Bộ Song Đối đọc online – Tập I
Tạng Vi Diệu Pháp (ABHIDHAMMAPIṬAKA)
Dịch Việt: Hoà Thượng Tịnh Sự SANTAKICCO
Nguồn: https://www.budsas.org
MỤC LỤC
I- CĂN SONG
- Phần xiển thuật
- Phần xiển minh
- Xiển minh pháp thiện
- Xiển minh pháp bất thiện
- Xiển minh pháp vô ký
- Xiển minh danh pháp
II- UẨN SONG - Phần định danh
- Phần xiển thuật
- Phần xiển minh
- Phần câu lọc
- Phần câu lọc căn luân
- Phần thuần uẩn
- Phần thuần uẩn căn luân
- Phần chuyển biến
- Phần sanh
- Phần diệt
- Phần sanh diệt
- Phần biến tri
[link:3][/link:3]
http://wsx5customurl.comIII- XỨ SONG - Phần định danh
- Phần xiển thuật
- Phần xiển minh
- Phần câu lọc
- Phần câu lọc căn luân
- Phần thuần xứ
- Phần thuần xứ căn luân
- Phần chuyển biến
- Phần sanh
- Phần diệt
- Phần sanh diệt
- Phần biến tri
IV- GIỚI SONG
- Phần định danh
- Phần xiển thuật
- Phần xiển minh
- Phần câu lọc
- Phần câu lọc căn luân
- Phần thuần giới
- Phần thuần giới căn luân
- Phần chuyển biến
- Phần sanh
- Phần biến tri
V- ÐẾ SONG
- Phần định danh
- Phần xiển thuật
- Phần xiển minh
- Phần câu lọc
- Phần câu lọc căn luân
- Phần thuần đế căn luân
- Phần chuyển biến
- Phần sanh
- Phần diệt
- Phần sanh diệt
- Phần biến tri
Trích cú Từ Điển
I. CĂN SONG (MŪLAYAMAKAṂ)
1- PHẦN XIỂN THUẬT(UDDESAVĀRA)
[1] Những Pháp nào là Thiện, tất cả pháp ấy là căn Thiện phải chăng?
Hay những pháp nào là căn Thiện, tất cả pháp ấy là Thiện phải chăng?
– Những pháp nào là Thiện, tất cả pháp ấy là đồng căn (ekamūla)(1) với căn thiện phải chăng?
Hay những pháp chi là đồng căn với căn Thiện, tất cả pháp ấy là Thiện phải chăng?
– Những pháp nào là đồng căn với căn Thiện, tất cả pháp ấy là hổ tương căn (aññamaññamūla)(2) với căn thiện phải chăng?
Hay những pháp chi là hỗ tương căn với căn Thiện, tất cả pháp ấy là Thiện phải chăng?
– Những pháp nào là Thiện, tất cả pháp ấy là căn thiện căn (kusalamūla-mūlā) phải chăng?
Hay những pháp nào là căn thiện căn, tất cả pháp ấy là Thiện phải chăng?
– Những pháp nào là thiện, tất cả pháp ấy có căn đồng căn (ekamūlamūla) với căn thiện phải chăng?
Hay những pháp nào có căn đồng căn với căn Thiện, tất cả pháp ấy là Thiện phải chăng?
Hay những pháp nào có căn đồng căn với căn thiện, tất cả pháp ấy là căn hỗ tương căn (aññamaññamūlamūlā) với căn thiện phải chăng?
Hay những pháp nào là căn hỗ tương căn với căn Thiện, tất cả pháp ấy là Thiện phải chăng?
– Những pháp nào là Thiện, tất cả pháp ấy đều nương căn thiện (kusalamūlaka) phải chăng?).
Hay những pháp nào nương căn Thiện, tất cả pháp ấy là Thiện phải chăng?
– Những pháp nào là Thiện, tất cả pháp ấy đều nương đồng căn (ekamūlaka) với căn thiện phải chăng?
Hay những pháp nào nương đồng căn với căn thiện, tất cả pháp ấy là thiện phải chăng?
– Những pháp nào nương đồng căn với căn thiện, tất cả pháp ấy thuộc hỗ tương căn (aññamaññamūlaka) với căn thiện phải chăng?
Hay những pháp nào thuộc hỗ tương căn với căn thiện, tất cả pháp ấy là thiện phải chăng?
– Những pháp nào là thiện, tất cả pháp ấy điều nương căn thiện căn (Kusala-mūlaka) phải chăng?
Hay những pháp nào nương căn thiện căn, tất cả pháp ấy, là thiện phải chăng?
– Những pháp nào là thiện, tất cả pháp ấy điều nương căn đồng căn (Ekamūlamūlaka) với căn thiện phải chăng?
Hay những pháp nào nương căn đồng căn với căn thiện, tất cả pháp ấy là thiện phải chăng?
– Những pháp nào nương căn đồng căn với căn thiện, tất cả pháp ấy thuộc căn hỗ tương căn (Aññamaññamūlamūlaka) với căn thiện phải chăng?
Hay những pháp nào thuộc căn hỗ tương căn với căn thiện, tất cả pháp ấy là thiện phải chăng?
[2] Những pháp nào là bất thiện, tất cả pháp ấy là căn bất thiện phải chăng?
Hay những pháp nào là căn bất thiện, tất cả pháp ấy là bất thiện phải chăng?
– Những pháp nào là bất thiện, tất cả pháp ấy là đồng căn với căn bất thiện phải chăng?
Hay những pháp nào là đồng căn với căn bất thiện, tất cả pháp ấy là bất thiện phải chăng?
– Những pháp nào là đồng căn (ekamūlā) với căn bất thiện, tất cả pháp ấy là hỗ tương căn (Aññamaññamūlā) với căn bất thiện phải chăng?
Hay những pháp nào là hỗ tương căn với căn bất thiện, tất cả pháp ấy là bất thiện phải chăng?
– Những pháp nào là bất thiện, tất cả pháp ấy có là căn bất thiện căn (Akusalamūlamūla) phải chăng?
Hay những pháp nào là căn bất thiện, tất cả pháp ấy là bất thiện phải chăng?
– Những pháp nào là bất thiện, tất cả pháp ấy có căn đồng căn (ekamūlamūlā) với căn bất thiện phải chăng?
Hay những pháp nào có căn đồng căn với căn bất thiện, tất cả pháp ấy là bất thiện phải chăng?
– Những pháp nào có căn đồng căn với căn bất thiện, tất cả pháp ấy là căn hổ tương căn (aññamaññamūlamūlā) với căn bất thiện phải chăng?
Hay những pháp nào là căn hổ tương căn với căn bất thiện, tất cả pháp ấy là bất thiện phải chăng?
– Những pháp nào là bất thiện, tất cả pháp ấy đều nương đồng căn bất thiện (akusalamūlaka) phải chăng?
Hay những pháp nào nương căn bất thiện, tất cả pháp ấy là bất thiện phải chăng?
– Những pháp nào là bất thiện, tất cả pháp đều nương đồng căn (ekamūlāka) với căn bất thiện phải chăng?
Hay những pháp nào nương đồng căn với căn bất thiện, tất cả pháp ấy là bất thiện phải chăng?
– Những pháp nào nương đồng căn với căn bất thiện, tất cả pháp thuộc hỗ tương căn (aññamaññamūlaka) với căn bất thiện phải chăng?
Hay những pháp nào thuộc hổ tương căn với căn bất thiện, tất cả pháp ấy là bất thiện phải chăng?
– Những pháp nào là bất thiện, tất cả pháp ấy đều nương căn bất thiện căn phải chăng?
Hay những pháp nào nương căn bất thiện căn (akusalamūlamūlakā), tất cả pháp ấy là bất thiện phải chăng?
– Những pháp nào là bất thiện, tất cả pháp ấy đều nương căn căn đồng căn (ekamūlamūlaka) với căn bất thiện phải chăng?
Hay những pháp nào nương căn đồng căn với căn bất thiện, tất cả pháp ấy là bất thiện phải chăng?
– Những pháp nào nương căn đồng căn với căn bất thiện, tất cả pháp ấy thuộc căn hổ tương căn (aññamaññamūlamūlaka) với căn bất thiện phải chăng?
Hay những pháp nào thuộc căn hổ tương căn với căn bất thiện, tất cả pháp ấy là bất thiện phải chăng?
[3] Những pháp nào là vô ký (Abyākata), tất cả pháp ấy là căn vô ký (Abyākatamūla) phải chăng?
Hay những pháp nào là căn vô ký, tất cả pháp ấy là vô ký phải chăng?
– Những pháp nào là vô ký, tất cả pháp ấy là đồng căn (Ekamūla) với căn vô ký phải chăng?
Hay những pháp nào đồng căn với căn vô ký, tất cả pháp ấy là vô ký phải chăng?
– Những pháp nào đồng căn với căn vô ký, tất cả pháp ấy là hỗ tương căn (Aññamaññamūla) với căn vô ký phải chăng?
Hay những pháp nào là hỗ tương căn với căn vô ký, tất cả pháp ấy là vô ký phải chăng?
– Những pháp nào là vô ký, tất cả pháp ấy là căn vô ký căn phải chăng?
Hay những pháp nào là căn vô ký căn, tất cả pháp ấy là vô ký phải chăng?
– Những pháp nào là vô ký, tất cả pháp ấy là căn đồng căn (Ekamūlamūla) với căn vô ký phải chăng?
Hay những pháp nào là căn đồng căn với căn vô ký, tất cả pháp ấy là vô ký phải chăng?
– Những pháp nào là căn đồng căn với căn vô ký, tất cả pháp ấy là căn hỗ tương căn (Aññamaññamūlamūlā) với căn vô ký phải chăng?
Hay những pháp nào là căn hỗ tương căn với căn vô ký, tất cả pháp ấy là vô ký phải chăng?
– Những pháp nào là vô ký, tất cả pháp ấy đều nương căn vô ký phải chăng?
Hay những pháp nào nương căn vô ký, tất cả pháp ấy là vô ký phải chăng?
– Những pháp nào là vô ký, tất cả pháp ấy đều nương đồng căn với căn vô ký phải chăng?
Hay những pháp nào nương đồng căn (Ekamūlakā) với căn vô ký, tất cả pháp ấy là vô ký phải chăng?
– Những pháp nào nương đồng căn với căn vô ký, tất cả pháp ấy thuộc hỗ tương căn với căn vô ký phải chăng?
Hay những pháp nào thuộc hỗ tương căn với căn vô ký, tất cả pháp ấy là vô ký phải chăng?
– Những pháp nào là vô ký, tất cả pháp ấy đều nương căn vô ký căn (Abyākatamūlamūlaka) phải chăng?
Hay những pháp nào nương căn vô ký căn, tất cả pháp ấy là vô ký phải chăng?
– Những pháp nào là vô ký, tất cả pháp ấy đều nương căn đồng căn (Ekamūlamūla) với căn vô ký phải chăng?
Hay những pháp nào nương căn đồng căn với căn vô ký, tất cả pháp ấy là vô ký phải chăng?
– Những pháp nào nương căn đồng căn với căn vô ký, tất cả pháp ấy thuộc căn hỗ tương căn với căn vô ký phải chăng?
Hay những pháp nào thuộc căn hỗ tương căn với căn vô ký, tất cả pháp ấy là vô ký phải chăng?
[4] Những pháp nào là danh (Nāma) tất cả pháp ấy là căn danh (nāmamūla) phải chăng?
Hay những pháp nào là căn danh, tất cả pháp ấy là danh phải chăng?
– Những pháp nào là danh, tất cả pháp ấy là đồng căn với căn danh phải chăng?
Hay những pháp nào là đồng căn với căn danh, tất cả pháp ấy là danh phải chăng?
– Những pháp nào là đồng căn với căn danh, tất cả pháp ấy là hỗ tương căn với căn danh phải chăng?
Hay những pháp nào là hỗ tương căn với căn danh, tất cả pháp ấy là danh phải chăng?
– Những pháp nào là danh, tất cả pháp ấy là căn danh căn (Nāmamūlamūla) phải chăng?
Hay những pháp nào là căn danh căn, tất cả pháp ấy là danh phải chăng?
– Những pháp nào là danh, tất cả pháp ấy là căn đồng căn với căn danh phải chăng?
Hay những pháp nào là căn đồng căn với căn danh, tất cả pháp ấy là danh phải chăng?
– Những pháp nào là căn đồng căn với căn danh, tất cả pháp ấy là căn hỗ tương căn với căn danh phải chăng?
Hay những pháp nào là căn hỗ tương căn với căn danh, tất cả pháp ấy là danh phải chăng?
– Những pháp nào là danh, tất cả pháp ấy đều nương căn danh phải chăng?
Hay những pháp nào nương căn danh, tất cả pháp ấy là danh phải chăng?
– Những pháp nào là danh, tất cả pháp ấy đều nương đồng căn với căn danh phải chăng?
Hay những pháp nào nương đồng căn với căn danh, tất cả pháp ấy là danh phải chăng?
– Những pháp nào nương đồng căn với căn danh, tất cả pháp ấy đều thuộc hỗ tương căn với căn danh phải chăng?
Hay những pháp nào thuộc hỗ tương căn với căn danh, tất cả pháp ấy là danh phải chăng?
– Những pháp nào là danh, tất cả pháp ấy đều nương căn danh phải chăng?
Hay những pháp nào nương căn danh căn, tất cả pháp ấy là danh phải chăng?
– Những pháp nào là danh, tất cả pháp ấy đều nương căn đồng căn với căn danh phải chăng?
Hay những pháp nào nương căn đồng căn với căn danh, tất cả pháp ấy là danh phải chăng?
– Những pháp nào nương căn đồng căn với căn danh, tất cả pháp ấy thuộc căn hỗ nương căn với căn danh phải chăng?
Hay những pháp nào thuộc căn hỗ tương căn với căn danh, tất cả pháp ấy là danh phải chăng?
[5] Những pháp nào là thiện, tất cả pháp ấy là nhân thiện (kusalahetu) phải chăng?
… trùng … là nhơn duyên thiện (Kusalanidāna) phải chăng?
… trùng … là căn bổn thiện (Kusalasambhava) phải chăng?
… trùng … là khởi nguồn thiện (Kusalappabhava) phải chăng?
… trùng … là cơ sở thiện (Kusalasamuṭṭhāna) phải chăng?
… trùng … là vật thực hiện (Kusalāhāra) phải chăng?
… trùng … là cảnh thiện (Kusalārammaṇa) phải chăng?
… trùng … là duyên thiện (Kusalapaccaya) phải chăng?
… trùng … là tập khởi thiện (Kusalasamudaya) phải chăng?
Căn, nhân, và nhơn duyên.
Căn bổn, và khởi nguồn.
Cơ sở, vật thực, cảnh.
Duyên sanh, và tập khởi.
DỨT PHẦN XIỂN THUẬT (Uddesavāro)
2- PHẦN XIỂN MINH (NIDDESAVĀRO)
[6] Những pháp nào là thiện, tất cả pháp ấy là căn thiện phải chăng?
“Căn thiện chỉ có ba, những pháp thiện ngoài ra không phải là căn thiện”
Hay những pháp nào là căn thiện, tất cả pháp ấy là thiện phải chăng?
“Phải rồi!”.
– Những pháp nào là thiện, tất cả pháp ấy là đồng căn (Ekamūla) với căn thiện phải chăng?
“Phải rồi!”.
Hay là những pháp nào là đồng căn với căn thiện, tất cả pháp ấy là thiện phải chăng?
“Sắc thiện sở khanh (Kusalasamuṭṭhānaṃ)(1) là pháp đồng căn với căn thiện, mà phi thiện; còn pháp thiện là pháp đồng căn với căn thiện, và cũng là thiện”.
– Những pháp nào là đồng căn với căn thiện, tất cả pháp ấy là hỗ tương căn (Aññamaññamūla) với căn thiện phải chăng?
Bất cứ các căn nào sanh chung nhau, thì những căn thiện, vừa là đồng căn, vừa là hỗ tương căn; còn các pháp ngoài ra đồng sanh với căn thiện là pháp đồng căn với căn thiện, nhưng không phải là hỗ tương căn”.
Hay những pháp nào là hỗ tương căn với căn thiện tất cả pháp ấy là thiêïn phải chăng?
“Phải rồi!”.
[7] Những pháp nào là thiện, tất cả pháp ấy là căn thiện căn (Kusalamūlamulā) phải chăng?
“Căn thiện căn chỉ có ba, còn các pháp thiện ngoài ra không phải là căn thiện căn”
Hay những pháp nào là căn thiện căn, tất cả pháp ấy là thiện phải chăng?
“Phải rồi!”.
– Những pháp nào là thiện, tất cả pháp ấy có căn đồng căn (Ekamūla-mūlā) với căn thiện phải chăng?
“Phải rồi!”.
Hay những pháp nào có căn đồng căn với căn thiện, tất cả pháp ấy là thiện phải chăng?
“Sắc thiện sở sanh có căn đồng căn với căn thiện nhưng không phải là thiện, còn pháp thiện là căn đồng căn với căn thiện cũng vừa là thiện”.
– Những pháp nào có căn đồng căn với căn thiện, tất cả pháp ấy là căn hỗ tươngcăn với căn thiện phải chăng?
“Bất cứ các căn nào sanh chung nhau, thì những căn thiện vừa là có căn đồng căn vừa là căn hỗ tương căn (Aññamaññamūlamūlā) còn các pháp ngoài ra đồng sanh với căn thiện là có căn đồng căn với căn thiện, nhưng không phải là căn hỗ tương căn”.
Hay những pháp nào là căn hỗ tương căn với căn thiện, tất cả pháp ấy là thiện phải chăng?
“Phải rồi!”.
[8] Những pháp nào là thiện, tất cả pháp ấy đều nương căn thiện phải chăng?
“Phải rồi!”.
Hay những pháp nào nương căn thiện (Kusalamūlakā), tất cả pháp ấy là thiện phải chăng?
“Sắc thiện sở sanh nương căn thiện mà không phải là thiện; còn pháp thiện là pháp nương căn thiện và cũng là thiện”.
– Những pháp nào là thiện, tất cả pháp ấy đều nương đồng căn với căn thiện phải chăng?
“Phải rồi!”.
Hay những pháp nào nương đồng căn với căn thiện tất cả pháp ấy là thiện phải chăng?
“Sắc thiện sở sanh nương đồng căn với căn thiện mà không phải là thiện; còn pháp thiện là nương đồng căn với căn thiện và cũng là thiện”.
– Những pháp nào nương đồng căn với căn thiện, tất cả pháp ấy thuộc hỗ nương căn với căn thiện phải chăng?
“Bất cứ các căn nào sanh chung nhau, thì những căn thiện vừa là nương đồng căn, vừa thuộc hỗ tương căn còn những pháp câu sanh căn thiện ngoài ra đó thì là nương đồng căn với căn thiện mà không phải là hỗ tương căn”.
Hay những pháp nào thuộc hỗ tương căn với căn thiện, tất cả pháp ấy là thiện phải chăng?
“Phải rồi!”.
[9] Những pháp nào là thiện, tất cả pháp ấy đều nương căn thiện căn phải chăng?
“Phải rồi!”.
Hay những pháp nào nương căn thiện căn (Kusalamūlamūlaka), tất cả pháp ấy là thiện phải chăng?
“Sắc thiện sở sanh nương căn thiện căn mà không phải là thiện; còn pháp thiện là nương căn thiện căn và cũng là thiện”.
– Những pháp nào là thiện, tất cả pháp ấy đều nương căn đồng căn (Ekamū-lamūlākā) với căn thiện phải chăng?
“Phải rồi!”.
Hay những pháp nào nương căn đồng căn với căn thiện, tất cả pháp ấy là thiện phải chăng?
“Sắc thiện sở sanh nương căn đồng căn với căn thiện mà không phải là thiện; còn pháp thiện thì nương căn đồng căn với căn thiện và cũng là thiện.”
– Những pháp nào nương căn đồng căn với căn thiện, tất cả pháp ấy thuộc căn hỗ tương căn với căn thiện phải chăng?
“Bất cứ các căn sanh chung nhau, thì các căn thiện vừa là nương căn đồng căn vừa thuộc căn hỗ tương căn; còn các pháp câu sanh thiện ngoài ra đó nương căn đồng căn với căn thiện mà không phải thuộc căn hỗ tương căn”.
Hay những pháp nào thuộc căn hỗ tương căn với căn thiện, tất cả pháp ấy là thiện.
“Phải rồi!”.
[10] Những pháp nào là bất thiện, tất cả pháp ấy là căn bất thiện phải chăng?
“Căn bất thiện chỉ có ba, các pháp bất thiện ngoài ra không phải là căn bất thiện”.
Hay những pháp nào là căn bất thiện, tất cả pháp ấy là bất thiện phải chăng?
“Phải rồi!”.
– Những pháp nào là bất thiện, tất cả pháp ấy có đồng căn với căn bất thiện phải chăng?
“Bất thiện vô nhân (1) không đồng căn với căn bất thiện; bất thiện hữu nhân mới có đồng căn với căn bất thiện”.
Hay là pháp nào có đồng căn với căn bất thiện, tất cả pháp ấy là bất thiện phải chăng?
“Sắc bất thiện sở sanh(2) có đồng căn với căn bất thiện nhưng chẳng phải là bất thiện, còn pháp bất thiện vừa có đồng căn với căn bất thiện vừa là bất thiện!”
– Những pháp nào có đồng căn với căn bất thện, tất cả pháp ấy là hỗ tương căn với căn bất thiện phải chăng?
“Những căn (bất thiện) nào sanh chung nhau, những căn bất thiện ấy có đồng căn mà cũng là hỗ tương căn; còn những pháp câu sanh bất thiện căn ngoài ra thì có đồng căn với căn bất thiện mà không phải là hỗ tương căn”.
Hay những pháp nào là hỗ tương căn với căn bất thiện, tất cả pháp ấy là bất thiện phải chăng?
“Phải rồi!”.
[11] Những pháp nào bất thiện, tất cả pháp ấy là căn bất thiện căn phải chăng?
“Căn bất thiện (Akusamūlamūla) chỉ có ba; các pháp bất thiện ngoài ra không phải là căn bất thiện căn”.
Hay những pháp nào là căn bất thiện căn, tất cả pháp ấy là bất thiện phải chăng?
“Phải rồi!”.
– Những pháp nào là bất thiện, tất cả pháp ấy có căn đồng căn với căn bất thiện pải không?
“Bất thiện vô nhân không có căn đồng căn với căn bất thiện, bất thiện hữu nhân mới có căn đồng căn với căn bất thiện”.
Hay những pháp nào có căn đồng căn với căn bất thiện, tất cả pháp ấy là bất thiện phải chăng?
“Sắc bất thiện sở sanh có căn đồng căn với căn bất thiện nhưng không phải là bất thiện; còn pháp bất thiện là có căn đồng căm với căn bất thiện và cũng là bất thiện”.
– Những pháp nào có căn đồng căn với căn bất thiện, tất cả pháp ấy là căn hỗ tương căn với căn bất thiện phải chăng?
“Những căn (bất thiện) nào sanh chung nhau, những căn bất thiện (ấy) vừacó căn đồng căn cũng là căn hỗ tương căn; còn những pháp câu sanh căn bất thiện ngoài ra thì có căn đồng căn với căn bất thiện, nhưng không phải là căn hỗ tương căn”.
Hay những pháp nào là căn hỗ tương căn với căn bất thiện, tất cả pháp ấy là bất thiện phải chăng?
“Phải rồi!”.
[12] Những pháp nào là bất thiện, tất cả pháp ấy đều nương căn bất thiện; phải chăng ?
“Bất thiện vô nhân không nương căn bất thiện, chỉ có bất thiện hữn nhân mới nương căn bất thiện”
Hay những pháp nào nương căn bất thiện, tất cả pháp ấy là bất thiện phải chăng?
“Sắc bất thiện sở sanh có nương căn bất thiện mà không phải là bất thiện mà không phải là bất thiện; chỉ có pháp bất thiện là nương căn bất thiện cũng là bất thiện”.
– Những pháp nào là bất thiện, tất cả pháp ấy có nương đồng căn với căn bất thiện phải chăng?
– “Bất thiện vô nhân không nương đồng căn với căn bất thiện, chỉ có bất thiện hữu nhân mới nương đồng căn với căn bất thiện”.
Hay những pháp nào nương đồng căn với căn bất thiện tất cả pháp ấy là bất thiện phải chăng
“Sắc bất thiện sở sanh nương đồng căn với căn bất thiện, mà không phải là bất thiện; còn pháp bất thiện vừa là nương đồng căn với căn bất thiện vừa là bất thiện”.
– Những pháp nào nương đồng căn với căn bất thiện, tất cả pháp ấy thuộc hỗ tương căn với căn bất thiện phải chăng?
“Những căn (bất thiện) nào sanh chung nhau, những căn bất thiện ấy vừa là những đồng căn vừa là hỗ tương căn; còn các pháp câu sanh bất thiện căn ngoài ra là nương đồng căn với căn bất thiện nhưng không thuộc hỗ tương căn”.
Hay những pháp nào thuộc hỗ tương căn với căn bất thiện, tất cả pháp ấy là bất thiện phải chăng?
“Phải rồi!”.
[13] Những pháp nào là bất thiện, tất cả pháp ấy đều nương căn bất thiện căn phải chăng?
“Bất thiện vô nhân không có nương căn bất thiện căn; chỉ có bất thiện hữu
nhân là nương căn bất thiện căn”.
Hay những pháp nào nương căn bất thiện căn, tất cả pháp ấy là bất thiện phải chăng?
“Sắc bất thiện sở sanh có nương căn bất thiện căn, mà không phải là bất thiện; chỉ có pháp bất thiện vừa là nương căn bất thiện căn, vừa là bất thiện.”
– Những pháp nào là bất thiện, tất cả pháp ấy đều nương căn đồng căn với căn bất thiện phải chăng?
“Bất thiện vô nhân không có nương căn đồng căn với căn bất thiện; chỉ có bất thiện hữu nhân là nương căn đồng căn với căn bất thiện”.
Hay những pháp nào nương căn đồng căn với căn bất thiện, tất cả pháp ấy là bất thiện phải chăng?
“Sắc bất thiện sở sanh nương căn đồng căn với căn bất thiện, nhưng không phải là bất thiện; còn pháp bất thiện vừa là nương căn đồng căn với căn bất thiện, vừa là bất thiện”.
– Những pháp nào nương căn đồng căn với căn bất thiện, tất cả pháp ấy thuộc căn hỗ nương căn với căn bất thiện phải chăng?
“Những căn (bất thiện) nào sanh chung nhau, những căn bất thiện (ấy) vừa là nương căn đồng căn vừa thuộc căn hỗ nương căn; còn các pháp câu sanh bất thiện căn ngoài ra là nương căn đồng căn với căn bất thiện mà không thuộc căn hỗ nương căn.
Hay những pháp nào thuộc căn hỗ nương căn với căn bất thiện, tất cả pháp ấy là bất thiện phải chăng?
“Phải rồi!”.
[14] Những pháp nào là vô ký (Abyākata), tất cả pháp ấy là căn vô ký phải chăng?
“Căn vô ký chỉ có ba, các pháp vô ký ngoài ra không phải là căn vô ký”.
Hay những pháp nào là căn vô ký, tất cả pháp ấy là vô ký phải chăng?
“Phải rồi!”.
– Những pháp nào là vô ký, tất cả pháp ấy đồng căn với căn vô ký phải chăng?
“Vô ký vô nhân (1) không đồng căn với căn vô ký, chỉ có vô ký hữu nhân (2) mới đồng căn với căn vô ký”.
Hay những pháp nào đồng căn với căn vô ký, tất cả pháp ấy là vô ký phải chăng?
“Phải rồi!”.
– Những pháp nào đồng căn với căn vô ký, tất cả pháp ấy đều là hỗ tương căn với căn vô ký phải chăng?
“Những căn (Vô ký) nào sanh chung nhau, những căn vô ký ấy vừa là đồng căn vừa là hỗ tương căn; còn các pháp câu sanh căn vô ký ngoài ra thì đồng căn nhưng không là hỗ tương căn”.
Hay những pháp nào là hỗ tương căn với căn vô ký tất cả pháp ấy là vô ký phải chăng?
[15] Những pháp nào là vô ký, tất cả pháp ấy là căn vô ký căn (Abyākatamūlamūlā) phải chăng?
“Căn vô ký căn chỉ có ba, các pháp vô ký ngoài ra không phải là căn vô ký căn”.
Hay những pháp nào là căn vô ký căn, tất cả pháp ấy là vô ký phải chăng?
“Phải rồi!”.
– Những pháp nào là vô ký, tất cả các pháp ấy là căn đồng căn với căn vô ký phải chăng?
“Vô ký vô nhân không phải là căn đồng căn với căn vô ký; chỉ là vô ký hữu nhân mới là căn đồng với căn vô ký”.
Hay những pháp nào là căn đồng căn với căn vô ký tất cả pháp ấy là vô ký phải chăng?
“Phải rồi!”.
– Những pháp nào là căn đồng căn với căn vô ký, tất cả pháp ấy là căn hổ tương căn với căn vô ký phải chăng?
“Những căn (vô ký) nào sanh chung nhau, những căn vô ký ấy vừa là căn đồng căn cũng vừa là căn hỗ tương căn còn các pháp câu sanh căn vô ký ngoài ra thì là căn đồng căn nhưng không phải là căn hỗ tương căn”.
Hay những pháp nào là căn hỗ tương căn với căn vô ký, tất cả pháp ấy là vô ký phải chăng?
“Phải rồi!”.
[16] Những pháp nào là vô ký, tất cả các pháp ấy đều nương căn vô ký phải chăng?
“Vô ký vô nhân không nương căn vô ký (Abyakatamūlaka) : chỉ có vô ký hữu nhân mới nương căn vô ký”.
Hay những pháp nào nương căn vô ký, tất cả pháp ấy là vô ký phải chăng?
“Phải rồi”.
– Những pháp nào là vô ký, tất cả pháp ấy đều nương đồng căn với căn vô ký phải chăng?
“Vô ký vô nhân không nương đồng căn với căn vô ký chỉ có vô ký hữu nhân mới nương đồng căn với vô ký”.
Hay những pháp nào nương đồng căn, tất cả pháp ấy là vô ký phải chăng?
“Phải rồi!”
– Những pháp nào nương đồng căn với căn vô ký, tất cả pháp ấy thuộc hỗ nương căn với căn vô ký phải chăng?
“Những căn (vô ký) nào sanh chung nhau, những căn vô ký ấy vừa là nương đồng căn vừa thuộc hỗ tương căn; còn các pháp câu sanh vô ký căn ngoài ra thì là nương đồng căn nhưng không thuộc hỗ tương căn”.
Hay những pháp nào thuộc hỗ nương căn với căn vô ký, tất cả pháp ấy là vô ký phải chăng?
“Phải rồi”.
[17] Những pháp nào là vô ký, tất cả pháp ấy đều nương căn vô ký phải chăng?
“Vô ký vô nhân không nương căn vô ký căn, chỉ có vô ký hữu nhân là nương căn vô ký căn”.
Hay những pháp nào nương căn vô ký căn, tất cả pháp ấy là vô ký phải chăng?
“Phải rồi!”
– Những pháp nào là vô ký, tất cả pháp ấy nương căn đồng căn với căn vô ký phải chăng?
“Vô ký vô nhân không nương căn đồng căn với căn vô ký, chỉ có vô ký hữu nhân mới nương căn đồng căn với căn vô ký”.
Hay những pháp nào nương căn đồng căn với vô ký, tất cả pháp ấy là vô ký, tất cả pháp ấy là vô ký phải chăng?
“Phải rồi!”.
– Những pháp nào nương căn đồng căn với căn vô ký tất cả pháp ấy thuộc căn hỗ tương căn với căn vô ký phải chăng?
“Những căn (vô ký) nào sanh chung nhauṇhưng căn vô ký ấy vừa là nương căn đồng căn vừa thuộc căn hỗ tương căn; còn các pháp câu sanh căn vô ký ngoài ra thì nương căn đồng căn nhưng không phải thuộc căn hỗ tương căn”.
Hay những pháp nào thuộc căn hỗ tương căn với căn vô ký, tất cả pháp ấy là vô ký phải chăng?
“Phải rồi!”.
[18] Những pháp nào là danh (nāma)(1) tất cả pháp ấy là căn danh (nāmamūla)(2) phải chăng?
“Căn danh chỉ có chín, các pháp danh ngoài ra không phải là căn danh”.
Hay những pháp nào là căn danh, tất cả pháp ấy đều là danh phải chăng?
“Phải rồi!”.
– Những pháp nào là danh, tất cả pháp ấy có đồng căn với căn danh phải chăng?
“Danh vô nhân không đồng căn với căn danh chỉ có Danh hữu nhân mới có đồng căn với căn danh”.
Hay những pháp nào đó đồng căn với căn danh, tất cả pháp ấy là danh phải không?
“Sắc do danh sở sanh (Nāmasamuṭṭhānaṃ) là đồng căn với căn danh nhưng không phải là danh; còn danh pháp vừa là đồng căn với căn danh vừa là danh”.
– Những pháp nào có đồng căn với căn danh tất cả pháp ấy là hỗ tương căn với căn danh phải chăng?
“Những căn (danh) nào sanh chung nhau, những căn danh ấy vừa là đồng căn vừa là hỗ tương căn, còn các pháp câu sanh căn danh ngoài ra thì là đồng căn với căn danh, nhưng không phải là hỗ tương căn”.
Hay những pháp nào là hỗ tương căn với căn danh, tất cả pháp ấy là danh phải chăng?
“Phải rồi!”.
[19] Những pháp nào là danh, tất cả pháp ấy là căn danh căn (Nāmamūlamūlā) phải chăng?
“Căn danh chỉ có chín; các pháp danh còn lại không phải là căn danh căn”.
Hay những pháp nào là căn danh căn, tất cả pháp ấy là danh phải chăng?
“Phải rồi!”.
– Những pháp nào là danh, tất cả pháp ấy có căn đồng căn với căn danh phải chăng?
“Danh vô nhân không có căn đồng căn với căn danh; chỉ có danh hữu nhân mới có căn đồng căn với căn danh”.
Hay những pháp nào có căn đồng căn với căn danh, tất cả pháp ấy là danh phải chăng?
“Sắc do danh sở sanh có căn đồng căn với căn danh nhưng không phải là danh; còn danh pháp vừa là có căn đồng căn với căn danh, vừa là danh”.
– Những pháp nào có căn đồng căn với căn danh, tất cả pháp ấy là căn hỗ tương căn với căn danh phải chăng?
“Những căn (danh) nào sanh chung nhau, những căn danh ấy vừa là có căn đồng căn vừa là có căn hỗ tương căn, còn các pháp câu sanh căn danh ngoài ra thì có căn đồng căn với căn danh nhưng không phải là căn hỗ tương căn”.
Hay những pháp nào là căn hỗ tương căn với căn danh, tất cả pháp ấy là danh phải chăng?
“Phải rồi!”.
[20] Những pháp nào là danh, tất cả pháp ấy đều nương căn danh (Nāmamūlakā) phải chăng?
“Danh vô nhân không có nương căn danh; chỉ có danh hữu nhân mới nương căn danh”.
Hay những pháp nào nương căn danh, tất cả pháp ấy là danh phải chăng?
“Sắc do danh sở sanh nương căn danh mà không phải là danh, còn danh pháp vừa là nương căn danh vừa là danh”.
– Những pháp nào là danh, tất cả pháp ấy đều nương đồng căn (Ekamūlakā) với căn danh phải chăng?
“Danh vô nhân không nương đồng căn với căn danh chỉ có danh hữu nhân
mới nương đồng căn với căn danh”.
Hay là những pháp nào nương đồng căn với căn danh, tất cả pháp ấy là danh phải chăng?
“Sắc do danh sở sanh nương đồng căn với căn danh mà không phải là danh; còn danh pháp vừa là nương đồng căn với căn danh, vừa là danh”.
– Những pháp nào nương đồng căn với căn danh, tất cả pháp ấy thuộc hỗ tương căn với căn danh phải chăng?
“Những căn (danh) nào sanh chung nhau, những căn danh ấy vừa là nương đồng căn và thuộc hỗ tương căn; còn các pháp câu sanh căn danh ngoài ra thì nương đồng căn với căn danh nhưng không thuộc hỗ tương căn”.
Hay những pháp nào thuộc hỗ tương căn với căn danh, tất cả pháp ấy là danh phải chăng?
“Phải rồi!”.
[21] Những pháp nào là danh, tất cả pháp ấy đều nương căn danh phải chăng?
“Danh vô nhân không nương căn danh căn (Nāmamūlamūlakā); chỉ có danh hữu nhân mới nương căn danh căn”.
Hay những pháp nào nương căn danh căn, tất cả pháp ấy là danh phải chăng?
“Sắc do danh sở sanh nương căn danh căn mà không phải là danh, chỉ có danh pháp vừa là nương căn danh căn vừa là danh”.
– Những pháp nào là danh, tất cả pháp ấy nương căn đồng căn với căn danh phải chăng?
“Danh vô nhân không nương căn đồng căn; chỉ có danh hữu nhân mới nương căn đồng căn với căn danh”.
Hay những pháp nào nương căn đồng căn với căn danh, tất cả pháp ấy là danh phải chăng?
“Sắc do danh sở sanh nương căn đồng căn với căn danh mà không phải là danh; còn danh pháp vừa là nương căn đồng căn với căn danh, vừa là danh”.
– Những pháp nào nương căn đồng căn với căn danh, tất cả pháp ấy thuộc căn hỗ nương căn với căn danh phải chăng?
“Những căn (danh) nào sanh chung nhau những căn danh ấy vừa nương căn đồng căn, vừa thuộc căn hỗ tương căn; còn các pháp câu sanh căn danh ngoài ra thì nương căn đồng căn với căn danh mà không thuộc căn hỗ tương căn”.
Hay những pháp nào thuộc căn hỗ tương căn với căn danh, tất cả pháp ấy là danh phải chăng?
“Phải rồi!”.
[22] Những pháp nào là thiện, tất cả pháp ấy là nhân thiện (Kusala-hetu) phải chăng?
… Là nhơn duyên thiện (Kusalanidāna) …
… Là căn bổn thiện (Kusalasambhava) …
… Là căn khởi nguồn thiện (Kusalappabhava) …
… Là căn cơ sở thiện (Kusalasamuṭṭhāna) …
… Là vật thực hiện (Kusalāhāra) …
… Là cảnh thiện (Kusalārammaṇa) …
… Là duyên thiện (Kusalupaccaya) …
… Là tập khởi thiện (Kusalasamudaya) phải chăng?
– Những pháp nào là bất thiện …
– Những pháp nào là vô ký …
– Những pháp nào là danh, tất cả pháp ấy là nhân danh (Nāmahetu) phải chăng?
… Là nhơn duyên danh (Nāmanidāna) …
… Là căn bổn danh (Nāmasambhava) …
… Là khởi nguồn danh (Nāmappabhava) …
… Là cơ sở danh (Nāmasamuṭṭhāna) …
… Là vật thực danh (Nāmāhāra) …
… Là cảnh danh (Nāmārammaṇa) …
… Là duyên danh (Nāmapaccaya) …
… Là tập khởi danh (Nāmasamudaya) phải chăng?
Căn, nhân, và nhơn duyên.
Căn bổn, và khởi nguồn.
Cơ sở, vật thực, cảnh.
Duyên sanh, và tập khởi.
DỨT PHẦN XIỂN MINH
KẾT THÚC CĂN SONG
-ooOoo-
(1) Ðồng căn (ekamūla) tức là có cùng một gốc sanh ra.
(2) Hổ tương căn (aññamaññamūla) tức là các pháp nhân có cùng bản chất và cùng hổ trợ với nhau, như căn vô tham hổ trợ nương căn vô sân và vô si, ngược lại …
(1) Kusalasamuṭṭhānaṃ rūpaṃ, sắc do thiện trợ sanh, sắc có thiện làm cơ sở sanh ra.
