là định.
Ở ÐÂY, CẦN HÀNH LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự cần cố thuộc về tâm… (trùng)… chánh tinh tấn. Ðây gọi là cần hành.
Vị ấy dự nhập… (trùng)… thành đạt với tấn nầy định nầy và cần hành nầy như thế; bởi lẽ ấy được nói rằng: “Hiệp theo tấn định cần hành”.
[511] NÓI RẰNG: “THẦN” tức cái chi là sự như ý đối với các pháp ấy, sự hoàn thành, thành công, thành mãn, đắc thành, viên đắc, đạt đến, thành đạt, chứng đắc, tác chứng, thành tựu.
Nói rằng, “THẦN TÚC”, tức là thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn của bậc thực chứng.
Nói rằng “TU TẬP THẦN TÚC” tức là áp dụng tu tiến, làm sung mãn các pháp ấy; bởi lẽ đó được nói rằng “tu tập thần túc”.
[512] VỊ TỲ KHƯU TU TẬP THẦN TÚC HIỆP VỚI TÂM ÐỊNH CẦN HÀNH LÀ SAO[17]?
Nếu vị tỳ khưu lấy tâm là trưởng rồi mới đắc định, đắc nhất hành tâm, đây gọi là tâm định. Vị tỳ khưu ấy ước vọng tinh tấn chuyên cần kiên tâm phấn đấu để không cho sanh các ác bất thiện pháp chưa sanh… (trùng)… để đoạn trừ các ác bất thiện pháp đã sanh… (trùng)… để phát sanh các thiện pháp chưa sanh; ước vọng tính tấn chuyên cần kiên tâm phấn đấu để duy trì không cho sút giảm, gia tăng, tiến triển, phát triển, bổ túc các thiện pháp đã sanh. Ðây gọi là cần hành. Tâm định nầy và cần hành nầy như thế, gồm lại gom chung thành một mà định danh là tâm định cần hành.
[513] Ở ÐÂY, TÂM LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là tâm, ý, tâm địa… (trùng)… ý thức giới sanh từ đó. Ðây gọi là tâm.
Ở ÐÂY, ÐỊNH LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự đình trụ của tâm… (trùng)… chánh định. Ðây gọi là định.
Ở ÐÂY, CẦN HÀNH LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự cần cố thuộc về tâm… (trùng)… chánh tinh tấn. Ðây gọi là cần hành.
Vị ấy dự nhập… (trùng)… thành đạt với tâm nầy, định nầy và cần hành như thế. Bởi lẽ ấy được nói rằng “Hiệp theo tâm định cần hành”.
[514] NÓI RẰNG: “THẦN” tức là cái chi là sự như ý đối với các pháp ấy, sự hoàn thành, thành công, thành mãn, đắc thành, viên đắc, đạt đến, thành đạt, chứng đắc, tác chứng, thành tựu.
Nói rằng, “THẦN TÚC” tức là thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn của bậc thực chứng.
Nói rằng “tu tập thần túc”, tức là áp dụng tu tiến, làm sung mãn các pháp ấy. Bởi lẽ ấy được nói rằng “tu tập thần túc”.
[515] VỊ TỲ KHƯU TU TẬP THẦN TÚC HIỆP THEO THẨM ÐỊNH CẦN HÀNH[18] LÀ SAO?
Nếu vị tỳ khưu lấy thẩm là trưởng rồi mới đắc định, đắc nhất hành thẩm, đây gọi là thẩm định. Vị tỳ khưu ấy ước vọng tinh tấn chuyên cần kiên tâm phấn đấu để không cho sanh các ác bất thiện pháp chưa sanh… (trùng)… để đoạn trừ các ác bất thiện pháp đã sanh… (trùng)… để phát sanh các thiện pháp chưa sanh; ước vọng tính tấn chuyên cần kiên tâm phấn đấu để duy trì không cho sút giảm, gia tăng, tiến triển, phát triển, bổ túc các thiện pháp đã sanh. Ðây gọi là cần hành. Thẩm định nầy và cần hành nầy như thế, gồm chung gom lại thành một mà định danh là thẩm định cần hành.
[516] Ở ÐÂY, THẨM[19] LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự hiểu biết, hiểu rõ… (trùng)… vô si, trạch pháp, chánh kiến. Ðây gọi là thẩm.
Ở ÐÂY, ÐỊNH LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự đình trụ của tâm… (trùng)… chánh định. Ðây gọi là định.
Ở ÐÂY, CẦN HÀNH LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự cần cố thuộc về tâm… (trùng)… chánh tinh tấn. Ðây gọi là cần hành.
Vị ấy dự nhập… (trùng)… thành đạt với thẩm nầy, định nầy và cần hành nầy như thế. Bởi lẽ ấy được nói rằng “Hiệp theo thẩm định cần hành”.
[517] NÓI RẰNG: “THẦN” tức cái chi là sự như ý đối với các pháp ấy, sự hoàn thành, thành công, thành mãn, đắc thành, viên đắc, đạt đến, thành đạt, chứng đắc, tác chứng, thành tựu.
Nói rằng, “THẦN TÚC”, tức là thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn của bậc thực chứng.
Nói rằng “TU TẬP THẦN TÚC”, tức là áp dụng tu tiến, làm sung mãn các pháp ấy. Bởi lẽ ấy được nói rằng “tu tập thần túc”.
DỨT PHẦN PHÂN THEO KINH
PHÂN THEO VI DIỆU PHÁP (ABHIDHAMMABHĀJANĪYAṂ)
[518] BỐN THẦN TÚC:
Nơi đây, vị tỳ khưu tu tập thần túc hiệp theo dục định cần hành.
Tu tập thần túc hiệp theo tấn định cần hành.
Tu tập thần túc hiệp theo tâm định cần hành.
Tu tập thần túc hiệp theo thẩm định cần hành.
[519] VỊ TỲ KHƯU TU TẬP THẦN TÚC HIỆP THEO DỤC ÐỊNH CẦN HÀNH LÀ SAO?
Nơi đây, khi nào vị tỳ khưu tu tập thiền Siêu Thế, pháp dẫn xuất, nhân tịch diệt, để đoạn trừ thiên kiến, đạt đến đệ nhất địa vức, ly các dục… (trùng)… chứng và trú Sơ thiền, hành nan đắc trì; trong khi ấy, vị đó tu tập thần túc hiệp theo dục định cần hành.
[520] Ở ÐÂY, DỤC LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự hoài bão, lập nguyện, muốn làm, là thiện tánh pháp dục. Ðây gọi là dục.
Ở ÐÂY, ÐỊNH LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự đình trụ của tâm… (trùng)… chánh định, định giác chi, chi đạo, liên quan đạo. Ðây gọi là định.
Ở ÐÂY, CẦN HÀNH LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự cần cố thuộc về tâm… (trùng)… chánh tinh tấn, cần giác chi, chi đạo, liên quan đạo. Ðây gọi là cần hành.
Vị ấy dự nhập… (trùng)… thành đạt với dục nầy, định nầy và cần hành nầy như thế. Bởi lẽ ấy được nói rằng “Hiệp theo dục định cần hành”.
[521] NÓI RẰNG: “THẦN” tức là cái chi là sự như ý đối với các pháp ấy, sự hoàn thành, thành công, thành mãn, đắc thành, viên đắc, đạt đến, thành đạt, chứng đắc, tác chứng, thành tựu.
Nói rằng, “THẦN TÚC”, tức là xúc… (trùng)… cần cố, bất phóng dật của bậc thực chứng.
Nói rằng “TU TẬP THẦN TÚC”, tức là áp dụng tu tiến, làm sung mãn các pháp ấy. Bởi lẽ đó được nói rằng “tu tập thần túc”.
[522] VỊ TỲ KHƯU TU TẬP THẦN TÚC HIỆP THEO TẤN ÐỊNH CẦN HÀNH LÀ SAO?
Nơi đây, khi nào vị tỳ khưu tu tập thiền Siêu Thế, pháp dẫn xuất, nhân tịch diệt, để đoạn trừ thiên kiến, đạt đến đệ nhất địa vức, ly các dục… (trùng)… chứng và trú Sơ thiền, hành nan đắc trì; trong khi ấy, vị đó tu tập thần túc hiệp theo tấn định cần hành.
[523] Ở ÐÂY, TẤN LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự cần cố thuộc về tâm… (trùng)… chánh tinh tấn, cần giác chi, chi đạo, liên quan đạo. Ðây gọi là tấn.