(1) Bất thiện vô nhân (ahetukaṃ akulalaṃ) là sở hữu si (mohacetasika) trong hai tâm si, tám tâm tham và hai tâm sân cùng hai mươi bảy sở hữu hợp, là bất thiện hữu nhân (sahetūkaṃ kasalaṃ) .
(2) Sắc bất thiện hay sắc sở sanh (akusalasamuṭṭhānarūpa) tức là sắc tâm bất thiện hay sắc pháp do tâm bất thiện trợ sanh .
(1) Vô ký vô nhân (alutuka abyākata) là 18 tâm vô nhân cùng 12 sở hữu tâm hợp theo 28 Sắc pháp + Níp bàn.
(2) Vô ký hữu nhân (salutuka abyākata) là 54 tâm vô ký tương ưng nhân và 38 sở hữu phối hợp .
(1) Danh (nāma) chử về bản thể ngoài vật chất, ở đây gồm có tâm, sở hữu tâm và Níp-Bàn.
(2) Căn danh (nāmamūla) tức là nhân tương ưng hợp theo danh pháp hữu vi, Có 9 căn là : 3 căn thiện; 3 căn bất thiện và 3 căn vô ký.
II. UẨN SONG (KHANDHAYAMAKAṂ)
1 – PHẦN ÐỊNH DANH (PAÑÑATTIVĀRO)
[23] Năm uẩn sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, và thức uẩn.
2- PHẦN XIỂN THUẬT (UDDEVĀRO)
[24] Sắc là sắc uẩn? Sắc uẩn là sắc?
Thọ là thọ uẩn? Thọ uẩn là thọ?
Tưởng là tưởng uẩn? Tưởng uẩn là tưởng?
Hành là hành uẩn? Hành uẩn là hành?
Thức là thức uẩn? Thức uẩn là thức?
[25] Phi sắc là phi sắc uẩn? Phi sắc uẩn là phi sắc?
Phi thọ là phi thọ uẩn? Phi thọ uẩn là phi thọ?
Phi tưởng là phi tưởng uẩn? Phi tưởng uẩn là phi tưởng?
Phi hành là phi hành uẩn? Phi hành uẩn là phi hành?
Phi thức là phi thức uẩn? Phi thức uẩn là phi thức?
[26] Sắc là sắc uẩn? Uẩn là thọ uẩn?
Sắc là sắc uẩn? Uẩn là tưởng uẩn?
Sắc là sắc uẩn? Uẩn là hành uẩn?
Sắc là sắc uẩn? Uẩn là thức uẩn?
Thọ là thọ uẩn? Uẩn là sắc uẩn?
Thọ là thọ uẩn? Uẩn là tưởng uẩn?
Thọ là thọ uẩn? Uẩn là hành uẩn?
Thọ là thọ uẩn? Uẩn là thức uẩn?
Tưởng là tưởng uẩn? Uẩn là sắc uẩn?
Tưởng là tưởng uẩn? Uẩn là thọ uẩn?
Tưởng là tưởng uẩn? Uẩn là hành uẩn?
Tưởng là tưởng uẩn? Uẩn là thức uẩn?
Hành là tưởng uẩn? Uẩn là sắc uẩn?
Hành là hành uẩn? Uẩn là thọ uẩn?
Hành là hành uẩn? Uẩn là tưởng uẩn?
Hành là hành uẩn? Uẩn là thức uẩn?
Thức là thức uẩn? Uẩn là sắc uẩn?
Thức là thức uẩn? Uẩn là thọ uẩn?
Thức là thức uẩn? Uẩn là tưởng uẩn?
Thức là thức uẩn? Uẩn là hành uẩn?
[27] Phi sắc là phi sắc uẩn? Phi uẩn là phi thọ uẩn?
Phi sắc là phi sắc uẩn? Phi uẩn là phi tưởng uẩn?
Phi sắc là phi sắc uẩn? Phi uẩn là phi hành uẩn?
Phi sắc là phi sắc uẩn? Phi uẩn là phi thức uẩn?
Phi thọ là phi thọ uẩn? Phi uẩn là phi sắc uẩn?
Phi thọ là phi thọ uẩn? Phi uẩn là phi tưởng uẩn?
Phi thọ là phi thọ uẩn? Phi uẩn là phi hành uẩn?
Phi thọ là phi thọ uẩn? Phi uẩn là phi thức uẩn?
Phi tưởng là phi tưởng uẩn? Phi uẩn là phi sắc uẩn?
Phi tưởng là phi tưởng uẩn? Phi uẩn là phi thọ uẩn?
Phi tưởng là phi tưởng uẩn? Phi uẩn là phi hành uẩn?
Phi tưởng là phi tưởng uẩn? Phi uẩn là phi thức uẩn?
Phi hành là phi hành uẩn? Phi uẩn là phi sắc uẩn?
Phi hành là phi hành uẩn? Phi uẩn là phi thọ uẩn?
Phi hành là phi hành uẩn? Phi uẩn là phi tưởng uẩn?
Phi hành là phi hành uẩn? Phi uẩn là phi thức uẩn?
Phi thức là phi thức uẩn? Phi uẩn là phi sắc uẩn?
Phi thức là phi thức uẩn? Phi uẩn là phi thọ uẩn?
Phi thức là phi thức uẩn? Phi uẩn là phi tưởng uẩn?
Phi thức là phi thức uẩn? Phi uẩn là phi hành uẩn?
[28] Sắc là uẩn? uẩn là sắc?…
Thọ là uẩn? uẩn là thọ?…
Tưởng là uẩn? uẩn là tưởng?…
Hành là uẩn? uẩn là hành?…
Thức là uẩn? uẩn là thức?…
[29] Phi sắc là phi uẩn? Phi uẩn là phi sắc?…
Phi thọ là phi uẩn? Phi uẩn là phi thọ?…
Phi Tưởng là phi uẩn? Phi tưởng là phi uẩn?…
Phi hành là phi uẩn? Phi uẩn là phi hành?…
Phi thức là phi uẩn? Phi uẩn là phi thức?…
[30] Sắc là uẩn? Uẩn là thọ?
Sắc là uẩn? Uẩn là tưởng?
Sắc là uẩn? Uẩn là hành?
Sắc là uẩn? Uẩn là thức?
Thọ là uẩn? Uẩn là sắc?
Thọ là uẩn? Uẩn là tưởng?
Thọ là uẩn? Uẩn là hành?
Thọ là uẩn? Uẩn là thức?
Tưởng là uẩn? Uẩn là sắc?
Tưởng là uẩn? Uẩn là thọ?
Tưởng là uẩn? Uẩn là hành?
Tưởng là uẩn? Uẩn là thức?
Hành là uẩn? Uẩn là sắc?
Hành là uẩn? Uẩn là thọ?
Hành là uẩn? Uẩn là tưởng?
Hành là uẩn? Uẩn là thức?
Thức là uẩn? Uẩn là sắc?
Thức là uẩn? Uẩn là thọ?
Thức là uẩn? Uẩn là tưởng?
Thức là uẩn? Uẩn là hành?
[31] Phi sắc là phi uẩn? Phi uẩn là phi thọ?
Phi sắc là phi uẩn? Phi uẩn là phi tưởng?
Phi sắc là phi uẩn? Phi uẩn là phi hành?
Phi sắc là phi uẩn? Phi uẩn là phi thức?
Phi thọ là phi uẩn? Phi uẩn là phi sắc?
Phi thọ là phi uẩn? Phi uẩn là phi tưởng?
Phi thọ là phi uẩn? Phi uẩn là phi hành?
Phi thọ là phi uẩn? Phi uẩn là phi thức?
Phi tưởng là phi uẩn? Phi uẩn là phi sắc?
Phi tưởng là phi uẩn? Phi uẩn là phi thọ?
Phi tưởng là phi uẩn? Phi uẩn là phi hành?
Phi tưởng là phi uẩn? Phi uẩn là phi thức?
Phi hành là phi uẩn? Phi uẩn là phi sắc?
Phi hành là phi uẩn? Phi uẩn là phi thọ?
Phi hành là phi uẩn? Phi uẩn là phi tưởng?
Phi hành là phi uẩn? Phi uẩn là phi thức?
Phi thức là phi uẩn? Phi uẩn là phi sắc?
Phi thức là phi uẩn? Phi uẩn là phi thọ?
Phi thức là phi uẩn? Phi uẩn là phi tưởng?
Phi thức là phi uẩn? Phi uẩn là phi hành?
3- PHẦN XIỂN MINH (NIDDESAVĀRO)
[32] Sắc là sắc uẩn phải chăng?
“Sắc khả ái, sắc khả lạc là sắc nhưng không phải là sắc uẩn; còn sắc uẩn vừa là sắc vừa là sắc uẩn”.
– SẮC UẨN LÀ SẮC PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”.
[33] Thọ là thọ uẩn phải chăng?
“Phải rồi!”.
[34] Tưởng là tưởng uẩn phải chăng?
“Tưởng kiến (diṭṭhisaññā) là tưởng như không phải là tưởng uẩn; còn tưởng uẩn vừa là tưởng vừa là tưởng uẩn”.
– TƯỞNG UẨN LÀ TƯỞNG PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”.
[35] Hành là hành uẩn phải chăng?
“Trừ ra hành uẩn, các hành còn lại là hành nhưng không phải là hành uẩn; còn hành uẩn vừa là hành vừa là hành uẩn”.
– HÀNH UẨN LÀ HÀNH PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”.
[36] THỨC LÀ THỨC UẨN PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”.
Thức uẩn là thức phải chăng?
“Phải rồi!”.
[37] Phi sắc là phi sắc uẩn phải chăng?
“Phải rồi!”.
– PHI SẮC UẨN LÀ PHI SẮC PHẢI CHĂNG?
“Sắc khả ái (Piyarūpaṃ), sắc khả lạc (Sātarūpaṃ) là phi sắc uẩn nhưng là sắc; các pháp còn lại ngoài ra sắc và sắc uẩn là phi sắc, cũng là phi sắc uẩn”.
[38] Phi thọ là phi thọ uẩn phải chăng?
“Phải rồi!”.
[39] Phi tưởng là phi tưởng uẩn phải chăng?
“Phải rồi!”.
– PHI TƯỞNG UẨN LÀ PHI TƯỞNG PHẢI CHĂNG?
“Tưởng kiến (Diṭṭhisaññā) là phi tưởng uẩn nhưng là tưởng; các pháp còn lại ngoài ra tưởng và tưởng uẩn thì là phi tưởng, cũng là phi tưởng uẩn.”
[40] Phi hành là phi hành uẩn phải chăng?
“Phải rồi!”.
– PHI HÀNH UẨN LÀ PHI HÀNH PHẢI CHĂNG?
“Ngoài ra hành uẩn, các hành còn lại là phi hành uẩn nhưng là hành; các pháp ngoài ra hành và hành uẩn thì là phi hành, cũng là phi hành uẩn”.
[41] Phi thức là phi thức uẩn phải chăng?
“Phải rồi!”.
– PHI THỨC UẨN LÀ PHI THỨC PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”.
[42] Sắc là sắc uẩn phải chăng?
“Sắc khả ái, sắc khả lạc là sắc nhưng không phải là sắc uẩn; chỉ có sắc uẩn vừa là săc vừa là sắc uẩn”.
– UẨN LÀ THỌ UẨN PHẢI CHĂNG?
“Thọ uẩn vừa là uẩn vừa là thọ uẩn; còn các uẩn ngoài ra là uẩn nhưng không phải là thọ uẩn”.
[43] Sắc là sắc uẩn phải chăng?
“Sắc khả ái, sắc khả lạc là sắc nhưng không phải là sắc uẩn; chỉ có sắc uẩn vừa là sắc vừa là sắc uẩn”.
– UẨN LÀ TƯỞNG UẨN PHẢI CHĂNG?
“Tưởng uẩn vừa là uẩn vừa là tưởng uẩn; còn các uẩn ngoài ra là uẩn nhưng không phải là tưởng uẩn”
[44] Sắc là sắc uẩn phải chăng?
“Sắc khả ái, sắc khả lạc là sắc nhưng không phải là sắc uẩn; chỉ có sắc uẩn vừa là sắc vừa là sắc uẩn”.
– UẨN LÀ HÀNH UẨN PHẢI CHĂNG?
“Hành uẩn vừa là uẩn vừa là hành uẩn; còn các uẩn ngoài ra là uẩn nhưng không phải là hành uẩn”.
[45] Sắc là sắc uẩn phải chăng?
“Sắc khả ái, sắc khả lạc là sắc nhưng không phải là sắc uẩn; chỉ có sắc uẩn vừa là sắc vừa là sắc uẩn”.
– UẨN LÀ THỨC UẨN PHẢI CHĂNG?
“Thức uẩn vừa là uẩn vừa là thức uẩn; còn các uẩn ngoài ra là uẩn nhưng không phải là thức uẩn.”
[46] Thọ là thọ uẩn phải chăng?
“Phải rồi!”.
– UẨN LÀ SẮC UẨN PHẢI CHĂNG?
“Sắc uẩn vừa là uẩn vừa là sắc uẩn; còn các uẩn ngoài ra là uẩn nhưng không phải là sắc uẩn”.
[47] Thọ là thọ uẩn phải chăng?
“Phải rồi!”.
– UẨN LÀ TƯỞNG UẨN PHẢI CHĂNG?
“Tưởng uẩn vừa là uẩn vừa là tưởng uẩn; còn các uẩn ngoài ra là uẩn nhưng không phải là tưởng uẩn”.
[48] Thọ là thọ uẩn phải chăng?
“Phải rồi!”.
– UẨN LÀ HÀNH UẨN PHẢI CHĂNG?
“Hành uẩn vừa là uẩn vừa là hành uẩn; còn các uẩn ngoài ra là uẩn nhưng không phải là hành uẩn”.
[49] Thọ là thọ uẩn phải chăng?
“Phải rồi!”.
– UẨN LÀ THỨC UẨN PHẢI CHĂNG?
“Thức uẩn vừa là uẩn vừa là thức uẩn; còn các uẩn ngoài ra là uẩn nhưng không phải là thức uẩn”.
[50] Tưởng là tưởng uẩn phải chăng?
“Tưởng kiến là tưởng nhưng không phải là tưởng uẩn; chỉ có tưởng uẩn vừa là tưởng vừa là tưởng uẩn”.
– UẨN LÀ SẮC UẨN PHẢI CHĂNG?
“Sắc uẩn vừa là uẩn vừa là sắc uẩn; còn các uẩn ngoài ra là uẩn nhưng không phải là sắc uẩn”.
[51] Tưởng là tưởng uẩn phải chăng?
“Tưởng kiến là tưởng nhưng không phải là tưởng uẩn, chỉ có tưởng uẩn vừa là tưởng vừa là tưởng uẩn”.
– UẨN LÀ THỌ UẨN PHẢI CHĂNG?
“Thọ uẩn vừa là uẩn vừa là thọ uẩn; còn các uẩn ngoài ra là uẩn nhưng không phải là thọ uẩn.”
[52] Tưởng là tưởng uẩn phải chăng?
“Tưởng kiến là tưởng nhưng không phải là tưởng uẩn chỉ có tưởng uẩn vừa là tưởng vừa là tưởng uẩn.”
– UẨN LÀ HÀNH UẨN PHẢI CHĂNG?
“Hành uẩn vừa là uẩn vừa là hành uẩn; còn các uẩn ngoài ra là uẩn nhưng không phải là hành uẩn.”
[53] Tưởng là tưởng uẩn phải chăng?
“Tưởng kiến là tưởng nhưng không phải là tưởng uẩn; chỉ có tưởng uẩn vừa là tưởng vừa là tưởng uẩn.”
– UẨN LÀ THỨC UẨN PHẢI CHĂNG?
“Thức uẩn vừa là uẩn vừa là thức uẩn; còn các uẩn ngoài ra là uẩn nhưng không phải là thức uẩn.”
[54] Hành là hành uẩn phải chăng?
“Trừ ra là uẩn các hành còn lại là hành nhưng không phải là hành uẩn; còn hành uẩn vừa là hành vừa là hành uẩn”
– UẨN LÀ SẮC UẨN PHẢI CHĂNG?
“Sắc uẩn vừa là uẩn vừa là sắc uẩn; còn các uẩn ngoài ra là uẩn nhưng kkhông phải là sắc uẩn”.
[55] Hành là hành uẩn phải chăng?
“Trừ ra hành uẩn, các hành còn lại là hành nhưng không phải là hành uẩn; còn hành uẩn vừa là hành vừa là hành uẩn”.
– UẨN LÀ THỌ UẨN PHẢI CHĂNG?
“Thọ uẩn vừa là uẩn vừa là thọ uẩn; còn các uẩn ngoài ra là uẩn nhưng không phải là thọ uẩn”.
[56] Hành là hành uẩn phải chăng?
“Trừ ra hành uẩn, các hành còn lại là hành nhưng không phải là hành uẩn; còn hành uẩn vừa là hành vừa là hành uẩn”.
– UẨN LÀ TƯỞNG UẨN PHẢI CHĂNG?
“Tưởng uẩn vừa là uẩn vừa là tưởng uẩn; còn các uẩn ngoài ra là uẩn nhưng không phải là tưởng uẩn.”
[57] Hành là hành uẩn phải chăng?
“Trừ ra hành uẩn, các hành còn lại là hành nhưng không phải là hành uẩn; còn hành uẩn vừa là hành vừa là hành uẩn.”
– UẨN LÀ THỨC UẨN PHẢI CHĂNG?
“Thức uẩn vừa là uẩn vừa là thức uẩn; còn các uẩn ngoài ra là uẩn nhưng không phải là thức uẩn”.
[58] Thức là thức uẩn phải chăng?
“Phải rồi!”.
– UẨN LÀ SẮC UẨN PHẢI CHĂNG?
“Sắc uẩn vừa là uẩn vừa là sắc uẩn; còn các uẩn ngoài ra là uẩn nhưng không phải là sắc uẩn.”
[59] Thức là thức uẩn phải chăng?
“Phải rồi!”
– UẨN LÀ THỌ UẨN PHẢI CHĂNG?
“Thọ uẩn vừa là uẩn vừa là thọ uẩn; còn các uẩn ngoài ra là uẩn nhưng không phải là thọ uẩn”.
[60] Thức là thức uẩn phải chăng?
“Phải rồi!”
– UẨN LÀ TƯỞNG UẨN PHẢI CHĂNG?
“Tưởng uẩn vừa là uẩn vừa là tưởng uẩn; còn các uẩn ngoài ra là uẩn nhưng không phải là tưởng uẩn”.
[61] Thức là thức uẩn phải chăng?
“Phải rồi!”
– UẨN LÀ HÀNH UẨN PHẢI CHĂNG?
“Hành uẩn vừa là uẩn vừa là hành uẩn; còn các uẩn ngoài ra là uẩn nhưng không phải là hành uẩn”.
[62] Phi sắc là phi sắc uẩn phải chăng?
“Phải rồi!”
– PHI UẨN LÀ PHI THỌ UẨN PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
– PHI SẮC LÀ PHI SẮC UẨN PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
– PHI UẨN LÀ PHI TƯỞNG UẨN PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
– PHI SẮC LÀ PHI SẮC UẨN PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
– PHI UẨN LÀ PHI HÀNH UẨN PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
– PHI SẮC LÀ PHI SẮC UẨN PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
– PHI UẨN LÀ PHI THỨC UẨN PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[63] Phi thọ là phi thọ uẩn phải chăng?
“Phải rồi!”
– PHI UẨN LÀ PHI SẮC UẨN PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
– PHI THỌ LÀ PHI THỌ UẨN PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
– PHI UẨN LÀ PHI TƯỞNG UẨN PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
– PHI THỌ LÀ PHI THỌ UẨN PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
– PHI UẨN LÀ PHI HÀNH UẨN PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
– PHI THỌ LÀ PHI THỌ UẨN PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
– PHI UẨN LÀ PHI THỨC UẨN PHẢI CHĂNG?
[64] Phi tưởng là phi tưởng uẩn phải chăng?
“Phải rồi!”
– PHI UẨN LÀ PHI SẮC UẨN PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
– PHI TƯỞNG LÀ PHI TƯỞNG UẨN PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
– PHI UẨN LÀ PHI THỌ UẨN PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
– PHI TƯỞNG LÀ PHI TƯỞNG UẨN PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
– PHI UẨN LÀ PHI HÀNH UẨN PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
– PHI TƯỞNG LÀ PHI TƯỞNG UẨN PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
– PHI UẨN LÀ PHI THỨC UẨN PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[65] Phi hành là phi hành uẩn phải chăng?
“Phải rồi!”
– PHI UẨN LÀ PHI SẮC UẨN PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
– PHI HÀNH LÀ PHI HÀNH UẨN PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
– PHI UẨN LÀ PHI THỌ UẨN PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
– PHI HÀNH LÀ PHI HÀNH UẨN PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
– PHI UẨN LÀ PHI TƯỞNG UẨN PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
– PHI HÀNH LÀ PHI HÀNH UẨN PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
– PHI UẨN LÀ PHI THỨC UẨN PHẢI CHĂNG?
” Phải rồi!”
[66] Phi thức là phi thức uẩn phải chăng?
“Phải rồi!”
– PHI UẨN LÀ PHI SẮC UẨN PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
– PHI THỨC LÀ PHI THỨC UẨN PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
– PHI UẨN LÀ PHI THỌ UẨN PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
– PHI THỨC LÀ PHI THỨC UẨN PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
– PHI UẨN LÀ PHI TƯỚNG UẨN PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
– PHI THỨC LÀ PHI THỨC UẨN PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
– PHI UẨN LÀ PHI HÀNH UẨN PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[67] Sắc là uẩn phải chăng?
“Phải rồi!”
– UẨN LÀ SẮC UẨN PHẢI CHĂNG?
“Sắc uẩn vừa là uẩn vừa là sắc uẩn; còn các uẩn ngoài ra là uẩn nhưng không phải là sắc uẩn”
[68] Thọ là thọ uẩn phải chăng?
“Phải rồi!”
– UẨN LÀ THỌ UẨN PHẢI CHĂNG?
“Thọ uẩn vừa là uẩn vừa là thọ uẩn, còn các uẩn ngoài ra là uẩn nhưng không phải thọ uẩn”.
[69] Tưởng là uẩn phải chăng?
“Phải rồi!”
– UẨN LÀ TƯỞNG UẨN PHẢI CHĂNG?
“Tưởng uẩn vừa là uẩn vừa là tưởng uẩn, còn các uẩn ngoài ra là uẩn nhưng không phải tưởng uẩn”.
[70] Hành là uẩn phải chăng?
“Phải rồi!”
– UẨN LÀ HÀNH UẨN PHẢI CHĂNG?
“Hành uẩn vừa là uẩn vừa là hành uẩn; còn các uẩn ngoài ra là uẩn nhưng không phải là hành uẩn”.
[71] Thức là uẩn phải chăng?
“Phải rồi!”
– UẨN LÀ THỨC UẨN PHẢI CHĂNG?
“Thức uẩn vừa là uẩn vừa là thức uẩn; còn các uẩn ngoài ra là uẩn nhưng không phải là thức uẩn”.
[72] Phi sắc là phi uẩn phải chăng?
“Trừ ra sắc, các uẩn còn lại không phải là sắc mà là uẩn; trừ ra sắc và các uẩn những pháp còn lại vừa là phi sắc vừa là phi uẩn”.
– PHI UẨN LÀ PHI SẮC UẨN PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[73] Phi thọ là phi uẩn phải chăng?
“Trừ ra thọ, các uẩn còn lại không phải là thọ mà là uẩn? trừ ra thọ và các uẩn, những pháp còn lại vừa là phi thọ vừa là phi uẩn”.
– PHI UẨN LÀ PHI THỌ UẨN PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[74] Phi tưởng phi uẩn phải chăng?
“Trừ ra tưởng, các uẩn còn lại không phải là tưởng nhưng là uẩn, trừ ra tưởng và các uẩn, những pháp còn lại vừa là phi tưởng vừa là phi uẩn”
– PHI UẨN LÀ PHI TƯỞNG UẨN PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[75] Phi hành là phi uẩn phải chăng?
“Trừ ra hành, các uẩn còn lại không phải là hành nhưng là uẩn; trừ ra hành và các uẩn, những pháp còn lại vừa là phi hành vừa là phi uẩn”.
– PHI UẨN LÀ PHI HÀNH UẨN PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[76] Phi thức là phi uẩn phải chăng?
“Trừ ra thức, các uẩn còn lại không phải là thức nhưng là uẩn; Trừ ra thức và các uẩn, những pháp còn lại vừa là phi thức vừa là phi uẩn”.
– PHI UẨN LÀ PHI THỨC UẨN PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[77] Sắc là uẩn phải chăng?
“Phải rồi!”
– UẨN LÀ THỌ UẨN PHẢI CHĂNG?
“Thọ uẩn vừa là uẩn vừa là thọ uẩn; các uẩn còn lại là uẩn nhưng không phải là thọ uẩn”.
[78] Sắc là uẩn phải chăng?
“Phải rồi!”
– UẨN LÀ TƯỞNG UẨN PHẢI CHĂNG?
“Tưởng uẩn vừa là uẩn vừa là tưởng uẩn; các uẩn còn lại là uẩn nhưng không phải là tưởng uẩn”.
[79] Sắc là uẩn phải chăng?
“Phải rồi!”
– UẨN LÀ HÀNH UẨN PHẢI CHĂNG?
“Hành uẩn vừa là uẩn vừa là hành uẩn; các uẩn còn lại là uẩn nhưng không phải là hành uẩn”.
[80] Sắc là uẩn phải chăng?
“Phải rồi!”
– UẨN LÀ THỨC UẨN PHẢI CHĂNG?
“Thức uẩn vừa là uẩn vừa là thức uẩn; các uẩn còn lại là uẩn nhưng không phải là thức uẩn.”
[81] Thọ là uẩn phải chăng?
“Phải rồi!”
– UẨN LÀ SẮC UẨN PHẢI CHĂNG?
“Sắc uẩn vừa là uẩn vừa là sắc uẩn; các uẩn còn lại là uẩn nhưng không phải là sắc uẩn”.
[82] Thọ là uẩn phải chăng?
“Phải rồi!”
– UẨN LÀ TƯỞNG UẨN PHẢI CHĂNG?
“Tưởng uẩn vừa là uẩn vừa là tưởng uẩn; các uẩn còn lại là uẩn nhưng không phải là tưởng uẩn.”
[83] Thọ là uẩn phải chăng?
“Phải rồi!”
– UẨN LÀ HÀNH UẨN PHẢI CHĂNG?
“Hành uẩn vừa là uẩn vừa là hành uẩn; các uẩn còn lại là uẩn nhưng không phải là hành uẩn.
[84] Thọ là uẩn phải chăng?
“Phải rồi!”
– UẨN LÀ THỨC UẨN PHẢI CHĂNG?
“Thức uẩn vừa là uẩn vừa là thức uẩn; các uẩn còn lại là uẩn nhưng không phải là thức uẩn.”
[85] Tưởng là uẩn phải chăng?
“Phải rồi!”
– UẨN LÀ SẮC UẨN PHẢI CHĂNG?
“Sắc uẩn vừa là uẩn vừa là sắc uẩn; các uẩn còn lại là uẩn nhưng không phải sắc uẩn”.
[86] Tưởng là uẩn phải chăng?
“Phải rồi!”
– UẨN LÀ THỌ UẨN PHẢI CHĂNG?
“Thọ uẩn vừa là uẩn vừa là thọ uẩn; các uẩn còn lại là uẩn nhưng không phải là thọ uẩn.”
[87] Tưởng là uẩn phải chăng?
“Phải rồi!”
– UẨN LÀ HÀNH UẨN PHẢI CHĂNG?
“Hành uẩn vừa là uẩn vừa là hành uẩn; các uẩn còn lại là uẩn nhưng không phải là hành uẩn.”
[88] Tưởng là uẩn phải chăng?
“Phải rồi!”
– UẨN LÀ THỨC UẨN PHẢI CHĂNG?
“Thức uẩn vừa là uẩn vừa là thức uẩn; các uẩn còn lại là uẩn nhưng không phải là thức uẩn”
[89] Hành là uẩn phải chăng?
“Phải rồi!”
– UẨN LÀ SẮC UẨN PHẢI CHĂNG?
“Sắc uẩn vừa là uẩn vừa là sắc uẩn; các uẩn còn lại là uẩn nhưng không phải là sắc uẩn.”
[90] Hành là uẩn phải chăng?
“Phải rồi!”
– UẨN LÀ THỌ UẨN PHẢI CHĂNG?
“Thọ uẩn vừa là uẩn vừa là thọ uẩn; các uẩn còn lại là uẩn nhưng không phải là thọ uẩn.”
[91] Hành là uẩn phải chăng?
“Phải rồi!”
– UẨN LÀ TƯỞNG UẨN PHẢI CHĂNG?
“Tưởng uẩn vừa là uẩn vừa là tưởng uẩn; các uẩn còn lại là uẩn nhưng không phải là tưởng uẩn.”
[92] Hành là uẩn phải chăng?
“Phải rồi!”
– UẨN LÀ THỨC UẨN PHẢI CHĂNG?
“Thức uẩn vừa là uẩn vừa là thức uẩn; các uẩn còn lại là uẩn nhưng không phải là thức uẩn”.
[93] Thức uẩn là uẩn phải chăng?
“Phải rồi!”
– UẨN LÀ SẮC UẨN PHẢI CHĂNG?
“Sắc uẩn vừa là uẩn vừa là sắc uẩn; các uẩn còn lại là uẩn nhưng không phải là sắc uẩn”.
[94] Thức là uẩn phải chăng?
“Phải rồi!”
– UẨN LÀ THỌ UẨN PHẢI CHĂNG?
“Thọ uẩn vừa là uẩn vừa là thọ uẩn; các uẩn còn lại là uẩn nhưng không phải là thọ uẩn”.
[95] Thức là uẩn phải chăng?
“Phải rồi!”
– UẨN LÀ TƯỞNG UẨN PHẢI CHĂNG?
“Tưởng uẩn vừa là uẩn vừa là tưởng uẩn; các uẩn còn lại là uẩn nhưng không phải là tưởng uẩn”.
[96] Thức là uẩn phải chăng?
“Phải rồi!”
– UẨN LÀ HÀNH UẨN PHẢI CHĂNG?
“Hành uẩn vừa là uẩn vừa là hành uẩn; các uẩn còn lại là uẩn nhưng không phải là hành uẩn.”
[97] Phi sắc là phi uẩn phải chăng?
“Trừ ra sắc, các uẩn còn lại không phải là sắc mà là uẩn; trừ ra sắc và các uẩn, những pháp còn lại vừa là phi sắc vừa là phi uẩn”
– PHI UẨN LÀ PHI THỌ UẨN PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[98] Phi sắc là phi uẩn phải chăng?
“Trừ ra sắc, các uẩn còn lại không phải là sắc mà là uẩn; trừ ra sắc và các uẩn, những pháp còn lại vừa là phi sắc vừa là phi uẩn”.
– PHI UẨN LÀ PHI TƯỞNG UẨN PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[99] Phi sắc là phi uẩn phải chăng?
“Trừ ra sắc các uẩn còn lại không phải là sắc mà là uẩn; trừ ra sắc và các uẩn, những pháp còn lại vừa là phi sắc vừa là phi uẩn”.
– PHI UẨN LÀ PHI HÀNH UẨN PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[100] Phi sắc là phi uẩn phải chăng?
“Trừ ra sắc, các uẩn còn lại không phải là sắc mà là uẩn; trừ ra sắc và các uẩn, những pháp còn lại vừa là phi sắc vừa là phi uẩn”.
– PHI UẨN LÀ PHI THỨC UẨN PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[101] Phi thọ là phi uẩn phải chăng?
“Trừ ra thọ, các uẩn còn lại không phải là thọ mà là uẩn; trừ ra thọ và các uẩn, những pháp còn lại vừa là phi thọ vừa là phi uẩn.
– PHI UẨN LÀ PHI SẮC UẨN PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[102] Phi thọ là phi uẩn phải chăng?
“Trừ ra thọ, các uẩn còn lại không phải là thọ mà là uẩn; trừ ra thọ và các uẩn, những pháp còn lại vừa là phi thọ vừa là phi uẩn.”
– PHI UẨN LÀ PHI TƯỞNG UẨN PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[103] Phi thọ là phi uẩn phải chăng?
“Trừ ra thọ, các uẩn còn lại không phải là thọ mà là uẩn; trừ ra thọ và các uẩn, những pháp còn lại vừa là phi thọ vừa là phi uẩn”
– PHI UẨN LÀ PHI HÀNH UẨN PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[104] Phi thọ là phi uẩn phải chăng?
“Trừ ra thọ, các uẩn còn lại không phải là thọ mà là uẩn; trừ ra thọ và các uẩn, những pháp còn lại vừa là phi thọ vừa là phi uẩn”
– PHI UẨN LÀ PHI THỨC UẨN PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[105] Phi tưởng là phi uẩn phải chăng?
“Trừ ra tưởng, các uẩn còn lại không phải là tưởng mà là uẩn; trừ ra tưởng và các uẩn, những pháp còn lại vừa là phi tưởng vừa là phi uẩn.”
– PHI UẨN LÀ PHI SẮC UẨN PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[106] Phi tưởng là phi uẩn phải chăng?
“Trừ ra tưởng, các uẩn còn lại không phải là tưởng mà là uẩn; trừ ra tưởng và các uẩn, những pháp còn lại vừa là phi tưởng vừa là phi uẩn.”
– PHI UẨN LÀ PHI THỌ UẨN PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[107] Phi tưởng là phi uẩn phải chăng?
“Trừ ra tưởng, các uẩn còn lại không phải là tưởng mà là uẩn; trừ ra tưởng và các uẩn, những pháp còn lại vừa là phi tưởng vừa là phi uẩn.”
– PHI UẨN LÀ PHI HÀNH UẨN PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[108] Phi tưởng là phi uẩn phải chăng?
“Trừ ra tưởng, các uẩn còn lại không phải là tưởng mà là uẩn; trừ ra tưởng và các uẩn, những pháp còn lại vừa là phi tưởng vừa là phi uẩn.
– PHI UẨN LÀ PHI THỨC UẨN PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[109] Phi hành là phi uẩn phải chăng?
“Phải rồi!”
– PHI UẨN LÀ PHI SẮC UẨN PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[110] Phi hành là phi uẩn phải chăng?
“Phải rồi!”
– PHI UẨN LÀ PHI THỌ UẨN PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[111] Phi hành là phi uẩn phải chăng?
“Phải rồi!”
– PHI UẨN LÀ PHI TƯỞNG UẨN PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[112] Phi hành là phi uẩn phải chăng?
“Phải rồi!”
– PHI UẨN LÀ PHI THỨC UẨN PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[113] Phi thức là phi uẩn phải chăng?
“Trừ ra thức, các uẩn còn lại không phải là thức mà là uẩn; Trừ ra thức và các uẩn, những pháp còn lại vừa là phi thức vừa là phi uẩn.”
– PHI UẨN LÀ PHI SẮC UẨN PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[114] Phi thức là phi uẩn phải chăng?
“Trừ ra thức, các uẩn còn lại không phải là thức mà là uẩn, trừ ra thức và các uẩn, những pháp còn lại vừa là phi thức vừa là phi uẩn”
– PHI UẨN LÀ PHI THỌ UẨN PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[115] Phi thức là phi uẩn phải chăng?
“Trừ ra thức, các uẩn còn lại không phải là thức mà là uẩn, trừ ra thức và các uẩn, những pháp còn lại vừa là phi thức vừa là phi uẩn”
– PHI UẨN LÀ PHI TƯỞNG UẨN PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[116] Phi thức là phi uẩn phải chăng?
“Trừ ra thức, các uẩn còn lại không phải là thức mà là uẩn, trừ ra thức và các uẩn, những pháp còn lại vừa là phi thức vừa là phi uẩn”
– PHI UẨN LÀ PHI HÀNH UẨN PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
DỨT PHẦN ÐỊNH DANH
4- PHẦN CHUYỂN BIẾN (PAVATTIVĀRO)
[117] Sắc uẩn đang sanh(1) cho người nào, thì thọ uẩn đang sanh cho người nào, thì thọ uẩn đang sanh cho người ấy phải chăng?
“Ðối với những người đang sanh cõi vô tưởng, sắc uẩn đang sanh, nhưng thọ uẩn chẳng phải đang sanh cho họ, còn những người đang sanh cõi ngũ uẩn thì sắc uẩn đang sanh và thọ uẩn cũng đang sanh cho những người ấy”.
– HAY LÀ THỌ UẨN ÐANG SANH CHO NGƯỜI NÀO, THÌ SẮC UẨN ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với những người đang sanh cõi vô sắc, thọ uẩn đang sanh cho họ, nhưng sắc uẩn chẳng phải đang sanh cho họ, còn những người đang sanh cõi ngũ uẩn thì thọ uẩn đang sanh và sắc uẩn cũng đang sanh cho những người ấy”.
[118] Sắc uẩn đang sanh ở cõi nào thì thọ uẩn đang sanh ở cõi ấy phải chăng?
“Trong cõi vô tưởng, cõi ấy sắc uẩn đang sanh nhưng thọ uẩn chẳng phải đang sanh; chỉ trong cõi ngủ uẩn, cõi ấy sắc uẩn đang sanh và thọ uẩn cũng đang sanh.”
– HAY LÀ THỌ UẨN ÐANG SANH Ở CÕI NÀO, THÌ SẮC UẨN ÐANG SANH Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Trong cõi vô sắc, cõi ấy thọ uẩn đang sanh nhưng sắc uẩn chẳng phải đang sanh; chỉ trong cõi ngủ uẩn, cõi ấy thọ uẩn đang sanh và sắc uẩn cũng đang sanh.”
[119] Sắc uẩn đang sanh cho người nào ở cõi nào thì thọ uẩn đang sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang sanh cõi vô tưởng, thì người ấy cõi ấy, sắc uẩn đang sanh mà thọ uẩn chẳng phải đang sanh; còn đối với người đang sanh cõi ngũ uẩn thì người ấy cõi ấy, sắc uẩn đang sanh và thọ uẩn cũng đang sanh”.
– HAY LÀ THỌ UẨN ÐANG SANH CHO NGƯỜI NÀO CÕI NÀO THÌ SẮC UẨN ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang sanh cõi vô sắc, thì người ấy cõi ấy, sắc uẩn đang sanh mà thọ uẩn chẳng phải đang sanh; còn đối với người đang sanh cõi ngũ uẩn thì người ấy cõi ấy, sắc uẩn đang sanh và thọ uẩn cũng đang sanh”.
[120] Sắc uẩn không đang sanh cho người nào thì thọ uẩn không đang sanh cho người ấy phải chăng?
“Ðối với những người đang sanh cõi vô sắc, sắc uẩn không đang sanh cho họ nhưng thọ uẩn chẳng phải không đang sanh cho họ; đối với tất cả người đang chết thì sắc uẩn không đang sanh và thọ uẩn cũng không đang sanh cho họ”.
– HAY LÀ THỌ UẨN KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ SẮC UẨN KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với những người đang sanh cõi vô tưởng, thọ uẩn không đang sanh cho họ nhưng sắc uẩn chẳng phải không đang sanh cho họ; đối với tất cả người đang chết thì thọ uẩn không đang sanh và sắc uẩn cũng không đang sanh cho họ”.
[121] Sắc uẩn không đang sanh ở cõi nào thọ uẩn không đang sanh ở cõi ấy phải chăng?
“Ðang sanh!”
– HAY LÀ THỌ UẨN KHÔNG ÐANG SANH Ở CÕI NÀO THÌ SẮC UẨN KHÔNG ÐANG SANH Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðang sanh!”
[122] Sắc uẩn không đang sanh cho người nào ở cõi nào thì thọ uẩn không đang sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang sanh cõi vô sắc thì người ấy cõi ấy sắc uẩn không đang sanh nhưng thọ uẩn chẳng phải không đang sanh cho người ấy cõi ấy. Ðối với tất cả người đang chết thì người ấy cõi ấy sắc uẩn không đang sanh và thọ uẩn cũng không đang sanh”.
– HAY LÀ THỌ UẨN KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ SẮC UẨN KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang sanh cõi vô tưởng thì người ấy cõi ấy thọ uẩn không đang sanh nhưng sắc uẩn chẳng phải không đang sanh cho người ấy cõi ấy; đối với tất cả người đang chết thì người ấy cõi ấy thọ uẩn không đang sanh và sắc uẩn cũng không đang sanh”.
[123] Sắc uẩn đã từng sanh(1) cho người nào thì thọ uẩn đã từng sanh cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ THỌ UẨN ÐÃ TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ SẮC UẨN ÐÃ TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[124] Sắc uẩn đã từng sanh ở cõi nào thì thọ uẩn đã từng sanh ở cõi ấy phải chăng?
“Ở cõi vô tưởng, cõi ấy sắc uẩn từng sanh mà thọ uẩn không từng sanh; ở cõi ngũ uẩn, cõi ấy sắc uẩn từng sanh và thọ uẩn cũng từng sanh”.
– HAY LÀ THỌ UẨN TỪNG SANH Ở CÕI NÀO THÌ SẮC UẨN TỪNG SANH Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ở cõi vô sắc, cõi ấy thọ uẩn từng sanh mà sắc uẩn không từng sanh; ở cõi ngũ uẩn, cõi ấy thọ uẩn từng sanh và sắc uẩn cũng từng sanh”.
[125] Sắc uẩn từng sanh cho người nào ở cõi nào thì thọ uẩn từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người cõi vô tưởng, sắc uẩn từng sanh cho người ấy ở cõi ấyï nhưng thọ uẩn không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; đối với người cõi ngũ uẩn thì sắc uẩn từng sanh và thọ uẩn cũng từng sanh cho người ấy ở cõi ấy”.
– HAY LÀ THỌ UẨN TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ SẮC UẨN TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người cõi vô sắc thọ uẩn từng sanh cho người ấy ở cõi ấyï nhưng sắc uẩn không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; đối với người cõi ngũ uẩn thọ uẩn từng sanh và sắc uẩn cũng từng sanh cho người ấy ở cõi ấy”.
[126] Sắc uẩn không từng sanh cho người nào thì thọ uẩn từng sanh cho người ấy phải chăng?
“Không có!”
– HAY LÀ THỌ UẨN KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ SẮC UẨN KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Không có!”
[127] Sắc uẩn không từng sanh ở cõi nào thì thọ uẩn không từng sanh ở cõi ấy phải chăng?
“Từng sanh!”
– HAY LÀ THỌ UẨN KHÔNG TỪNG SANH Ở CÕI NÀO THÌ SẮC UẨN KHÔNG TỪNG SANH Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Từng sanh!”
[128] Sắc uẩn không từng sanh cho người nào ở cõi nào thì thọ uẩn không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người cõi vô sắc, sắc uẩn không từng sanh cho người ấy ở cõi ấyï nhưng thọ uẩn chẳng phải không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; đối với người cõi tịnh cư sắc uẩn không từng sanh và thọ uẩn cũng không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy”.
– HAY LÀ THỌ UẨN KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ SẮC UẨN KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người cõi vô tưởng, thọ uẩn không từng sanh cho người ấy ở cõi ấyï nhưng sắc uẩn chẳng phải không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; đối với người cõi tịnh cư thọ uẩn không từng sanh và sắc uẩn cũng không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy”.
[129] Sắc uẩn sẽ sanh cho người nào thì thọ uẩn sẽ sanh cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ THỌ UẨN SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ SẮC UẨN SẼ SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Người nào sẽ sanh cõi vô sắc rồi Níp-bàn thì thọ uẩn sẽ từng sanh cho người ấy nhưng sắc uẩn sẽ không sanh cho người ấy nữa; còn những hạng khác thì thọ uẩn sẽ sanh và sắc uẩn sẽ sanh cho họ”.
[130] Sắc uẩn sẽ sanh ở cõi nào thì thọ uẩn sẽ sanh ở cõi ấy phải chăng?
“Ở cõi vô tưởng, cõi ấy sắc uẩn sẽ sanh mà thọ uẩn sẽ không sanh; ở cõi ngũ uẩn, cõi ấy sắc uẩn sẽ sanh và thọ uẩn sẽ sanh”.
– HAY LÀ THỌ UẨN SẼ SANH Ở CÕI NÀO THÌ SẮC UẨN SẼ SANH Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ở cõi vô sắc, cõi ấy thọ uẩn sẽ sanh mà sắc uẩn sẽ không sanh; ở cõi ngũ uẩn, cõi ấy thọ uẩn sẽ sanh và sắc uẩn cũng sẽ sanh”.
[131] Sắc uẩn sẽ sanh cho người nào ở cõi nào thì thọ uẩn sẽ sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người cõi vô tưởng, sắc uẩn sẽ sanh cho người ấy ở cõi ấyï nhưng thọ uẩn sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người cõi ngũ uẩn thì sắc uẩn sẽ sanh và thọ uẩn cũng sẽ sanh cho người ấy ở cõi ấy”.
– HAY LÀ THỌ UẨN SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ SẮC UẨN SẼ SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người cõi vô sắc, thọ uẩn sẽ sanh cho người ấy ở cõi ấyï nhưng sắc uẩn sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người cõi ngũ uẩn, thọ uẩn sẽ sanh và sắc uẩn cũng sẽ sanh cho người ấy ở cõi ấy”.
[132] Sắc uẩn sẽ không sanh cho người nào thì thọ uẩn sẽ không sanh cho người ấy phải chăng?
“Người mà sẽ sanh cõi vô sắc rồi Níp-bàn, sắc uẩn sẽ không sanh cho người ấy nhưng thọ uẩn chẳng phải sẽ không sanh cho họ; còn người kiếp chót(1) sắc uẩn sẽ không sanh và thọ uẩn cũng sẽ không sanh”.
– HAY LÀ THỌ UẨN SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ SẮC UẨN SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[133] Sắc uẩn sẽ không sanh ở cõi nào thì thọ uẩn sẽ không sanh ở cõi ấy phải chăng?
“Sẽ sanh!”
– HAY LÀ THỌ UẨN SẼ KHÔNG SANH Ở CÕI NÀO THÌ SẮC UẨN SẼ KHÔNG SANH Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Sẽ sanh!”
[134] Sắc uẩn sẽ không sanh cho người nào ở cõi nào thì thọ uẩn sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Người cõi vô sắc, sắc uẩn sẽ không sanh nhưng thọ uẩn chẳng phải sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấyï; đối với người cõi kiếp chót, sắc uẩn sẽ không sanh và thọ uẩn cũng sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy”.
– HAY LÀ THỌ UẨN SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ SẮC UẨN SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người cõi vô tưởng, thọ uẩn sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấyï nhưng sắc uẩn chẳng phải sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy. Ðối với người cõi kiếp chót, thọ uẩn sẽ không sanh và sắc uẩn cũng sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy”.
[135] Sắc uẩn đang sanh cho người nào thì thọ uẩn đã từng sanh cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ THỌ UẨN ÐÃ TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ SẮC UẨN SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với tất cả người đang tử và người đang sanh cõi vô sắc, thì thọ uẩn đã từng sanh cho người ấyï nhưng sắc uẩn thì không đang sanh cho người ấy. Ðối với người đang sanh cõi ngũ uẩn, người đang sanh cõi vô tưởng, thì thọ uẩn đã từng sanh và sắc uẩn cũng đang sanh cho người ấy”.
[136] Thọ uẩn đang sanh cho người nào thì tưởng uẩn đã từng sanh cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ TƯỞNG UẨN ÐÃ TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ THỌ UẨN ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với tất cả người đang tử, người đang sanh cõi vô tưởng, thì tưởng uẩn đã từng sanh cho người ấyï nhưng thọ uẩn, thì không đang sanh cho người ấy; Ðối với người đang sanh cõi tứ uẩn, cõi ngũ uẩn, thì tưởng uẩn đã từng sanh và thọ uẩn cũng đang sanh cho người ấy”
[137] Sắc uẩn đang sanh cõi nào thì thọ uẩn đã từng sanh ở cõi ấy phải chăng?
“Ở cõi vô tưởng, cõi ấy sắc uẩn đang sanh nhưng thọ uẩn không từng sanh; ở cõi ngũ uẩn, cõi sắc ấy sắc uẩn đang sanh và thọ uẩn cũng đã từng sanh”.
– HAY LÀ THỌ UẨN ÐÃ TỪNG SANH Ở CÕI NÀO THÌ SẮC UẨN ÐANG SANH Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ở cõi vô sắc, cõi ấy thọ uẩn đã từng sanh nhưng sắc uẩn không uẩn không từng sanh; ở cõi ngũ uẩn, cõi ấy thọ uẩn đã từng sanh và sắc uẩn cũng đang sanh”.
[138] Thọ uẩn đang sanh ở cõi nào thì tưởng uẩn đã từng sanh ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ TƯỞNG UẨN ÐÃ TỪNG SANH Ở CÕI NÀO THÌ THỌ UẨN ÐANG SANH Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[139] Sắc uẩn đang sanh cho người nào ở cõi nào thì thọ uẩn đã từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang sanh cõi tịnh cư, người đang sanh cõi vô tưởng, người ấyï cõi ấy sắc uẩn đang sanh nhưng thọ uẩn không từng sanh. Ðối với người đang sanh cõi ngũ uẩn khác, thì người ấy cõi sắc ấy uẩn đang sanh và thọ uẩn đã từng sanh”.
HAY LÀ THỌ UẨN ÐÃ TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ SẮC UẨN ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang tử cõi ngũ uẩn, và người cõi vô sắc, người ấyï cõi ấy thọ uẩn đã từng sanh nhưng sắc uẩn không đang sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang sanh cõi ngũ uẩn, người ấy cõi ấy thọ uẩn đã từng sanh và sắc uẩn cũng đang sanh”.
[140] Thọ uẩn đang sanh cho người nào ở cõi nào thì tưởng uẩn đã từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang sanh cõi tịnh cư, người ấy cõi ấy thọ uẩn đang sanh nhưng tưởngï uẩn không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; Ðối với người đang sanh cõi tứ uẩn, ngũ uẩn khác thì thọ uẩn đang sanh mà tưởng uẩn cũng đã từng sanh cho người ấy ở cõi ấy”.
– HAY LÀ TƯỞNG UẨN ÐÃ TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ THỌ UẨN ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang tử cõi tứ uẩn cõi ngũ uẩn, thì tưởng uẩn đã từng sanh cho người ấy ở cõi ấy nhưng thọ uẩn không đang sanh cho người ấy ở cõi ấy; Ðối với người đang sanh cõi tứ uẩn cõi ngũ uẩn, thì tưởng uẩn đã từng sanh mà thọ uẩn cũng đang sanh cho người ấy ở cõi ấy”
[141] Sắc uẩn không đang sanh cho người nào thì thọ uẩn không từng sanh cho người ấy phải chăng?
“Từng sanh!”
– HAY LÀ THỌ UẨN KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ SẮC UẨN KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Không có!”
[142] Thọ uẩn không đang sanh cho người nào thì tưởng uẩn không từng sanh cho người ấy phải chăng?
“Từng sanh!”
– HAY LÀ TƯỞNG UẨN KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ THỌ UẨN KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Không có!”
[143] Sắc uẩn không đang sanh ở cõi nào thì thọ uẩn không từng sanh ở cõi ấy phải chăng?
“Từng sanh!”
HAY LÀ THỌ UẨN KHÔNG TỪNG SANH Ở CÕI NÀO THÌ SẮC UẨN KHÔNG ÐANG SANH Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðang sanh!”
[144] Thọ uẩn không đang sanh ở cõi nào thì tưởng uẩn không từng sanh ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ TƯỞNG UẨN KHÔNG TỪNG SANH Ở CÕI NÀO THÌ THỌ UẨN KHÔNG ÐANG SANH Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[145] Sắc uẩn không đang sanh cho người nào ở cõi nào thì thọ uẩn không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang tử biệt cõi ngũ uẩn, và người vô sắc, sắc uẩn không đang sanh cho người ấy ở cõi ấy, nhưng thọ uẩn chẵng phải không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với ngưới đang viên tịch ở cõi tịnh cư và người đang tử biệt cõi vô tưởng, thì sắc uẩn không đang sanh và thọ uẩn cũng không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy”
HAY LÀ THỌ UẨN KHÔNG TỪNG SANH CHO NGỪƠI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ SẮCÏ UẨN KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang sanh cõi tịnh cư, người đang sanh cõi vô tưởng, thì thọ uẩn không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy nhưng sắcï uẩn chẵng phải không đang sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với ngưới đang viên tịch ở cõi tịnh cư, người đang tử biệt cõi vô tưởng thì thọ uẩn không từng sanh và sắc uẩn cũng không đang sanh cho người ấy ở cõi ấy”
[146] Thọ uẩn không đang sanh cho người nào ở cõi nào thì tưởng uẩn không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang tử biệt cõi tứ uẩn cõi ngu õuẩn, thọ uẩn không đang sanh cho người ấy ở cõi ấy, nhưng tửơngï uẩn chẵng phải không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với ngưới đang viên tịch ở cõi tịnh cư, và người cõi vô tửơng, thọ uẩn không đang sanh và tửơng uẩn cũng không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy”
– HAY LÀ TƯỞNGÏ UẨN KHÔNG TỪNG SANH CHO NGỪƠI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ THỌ UẨN KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang sanh cõi tịnh cư tưởng uẩn không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy, nhưng thọ uẩn chẳng phải không đang sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người viên tịch ở cõi tịnh cư, và người cõi vô tưởng, tưởng uẩn không từng sanh và thọ uẩn cũng không đang sanh cho người ấy ở cõi ấy”
[147] Sắc uẩn đang sanh cho người nào thì thọ uẩn sẽ không sanh cho người ấy phải chăng?
“Ðối với hạng người kiếp chót đang sanh cỏi ngũ uẩn thì sắc uẩn đang sanh cho hạng mà thọ uẩn chẳng phải sẽ sanh cho họ; còn người hạng khác đang sanh cõi ngũ uẩn, đang sanh cõi vô tưởng, thì sắc uẩn đang sanh và thọ uẩn cũng sẽ sanh cho họ”.
– HAY LÀ THỌ UẨN SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ SẮC UẨN ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Tất cả người đang tử biệt và người đang sanh cõi vô sắc, thì thọ uẩn sẽ sanh cho họ người ấy nhưng sắc uẩn chẳng phải đang sanh cho họ; còn hạng người đang sanh cõi ngũ uẩn, hạng người đang sanh cõi vô tưởng, thì thọ uẩn sẽ sanh và sắc uẩn cũng đang sanh cho họ”.
[148] Thọ uẩn đang sanh cho người nào thì tưởng uẩn sẽ sanh cho người ấy phải chăng?
“Ðối với hạng người kiếp chót đang sanh thì thọ uẩn đang sanh cho người ấy mà tưởng uẩn chẳng phải sẽ sanh cho họ; còn những hạng khác đang sanh cõi tứ uẩn, cõi ngũ uẩn thì thọ uẩn đang sanh và tưởng uẩn cũng sanh cho họ.”
– HAY LÀ TƯỞNG UẨN SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ THỌ UẨN ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
Tất cả người đang tử biệt và người đang sanh cõi vô tưởng, tưởng uẩn sẽ sanh cho họ nhưng thọ uẩn chẳng phải đang sanh cho họ; còn đối với hạng người đang sanh cõi tứ uẩn cõi ngũ uẩn thì tưởng uẩn sẽ sanh và thọ uẩn cũng đang sanh cho họ.”
[149] Sắc uẩn đang sanh ở cõi nào thì thọ uẩn sẽ sanh ở cõi ấy phải chăng?
“Cõi vô tưởng, sắc uẩn đang sanh ở cõi ấy mà thọ uẩn chẳng phải sẽ sanh ở cõi ấy; cõi ngũ uẩn, sắc uẩn đang sanh và thọ uẩn cũng sẽ sanh ở cõi ấy.”
– HAY LÀ THỌ UẨN SẼ SANH Ở CÕI NÀO THÌ SẮC UẨN ÐANG SANH Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
” Cõi vô sắc, ở cõi ấy thọ uẩn sẽ sanh mà sắc uẩn không đang sanh ở cõi ấy; cõi ngũ uẩn, ở cõi ấy thọ uẩn sẽ sanh và sắc uẩn cũng đang sanh.”
[150] Thọ uẩn đang sanh ở cõi nào thì tưởng uẩn sẽ sanh ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ TƯỞNG UẨN SẼ SANH Ở CÕI NÀO THÌ THỌ UẨN ÐANG SANH Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[151] Sắc uẩn đang sanh cho người nào ở cõi nào thì thọ uẩn sẽ sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người kiếp chót đang sanh cõi ngũ uẩn, người đang sanh cõi vô tưởng, sắc uẩn đang sanh cho người ấy, nhưng thọ uẩn chẳng phải sẽ sanh cho người ấy ở cõi ấy; đối với các hạng người khác đang sanh cõi ngũ uẩn thì sắc uẩn đang sanh và thọ uẩn cũng sẽ sanh cho người ấy ở cõi ấyï”.
– HAY LÀ THỌ UẨN SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ SẮC UẨN ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang tử biệt cõi ngũ uẩn, và ngườ cõi vô sắc, thọ uẩn sẽ sanh cho người ấy ở cõi ấy mà sắc uẩn chẳng phải đang sanh cho người ấy ở cõi ấy; Ðối với người đang sanh cõi ngũ uẩn thọ uẩn sẽ sanh và sắc uẩn đang sanh cho người ấy ở cõi ấyï”.
[152] Thọ uẩn đang sanh cho người nào ở cõi nào thì tưởng uẩn đang sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người hạng kiếp chót đang sanh thì thọ uẩn đang sanh cho người ấy ở cõi ấy, nhưng tưởng uẩn chẳng phải sẽ sanh cho người ấy ở cõi ấy; đối với các hạng khác đang sanh cõi tứ uẩn ngũ uẩn thì thọ uẩn đang sanh và tưởng uẩn cũng sẽ sanh cho người ấy ở cõi ấyï”.
– HAY LÀ TƯỞNG UẨN SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ THỌ UẨN ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang tử biệt cõi tứ uẩn ngũ uẩn thì tưởng uẩn sẽ sanh cho người ấy cõi ấy nhưng thọ uẩn không đang sanh cho người ấy cõi ấy; đối với người đang sanh cõi tứ uẩn ngũ uẩn thì tưởng uẩn sẽ sanh và thọ uẩn cũng đang sanh cho người ấy ở cõi ấyï”.
[153] Sắc uẩn không đang sanh cho người nào thì thọ uẩn sẽ không sanh cho người ấy phải chăng?
“Tất cả người đang tử biệt, người đang sanh cõi vô sắc, thì sắc uẩn không đang sanh nhưng thọ uẩn chẳng phải sẽ không sanh cho người ấy; còn đối với người đang viên tịch cõi ngũ uẩn và người kiếp chót cõi vô sắc thì sắc uẩn không đang sanh và thọ uẩn cũng sẽ không sanh cho người ấyï”.
– HAY LÀ THỌ UẨN SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ SẮC UẨN KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
” Ðối với người kiếp chót đang sanh cõi ngũ uẩn thì thọ uẩn sẽ không sanh cho người ấy nhưng sắc uẩn chẳng phải không đang sanh cho người ấy; còn đối với người đang viên tịch cõi ngũ uẩn, người kiếp chót cõi vô sắc thì thọ uẩn sẽ không đang sanh cho người ấy”.
[154] Thọ uẩn không đang sanh cho người nào thì tưởng uẩn sẽ không sanh cho người ấy phải chăng?
“Tất cả người đang tử, người đang sanh cõi vô tưởng thì thọ uẩn không sanh cho người ấy nhưng tưởng uẩn chẳng phải sẽ không sanh cho người ấy; còn người đang viên tịch thì thọ uẩn không đang sanh và tưởng uẩn cũng sẽ không sanh cho người ấyï”.
– HAY LÀ TƯỞNG UẨN SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ THỌ UẨN KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
” Ðối với người kiếp chót đang sanh cõi ngũ uẩn thì tưởng uẩn sẽ không sanh cho người ấy nhưng thọ uẩn chẳng phải không đang sanh cho người ấy; còn đối với người đang viên tịch thì tưởng uẩn sẽ không sanh và thọ uẩn cũng không đang sanh cho người ấy”.
[155] Sắc uẩn không đang sanh ở cõi nào thì thọ uẩn sẽ không sanh ở cõi ấy phải chăng?
“Ðang sanh!”
– HAY LÀ THỌ UẨN SẼ KHÔNG SANH Ở CÕI NÀO THÌ SẮC UẨN KHÔNG ÐANG SANH Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðang sanh!”
[156] Thọ uẩn không đang sanh ở cõi nào thì tưởng uẩn sẽ không sanh ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ TƯỞNG UẨN SẼ KHÔNG SANH Ở CÕI NÀO THÌ THỌ UẨN KHÔNG ÐANG SANH Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[157] Sắc uẩn không đang sanh cho người nào thì tưởng uẩn sẽ không sanh ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang tử biệt cõi ngũ uẩn, và người ở cõi vô sắc, thì sắc uẩn không đang sanh cho người ấy ở cõi ấy nhưng thọ uẩn chẳng phải sẽ không sanh cho người ấy cõi ấy; đối với người đang viên tịch cõi ngũ uẩn, người kiếp chót ở cõi vô sắc, và người đang tử biệt cõi vô tưởng, thì sắc uẩn không đang sanh và thọ uẩn cũng sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấyï”.
– HAY LÀ THỌ UẨN SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ THỌ UẨN KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người kiếp chót đang sanh cõi ngũ uẩn và người đang sanh cõi vô tưởng uẩn, thì thọ uẩn sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn người đang viên tịch cõi ngũ uẩn, người kiếp chót cõi vô sắc, và người đang tử biệt cõi vô tưởng, thọ uẩn sẽ không sanh và sắc uẩn không đang sanh cho người ấy ở cõi ấy”.
[158] Thọ uẩn không đang sanh cho người nào ở cõi nào thì tưởng uẩn sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang tử biệt cõi tứ uẩn cõi ngũ uẩn thì thọ uẩn không đang sanh cho người ấy ở cõi ấy nhưng tưởng uẩn chẳng phải sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy; Ðối với người đang viên tịch và người ở cõi vô tưởng, thọ uẩn không đang sanh và tưởng uẩn sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy”.
– HAY LÀ TƯỞNG UẨN SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ THỌ UẨN KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người kiếp chót đang sanh, tưởng uẩn sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy nhưng thọ uẩn chẳng phải không đang sanh cho người ấy ở cõi ấy; Ðối với người đang viên tịch và người ở cõi vô tưởng thì tưởng uẩn sẽ không sanh và thọ uẩn cũng không đang sanh cho người ấy ở cõi ấy”.
[159] Sắc uẩn từng sanh cho người nào thì thọ uẩn sẽ sanh cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người kiếp chót đang sanh, sắc uẩn từng sanh cho người ấy mà thọ uẩn sẽ không sanh cho người ấy; còn đối với hạng khác thì sắc uẩn từng sanh và thọ uẩn cũng sẽ sanh cho họ”.
– HAY LÀ THỌ UẨN SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ SẮC UẨN TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[160] Thọ uẩn từng sanh cho người nào thì tưởng uẩn sẽ sanh cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người kiếp chót, thọ uẩn từng sanh cho người ấy mà tưởng uẩn sẽ không sanh cho người ấy; còn đối với hạng khác thì thọ uẩn từng sanh và tưởng uẩn cũng sẽ sanh cho họ”.
– HAY LÀ TƯỞNG UẨN SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ THỌ UẨN TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[161] Sắc uẩn từng sanh ở cõi nào thì thọ uẩn sẽ sanh ở cõi ấy phải chăng?
“Ở cõi vô tưởng, sắc uẩn từng sanh ở cõi ấy mà thọ uẩn sẽ không sanh ở cõi ấy; ở cõi ngũ uẩn, sắc uẩn từng sanh và thọ uẩn cũng sẽ sanh ở cõi ấy”
– HAY LÀ THỌ UẨN SẼ SANH Ở CÕI NÀO THÌ SẮC UẨN TỪNG SANH Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ở cõi vô sắc, thọ uẩn sẽ sanh ở cõi ấy mà sắc uẩn không từng sanh ở cõi ấy; ở cõi ngũ uẩn, thọ uẩn sẽ sanh và sắc uẩn cũng từng sanh”
[162] Thọ uẩn từng sanh ở cõi nào thì tưởng uẩn sẽ sanh ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ TƯỞNG UẨN SẼ SANH Ở CÕI NÀO THÌ THỌ UẨN TỪNG SANH Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[163] Sắc uẩn từng sanh cho người nào ở cõi nào thì thọ uẩn sẽ sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người kiếp chót ở cõi ngũ uẩn, và người cõi vô tưởng, sắc uẩn từng sanh cho người ấy ở cõi ấy mà thọ uẩn sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy; Ðối với hạng khác ở cõi ngũ uẩn thì sắc uẩn từng sanh và thọ uẩn cũng sẽ sanh cho người ấy ở cõi ấy”.
– HAY LÀ THỌ UẨN SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ SẮC UẨN TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người ở cõi vô sắc thì thọ uẩn sẽ sanh cho người ấy ở cõi ấy mà sắc uẩn sẽ không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy, đối với người cõi ngũ uẩn thì thọ uẩn sẽ sanh và sắc uẩn cũng từng sanh cho người ấy ở cõi ấy”.
[164] Thọ uẩn từng sanh cho người nào cõi nào thì tưởng uẩn sẽ sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người kiếp chót, thọ uẩn từng sanh cho người ấy ở cõi ấy mà tưởng uẩn sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy, đối với hạng khác ở cõi tứ uẩn cõi ngũ uẩn thì thọ uẩn từng sanh và tưởng uẩn cũng sẽ sanh cho người ấy ở cõi ấy”.
– HAY LÀ TƯỞNG UẨN SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ THỌ UẨN TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[165] Sắc uẩn không từng sanh cho người nào thì thọ uẩn sẽ không sanh cho người ấy phải chăng?
“Không có!”
– HAY LÀ THỌ UẨN SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ SẮC UẨN KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
” Từng sanh!”
[166] Thọ uẩn không từng sanh cho người nào thì tưởng uẩn sẽ không sanh cho người ấy phải chăng?
“Không có!”
– HAY LÀ TƯỞNG UẨN SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ THỌ UẨN KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Từng sanh!”
[167] Sắc uẩn không từng sanh ở cõi nào thì thọ uẩn sẽ không sanh ở cõi ấy phải chăng?
“Sẽ sanh!”
– HAY LÀ THỌ UẨN SẼ KHÔNG SANH Ở CÕI NÀO THÌ SẮC UẨN KHÔNG TỪNG SANH Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Từng sanh!”
[168] Thọ uẩn không từng sanh ở cõi nào thì tưởng uẩn sẽ không sanh ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ TƯỞNG UẨN SẼ KHÔNG SANH Ở CÕI NÀO THÌ THỌ UẨN KHÔNG TỪNG SANH Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[169] Sắc uẩn không từng sanh cho người nào ở cõi nào thì thọ uẩn sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người cõi vô sắc, sắc uẩn không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy mà thọ uẩn chẳng phải sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy; Ðối với người cõi tịnh cư và người kiếp chót cõi vô sắc, sắc uẩn không từng sanh và thọ uẩn sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy”.
– HAY LÀ THỌ UẨN SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ SẮC UẨN KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người kiếp chót ở cõi ngũ uẩn, và người cõi vô tưởng, thọ uẩn sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy mà sắc uẩn chẳng phải không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; đối với người cõi tịnh cư, và người kiếp chót cõi vô sắc, thọ uẩn sẽ không sanh và sắc uẩn cũng không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy”.
[170] Thọ uẩn không từng sanh cho người nào ở cõi nào thì tưởng uẩn sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ TƯỞNG UẨN SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ THỌ UẨN KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người kiếp chót, tưởng uẩn sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy mà thọ uẩn chẳng phải không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; Ðối với người cõi tịnh cư, và người cõi vô tưởng, tưởng uẩn sẽ không sanh và thọ uẩn cũng không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy”.
DỨT PHẦN SANH (Uppadvāraṃ Niṭṭhitaṃ)
[171] Sắc uẩn đang diệt cho người nào thì thọ uẩn đang diệt cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người đang tử biệt cõi vô tưởng, sắc uẩn đang diệt cho người ấy mà thọ uẩn chẳng phải đang diệt cho người ấy đối với người đang tử biệt cõi ngũ uẩn, sắc uẩn đang diệt và thọ uẩn cũng đang diệt cho người ấy”.
– HAY LÀ THỌ UẨN ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ SẮC UẨN CŨNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang tử biệt cõi vô sắc, thọ uẩn đang diệt cho người ấy mà sắc uẩn chẳng phải đang diệt cho người ấy; đối với người đang tử biệt cõi ngũ uẩn thì thọ uẩn đang diệt và sắc uẩn cũng đang diệt cho người ấy”.
[172] Sắc uẩn đang diệt ở cõi nào thì thọ uẩn đang diệt ở cõi ấy phải chăng?
“Ở cõi vô tưởng, sắc uẩn đang diệt ở cõi ấy mà thọ uẩn chẳng phải đang diệt ở cõi ấy; ở cõi ngũ uẩn, sắc uẩn đang diệt và thọ uẩn cũng đang diệt ở cõi ấy”
– HAY LÀ THỌ UẨN ÐANG DIỆT Ở CÕI NÀO THÌ SẮC UẨN CŨNG ÐANG DIỆT Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ở cõi vô sắc, thọ uẩn đang diệt ở cõi ấy mà sắc uẩn chẳng phải đang diệt ở cõi ấy; ở cõi ngũ uẩn, thọ uẩn đang diệt và sắc uẩn cũng đang diệt ở cõi ấy”
[173] Sắc uẩn đang diệt cho người nào ở cõi nào thì thọ uẩn đang diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang tử biệt cõi vô tưởng, sắc uẩn đang diệt cho người ấy ở cõi ấy mà thọ uẩn chẳng phải đang diệt cho người ấy ở cõi ấy; đối với người đang tử biệt cõi ngũ uẩn thì sắc uẩn đang diệt và thọ uẩn cũng đang diệt cho người ấy cõi ấy”.
– HAY LÀ THỌ UẨN ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ SẮC UẨN CŨNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang tử biệt cõi vô sắc, thọ uẩn đang diệt cho người ấy ở cõi ấy mà sắc uẩn chẳng phải đang diệt cho người ấy ở cõi ấy; đối với người đang tử biệt cõi ngũ uẩn thì thọ uẩn đang diệt và sắc uẩn cũng đang diệt cho người ấy ở cõi ấy”.
[174] Sắc uẩn không đang diệt cho người nào thì thọ uẩn không đang diệt cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người đang tử biệt cõi vô sắc, sắc uẩn không đang diệt cho người ấy mà thọ uẩn chẳng phải không đang diệt cho người ấy; còn tất cả người đang sanh, sắc uẩn không đang diệt và thọ uẩn cũng không đang diệt cho người ấy”.
– HAY LÀ THỌ UẨN KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ SẮC UẨN KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang tử biệt cõi vô tưởng, thọ uẩn không đang diệt cho người ấy mà sắc uẩn chẳng phải không đang diệt cho người ấy; còn tất cả người đang sanh, thọ uẩn không đang diệt và sắc uẩn cũng không đang diệt cho người ấy”.
[175] Sắc uẩn không đang diệt ở cõi nào thì thọ uẩn không đang diệt ở cõi ấy phải chăng?
“Ðang diệt!”
– HAY LÀ THỌ UẨN KHÔNG ÐANG DIỆT Ở CÕI NÀO THÌ SẮC UẨN KHÔNG ÐANG DIỆT Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðang diệt!”
[176] Sắc uẩn không đang diệt cho người nào ở cõi nào thì thọ uẩn không đang diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang tử biệt cõi vô sắc, sắc uẩn không đang diệt cho người ấy ở cõi ấy mà thọ uẩn chẳng phải không đang diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với tất cả người đang sanh, sắc uẩn không đang diệt và thọ uẩn cũng không đang diệt cho người ấy ở cõi ấy”.
– HAY LÀ THỌ UẨN KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ SẮC UẨN KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang tử biệt cõi vô tưởng, thọ uẩn không đang diệt cho người ấy ở cõi ấy mà sắc uẩn chẳng phải không đang diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với tất cả người đang sanh, thọ uẩn không đang diệt và sắc uẩn cũng không đang diệt cho người ấy ở cõi ấy”.
[177] Sắc uẩn từng diệt cho người nào thì thọ uẩn từng diệt cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ THỌ UẨN TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ SẮC UẨN TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[178] Sắc uẩn từng diệt ở cõi nào thì thọ uẩn từng diệt ở cõi ấy phải chăng?
“Ở cõi vô tưởng, sắc uẩn từng diệt ở cõi ấy mà thọ uẩn không từng diệt ở cõi ấy; ở cõi ngũ uẩn, sắc uẩn từng diệt và thọ uẩn cũng từng diệt ở cõi ấy”
– HAY LÀ THỌ UẨN TỪNG DIỆT Ở CÕI NÀO THÌ SẮC UẨN TỪNG DIỆT Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ở cõi vô sắc, thọ uẩn từng diệt ở cõi ấy mà sắc uẩn không từng diệt ở cõi ấy; ở cõi ngũ uẩn, thọ uẩn từng diệt và sắc uẩn cũng từng diệt”
[179] Sắc uẩn từng diệt cho người nào ở cõi nào thì thọ uẩn từng diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người cõi vô tưởng, sắc uẩn từng diệt cho người ấy ở cõi ấy mà thọ uẩn không từng diệt cho người ấy ở cõi ấy; Ðối với người cõi ngũ uẩn, sắc uẩn từng diệt và thọ uẩn cũng từng diệt cho người ấy ở cõi ấy”
– HAY LÀ THỌ UẨN TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ SẮC UẨN TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người cõi vô sắc, thọ uẩn từng diệt cho người ấy ở cõi ấy mà sắc uẩn không từng diệt cho người ấy ở cõi ấy; Ðối với người cõi ngũ uẩn, thọ uẩn từng diệt và sắc uẩn cũng từng diệt cho người ấy ở cõi ấy”
[180] Sắc uẩn không từng diệt cho người nào thì thọ uẩn từng diệt cho người ấy phải chăng?
“Không có!”
– HAY LÀ THỌ UẨN KHÔNG TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ SẮC UẨN KHÔNG TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Không có!”
[181] Sắc uẩn không từng diệt ở cõi nào thì thọ uẩn không từng diệt ở cõi ấy phải chăng?
“Từng diệt!”
– HAY LÀ THỌ UẨN KHÔNG TỪNG DIỆT Ở CÕI NÀO THÌ SẮC UẨN KHÔNG TỪNG DIỆT Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Từng diệt!”
[182] Sắc uẩn không từng diệt cho người nào ở cõi nào thì thọ uẩn không từng diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người cõi vô sắc, sắc uẩn không từng diệt cho người ấy ở cõi ấy mà thọ uẩn chẳng phải không từng diệt cho người ấy ở cõi ấy; Ðối với người cõi tịnh cư, sắc uẩn không từng diệt và thọ uẩn cũng không từng diệt cho người ấy ở cõi ấy”
– HAY LÀ THỌ UẨN KHÔNG TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ SẮC UẨN KHÔNG TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người cõi vô tưởng, thọ uẩn không từng diệt cho người ấy ở cõi ấy mà sắc uẩn thì chẳng phải không từng diệt cho người ấy ở cõi ấy. Ðối với người cõi tịnh cư, thọ uẩn không từng diệt và sắc uẩn cũng không từng diệt cho người ấy ở cõi ấy”
[183] Sắc uẩn sẽ diệt cho người nào thì thọ uẩn sẽ diệt cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ THỌ UẨN SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ SẮC UẨN SẼ DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người kiếp chót đang sanh cõi vô sắc, và hạng người mà sẽ sanh lên cõi vô sắc rồi viên tịch, thọ uẩn sẽ diệt cho người ấy mà sắc uẩn không còn sẽ diệt cho người ấy. Ðối với hạng khác thì thọ uẩn sẽ diệt và sắc uẩn cũng còn sẽ diệt cho người ấy”
[184] Sắc uẩn sẽ diệt ở cõi nào thì thọ uẩn sẽ diệt ở cõi ấy phải chăng?
“Ở cõi vô tưởng, sắc uẩn sẽ diệt ở cõi ấy mà thọ uẩn sẽ không diệt ở cõi ấy; còn ở cõi ngũ uẩn, sắc uẩn sẽ diệt và thọ uẩn cũng sẽ diệt ở cõi ấy”
– HAY LÀ THỌ UẨN SẼ DIỆT Ở CÕI NÀO THÌ SẮC UẨN SẼ DIỆT Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ở cõi vô sắc, thọ uẩn sẽ diệt ở cõi ấy mà sắc uẩn sẽ không diệt ở cõi ấy; còn ở cõi ngũ uẩn, thọ uẩn sẽ diệt và sắc uẩn cũng sẽ diệt ở cõi ấy”
[185] Sắc uẩn sẽ diệt cho người nào, ở cõi nào thì thọ uẩn sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người cõi vô tưởng, sắc uẩn sẽ diệt cho người ấy nhưng thọ uẩn sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người cõi ngũ uẩn, sắc uẩn sẽ diệt và thọ uẩn cũng sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy”
– HAY LÀ THỌ UẨN SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ SẮC UẨN SẼ DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người cõi vô sắc thọ, thọ uẩn sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy nhưng sắc uẩn sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người cõi ngũ uẩn, thọ uẩn sẽ diệt và sắc uẩn cũng sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy”
[186] Sắc uẩn sẽ không diệt cho người nào thì thọ uẩn sẽ không diệt cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người kiếp chót đang sanh cõi vô sắc, và người mà đang tử sẽ sanh lên cõi vô sắc rồi viên tịch, sắc uẩn sẽ không diệt cho người ấy nhưng thọ uẩn chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy; đối với người đang viên tịch sắc uẩn sẽ không diệt và thọ uẩn sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy”
– HAY LÀ THỌ UẨN SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ SẮC UẨN SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[187] Sắc uẩn sẽ không diệt ở cõi nào thì thọ uẩn sẽ không diệt ở cõi ấy phải chăng?
“Sẽ diệt!”
– HAY LÀ THỌ UẨN SẼ KHÔNG DIỆT Ở CÕI NÀO THÌ SẮC UẨN SẼ KHÔNG DIỆT Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Sẽ diệt!”
[188] Sắc uẩn sẽ không diệt cho người nào ở cõi nào thì thọ uẩn sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người cõi vô sắc, sắc uẩn sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy nhưng thọ uẩn chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy; đối với người đang viên tịch sắc uẩn sẽ không diệt và thọ uẩn cũng sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy”
– HAY LÀ THỌ UẨN SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ SẮC UẨN SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người cõi vô tưởng, thọ uẩn sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy nhưng sắc uẩn chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch, thọ uẩn sẽ không diệt và sắc uẩn cũng sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy”
[189] Sắc uẩn đang diệt cho người nào thì thọ uẩn từng diệt cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ THỌ UẨN TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ SẮC UẨN ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với tất cả người đang sanh, thọ uẩn từng diệt cho người ấy nhưng sắc uẩn không đang diệt cho người ấy; còn đối với người đang tử biệt cõi ngũ uẩn và người đang tử biệt cõi vô tưởng, thọ uẩn từng diệt và sắc uẩn cũng đang diệt cho họ”.
[190] Thọ uẩn đang diệt cho người nào thì tưởng uẩn từng diệt cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ TƯỞNG UẨN TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ THỌ UẨN ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với tất cả người đang sanh và người đang tử biệt cõi vô tưởng, tưởng uẩn từng diệt cho người ấy nhưng thọ uẩn không đang diệt cho họ; còn đối với người đang tử biệt cõi tứ uẩn, cõi ngũ uẩn, tưởng uẩn từng diệt và thọ uẩn cũng đang diệt cho họ”.
[191] Sắc uẩn đang diệt ở cõi nào thì thọ uẩn từng diệt ở cõi ấy phải chăng?