Ở ÐÂY, ÐỊNH LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự đình trụ của tâm… (trùng)… chánh định, định giác chi, chi đạo, liên quan đạo. Ðây gọi là định.
Ở ÐÂY, CẦN HÀNH LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự cần cố thuộc về tâm… (trùng)… chánh tinh tấn, cần giác chi, chi đạo, liên quan đạo. Ðây gọi là cần hành.
Vị ấy dự nhập… (trùng)… thành đạt với tấn nầy, định nầy và cần hành nầy như thế. Bởi lẽ ấy được nói rằng “Hiệp theo tấn định cần hành”.
[524] NÓI RẰNG: “THẦN” tức cái chi là sự như ý đối với các pháp ấy, sự hoàn thành, thành công, thành mãn, đắc thành, viên đắc, đạt đến, thành đạt, chứng đắc, tác chứng, thành tựu.
Nói rằng, “THẦN TÚC”, tức là xúc… (trùng)… cần cố, bất phóng dật của bậc thực chứng.
Nói rằng “TU TẬP THẦN TÚC”, tức là áp dụng tu tiến, làm sung mãn các pháp ấy. Bởi lẽ đó được nói rằng “tu tập thần túc”.
[525] VỊ TỲ KHƯU TU TẬP THẦN TÚC HIỆP THEO TÂM ÐỊNH CẦN HÀNH LÀ SAO?
Nơi đây, khi nào vị tỳ khưu tu tập thiền Siêu Thế, pháp dẫn xuất, nhân tịch diệt, để đoạn trừ thiên kiến, đạt đến đệ nhất địa vức, ly các dục… (trùng)… chứng và trú Sơ thiền, hành nan đắc trì; trong khi ấy, vị đó tu tập thần túc hiệp theo tâm định cần hành.
[526] Ở ÐÂY, TÂM LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là tâm, ý, tâm địa… (trùng)… ý thức giới sanh từ đó. Ðây gọi là tâm.
Ở ÐÂY, ÐỊNH LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự đình trụ của tâm… (trùng)… chánh định, định giác chi, chi đạo, liên quan đạo. Ðây gọi là định.
Ở ÐÂY, CẦN HÀNH LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự cần cố thuộc về tâm… (trùng)… chánh tinh tấn, cần giác chi, chi đạo, liên quan đạo. Ðây gọi là cần hành.
Vị ấy dự nhập… (trùng)… thành đạt với tâm nầy, định nầy và cần hành nầy. Bởi lẽ ấy được nói rằng “Hiệp theo tâm định cần hành”.
[527] NÓI RẰNG: “THẦN” tức cái chi là sự như ý đối với các pháp ấy, sự hoàn thành, thành công, thành mãn, đắc thành, viên đắc, đạt đến, thành đạt, chứng đắc, tác chứng, thành tựu.
Nói rằng, “THẦN TÚC”, tức là xúc… (trùng)… cần cố, bất phóng dật của bậc thực chứng.
Nói rằng “TU TẬP THẦN TÚC”, tức là áp dụng tu tiến, làm sung mãn các pháp ấy. Bởi lẽ đó được nói rằng “tu tập thần túc”.
[528] VỊ TỲ KHƯU TU TẬP THẦN TÚC HIỆP THEO THẨM ÐỊNH CẦN HÀNH LÀ SAO?
Nơi đây, khi nào vị tỳ khưu tu tập thiền Siêu Thế, pháp dẫn xuất, nhân tịch diệt, để đoạn trừ thiên kiến, đạt đến đệ nhất địa vức, ly các dục… (trùng)… chứng và trú Sơ thiền, hành nan đắc trì; trong khi ấy, vị đó tu tập thần túc hiệp theo thẩm định cần hành.
[529] Ở ÐÂY, THẨM LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự hiểu biết, hiểu rõ… (trùng)… vô si, trạch pháp, chánh kiến, trạch pháp giác chi, chi đạo, liên quan đạo. Ðây gọi là thẩm.
Ở ÐÂY, ÐỊNH LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự đình trụ của tâm… (trùng)… chánh định, định giác chi, chi đạo, liên quan đạo. Ðây gọi là định.
Ở ÐÂY, CẦN HÀNH LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự cần cố thuộc về tâm… (trùng)… chánh tinh tấn, cần giác chi, chi đạo, liên quan đạo. Ðây gọi là cần hành.
Vị ấy dự nhập, biến nhập, dự đáo, mãn đáo, dự đắc, hoàn đắc, thành đạt với thẩm nầy, định nầy và cần hành nầy như thế. Bởi lẽ ấy được nói rằng: “Hiệp theo thẩm định cần hành”.
[530] NÓI RẰNG: “THẦN” tức cái chi là sự như ý đối với các pháp ấy, sự hoàn thành, thành công, thành mãn, đắc thành, viên đắc, đạt đến, thành đạt, chứng đắc, tác chứng, thành tựu.
Nói rằng, “THẦN TÚC”, tức là xúc… (trùng)… cần cố, bất phóng dật của bậc thực chứng.
Nói rằng “TU TẬP THẦN TÚC”, tức là áp dụng tu tiến, làm sung mãn các pháp ấy. Bởi lẽ đó được nói rằng “tu tập thần túc”.
[531] BỐN THẦN TÚC LÀ DỤC THẦN TÚC, TẤN THẦN TÚC, TÂM THẦN TÚC, THẨM THẦN TÚC.
[532] Ở ÐÂY, DỤC THẦN TÚC LÀ THẾ NÀO?
Nơi đây, khi nào vị tỳ khưu tu tập thiền Siêu Thế, pháp dẫn xuất, nhân tịch diệt, để đoạn trừ thiên kiến, đạt đến đệ nhất địa vức, ly các dục… (trùng)… chứng và trú Sơ thiền, hành nan đắc trì; trong khi ấy có chi là sự hoài bão, lập nguyện, muốn làm, là thiện tánh pháp dục. Ðây gọi là dục thần túc, các pháp còn lại là tương ưng dục thần túc.
[533] Ở ÐÂY, TẤN THẦN TÚC LÀ THẾ NÀO?
Nơi đây, khi nào vị tỳ khưu tu tập thiền Siêu Thế, pháp dẫn xuất, nhân tịch diệt, để đoạn trừ thiên kiến, đạt đến đệ nhất địa vức, ly các dục… (trùng)… chứng và trú Sơ thiền, hành nan đắc trì; trong khi ấy có chi là sự cần cố thuộc về tâm… (trùng)… chánh tinh tấn, cần giác chi, chi đạo, liên quan đạo. Ðây gọi là tấn thần túc, các pháp còn lại là tương ưng tấn thần túc.
[534] Ở ÐÂY, TÂM THẦN TÚC LÀ THẾ NÀO?
Nơi đây, khi nào vị tỳ khưu tu tập thiền Siêu Thế, pháp dẫn xuất, nhân tịch diệt, để đoạn trừ thiên kiến, đạt đến đệ nhất địa vức, ly các dục… (trùng)… chứng và trú Sơ thiền, hành nan đắc trì; trong khi ấy có chi là tâm, ý, tâm địa… (trùng)… ý thức giới sanh từ đó. Ðây gọi là tâm thần túc, các pháp còn lại là tương ưng tâm thần túc.
[535] Ở ÐÂY, THẨM THẦN TÚC LÀ THẾ NÀO?
Nơi đây, khi nào vị tỳ khưu tu tập thiền Siêu Thế, pháp dẫn xuất, nhân tịch diệt, để đoạn trừ thiên kiến, đạt đến đệ nhất địa vức, ly các dục… (trùng)… chứng và trú Sơ thiền, hành nan đắc trì; trong khi ấy có chi là sự hiểu biết, hiểu rõ… (trùng)… vô si, trạch pháp, chánh kiến, trạch pháp giác chi, chi đạo, liên quan đạo. Ðây gọi là thẩm thần túc, các pháp còn lại là tương ưng thẩm thần túc.
DỨT PHẦN PHÂN THEO VI DIỆU PHÁP
PHẦN VẤN ÐÁP (Pañhāpucchakaṃ)
[536] BỐN THẦN TÚC:
Nơi đây, vị tỳ khưu tu tập thần túc hiệp theo dục định cần hành… (trùng)… tấn định cần hành… (trùng)… tâm định cần hành tu tập thần túc hiệp theo thẩm định cần hành. Trong bốn thần túc CÓ BAO NHIÊU LÀ THIỆN? CÓ BAO NHIÊU LÀ BẤT THIỆN? CÓ BAO NHIÊU LÀ VÔ KÝ?… (trùng)… CÓ BAO NHIÊU LÀ HỮU TRANH? CÓ BAO NHIÊU LÀ VÔ TRANH?
[537] (BỐN THẦN TÚC) chỉ là thiện.
(Bốn thần túc) có thể là tương ưng thọ lạc, có thể là tương ưng thọ phi khổ phi lạc.
(Bốn thần túc) là pháp dị thục nhân.
(Bốn thần túc) là phi do thủ phi cảnh thủ.
(Bốn thần túc) là phi phiền toái phi cảnh phiền não.
(Bốn thần túc) có thể là hữu tầm hữu tứ, có thể là vô tầm hữu tứ, có thể là vô tầm vô tứ.
(Bốn thần túc) có thể là câu hành hỷ, có thể là câu hành lạc, có thể là câu hành xả.
(Bốn thần túc) là không đáng do kiến đạo tiến đạo đoạn trừ.
(Bốn thần túc) là phi hữu nhân đáng do kiến đạo tiến đạo đoạn trừ.
(Bốn thần túc) là nhân đến tịch diệt.
(Bốn thần túc) là hữu học.
(Bốn thần túc) là vô lượng
(Bốn thần túc) là biết cảnh vô lượng.
(Bốn thần túc) là tinh lương.
(Bốn thần túc) là cố định phần chánh.
(Bốn thần túc) là không có đạo thành cảnh, có đạo thành nhân, không có đạo thành trưởng.
(Bốn thần túc) có thể là sinh tồn, có thể là phi sinh tồn, không nên nói là chuẩn sanh.
(Bốn thần túc) có thể là quá khứ, có thể là vị lai, có thể là hiện tại.
(Bốn thần túc) không nên nói là biết cảnh quá khứ hay biết cảnh vị lai hay biết cảnh hiện tại.
(Bốn thần túc) có thể là nội phần, có thể là ngoại phần, có thể là nội ngoại phần.
(Bốn thần túc) là biết cảnh ngoại phần.
(Bốn thần túc) là vô kiến vô đối chiếu.
[538] THẨM THẦN TÚC là nhân; ba thần túc là phi nhân.
(Bốn thần túc) là hữu nhân
(Bốn thần túc) là tương ưng nhân
Thẩm thần túc là nhân hữu nhân; ba thần túc không nên nói là nhân hữu nhân, mà là hữu nhân phi nhân.
Thẩm thần túc là nhân tương ưng nhân; ba thần túc không nên nói là nhân tương ưng nhân, mà là tương ưng nhân phi nhân.
Ba thần túc là phi nhân hữu nhân; thẩm thần túc không nên nói là phi nhân hữu nhân hay phi nhân vô nhân.
[539] (BỐN THẦN TÚC) là hữu duyên. Là hữu vi. Là vô kiến. Là vô đối chiếu. Là phi sắc. Là Siêu thế. Là đáng vài tâm biết, cũng không đáng vài tâm biết.
(Bốn thần túc) là phi lậu. Là phi cảnh lậu. Là bất tương ưng lậu. Không nên nói là lậu cảnh lậu hay cảnh lậu phi lậu. Không nên nói là lậu tương ưng lậu hay tương ưng lậu phi lậu. Là bất tương ưng lậu phi cảnh lậu.
(Bốn thần túc) là phi triền… (trùng)…
(Bốn thần túc) là phi phược… (trùng)…
(Bốn thần túc) là phi bộc… (trùng)…
(Bốn thần túc) là phi phối… (trùng)…
(Bốn thần túc) là phi cái… (trùng)…
(Bốn thần túc) là phi khinh thị… (trùng)…
[540] (BỐN THẦN TÚC) là hữu tri cảnh. Ba thần túc là phi tâm, tâm thần túc là tâm. Ba thần túc là sở hữu tâm; tâm thần túc là phi sở hữu tâm. Ba thần túc là tương ưng tâm; tâm thần túc không nên nói là tương ưng với tâm hay bất tương ưng với tâm. Ba thần túc là hòa tâm; tâm thần túc không nên nói là hòa với tâm hay bất hòa với tâm. Ba thần túc có tâm làm sở sanh; tâm thần túc là phi tâm làm sở sanh. Ba thần túc là đồng hiện hữu với tâm; tâm thần túc là không đồng hiện hữu với tâm. Ba thần túc là tùy chuyển theo tâm; tâm thần túc là không tùy chuyển theo tâm. Ba thần túc là hòa tâm tâm sở sanh; tâm thần túc là phi hòa tâm tâm sở sanh. Ba thần túc là hòa tâm tâm sở sanh đồng hiện hữu với tâm; tâm thần túc là phi hòa tâm, tâm sở sanh đồng hiện hữu với tâm. Ba thần túc là hòa tâm tâm sở sanh tùy chuyển theo tâm; tâm thần túc là phi hòa tâm tâm sở sanh tùy chuyển theo tâm. Ba thần túc là ngoại phần; tâm thần túc là nội phần. (Bốn thần túc) là phi y sinh. (Bốn thần túc) là phi do thủ.
[561] (Bốn thần túc) là phi thủ… (trùng)…
(Bốn thần túc) là phi phiền não… (trùng)…
(Bốn thần túc) là không đáng do kiến đạo đoạn trừ. Là không đáng do tiến đạo đoạn trừ. Là phi hữu nhân đáng do kiến đạo đoạn trừ, là phi hữu nhân đáng do tiến đạo đoạn trừ. Có thể là hữu tầm, có thể là vô tầm. Có thể là hữu tứ, có thể là vô tứ. Có thể là hữu hỷ, có thể là vô hỷ. Có thể là câu hành hỷ, có thể là phi câu hành hỷ. Có thể là câu hành lạc, có thể là phi câu hành lạc. Có thể là câu hành xả, có thể là phi câu hành xả. Là phi dục giới. Là phi sắc giới. Là phi vô sắc giới. Là phi hệ thuộc. Là pháp dẫn xuất. Là pháp cố định. Là vô thượng. Là vô tranh.
DỨT PHẦN VẤN ÐÁP
TRỌN VẸN THẦN TÚC PHÂN TÍCH
[1] Cattāro sammappadhānā.
[2] Chanda.
[3] Vāyāma.
[4] Ārabhati.
[5] Cittam pagganhāti.
[6] Padahati.
[7] Thiti.
[8] Asammosa.
[9] Bhiyyobhāva.
[10] Vepulla.
[11] Bhāvanā.
[12] Pāripūri.
[13] Chandasamādhipadhānassankhārasamannāgataṃ.
[14] Chanda.
[15] Samādhi.
[16] Pādhānasankhāra.
[17] Cittasamādhipadhānasankhārasamannāgatam.
[18] Vīmaṃsāsamādhipadhānasankhārasamannāgataṃ.
[19] Vīmaṃsā: Sự thẩm sát.
GIÁC CHI PHÂN TÍCH (BOJJHANGAVIBHAṄGO)
PHÂN THEO KINH (SUTTANTABHĀJANĪYAṂ)
[542] BẢY GIÁC CHI là niệm giác chi, trạch pháp giác chi, cần giác chi, hỷ giác chi, tịnh giác chi, định giác chi, xả giác chi.
[543] Ở ÐÂY, NIỆM GIÁC CHI[1] LÀ THẾ NÀO?
Nơi đây, vị tỳ khưu có chánh niệm, thành tựu tuệ niệm cao siêu, nhớ được, nhớ lại hành vi đã lâu cùng với lời nói đã lâu. Ðây gọi là niệm giác chi.
Vị ấy, khi an trú niệm như thế, dùng trí tuệ chọn lựa, cân phân, thẩm sát pháp ấy. Ðây gọi là trạch pháp giác chi.
Khi dùng trí tuệ chon lựa, cân phân, thẩm sát pháp ấy; đối với vị đó có sự chuyên cần tinh tấn không lui sụt. Ðây gọi là cần giác chi.
Ðối với vị chuyên cần tinh tấn, có hỷ không thuộc vật chất phát sanh. Ðây gọi là hỷ giác chi.
Ðối với vị có ý hỷ thì thân an tịnh, cùng tâm an tịnh. Ðây gọi là tịnh giác chi.