“Ở cõi vô tưởng, sắc uẩn đang diệt ở cõi ấy nhưng thọ uẩn không từng diệt ở cõi ấy; còn ở cõi ngũ uẩn, sắc uẩn đang diệt và thọ uẩn cũng từng diệt ở cõi ấy”
– HAY LÀ THỌ UẨN TỪNG DIỆT Ở CÕI NÀO THÌ SẮC UẨN ÐANG DIỆT Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ở cõi vô sắc, thọ uẩn từng diệt ở cõi ấy nhưng sắc uẩn không đang diệt ở cõi ấy; còn ở cõi ngũ uẩn, thọ uẩn từng diệt và sắc uẩn cũng đang diệt ở cõi ấy”
[192] Thọ uẩn đang diệt ở cõi nào thì tưởng uẩn từng diệt ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ TƯỞNG UẨN TỪNG DIỆT Ở CÕI NÀO THÌ THỌ UẨN ÐANG DIỆT Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[193] Sắc uẩn đang diệt cho người nào ở cõi nào thì thọ uẩn từng diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang viên tịch ở cõi tịnh cư, người đang tử biệt cõi vô tưởng, sắc uẩn đang diệt cho người ấy ở cõi ấy nhưng thọ uẩn không từng diệt cho người ấy ở cõi ấy; đối với những hạng khác đang tử biệt cõi ngũ uẩn thì sắc uẩn đang diệt và thọ uẩn cũng từng diệt cho người ấy ở cõi ấy”.
– HAY LÀ THỌ UẨN TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ SẮC UẨN ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang sanh cõi ngũ uẩn, người ở cõi vô sắc, thọ uẩn từng diệt cho người ấy ở cõi ấy nhưng sắc uẩn không đang diệt cho người ấy ở cõi ấy; đối với người đang tử biệt cõi ngũ uẩn thì thọ uẩn từng diệt và sắc uẩn cũng đang diệt cho người ấy ở cõi ấy”.
[194] Thọ uẩn đang diệt cho người nào ở cõi nào thì tưởng uẩn từng diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang viên tịch cõi tịnh cư thì thọ uẩn đang diệt cho người ấy ở cõi ấy nhưng tưởng uẩn không từng diệt cho người ấy ở cõi ấy; đối với hạng khác đang tử biệt cõi tứ uẩn, cõi ngũ uẩn, thọ uẩn đang diệt và tưởng uẩn cũng từng diệt cho người ấy ở cõi ấy”.
– HAY LÀ TƯỞNG UẨN TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ THỌ UẨN ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang sanh cõi tứ uẩn cõi ngũ uẩn, tưởng uẩn từng diệt cho người ấy ở cõi ấy nhưng thọ uẩn không đang diệt cho người ấy cõi ấy; đối với người đang tử biệt cõi tứ uẩn cõi ngũ uẩn thì tưởng uẩn từng diệt và thọ uẩn cũng đang diệt cho người ấy ở cõi ấy”.
[195] Sắc uẩn không đang diệt cho người nào thì thọ uẩn không từng diệt cho người ấy phải chăng?
“Từng diệt!”
– HAY LÀ THỌ UẨN KHÔNG TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ SẮC UẨN KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Không có!”
[196] Thọ uẩn không đang diệt cho người nào thì tưởng uẩn không từng diệt cho người ấy phải chăng?
“Từng diệt!”
– HAY LÀ TƯỞNG UẨN KHÔNG TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ THỌ UẨN KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Không có!”
[197] Sắc uẩn không đang diệt ở cõi nào … (cần bổ túc thêm nữa) …
[198] Sắc uẩn không đang diệt cho người nào ở cõi nào thì thọ uẩn không từng diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang sanh cõi ngũ uẩn, người ở cõi vô sắc, sắc uẩn không đang diệt cho người ấy cõi ấy nhưng thọ uẩn chẳng phải không từng diệt cho người ấy ở cõi ấy; đối với người đang sanh cõi tịnh cư, người đang sanh cõi vô tưởng, sắc uẩn không đang diệt và thọ uẩn cũng không từng diệt cho người ấy ở cõi ấy”.
– HAY LÀ THỌ UẨN KHÔNG TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ SẮC UẨN KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang viên tịch cõi tịnh cư, người đang tử biệt cõi vô tưởng, thọ uẩn không từng diệt cho người ấy ở cõi ấy nhưng sắc uẩn chẳng phải không đang diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang sanh cõi tịnh cư, người đang sanh cõi vô tưởng, thọ uẩn không từng diệt và sắc uẩn cũng không đang diệt cho người ấy ở cõi ấy”.
[199] Thọ uẩn không đang diệt cho người nào ở cõi nào thì tưởng uẩn không từng diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang sanh cõi tứ uẩn cõi ngũ uẩn, thọ uẩn không đang diệt cho người ấy ở cõi ấy nhưng tưởng uẩn chẳng phải không từng diệt cho người ấy ở cõi ấy; đối với người đang sanh cõi tịnh cư, người ở cõi vô tưởng thì thọ uẩn không đang diệt và tưởng uẩn cũng không từng diệt cho người ấy ở cõi ấy”.
– HAY LÀ TƯỞNG UẨN KHÔNG TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ THỌ UẨN KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang viên tịch cõi tịnh cư, tưởng uẩn không từng diệt cho người ấy ở cõi ấy nhưng thọ uẩn chẳng phải không đang diệt cho người ấy ở cõi ấy; đối với người đang sanh cõi tịnh cư, người cõi vô tưởng, tưởng uẩn không từng diệt và thọ uẩn cũng không đang diệt cho người ấy ở cõi ấy”.
[200] Sắc uẩn đang diệt cho người nào thì thọ uẩn sẽ diệt cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người đang viên tịch ở cõi ngũ uẩn thì sắc uẩn đang diệt cho người ấy nhưng thọ uẩn sẽ không diệt cho người ấy; đối với những hạng khác đang tử biệt cõi ngũ uẩn, đang tử biệt cõi vô tưởng thì sắc uẩn đang diệt và thọ uẩn cũng sẽ diệt cho họ”.
– HAY LÀ THỌ UẨN SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ SẮC UẨN ÐANG DIỆT CHO HỌ PHẢI CHĂNG?
“Tất cả người đang sanh và người đang tử biệt cõi vô sắc, thọ uẩn sẽ diệt cho người ấy nhưng sắc uẩn không đang diệt cho họ; còn đối với người đang tử biệt cõi ngũ uẩn, người đang tử biệt cõi vô tưởng, thì thọ uẩn sẽ diệt và sắc uẩn cũng đang diệt cho họ”.
– HAY LÀ TƯỞNG UẨN SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ THỌ UẨN ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Tất cả người đang sanh và người đang tử biệt cõi vô tưởng, tưởng uẩn sẽ diệt cho người ấy nhưng thọ uẩn không đang diệt cho người ấyï; còn đối với người đang tử biệt cõi tứ uẩn cõi ngũ uẩn thì tưởng uẩn sẽ diệt và thọ uẩn cũng đang diệt cho người ấy”.
[201] Thọ uẩn đang diệt cho người nào thì tưởng uẩn sẽ diệt cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người đang viên tịch thọ uẩn thì sắc uẩn đang diệt cho người ấy nhưng thọ tưởng uẩn sẽ không diệt cho người ấy; đối với những hạng khác đang tử biệt cõi tứ uẩn, cõi ngũ uẩn thì thọ uẩn đang diệt và tưởng uẩn cũng sẽ diệt cho họ”.
[202] Sắc uẩn đang diệt ở cõi nào … trùng …
[203] Sắc uẩn đang diệt cho người nào ở cõi nào thì thọ uẩn sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang viên tịch ở cõi ngũ uẩn, người đang tử biệt cõi vô tưởng, sắc uẩn sẽ đang diệt cho người ấy ở cõi ấy nhưng thọ uẩn sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy; đối với người khác đang tử biệt cõi ngũ uẩn thì sắc uẩn đang diệt và thọ uẩn cũng sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy”.
– HAY LÀ THỌ UẨN SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ SẮC UẨN ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang sanh cõi ngũ uẩn, người ở cõi vô sắc thọ uẩn sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy nhưng sắc uẩn không đang diệt cho người ấy ở cõi ấy; đối với người đang tử biệt cõi ngũ uẩn thì thọ uẩn sẽ diệt và sắc uẩn cũng đang diệt cho người ấy ở cõi ấy”.
[204] Thọ uẩn đang diệt cho người nào ở cõi nào thì tưởng uẩn sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang viên tịch, thọ uẩn đang diệt cho người ấy ở cõi ấy nhưng tưởng uẩn sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy; đối với hạng khác đang tử biệt cõi tứ uẩn cõi ngũ uẩn thì thọ uẩn đang diệt và tưởng uẩn cũng sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy”.
– HAY LÀ TƯỞNG UẨN SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ THỌ UẨN ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang sanh cõi tứ uẩn cõi ngũ uẩn, tưởng uẩn sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy ở cõi ấy nhưng rhọ uẩn không đang diệt cho người ấy ở cõi ấy; đối với người đang tử biệt cõi tứ uẩn cõi ngũ uẩn thì tưởng uẩn sẽ diệt và thọ uẩn cũng đang diệt cho người ấy ở cõi ấy”.
[205] Sắc uẩn không đang diệt cho người nào thì thọ uẩn sẽ không diệt cho người ấy phải chăng?
“Tất cả người đang sanh, người đang tử biệt cõi vô sắc, sắc uẩn không đang diệt cho người ấy nhưng thọ uẩn chẳng phải sẽ không diệt cho người ấyï; đối với người đang viên tịch cõi vô sắc thì sắc uẩn không đang diệt và thọ uẩn cũng sẽ không diệt cho người ấy”.
– HAY LÀ THỌ UẨN SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ SẮC UẨN KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang viên tịch cõi ngũ uẩn thì thọ uẩn sẽ không diệt cho người ấy nhưng sắc uẩn chẳng phải không đang diệt cho người ấy; đối với người đang viên tịch cõi vô sắc thì thọ uẩn sẽ không diệt và sắc uẩn cũng không đang diệt cho người ấy”.
[206] Thọ uẩn sẽ không đang diệt cho người nào thì tưởng uẩn sẽ không diệt cho người ấy phải chăng?
“Sẽ diệt!”
– HAY LÀ TƯỞNG UẨN SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ THỌ UẨN KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðang diệt!”
[207] Sắc uẩn không đang diệt ở cõi … trùng …
[208] Sắc uẩn không đang diệt cho người nào ở cõi nào thì thọ uẩn sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang sanh cõi ngũ uẩn, người ở cõi vô sắc, sắc uẩn không đang diệt cho người ấy ở cõi ấy nhưng thọ uẩn chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy; đối với người đang viên tịch cõi vô sắc người đang sanh cõi vô tưởng thì sắc uẩn không đang diệt và thọ uẩn sẽ không sanh và sắc uẩn cũng không diệt cho người ấy ở cõi ấy”.
– HAY LÀ THỌ UẨN SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ SẮC UẨN KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang viên tịch cõi ngũ uẩn, người đang tử biệt cõi vô tưởng, thọ uẩn sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy nhưng sắc uẩn chẳng phải không đang diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch cõi vô sắc, người đang sanh cõi vô tưởng, thọ uẩn sẽ không đang sanh cho người ấy ở cõi ấy”.
[209] Thọ uẩn không đang diệt cho người nào ở cõi nào thì tưởng uẩn sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang sanh cõi tứ uẩn cõi ngũ uẩn, thì thọ uẩn không đang diệt cho người ấy ở cõi ấy nhưng tưởng uẩn chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy; đối với người ở cõi vô tưởng, thọ uẩn không đang diệt và tưởng uẩn cũng sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy”.
– HAY LÀ TƯỞNG UẨN SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ THỌ UẨN KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang viên tịch tưởng uẩn sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy nhưng thọ uẩn chẳng phải không đang diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người ở cõi vô tưởng thì tưởngï uẩn sẽ không diệt và thọ uẩn cũng không đang diệt cho người ấy ở cõi ấy”.
[210] Sắc uẩn từng diệt cho người nào thì thọ uẩn sẽ diệt cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người đang viên tịch, sắc uẩn từng diệt cho người ấy nhưng thọ uẩn sẽ không diệt cho người ấy; còn đối với những hạng khác thì sắc uẩn từng diệt và thọ uẩn cũng sẽ diệt cho người ấy”.
– HAY LÀ THỌ UẨN SẼ DIỆT VỚI NGƯỜI NÀO THÌ SẮC UẨN TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[211] Thọ uẩn từng diệt cho người nào thì tưởng uẩn sẽ diệt cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người đang viên tịch, thọ uẩn từng diệt cho người ấy nhưng tưởng uẩn sẽ không diệt cho người ấy; còn đối với những hạng khác thì thọ uẩn từng diệt và tưởng uẩn cũng sẽ diệt cho người ấy”.
– HAY LÀ TƯỞNG UẨN SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ THỌ UẨN TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[212] Sắc uẩn từng diệt ở cõi nào … trùng …
[203] Sắc uẩn từng diệt cho người nào ở cõi nào thì thọ uẩn sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang viên tịch cõi ngũ uẩn, đối với người ở cõi vô tưởng, sắc uẩn sẽ từng diệt cho người ấy ở cõi ấy nhưng thọ uẩn sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy, đối với hạng người khác ở cõi ngũ uẩn thì sắc uẩn từng diệt và thọ uẩn cũng sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy”.
– HAY LÀ THỌ UẨN SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ SẮC UẨN TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang sanh cõi tịnh cư, người ở cõi vô sắc, thọ uẩn sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy nhưng sắc uẩn không từng diệt cho người ấy ở cõi ấy, đối với hạng người khác ở cõi ngũ uẩn thì thọ uẩn sẽ diệt và sắc uẩn cũng từng diệt cho người ấy ở cõi ấy”.
[214] Thọ uẩn từng diệt cho người nào ở cõi nào thì tưởng uẩn sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang viên tịch, thọ uẩn từng diệt cho người ấy ở cõi ấy nhưng tưởng uẩn sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với các hạng khác ở cõi tứ uẩn cõi ngũ uẩn th5 uẩn từng diệt và tưởng uẩn cũng sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy”.
– HAY LÀ TƯỞNG UẨN SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ THỌ UẨN TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang sanh ở cõi tịnh cư, tưởng uẩn sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy nhưng thọ uẩn không từng diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với các hạng khác ở cõi tứ uẩn cõi ngũ uẩn thì tưởng uẩn cũng sẽ diệt và thọ uẩn cũng từng duyệt cho người ấy ở cõi ấy”.
[215] Sắc uẩn không từng diệt cho người nào thì thọ uẩn sẽ không diệt cho người ấy phải chăng?
“Không có!”
– HAY LÀ THỌ UẨN SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ SẮC UẨN KHÔNG TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Từng diệt!”
[216] Thọ uẩn không từng diệt cho người nào thì tưởng uẩn sẽ không diệt cho người ấy phải chăng?
“Không có!”
– HAY LÀ TƯỞNG UẨN SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ THỌ UẨN KHÔNG TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Từng diệt!”
[217] Sắc uẩn không từng diệt ở cõi nào … trùng …
[218] Sắc uẩn không từng diệt cho người nào ở cõi nào thì thọ uẩn sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang sanh cõi tịnh cư, người ở cõi vô sắc, sắc uẩn không từng diệt cho người ấy ở cõi ấy nhưng thọ uẩn chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy; đối với người đang viên tịch cỏi tịnh cư, người đang viên tịch cõi vô sắc thì sắc uẩn không từng diệt và thọ uẩn cũng sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy”.
– HAY LÀ THỌ UẨN SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ SẮC UẨN KHÔNG TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang viên tịch cõi ngũ uẩn, người ở cõi vô tưởng, thì thọ uẩn sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy nhưng sắc uẩn chẳng phải không từng diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch cõi tịnh cư người đang viên tịch cõi vô sắc thì thọ uẩn cũng không từng diệt cho người ấy ở cõi ấy”.
[219] Thọ uẩn không từng diệt cho người nào ở cõi nào thì tưởng uẩn sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang sanh cõi tịnh cư thì thọ uẩn không từng diệt cho người ấy ở cõi ấy, nhưng tưởng uẩn chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch cõi tịnh cư, người ở cõi vô tưởng thì thọ uẩn không từng diệt và tưởng uẩn sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy”.
– HAY LÀ TƯỞNG UẨN SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ THỌ UẨN KHÔNG TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang viên tịch cõi ngũ uẩn thì tưởng uẩn sẽ không diệt với người ấy ở cõi ấy nhưng thọ uẩn chẳng phải không từng diệt với người ấy ở cõi ấy; Ðối với người đang viên tịch cõi tịnh cư, người ở cõi vô tưởng, tưởng uẩn sẽ không diệt và thọ uẩn cũng không từng diệt, cho người ấy ở cõi ấy”.
DỨT PHẦN DIỆT (Nirodhavāraṃ niṭṭhitaṃ)
[220] Sắc uẩn đang sanh cho người nào thì thọ uẩn đang diệt cho người ấy phải chăng?
“Không phải!”
– HAY LÀ THỌ UẨN ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ SẮC UẨN ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Không phải!”
[221] Thọ uẩn đang sanh cho người nào thì tưởng uẩn đang diệt cho người ấy phải chăng?
“Không phải!”
– HAY LÀ TƯỞNG UẨN ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ THỌ UẨN ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Không phải!”
[222] Sắc uẩn đang sanh ở cõi nào thì thọ uẩn đang diệt ở cõi ấy phải chăng?
“Ở cõi vô tưởng, sắc uẩn đang sanh ở cõi ấy nhưng thọ uẩn chẳng phải sanh đang diệt ở cõi ấy; ở cõi ngũ uẩn thì sắc uẩn đang sanh và thọ uẩn cũng đang diệt ở cõi ấy”
– HAY LÀ THỌ UẨN ÐANG DIỆT Ở CÕI NÀO THÌ SẮC UẨN ÐANG SANH Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ở cõi vô sắc, thọ uẩn đang diệt ở cõi ấy nhưng sắc uẩn chẳng phải đang sanh ở cõi ấy; ở cõi ngũ uẩn, thọ uẩn đang diệt và sắc uẩn cũng đang sanh ở cõi ấy”
[223] Thọ uẩn đang sanh ở cõi nào thì tưởng uẩn đang diệt ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ TƯỞNG UẨN ÐANG DIỆT Ở CÕI NÀO THÌ THỌ UẨN ÐANG SANH Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[224] Sắc uẩn đang sanh cho người nào ở cõi nào thì thọ uẩn đang diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Không phải!”
– HAY LÀ THỌ UẨN ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ SẮC UẨN ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Không phải!”
[225] Thọ uẩn đang sanh cho người nào ở cõi nào thì tưởng uẩn đang diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Không phải!”
– HAY LÀ TƯỞNG UẨN ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ THỌ UẨN ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Không phải!”
[226] Sắc uẩn không đang sanh cho người nào thì thọ uẩn không đang diệt cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người đang tử biệt cõi tứ uẩn cõi ngũ uẩn, sắc uẩn không đang sanh cho người ấy nhưng thọ uẩn chẳng phải không đang diệt cho người ấy; còn đối với người đang sanh cõi vô sắc, người đang tử biệt cõi vô tưởng, sắc uẩn không đang sanh và thọ uẩn cũng không đang diệt cho người ấy”.
– HAY LÀ THỌ UẨN KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ SẮC UẨN KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang sanh cõi ngũ uẩn; người đang sanh cõi vô tưởng, thọ uẩn không đang diệt cho người ấy nhưng sắc uẩn chẳng phải không đang sanh cho người ấy đối với người đang sanh cõi vô sắc, người đang tử biệt cõi vô tưởng, thì thọ uẩn không đang diệt và sắc uẩn cũng không đang sanh cho người ấy”.
[227] Thọ uẩn không đang sanh cho người nào thì tưởng uẩn không đang diệt cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người đang tử biệt cõi tứ uẩn cõi ngũ uẩn, thọ uẩn không đang sanh cho người ấy, nhưng tưởng uẩn chẳng phải không đang diệt cho người ấy; còn đối với người ở cõi vô tưởng,thọ uẩn không đang sanh và tưởng uẩn cũng không đang diệt cho người ấy”.
– HAY LÀ TƯỞNG UẨN KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ THỌ UẨN KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang sanh cõi tứ uẩn cõi ngũ uẩn thì tưởng uẩn không đang diệt cho người ấy; nhưng thọ uẩn chẳng phải không đang sanh cho người ấy;còn đối với người ở cõi vô tưởng, thì tưởng uẩn không đang diệt và thọ uẩn cũng không đang sanh cho người ấy”.
[228] Sắc uẩn không đang sanh ở cõi nào thì thọ uẩn không đang diệt ở cõi ấy phải chăng?
“Ðang diệt!”
– HAY LÀ THỌ UẨN KHÔNG ÐANG DIỆT ÐANG DIỆT Ở CÕI NÀO THÌ SẮC UẨN KHÔNG ÐANG SANH Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðang sanh!”
[229] Thọ uẩn không đang sanh ở cõi nào thì tưởng uẩn không đang diệt ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ TƯỞNG UẨN KHÔNG ÐANG DIỆT Ở CÕI NÀO THÌ THỌ UẨN KHÔNG ÐANG SANH Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[230] Sắc uẩn không đang sanh cho người nào ở cõi nào thì thọ uẩn không đang diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang tử biệt cõi tứ uẩn cõi ngũ uẩn, sắc uẩn không đang sanh cho người ấy ở cõi ấy nhưng thọ uẩn chẳng phải không đang diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang sanh cõi vô sắc, người đang tử biêt cõi vô tưởng, thì sắc uẩn không đang sanh và thọ uẩn cũng không đang diệt cho người ấy ở cõi ấy”.
– HAY LÀ THỌ UẨN KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ SẮC UẨN KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang sanh cõi ngũ uẩn; người đang sanh cõi vô tưởng, thọ uẩn không đang diệt cho người ấy ở cõi ấy nhưng sắc uẩn chẳng phải không đang sanh cho người ở cõi ấy; còn đối với người đang sanh cõi vô sắc và người đang tử biệt cõi vô tưởng, thì thọ uẩn không đang diệt và sắc uẩn cũng không đang sanh cho người ấy ở cõi ấy”.
[231] Thọ uẩn không đang sanh cho người nào ở cõi nào thì tưởng uẩn không đang diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang tử biệt cõi tứ uẩn cõi ngũ uẩn, thọ uẩn không đang sanh cho người ấy ở cõi ấy nhưng tưởng uẩn chẳng phải không đang diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người ở cõi vô tưởng thì thọ uẩn không đang sanh cũng và tưởng uẩn cũng không đang diệt cho người ấy ở cõi ấy”.
– HAY LÀ TƯỞNG UẨN KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ THỌ UẨN KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang sanh cõi tứ uẩn cõi ngũ uẩn, cõi tưởng uẩn không đang diệt cho người ấy ở cõi ấy nhưng thọ uẩn chẳng phải không đang sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người ở cõi vô tưởng, tưởng uẩn không đang diệt và thọ uẩn cũng không đang sanh cho người ấy ở cõi ấy”.
[232] Sắc uẩn từng sanh cho người nào thì thọ uẩn từng diệt cho ấy phải chăng?
” Phải rồi!”
HAY LÀ THỌ UẨN TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ SẮC UẨN TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
” Phải rồi!”
[233] Thọ uẩn từng sanh cho người nào thì tưởng uẩn từng diệt cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
[234] Sắc uẩn từng sanh ở cõi nào.. trùng…..
[235] Sắc uẩn từng sanh cho người nào ở cõi nào thì thọ uẩn từng diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người ở cõi vô tưởng, thì sắc uẩn từng sanh cho người ấy ở cõi ấy nhưng thọ uẩn chẳng phải từng diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người ở cõi ngũ uẩn thì sắc uẩn từng sanh và thọ uẩn cũng từng diệt cho người ấy ở cõi ấy”.
– HAY LÀ THỌ UẨN TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ SẮC UẨN TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người cõi vô sắc, thọ uẩn từng diệt cho người ấy ở cõi ấy nhưng sắc uẩn chẳng phải từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người cõi ngũ uẩn thì thọ uẩn từng diệt và sắc uẩn cũng từng sanh cho người ấy ở cõi ấy”.
[236] Thọ uẩn từng sanh cho người nào ở cõi nào thì tưởng uẩn từng diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ TƯỞNG UẨN TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ THỌ UẨN TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[237] Sắc uẩn không từng sanh cho người nào thì thọ uẩn không từng diệt cho người ấy phải chăng?
“Không có!”
– HAY LÀ THỌ UẨN KHÔNG TỪNG DIỆT CHO NGƯƠÌ NÀO THÌ SẮC UẨN KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Không có!”
[238] Thọ uẩn không từng sanh cho người nào thì tưởng uẩn không từng diệt cho người ấy phải chăng?
“Không có!”
– HAY LÀ TƯỞNG UẨN KHÔNG TỪNG DIỆT CHO NGƯƠÌ NÀO THÌ THỌ UẨN KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Không có!”
[239] Sắc uẩn không từng sanh ở cõi nào … trùng …
[240] Sắc uẩn không từng sanh cho người nào ở cõi nào thì thọ uẩn không từng diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người ở cõi vô sắc, sắc uẩn không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy nhưng thọ uẩn chẳng phải không từng diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người ở cõi tịnh cư, sắc uẩn không từng sanh và thọ uẩn cũng không từng diệt cho người ấy ở cõi ấy”.
– HAY LÀ THỌ UẨN KHÔNG TỪNG DIỆT CHO NGƯƠÌ NÀO Ở CÕI NÀO THÌ SẮC UẨN KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người cõi vô tưởng, thọ uẩn không từng diệt cho người ấy ở cõi ấy nhưng sắc uẩn chẳng phải không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người cõi tịnh cư thì thọ uẩn không từng diệt và sắc uẩn cũng không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy”
[241] Thọ uẩn không từng sanh cho người nào ở cõi nào thì tưởng uẩn không từng diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ TƯỞNG UẨN KHÔNG TỪNG DIỆT CHO NGƯƠÌ NÀO Ở CÕI NÀO THÌ THỌ UẨN KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi”
[242] Sắc uẩn sẽ sanh cho người nào thì thọ uẩn sẽ diệt cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ THỌ UẨN SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ SẮC UẨN SẼ SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
” Ðối với người kiếp chót đang sanh, và người mà sẽ sanh lên cõi vô sắc rồi níp bàn, thì thọ uẩn sẽ diệt cho người ấy nhưng sắc uẩn chẳng phải sẽ sanh cho người ấy; còn đối với các hạng khác thì thọ uẩn sẽ diệt và sắc uẩn cũng sẽ sanh cho người ấy”
[243] Thọ uẩn sẽ sanh cho người nào thì tưởng uẩn sẽ diệt cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ TƯỞNGÏ UẨN SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ THỌ UẨN SẼ SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với kiếp chót đang sanh, tưởng uẩn sẽ diệt cho người ấy nhưng thọ uẩn chẳng phải sẽ sanh cho người ấy; còn đối với các hạng khác thì tưởng uẩn sẽ diệt và thọ uẩn cũng sẽ sanh cho người ấy”.
[244] Sắc uẩn sẽ sanh ở cõi nào…. trùng….
[245] Sắc uẩn sẽ sanh cho người nào ở cõi nào thì thọ uẩn sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người ở cõi vô tưởng, sắc uẩn sẽ sanh cho ngưòi ấy ở cõi ấy nhưng thọ uẩn chẳng phải sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người nào ở cõi ngũ uẩn, sắc uẩn sẽ sanh và thọ uẩn cũng sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy”.
– HAY LÀ THỌ UẨN SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ SẮC UẨN SẼ SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
” Ðối với người kiếp chót đang sanh cõi ngũ uẩn, người ở cõi vô sắc, thọ uẩn sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy nhưng sắc uẩn chẳng phải sẽ sanh cho người ấy; còn đối với người khác ở cõi ngũ uẩn thì thọ uẩn sẽ diệt và sắc uẩn cũng sẽ sanh cho người ấy ở cõi ấy”.
[246] Thọ uẩn sẽ sanh cho người nào ở cõi nào thì tưởng uẩn sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ TƯỞNG UẨN SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ THỌ UẨN SẼ SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
” Ðối với người kiếp chót đang sanh, tưởng uẩn sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy nhưng thọ uẩn chẳng phải sẽ sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với các hạng khác ở cõi tứ uẩn cõi ngủ uẩn thì tưởng uẩn sẽ diệt và thọ uẩn cũng sẽ sanh cho người ấy ở cõi ấy”.
[247] Sắc uẩn sẽ không sanh cho người nào thì thọ uẩn sẽ không diệt cho người ấy phải chăng?
” Ðối với người kiếp chót đang sanh, và người mà sẽ sanh lên cõi vô sắc rồi viên tịch, sắc uẩn sẽ không sanh cho người ấy nhưng thọ uẩn chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy; còn đối với ngưòi đang viên tịch thì sắc uẩn sẽ không sanh và thọ uẩn cũng sẽ không diệt cho người ấy.”
– HAY LÀ THỌ UẨN SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ SẮC UẨN SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[248] Thọ uẩn sẽ không sanh cho người nào thì tưởng uẩn sẽ không diệt cho người ấy phải chăng?
” Ðối với người kiếp chót đang sanh, thọ uẩn sẽ không sanh cho người ấy nhưng tưởng uẩn chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy; còn đối với người đang viên tịch thì thọ uẩn sẽ không sanh và tưởng uẩn cũng sẽ không diệt cho người ấy”.
– HAY LÀ TƯỞNG UẨN SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ THỌ UẨN SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[249] Sắc uẩn sẽ không sanh cho người nào … trùng …
[250] Sắc uẩn sẽ không sanh cho người nào ở cõi nào thì thọ uẩn sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người kiếp chót đang sanh cõi ngũ uẩn, và người ở cõi vô sắc, sắc uẩn sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy nhưng thọ uẩn chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch thì sắc uẩn sẽ không sanh và thọ uẩn cũng sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy”.
– HAY LÀ THỌ UẨN SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ SẮC UẨN SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người ở cõi vô tưởng, thọ uẩn sẽ không diệt cho ngưòi ấy ở cõi ấy nhưng sắc uẩn chẳng phải sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch thì thọ uẩn sẽ không diệt và sắc uẩn cũng sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy.”
[251] Thọ uẩn sẽ không sanh cho người nào ở cõi nào thì tưởng uẩn sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người kiếp chót đang sanh thọ uẩn sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy nhưng tưởng uẩn chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch, người ở cõi vô tưởng, thì thọ uẩn sẽ không sanh và tưởng uẩn cũng sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy”.
HAY LÀ TƯỞNG UẨN SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ THỌ UẨN SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[252] Sắc uẩn đang sanh cho người nào thì thọ uẩn từng diệt cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ THỌ UẨN TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ SẮC UẨN ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Tất cả người đang tử biệt, người đang sanh cõi vô sắc, thọ uẩn từng diệt cho những người ấy nhưng sắc uẩn chẳng phải đang sanh cho những người ấy; Ðối với người đang sanh cõi ngũ uẩn, người đang sanh cõi vô tưởng, thọ uẩn từng diệt và sắc uẩn cũng đang sanh cho những người ấy … trùng …”
(Trong phần SANH cách hiện tại quá khứ đã được phân tích như thế nào thì ở phần này cũng cần được phân tích như thế ấy).
[253] Sắc uẩn đang sanh cho người nào thì thọ uẩn sẽ diệt cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ THỌ UẨN SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ SẮC UẨN ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Tất cả người đang tử biệt, người đang sanh cõi vô sắc, thọ uẩn sẽ diệt cho người ấy nhưng sắc uẩn chẳng phải đang sanh cho người ấy; còn đối với người đang sanh cõi ngũ uẩn, người đang sanh cõi vô tưởng, thọ uẩn sẽ diệt và sắc uẩn cũng đang sanh cho những người ấy”.
[254] Thọ uẩn đang sanh cho người nào thì tưởng uẩn sẽ diệt cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ TƯỞNG UẨN SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ THỌ UẨN ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Tất cả người đang tử biệt, người đang sanh cõi vô tưởng, tưởng uẩn sẽ diệt cho người ấy nhưng thọ uẩn chẳng phải đang sanh cho người ấy; đối với người đang sanh cõi tứ uẩn cõi ngũ uẩn thì tưởng uẩn sẽ diệt và thọ uẩn cũng đang sanh cho người ấy”.
[255] Sắc uẩn đang sanh ở cõi nào…. trùng….
[246] Sắc uẩn đang sanh cho người nào ở cõi nào thì thọ uẩn sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang sanh cõi vô tưởng, sắc uẩn đang sanh cho ngưòi ấy ở cõi ấy nhưng thọ uẩn chẳng phải sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy; đối với người đang sanh cõi ngũ uẩn, sắc uẩn đang sanh và thọ uẩn cũng sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy”.
– HAY LÀ THỌ UẨN SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ SẮC UẨN ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
” Ðối với người đang tử biệt cõi ngũ uẩn, người đang sanh cõi cô sắc, thọ uẩn sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy nhưng sắc uẩn chẳng phải đang sanh cho người ấy ở cõi ấy; Ðối với người đang sanh cõi ngũ uẩn thì thọ uẩn sẽ diệt và sắc uẩn cũng đang sanh cho người ấy ở cõi ấy”.
[257] Thọ uẩn đang sanh cho người nào ở cõi nào thì tưởng uẩn sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ TƯỞNG UẨN SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ THỌ UẨN ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
” Ðối với người đang tử biệt cõi tứ uẩn cõi ngũ uẩn thì tưởng uẩn sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy nhưng thọ uẩn chẳng phải đang sanh cho người ấy ở cõi ấy; Ðối với người đang sanh cõi tứ uẩn cõi ngủ uẩn thì tưởng uẩn sẽ diệt và thọ uẩn cũng đang sanh cho người ấy ở cõi ấy”.
[258] Sắc uẩn không đang sanh cho người nào thì thọ uẩn sẽ không diệt cho người ấy phải chăng?
“Tất cả người đang tử biệt, người đang sanh cõi vô sắc, sắc uẩn không đang sanh cho người ấy nhưng thọ uẩn chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy; còn đối với người đang viên tịch, sắc uẩn không đang sanh và thọ uẩn cũng sẽ không diệt cho người ấy”.
– HAY LÀ THỌ UẨN SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ SẮC UẨN KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[259] Thọ uẩn không đang sanh cho người nào thì tưởng uẩn sẽ không diệt cho người ấy phải chăng?
“Ðối với tất cả người đang tử biệt, người đang sanh cõi vô tưởng, thọ uẩn không đang sanh cho người ấy, nhưng tưởng uẩn chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy; Ðối với người đang viên tịch, thọ uẩn không đang sanh và tưởng uẩn sẽ không diệt cho người ấy”.
– HAY LÀ TƯỞNG UẨN SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ THỌ UẨN KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[260] Sắc uẩn không đang sanh ở cõi nào… trùng….
[261] Sắc uẩn không đang sanh cho người nào ở cõi nào thì thọ uẩn sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang tử biệt cõi ngũ uẩn, ngưòi ở cõi vô sắc, sắc uẩn không đang sanh cho người ấy ở cõi ấy nhưng thọ uẩn chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy; Ðối với người đang viên tịch, người đang tử biệt cõi vô tưởng, sắc uẩn không đang sanh và thọ uẩn cũng sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy”.
– HAY LÀ THỌ UẨN SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ SẮC UẨN KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang sanh cõi vô tưởng, thọ uẩn sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy nhưng sắc uẩn chẳng phải không đang sanh cho người ấy ở cõi ấy; Ðối với người đang viên tịch, người đang tử biệt cõi vô tưởng, sắc uẩn không đang sanh thọ uẩn sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy và sắc uẩn cũng không đang sanh”.
[262] Thọ uẩn không đang sanh cho người nào ở cõi nào thì tưởng uẩn sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang tử biệt cõi tứ uẩn cõi ngũ uẩn, thọ uẩn không đang sanh cho người ấy ở cõi ấy nhưng tưởng uẩn chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy. Ðối với người đang viên tịch, người ở cõi vô tưởng, thọ uẩn không đang sanh và tưởng uẩn cũng sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy”.
HAY LÀ TƯỞNG UẨN SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ THỌ UẨN KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[262] Thọ uẩn không đang sanh cho người nào ở cõi nào thì tưởng uẩn sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang tử biệt cõi tứ uẩn cõi ngũ uẩn, thọ uẩn không đang sanh cho người ấy ở cõi ấy nhưng tưởng uẩn chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy. Ðối với người đang viên tịch, người ở cõi vô tưởng, thọ uẩn không đang sanh và tưởng uẩn cũng sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy”.
– HAY LÀ TƯỞNG UẨN SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ THỌ UẨN KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[263] Sắc uẩn từng đang sanh cho người nào thì thọ uẩn sẽ diệt cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người đang viên tịch, sắc uẩn từng sanh cho người ấy nhưng thọ uẩn chẳng phải sẽ diệt cho người ấy. Ðối với các hạng khác thì sắc uẩn từng sanh và thọ uẩn cũng sẽ diệt cho người ấy”.
– HAY LÀ THỌ UẨN SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ SẮC UẨN TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[264] Thọ uẩn từng sanh cho người nào thì tưởng uẩn sẽ diệt cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người đang viên tịch, thọ uẩn từng sanh cho người ấy nhưng tưởng uẩn chẳng phải sẽ diệt cho người ấy; Ðối với các hạng khác thì thọ uẩn từng sanh và tưởng uẩn cũng sẽ diệt cho người ấy”.
– HAY LÀ TƯỞNG UẨN SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ THỌ UẨN TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[265] Sắc uẩn từng sanh ở cõi nào… trùng….
[266] Sắc uẩn từng sanh cho người nào ở cõi nào thì thọ uẩn sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang viên tịch cõi ngũ uẩn, ngưòi ở cõi vô tưởng, sắc uẩn từng sanh cho người ấy ở cõi ấy nhưng thọ uẩn chẳng phải sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với các hạng khác ở cõi ngũ uẩn thì sắc uẩn từng sanh và thọ uẩn cũng sẽ diệt”.
– HAY LÀ THỌ UẨN SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ SẮC UẨN TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Người đang sanh cõi tịnh cư, người ở cõi vô sắc, thọ uẩn sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy nhưng sắc uẩn chẳng phải từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với các hạng khác ở cõi ngũ uẩn thì thọ uẩn sẽ diệt và sắc uẩn cũng từng sanh cho người ấy ở cõi ấy”.
[267] Thọ uẩn từng sanh cho người nào ở cõi nào thì tưởng uẩn sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang viên tịch, thọ uẩn từng sanh cho người ấy ở cõi ấy nhưng tưởng uẩn chẳng phải sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy; Ðối với các hạng khác ở cõi tứ uẩn cõi ngũ uẩn thì thọ uẩn từng sanh và tưởng uẩn cũng sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy”.
– HAY LÀ TƯỞNG UẨN SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ THỌ UẨN TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang sanh cõi tịnh cư, tưởng uẩn sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy nhưng thọ uẩn chẳng phải từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; đối với các hạng khác ở cõi tứ uẩn cõi ngũ uẩn thì tưởng uẩn sẽ diệt và thọ uẩn cũng từng sanh cho người ấy ở cõi ấy”.
[268] Sắc uẩn không từng sanh cho người nào thì thọ uẩn sẽ không diệt cho người ấy phải chăng?
“Không có!”
– HAY LÀ THỌ UẨN SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ SẮC UẨN KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Từng sanh!”
[269] Thọ uẩn không từng sanh cho người nào thì tưởng uẩn sẽ không diệt cho người ấy phải chăng?
“Không có!”
– HAY LÀ TƯỞNG UẨN SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ THỌ UẨN KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Từng sanh!”
[270] Sắc uẩn không từng sanh ở cõi nào…. trùng….
[271] Sắc uẩn không từng sanh cho người nào ở cõi nào thì thọ uẩn sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang sanh cõi tịnh cư, ngưòi ở cõi vô sắc, sắc uẩn không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy nhưng thọ uẩn chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy còn đối với người đang viên tịch cõi tịnh cư, người đang viên tịch cõi vô sắc, sắc uẩn không sanh và thọ uẩn sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy”.
– HAY LÀ THỌ UẨN SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ SẮC UẨN KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang viên tịch ở cõi ngũ uẩn, người ở cõi vô tưởng, thọ uẩn sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy nhưng sắc uẩn chẳng phải không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; đối với người đang viên tịch cõi tịnh cư, người đang viên tịch cõi vô sắc thọ uẩn sẽ không diệt và sắc uẩn cũng không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy”.
[272] Thọ uẩn không từng sanh cho người nào ở cõi nào thì tưởng uẩn sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang sanh cõi tịnh cư, thọ uẩn không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy nhưng tưởng uẩn chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy; đối với người đang viên tịch cõi tịnh cư, người ở cõi vô tưởng thọ uẩn không từng sanh và tưởng uẩn sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy”.
– HAY LÀ TƯỞNG UẨN SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ THỌ UẨN KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang viên tịch, tưởng uẩn sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy nhưng thọ uẩn chẳng phải không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; Ðối với người đang viên tịch cõi tịnh cư, người ở cõi vô tưởng, tưởng uẩn sẽ không diệt và thọ uẩn cũng không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy”.
DỨT PHẦN SANH-DIỆT (Uppādaniradhavāraṃ niṭṭhitaṃ)
KẾT THÚC PHẦN CHUYỂN BIẾN (Pavattivāro nitthito)
5- PHẦN BIẾN TRI (PARIÑÑĀVĀRO)
[273] Người nào đang biến tri(1) sắc uẩn, người ấy cũng đang biến tri thọ uẩn phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ NGƯỜI NÀO ÐANG BIẾN TRI THỌ UẨN, NGƯỜI ẤY CŨNG ÐANG BIẾN TRI SẮC UẨN PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
– NGƯỜI NÀO KHÔNG ÐANG BIẾN TRI SẮC UẨN, NGƯỜI ẤY CŨNG KHÔNG ÐANG BIẾN TRI THỌ UẨN PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ NGƯỜI NÀO KHÔNG ÐANG BIẾN TRI THỌ UẨN, NGƯỜI ẤY CŨNG KHÔNG ÐANG BIẾN TRI SẮC UẨN PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[274] Người nào đang biến tri sắc uẩn, người ấy cũng đã biến tri thọ uẩn phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ NGƯỜI NÀO ÐÃ BIẾN TRI THỌ UẨN, NGƯỜI ẤY CŨNG ÐÃ BIẾN TRI SẮC UẨN PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
– NGƯỜI NÀO KHÔNG TỪNG BIẾN TRI SẮC UẨN, THÌ NGƯỜI ẤY KHÔNG TỪNG BIẾN TRI THỌ UẨN PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ NGƯỜI NÀO KHÔNG TỪNG BIẾN TRI THỌ UẨN THÌ NGƯỜI ẤY CŨNG KHÔNG TỪNG BIẾN TRI SẮC UẨN PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[275] Người nào sẽ biến tri sắc uẩn thì người ấy sẽ biến tri thọ uẩn phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ NGƯỜI NÀO SẼ BIẾN TRI THỌ UẨN THÌ NGƯỜI ẤY SẼ BIẾN TRI SẮC UẨN PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
– NGƯỜI NÀO SẼ KHÔNG BIẾN TRI SẮC UẨN THÌ NGƯỜI ẤY SẼ KHÔNG BIẾN TRI THỌ UẨN PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ NGƯỜI NÀO SẼ KHÔNG BIẾN TRI THỌ UẨN THÌ NGƯỜI ẤY SẼ KHÔNG BIẾN TRI SẮC UẨN PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[276] Người nào đang biến tri sắc uẩn thì người ấy đã biến tri thọ uẩn phải chăng?
“Không phải!”
– HAY LÀ NGƯỜI NÀO ÐÃ BIẾN TRI THỌ UẨN THÌ NGƯỜI ẤY ÐANG BIẾN TRI SẮC UẨN PHẢI CHĂNG?
“Không phải!”
– NGƯỜI NÀO KHÔNG ÐANG BIẾN TRI SẮC UẨN THÌ NGƯỜI ẤY KHÔNG TỪNG BIẾN TRI THỌ UẨN PHẢI CHĂNG?
“Vị A La Hán không đang biến tri sắc uẩn nhưng chẳng phải chưa biến tri thọ uẩn; ngoại trừ bậc chí thượng đạo(1) và vị A La Hán các hạng người còn lại thì không đang biến tri sắc uẩn và cũng chư biến tri thọ uẩn”.
– HAY LÀ NGƯỜI NÀO KHÔNG TỪNG BIẾN TRI THỌ UẨN THÌ NGƯỜI ẤY KHÔNG ÐANG BIẾN TRI SẮC UẨN PHẢI CHĂNG?
“Bậc chí thượng đạo không từng biến tri thọ uẩn nhưng chẳng phải không đang biến tri sắc uẩn; Ngoại trừ bậc chí thượng đạo và vị A La Hán các hạng người còn lại thì không từng biến tri thọ uẩn và cũng không đang biến tri sắc uẩn”.
[277] Người nào đang biến tri sắc uẩn, thì người ấy sẽ biến tri thọ uẩn phải chăng?
“Không phải!”
– HAY LÀ NGƯỜI NÀO SẼ BIẾN TRI THỌ UẨN THÌ NGƯỜI ẤY ÐANG BIẾN TRI SẮC UẨN PHẢI CHĂNG?
“Không phải!”
– NGƯỜI NÀO KHÔNG ÐANG BIẾN TRI SẮC UẨN THÌ NGƯỜI ẤY SẼ KHÔNG BIẾN TRI THỌ UẨN PHẢI CHĂNG?
“Những người mà sẽ đắc đạo, người ấy không đang biến tri sắc uẩn nhưng chẳng phải sẽ không biến tri thọ uẩn, Còn bậc A La Hán và hạng phàm phu mà sẽ không đắc đạo, thì các hạng ấy không đang biến tri sắc uẩn và cũng sẽ không biến tri thọ uẩn”.
– HAY LÀ NGƯỜI NÀO SẼ KHÔNG BIẾN TRI THỌ UẨN THÌ NGƯỜI ẤY KHÔNG ÐANG BIẾN TRI SẮC UẨN PHẢI CHĂNG?
“Bậc chí thượng đạo sẽ không biến tri thọ uẩn, nhưng chẳng phải không từng biến tri sắc uẩn; Còn bậc A La Hán và hạng phàm phu mà sẽ không đắc đạo, thì các hạng ấy sẽ không biến tri thọ uẩn và cũng không đang biến tri sắc uẩn”.
[278] Người nào đã từng biến tri sắc uẩn, thì người ấy sẽ biến tri thọ uẩn phải chăng?
“Không phải!”
– HAY LÀ NGƯỜI NÀO SẼ BIẾN TRI THỌ UẨN THÌ NGƯỜI ẤY ÐÃ TỪNG BIẾN TRI SẮC UẨN PHẢI CHĂNG?
“Không phải!”
– NGƯỜI NÀO KHÔNG TỪNG BIẾN TRI SẮC UẨN THÌ NGƯỜI ẤY SẼ KHÔNG BIẾN TRI THỌ UẨN PHẢI CHĂNG?
“Người mà sẽ đắc đạo, người ấy không từng biến tri sắc uẩn nhưng chẳng phải sẽ không biến tri thọ uẩn bậc chí thượng đạo và hạng phàm phu mà sẽ không đắc đạo các hạng ấy không từng biến tri sắc uẩn và cũng sẽ không biến tri thọ uẩn”.
– HAY LÀ NGƯỜI NÀO SẼ KHÔNG BIẾN TRI THỌ UẨN THÌ NGƯỜI ẤY KHÔNG TỪNG BIẾN TRI SẮC UẨN PHẢI CHĂNG?
“Bậc A La Hán sẽ không biến tri thọ uẩn nhưng chẳng phải không từng biến tri sắc uẩn; Bậc chí thượng đạo và hạng phàm phu mà sẽ không đắc đạo, các hạng ấy sẽ không biến tri thọ uẩn và cũng không từng biến tri sắc uẩn”.
DỨT PHẦN BIẾN TRI
KẾT THÚC UẨN SONG.
-ooOoo-
(1) Ðang sanh (uppajjāti) dùng thì hiện tại ở đây chỉ ngay thời điểm đang tục sinh, khởi đầu kiếp sống mới.
(1) Ðã từng sanh (uppajjittha = uppajji ) thì quá khứ ở đây chỉ cho các thời điểm tục sinh đã qua của các kiếp sống trước.
(1) Người kiếp chót (pacchimabhavika) là chúng sanh chỉ còn sống một kiếp sống này là cuối cùng, để rồi viên tịch Níp-Bàn.
(1) Pariyānāti, thấu triệt, giác ngộ toàn diện, ở đây Trí trong tâm đạo (maggacitta) gọi là đang biến tri ngũ uẩn. Trí trong tâm quả (phalacitta) gọi là đã biến tri ngũ uẩn
(1) Bậc chí thượng đạo (aggamaggasamaṅgī).
III. XỨ SONG (ĀYATANAYAMAKA)
1- PHẦN ÐỊNH DANH (PAÑÑATTIVĀRO)
[279] Mười hai xứ; nhãn xứ, nhĩ xứ, tỷ xứ, thiệt xứ, thân xứ, sắc xứ, thinh xứ, khí xứ, vị xứ, xúc xứ, ý xứ, pháp xứ.
2- PHẦN XIỂN THUẬT (UDDESAVĀRO)
[280] Nhãn là nhãn xứ? Nhãn xứ là nhãn?
Nhĩ là nhĩ xứ? Nhĩ xứ là nhĩ?
Tỷ là tỷ xứ? Tỷ xứ là tỷ?
Thiệt là thiệt xứ? Thiệt xứ là thiệt?
Thân là thân xứ? Thân xứ là thân?
Sắc là sắc xứ? Sắc xứ là sắc?
Thinh là thinh xứ? Thinh xứ là thinh?
Khí là khí xứ? Khí xứ là khí?
Vị là vị xứ? Vị xứ là vị?
Xúc là xúc xứ? Xúc xứ là xúc?
Ý là ý xứ? Ý xứ là ý?
Pháp là pháp xứ? Pháp xứ là pháp?
[281] Phi nhãn là phi nhãn xứ? Phi nhãn xứ là phi nhãn ?
Phi nhĩ là phi nhĩ xứ? Phi nhĩ xứ là phi nhĩ?
Phi tỷ là phi tỷ xứ? Phi tỷ xứ là phi tỷ?
Phi thiệt là phi thiệt xứ? Phi thiệt xứ là phi thiệt?
Phi thân là phi thân xứ? Phi thân xứ là phi thân?
Phi sắc là phi sắc xứ? Phi sắc xứ là phi sắc?
Phi thinh là phi thinh xứ? Phi thinh xứ là phi thinh?
Phi khí là phi khí xứ? Phi khí xứ là phi khí?
Phi vị là phi vị xứ? Phi vị xứ là phi vị?
Phi xúc là phi xúc xứ? Phi xúc xứ là phi xúc?
Phi ý là phi ý xứ? Phi ý xứ là phi ý?
Phi pháp là phi pháp xứ? Phi pháp xứ là phi pháp?
[282] Nhãn là nhãn xứ? Xứ là nhĩ xứ?
Nhãn là nhãn xứ? Xứ là tỷ xứ?
Nhãn là nhãn xứ? Xứ là thiệt xứ?
… trùng … xứ là pháp xứ?
Nhĩ là nhĩ xứ? Xứ là nhãn xứ?
Nhĩ là nhĩ xứ? Xứ là tỷ xứ?
… trùng … xứ là pháp xứ?
Tỷ là tỷ xứ? … trùng … xứ là pháp xứ … trùng …
Pháp là pháp xứ? Xứ là nhãn xứ?
Pháp là pháp xứ? Xứ là nhãn xứ?
Pháp là pháp xứ? Xứ là nhĩ xứ?
… trùng … xứ là ý xứ?
(nên kết câu xoay vòng ).
[283] Phi nhãn là phi nhãn xứ? Phi xứ là phi nhĩ xứ?
Phi nhãn là phi nhãn xứ? Phi xứ là phi tỷ xứ?
Phi nhãn là phi nhãn xứ? Phi xứ là phi thiệt xứ?
… trùng … phi xứ là phi pháp xứ?
Phi nhĩ là phi nhĩ xứ? Phi xứ là phi nhãn xứ?
Phi nhĩ là phi nhĩ xứ? Phi xứ là phi tỷ xứ?
… trùng … phi xứ là phi pháp xứ?
Phi tỷ là phi tỷ xứ … trùng … phi xứ là phi pháp xứ?… trùng …
Phi pháp là phi pháp xứ? Phi xứ là phi nhãn xứ?
Phi pháp là phi pháp xứ? Phi xứ là phi nhĩ xứ?
… trùng … phi xứ là phi ý xứ?
(Nên kết cấu xoay vòng)
[284] Nhãn là nhãn xứ? Xứ là nhãn?
Nhĩ là nhĩ xứ? Xứ là nhĩ?
Tỷ là xứ? Xứ là tỷ?
Thiệt là xứ? Xứ là thiệt?
Thân là xứ? Xứ là thân?
Sắc là xứ? Xứ là sắc?
Thinh là xứ? Xứ là Thinh?
Khí là xứ? Xứ là khí?
Vị là xứ? Xứ là vị?
Xúc là xứ? Xứ là xúc?
Ý là xứ? Xứ là ý?
Pháp là xứ? Xứ là pháp?
[285] Phi nhãn là phi xứ? Phi xứ là phi nhãn?
Phi nhĩ là phi xứ? Phi xứ là phi nhĩ?
Phi tỷ là phi xứ? Phi xứ là phi tỷ?
Phi thiệt là phi xứ? Phi xứ là phi thiệt?
Phi thân là phi xứ? Phi xứ là phi thân?
Phi sắc là phi xứ? Phi xứ là phi sắc?
Phi thinh là phi xứ? Phi xứ là phi thinh?
Phi khí là phi xứ? Phi xứ là phi khí?
Phi vị là phi xứ? Phi xứ là phi vị?
Phi xúc là phi xứ? Phi xứ là phi xúc?
Phi ý là phi xứ? Phi xứ là phi ý?
Phi pháp là phi xứ? Phi xứ là phi pháp?
[286] Nhãn là xứ? Xứ là nhĩ … trùng … Nhãn là xứ? Xứ là pháp?
Nhĩ là xứ? Xứ là nhãn … trùng … nhĩ là xứ? Xứ là pháp?
Tỷ là xứ? Xứ là nhãn … trùng … Tỷ là xứ? Xứ là pháp?
Pháp là xứ? Xứ là nhãn ? Pháp là xứ? Xứ là nhĩ? … trùng … xứ là ý? (nên kết cấu xoay vòng )
[287] Phi nhãn là phi xứ? Phi xứ là phi nhĩ?… trùng … phi nhãn là phi xứ? phi xứ là phi pháp?
Phi nhĩ là phi xứ? Phi xứ là phi nhãn ?… trùng … phi xứ là phi pháp?
Phi tỷ là phi xứ? Phi xứ là phi nhãn ?… trùng … phi xứ là phi pháp?
Phi pháp là phi xứ? Phi xứ là phi nhãn ? Phi pháp là phi xứ? Phi xứ là phi nhĩ? … trùng … phi xứ là phi ý? (Nên kết cấu xoay vòng)
DỨT PHẦN XIỂN THUẬT
3- PHẦN XIỂN MINH (NIDDESAVĀRO)
PHẦN ÐỊNH DANH (PAÑÑATTIVĀRA)
[288] Nhãn là nhãn xứ?
“Thiên nhãn, tuệ nhãn là nhãn nhưng không phải là nhãn xứ; chỉ có nhãn xứ là nhãn cũng là nhãn xứ”
– NHÃN XỨ LÀ NHÃN ?
“Phải rồi!”
– NHĨ LÀ NHĨ XỨ?
“Thiên nhĩ, ái nhĩ(1) là nhĩ nhưng không là nhĩ xứ; chỉ có nhĩ xứ là nhĩ cũng là nhĩ xứ”
– NHĨ XỨ LÀ NHĨ?
“Phải rồi!”
TỶ LÀ TỶ XỨ?
“Phải rồi!”
– TỶ XỨ LÀ TỶ?
“Phải rồi!”
– THIỆT LÀ THIỆT XỨ?
“Phải rồi!”
– THIỆT XỨ LÀ THIỆT?
“Phải rồi!”
– THÂN LÀ THÂN XỨ?
“Ngoại trừ thân xứ, thân còn lại là thân nhưng không phải là thân xứ, chỉ có thân xứ là thân cũng là thân xứ”.
– THÂN XỨ LÀ THÂN?
“Phải rồi!”
– SẮC LÀ SẮC XỨ?
“Ngoại trừ sắc xứ, sắc còn lại là sắc nhưng không phải là sắc xứ; sắc xứ là sắc và cũng là sắc xứ?
– SẮC XỨ LÀ SẮC?
“Phải rồi!”
– THINH LÀ THINH XỨ?
“Phải rồi!”
– THINH XỨ LÀ THINH?
“Phải rồi!”
– KHÍ LÀ KHÍ XỨ?
“Giới khí (Sīlagandho), định khí (Samādhigandho), tuệ khí (Paññāgandho)(1) là khí nhưng không phải là khí xứ, chỉ có khí xứ là khí cũng là khí xứ.”
KHÍ XỨ LÀ KHÍ?
“Phải rồi!”
– VỊ LÀ VỊ XỨ?
“Nghĩa vị (Attharasa), pháp vị (Dhammarasa), giải thoát vị (Vimuttirasa) là vị nhưng không phải là vị xứ, chỉ có vị xứ là vị và cũng là vị xứ”
– VỊ XỨ LÀ VỊ?
“Phải rồi!”
– XÚC LÀ XÚC XỨ?
“Phải rồi!”
– XÚC XỨ LÀ XÚC?
“Phải rồi!”
– Ý LÀ Ý XỨ?
“Phải rồi!”
– Ý XỨ LÀ Ý?
“Phải rồi!”
– PHÁP LÀ PHÁP XỨ?
“Ngoại trừ pháp xứ, pháp còn lại là pháp mà không phải là pháp xứ, chỉ có pháp xứ là pháp cũng là pháp xứ”.
– PHÁP XỨ LÀ PHÁP?
“Phải rồi!”
[289] Phi nhãn là phi nhãn xứ?
“Phải rồi!”
– PHI NHÃN XỨ LÀ PHI NHÃN?
“Thiên nhãn, tuệ nhãn là phi nhãn xứ mà là nhãn, ngoại trừ nhãn và nhãn xứ các pháp còn lại là phi nhãn và cũng phi nhãn xứ”.
– PHI NHĨ LÀ PHI NHĨ XỨ?
“Phải rồi!”
– PHI NHĨ XỨ LÀ PHI NHĨ?
“Thiên nhĩ, ái nhĩ (Tanhāsotam) là phi nhĩ xứ mà là nhĩ (Sotam), ngoại trừ nhĩ và nhĩ xứ, các pháp còn lại là phi nhĩ và cũng phi nhĩ xứ “.
– PHI TỶ LÀ PHI TỶ XỨ?
“Phải rồi!”
– PHI TỶ XỨ LÀ PHI TỶ?
“Phải rồi!”
– PHI THIỆT LÀ PHI THIỆT XỨ?
“Phải rồi!”
– PHI THIỆT XỨ LÀ PHI THIỆT?
“Phải rồi!”
– PHI THÂN LÀ PHI THÂN XỨ?
“Phải rồi!”
– PHI THÂN XỨ LÀ PHI THÂN?
“Ngoại trừ thân xứ thân còn lại là phi thân xứ mà gọi là thân; ngoại trừ thân và thân xứ, còn lại là phi thân và cũng là phi thân xứ “
– PHI SẮC LÀ PHI SẮC XỨ?
“Phải rồi!”
– PHI SẮC XỨ LÀ PHI SẮC?
“Ngoại trừ sắc xứ, sắc còn lại là phi sắc xứ mà gọi là sắc; ngoại trừ sắc và sắc xứ, pháp còn lại là phi sắc cũng là phi sắc xứ”.
– PHI THINH LÀ PHI THINH XỨ?
“Phải rồi!”
– PHI THINH XỨ LÀ PHI THINH?
“Phải rồi!”
– PHI KHÍ LÀ PHI KHÍ XỨ?
“Phải rồi!”
– PHI KHÍ XỨ LÀ PHI KHÍ XỨ?
“Giới khí (Sīlagandho), định khí (Samādhigandho) tuệ khí (Paññāgandho) không phải là khí xứ mà gọi là khí; ngoại trừ khí và khí xứ, pháp còn lại là phi khí và cũng là phi khí xứ.”
– PHI VỊ LÀ PHI VỊ XỨ?
“Phải rồi!”
– PHI VỊ XỨ LÀ PHI VỊ?
“Nghĩa vị (Attharasa) pháp vị (Dhammarasa), giải thoát vị (Vimuttirasa) không phải là vị xứ mà gọi là vị. Ngoại trừ vị và vị xứ, pháp còn lại là phi vị và cũng là phi vị xứ”
– PHI XÚC LÀ PHI XÚC XỨ?
“Phải rồi!”
– PHI XÚC XỨ LÀ PHI XÚC?
“Phải rồi!”
– PHI Ý LÀ PHI Ý XỨ?
“Phải rồi!”
– PHI Ý XỨ LÀ PHI Ý?
“Phải rồi!”
– PHI PHÁP LÀ PHI PHÁP XỨ?
“Phải rồi!”
– PHI PHÁP XỨ LÀ PHI PHÁP?
“Ngoại trừ pháp xứ, pháp còn lại là phi pháp xứ mà gọi là pháp; ngoại trừ pháp và pháp xứ, còn lại là phi pháp cũng là phi pháp xứ”.
[290] Nhãn là nhãn xứ?
“Thiên nhãn, tuệ nhãn là nhãn mà không phải là nhãn xứ; chỉ có nhãn xứ là nhãn và cũng là nhãn xứ”.
– XỨ LÀ NHĨ XỨ?
“Nhĩ xứ là xứ mà cũng là nhĩ xứ, các xứ còn lại là xứ nhưng không phải là nhĩ xứ”.
– NHÃN LÀ NHÃN XỨ?
“Thiên nhãn, tuệ nhãn là nhãn mà không phải là nhãn xứ; chỉ có nhãn xứ là nhãn và cũng là nhãn xứ”.
– XỨ LÀ TỶ XỨ? … trùng … XỨ LÀ PHÁP XỨ?
“Pháp là xứ mà cũng là pháp xứ, các xứ còn lại là xứ nhưng không phải là pháp xứ”.
– NHĨ … trùng …
– TỶ … trùng …
– PHÁP LÀ PHÁP XỨ?
“Ngoại trừ pháp xứ, pháp còn lại là pháp mà không phải là pháp xứ; pháp xứ pháp xứ là pháp và cũng là pháp xứ”.
– XỨ LÀ NHÃN XỨ?
“Nhãn xứ là xứ cũng vừa là nhãn xứ; các xứ còn lại là xứ mà không phải là nhãn xứ”.
– PHÁP LÀ PHÁP XỨ?
“Ngoại trừ pháp xứ, pháp còn lại là pháp mà không phải là pháp xứ; pháp xứ là pháp và cũng là pháp xứ”.
– XỨ LÀ NHĨ XỨ? … trùng … XỨ LÀ Ý XỨ?
“Ý xứ là xứ và cũng là ý xứ; các xứ còn lại là xứ mà không phải là ý xứ”
(Nên kết cấu xoay vòng mỗi mỗi câu gốc cho được rõ ràng)
[291] Phi nhãn là phi nhãn xứ?
“Phải rồi!”
– PHI XỨ LÀ PHI NHĨ XỨ?
“Phải rồi!”
– PHI NHÃN LÀ PHI NHÃN XỨ?
“Phải rồi!”
– PHI XỨ LÀ PHI TỶ XỨ?
“Phải rồi!”
… trùng … PHI XỨ LÀ PHI PHÁP XỨ?
“Phải rồi!”
– PHI NHĨ LÀ PHI NHĨ XỨ?
“Phải rồi!”
– PHI XỨ LÀ PHI NHÃN XỨ? … trùng …
– PHI XỨ LÀ PHI PHÁP XỨ?
“Phải rồi!”
– PHI TỶ LÀ PHI TỶ XỨ? … trùng …
– PHI PHÁP LÀ PHI PHÁP XỨ?
“Phải rồi!”
– PHI XỨ LÀ PHI NHÃN XỨ?
“Phải rồi!”
– PHI PHÁP LÀ PHI PHÁP XỨ?
“Phải rồi!”
– PHI XỨ LÀ PHI NHĨ XỨ? … trùng …
– PHI XỨ LÀ PHI Ý XỨ?
“Phải rồi!”
(Trong tất cả câu theo kết cấu xoay vòng đều cần lập luận là “phải rồi”).
[292] Nhãn là xứ?
“Phải rồi!”
– XỨ LÀ NHÃN XỨ?
“Nhãn xứ là xứ và cũng là nhãn xứ; các xứ còn lại là xứ mà không là nhãn xứ”.
– NHĨ LÀ XỨ?
“Phải rồi!”
… trùng … TỶ… THIỆT… THÂN… SẮC… THINH… HƯƠNG… VỊ… XÚC… Ý…
– PHÁP LÀ XỨ?
“Phải rồi!”
– XỨ LÀ PHÁP XỨ?
“Pháp xứ là xứ và cũng là pháp xứ; các xứ còn lại là xứ mà không là pháp xứ”.
[293] Phi nhãn là phi xứ?
“Ngoại trừ nhãn, các xứ còn lại là phi nhãn mà là xứ; ngoại trừ nhãn và xứ, còn lại là phi nhãn và cũng là phi xứ”.
– PHI XỨ LÀ PHI NHÃN XỨ?
“Phải rồi!”
– PHI NHĨ LÀ PHI XỨ?
“Ngoại trừ nhĩ… trùng… Ngoại trừ tỷ… trùng … Ngoại trừ thiệt… trùng… cũng là phi xứ”
– PHI THÂN LÀ PHI XỨ?
“Phải rồi!”
– PHI XỨ LÀ PHI THÂN XỨ?
“Phải rồi!”
– PHI SẮC LÀ PHI XỨ?
“Ngoại trừ sắc … trùng … Ngoại trừ thinh … ngoại trừ khí.
… Ngoại trừ vị … Ngoại trừ xúc … trùng … cũng là phi xứ”.
– PHI Ý LÀ PHI XỨ?
“Ngoại trừ ý các xứ còn lại là phi ý mà là xứ; ngoại trừ ý và xứ, còn lại là phi ý và cũng là phi xứ”.
– PHI XỨ LÀ PHI Ý XỨ?
“Phải rồi!”
– PHI PHÁP LÀ PHI XỨ?
“Phải rồi!”
– PHI XỨ LÀ PHI PHÁP XỨ?
“Phải rồi!”
[294] Nhãn là xứ?
“Phải rồi!”
– XỨ LÀ NHĨ XỨ?
“Nhĩ xứ là xứ và cũng là nhĩ xứ; các xứ còn lại là xứ mà phi nhĩ xứ”
-NHÃN LÀ XỨ?
“Phải rồi!”
– XỨ LÀ TỶ XỨ? … trùng … XỨ LÀ PHÁP XỨ?
“Pháp xứ là xứ và cũng là pháp xứ, các xứ còn lại là xứ mà phi pháp xứ”
– NHĨ LÀ XỨ?
“Phải rồi!”
– XỨ LÀ NHÃN XỨ?
… trùng … mà phi nhãn xứ”
… trùng … XỨ LÀ PHÁP XỨ?
… trùng … mà phi pháp xứ”
… TỶ … THIỆT … PHÁP LÀ XỨ?
“Phải rồi!”
– XỨ LÀ NHÃN XỨ? … trùng … XỨ LÀ Ý XỨ?
“Ý xứ là xứ và cũng là ý xứ, các xứ còn lại là xứ mà phi ý xứ”.
(Nên kết cấu xoay vòng)
[295] Phi nhãn là phi xứ?
“Ngoại trừ nhãn, các xứ còn lại là phi nhãn nhưng là xứ; Trừ ra nhãn và xứ, còn lại là phi nhãn và cũng là phi xứ”.
– PHI XỨ LÀ PHI NHĨ XỨ?
“Phải rồi!”
… trùng … PHI NHÃN LÀ PHI XỨ?
“Ngoại trừ nhãn, các xứ còn lại là phi nhãn nhưng là xứ; Trừ ra nhãn và xứ, còn lại là phi nhãn cũng là phi xứ”.
– PHI XỨ LÀ PHI TỶ XỨ? … trùng … PHI XỨ LÀ PHI PHÁP XỨ?
“Phải rồi!”
– PHI NHĨ LÀ PHI XỨ?
“Ngoại trừ nhĩ … trùng … ngoại trừ tỷ … ngoại trừ thiệt … trùng … cũng là phi xứ”.
– PHI THÂN LÀ PHI XỨ?
“Phải rồi!”
– PHI XỨ LÀ PHI NHÃN XỨ?
“Phải rồi!”
… trùng … PHI XỨ LÀ PHI PHÁP XỨ?
“Phải rồi!”
… trùng … PHI PHÁP LÀ PHI XỨ?
“Phải rồi!”
– PHI XỨ LÀ PHI NHÃN XỨ?
“Phải rồi!”
– PHI PHÁP LÀ PHI XỨ?
“Phải rồi!”
– PHI XỨ LÀ PHI NHĨ XỨ?
“Phải rồi!”
… trùng … PHI XỨ LÀ PHI Ý XỨ?
“Phải rồi!”
(Nên kết cấu xoay vòng).
DỨT PHẦN ÐỊNH DANH
4- PHẦN CHUYỂN BIẾN (PAVATTIVĀRO)
[296] Nhãn xứ đang sanh cho người nào thì nhĩ xứ đang sanh cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người hữu nhãn vô nhĩ(1), nhãn xứ đang sanh cho người ấy nhưng nhĩ xứ không đang sanh cho người ấy, còn đối với người hữu nhãn hữu nhĩ đang sanh thì nhãn xứ đang sanh và nhĩ xứ cũng đang sanh cho người ấy”.
– HAY LÀ NHĨ XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người hữu nhĩ vô nhãn đang sanh thì nhĩ xứ đang sanh cho người ấy nhưng nhãn xứ không đang sanh cho người ấy; còn đối với người hữu nhĩ hữu nhãn đang sanh thì nhĩ xứ đang sanh và nhãn xứ cũng đang sanh cho người ấy”.
[297] Nhãn xứ đang sanh cho người nào thì tỷ xứ đang sanh cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người hữu nhãn vô tỷ(2), đang sanh thì nhãn nhĩ xứ đang sanh cho người ấy mà tỷ xứ không đang sanh cho người ấy; còn đối với người hữu nhãn hữu tỷ đang sanh thì nhãn xứ đang sanh và tỷ xứ cũng đang sanh cho người ấy”.
– HAY LÀ TỶ XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người hữu tỷ vô nhãn đang sanh thì tỷ xứ đang sanh cho người ấy mà nhãn xứ không đang sanh cho người ấy; còn đối với người hữu tỷ hữu nhãn đang sanh thì tỷ xứ đang sanh và nhãn xứ cũng đang sanh cho người ấy”.
[298] Nhãn xứ đang sanh cho người nào thì sắc xứ đang sanh cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ SẮC XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người hữu sắc vô nhãn đang sanh thì sắc xứ đang sanh cho người ấy mà nhãn xứ không đang sanh cho người ấy; còn đối với người hữu nhãn đang sanh thì sắc xứ đang sanh và nhãn xứ cũng đang sanh cho người ấy”.
[299] Nhãn xứ đang sanh cho người nào thì ý xứ đang sanh cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ Ý XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người hữu tâm vô nhãn đang sanh thì ý xứ đang sanh cho người ấy mà nhãn xứ không đang sanh cho người ấy; còn đối với người hữu nhãn đang sanh thì ý xứ đang sanh và nhãn xứ cũng đang sanh cho người ấy”.
[300] Nhãn xứ đang sanh cho người nào thì pháp xứ đang sanh cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người vô nhãn đang sanh thì pháp xứ đang sanh cho người ấy mà nhãn xứ không đang sanh cho người ấy; còn đối với người hữu nhãn đang sanh thì pháp xứ đang sanh và nhãn xứ cũng đang sanh cho người ấy”.
[301] Tỷ xứ đang sanh cho người nào thì sắc xứ đang sanh cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ SẮC XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ TỶ XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người hữu sắc vô tỷ đang sanh thì sắc xứ đang sanh cho người ấy nhưng tỷ xứ không đang sanh cho người ấy; còn đối với người hữu tỷ đang sanh thì sắc xứ đang sanh và tỷ xứ cũng đang sanh cho người ấy”.
[302] Tỷ xứ đang sanh cho người nào thì ý xứ đang sanh cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ Ý XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ TỶ XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người hữu tâm vô tỷ đang sanh thì ý xứ đang sanh cho người ấy nhưng tỷ xứ không đang sanh cho người ấy; còn đối với người hữu tỷ đang sanh thì ý xứ đang sanh và tỷ xứ cũng đang sanh cho người ấy”.
[303] Tỷ xứ đang sanh cho người nào thì pháp xứ đang sanh cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ TỶ XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người vô tỷ đang sanh thì pháp xứ đang sanh cho người ấy nhưng tỷ xứ không đang sanh cho người ấy; còn đối với người hữu tỷ đang sanh thì pháp xứ đang sanh và tỷ xứ cũng đang sanh cho người ấy”.
[304] Sắc xứ đang sanh cho người nào thì ý xứ đang sanh cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người vô tâm đang sanh thì sắc xứ đang sanh cho người ấy nhưng ý xứ không đang sanh cho người ấy; còn đối với người hữu sắc hữu tâm đang sanh thì sắc xứ đang xanhvà ý xứ cũng đang sanh cho người ấy”.
– HAY LÀ Ý XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ SẮC XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người vô sắc đang sanh thì ý xứ đang sanh cho người ấy nhưng sắc xứ không đang sanh cho người ấy; còn đối với người hữu tâm hữu sắc thì ý xứ đang sanh và sắc xứ cũng đang sanh cho người ấy”.
[305] Sắc xứ đang sanh cho người nào thì pháp xứ đang sanh cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ SẮC XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người vô sắc đang sanh pháp xứ đang sanh cho người ấy nhưng sắc xứ không đang sanh cho người ấy; còn người hữu sắc đang sanh thì pháp xứ đang sanh và sắc xứ cũng đang sanh cho người ấy”.
[306] Ý xứ đang sanh cho người nào thì pháp xứ đang sanh cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ Ý XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người vô tâm đang sanh thì pháp xứ đang sanh cho người ấy nhưng ý xứ không đang sanh cho người ấy; còn đối với người hữu tâm đang sanh thì pháp xứ đang sanh và ý xứ cũng đang sanh cho người ấy”.
[307] Nhãn xứ đang sanh ở cõi nào thì nhĩ xứ đang sanh ở cõi đó phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ NHĨ XỨ ÐANG SANH Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ ÐANG SANH Ở CÕI ÐÓ PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[308] Nhãn xứ đang sanh ở cõi nào thì tỷ xứ đang sanh ở cõi đó phải chăng?
“Ở cõi sắc giới, cõi ấy nhãn xứ đang sanh nhưng tỷ xứ không đang sanh ở cõi ấy; ở cõi dục giới, cõi ấy nhãn xứ đang sanh và tỷ xứ cũng đang sanh”.
– HAY LÀ TỶ XỨ ÐANG SANH Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ ÐANG SANH Ở CÕI ÐÓ PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[309] Nhãn xứ, đang sanh ở cõi nào thì sắc xứ đang sanh ở cõi đó phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ SẮC XỨ ÐANG SANH Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ ÐANG SANH Ở CÕI ÐÓ PHẢI CHĂNG?
“Cõi vô tưởng, ở cõi ấy sắc xứ đang sanh nhưng nhãn xứ không đang sanh ở cõi đó; cõi ngũ uẩn, ở cõi đó sắc xứ đang sanh và nhãn xứ cũng đang sanh”.
[310] Nhãn xứ đang sanh ở cõi nào thì ý xứ đang sanh ở cõi đó phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ Ý XỨ ÐANG SANH Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ ÐANG SANH Ở CÕI ÐÓ PHẢI CHĂNG?
“Cõi vô sắc, ở cõi ấy ý xứ đang sanh nhưng nhãn xứ không đang sanh ở cõi đó; cõi ngũ uẩn, ở cõi ấy ý xứ đang sanh và nhãn xứ cũng đang sanh”.
[311] Nhãn xứ đang sanh ở cõi nào thì pháp xứ đang sanh ở cõi đó phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ ÐANG SANH Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ ÐANG SANH Ở CÕI ÐÓ PHẢI CHĂNG?
“Cõi vô tưởng, cõi vô sắc, ở cõi ấy pháp xứ đang sanh nhưng nhãn xứ không đang sanh ở cõi đó; cõi ngũ uẩn, ở cõi ấy pháp xứ đang sanh và nhãn xứ cũng đang sanh”.
[312] Tỷ xứ đang sanh ở cõi nào thì sắc xứ đang sanh ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ SẮC XỨ ÐANG SANH Ở CÕI NÀO THÌ TỶ XỨ ÐANG SANH Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Cõi sắc giới, ở cõi ấy sắc xứ đang sanh nhưng tỷ xứ không đang sanh ở cõi ấy; cõi dục giới, ở cõi ấy sắc xứ đang sanh và tỷ xứ cũng đang sanh”.
(Ở cõi nào tỷ xứ đang sanh thì ở cõi ấy ý xứ và pháp xứ cũng sanh được như nhau; không có nói trong phần sau đây, nên hiểu rằng vì tóm tắt).
[313] Tỷ xứ đang sanh ở cõi nào thì pháp xứ đang sanh ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ ÐANG SANH Ở CÕI NÀO THÌ TỶ XỨ ÐANG SANH Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Cõi sắc giới, cõi vô sắc giới, ở cõi ấy pháp xứ đang sanh mà tỷ xứ không đang sanh ở cõi ấy; cõi dục giới, ở cõi ấy pháp xứ đang sanh và tỷ xứ cũng đang sanh”.
[314] Sắc xứ đang sanh ở cõi nào thì ý xứ đang sanh ở cõi ấy phải chăng?
“Cõi vô tưởng, ở cõi ấy sắc xứ đang sanh mà ý xứ không đang sanh ở cõi ấy; cõi ngũ uẩn, ở cõi ấy sắc xứ đang sanh và ý xứ cũng đang sanh”.
– HAY LÀ Ý XỨ ÐANG SANH Ở CÕI NÀO THÌ SẮC XỨ ÐANG SANH Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Cõi vô sắc, ở cõi ấy ý xứ đang sanh mà sắc xứ không đang sanh ở cõi ấy; cõi ngũ uẩn, ở cõi ấy ý xứ đang sanh và sắc xứ cũng không đang sanh”.
[315] Sắc xứ đang sanh ở cõi nào thì pháp xứ đang sanh ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ ÐANG SANH Ở CÕI NÀO THÌ SẮC XỨ ÐANG SANH Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Cõi vô sắc ở cõi ấy pháp xứ đang sanh mà sắc xứ không đang sanh ở cõi ấy; cõi ngũ uẩn, cõi vô tưởng ở cõi ấy pháp xứ đang sanh và sắc xứ cũng đang sanh”.
[316] Ý xứ đang sanh ở cõi nào thì pháp xứ đang sanh ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ ÐANG SANH Ở CÕI NÀO THÌ Ý XỨ ÐANG SANH Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Cõi vô tưởng, ở cõi ấy pháp xứ đang sanh mà ý xứ không đang sanh ở cõi ấy; cõi tứ uẩn, cõi ngũ uẩn, ở cõi ấy pháp xứ đang sanh và ý xứ cũng đang sanh”.