Ðối với vị thân an tịnh thường lạc, thì tâm định vững. Ðây gọi là định giác chi.
Vị ấy khéo dững dưng với tâm định như thế. Ðây gọi là xả giác chi.
[544] BẢY GIÁC CHI là niệm giác chi, trạch pháp giác chi, cần giác chi, hỷ giác chi, tịnh giác chi, định giác chi, xả giác chi.
[545] Ở ÐÂY, NIỆM GIÁC CHI LÀ THẾ NÀO?
Có ức niệm đối với các pháp nội phần, có ức niệm đối với các pháp ngoại phần.
Sự ức niệm đối với các pháp nội phần dù là chi, ấy cũng là niệm giác chi dẫn đến thắng tri giác ngộ tịch tịnh. Sự ức niệm đối với các pháp ngoại phần dù là chi, ấy cũng gọi là niệm giác chi tiến hành để thắng tri giác ngộ tịch tịnh.
[546] Ở ÐÂY, TRẠCH PHÁP GIÁC CHI[2] LÀ THẾ NÀO?
Có sự cân phân đối với các pháp nội phần, có sự cân phân đối với các pháp ngoại phần.
Sự cân phân đối với các pháp nội phần dù là chi, ấy cũng gọi là trạch pháp giác chi dẫn đến thắng tri giác ngộ tịch tịnh. Sự cân phân đối với các pháp ngoại phần dù là chi, ấy cũng gọi là trạch pháp giác chi dẫn đến thắng tri giác ngộ tịch tịnh.
[547] Ở ÐÂY, CẦN GIÁC CHI[3] LÀ THẾ NÀO?
Có sự tinh tấn thuộc về thân, có sự tinh tấn thuộc về tâm.
Sự tinh tấn thuộc về thân dù là chi, ấy cũng là cần giác chi dẫn đến thắng tri giác ngộ tịch tịnh.
Sự tinh tấn thuộc về tâm dù là chi, ấy cũng là cần giác chi dẫn đến thắng tri giác ngộ tịch tịnh.
[548] Ở ÐÂY, HỶ GIÁC CHI[4] LÀ THẾ NÀO?
Có hỷ hữu tầm hữu tứ, có hỷ vô tầm vô tứ.
Hỷ hữu tầm hữu tứ dù là chi, ấy cũng là hỷ giác chi, dẫn đến thắng tri giác ngộ tịch tịnh.
Hỷ vô tầm vô tứ dù là chi, ấy cũng là hỷ giác chi, dẫn đến thắng tri giác ngộ tịch tịnh.
[549] Ở ÐÂY, TỊNH GIÁC CHI[5] LÀ THẾ NÀO?
Có tịnh thân, có tịnh tâm.
Tịnh thân dù là chi, ấy cũng là tịnh giác chi dẫn đến thắng tri giác ngộ tịch tịnh.
Tịnh tâm dù là chi, ấy cũng là tịnh giác chi dẫn đến thắng tri giác ngộ tịch tịnh.
[550] Ở ÐÂY, ÐỊNH GIÁC CHI[6] LÀ THẾ NÀO?
Có định hữu tầm hữu tứ, có định vô tầm vô tứ.
Ðịnh hữu tầm hữu tứ dù là chi, ấy cũng là định giác chi dẫn đến thắng tri giác ngộ tịch tịnh.
Ðịnh vô tầm vô tứ dù là chi, ấy cũng là định giác chi dẫn đến thắng tri giác ngộ tịch tịnh.
[551] Ở ÐÂY, XẢ GIÁC CHI[7] LÀ THẾ NÀO?
Có xả đối với các pháp nội phần, có xả đối với các pháp ngoại phần.
Xả đối với các pháp nội phần dù là chi, ấy cũng là xả giác chi dẫn đến thắng tri giác ngộ tịch tịnh.
Xả đối với các pháp ngoại phần dù là chi, ấy cũng là xả giác chi dẫn đến thắng tri giác ngộ tịch tịnh.
[552] BẢY GIÁC CHI là niệm giác chi… (trùng)… xả giác chi.
Ở ÐÂY, NIỆM GIÁC CHI LÀ THẾ NÀO?
Nơi đây, vị tỳ khưu tu tập niệm giác chi, y cứ viễn ly, y cứ ly tham, y cứ đoạn diệt, hướng đến xả ly, tu tập trạch pháp giác chi… tu tập cần giác chi… tu tập hỷ giác chi… tu tập tịnh giác chi… tu tập định giác chi… tu tập xả giác chi, y cứ viễn ly, y cứ ly tham, y cứ đoạn diệt, hướng đến xả ly.
DỨT PHẦN PHÂN THEO KINH
PHÂN THEO VI DIỆU PHÁP (ABHIDHAMMA BHĀJANĪYAṂ)
[553] BẢY GIÁC CHI là niệm giác chi… (trùng)… xả giác chi.
Ở ÐÂY, BẢY GIÁC CHI LÀ THẾ NÀO?
Nơi đây, khi nào vị tỳ khưu tu tập thiền Siêu Thế, pháp dẫn xuất, nhân tịch diệt, để đoạn trừ thiên kiến, đạt đến đệ nhất địa vức, ly các dục… (trùng)… chứng và trú Sơ thiền, hành nan đắc trì; trong khi ấy có bảy giác chi là niệm giác chi… (trùng)… xả giác chi.
[554] Ở ÐÂY, NIỆM GIÁC CHI LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự ức niệm, tùy niệm… (trùng)… chánh niệm giác chi, chi đạo, liên quan đạo. Ðây gọi là niệm giác chi.
[555] Ở ÐÂY, TRẠCH PHÁP GIÁC CHI LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự hiểu biết, hiểu rõ… (trùng)… vô si, trạch pháp, chánh kiến, trạch pháp giác chi, chi đạo, liên quan đạo. Ðây gọi là trạch pháp giác chi.
[556] Ở ÐÂY, CẦN GIÁC CHI LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự cần cố thuộc về tâm… (trùng)… chánh tinh tấn, cần giác chi, chi đạo, liên quan đạo. Ðây gọi là cần giác chi.
[557] Ở ÐÂY, HỶ GIÁC CHI LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự no vui, mừng vui, hân hoan, hỷ duyệt, hài lòng, vui vẻ, phấn khởi, thích thú, hoan hỷ của tâm, hỷ giác chi. Ðây gọi là hỷ giác chi.
[558] Ở ÐÂY, TỊNH GIÁC CHI LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự yên lặng, tỉnh lặng, lắng dịu, an tịnh, trạng thái an tịnh của thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn, tịnh giác chi. Ðây gọi là tịnh giác chi.
[559] Ở ÐÂY, ÐỊNH GIÁC CHI LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự đình trụ của tâm… (trùng)… chánh định, định giác chi, chi đạo, liên quan đạo. Ðây gọi là định giác chi.
[560] Ở ÐÂY, XẢ GIÁC CHI LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự lơ là, sự dững dưng, sự thờ ơ, sự quân bình của tâm, xả giác chi. Ðây gọi là xả giác chi.
Những pháp nầy được gọi là bảy giác chi, các pháp còn lại là tương ưng với bảy giác chi.
[561] BẢY GIÁC CHI là niệm giác chi… (trùng)… xả giác chi.
Ở ÐÂY NIỆM GIÁC CHI LÀ THẾ NÀO?
Nơi đây, khi nào vị tỳ khưu tu tập thiền Siêu Thế, pháp dẫn xuất, nhân tịch diệt, để đoạn trừ thiên kiến, đạt đến đệ nhất địa vức, ly các dục… (trùng)… chứng và trú Sơ thiền, hành nan đắc trì; trong khi ấy có chi là sự ức niệm, tùy niệm… (trùng)… chánh niệm niệm giác chi, chi đạo, liên quan đạo. Ðây gọi là niệm giác chi; các pháp còn lại là tương ưng niệm giác chi.
… (trùng)… các pháp còn lại là tương ưng trạch pháp giác chi.
… (trùng)… các pháp còn lại là tương ưng cần giác chi.
… (trùng)… các pháp còn lại là tương ưng hỷ giác chi.
… (trùng)… các pháp còn lại là tương ưng tịnh giác chi.
… (trùng)… các pháp còn lại là tương ưng định giác chi.
Ở ÐÂY XẢ GIÁC CHI LÀ THẾ NÀO?
Nơi đây, khi nào vị tỳ khưu tu tập thiền Siêu Thế, pháp dẫn xuất, nhân tịch diệt, để đoạn trừ thiên kiến, đạt đến đệ nhất địa vức, ly các dục… (trùng)… chứng và trú Sơ thiền, hành nan đắc trì; trong khi ấy có chi là sự lơ là, sự dững dưng, sự thờ ơ, sự quân bình của tâm, xả giác chi. Ðây gọi là xả giác chi; các pháp ngoài ra là tương ưng xả giác chi.
[562] BẢY GIÁC CHI là niệm giác chi… (trùng)… xả giác chi.
Ở ÐÂY, BẢY GIÁC CHI LÀ THẾ NÀO?
Nơi đây, khi nào vị tỳ khưu tu tập thiền Siêu Thế, pháp dẫn xuất, nhân tịch diệt, để đoạn trừ thiên kiến, đạt đến đệ nhất địa vức, ly các dục… (trùng)… chứng và trú Sơ thiền, hành nan đắc trì; trong khi ấy có xúc… (trùng)… có bất phóng dật. Ðây là các pháp thiện. Do sự tạo tác tu tập thiền thiện Siêu thế đó, nên ly dục… (trùng)… chứng và trú Sơ thiền không tánh hành nan đắc trì thành tựu quả trong khi ấy có bảy giác chi, tức là niệm giác chi… (trùng)… xả giác chi.
Ở ÐÂY, NIỆM GIÁC CHI LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự ức niệm, tùy niệm… (trùng)… chánh niệm niệm giác chi, chi đạo, liên quan đạo. Ðây gọi là niệm giác chi… (trùng)…
Ở ÐÂY, XẢ GIÁC CHI LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự lơ là, sự dững dưng, sự thờ ơ, sự quân bình của tâm, xả giác chi. Ðây gọi là xả giác chi.
Những pháp nầy gọi là bảy giác chi, các pháp còn lại là tương ưng bảy giác chi.
[563] BẢY GIÁC CHI là niệm giác chi… (trùng)… xả giác chi.
Ở ÐÂY NIỆM GIÁC CHI LÀ THẾ NÀO?
Nơi đây, khi nào vị tỳ khưu tu tập thiền Siêu Thế, pháp dẫn xuất, nhân tịch diệt, để đoạn trừ thiên kiến, đạt đến đệ nhất địa vức, ly các dục… (trùng)… chứng và trú Sơ thiền, hành nan đắc trì; trong khi ấy có xúc… (trùng)… có bất phóng dật. Ðây là các pháp thiện. Do sự tạo tác tu tập thiền thiện Siêu thế đó, nên bậc ly các dục… (trùng)… chứng và trú Sơ thiền Không tánh hành nan đắc trì; thành tựu quả; trong khi ấy có chi là sự ức niệm, tùy niệm… (trùng)… chánh niệm niệm giác chi, chi đạo, liên quan đạo. Ðây gọi là niệm giác chi; các pháp còn lại là tương ưng niệm giác chi.
… (trùng)… các pháp còn lại là tương ưng trạch pháp giác chi.
… (trùng)… các pháp còn lại là tương ưng cần giác chi.
… (trùng)… các pháp còn lại là tương ưng hỷ giác chi.
… (trùng)… các pháp còn lại là tương ưng tịnh giác chi.
… (trùng)… các pháp còn lại là tương ưng định giác chi.
Ở ÐÂY, XẢ GIÁC CHI LÀ THẾ NÀO?
Nơi đây, khi nào vị tỳ khưu tu tập thiền Siêu Thế, pháp dẫn xuất, nhân tịch diệt, để đoạn trừ thiên kiến, đạt đến đệ nhất địa vức, ly các dục… (trùng)… chứng và trú Sơ thiền, hành nan đắc trì; trong khi ấy có xúc… (trùng)… có bất phóng dật. Ðây là các pháp thiện. Do sự tạo tác tu tập thiền thiện Siêu thế đó, nên bậc ly các dục… (trùng)… chứng và trú Sơ thiền Không tánh hành nan đắc trì; thành tựu quả; trong khi ấy có chi là sự lơ là, sự dững dưng, sự thờ ơ, sự quân bình của tâm, xả giác chi. Ðây gọi là xả giác chi; các pháp còn lại là tương ưng xả giác chi.
DỨT PHẦN PHÂN THEO VI DIỆU PHÁP
PHẦN VẤN ÐÁP (Pañhāpucchakaṃ)
[564] BẢY GIÁC CHI là niệm giác chi, trạch pháp giác chi, cần giác chi, hỷ giác chi, tịnh giác chi, định giác chi, xả giác chi. Trong bảy giác chi bao nhiêu là THIỆN? CÓ BAO NHIÊU LÀ BẤT THIỆN? CÓ BAO NHIÊU LÀ VÔ KÝ?… (trùng)… CÓ BAO NHIÊU LÀ HỮU TRANH? CÓ BAO NHIÊU LÀ VÔ TRANH?
[565] (BẢY GIÁC CHI) có thể là thiện, có thể là vô ký.
Hỷ giác chi là tương ưng thọ lạc, sáu giác chi có thể là tương ưng thọ lạc, có thể là tương ưng thọ phi khổ phi lạc.
(Bảy giác chi) có thể là dị thục, có thể là pháp dị thục nhân.
(Bảy giác chi) là phi do thủ phi cảnh thủ.
(Bảy giác chi) là phi phiền toái phi cảnh phiền não.
(Bảy giác chi) có thể là hữu tầm hữu tứ, có thể là vô tầm hữu tứ, có thể là vô tầm vô tứ.
Hỷ giác chi là phi câu hành hỷ, mà câu hành lạc, cũng phi câu hành xả; sáu giác chi có thể là câu hành lạc, có thể là câu hành hỷ, có thể là câu hành xả.
(Bảy giác chi) là không đáng do kiến đạo tiến đạo đoạn trừ.
(Bảy giác chi) là phi hữu nhân đáng do kiến đạo tiến đạo đoạn trừ.
(Bảy giác chi) có thề là nhân đến tịch diệt; có thể là phi nhân tích tập phi nhân tịch diệt.
(Bảy giác chi) có thể là hữu học, có thể là vô học.
(Bảy giác chi) là pháp vô lượng
(Bảy giác chi) là biết cảnh vô lượng.
(Bảy giác chi) là pháp tinh lương.
(Bảy giác chi) có thể là pháp cố định phần chánh, có thể là phi cố định.
(Bảy giác chi) không phải có đạo thành cảnh, mà có thể là có đạo thành nhân, có thể là có đạo thành trưởng; có thể không nên nói là có đạo thành nhân hay có đạo thành trưởng.
(Bảy giác chi) có thể sinh tồn, có thể vị sanh tồn, có thể là chuẩn sanh.
(Bảy giác chi) có thể là quá khứ, có thể là vị lai, có thể là hiện tại.
(Bảy giác chi) không nên nói là biết cảnh quá khứ hay biết cảnh vị lai hay biết cảnh hiện tại.
(Bảy giác chi) có thể là nội phần, có thể là ngoại phần, có thể là nội ngoại phần.
(Bảy giác chi) là biết cảnh ngoại phần.
(Bảy giác chi) là vô kiến vô đối chiếu.
[566] TRẠCH PHÁP GIÁC CHI là nhân, sáu giác chi là phi nhân.
(Bảy giác chi) là hữu nhân. Là tương ưng nhân.
Trạch pháp giác chi là nhân hữu nhân; sáu giác chi không nên nói là nhân hữu nhân, mà là hữu nhân phi nhân.
Trạch pháp giác chi là nhân tương ưng nhân; sáu giác chi không nên nói là nhân tương ưng nhân, mà là tương ưng nhân phi nhân.
Sáu giác chi là phi nhân hữu nhân, trach pháp giác chi không nên nói là phi nhân hữu nhân hay phi nhân vô nhân.
[567] (BẢY GIÁC CHI) là hữu duyên. Là hữu vi. Là vô kiến. Là vô đối chiếu. Là phi sắc. Là Siêu thế. Là đáng vài tâm biết, cũng không đáng vài tâm biết.
(Bảy giác chi) là phi lậu. Là phi cảnh lậu. Là bất tương ưng lậu. Không nên nói là lậu cảnh lậu hay cảnh lậu phi lậu. Không nên nói là lậu tương ưng lậu hay tương ưng lậu phi lậu. Là bất tương ưng lậu phi cảnh lậu.