[317] Nhãn xứ đang sanh cho người nào ở cõi nào thì nhĩ xứ đang sanh cho người ấy cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người hữu nhãn vô nhĩ đang sanh thì nhãn xứ đang sanh cho người ấy cõi ấy nhưng nhĩ xứ không đang sanh cho người ấy cõi ấy; còn đối với người hữu nhãn hữu nhĩ đang sanh, thì nhãn xứ đang sanh và nhĩ xứ cũng đang sanh cho người ấy cõi ấy”.
– HAY LÀ NHĨ XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người hữu nhĩ vô nhãn đang sanh thì nhĩ xứ đang sanh cho người ấy ở cõi ấy nhưng nhãn xứ không đang sanh cho người ấy cõi ấy; còn đối với người hữu nhĩ hữu nhãn đang sanh thì nhĩ xứ đang sanh và nhãn xứ cũng đang sanh cho người ấy cõi ấy”.
(Ðiểm nào trùng lập thì được tóm tắt).
[318] Ý xứ đang sanh cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ đang sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ Ý XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người vô tâm đang sanh thì pháp xứ đang sanh cho người ấy cõi ấy nhưng ý xứ không đang sanh cho người ấy cõi ấy; còn đối với người hữu tâm đang sanh thì pháp xứ đang sanh và nhãn xứ cũng đang sanh cho người ấy ở cõi ấy”.
[319] Nhãn xứ không đang sanh cho người nào thì nhĩ xứ không đang sanh cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người vô nhãn hữu nhĩ đang sanh thì nhãn xứ không đang sanh cho người ấy nhưng nhĩ xứ chẳng phải không đang sanh cho người ấy; Ðối với tất cả người đang tử biệt, những người vô nhãn vô nhĩ đang sanh, thì nhãn xứ không đang sanh và nhĩ xứ cũng không đang sanh cho họ”.
– HAY LÀ NHĨ XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người vô nhĩ hữu nhãn đang sanh thì nhĩ xứ không đang sanh cho người ấy nhưng nhãn xứ chẳng phải không đang sanh cho người ấy; còn đối với tất cả người đang tử biệt, người vô nhĩ vô nhãn đang sanh thì nhĩ xứ không đang sanh và nhãn xứ cũng không đang sanh cho họ”.
[320] Nhãn xứ không đang sanh cho người nào thì tỷ xứ không đang sanh cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người vô nhãn hữu tỷ đang sanh thì nhãn xứ không đang sanh cho người ấy nhưng tỷ xứ chẳng phải không đang sanh cho người ấy; còn đối với tất cả người đang tử biệt, người vô nhãn vô tỷ đang sanh, thì nhãn xứ không đang sanh và tỷ xứ cũng không đang sanh cho họ”.
– HAY LÀ TỶ XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người vô tỷ hữu nhãn đang sanh thì tỷ xứ không đang sanh cho người ấy nhưng nhãn xứ chẳng phải không đang sanh cho người ấy; còn đối với tất cả người đang tử biệt, người vô tỷ vô nhãn đang sanh, thì tỷ xứ không đang sanh và nhãn xứ cũng không đang sanh cho họ”.
[321] Nhãn xứ không đang sanh cho người nào thì sắc xứ không đang sanh cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người vô nhãn hữu sắc đang sanh thì nhãn xứ không đang sanh cho người ấy nhưng sắc xứ chẳng phải không đang sanh cho người ấy; đối với tất cả người đang tử biệt, người vô sắc đang sanh thì nhãn xứ khôngđang sanh thi nhãn xứ không đang sanh và sắc xứ cũng không đang sanh cho họ”.
– HAY LÀ SẮC XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[322] Nhãn xứ không đang sanh cho người nào thì ý xứ không đang sanh cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người vô nhãn hữu tâm đang sanh thì nhãn xứ không đang sanh cho người ấy nhưng ý xứ chẳng phải không đang sanh cho người ấy; còn đối với tất cả người đang tử biệt, người vô tâm đang sanh, thì nhãn xứ không đang sanh và ý xứ cũng không đang sanh cho người ấy”.
– HAY LÀ Ý XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[323] Nhãn xứ không đang sanh cho người nào thì pháp xứ không đang sanh cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người vô nhãn đang sanh thì nhãn xứ không đang sanh cho người ấy nhưng pháp xứ chẳng phải không đang sanh cho người ấy; còn đối với tất cả người đang tử biệt thì nhãn xứ không đang sanh và pháp xứ cũng không đang sanh cho người ấy”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[324] Tỷ xứ không đang sanh cho người nào thì sắc xứ không đang sanh cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người vô tỷ hữu sắc đang sanh thì tỷ xứ không đang sanh cho người ấy nhưng sắc xứ chẳng phải không đang sanh cho người ấy; còn đối với tất cả người đang tử biệt, người vô sắc đang sanh, thì tỷ xứ không đang sanh và sắc xứ cũng không đang sanh cho Họ”.
– HAY LÀ SẮC XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ TỶ XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[325] Tỷ xứ không đang sanh cho người nào thì ý xứ không sanh cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người vô tỷ hữu tâm đang sanh thì tỷ xứ không đang sanh cho người ấy nhưng ý xứ chẳng phải không đang sanh cho người ấy; còn đối với tất cả người đang tử biệt, người vô tâm đang sanh thì tỷ xứ không đang sanh và ý xứ cũng không đang sanh cho họ”.
– HAY LÀ Ý XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ TỶ XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[326] Tỷ xứ không đang sanh cho người nào thì pháp xứ không đang sanh cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người vô tỷ đang sanh thì tỷ xứ không đang sanh cho người ấy nhưng pháp xứ chẳng phải không đang sanh cho người ấy; còn đối với tất cả người đang tử biệt thì tỷ xứ không đang sanh và pháp xứ cũng đang sanh cho họ”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ TỶ XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[327] Sắc xứ không đang sanh cho người nào thì ý xứ không đang sanh cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người vô sắc đang sanh thì sắc xứ không đang sanh cho người ấy nhưng ý xứ chẳng phải không đang sanh cho người ấy; còn đối với tất cả người đang tử biệt thì sắc xứ không đang sanh và ý xứ cũng không đang sanh cho họ”.
– HAY LÀ Ý XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ SẮC XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người vô tâm đang sanh thì ý xứ không đang sanh cho người ấy nhưng sắc xứ chẳng phải không đang sanh cho người ấy; còn đối với tất cả người đang tử biệt thì ý xứ không đang sanh và sắc xứ cũng không đang sanh cho họ”.
[328] Sắc xứ không đang sanh cho người nào thì pháp xứ không đang sanh cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người vô sắc đang sanh thì sắc xứ không đang sanh cho người ấy nhưng pháp xứ chẳng phải không đang sanh cho người ấy; còn đối với tất cả người đang tử biệt thì sắc xứ không đang sanh và pháp xứ cũng không đang sanh cho họ”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ SẮC XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[329] Ý xứ không đang sanh cho người nào thì pháp xứ không đang sanh cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người vô tâm đang sanh thì ý xứ không đang sanh cho người ấy nhưng pháp xứ chẳng phải không đang sanh cho người ấy; còn đối với tất cả người đang tử biệt thì ý xứ không đang sanh và pháp xứ cũng không đang sanh cho họ”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ Ý XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[330] Nhãn xứ không đang sanh ở cõi nào thì nhĩ xứ không đang sanh ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ NHĨ XỨ KHÔNG ÐANG SANH Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG ÐANG SANH Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[331] Nhãn xứ không đang sanh ở cõi nào thì tỷ xứ không đang sanh ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ TỶ XỨ KHÔNG ÐANG SANH Ở CÕI NÀO, THÌ NHÃN XỨ KHÔNG ÐANG SANH Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Cõi sắc giới, ở cõi ấy Tỷ xứ không đang sanh nhưng nhãn xứ chẳng phải không đang sanh ở cõi ấy; cõi vô tưởng, cõi vô sắc, ở cõi ấy tỷ xứ không đang sanh và nhãn xứ cũng không đang sanh”.
[332] Nhãn xứ không đang sanh ở cõi nào thì sắc xứ không đang sanh ở cõi ấy phải chăng?
“Cõi vô tưởng, ở cõi ấy nhãn xứ không đang sanh nhưng sắc xứ chẳng phải không đang sanh ở cõi ấy; cõi vô sắc, cõi ấy nhãn xứ không đang sanh và sắc xứ cũng không đang sanh”.
– HAY LÀ SẮC XỨ KHÔNG ÐANG SANH Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG ÐANG SANH Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[333] Nhãn xứ không đang sanh ở cõi nào thì ý xứ không đang sanh ở cõi ấy phải chăng?
“Cõi vô sắc, ở cõi ấy nhãn xứ không đang sanh nhưng ý xứ chẳng phải không đang sanh ở cõi ấy; cõi vô tưởng, ở cõi ấy nhãn xứ không đang sanh và ý xứ cũng không đang sanh”.
– HAY LÀ Ý XỨ KHÔNG ÐANG SANH Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG ÐANG SANH Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[334] Nhãn xứ không đang sanh ở cõi nào thì pháp xứ không đang sanh ở cõi ấy phải chăng?
“Ðang sanh!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ KHÔNG ÐANG SANH Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG ÐANG SANH Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Không có!”
[335] Tỷ xứ không đang sanh ở cõi nào thì sắc xứ không đang sanh ở cõi ấy phải chăng?
“Sắc giới, ở cõi ấy tỷ xứ không đang sanh, nhưng sắc xứ chẳng phải không đang sanh ở cõi ấy; cõi vô sắc, ở cõi ấy tỷ xứ không đang sanh và sắc xứ cũng không đang sanh”.
– HAY LÀ SẮC XỨ KHÔNG ÐANG SANH Ở CÕI NÀO THÌ TỶ XỨ KHÔNG ÐANG SANH Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[336] Tỷ xứ không đang sanh ở cõi nào thì ý xứ không đang sanh ở cõi ấy phải chăng?
“Sắc giới, vô sắc giới, ở cõi ấy tỷ xứ không đang sanh, mà ý xứ chẳng phải là không đang sanh ở cõi ấy; cõi vô tưởng, ở cõi ấy tỷ xứ không đang sanh và ý xứ cũng không đang sanh”.
– HAY LÀ Ý XỨ KHÔNG ÐANG SANH Ở CÕI NÀO THÌ TỶ XỨ KHÔNG ÐANG SANH Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ Ý XỨ KHÔNG ÐANG SANH Ở CÕI NÀO THÌ TỶ XỨ KHÔNG ÐANG SANH Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[337] Tỷ xứ không đang sanh ở cõi nào thì pháp xứ không đang sanh ở cõi ấy phải chăng?
“Ðang sanh!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ KHÔNG ÐANG SANH Ở CÕI NÀO THÌ TỶ XỨ KHÔNG ÐANG SANH Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Không có!”
[338] Sắc xứ không đang sanh ở cõi nào thì ý xứ không đang sanh ở cõi ấy phải chăng?
“Ðang sanh!”
– HAY LÀ Ý XỨ KHÔNG ÐANG SANH Ở CÕI NÀO THÌ SẮC XỨ KHÔNG ÐANG SANH Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðang sanh!”
[339] Sắc xứ không đang sanh ở cõi nào thì pháp xứ không đang sanh ở cõi ấy phải chăng?
“Ðang sanh!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ KHÔNG ÐANG SANH Ở CÕI NÀO THÌ SẮC XỨ KHÔNG ÐANG SANH Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Không có!”
[340] Ý xứ không đang sanh ở cõi nào thì pháp xứ không đang sanh ở cõi ấy phải chăng?
“Ðang sanh!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ KHÔNG ÐANG SANH Ở CÕI NÀO THÌ Ý XỨ KHÔNG ÐANG SANH Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Không có!”
[341] Nhãn xứ không đang sanh cho người nào ở cõi nào thì nhĩ xứ không đang sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người vô nhãn hữu nhĩ đang sanh thì nhãn xứ không đang sanh cho người ấy ở cõi ấy nhưng nhĩ xứ chẳng phải là không đang sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với tất cả người đang tử biệt, người vô nhãn vô nhĩ đang sanh thì nhãn xứ không đang sanh và nhĩ xứ cũng không đang sanh cho người ấy ở cõi ấyï”.
– HAY LÀ NHĨ XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người vô nhĩ hữu nhãn đang sanh thì nhĩ xứ không đang sanh cho người ấy ở cõi ấy, nhưng nhãn xứ chẳng phải là không đang sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với tất cả người đang tử biệt, người vô nhĩ vô nhãn đang sanh thì nhĩ xứ không đang sanh và nhản xứ cũng không đang sanh cho người ấy ở cõi ấyï”
… Ðoạn trùng …
[342] Ý xứ không đang sanh cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ không đang sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người vô tâm đang sanh thì ý xứ không đang sanh cho người ấy ở cõi ấy nhưng pháp xứ chẳng phải là không đang sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với tất cả người đang tử biệt thì ý xứ không đang sanh và pháp xứ cũng không đang sanh cho người ấy ở cõi ấyï”
– HAY LÀ PHÁP XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ Ý XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[343] Nhãn xứ từng sanh cho người nào thì nhĩ xứ từng sanh cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ NHĨ XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[344] Nhãn xứ từng sanh cho người nào thì tỷ xứ … trùng … sắc xứ … ý xứ … pháp xứ từng sanh cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!” … trùng …
[345] Tỷ xứ … trùng … sắc xứ … ý xứ từng sanh cho người nào thì pháp xứ từng sanh cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ Ý XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[346] Nhãn xứ từng sanh ở cõi nào… trùng…
(trong phần luận cõi, luận về hiện tại, cũng như về quá khứ, vị lai quá khứ hiện tại, vị lai hiện tại, vị lai quá khứ thì tất cả điều giống nhau, chỉ cần thay tên là đang sanh hay đã từng sanh vậy thôi).
[347] Nhãn xứ từng sanh cho người nào ở cõi nào thì nhĩ xứ từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ NHĨ XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[348] Nhãn xứ từng sanh cho người nào ở cõi nào thì tỷ xứ từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Sắc giới, đối với người ấy ở cõi ấy thì nhãn xứ từng sanh nhưng tỷ xứ không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy. Dục giới, đối với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ từng sanh và tỷ xứ cũng từng sanh”
– HAY LÀ TỶ XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[349] Nhãn xứ từng sanh cho người nào ở cõi nào thì sắc xứ từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ SẮC XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với cõi vô tưởng, người ấy ở cõi ấy sắc xứ từng sanh nhưng nhãn xứ không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; đối với cõi ngũ uẩn, người ấy ở cõi ấy sắc xứ từng sanh và nhãn xứ cũng từng sanh”
[350] Nhãn xứ từng sanh cho người nào ở cõi nào thì ý xứ từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ Ý XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với cõi vô sắc người ấy ở cõi ấy ý xứ từng sanh nhưng nhãn xứ không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; đối với cõi ngũ uẩn, người ấy ở cõi ấy ý xứ từng sanh và nhãn xứ cũng từng sanh”.
[351] Nhãn xứ từng sanh cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với cõi vô tưởng, cõi vô sắc, người ấy ở cõi ấy, pháp xứ từng sanh nhưng nhãn xứ không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với cõi ngũ uẩn thì người ấy ở cõi ấy pháp xứ từng sanh và nhãn xứ cũng từng sanh”.
[352] Tỷ xứ từng sanh cho người nào ở cõi nào thì sắc xứ từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ SẮC XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ TỶ XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với cõi sắc giới người ấy cõi ấy thì sắc xứ từng sanh nhưng tỷ xứ không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với cõi dục giới, người ấy ở cõi ấy sắc xứ từng sanh và tỷ xứ cũng từng sanh”.
[353] Tỷ xứ từng sanh cho người nào ở cõi nào thì ý xứ từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ Ý XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ TỶ XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với cõi sắc giới, cõi vô sắc giới, người ấy ở cõi ấy thì ý xứ từng sanh nhưng tỷ xứ không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với cõi dục giới thì ý xứ từng sanh và tỷ xứ cũng từng sanh”.
[354] Tỷ xứ từng sanh cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ TỶ XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với sắc giới, vô sắc giới, pháp xứ từng sanh cho người ấy ở cõi ấy nhưng tỷ xứ không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; đối với dục giới, người ấy ở cõi ấy pháp xứ từng sanh và tỷ xứ cũng từng sanh”.
[355] Sắc xứ từng sanh cho người nào ở cõi nào thì ý xứ từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với cõi tưởng, người ấy cõi ấy sắc xứ từng sanh nhưng ý xứ không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy. Ðối với cõi ngũ uẩn, người ấy ở cõi ấy sắc xứ từng sanh và ý xứ cũng từng sanh”.
– HAY LÀ Ý XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ SẮC XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với cõi vô sắc, người ấy ở cõi ấy ý xứ từng sanh nhưng sắc xứ không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy. Ðối với cõi ngũ uẩn, người ấy ở cõi ấy ý xứ từng sanh và sắc xứ cũng từng sanh”.
[356] Sắc xứ từng sanh cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ SẮC XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với cõi vô sắc, người ấy ở cõi ấy pháp xứ từng sanh nhưng sắc xứ không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy. Ðối với cõi ngũ uẩn, cõi vô tưởng, người ấy ở cõi ấy pháp xứ từng sanh và sắc xứ cũng từng sanh”.
[357] Ý xứ từng sanh cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ Ý XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với cõi vô tưởng, người ấy ở cõi ấy pháp xứ từng sanh nhưng ý xứ không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; đối với cõi tứ uẩn cõi ngũ uẩn, người ấy ở cõi ấy pháp xứ từng sanh và ý xứ cũng từng sanh”.
[358] Nhãn xứ không từng sanh cho người nào thì nhĩ xứ không từng sanh cho người ấy phải chăng?
“Không có!”
– HAY LÀ NHĨ XỨ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Không có!” (Tóm tắt)
[359] Ý xứ không từng sanh cho người nào thì pháp xứ không từng sanh cho người ấy phải chăng?
“Không có!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ Ý XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Không có!”
[360] Nhãn xứ không từng sanh ở cõi nào … (trùng lập) …
[361] Nhãn xứ không từng sanh cho người nào ở cõi nào thì nhĩ xứ không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ NHĨ XỨ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[362] Nhãn xứ không từng sanh cho người nào ở cõi nào thì tỷ xứ không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ TỶ XỨ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với cõi sắc giới, người ấy ở cõi ấy tỷ xứ không từng sanh, nhưng nhãn xứ chẳng phải không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy. Ðối với cõi tịnh cư, cõi vô tưởng, cõi vô sắc, người ấy ở cõi ấy tỷ xứ không từng sanh và nhãn xứ cũng không từng sanh”.
[363] Nhãn xứ không từng sanh cho người nào ở cõi nào thì sắc xứ không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với cõi vô tưởng, người ấy ở cõi ấy nhãn xứ không từng sanh nhưng sắc xứ chẳng phải không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy. Ðối với cõi tịnh cư, cõi vô sắc, người ấy ở cõi ấy nhãn xứ không từng sanh và sắc xứ cũng không từng sanh”.
– HAY LÀ SẮC XỨ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[364] Nhãn xứ không từng sanh cho người nào ở cõi nào thì ý xứ không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với cõi vô sắc, người ấy ở cõi ấy nhãn xứ không từng sanh nhưng ý xứ chẳng phải không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy. Ðối với cõi tịnh cư, cõi vô tưởng, người ấy ở cõi ấy nhãn xứ không từng sanh và ý xứ cũng không từng sanh”.
– HAY LÀ Ý XỨ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[365] Nhãn xứ không từng sanh cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với cõi vô tưởng, cõi vô sắc, người ấy ở cõi ấy nhãn xứ không từng sanh nhưng pháp xứ chẳng phải không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; Ðối với cõi tịnh cư, nhãn xứ không từng sanh và pháp xứ cũng không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[366] Tỷ xứ không từng sanh cho người nào ở cõi nào thì sắc xứ không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với cõi sắc giới, người ấy ở cõi ấy tỷ xứ không từng sanh nhưng sắc xứ chẳng phải không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; đối với cõi tịnh cư, cõi vô sắc, người ấy ở cõi ấy tỷ xứ không từng sanh và sắc xứ cũng không từng sanh”.
– HAY LÀ SẮC XỨ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ TỶ XỨ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[367] Tỷ xứ không từng sanh cho người nào ở cõi nào thì ý xứ không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với cõi sắc giới, cõi vô sắc giới, người ấy ở cõi ấy tỷ xứ không từng sanh nhưng ý xứ chẳng phải không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; đối với cõi tịnh cư, cõi vô tưởng, người ấy ở cõi ấy tỷ xứ không từng sanh và ý xứ cũng không từng sanh”.
– HAY LÀ Ý XỨ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ TỶ XỨ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[368] Tỷ xứ không từng sanh cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với cõi sắc giới, cõi vô sắc giới, tỷ xứ không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy nhưng pháp xứ, chẳng phải không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; đối với cõi tịnh cư, người ấy ở cõi ấy tỷ xứ không từng sanh và pháp xứ cũng không từng sanh”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ TỶ XỨ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[369] Sắc xứ không từng sanh cho người nào ở cõi nào thì ý xứ không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với cõi vô sắc, người ấy ở cõi ấy sắc xứ không từng sanh nhưng ý xứ chẳng phải không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; đối với cõi tịnh cư, người ấy ở cõi ấy sắc xứ không từng sanh và ý xứ cũng không từng sanh”.
– HAY LÀ Ý XỨ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ SẮC XỨ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với cõi vô tưởng, người ấy ở cõi ấy ý xứ không từng sanh nhưng sắc xứ chẳng phải không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; đối với cõi tịnh cư, người ấy ở cõi ấy ý xứ không từng sanh và sắc xứ cũng không từng sanh”.
[370] Sắc xứ không từng sanh cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với cõi vô sắc, người ấy ở cõi ấy sắc xứ không từng sanh nhưng pháp xứ chẳng phải không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; đối với cõi tịnh cư, người ấy ở cõi ấy sắc xứ không từng sanh và pháp xứ cũng không từng sanh”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ SẮC XỨ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[371] Ý xứ không từng sanh cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với cõi vô tưởng, người ấy ở cõi ấy ý xứ không từng sanh nhưng pháp xứ chẳng phải không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; đối với cõi tịnh cư, người ấy ở cõi ấy ý xứ không từng sanh và pháp xứ cũng không từng sanh”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ Ý XỨ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[372] Nhãn xứ sẽ sanh cho người nào thì nhĩ xứ sẽ sanh cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ NHĨ XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[373] Nhãn xứ sẽ sanh cho người nào thì tỷ xứ sẽ sanh cho người ấy phải chăng?
“Người mà sẽ sanh lên cõi sắc giới rồi viên tịch (Parinibbāyissanti) thì nhãn xứ sẽ sanh cho người ấy nhưng tỷ xứ sẽ không sanh cho người ấy nữa; đối với những hạng khác thì nhãn xứ sẽ sanh và tỷ xứ cũng sẽ sanh cho họ”.
– HAY LÀ TỶ XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[374] Nhãn xứ sẽ sanh cho người nào thì sắc xứ sẽ sanh cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ SẮC XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
(Nhãn xứ sẽ sanh cho người nào thì ý xứ và pháp xứ đều sẽ sanh cho người ấy. Hai phần này cũng giống nhau).
[375] Nhãn xứ sẽ sanh cho người nào thì pháp xứ sẽ sanh cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Người mà sẽ sanh lên cõi vô sắc rồi viên tịch, pháp xứ sẽ sanh cho người ấy nhưng sắc xứ sẽ không sanh cho người ấy nữa; đối với những hạng khác thì pháp xứ sẽ sanh và nhãn xứ cũng sẽ sanh cho họ”.
[376] Tỷ xứ sẽ sanh cho người nào thì sắc xứ sẽ sanh cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ SẮC XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ TỶ XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Người mà sẽ sanh lên cõi sắc giới rồi viên tịch, sắc xứ sẽ sanh cho người ấy nhưng tỷ xứ sẽ không sanh cho người ấy nữa; đối với những hạng khác thì sắc xứ sẽ sanh và tỷ xứ cũng sẽ sanh cho họ”.
[377] Tỷ xứ sẽ sanh cho người nào thì ý xứ … trùng … pháp xứ sẽ sanh cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ TỶ XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Người mà sẽ sanh lên cõi sắc giới, cõi vô sắc rồi viên tịch, pháp xứ sẽ sanh cho người ấy nhưng tỷ xứ sẽ không sanh cho người ấy; đối với những hạng khác thì pháp xứ sẽ sanh và tỷ xứ cũng sẽ sanhï”.
[377] Sắc xứ sẽ sanh cho người nào thì ý xứ … trùng … pháp xứ sẽ sanh cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ SẮC XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Người mà sẽ sanh lên cõi vô sắc rồi viên tịch, pháp xứ sẽ sanh cho người ấy nhưng sắc xứ sẽ không sanh cho người ấy; đối với các hạng khác thì pháp xứ sẽ sanh và sắc xứ cũng sẽ sanh cho họ”.
[379] Ý xứ sẽ sanh cho người nào thì pháp xứ sẽ sanh cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ Ý XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[380] Nhãn xứ sẽ sanh ở cõi nào … trùng …
[381] Nhãn xứ sẽ sanh cho người nào ở cõi nào thì nhĩ xứ sẽ sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ NHĨ XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[382] Nhãn xứ sẽ sanh cho người nào ở cõi nào thì tỷ xứ sẽ sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người ở cõi sắc giới, thì nhãn xứ sẽ sanh, nhưng tỷ xứ sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người ở cõi dục giới, thì nhãn xứ sẽ sanh và tỷ xứ cũng sẽ sanh”.
– HAY LÀ TỶ XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[383] Nhãn xứ sẽ sanh cho người nào ở cõi nào thì sắc xứ sẽ sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ SẮC XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người ở cõi vô tưởng, thì sắc xứ sẽ sanh nhưng nhãn xứ sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy; đối với người ở cõi ngũ uẩn, thì sắc xứ sẽ sanh và nhãn xứ cũng sẽ sanh”.
[384] Nhãn xứ sẽ sanh cho người nào ở cõi nào thì ý xứ sẽ sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ Ý XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người ở cõi vô sắc, thì ý xứ sẽ sanh nhưng nhãn xứ sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy; đối với người ở cõi ngũ uẩn, thì ý xứ sẽ sanh và nhãn xứ cũng sẽ sanh cho người ấy ở cõi ấy”.
[385] Nhãn xứ sẽ sanh cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ sẽ sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người ở cõi vô tưởng, cõi vô sắc, thì pháp xứ sẽ sanh nhưng nhãn xứ sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy; đối với người ở cõi ngũ uẩn, thì pháp xứ sẽ sanh và nhãn xứ cũng sẽ sanh”.
[386] Tỷ xứ sẽ sanh cho người nào ở cõi nào thì sắc xứ sẽ sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ SẮC XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ TỶ XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người ở cõi sắc giới, thì sắc xứ sẽ sanh nhưng tỷ xứ sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy; đối với người ở cõi dục giới, thì sắc xứ sẽ sanh và tỷ xứ cũng sẽ sanh”.
[387] Tỷ xứ sẽ sanh cho người nào ở cõi nào thì ý xứ … trùng … pháp xứ sẽ sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ TỶ XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người ở cõi sắc giới, cõi vô sắc giới, thì pháp xứ sẽ sanh, nhưng tỷ xứ sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy; đối với người ở cõi dục giới, thì pháp xứ sẽ sanh và tỷ xứ cũng sẽ sanh”.
[388] Sắc xứ sẽ sanh cho người nào, ở cõi nào thì ý xứ sẽ sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người ở cõi vô tưởng, thì sắc xứ sẽ sanh nhưng ý xứ sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy; đối với người ở cõi ngũ uẩn, thì sắc xứ sẽ sanh và ý xứ cũng sẽ sanh”.
– HAY LÀ Ý XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ SẮC XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người ở cõi vô sắc, thì ý xứ sẽ sanh, nhưng sắc xứ sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy; đối với người ở cõi ngũ uẩn, thì ý xứ sẽ sanh và sắc xứ cũng sẽ sanh”.
[389] Sắc xứ sẽ sanh cho người nào, ở cõi nào thì pháp xứ sẽ sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ SẮC XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người ở cõi vô sắc, thì pháp xứ sẽ sanh, nhưng sắc xứ sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy; đối với người ở cõi ngũ uẩn, cõi vô tưởng, thì pháp xứ sẽ sanh và sắc xứ cũng sẽ sanh”.
[390] Ý xứ sẽ sanh cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ sẽ sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ Ý XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người ở cõi vô tưởng, thì pháp xứ sẽ sanh, nhưng ý xứ sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy; đối với người ở cõi tứ uẩn, cõi ngũ uẩn, thì pháp xứ sẽ sanh và ý xứ cũng sẽ sanh”.
[391] Nhãn xứ sẽ không sanh cho người nào thì nhĩ xứ sẽ không sanh cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ NHĨ XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[392] Nhãn xứ sẽ không sanh cho người nào thì tỷ xứ sẽ không sanh cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ TỶ XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Người mà sẽ sanh lên cõi sắc giới rồi viên tịch, tỷ xứ sẽ không sanh cho người ấy nhưng nhãn xứ chẳng phải sẽ không sanh cho người ấy; đối với người kiếp chót, và người mà sẽ sanh lên cõi vô sắc, rồi viên tịch, tỷ xứ sẽ không sanh và nhãn xứ cũng sẽ không sanh cho họ”.
[393] Nhãn xứ sẽ không sanh cho người nào thì sắc xứ sẽ không sanh cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ SẮC XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[394] Nhãn xứ sẽ không sanh cho người nào thì ý xứ… trùng… pháp xứ sẽ không sanh cho người ấy phải chăng?
“Người mà sẽ sanh lên cõi vô sắc rồi viên tịch, nhãn xứ sẽ không sanh cho người ấy nhưng pháp xứ chẳng phải sẽ không sanh cho người ấy; đối với người kiếp chót, thì nhãn xứ sẽ không sanh và pháp xứ cũng sẽ không sanh cho họ”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[395] Tỷ xứ sẽ không sanh cho người nào thì sắc xứ sẽ không sanh cho người ấy phải chăng?
“Người mà sẽ sanh lên cõi sắc giới rồi viên tịch, đối với người ấy tỷ xứ sẽ không sanh nhưng sắc xứ chẳng phải sẽ không sanh cho người ấy; còn đối với người kiếp chót và người mà sẽ sanh lên cõi vô sắc rồi viên tịch thì tỷ xứ sẽ không sanh và sắc xứ cũng sẽ không sanh cho họ”.
– HAY LÀ SẮC XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ TỶ XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[396] Tỷ xứ sẽ không sanh cho người nào thì ý xứ… trùng… pháp xứ sẽ không sanh cho người ấy phải chăng?
“Người mà sẽ sanh lên cõi sắc giới cõi vô sắc giới rồi viên tịch, đối với người ấy tỷ xứ sẽ không sanh nhưng pháp xứ chẳng phải sẽ không sanh cho họ; còn đối với người kiếp chót thì tỷ xứ sẽ không sanh và pháp xứ cũng sẽ không sanh cho họ”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ TỶ XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[397] Sắc xứ sẽ không sanh cho người nào thì ý xứ… trùng… pháp xứ sẽ không sanh cho người ấy phải chăng?
“Người mà sẽ sanh lên cõi vô sắc rồi viên tịch, đối với người ấy sắc xứ sẽ không sanh, nhưng pháp xứ chẳng phải sẽ không sanh cho người ấy; Ðối với người kiếp chót thì sắc xứ sẽ không sanh và pháp xứ cũng sẽ không sanh cho họ”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ SẮC XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[398] Ý xứ sẽ không sanh cho người nào thì pháp xứ sẽ không sanh cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ SẮC XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[399] Nhãn xứ sẽ không sanh cho cõi nào … trùng …
[400] Nhãn xứ sẽ không sanh cho người nào ở cõi nào thì nhĩ xứ sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ NHĨ XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[401] Nhãn xứ sẽ không sanh cho người nào ở cõi nào thì tỷ xứ sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ TỶ XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người ở cõi sắc giới, thì tỷ xứ sẽ không sanh, nhưng nhãn xứ chẳng phải sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy; đối với người kiếp chót trong cõi ngũ uẩn, đối với người ở cõi vô tưởng, cõi vô sắc, thì tỷ xứ sẽ không sanh và nhãn xứ cũng sẽ không sanh”.
[402] Nhãn xứ sẽ không sanh cho người nào ở cõi nào thì sắc xứ sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người ở cõi vô tưởng, thì nhãn xứ sẽ không sanh, nhưng sắc xứ chẳng phải sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy; đối với người kiếp chót cõi ngũ uẩn, đối với cõi vô sắc, người ấy ở cõi ấy nhãn xứ sẽ không sanh và sắc xứ cũng sẽ không sanh”.
– HAY LÀ SẮC XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[403] Nhãn xứ sẽ không sanh cho người nào ở cõi nào thì ý xứ sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người ở cõi vô sắc, thì nhãn xứ sẽ không sanh, nhưng ý xứ chẳng phải sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy. Ðối với người kiếp chót, đối với người cõi vô tưởng, người ấy ở cõi ấy nhãn xứ sẽ không sanh và ý xứ cũng sẽ không sanh”.
– HAY LÀ Ý XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[404] Nhãn xứ sẽ không sanh cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người cõi vô tưởng, người cõi vô sắc, thì nhãn xứ sẽ không sanh, nhưng pháp xứ chẳng phải sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy; đối với người kiếp chót, người ấy ở cõi ấy nhãn xứ sẽ không sanh và pháp xứ cũng sẽ không sanh”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[405] Tỷ xứ sẽ không sanh cho người nào ở cõi nào thì sắc xứ sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người ở cõi sắc giới, thì tỷ xứ sẽ không sanh, nhưng sắc xứ chẳng phải sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy. Ðối với người kiếp chót cõi ngũ uẩn, người cõi vô sắc, người ấy ở cõi ấy tỷ xứ sẽ không sanh và sắc xứ cũng sẽ không sanh”.
– HAY LÀ SẮC XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ TỶ XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[406] Tỷ xứ sẽ không sanh cho người nào ở cõi nào thì ý xứ sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người cõi sắc giới, người cõi vô sắc giới, người ấy ở cõi ấy tỷ xứ sẽ không sanh nhưng ý xứ chẳng phải sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy. Ðối với người kiếp chót, người cõi vô tưởng, người ấy ở cõi ấy tỷ xứ sẽ không sanh và ý xứ cũng sẽ không sanh”.
– HAY LÀ Ý XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ TỶ XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[407] Tỷ xứ sẽ không sanh cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người cõi sắc giới, người cõi vô sắc giới, người ấy ở cõi ấy tỷ xứ sẽ không sanh, nhưng pháp xứ chẳng phải sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người kiếp chót, người ấy ở cõi ấy tỷ xứ sẽ không sanh và pháp xứ cũng sẽ không sanh”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ TỶ XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[408] Sắc xứ sẽ không sanh cho người nào ở cõi nào thì ý xứ sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người cõi vô sắc, người ấy cõi ấy sắc xứ sẽ không sanh, nhưng ý xứ chẳng phải sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy. Ðối với người kiếp chót, người ấy ở cõi ấy sắc xứ sẽ không sanh và ý xứ cũng sẽ không sanh”.
– HAY LÀ Ý XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ SẮC XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người cõi vô tưởng, người ấy ở cõi ấy ý xứ sẽ không sanh nhưng sắc xứ chẳng phải sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người kiếp chót, người ấy ở cõi ấy ý xứ sẽ không sanh và sắc xứ cũng sẽ không sanh”.
[409] Sắc xứ sẽ không sanh cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người cõi vô sắc, người ấy ở cõi ấy sắc xứ sẽ không sanh, nhưng pháp xứ chẳng phải sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người kiếp chót, người ấy ở cõi ấy sắc xứ sẽ không sanh và pháp xứ cũng sẽ không sanh”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ SẮC XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[410] Ý xứ sẽ không sanh cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người cõi vô tưởng, người ấy ở cõi ấy ý xứ sẽ không sanh nhưng pháp xứ chẳng phải sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người kiếp chót, người ấy ở cõi ấy ý xứ sẽ không sanh và pháp xứ cũng sẽ không sanh”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ Ý XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[411] Nhãn xứ đang sanh cho người nào thì nhĩ xứ từng sanh cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ NHĨ XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với tất cả người đang tử biệt, người vô nhãn đang sanh, các người ấy ù nhĩ xứ từng sanh nhưng nhãn xứ chẳng phải đang sanh cho họ; còn đối với người hữu nhãn đang sanh thì nhĩ xứ từng sanh cho họ và nhãn xứ cũng đang sanh”.
[412] Nhãn xứ đang sanh cho người nào thì tỷ xứ … trùng … sắc xứ … ý xứ … pháp xứ từng sanh cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với tất cả người đang tử biệt, người vô nhãn đang sanh, các người ấy pháp xứ từng sanh nhưng nhãn xứ chẳng phải đang sanh cho họ; đối với người hữu nhãn đang sanh thì pháp xứ từng sanh cho họ và nhãn xứ cũng đang sanh”.
[413] Tỷ xứ đang sanh cho người nào thì sắc xứ… trùng… ý xứ… pháp xứ từng sanh cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ TỶ XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với tất cả người đang tử biệt, người vô tỷ đang sanh, các người ấy pháp xứ từng sanh nhưng tỷ xứ chẳng phải đang sanh cho họ; còn đối với người hữu tỷ đang sanh thì pháp xứ từng sanh cho họ và tỷ xứ cũng đang sanh”.
[414] Sắc xứ đang sanh cho người nào thì ý xứ… trùng… pháp xứ từng sanh cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ SẮC XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với tất cả người đang tử biệt, người vô sắc đang sanh, các người ấy pháp xứ từng sanh nhưng sắc xứ chẳng đang sanh cho họ; còn đối với người hữu sắc đang sanh thì pháp xứ từng sanh cho họ và sắc xứ cũng đang sanh”.
[415] Ý xứ đang sanh cho người nào thì pháp xứ từng sanh cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ Ý XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Tất cả người đang tử biệt, người vô tâm đang sanh các người ấy pháp xứ từng sanh nhưng ý xứ chẳng đang sanh cho họ; còn đối với người hữu tâm đang sanh thì pháp xứ từng sanh cho họ và ý xứ cũng đang sanh”.
[416] Nhãn xứ đang sanh ở cõi nào … trùng …
[417] Nhãn xứ đang sanh cho người nào ở cõi nào thì nhĩ xứ từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang sanh cõi tịnh cư (Suddhāvāsa), người ấy ở cõi ấy nhãn xứ đang sanh nhưng nhĩ xứ chẳng từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với hạng người hữu nhãn ngoài ra mà đang sanh thì người ấy ở cõi ấy nhãn xứ đang sanh và nhĩ xứ cũng từng sanh”.
– HAY LÀ NHĨ XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang tử biệt cõi ngũ uẩn, người vô nhãn đang sanh cõi dục giới, người ấy ở cõi ấy nhĩ xứ từng sanh nhưng nhãn xứ chẳng đang sanh cho người ấy ở cõi ấy, còn đối với người hữu nhãn đang sanh, thì người ấy ở cõi ấy nhĩ xứ từng sanh và nhãn xứ cũng đang sanh”.
[418] Nhãn xứ đang sanh cho người nào ở cõi nào thì tỷ xứ từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang sanh cõi sắc giới, người ấy ở cõi ấy, nhãn xứ đang sanh nhưng tỷ xứ chẳng từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người hữu nhãn đang sanh cõi dục giới thì người ấy cõi ấy nhãn xứ đang sanh và tỷ xứ cũng từng sanh”.
– HAY LÀ TỶ XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang tử biệt cõi dục giới, người vô nhãn đang sanh cõi dục giới, người ấy ở cõi ấy tỷ xứ từng sanh nhưng nhãn xứ chẳng đang sanh cho họ; còn đối với người hữu nhãn đang sanh cõi dục giới thì người ấy cõi ấy tỷ xứ từng sanh và nhãn xứ cũng đang sanh”.
[419] Nhãn xứ đang sanh cho người nào ở cõi nào thì sắc xứ từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang sanh cõi tịnh cư, người ấy ở cõi ấy, nhãn xứ đang sanh nhưng sắc xứ chẳng từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người hữu nhãn ngoài ra mà đang sanh thì người ấy ở cõi ấy nhãn xứ đang sanh và sắc xứ cũng từng sanh”.