(Bảy giác chi) là phi triền… (trùng)…
(Bảy giác chi) là phi phược… (trùng)…
(Bảy giác chi) là phi bộc… (trùng)…
(Bảy giác chi) là phi phối… (trùng)…
(Bảy giác chi) là phi cái… (trùng)…
(Bảy giác chi) là phi khinh thị… (trùng)…
(Bảy giác chi) là hữu tri cảnh. Là phi tâm. Là sở hữu tâm. Là tương ưng tâm. Là hòa với tâm. Là có tâm làm sở sanh. Là đồng hiện hữu với tâm. Là tùy chuyển với tâm. Là hòa tâm tâm sở sanh. Là hòa tâm tâm sở sanh đồng hiện hữu với tâm. Là hòa tâm tâm sở sanh tùy chuyển với tâm. Là ngoại phần. Là phi y sinh. Là phi do thủ.
(Bảy giác chi) là phi thủ… (trùng)…
(Bảy giác chi) là phi phiền não… (trùng)…
[568] (BẢY GIÁC CHI) là không đáng do kiến đạo đoạn trừ, không đáng do tiến đạo đoạn trừ. Là phi hữu nhân đáng do kiến đạo đoạn trừ. Là phi hữu nhân đáng do tiến đạo đoạn trừ. Có thể là hữu tầm, có thể là vô tầm. Có thể là hữu tứ, có thể là vô tứ. Hỷ giác chi là vô hỷ, sáu giác chi có thể là hữu hỷ, có thể là vô hỷ. Hỷ giác chi là phi câu hành hỷ, sáu giác chi có thể là câu hành hỷ, có thể là phi câu hành hỷ. Hỷ giác chi là câu hành lạc, sáu giác chi có thể là câu hành lạc, có thể là phi câu hành lạc. Hỷ giác chi là phi câu hành xả, sáu giác chi có thể là câu hành xả, có thể là phi câu hành xả.
(Bảy giác chi) là phi dục giới. Là phi sắc giới. Là phi vô sắc giới. Là vô hệ thuộc. Có thề là pháp dẫn xuất, có thể là phi dẫn xuất. Có thể là pháp cố định; có thể là phi cố định. Là vô thượng. Là vô tranh.
DỨT PHẦN VẤN ÐÁP
TRỌN VẸN GIÁC CHI PHÂN TÍCH
-ooOoo-
ÐẠO PHÂN TÍCH (MAGGAVIBHAṄGO)
PHÂN THEO KINH (Suttantabhājanīyaṃ)
[569] THÁNH ÐẠO[8] có tám chi như là: Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định.
[570] Ở ÐÂY, CHÁNH KIẾN[9] LÀ THẾ NÀO?
Tức là trí hiểu về khổ, trí hiểu về khổ tập, trí hiểu về khổ diệt, trí hiểu về khổ diệt hành lộ. Ðây gọi là chánh kiến.
[571] Ở ÐÂY, CHÁNH TƯ DUY LÀ THẾ NÀO[10]?
Tức là tư duy xuất ly, tư duy vô sân, tư duy bất hại. Ðây gọi là chánh tư duy.
[572] Ở ÐÂY, CHÁNH NGỮ[11] LÀ THẾ NÀO?
Tức là sự kiên tránh lời nói dối, sự kiên tránh lời nói đâm thọc, sự kiên tránh lời nói độc ác, sự kiên tránh chuyện vãn vô ích. Ðây gọi là chánh ngữ.
[573] Ở ÐÂY, CHÁNH NGHIỆP[12] LÀ THẾ NÀO?
Tức là sự kiên tránh sát sanh, sự kiên tránh lấy vật chưa cho, sự kiên tránh tà hạnh dục lạc. Ðây gọi là chánh nghiệp.
[574] Ở ÐÂY, CHÁNH MẠNG[13] LÀ THẾ NÀO?
Nơi đây, vị Thánh đệ tử từ bỏ tà mạng, nuôi sống bằng sự chánh mạng. Ðây gọi là chánh mạng.
[575] Ở ÐÂY, CHÁNH TINH TẤN[14] LÀ THẾ NÀO?
Nơi đây, vị tỳ khưu ước vọng tinh tấn chuyên cần kiên tâm phấn đấu để không cho sanh các ác bất thiện pháp chưa sanh; ước vọng tính tấn chuyên cần kiên tâm phấn đấu để đoạn trừ các ác bất thiện pháp đã sanh; ước vọng tính tấn chuyên cần kiên tâm phấn đấu để phát sanh các thiện pháp chưa sanh; ước vọng tính tấn chuyên cần kiên tâm phấn đấu để duy trì không cho sút giảm, khiến gia tăng, tiến triển, phát triển, bổ túc các thiện pháp đã sanh. Ðây gọi là chánh tinh tấn.
[576] Ở ÐÂY, CHÁNH NIỆM[15] LÀ THẾ NÀO?
Nơi đây, vị tỳ khưu sống năng quán thân đối với thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, ức niệm, diệt trừ tham ưu trong đời; sống năng quán thọ đối với các thọ, nhiệt tâm, tỉnh giác, ức niệm, diệt trừ tham ưu trong đời; sống năng quán tâm đối với tâm, nhiệt tâm, tỉnh giác, ức niệm, diệt trừ tham ưu trong đời; sống năng quán pháp đối với các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, ức niệm, diệt trừ tham ưu trong đời. Ðây gọi là chánh niệm.
[577] Ở ÐÂY, CHÁNH ÐỊNH[16] LÀ THẾ NÀO?
Nơi đây, vị tỳ khưu ly các dục, ly các bất thiện pháp, chứng và trú Sơ thiền có tầm có tứ, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh; do vắng lặng tầm tứ, vị ấy chứng và trú Nhị thiền, nội tỉnh nhất tâm không tầm không tứ, một trạng thái hỷ lạc do định sanh; ly hỷ trú xả, ức niệm tỉnh giác, thân cảm thọ lạc, vị ấy chứng và trú Tam thiền, một trạng thái mà các Bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú; đoạn trừ lạc, đoạn trừ khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ từ trước, vị ấy chứng và trú tứ thiền phi khổ phi lạc, xả niệm thanh tịnh. Ðây là chánh định.
[578] THÁNH ÐẠO có tám chi như là chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định.
[579] Ở ÐÂY, CHÁNH KIẾN LÀ THẾ NÀO?
Nơi đây, vị tỳ khưu tu tập chánh kiến, y cứ viễn ly, y cứ ly tham, y cứ đoạn diệt, hướng đến xả ly.
..Ṭu tập chánh tư duy… (trùng)…
..Ṭu tập chánh ngữ… (trùng)…
..Ṭu tập chánh nghiệp… (trùng)…
..Ṭu tập chánh mạng… (trùng)…
..Ṭu tập chánh tinh tấn… (trùng)…
..Ṭu tập chánh niệm… (trùng)…
..Ṭu tập chánh định, y cứ viễn ly, y cứ ly tham, y cứ đoạn diệt, hướng đến xả ly.
DỨT PHẦN PHÂN THEO KINH
PHÂN THEO VI DIỆU PHÁP (ABHIDHAMMABHĀJANĪYAṂ)
[580] ÐẠO TÁM CHI là chánh kiến… (trùng)… chánh định.
Ở ÐÂY, THẾ NÀO LÀ ÐẠO TÁM CHI?
Nơi đây, khi nào vị tỳ khưu tu tập thiền Siêu Thế, pháp dẫn xuất, nhân tịch diệt, để đoạn trừ thiên kiến, đạt đến đệ nhất địa vức, ly các dục… (trùng)… chứng và trú Sơ thiền, hành nan đắc trì; trong khi ấy có đạo tám chi, tức là chánh kiến… (trùng)… chánh định.
[581] Ở ÐÂY, CHÁNH KIẾN LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự hiểu biết, hiểu rõ… (trùng)… vô si, trạch pháp, chánh kiến, trạch pháp giác chi, chi đạo, liên quan đạo. Ðây gọi là chánh kiến.
[582] Ở ÐÂY, CHÁNH TƯ DUY LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự tình cảm, sự nghĩ ngợi, sự suy xét, sự chuyên chú, sự hướng tâm, sự đem tâm khắn khít cảnh, chánh tư duy, chi đạo, liên quan đạo. đây gọi là chánh tư duy.