– HAY LÀ SẮC XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang tử biệt cõi ngũ uẩn, người vô nhãn đang sanh cõi dục giới, người vô tưởng, thì người ấy ở cõi ấy, sắc xứ từng sanh nhưng nhãn xứ chẳng đang sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người hữu nhãn đang sanh thì người ấy ở cõi ấy sắc xứ từng sanh và nhãn xứ cũng đang sanh”.
[420] Nhãn xứ đang sanh cho người nào ở cõi nào thì ý xứ từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang sanh cõi tịnh cư thì người ấy ở cõi ấy nhãn xứ đang sanh nhưng ý xứ chẳng từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người hữu nhãn ngoài ra mà đang sanh thì người ấy ở cõi ấy nhãn xứ đang sanh và ý xứ cũng từng sanh”.
– HAY LÀ Ý XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang tử biệt cõi ngũ uẩn, người vô nhãn đang sanh cõi dục giới, người vô sắc, thì người ấy ở cõi ấy ý xứ từng sanh nhưng nhãn xứ chẳng đang sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người hữu nhãn đang sanh thì người ấy ở cõi ấy ý xứ từng sanh và nhãn xứ cũng đang sanh”.
[421] Nhãn xứ đang sanh cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang sanh cõi tịnh cư thì người ấy ở cõi ấy nhãn xứ đang sanh nhưng pháp xứ chẳng từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người hữu nhãn ngoài ra mà đang sanh thì người ấy ở cõi ấy nhãn xứ đang sanh và pháp xứ cũng từng sanh”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với tất cả người đang tử biệt, người vô nhãn đang sanh, thì người ấy ở cõi ấy pháp xứ từng sanh nhưng nhãn xứ chẳng đang sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người hữu tỷ đang sanh thì người ấy ở cõi ấy sắc xứ từng sanh và tỷ xứ cũng đang sanh”.
[423] Tỷ xứ đang sanh cho người nào ở cõi nào thì ý xứ từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ Ý XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ TỶ XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang tử biệt cõi dục giới, người vô tỷ đang sanh cõi dục giới, người cõi sắc giới, người cõi vô sắc giới, thì người ấy ở cõi ấy ý xứ từng sanh nhưng tỷ xứ chẳng đang sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người hữu tỷ đang sanh, thì người ấy ở cõi ấy ý xứ từng sanh và tỷ xứ cũng đang sanh”.
[424] Tỷ xứ đang sanh cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ TỶ XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với tất cả người đang tử biệt, người vô tỷ đang sanh, thì người ấy ở cõi ấy pháp xứ từng sanh nhưng tỷ xứ chẳng đang sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người hữu tỷ đang sanh thì người ấy ở cõi ấy pháp xứ từng sanh và tỷ xứ cũng đang sanh”.
[425] Sắc xứ đang sanh cho người nào ở cõi nào thì ý xứ từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang sanh cõi tịnh cư, người đang sanh cõi vô tưởng, thì người ấy ở cõi ấy sắc xứ đang sanh nhưng ý xứ chẳng từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang sanh cõi ngũ uẩn ngoài ra, thì người ấy ở cõi ấy sắc xứ đang sanh và ý xứ cũng từng sanh”.
– HAY LÀ Ý XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ SẮC XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang tử biệt cõi ngũ uẩn, người cõi vô sắc, thì người ấy ở cõi ấy ý xứ từng sanh nhưng sắc xứ chẳng đang sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang sanh cõi ngũ uẩn thì người ấy ở cõi ấy ý xứ từng sanh và sắc xứ cũng đang sanh”.
[426] Sắc xứ đang sanh cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang sanh cõi tịnh cư, người ấy ở cõi ấy sắc xứ đang sanh nhưng pháp xứ chẳng từng sanh cho người ấy ở cõi ấy. Ðối với người hữu sắc ngoài ra mà đang sanh thì người ấy ở cõi ấy sắc xứ đang sanh và pháp xứ cũng từng sanh”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ SẮC XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với tất cả người đang tử biệt, người vô sắc đang sanh, người ấy ở cõi ấy pháp xứ từng sanh nhưng sắc xứ chẳng đang sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người hữu sắc đang sanh thì người ấy cõi ấy pháp xứ từng sanh và sắc xứ cũng đang sanh”.
[427] Ý xứ đang sanh cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang sanh cõi tịnh cư, người ấy ở cõi ấy ý xứ đang sanh nhưng pháp xứ chẳng từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người hữu sắc ngoài ra mà đang sanh thì người ấy ở cõi ấy ý xứ đang sanh và pháp xứ cũng từng sanh”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ Ý XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với tất cả người đang tử biệt, người vô tâm đang sanh, người ấy ở cõi ấy pháp xứ từng sanh nhưng ý xứ chẳng đang sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người hữu tâm đang sanh thì người ấy cõi ấy pháp xứ từng sanh và ý xứ cũng đang sanh”.
[428] Nhãn xứ không đang sanh cho người nào thì nhĩ xứ không từng sanh cho người ấy phải chăng?
“Từng sanh!”
– HAY LÀ NHĨ XỨ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Không có!”
[429] Nhãn xứ không đang sanh cho người nào thì tỷ xứ … trùng … sắc xứ … ý xứ … pháp xứ không từng sanh cho người ấy phải chăng?
“Từng sanh!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Không có!”
[430] Tỷ xứ … trùng … sắc xứ … ý xứ không đang sanh cho người nào thì pháp xứ không từng sanh cho người ấy phải chăng?
“Từng sanh!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ Ý XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Không có!”
[431] Nhãn xứ không đang sanh ở cõi nào … trùng …
[432] Nhãn xứ không đang sanh cho người nào ở cõi nào thì nhĩ xứ không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang tử biệt cõi ngũ uẩn, người vô nhãn đang sanh cõi dục giới, người ấy ở cõi ấy nhãn xứ không đang sanh nhưng nhĩ xứ chẳng phải không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch ở cõi tịnh cư, người cõi vô tưởng, người cõi vô sắc, thì người ấy ở cõi ấy nhãn xứ không đang sanh và nhĩ xứ cũng không từng sanh”.
– HAY LÀ NHĨ XỨ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang sanh cõi tịnh cư, người ấy ở cõi ấy nhĩ xứ không từng sanh nhưng nhãn xứ chẳng phải không đang sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch ở cõi tịnh cư, người cõi vô tưởng, người cõi vô sắc, người ấy ở cõi ấy tỷ xứ không từng sanh và nhãn xứ cũng không đang sanh”.
[433] Nhãn xứ không đang sanh cho người nào ở cõi nào thì tỷ xứ không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang tử biệt cõi dục giới, người vô nhãn đang sanh cõi dục giới, thì người ấy ở cõi ấy nhãn xứ không đang sanh nhưng tỷ xứ chẳng phải không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang tử biệt cõi sắc giới, người cõi vô tưởng, người cõi vô sắc, thì người ấy cõi ấy nhãn xứ không đang sanh và tỷ xứ cũng không từng sanh”.
– HAY LÀ TỶ XỨ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang sanh cõi sắc giới, người ấy ở cõi ấy tỷ xứ không từng sanh, nhưng nhãn xứ chẳng phải không đang sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang rử biệt cõi sắc giới, người cõi vô tưởng, người cõi vô sắc, người ấy ở cõi ấy tỷ xứ không từng sanh và nhãn xứ cũng không đang sanh”.
[434] Nhãn xứ không đang sanh cho người nào ở cõi nào thì sắc xứ không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang sanh tử biệt cõi ngũ uẩn, người vô nhãn đang sanh cõi dục giới, người vô tưởng, thì người ấy ở cõi ấy nhãn xứ không đang sanh nhưng sắc xứ chẳng phải không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch cõi tịnh cư, người cõi vô sắc, thì người ấy ở cõi ấy nhãn xứ không đang sanh và sắc xứ cũng không từng sanh”.
– HAY LÀ SẮC XỨ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang sanh cõi tịnh cư, người ấy ở cõi ấy sắc xứ không từng sanh nhưng nhãn xứ chẳng phải không đang sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch ở cõi tịnh cư, người cõi vô sắc, thì người ấy, ở cõi ấy sắc xứ không từng sanh và nhãn xứ cũng không đang sanh”.
[435] Nhãn xứ không đang sanh cho người nào ở cõi nào thì ý xứ không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang sanh tử biệt cõi ngũ uẩn, người vô nhãn đang sanh cõi dục giới, người vô sắc, thì người ấy ở cõi ấy nhãn xứ không đang sanh nhưng ý xứ chẳng phải không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch cõi tịnh cư, người cõi vô tưởng, thì người ấy ở cõi ấy nhãn xứ không đang sanh và ý xứ cũng không từng sanh”.
– HAY LÀ Ý XỨ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang sanh cõi tịnh cư, người ấy ở cõi ấy ý xứ không từng sanh nhưng nhãn xứ chẳng phải không đang sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch ở cõi tịnh cư, người cõi vô tưởng, thì người ấy, ở cõi ấy ý xứ không từng sanh và nhãn xứ cũng không đang sanh”.
[436] Nhãn xứ không đang sanh cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với tất cả người đang tử biệt, người vô nhãn đang sanh, thì người ấy cõi ấy nhãn xứ không đang sanh nhưng pháp xứ chẳng phải không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch ở cõi tịnh cư thì người ấy ở cõi ấy nhãn xứ không đang sanh và pháp xứ cũng không từng sanh”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang sanh cõi tịnh cư, người ấy ở cõi ấy pháp xứ không từng sanh nhưng nhãn xứ chẳng phải không đang sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch cõi tịnh cư thì người ấy ở cõi ấy pháp xứ không từng sanh và nhãn xứ cũng không đang sanh”.
[437] Tỷ xứ không đang sanh cho người nào ở cõi nào thì sắc xứ không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với tất cả người đang tử biệt cõi dục giới, người vô tỷ đang sanh cõi dục giới, người cõi sắc giới, người ấy ở cõi ấy tỷ xứ không đang sanh nhưng sắc xứ chẳng phải không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người cõi tịnh cư, người cõi vô sắc thì người ấy ở cõi ấy, tỷ xứ không đang sanh và sắc xứ cũng không từng sanh”.
– HAY LÀ SẮC XỨ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ TỶ XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[438] Tỷ xứ không đang sanh cho người nào ở cõi nào thì ý xứ không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang tử biệt cõi dục giới, người vô tỷ đang sanh cõi dục giới, người cõi sắc giới, người cõi vô sắc giới, người ấy ở cõi ấy tỷ xứ không đang sanh nhưng ý xứ chẳng phải không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người cõi tịnh cư, người cõi vô tưởng thì người ấy ở cõi ấy tỷ xứ không đang sanh và ý xứ cũng không từng sanh”.
– HAY LÀ Ý XỨ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ TỶ XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[439] Tỷ xứ không đang sanh cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với tất cả người đang tử biệt, người vô tỷ đang sanh, người ấy cõi ấy tỷ xứ không đang sanh, nhưng pháp xứ chẳng phải không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người cõi tịnh cư thì người ấy ở cõi ấy tỷ xứ không đang sanh và pháp xứ cũng không từng sanh”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ TỶ XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
(1) Taṇhāsotaṃ đúng nghĩa là dòng sông ái, dịch chử Ái lưu. Trong tiếng Phạn, Sota có 2 nghĩa – một là lổ tai (nhỉ) – hai là dòng sông (Lưu), trong câu sotaṃ là sotāyatana? mới chơi chữ (đồng tự bất đồng nghĩa) đáp rằng: “taṇhāsotaṃ cũng là sotaṃ mà không phải là sotāyatana …“ ở đây cũng uyển chuyển cho hợp cách chơi chứ đồng tự bất đồng nghĩa, nên tạm dùng tiếng “ái nhĩ” dịch cho taṇhāsotaṃ để câu hỏi “nhĩ là nhĩ xứ?” thì đáp “ái nhĩ là nhĩ nhưng không phải là nhĩ xứ …”, taṇhāsotaṃ dịch là “ái lưu” mới đúng nghĩa, nếu nói “ái nhĩ” thì không có nghĩa chi! ND.
(1) Tiếng Phạn gandho có hai nghĩa: 1- hơi mùi (thối và thơm nói chung), 2- hương, mùi thơm gandha trong 12 loại āyatana là nghĩa mùi hơi (khí), đúng ra silagandho samādhigandho paññāgandho phải dịch theo nghĩ hương thơm: giới hương, định hương, tuệ hương nhưng ở đây lại dịch là giới khí, định khí, tuệ khí là vì để lập luận vấn đáp cho hợp với câu: “Khí là khí xứ phải chăng?” giới, định, tuệ là khí (mùi thơm giả dụ) nhưng không phải là khí xứ (mùi thật).
(1) Người hữu nhãn vô nhĩ (sacakkhuka asotaka) tức là người khi tái sanh chỉ có thần kinh mắt mà không có thần kinh tai.
(2) Người vô tỷ (aghāmaka) tức là người lúc tái tục không có thần kinh mũi. Người hữu tỷ (saghānaka) là người có thần kinh mũi.
III. XỨ SONG (ĀYATANAYAMAKA) – tiếp theo
[440] Sắc xứ không đang sanh cho người nào ở cõi nào thì ý xứ không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang tử biệt cõi ngũ uẩn, người cõi vô sắc, người ấy cõi ấy sắc xứ không đang sanh nhưng ý xứ chẳng phải không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch cõi tịnh cư, người đang tử biệt cõi vô tưởng, người ấy ở cõi ấy, sắc xứ không đang sanh và ý xứ cũng không từng sanh”.
– HAY LÀ Ý XỨ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ SẮC XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang sanh cõi tịnh cư, người đang sanh cõi vô tưởng người ấy cõi ấy ý xứ không đang sanh nhưng sắc xứ chẳng phải không đang sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch ở cõi tịnh cư, người đang tử biệt cõi vô tưởng, người ấy ở cõi ấy ý xứ không từng sanh và sắc xứ cũng không đang sanh”.
[441] Sắc xứ không đang sanh cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với tất cả đang tử biệt, người vô sắc đang sanh, người ấy ở cõi ấy sắc xứ không đang sanh nhưng pháp xứ chẳng phải không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; đối với người đang viên tịch ở cõi tịnh cư thì người ấy ở cõi ấy sắc xứ không đang sanh và pháp xứ cũng không từng sanh”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ SẮC XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang sanh cõi tịnh cư, người ấy cõi ấy pháp xứ không từng sanh, nhưng sắc xứ chẳng phải không đang sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch ở cõi tịnh cư thì người ấy ở cõi ấy pháp xứ không từng sanh và sắc xứ cũng không đang sanh”.
[442] Ý xứ không đang sanh cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với tất cả người đang tử biệt, người vô tâm đang sanh, thì người ấy cõi ấy ý xứ không đang sanh nhưng pháp xứ chẳng phải không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch cõi tịnh cư thì người ấy ở cõi ấy ý xứ không đang sanh và pháp xứ cũng không từng sanh”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ Ý XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang sanh cõi tịnh cư thì người ấy ở cõi ấy pháp xứ không từng sanh nhưng ý xứ chẳng phải không đang sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch ở cõi tịnh cư thì người ấy ở cõi ấy pháp xứ không từng sanh và ý xứ cũng không đang sanh”.
[443] Nhãn xứ đang sanh cho người nào thì nhĩ xứ sẽ sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người kiếp chót đang sanh cõi ngũ uẩn, và người đang sanh mà sẽ sanh lên cõi vô sắc rồi viên tịch, thì người ấy nhãn xứ đang sanh nhưng nhĩ xứ sẽ chẳng sanh cho người ấy; còn đối với người hữu nhãn ngoài ra mà đang sanh thì người ấy nhãn xứ đang sanh và nhĩ xứ cũng sẽ sanh”.
– HAY LÀ NHĨ XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với tất cả người đang tử biệt, người vô nhãn đang sanh, thì người ấy nhĩ xứ sẽ sanh nhưng nhãn xứ chẳng đang sanh cho người ấy; còn đối với người hữu nhãn đang sanh, thì người ấy ở cõi ấy nhĩ xứ sẽ sanh và nhãn xứ cũng đang sanh”.
[444] Nhãn xứ đang sanh cho người nào thì tỷ xứ sẽ sanh cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người kiếp chót đang sanh cõi ngũ uẩn, và người đang sanh mà sẽ sanh lên cõi sắc giới rồi viên tịch với người ấy nhãn xứ đang sanh, nhưng tỷ xứ sẽ chẳng đang sanh cho họ; còn đối với người hữu nhãn ngoài ra mà đang sanh thì với người ấy nhãn xứ đang sanh và tỷ xứ cũng sẽ sanh”.
– HAY LÀ TỶ XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với tất cả người đang tử biệt, người vô nhãn đang sanh, thì người ấy tỷ xứ sẽ sanh nhưng nhãn xứ chẳng đang sanh cho người ấy; còn đối với người hữu nhãn đang sanh, thì người ấy ở cõi ấy tỷ xứ sẽ sanh và nhãn xứ cũng đang sanh”.
[445] Nhãn xứ đang sanh cho người nào thì sắc xứ sẽ sanh cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người kiếp chót đang sanh cõi ngũ uẩn, và người đang sanh mà sẽ sanh lên cõi vô sắc rồi viên tịch, thì với người ấy nhãn xứ đang sanh, nhưng sắc xứ sẽ chẳng sanh cho họ; còn đối với người hữu nhãn ngoài ra mà đang sanh, thì với người ấy nhãn xứ đang sanh và sắc xứ cũng sẽ sanh”.
– HAY LÀ SẮC XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với tất cả người đang tử biệt, người vô nhãn đang sanh, với người sắc xứ sẽ sanh nhưng nhãn xứ chẳng đang sanh cho họ; còn đối với người hữu nhãn đang sanh thì với người ấy sắc xứ sẽ sanh và nhãn xứ cũng đang sanh”.
[446] Nhãn xứ đang sanh cho người nào thì ý xứ sẽ sanh cho người ấy phải chăng?
“Ðối với tất cả người kiếp chót đang sanh cõi ngũ uẩn, với người ấy nhãn xứ đang sanh nhưng ý xứ sẽ chẳng sanh cho người ấy; còn đối với người hữu nhãn ngoài ra mà đang sanh thì với người ấy nhãn xứ đang sanh và ý xứ cũng sẽ sanh”
HAY LÀ Ý XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG
“Ðối với tất cả người đang tử biệt, người vô nhãn đang sanh, thì với người ấy ý xứ sẽ chẳng sanh nhưng nhãn xứ chẳng đang sanh cho họ; còn đối với người hữu nhãn đang sanh thì với người ấy ý xứ sẽ sanh và nhãn xứ cũng đang sanh”.
[447] Nhãn xứ đang sanh cho người nào thì pháp xứ sẽ sanh cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người kiếp chót đang sanh cõi ngũ uẩn, với người ấy nhãn xứ đang sanh nhưng pháp xứ sẽ chẳng sanh cho người ấy; còn đối với người hữu nhãn ngoài ra mà đang sanh, thì với người ấy nhãn xứ đang sanh và pháp xứ cũng sẽ sanh”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với tất cả người đang tử biệt, người vô nhãn đang sanh, thì với người ấy pháp xứ sẽ sanh nhưng nhãn xứ chẳng đang sanh cho họ; còn đối với người hữu nhãn đang sanh, thì với người ấy pháp xứ sẽ sanh và nhãn xứ cũng đang sanh”.
[448] Tỷ xứ đang sanh cho người nào thì sắc xứ sẽ sanh cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người kiếp chót đang sanh cõi dục giới và người đang sanh mà sẽ sanh lên cõi vô sắc rồi viên tịch, thì với người ấy tỷ xứ đang sanh, nhưng sắc xứ sẽ chẳng sanh cho họ; còn đối với người hữu tỷ đang sanh, thì với người ấy tỷ xứ đang sanh và sắc xứ cũng sẽ sanh”.
– HAY LÀ SẮC XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ TỶ XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với tất cả người đang tử biệt, người vô tỷ đang sanh, thì với người ấy sắc xứ sẽ sanh, nhưng tỷ xứ chẳng đang sanh cho họ; còn đối với người hữu tỷ đang sanh, thì với người ấy sắc xứ sẽ sanh và tỷ xứ cũng đang sanh”.
[448] Tỷ xứ đang sanh cho người nào thì ý xứ sẽ sanh cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người kiếp chót đang sanh cõi dục giới, với người ấy tỷ xứ đang sanh nhưng ý xứ sẽ chẳng sanh cho người ấyï; còn đối với người hữu tỷ ngoài ra mà đang sanh, thì với người ấy tỷ xứ đang sanh và ý xứ cũng sẽ sanh”.
– HAY LÀ Ý XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ TỶ XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với tất cả người đang tử biệt, người vô tỷ đang sanh, thì với người ấy ý xứ sẽ sanh, nhưng tỷ xứ chẳng đang sanh cho họ; còn đối với người hữu tỷ đang sanh, thì với người ấy ý xứ sẽ sanh và tỷ xứ cũng đang sanh”.
[450] Tỷ xứ đang sanh cho người nào thì pháp xứ sẽ sanh cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người kiếp chót đang sanh cõi dục giới, với người ấy tỷ xứ đang sanh nhưng pháp xứ sẽ chẳng sanh cho người ấy; còn đối với người hữu tỷ ngoài ra mà đang sanh, thì với người ấy tỷ xứ đang sanh và pháp xứ cũng sẽ sanh”
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ TỶ XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với tất cả người đang tử biệt, người vô tỷ đang sanh, thì với người ấy pháp xứ sẽ sanh nhưng tỷ xứ chẳng đang sanh cho họ; còn đối với người hữu tỷ đang sanh, thì với người ấy pháp xứ sẽ sanh và tỷ xứ cũng đang sanh”
[451] Sắc xứ đang sanh cho người nào thì ý xứ sẽ sanh cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người kiếp chót đang sanh cõi ngũ uẩn, với người ấy, sắc xứ đang sanh nhưng ý xứ sẽ chẳng sanh cho người ấy; còn đối với người hữu sắc ngoài ra mà đang sanh, thì với người ấy, sắc xứ đang sanh và ý xứ cũng sẽ sanh”.
– HAY LÀ Ý XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO, THÌ SẮC XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với tất cả người đang tử biệt, người vô sắc đang sanh, thì với người ấy ý xứ sẽ sanh nhưng sắc xứ chẳng đang sanh cho họ; còn đối với người hữu sắc đang sanh, thì với người ấy ý xứ sẽ sanh và sắc xứ cũng đang sanh”.
[452] Sắc xứ đang sanh cho người nào thì pháp xứ sẽ sanh cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người kiếp chót đang sanh cõi ngũ uẩn, với người ấy sắc xứ đang sanh nhưng pháp xứ sẽ chẳng sanh cho họ; còn đối với người hữu sắc ngoài ra mà đang sanh thì với người ấy sắc xứ đang sanh và pháp xứ cũng sẽ sanh”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ SẮC XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với tất cả người đang tử biệt, người vô sắc đang sanh, với người ấy pháp xứ sẽ sanh nhưng sắc xứ chẳng đang sanh cho họ; còn đối với người hữu sắc đang sanh, thì với người ấy pháp xứ sẽ sanh và sắc xứ cũng đang sanh”.
[453] Ý xứ đang sanh cho người nào thì pháp xứ sẽ sanh cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người kiếp chót đang sanh, với người ấy ý xứ đang sanh nhưng pháp xứ sẽ chẳng sanh cho người ấy; còn đối với người hữu tâm ngoài ra mà đang sanh thì với người ấy ý xứ đang sanh và pháp xứ cũng sẽ sanh”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ Ý XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với tất cả người đang tử biệt, người vô tâm đang sanh, thì với người ấy pháp xứ sẽ sanh nhưng ý xứ chẳng đang sanh cho họ; còn đối với người hữu tâm đang sanh, thì với người ấy pháp xứ sẽ sanh và ý xứ cũng đang sanh”.
[454] Nhãn xứ đang sanh ở cõi nào … trùng …
[455] Nhãn xứ đang sanh cho người nào ở cõi nào thì nhĩ xứ sẽ sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người kiếp chót đang sanh cõi ngũ uẩn, với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ đang sanh nhưng nhĩ xứ sẽ chẳng sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người hữu nhãn ngoài ra mà đang sanh thì với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ đang sanh và nhĩ xứ cũng sẽ sanh”.
– HAY LÀ NHĨ XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang tử biệt cõi ngũ uẩn, người vô nhãn đang sanh cõi dục giới, với người ấy ở cõi ấy nhĩ xứ sẽ sanh, nhưng nhãn xứ chẳng đang sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người hữu nhãn đang sanh thì với người ấy ở cõi ấy nhĩ xứ sẽ sanh và nhãn xứ cũng đang sanh”.
[456] Nhãn xứ đang sanh cho người nào ở cõi nào thì tỷ xứ sẽ sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người kiếp chót đang sanh cõi dục giới, người đang sanh cõi sắc giới, với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ đang sanh nhưng tỷ xứ sẽ chẳng sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người hữu nhãn ngoài ra mà đang sanh cõi dục giới, thì với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ đang sanh và tỷ xứ cũng sẽ sanh”.
– HAY LÀ TỶ XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang tử biệt cõi dục giới người vô nhãn đang sanh cõi dục giới, với người ấy ở cõi ấy tỷ xứ sẽ sanh nhưng nhãn xứ chẳng đang sanh cho người ấy ở cõi ấyï; còn đối với người hữu nhãn đang sanh cõi dục giới thì với người ấy ở cõi ấy tỷ xứ sẽ sanh và nhãn xứ cũng đang sanh”.
[457] Nhãn xứ đang sanh cho người nào ở cõi nào thì sắc xứ sẽ sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người kiếp chót đang sanh cõi ngũ uẩn, thì với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ đang sanh nhưng sắc xứ sẽ chẳng sanh cho người ấy ở cõi ấyï; còn đối với người hữu nhãn ngoài ra mà đang sanh thì với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ đang sanh và sắc xứ cũng sẽ sanh”.
– HAY LÀ SẮC XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang tử biệt cõi ngũ uẩn, người vô nhãn đang sanh cõi dục giới, người cõi vô tưởng, với người ấy ở cõi ấy sắc xứ sẽ sanh nhưng nhãn xứ chẳng đang sanh cho người ấy ở cõi ấyï; còn đối với người hữu nhãn đang sanh thì với người ấy ở cõi ấy sắc xứ sẽ sanh và nhãn xứ cũng đang sanh”.
[458] Nhãn xứ đang sanh cho người nào ở cõi nào thì ý xứ sẽ sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người kiếp chót đang sanh cõi ngũ uẩn với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ đang sanh nhưng ý xứ sẽ chẳng sanh cho người ấy ở cõi ấyï; còn đối với người hữu nhãn ngoài ra mà đang sanh, thì với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ đang sanh và ý xứ cũng sẽ sanh”.
– HAY LÀ Ý XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang tử biệt cõi ngũ uẩn, người vô nhãn đang sanh cõi dục giới, người cõi vô sắc, với người ấy ở cõi ấy ý xứ sẽ sanh nhưng nhãn xứ chẳng đang sanh cho người ấy ở cõi ấyï; còn đối với người hữu nhãn đang sanh thì với người ấy ở cõi ấy ý xứ sẽ sanh và nhãn xứ cũng đang sanh”.
[459] Nhãn xứ đang sanh cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ sẽ sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người kiếp chót đang sanh cõi ngũ uẩn, thì với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ đang sanh nhưng pháp xứ sẽ chẳng sanh cho người ấy ở cõi ấyï; còn đối với người hữu nhãn ngoài ra mà đang sanh thì với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ đang sanh và pháp xứ cũng sẽ sanh”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang tử biệt, người vô nhãn đang sanh, với người ấy ở cõi ấy pháp xứ sẽ sanh, nhưng nhãn xứ chẳng đang sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người hữu nhãn đang sanh, thì với người ấy ở cõi ấy pháp xứ sẽ sanh và nhãn xứ cũng đang sanh”.
[460] Tỷ xứ đang sanh cho người nào ở cõi nào thì sắc xứ sẽ sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người kiếp chót đang sanh cõi dục giới, với người ấy ở cõi ấy tỷ xứ đang sanh nhưng sắc xứ sẽ chẳng sanh cho người ấy ở cõi ấyï; còn đối với người hữu tỷ ngoài ra mà đang sanh thì với người ấy ở cõi ấy tỷ xứ đang sanh và sắc xứ cũng sẽ sanh”.
– HAY LÀ SẮC XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ TỶ XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang tử biệt cõi dục giới, người vô tỷ đang sanh cõi dục giới, người cõi sắc giới, với người ấy ở cõi ấy sắc xứ sẽ sanh nhưng tỷ xứ chẳng đang sanh cho người ấy ở cõi ấyï; còn đối với người hữu tỷ đang sanh thì với người ấy ở cõi ấy sắc xứ sẽ sanh và tỷ xứ cũng đang sanh”.
[461] Tỷ xứ đang sanh cho người nào ở cõi nào thì ý xứ sẽ sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người kiếp chót đang sanh cõi dục giới, với người ấy ở cõi ấy tỷ xứ đang sanh nhưng ý xứ sẽ chẳng sanh cho người ấy ở cõi ấyï; còn đối với người hữu tỷ ngoài ra mà đang sanh, thì với người ấy ở cõi ấy tỷ xứ đang sanh và ý xứ cũng sẽ sanh”
– HAY LÀ Ý XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ TỶ XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang tử biệt cõi dục giới, người vô tỷ đang sanh cõi dục giới, người cõi sắc giới, người cõi vô sắc giới, với người ấy ở cõi ấy ý xứ sẽ sanh nhưng tỷ xứ chẳng đang sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người hữu tỷ đang sanh thì ý xứ sẽ sanh và tỷ xứ cũng đang sanh”.
[462] Tỷ xứ đang sanh cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ sẽ sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người kiếp chót đang sanh cõi dục giới với người ấy cõi ấy tỷ xứ đang sanh nhưng pháp xứ sẽ chẳng sanh cho người ấy ở cõi ấyï; còn đối với người hữu tỷ ngoài ra mà đang sanh thì với người ấy ở cõi ấy tỷ xứ đang sanh và pháp xứ cũng sẽ sanh”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ TỶ XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang tử biệt, người vô tỷ đang sanh, với người ấy ở cõi ấy pháp xứ sẽ sanh nhưng tỷ xứ chẳng đang sanh cho người ấy ở cõi ấyï. Còn đối với người hữu tỷ đang sanh, thì với người ấy ở cõi ấy pháp xứ sẽ sanh và tỷ xứ cũng đang sanh”.
[463] Sắc xứ đang sanh cho người nào ở cõi nào thì ý xứ sẽ sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người kiếp chót đang sanh cõi ngũ uẩn, người đang sanh cõi vô tưởng, với người ấy ở cõi ấy sắc xứ đang sanh nhưng ý xứ sẽ chẳng sanh cho người ấy ở cõi ấyï; còn đối với người đang sanh cõi ngũ uẩn mà ngoài ra, thì với người ấy ở cõi ấy sắc xứ đang sanh và ý xứ cũng sẽ sanh”.
– HAY LÀ Ý XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ SẮC XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang tử biệt cõi ngũ uẩn, người cõi vô sắc, với người ấy ở cõi ấy ý xứ sẽ sanh nhưng sắc xứ chẳng đang sanh cho người ấy ở cõi ấyï; còn đối với người đang sanh cõi ngũ uẩn thì với người ấy ở cõi ấy ý xứ sẽ sanh và sắc xứ cũng đang sanh”.
[464] Sắc xứ đang sanh cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ sẽ sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người kiếp chót đang sanh cõi ngũ uẩn, với người ấy ở cõi ấy sắc xứ đang sanh nhưng pháp xứ sẽ chẳng sanh cho người ấy ở cõi ấyï; còn đối với người hữu sắc ngoài ra mà đang sanh, thì với người ấy ở cõi ấy sắc xứ đang sanh và pháp xứ cũng sẽ sanh”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ SẮC XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang tử biệt, người vô sắc đang sanh, với người ấy ở cõi ấy pháp xứ sẽ sanh nhưng sắc xứ chẳng đang sanh cho người ấy ở cõi ấyï; còn đối với người hữu sắc đang sanh, thì với người ấy ở cõi ấy pháp xứ sẽ sanh và sắc xứ cũng đang sanh”.
[465] Ý xứ đang sanh cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ sẽ sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người kiếp chót đang sanh, với người ấy ở cõi ấy ý xứ đang sanh nhưng pháp xứ sẽ chẳng sanh cho người ấy ở cõi ấyï; còn đối với người hữu tâm ngoài ra mà đang sanh thì với người ấy ở cõi ấy ý xứ đang sanh và pháp xứ cũng sẽ sanh”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ Ý XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang tử biệt, người vô tâm đang sanh, với người ấy ở cõi ấy pháp xứ sẽ sanh nhưng ý xứ chẳng đang sanh cho người ấy ở cõi ấyï; còn đối với tất cả người hữu tâm đang sanh thì với người ấy ở cõi ấy pháp xứ sẽ sanh và ý xứ cũng đang sanh”.
[466] Nhãn xứ không đang sanh cho người nào thì nhĩ xứ sẽ không sanh cho người ấy phải chăng?
“Ðối với tất cả người đang tử biệt, người vô nhãn đang sanh, với người ấy nhãn xứ không đang sanh, nhưng nhĩ xứ chẳng phải sẽ không sanh cho người ấy, còn đối với người đang viên tịch cõi ngũ uẩn, người kiếp chót ở cõi vô sắc, và người đang tử biệt mà sẽ sanh lên cõi vô sắc rồi viên tịch, thì với những người ấy nhãn xứ không đang sanh và nhĩ xứ cũng sẽ không sanh”.
– HAY LÀ NHĨ XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người kiếp chót đang sanh cõi ngũ uẩn và người đang sanh mà sẽ sanh lên cõi vô sắc rồi viên tịch, với những người ấy nhĩ xứ sẽ không đang sanh nhưng nhãn xứ chẳng phải không đang sanh cho những người ấy; còn đối với người đang viên tịch ở cõi ngũ uẩn người kiếp chót trong cõi vô sắc người đang tử biệt mà sẽ sanh lên cõi vô sắc rồi viên tịch, thì với những người ấy nhĩ xứ sẽ không sanh và nhãn xứ cũng không đang sanh”.
[467] Nhãn xứ không đang sanh cho người nào thì tỷ xứ sẽ không sanh cho người ấy phải chăng?
“Ðối với tất cả người đang tử biệt, người vô nhãn đang sanh, với người ấy nhãn xứ không đang sanh, nhưng tỷ xứ chẳng phải sẽ không sanh cho người ấy. Ðối với người đang viên tịch ở cõi ngũ uẩn người kiếp chót trong cõi vô sắc, và người đang tử biệt mà sẽ sanh lên cõi sắc giới, cõi vô sắc giới rồi viên tịch, với những người ấy nhãn xứ không đang sanh và tỷ xứ cũng sẽ không sanh”.
– HAY LÀ TỶ XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người kiếp chót đang sanh cõi ngũ uẩn, và người đang sanh mà sẽ sanh lên cõi sắc giới cõi vô sắc rồi viên tịch với những người ấy tỷ xứ sẽ không sanh, nhưng nhãn xứ chẳng phải không đang sanh cho họ; còn đối với người đang viên tịch cõi ngũ uẩn, người kiếp chót ở cõi vô sắc, và người đang tử biệt mà sẽ sanh lên cõi sắc giới cõi vô sắc giới rồi viên tịch, thì với những người ấy tỷ xứ sẽ không sanh và nhãn xứ cũng không đang sanh”.
[468] Nhãn xứ không đang sanh cho người nào thì sắc xứ sẽ không sanh cho người ấy phải chăng?
“Ðối với tất cả người đang tử biệt, người vô nhãn đang sanh, với người ấy nhãn xứ không đang sanh, nhưng sắc xứ chẳng phải sẽ không sanh cho họ; còn đối với người đang viên tịch cõi ngũ uẩn, người kiếp chót ở cõi vô sắc, và người tử biệt mà sẽ sanh lên cõi vô sắc rồi viên tịch, với những người ấy nhãn xứ không đang sanh và sắc xứ cũng sẽ không sanh”.
– HAY LÀ SẮC XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người kiếp chót đang sanh cõi ngũ uẩn và người đang sanh mà sẽ sanh lên cõi vô sắc rồi viên tịch, với người ấy sắc xứ sẽ không sanh, nhưng nhãn xứ chẳng phải không đang sanh cho họ; còn đối với người đang viên tịch ở cõi ngũ uẩn, người kiếp chót ở cõi vô sắc, và người đang tử biệt mà sẽ sanh lên cõi vô sắc rồi viên tịch, thì với những người ấy sắc xứ sẽ không sanh và nhãn xứ không đang sanh”.
[469] Nhãn xứ không đang sanh cho người nào thì ý xứ sẽ không sanh cho người ấy phải chăng?
“Ðối với tất cả người đang tử biệt, người vô nhãn đang sanh, với người ấy nhãn xứ không đang sanh, nhưng ý xứ chẳng phải sẽ không sanh cho họ; còn đối với người đang viên tịch cõi ngũ uẩn, người kiếp chót ở cõi vô sắc, thì với người ấy nhãn xứ không đang sanh và ý xứ cũng sẽ không sanh”.
– HAY LÀ Ý XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người kiếp chót đang sanh cõi ngũ uẩn thì với người ấy ý xứ sẽ không sanh, nhưng nhãn xứ chẳng phải không đang sanh cho họ; còn đối với người đang viên tịch ở cõi ngũ uẩn, người kiếp chót trong cõi vô sắc, thì với người ấy ý xứ sẽ không sanh và nhãn xứ cũng không đang sanh”.
[470] Nhãn xứ không đang sanh cho người nào thì pháp xứ sẽ không sanh cho người ấy phải chăng?
“Ðối với tất cả người đang tử biệt, người vô nhãn đang sanh, với người ấy, nhãn xứ không đang sanh, nhưng pháp xứ chẳng phải sẽ không sanh cho họ; còn đối với người đang viên tịch ở cõi ngũ uẩn, người kiếp chót trong cõi vô sắc, thì với người ấy nhãn xứ không đang sanh và pháp xứ cũng sẽ không sanh”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người kiếp chót đang sanh cõi ngũ uẩn, với người ấy pháp xứ sẽ không sanh, nhưng nhãn xứ chẳng phải không đang sanh cho họ; còn đối với người đang viên tịch ở cõi ngũ uẩn, người kiếp chót trong cõi vô sắc, thì với người ấy pháp xứ sẽ không sanh và nhãn xứ cũng không đang sanh”.
[471] Tỷ xứ không đang sanh cho người nào thì sắc xứ sẽ không sanh cho người ấy phải chăng?
“Ðối với tất cả người đang tử biệt, người vô tỷ đang sanh, với người ấy tỷ xứ không đang sanh, nhưng sắc xứ chẳng phải sẽ không sanh cho người ấy; còn đối với người đang viên tịch ở cõi dục giới, người kiếp chót ở cõi sắc giới, cõi vô sắc giới, và người đang tử biệt mà sẽ sanh lên cõi vô sắc rồi viên tịch, thì với người ấy tỷ xứ không đang sanh và sắc xứ cũng sẽ không sanh”.
– HAY LÀ SẮC XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ TỶ XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người kiếp chót đang sanh cõi dục giới, và người đang sanh mà sẽ sanh lên cõi vô sắc rồi viên tịch thì với người ấy sắc xứ sẽ không sanh, nhưng tỷ xứ chẳng phải không đang sanh cho họ; còn đối với người đang viên tịch ở cõi dục giới, người kiếp chót ở cõi sắc giới cõi vô sắc giới, và người đang tử biệt mà sẽ sanh lên cõi vô sắc rồi viên tịch, với người ấy sắc xứ sẽ không sanh và tỷ xứ cũng không đang sanh”.