[583] Ở ÐÂY, CHÁNH NGỮ LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự chừa bỏ bốn điều khẩu ác hạnh, kiêng tránh ngăn ngừa, chừa cãi, không làm, không hợp tác, không vi phạm, không vượt quá giới hạn, trừ khữ, là chánh ngữ, chi đạo, liên quan đạo. Ðây gọi là chánh ngữ.
[584] Ở ÐÂY, CHÁNH NGHIỆP LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự chừa bỏ ba điều thân ác hạnh, kiêng tránh, ngăn ngừa, chừa cãi, không làm, không hợp tác, không vi phạm, không vượt quá giới hạn, trừ khữ, là chánh nghiệp, chi đạo, liên quan đạo. Ðây gọi là chánh nghiệp.
[585] Ở ÐÂY, CHÁNH MẠNG LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự chừa bỏ tà mạng, kiêng tránh, ngăn ngừa, chừa cãi, không làm, không hợp tác, không vi phạm, không vượt quá giới hạn, trừ khữ, là chánh mạng, chi đạo, liên quan đạo. Ðây gọi là chánh mạng.
[586] Ở ÐÂY, CHÁNH TINH TẤN LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự cần cố thuộc về tâm… (trùng)… chánh tinh tấn, cần giác chi, chi đạo, liên quan đạo. Ðây gọi là chánh tinh tấn.
[587] Ở ÐÂY, CHÁNH NIỆM LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự ức niệm, tùy niệm… (trùng)… chánh niệm, niệm giác chi, chi đạo, liên quan đạo. Ðây gọi là chánh niệm.
[588] Ở ÐÂY, CHÁNH ÐỊNH LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự đình trụ của tâm… (trùng)… chánh định, định giác chi, chi đạo, liên quan đạo. Ðây gọi là chánh định.
Pháp nầy được gọi là đạo tám chi, các pháp còn lại là tương ưng với đạo tám chi.
[589] ÐẠO NĂM CHI là chánh kiến, chánh tư duy, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định.
Ở ÐÂY, ÐẠO NĂM CHI LÀ THẾ NÀO?
Nơi đây, khi nào vị tỳ khưu tu tập thiền Siêu Thế, pháp dẫn xuất, nhân tịch diệt, để đoạn trừ thiên kiến, đạt đến đệ nhất địa vức, ly các dục… (trùng)… chứng và trú Sơ thiền, hành nan đắc trì; trong khi ấy có đạo năm chi là chánh kiến, chánh tư duy, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định.
Ở ÐÂY, CHÁNH KIẾN LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự hiểu biết, sự hiểu rộng… (trùng)… vô si, trạch pháp, chánh kiến, trạch pháp chi, giác chi đạo, liên quan đạo. Ðây gọi là chánh kiến.
Ở ÐÂY, CHÁNH TƯ DUY LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự tìm cảnh, sự nghĩ ngợi, sự suy xét… (trùng)… chi đạo, liên quan đạo. đây gọi là chánh tư duy.
Ở ÐÂY, CHÁNH TINH TẤN LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự cần cố thuộc về tâm… (trùng)… chánh tinh tấn, cần giác chi, chi đạo, liên quan đạo. Ðây gọi là chánh tinh tấn.
Ở ÐÂY, CHÁNH NIỆM LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự ức niệm, tùy niệm… (trùng)… chánh niệm, niệm giác chi, chi đạo, liên quan đạo. Ðây gọi là chánh niệm.
Ở ÐÂY, CHÁNH ÐỊNH LÀ THẾ NÀO?
Cái chi là sự đình trụ của tâm… (trùng)… chánh định, định giác chi, chi đạo, liên quan đạo. Ðây gọi là chánh định.
Pháp nầy được gọi là đạo năm chi, các pháp còn lại là tương ưng với đạo năm chi.
[590] ÐẠO NĂM CHI là chánh kiến, chánh tư duy, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Ở đây chánh kiến là thế nào?
Nơi đây, khi nào vị tỳ khưu tu tập thiền Siêu thế, pháp dẫn xuất, nhân tịch diệt, để đoạn trừ thiên kiến đạt đến đệ nhất địa vức, ly các dục… (trùng)… chứng và trú Sơ thiền, hành nan đắc trì; trong khi ấy có chi là sự hiểu biết, hiểu rõ… (trùng)… vô si, trạch pháp, chánh kiến, trạch pháp giác chi, chi đạo, liên quan đạo. Ðây gọi là chánh kiến, các pháp còn lại là tương ưng với chánh kiến.
… (trùng)… các pháp còn lại là tương ưng với chánh tư duy.
… (trùng)… các pháp còn lại là tương ưng với chánh tinh tấn.
… (trùng)… các pháp còn lại là tương ưng với chánh niệm.
Ở ÐÂY, CHÁNH ÐỊNH LÀ THẾ NÀO?
Nơi đây, khi nào vị tỳ khưu tu tập thiền Siêu Thế, pháp dẫn xuất, nhân tịch diệt, để đoạn trừ thiên kiến, đạt đến đệ nhất địa vức, ly các dục… (trùng)… chứng và trú Sơ thiền, hành nan đắc trì; trong khi ấy có chi là sự đình trụ của tâm… (trùng)… chánh định, định giác chi, chi đạo, liên quan đạo. Ðây gọi là chánh định, các pháp còn lại là tương ưng với chánh định.
[591] ÐẠO TÁM CHI là chánh kiến… (trùng)… chánh định.
Ở ÐÂY, ÐẠO TÁM CHI LÀ THẾ NÀO?
Khi nào, vị tỳ khưu tu tập thiền Siêu Thế, pháp dẫn xuất, nhân tịch diệt, để đoạn trừ thiên kiến, đạt đến đệ nhất địa vức, ly các dục… (trùng)… chứng và trú sơ thiền, hành nan đắc trì; trong khi ấy có xúc… (trùng)… có bất phóng dật. Ðây là các pháp thiện. Do sự tạo tác tu tập thiền thiện Siêu thế đó nên vị ly các dục… (trùng)… chứng và trú Sơ thiền Không tánh, hành nan đắc trì, thành tựu quả; trong khi ấy có đạo tám chi là chánh kiến… (trùng)… chánh định. Ðây gọi là đạo tám chi, các pháp còn lại là tương ưng với đạo tám chi.
[592] ÐẠO NĂM CHI là chánh kiến, chánh tư duy, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định.
Ở ÐÂY, ÐẠO NĂM CHI LÀ THẾ NÀO?
Nơi đây, khi nào, khi nào vị tỳ khưu tu tập thiền Siêu Thế, pháp dẫn xuất, nhân tịch diệt, để đoạn trừ thiên kiến, đạt đến đệ nhất địa vức, ly các dục… (trùng)… chứng và trú sơ thiền, hành nan đắc trì; trong khi ấy có xúc… (trùng)… có bất phóng dật. Ðây là các pháp thiện. Do sự tạo tác tu tập thiền thiện Siêu thế đó nên vị ly các dục… (trùng)… chứng và trú Sơ thiền Không tánh, hành nan đắc trì, thành tựu quả; trong khi ấy có đạo năm chi là chánh kiến, chánh tư duy, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Ðây gọi là đạo năm chi, các pháp còn lại là tương ưng với đạo năm chi.
[593] ÐẠO NĂM CHI là chánh kiến, chánh tư duy, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định.
Ở ÐÂY, CHÁNH KIẾN LÀ THẾ NÀO?
Nơi đây, khi nào vị tỳ khưu tu tập thiền Siêu Thế, pháp dẫn xuất, nhân tịch diệt, để đoạn trừ thiên kiến, đạt đến đệ nhất địa vức, ly các dục… (trùng)… chứng và trú sơ thiền, hành nan đắc trì; trong khi ấy có xúc… (trùng)… có bất phóng dật. Ðây là các pháp thiện. Do sự tạo tác tu tập thiền thiện Siêu thế đó nên vị ly các dục… (trùng)… chứng và trú Sơ thiền Không tánh, hành nan đắc trì, thành tựu quả; trong khi ấy có chi là sự hiểu biết, hiểu rõ… (trùng)… vô si, trạch pháp, chánh kiến, trạch pháp giác chi, chi đạo, liên quan đạo. Ðây gọi là chánh kiến, các pháp còn lại là tương ưng với chánh kiến.
… (trùng)… các pháp còn lại là tương ưng với chánh tư duy.
… (trùng)… các pháp còn lại là tương ưng với chánh tinh tấn.
… (trùng)… các pháp còn lại là tương ưng với chánh niệm.
Ở ÐÂY, CHÁNH ÐỊNH LÀ THẾ NÀO?
Nơi đây, khi nào vị tỳ khưu tu tập thiền Siêu Thế, pháp dẫn xuất, nhân tịch diệt, để đoạn trừ thiên kiến, đạt đến đệ nhất địa vức, ly các dục… (trùng)… chứng và trú sơ thiền, hành nan đắc trì; trong khi ấy có xúc… (trùng)… có bất phóng dật. Ðây là các pháp thiện. Do sự tạo tác tu tập thiền thiện Siêu thế đó nên vị ly các dục… (trùng)… chứng và trú Sơ thiền Không tánh, hành nan đắc trì, thành tựu quả; trong khi ấy có chi là sự đình trụ của tâm, sự vững trú, vững vàng, không tán loạn, không lao chao, tính cách tâm không xao xuyến, chỉ tịnh định quyền, định lực, chánh định, định giác chi, chi đạo, liên quan đạo. Ðây gọi là chánh định, các pháp còn lại là tương ưng với chánh định.
DỨT PHẦN PHÂN THEO VI DIỆU PHÁP
PHẦN VẤN ÐÁP (Pañhāpucchakaṃ)
[594] THÁNH ÐẠO TÁM CHI, như là chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Trong tám chi đạo có bao nhiêu LÀ THIỆN? CÓ BAO NHIÊU LÀ BẤT THIỆN? CÓ BAO NHIÊU LÀ VÔ KÝ?… (trùng)… CÓ BAO NHIÊU LÀ HỮU TRANH? CÓ BAO NHIÊU LÀ VÔ TRANH?
[595] (TÁM CHI ÐẠO) có thể là thiện, có thể là vô ký.
Chánh tư duy là tương ưng thọ lạc; bảy chi đạo có thể là tương ưng thọ lạc, có thể là tương ưng thọ phi khổ phi lạc.
(Tám chi đạo) có thể là dị thục, có thể là pháp dị thục nhân.
(Tám chi đạo) là phi do thủ phi cảnh thủ.
(Tám chi đạo) là phi phiền toái phi cảnh phiền não.
Chánh tư duy là vô tầm hữu tứ; bảy chi đạo có thể là hữu tầm hữu tứ, có thể là vô tầm hữu tứ, có thể là vô tầm vô tứ.
Chánh tư duy là câu hành hỷ, là câu hành lạc, không phải là câu hành xả; bảy chi đạo có thể là câu hành hỷ, có thể là câu hành lạc, có thể là câu hành xả.
(Tám chi đạo) là không đáng do kiến đạo tiến đạo đoạn trừ.
(Tám chi đạo) là phi hữu nhân đáng do kiến đạo tiến đạo đoạn trừ.
(Tám chi đạo) có thề là nhân đến tịch diệt, có thể là phi nhân tích tập phi nhân tịch diệt.
(Tám chi đạo) có thể là hữu học, có thể là vô học.
(Tám chi đạo) là pháp vô lượng
(Tám chi đạo) là biết cảnh vô lượng.
(Tám chi đạo) là pháp tinh lương.
(Tám chi đạo) có thể là cố định phần chánh, có thể là phi cố định.
(Tám chi đạo) là không có đạo thành cảnh, mà có thể có đạo thành nhân, có thể là có đạo thành trưởng, có thể không nên nói là có đạo thành nhân hay có đạo thành trưởng.
(Tám chi đạo) có thể là pháp sinh tồn, có thể là pháp vị sinh tồn, có thể là pháp chuẩn sanh.
(Tám chi đạo) có thể là quá khứ, có thể là vị lai, có thể là hiện tại.
(Tám chi đạo) không nên nói là biết cảnh quá khứ hay biết cảnh vị lai hay biết cảnh hiện tại.
(Tám chi đạo) có thể là nội phần, có thể là ngoại phần, có thể là nội ngoại phần.
(Tám chi đạo) là biết cảnh ngoại phần.
(Tám chi đạo) là vô kiến vô đối chiếu.
[596] CHÁNH KIẾN là nhân; bảy chi đạo là phi nhân.
(Tám chi đạo) là hữu nhân là tương ưng nhân
Chánh kiến là nhân hữu nhân; bảy chi đạo không nên nói là nhân hữu nhân, mà là hữu nhân phi nhân.
Chánh kiến là nhân tương ưng nhân; bảy chi đạo không nên nói là nhân tương ưng nhân, mà là tương ưng nhân phi nhân.
Bảy chi đạo là phi nhân hữu nhân, chánh kiến không nên nói là phi nhân hữu nhân hay phi nhân vô nhân.
[597] (TÁM CHI ÐẠO) là hữu duyên. Là hữu vi. Là vô kiến. Là vô đối chiếu. Là phi sắc. Là Siêu thế. Là đáng vài tâm biết, cũng không đáng vài tâm biết.
(Tám chi đạo) là phi lậu. Là phi cảnh lậu. Là bất tương ưng lậu. Không nên nói là lậu cảnh lậu hay cảnh lậu phi lậu. Không nên nói là lậu tương ưng lậu hay tương ưng lậu phi lậu. Là bất tương ưng lậu phi cảnh lậu.
(Tám chi đạo) là phi triền… (trùng)…
(Tám chi đạo) là phi phược… (trùng)…
(Tám chi đạo) là phi bộc… (trùng)…
(Tám chi đạo) là phi phối… (trùng)…
(Tám chi đạo) là phi cái… (trùng)…
(Tám chi đạo) là phi khinh thị… (trùng)…
(Tám chi đạo) là hữu tri cảnh. Là phi tâm. Là sở hữu tâm. Là tương ưng tâm. Là hòa tâm. Là có tâm làm sở sanh. Là đồng hiện hữu với tâm. Là tùy chuyển với tâm. Là hòa tâm tâm sở sanh. Là hòa tâm tâm sở sanh đồng hiện hữu với tâm. Là hòa tâm tâm sở sanh tùy chuyển với tâm. Là ngoại phần. Là phi y sinh. Là phi do thủ.
(Tám chi đạo) là phi thủ… (trùng)…
(Tám chi đạo) là phi phiền não… (trùng)…
[598] (Tám chi đạo) là không đáng do kiến đạo đoạn trừ. Là không đáng do tiến đạo đoạn trừ. Là phi hữu nhân đáng do kiến đạo đoạn trừ, là phi hữu nhân đáng do tiến đạo đoạn trừ.
Chánh tư duy là vô tầm, bảy chi đạo có thể là hữu tầm, có thể là vô tầm.
Chánh tư duy là hữu tứ, bảy chi đạo có thể là hữu tứ, có thể là vô tứ.
Chánh tư duy là hữu hỷ, bảy chi đạo có thể là hữu hỷ, có thể là vô hỷ.
Chánh tư duy là câu hành hỷ, bảy chi đạo có thể là câu hành hỷ, có thể là phi câu hành hỷ.
Chánh tư duy là câu hành lạc, bảy chi đạo có thể là câu hành lạc, có thể là phi câu hành lạc.
Chánh tư duy là phi câu hành xả, bảy chi đạo có thể là câu hành xả, có thể là phi câu hành xả.
(Tám chi đạo) là phi dục giới. Là phi sắc giới. Là phi vô sắc giới. Là phi hệ thuộc. Có thể là pháp dẫn xuất, có thể là phi dẫn xuất. Có thể là pháp cố định, có thể là pháp phi cố định. Là pháp vô thượng. Là pháp vô tranh.
DỨT PHẦN VẤN ÐÁP
TRỌN VẸN ÐẠO PHÂN TÍCH
[1] Satisambojjhanga.
[2] Dhammavicayasambojjhanga.
[3] Viriyasambojjhanga: Cần giác chi.
[4] Pītisambojjhaṅga (Hỷ giác chi).
[5] Passaddhisambojjhaṅga (Tịnh giác chi).
[6] Samādhisambojjhaṅga (Ðịnh giác chi).
[7] Upekkhāsambojjhaṅga (Xả giác chi).
[8] Ariyamagga.
[9] Sammāditthi.
[10] Sammāsaṅkappo.
[11] Sammāvāca.
[12] Sammākammanta.
[13] Sammā–ājīva.
[14] Sammāvāyāma.
[15] Sammāsati.
[16] Sammāsamādhi.