[472] Tỷ xứ không đang sanh cho người nào thì ý xứ … trùng … pháp xứ sẽ không sanh cho người ấy phải chăng?
“Ðối với tất cả người đang tử biệt, người vô tỷ đang sanh, với người ấy tỷ xứ không đang sanh, nhưng pháp xứ chẳng phải sẽ không sanh cho họ; còn đối với người đang viên tịch cõi dục giới, người kiếp chót trong cõi sắc giới cõi vô sắc giới, với người ấy tỷ xứ không đang sanh và pháp xứ cũng sẽ không sanh”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ TỶ XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người kiếp chót đang sanh cõi dục giới, với người ấy pháp xứ sẽ không sanh, nhưng tỷ xứ chẳng phải không đang sanh cho người ấyï; còn đối với người đang viên tịch cõi dục giới, người kiếp chót trong cõi sắc giới cõi vô sắc giới, với người ấy pháp xứ sẽ không sanh và tỷ xứ cũng không đang sanh”.
[473] Sắc xứ không đang sanh cho người nào thì ý xứ … trùng … pháp xứ sẽ không sanh cho người ấy phải chăng?
“Ðối với tất cả người đang tử biệt, người vô sắc đang sanh, với người ấy sắc xứ không đang sanh, nhưng pháp xứ chẳng phải sẽ không sanh cho họ; còn đối với người đang viên tịch cõi ngũ uẩn, người kiếp chót ở cõi vô sắc, thì với người ấy sắc xứ không đang sanh và pháp xứ cũng sẽ không sanh”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ SẮC XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người kiếp chót đang sanh cõi ngũ uẩn, với người ấy pháp xứ sẽ không sanh, nhưng sắc xứ chẳng phải không đang sanh cho người ấyï; còn đối với người đang viên tịch cõi ngũ uẩn, người kiếp chót ở cõi vô sắc thì với người ấy pháp xứ sẽ không sanh và sắc xứ cũng không đang sanh”.
[474] Ý xứ không đang sanh cho người nào thì pháp xứ sẽ không sanh cho người ấy phải chăng?
“Ðối với tất cả người đang tử biệt, người vô tâm đang sanh, với người ấy ý xứ không đang sanh, nhưng pháp xứ chẳng phải sẽ không sanh cho họ; còn đối với người đang viên tịch thì với người ấy ý xứ không đang sanh và pháp xứ cũng sẽ không sanh”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ Ý XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người kiếp chót đang sanh, với người ấy pháp xứ sẽ không sanh, nhưng ý xứ chẳng phải không đang sanh cho người ấy; đối với người đang viên tịch, thì với người ấy pháp xứ sẽ không sanh và ý xứ cũng không đang sanh”.
[475] Nhãn xứ không đang sanh ở cõi nào … trùng …
[476] Nhãn xứ không đang sanh cho người nào ở cõi nào thì nhĩ xứ sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với tất cả người đang tử biệt cõi ngũ uẩn, người vô nhãn đang sanh, với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ không đang sanh, nhưng nhĩ xứ chẳng phải sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch cõi ngũ uẩn, người cõi vô tưởng, người cõi vô sắc, thì với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ không đang sanh và nhĩ xứ cũng sẽ không sanh”.
– HAY LÀ NHĨ XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người kiếp chót đang sanh cõi ngũ uẩn, với người ấy ở cõi ấy nhĩ xứ sẽ không sanh, nhưng nhãn xứ chẳng phải không đang sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch ở cõi ngũ uẩn, người cõi vô tưởng, người cõi vô sắc, với người ấy ở cõi ấy nhĩ xứ sẽ không sanh và nhãn xứ cũng không đang sanh”.
[477] Nhãn xứ không đang sanh cho người nào ở cõi nào thì tỷ xứ sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với tất cả người đang tử biệt cõi dục giới, với người vô nhãn đang sanh cõi dục giới, với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ không đang sanh, nhưng tỷ xứ chẳng phải sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch ở cõi dục giới, người đang tử biệt cõi sắc giới, người cõi vô tưởng, người cõi vô sắc, với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ không đang sanh và tỷ xứ cũng sẽ không sanh”.
– HAY LÀ TỶ XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người kiếp chót đang sanh cõi dục giới, người đang sanh cõi sắc giới, với người ấy ở cõi ấy tỷ xứ sẽ không sanh, nhưng nhãn xứ không đang sanh cho người ấy ở cõi ấy. Ðối với người đang viên tịch cõi dục giới, người đang tử biệt cõi sắc giới, người cõi vô tưởng, người cõi vô sắc, với người ấy ở cõi ấy tỷ xứ sẽ không sanh và nhãn xứ cũng không đang sanh”.
[478] Nhãn xứ không đang sanh cho người nào ở cõi nào thì sắc xứ sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với tất cả người đang tử biệt cõi ngũ uẩn, người vô nhãn đang sanh, cõi dục giới, người cõi vô tưởng, với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ không đang sanh, nhưng sắc xứ chẳng phải sẽ không sanh cho người ấy; còn đối với người đang viên tịch cõi ngũ uẩn, người cõi vô sắc, thì với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ không đang sanh và sắc xứ cũng sẽ không sanh”.
– HAY LÀ SẮC XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người kiếp chót đang sanh cõi ngũ uẩn, với người ấy ở cõi ấy sắc xứ sẽ không sanh, nhưng nhãn xứ chẳng phải không đang sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch cõi ngũ uẩn, người cõi vô sắc, thì với người ấy ở cõi ấy sắc xứ sẽ không sanh và nhãn xứ cũng không đang sanh”.
[479] Nhãn xứ không đang sanh cho người nào ở cõi nào thì ý xứ sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với tất cả người đang tử biệt cõi ngũ uẩn, người vô nhãn đang sanh cõi dục giới, người cõi vô sắc, với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ không đang sanh, nhưng ý xứ chẳng phải sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch cõi ngũ uẩn, người kiếp chót trong cõi vô sắc, người cõi vô tưởng, thì với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ không đang sanh và ý xứ cũng sẽ không sanh”.
HAY LÀ Ý XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG
“Ðối với người kiếp chót đang sanh cõi ngũ uẩn, với người ấy ở cõi ấy ý xứ sẽ không sanh, nhưng nhãn xứ chẳng phải không đang sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch cõi ngũ uẩn, người kiếp chót trong cõi vô sắc, người cõi vô tưởng, thì với người ấy ở cõi ấy ý xứ sẽ không sanh và nhãn xứ cũng không đang sanh”.
[480] Nhãn xứ không đang sanh cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với tất cả người đang tử biệt, người vô nhãn đang sanh, với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ không đang sanh, nhưng pháp xứ chẳng phải sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch trong cõi ngũ uẩn, người kiếp chót trong cõi vô sắc, với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ không đang sanh và pháp xứ cũng sẽ không sanh”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người kiếp chót đang sanh cõi ngũ uẩn, với người ấy ở cõi ấy pháp xứ sẽ không sanh, nhưng nhãn xứ chẳng phải không đang sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch cõi ngũ uẩn, người kiếp chót trong cõi vô sắc, với người ấy ở cõi ấy pháp xứ sẽ không sanh và nhãn xứ cũng không đang sanh”.
[481] Tỷ xứ không đang sanh cho người nào ở cõi nào thì sắc xứ sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang tử biệt cõi dục giới, người vô tỷ đang sanh cõi dục giới, với người ấy ở cõi ấy tỷ xứ không đang sanh, nhưng sắc xứ chẳng phải sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch cõi dục giới, người kiếp chót trong cõi sắc giới, người cõi vô sắc, với người ấy ở cõi ấy tỷ xứ không đang sanh và sắc xứ cũng sẽ không sanh”.
– HAY LÀ SẮC XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ TỶ XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người kiếp chót đang sanh cõi dục giới, với người ấy ở cõi ấy sắc xứ sẽ không sanh, nhưng tỷ xứ chẳng phải không đang sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch ở cõi dục giới, người kiếp chót trong cõi sắc giới, người cõi vô sắc, với người ấy ở cõi ấy sắc xứ sẽ không sanh và tỷ xứ cũng không đang sanh”.
[482] Tỷ xứ không đang sanh cho người nào ở cõi nào thì ý xứ sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang tử biệt cõi dục giới, người vô tỷ đang sanh cõi dục giới, người cõi sắc giới, người cõi vô sắc giới, với người ấy ở cõi ấy tỷ xứ không đang sanh, nhưng ý xứ chẳng phải sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch cõi dục giới, người kiếp chót trong cõi sắc giới, cõi vô sắc giới, người cõi vô tưởng, với người ấy ở cõi ấy tỷ xứ không đang sanh và ý xứ sẽ không sanh”.
– HAY LÀ Ý XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ TỶ XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người kiếp chót đang sanh cõi dục giới, với người ấy ở cõi ấy ý xứ sẽ không sanh, nhưng tỷ xứ chẳng phải không đang sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch cõi dục giới, người kiếp chót trong cõi sắc giới, người cõi vô tưởng, với người ấy ở cõi ấy ý xứ sẽ không sanh và tỷ xứ cũng không đang sanh”.
[483] Tỷ xứ không đang sanh cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với tất cả người đang tử biệt, người vô tỷ đang sanh, với người ấy ở cõi ấy tỷ xứ không đang sanh, nhưng pháp xứ chẳng phải sẽ không sanh cho người ấy; còn đối với người đang viên tịch ở cõi dục giới, người kiếp chót trong cõi sắc giới cõi vô sắc giới, với người ấy ở cõi ấy tỷ xứ không đang sanh và pháp xứ cũng sẽ không sanh”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ TỶ XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người kiếp chót đang sanh cõi dục giới với người ấy ở cõi ấy pháp xứ sẽ không sanh, nhưng tỷ xứ chẳng phải không đang sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch cõi dục giới, người kiếp chót trong cõi sắc giới cõi vô sắc giới, với người ấy ở cõi ấy pháp xứ sẽ không sanh và tỷ xứ cũng không đang sanh”.
[484] Sắc xứ không đang sanh cho người nào ở cõi nào thì ý xứ sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với tất cả người đang tử biệt cõi ngũ uẩn, người cõi vô sắc, với người ấy ở cõi ấy sắc xứ không đang sanh, nhưng ý xứ chẳng phải sẽ không sanh cho người ấy; còn đối với người đang viên tịch cõi ngũ uẩn, người kiếp chót trong cõi vô sắc, người đang tử biệt cõi vô tưởng, với người ấy ở cõi ấy sắc xứ không đang sanh và ý xứ cũng sẽ không sanh”.
– HAY LÀ Ý XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ SẮC XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người kiếp chót đang sanh cõi ngũ uẩn và người đang sanh cõi vô tưởng, với người ấy ở cõi ấy ý xứ sẽ không sanh, nhưng sắc xứ không đang sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch cõi ngũ uẩn, người kiếp chót trong cõi vô sắc, người đang tử biệt cõi vô tưởng, với người ấy ở cõi ấy ý xứ sẽ không sanh và sắc xứ cũng không đang sanh”.
[485] Sắc xứ không đang sanh cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với tất cả người đang tử biệt, người vô sắc đang sanh, với người ấy ở cõi ấy sắc xứ không đang sanh, nhưng pháp xứ chẳng phải sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch cõi ngũ uẩn, người kiếp chót cõi vô sắc, với người ấy ở cõi ấy sắc xứ không đang sanh và pháp xứ cũng sẽ không sanh”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ SẮC XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người kiếp chót đang sanh cõi ngũ uẩn, với người ấy ở cõi ấy pháp xứ sẽ không sanh nhưng sắc xứ chẳng phải không đang sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch cõi ngũ uẩn, người kiếp chót trong cõi vô sắc, với người ấy ở cõi ấy pháp xứ sẽ không sanh và sắc xứ cũng không đang sanh”.
[486] Ý xứ không đang sanh cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với tất cả người đang tử biệt, người vô tâm đang sanh, với người ấy ở cõi ấy ý xứ không đang sanh, nhưng pháp xứ chẳng phải sẽ không sanh cho người ấy; còn đối với người đang viên tịch, với người ấy ở cõi ấy ý xứ không đang sanh và pháp xứ cũng sẽ không sanh”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ Ý XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người kiếp chót đang sanh, với người ấy ở cõi ấy pháp xứ sẽ không sanh, nhưng ý xứ chẳng phải không đang sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch, thì với người ấy ở cõi ấy pháp xứ sẽ không sanh và ý xứ cũng không đang sanh”.
[487] Nhãn xứ từng sanh cho người nào thì nhĩ xứ sẽ sanh cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người kiếp chót và người mà sẽ sanh lên cõi vô sắc rồi viên tịch, với người ấy nhãn xứ từng sanh nhưng nhĩ xứ sẽ chẳng sanh cho người ấy; còn đối với hạng khác, thì với họ nhãn xứ từng sanh và nhĩ xứ cũng sẽ sanh”.
– HAY LÀ NHĨ XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[488] Nhãn xứ từng sanh cho người nào thì tỷ xứ sẽ sanh cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người kiếp chót, và người mà sẽ sanh lên cõi sắc giới cõi vô sắc giới rồi viên tịch, với người ấy nhãn xứ từng sanh nhưng tỷ xứ sẽ chẳng sanh cho người ấy; còn đối với hạng khác, thì với họ nhãn xứ từng sanh và tỷ xứ cũng sẽ sanh cho người ấy;
– HAY LÀ TỶ XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[489] Nhãn xứ từng sanh cho người nào thì sắc xứ sẽ sanh cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người kiếp chót, và người mà sẽ sanh lên cõi vô sắc rồi viên tịch, với người ấy nhãn xứ từng sanh, nhưng sắc xứ sẽ chẳng sanh cho người ấy; còn đối với hạng khác nhãn xứ từng sanh và sắc xứ cũng sẽ sanh”.
– HAY LÀ SẮC XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[490] Nhãn xứ từng sanh cho người nào thì ý xứ … trùng … pháp xứ sẽ sanh cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người kiếp chót, với người ấy nhãn xứ từng sanh nhưng pháp xứ sẽ chẳng sanh cho người ấy; còn đối với hạng khác, thì với người ấy nhãn xứ từng sanh và pháp xứ cũng sẽ sanh”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[491] Tỷ xứ từng sanh cho người nào thì sắc xứ sẽ sanh cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người kiếp chót, và người mà sẽ sanh lên cõi vô sắc rồi viên tịch, với người ấy tỷ xứ từng sanh nhưng sắc xứ sẽ chẳng sanh cho người ấy; còn đối với hạng khác, thì với người ấy tỷ xứ từng sanh và sắc xứ cũng sẽ sanh”.
– HAY LÀ SẮC XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ TỶ XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[492] Tỷ xứ từng sanh cho người nào thì ý xứ … trùng … pháp xứ sẽ sanh cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người kiếp chót, với người ấy tỷ xứ từng sanh, nhưng pháp xứ sẽ chẳng sanh cho người ấy; còn đối với hạng khác thì với người ấy tỷ xứ từng sanh và pháp xứ cũng sẽ sanh”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ TỶ XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[493] Sắc xứ từng sanh cho người nào thì ý xứ … trùng … pháp xứ sẽ sanh cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người kiếp chót, với người ấy sắc xứ từng sanh nhưng pháp xứ sẽ chẳng sanh cho người ấy; còn đối với hạng khác thì với người ấy sắc xứ từng sanh và pháp xứ cũng sẽ sanh”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ SẮC XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[494] Ý xứ từng sanh cho người nào thì pháp xứ sẽ sanh cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người kiếp chót, với người ấy ý xứ từng sanh nhưng pháp xứ sẽ chẳng sanh cho người ấy; còn đối với hạng khác, thì với người ấy ý xứ từng sanh và pháp xứ cũng sẽ sanh”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ Ý XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[495] Nhãn xứ từng sanh ở cõi nào … trùng …
[496] Nhãn xứ từng sanh cho người nào ở cõi nào thì nhĩ xứ sẽ sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người kiếp chót trong cõi ngũ uẩn, với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ từng sanh nhưng nhĩ xứ sẽ chẳng sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với hạng người cõi ngũ uẩn ngoài ra, thì với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ từng sanh và nhĩ xứ cũng sẽ sanh”.
– HAY LÀ NHĨ XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[497] Nhãn xứ từng sanh cho người nào ở cõi nào thì tỷ xứ sẽ sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người kiếp chót trong cõi dục giới, người cõi sắc giới, với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ từng sanh nhưng tỷ xứ sẽ chẳng sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người cõi dục giới ngoài ra, thì với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ từng sanh và tỷ xứ cũng sẽ sanh”.
– HAY LÀ TỶ XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO … trùng…?
“Phải rồi!”
[498] Nhãn xứ từng sanh cho người nào ở cõi nào thì sắc xứ sẽ sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người kiếp chót trong cõi ngũ uẩn, với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ từng sanh nhưng sắc xứ sẽ chẳng sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với hạng người cõi ngũ uẩn, ngoài ra thì với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ từng sanh và sắc xứ cũng sẽ sanh”.
– HAY LÀ SẮC XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người cõi vô tưởng, với người ấy ở cõi ấy sắc xứ sẽ sanh nhưng nhãn xứ chẳng từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người cõi ngũ uẩn thì sắc xứ sẽ sanh và nhãn xứ cũng từng sanh”.
[499] Nhãn xứ từng sanh cho người nào ở cõi nào thì ý xứ sẽ sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người kiếp chót trong cõi ngũ uẩn, với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ từng sanh nhưng ý xứ sẽ chẳng sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người cõi ngũ uẩn ngoài ra thì với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ từng sanh và ý xứ cũng sẽ sanh”.
– HAY LÀ Ý XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người cõi vô sắc, với người ấy ở cõi ấy ý xứ sẽ sanh nhưng nhãn xứ chẳng từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người cõi ngũ uẩn thì với người ấy ở cõi ấy ý xứ sẽ sanh và nhãn xứ cũng từng sanh”.
[500] Nhãn xứ từng sanh cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ sẽ sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người kiếp chót trong cõi ngũ uẩn, với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ từng sanh nhưng pháp xứ sẽ chẳng sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người cõi ngũ uẩn ngoài ra, thì với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ từng sanh và pháp xứ cũng sẽ sanh”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người cõi vô tưởng, người cõi vô sắc, với người ấy ở cõi ấy pháp xứ sẽ sanh nhưng nhãn xứ chẳng từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người cõi ngũ uẩn, với người ấy ở cõi ấy pháp xứ sẽ sanh và nhãn xứ cũng từng sanh”.
[501] Tỷ xứ từng sanh cho người nào ở cõi nào thì sắc xứ sẽ sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người kiếp chót trong cõi dục giới, với người ấy ở cõi ấy tỷ xứ từng sanh nhưng sắc xứ sẽ chẳng sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với hạng người cõi dục giới ngoài ra, thì với người ấy ở cõi ấy tỷ xứ từng sanh và sắc xứ cũng sẽ sanh”.
– HAY LÀ SẮC XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ TỶ XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người cõi sắc giới, với người ấy ở cõi ấy sắc xứ sẽ sanh nhưng tỷ xứ không từng sanh; còn đối với người cõi dục giới, với người ấy ở cõi ấy sắc xứ sẽ sanh và tỷ xứ cũng từng sanh”.
[502] Tỷ xứ từng sanh cho người nào ở cõi nào thì ý xứ … trùng … pháp xứ sẽ sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người kiếp chót cõi dục giới, với người ấy ở cõi ấy tỷ xứ từng sanh nhưng pháp xứ sẽ chẳng sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người cõi dục giới ngoài ra, thì với người ấy ở cõi ấy tỷ xứ từng sanh và pháp xứ cũng sẽ sanh”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ TỶ XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người cõi sắc giới, người cõi vô sắc giới, với người ấy ở cõi ấy pháp xứ sẽ sanh nhưng tỷ xứ chẳng từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người cõi dục giới với người ấy ở cõi ấy pháp xứ sẽ sanh và tỷ xứ cũng từng sanh”.
[503] Sắc xứ từng sanh cho người nào ở cõi nào thì ý xứ sẽ sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người kiếp chót cõi ngũ uẩn, người cõi vô tưởng, với người ấy ở cõi ấy sắc xứ từng sanh nhưng ý xứ sẽ chẳng sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người cõi ngũ uẩn ngoài ra thì với người ấy ở cõi ấy sắc xứ từng sanh và ý xứ cũng sẽ sanh”.
– HAY LÀ Ý XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ SẮC XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người cõi vô sắc, với người ấy ở cõi ấy ý xứ sẽ sanh nhưng sắc xứ sẽ sanh nhưng sắc xứ chẳng từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang tử biệt cõi ngũ uẩn thì với người ấy ở cõi ấy ý xứ sẽ sanh và sắc xứ cũng từng sanh”.
[504] Sắc xứ từng sanh cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ sẽ sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người kiếp chót trong cõi ngũ uẩn, với người ấy ở cõi ấy sắc xứ từng sanh nhưng pháp xứ sẽ chẳng sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người cõi ngũ uẩn ngoài ra, và người cõi vô tưởng, thì với người ấy sắc xứ từng sanh và pháp xứ cũng sẽ sanh”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ SẮC XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người cõi vô sắc, với người ấy ở cõi ấy pháp xứ sẽ sanh nhưng sắc xứ chẳng từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người cõi ngũ uẩn, người cõi vô tưởng thì với người ấy ở cõi ấy pháp xứ sẽ sanh và sắc xứ cũng từng sanh”.
[505] Ý xứ từng sanh cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ sẽ sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người kiếp chót, với người ấy ở cõi ấy ý xứ từng sanh, nhưng pháp xứ sẽ chẳng sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người cõi tứ uẩn, người cõi ngũ uẩn ngoài ra thì với người ấy ở cõi ấy ý xứ từng sanh và pháp xứ cũng sẽ sanh”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ Ý XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người cõi vô tưởng, với người ấy ở cõi ấy thì pháp xứ sẽ sanh nhưng ý xứ chẳng từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người cõi tứ uẩn, người cõi ngũ uẩn thì với người ấy ở cõi ấy pháp xứ sẽ sanh và ý xứ cũng từng sanh”.
[506] Nhãn xứ không từng sanh cho người nào thì nhĩ xứ sẽ không sanh cho người ấy phải chăng?
“Không có!”
– HAY LÀ NHĨ XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Từng sanh!”
[507] Nhãn xứ không từng sanh cho người nào thì tỷ xứ … trùng … sắc xứ … ý xứ … pháp xứ sẽ không sanh cho người ấy phải chăng?
“Không có!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Từng sanh!”
[508] Tỷ xứ … trùng … sắc xứ … ý xứ không từng sanh cho người nào thì pháp xứ sẽ không sanh cho người ấy phải chăng?
“Không có!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ Ý XỨ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Từng sanh!”
[509] Nhãn xứ không từng sanh ở cõi nào … trùng …
[510] Nhãn xứ không từng sanh cho người nào ở cõi nào thì nhĩ xứ sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ NHĨ XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người kiếp chót ở cõi ngũ uẩn, với người ấy ở cõi ấy thì nhĩ xứ sẽ không sanh nhưng nhãn xứ chẳng phải không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người cõi tịnh cư, người cõi vô tưởng, người cõi vô sắc thì với người ấy ở cõi ấy nhĩ xứ sẽ không sanh và nhãn xứ cũng không từng sanh”.
[511] Nhãn xứ không từng sanh cho người nào ở cõi nào thì tỷ xứ sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ TỶ XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người kiếp chót trong cõi dục giới, người cõi sắc giới, với người ấy ở cõi ấy tỷ xứ sẽ không sanh, nhưng nhãn xứ không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người cõi tịnh cư, người cõi vô tưởng, người cõi vô sắc, thì với người ấy ở cõi ấy tỷ xứ sẽ không sanh và nhãn xứ cũng không từng sanh”.
[512] Nhãn xứ không từng sanh cho người nào ở cõi nào thì sắc xứ sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người cõi vô tưởng, với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ chẳng phải sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người cõi tịnh cư, người cõi vô sắc, thì với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ sẽ không từng sanh và sắc xứ cũng sẽ không sanh”.
– HAY LÀ SẮC XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người kiếp chót cõi ngũ uẩn, với người ấy ở cõi ấy sắc xứ sẽ không sanh, nhưng nhãn xứ chẳng phải không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người cõi tịnh cư, người cõi vô sắc, với người ấy ở cõi ấy sắc xứ sẽ không sanh và nhãn xứ cũng không từng sanh”.
[513] Nhãn xứ không từng sanh cho người nào ở cõi nào thì ý xứ sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người cõi vô sắc, với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ không từng sanh nhưng ý xứ chẳng phải sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người cõi tịnh cư, người kiếp chót trong cõi vô sắc, người cõi vô tưởng, với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ không từng sanh và ý xứ cũng sẽ không sanh”.
– HAY LÀ Ý XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người kiếp chót cõi ngũ uẩn, với người ấy ở cõi ấy ý xứ sẽ không sanh, nhưng nhãn xứ chẳng phải không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người cõi tịnh cư, người kiếp chót trong cõi vô sắc, người cõi vô tưởng, với người ấy ở cõi ấy ý xứ sẽ không sanh và nhãn xứ cũng không từng sanh”.
[514] Nhãn xứ không từng sanh cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người cõi vô tưởng, người cõi vô sắc, với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ không từng sanh nhưng pháp xứ chẳng phải sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người cõi tịnh cư, người kiếp chót ở cõi vô sắc, với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ không từng sanh và pháp xứ cũng sẽ không sanh”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người kiếp chót ở cõi ngũ uẩn, với người ấy ở cõi ấy pháp xứ sẽ không sanh, nhưng nhãn xứ chẳng phải không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người cõi tịnh cư, người kiếp chót cõi vô sắc, với người ấy ở cõi ấy pháp xứ sẽ không sanh và nhãn xứ cũng không từng sanh”.
[515] Tỷ xứ không từng sanh cho người nào thì sắc xứ sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người cõi sắc giới, với người ấy ở cõi ấy tỷ xứ không từng sanh, nhưng sắc xứ chẳng phải sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người kiếp chót ở cõi sắc giới, người cõi vô sắc, với người ấy ở cõi ấy tỷ xứ sẽ không từng sanh và sắc xứ cũng sẽ không sanh”.
– HAY LÀ SẮC XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ TỶ XỨ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người kiếp chót ở cõi dục giới, với người ấy ở cõi ấy sắc xứ sẽ không sanh nhưng tỷ xứ chẳng phải không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người kiếp chót cõi sắc giới, người cõi vô sắc, thì với người ấy ở cõi ấy sắc xứ sẽ không sanh và tỷ xứ cũng không từng sanh”.
[516] Tỷ xứ không từng sanh cho người nào ở cõi nào thì ý xứ sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người cõi sắc giới, người cõi vô sắc giới, với người ấy ở cõi ấy tỷ xứ không từng sanh nhưng ý xứ chẳng phải sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người kiếp chót ở cõi sắc giới, ở cõi vô sắc giới, người cõi vô tưởng, thì với người ấy ở cõi ấy tỷ xứ không từng sanh và ý xứ cũng sẽ không sanh”.
– HAY LÀ Ý XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ TỶ XỨ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người kiếp chót cõi dục giới, với người ấy ở cõi ấy ý xứ sẽ không sanh, nhưng tỷ xứ chẳng phải không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người kiếp chót ở cõi sắc giới, cõi vô sắc giới, người ở cõi vô tưởng thì với người ấy ở cõi ấy ý xứ sẽ không sanh và tỷ xứ cũng không từng sanh”.
[517] Tỷ xứ không từng sanh cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người cõi sắc giới, người cõi vô sắc giới với người ấy ở cõi ấy tỷ xứ không từng sanh nhưng pháp xứ chẳng phải sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người kiếp chót cõi sắc giới, cõi vô sắc giới, thì với người ấy ở cõi ấy tỷ xứ sẽ không từng sanh và pháp xứ cũng sẽ không sanh!”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ TỶ XỨ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người kiếp chót cõi dục giới, với người ấy ở cõi ấy pháp xứ sẽ không sanh, nhưng tỷ xứ chẳng phải không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người kiếp chót ở cõi sắc giới, cõi vô sắc giới, thì với người ấy ở cõi ấy pháp xứ sẽ không sanh và tỷ xứ cũng không từng sanh”.
[518] Sắc xứ không từng sanh cho người nào ở cõi nào thì ý xứ sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người cõi vô sắc, với người ấy ở cõi ấy sắc xứ không từng sanh nhưng ý xứ chẳng phải sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người cõi tịnh cư, người kiếp chót cõi vô sắc, với người ấy ở cõi ấy sắc xứ không từng sanh và ý xứ cũng sẽ không sanh!”.
– HAY LÀ Ý XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ SẮC XỨ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người kiếp chót ở cõi ngũ uẩn, người cõi vô tưởng, với người ấy ở cõi ấy ý xứ sẽ không sanh, nhưng sắc xứ chẳng phải không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người cõi tịnh cư, người kiếp chót ở cõi vô sắc thì với người ấy ở cõi ấy ý xứ sẽ không sanh và sắc xứ cũng không từng sanh”.
[519] Sắc xứ không từng sanh cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người cõi vô sắc, với người ấy ở cõi ấy sắc xứ không từng sanh nhưng pháp xứ chẳng phải sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người cõi tịnh cư, người kiếp chót cõi vô sắc, thì với người ấy ở cõi ấy sắc xứ sẽ không từng sanh và pháp xứ cũng sẽ không sanh!”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ SẮC XỨ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người kiếp chót cõi ngũ uẩn, với người ấy ở cõi ấy pháp xứ sẽ không sanh, nhưng sắc xứ chẳng phải không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người cõi tịnh cư, người kiếp chót cõi vô sắc thì với người ấy ở cõi ấy pháp xứ sẽ không sanh và sắc xứ cũng không từng sanh”.
[520] Ý xứ không từng sanh cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người cõi vô tưởng, với người ấy ở cõi ấy ý xứ không từng sanh nhưng pháp xứ chẳng phải sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người cõi tịnh cư, thì với người ấy ở cõi ấy ý xứ không từng sanh và pháp xứ cũng sẽ không sanh!”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ Ý XỨ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người kiếp chót, với người ấy ở cõi ấy pháp xứ sẽ không sanh, nhưng ý xứ chẳng phải không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người cõi tịnh cư thì với người ấy ở cõi ấy pháp xứ sẽ không sanh và ý xứ cũng không từng sanh”.
DỨT PHẦN SANH (Uppādavāraṃ niṭṭhitaṃ)
[521] Nhãn xứ đang diệt cho người nào thì nhĩ xứ đang diệt cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người hữu nhãn vô nhĩ đang tử biệt, với người ấy nhãn xứ đang diệt mà nhĩ xứ chẳng đang diệt cho người ấy; chỉ đối với người hữu nhãn hữu nhĩ đang tử biệt, thì với người ấy nhãn xứ đang diệt và nhĩ xứ cũng đang diệt”.
– HAY LÀ NHĨ XỨ ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người hữu nhĩ vô nhãn đang tử biệt, với người ấy nhĩ xứ đang diệt diệt mà nhãn xứ chẳng đang diệt cho người ấy; chỉ đối với người hữu nhĩ hữu nhãn đang tử biệt, thì với người ấy nhĩ xứ đang diệt và nhãn xứ cũng đang diệt”.
[522] Nhãn xứ đang diệt cho người nào thì tỷ xứ đang diệt cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người hữu nhãn vô tỷ đang tử biệt, với người ấy nhãn xứ đang diệt nhưng tỷ xứ chẳng đang diệt cho người ấy; còn đối với người hữu nhãn hữu tỷ đang tử biệt, thì với người ấy nhãn xứ đang diệt và tỷ xứ cũng đang diệt”.
– HAY LÀ TỶ XỨ ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người hữu tỷ vô nhãn đang tử biệt, với người ấy tỷ xứ đang diệt diệt mà nhãn xứ chẳng đang diệt cho người ấy; còn đối với người hữu tỷ hữu nhãn đang tử biệt thì với người ấy tỷ xứ đang diệt và nhãn xứ cũng đang diệt”.
[523] Nhãn xứ đang diệt cho người nào thì sắc xứ đang diệt cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ SẮC XỨ ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người hữu sắc vô nhãn đang tử biệt, với người ấy ý xứ đang diệt, nhưng nhãn xứ chẳng đang diệt cho người ấy; còn đối với người hữu nhãn đang tử biệt, thì với người ấy sắc xứ đang diệt và nhãn xứ cũng đang diệt”.
[524] Nhãn xứ đang diệt cho người nào thì ý xứ đang diệt cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ Ý XỨ ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người hữu tâm vô nhãn đang tử biệt, với người ấy ý xứ đang diệt, nhưng nhãn xứ chẳng phải đang diệt cho người ấy; còn đối với người hữu nhãn đang tử biệt thì với người ấy ý xứ đang diệt và nhãn xứ cũng đang diệt”.
[525] Nhãn xứ đang diệt cho người nào thì pháp xứ đang diệt cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người vô nhãn đang tử biệt, với người ấy pháp xứ đang diệt, nhưng nhãn xứ chẳng đang diệt cho người ấy; còn đối với người hữu nhãn đang tử biệt, thì với người ấy pháp xứ đang diệt và nhãn xứ cũng đang diệt”.
[526] Tỷ xứ đang diệt cho người nào thì sắc xứ đang diệt cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ SẮC XỨ ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ TỶ XỨ ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người hữu sắc vô tỷ đang tử biệt, với người ấy sắc xứ đang diệt, nhưng tỷ xứ chẳng đang diệt cho người ấy; còn đối với người hữu tỷ đang tử biệt, thì với người ấy sắc xứ đang diệt và tỷ xứ cũng đang diệt”.
[527] Tỷ xứ đang diệt cho người nào thì ý xứ đang diệt cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ Ý XỨ ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ TỶ XỨ ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người hữu tâm vô tỷ đang tử biệt, với người ấy ý xứ đang diệt, nhưng tỷ xứ chẳng đang diệt cho người ấy; còn đối với người hữu tỷ đang tử biệt, thì với người ấy ý xứ đang diệt và tỷ xứ cũng đang diệt”.
[528] Tỷ xứ đang diệt cho người nào thì pháp xứ đang diệt cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ TỶ XỨ ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người vô tỷ đang tử biệt, với người ấy pháp xứ đang diệt, nhưng tỷ xứ chẳng đang diệt cho người ấy; còn đối với người hữu tỷ đang tử biệt thì với người ấy pháp xứ đang diệt và tỷ xứ cũng đang diệt”.
[529] Sắc xứ đang diệt cho người nào thì ý xứ đang diệt cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ Ý XỨ ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ SẮC XỨ ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người hữu sắc vô tâm đang tử biệt, với người ấy sắc xứ đang diệt, nhưng ý xứ chẳng đang diệt cho người ấy; với người hữu sắc hữu tâm đang tử biệt, thì với người ấy sắc xứ đang diệt và ý xứ cũng đang diệt”.
– HAY LÀ Ý XỨ ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ SẮC XỨ ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người vô sắc đang tử biệt, với người ấy ý xứ đang diệt, nhưng sắc xứ chẳng đang diệt cho người ấy; còn đối với người hữu sắc hữu tâm đang tử biệt, thì với người ấy ý xứ đang diệt và sắc xứ cũng đang diệt”.
[530] Sắc xứ đang diệt cho người nào thì pháp xứ đang diệt cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ SẮC XỨ ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người vô sắc đang tử biệt, với người ấy pháp xứ đang diệt, nhưng sắc xứ chẳng đang phải đang diệt cho người ấy; với người hữu sắc đang tử biệt, thì với người ấy pháp xứ đang diệt và sắc xứ cũng đang diệt”.
[531] Ý xứ đang diệt cho người nào thì pháp xứ đang diệt cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ Ý XỨ ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người vô tâm đang tử biệt, với người ấy pháp xứ đang diệt, nhưng ý xứ chẳng đang phải đang diệt cho người ấy; còn đối với người hữu tâm đang tử biệt thì với người ấy pháp xứ đang diệt và ý xứ cũng đang diệt”.
[532] Nhãn xứ đang diệt ở cõi nào … trùng …
(Ở phần cõi, cách sanh như thế nào thì cách diệt, cách sanh diệt cũng giống nhau vậy).
[533] Nhãn xứ đang diệt cho người nào ở cõi nào thì nhĩ xứ đang diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?… trùng … tỷ xứ, sắc xứ, pháp xứ đang diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
(Nên giải rộng giống như ở phần người và cõi)
[534] Nhãn xứ không đang diệt cho người nào thì nhĩ xứ không đang diệt cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người vô nhãn hữu nhĩ đang tử biệt, với người ấy nhãn xứ không đang diệt nhưng nhĩ xứ chẳng phải không đang diệt cho người ấy; còn đối với tất cả người đang sanh, người vô nhãn vô nhĩ đang tử biệt, thì với người ấy nhãn xứ không đang diệt và nhĩ xứ cũng không đang diệt”.
– HAY LÀ NHĨ XỨ KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người vô nhĩ hữu nhãn đang tử biệt, với người ấy nhĩ xứ không đang diệt, nhưng nhãn xứ chẳng phải không đang diệt cho người ấy; còn đối với tất cả người đang sanh, người vô nhĩ vô nhãn đang tử biệt thì với người ấy nhĩ xứ không đang diệt và nhãn xứ cũng không đang diệt”.
[535] Nhãn xứ không đang diệt cho người nào thì tỷ xứ không đang diệt cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người vô nhãn hữu tỷ đang tử biệt, với người ấy nhãn xứ không đang diệt, nhưng tỷ xứ chẳng phải không đang diệt cho người ấy; còn đối với tất cả người đang sanh, người vô nhãn vô tỷ đang tử biệt thì với người ấy nhãn xứ không đang diệt và tỷ xứ cũng không đang diệt”.
– HAY LÀ TỶ XỨ KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người vô tỷ hữu nhãn đang tử biệt, với người ấy tỷ xứ không đang diệt, nhưng nhãn xứ chẳng phải không đang diệt cho người ấy; còn đối với tất cả người đang sanh, người vô tỷ vô nhãn đang tử biệt, thì với người ấy tỷ xứ không đang diệt và nhãn xứ cũng không đang diệt”.
[536] Nhãn xứ không đang diệt cho người nào thì sắc xứ không đang diệt cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người vô nhãn hữu sắc đang tử biệt, với người ấy nhãn xứ không đang diệt, nhưng sắc xứ chẳng phải không đang diệt cho người ấy; còn đối với tất cả người đang sanh, người vô sắc đang tử biệt thì với người ấy nhãn xứ không đang diệt và sắc xứ cũng không đang diệt”.
– HAY LÀ SẮC XỨ KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[537] Nhãn xứ không đang diệt cho người nào thì ý xứ không đang diệt cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người vô nhãn hữu tâm đang tử biệt, với người ấy nhãn xứ không đang diệt, nhưng ý xứ chẳng phải không đang diệt cho người ấy; đối với tất cả người đang sanh, người vô tâm đang tử biệt thì với người ấy nhãn xứ không đang diệt và ý xứ cũng không đang diệt”.
– HAY LÀ Ý XỨ KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[538] Nhãn xứ không đang diệt cho người nào thì pháp xứ không đang diệt cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người vô nhãn đang tử biệt, với người ấy nhãn xứ không đang diệt, nhưng pháp xứ chẳng phải không đang diệt cho người ấy; còn đối với tất cả người đang sanh thì với người ấy nhãn xứ không đang diệt và pháp xứ cũng không đang diệt”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[539] Tỷ xứ không đang diệt cho người nào thì sắc xứ không đang diệt cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người vô tỷ hữu sắc đang tử biệt, với người ấy tỷ xứ không đang diệt, nhưng sắc xứ chẳng phải không đang diệt cho người ấy; còn đối với tất cả người đang sanh, người vô sắc đang tử biệt thì với người ấy tỷ xứ không đang diệt và sắc xứ cũng không đang diệt”.
– HAY LÀ SẮC XỨ KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ TỶ XỨ KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[540] Tỷ xứ không đang diệt cho người nào thì ý xứ không đang diệt cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người vô tỷ hữu tâm đang tử biệt, với người ấy tỷ xứ không đang diệt nhưng ý xứ chẳng phải không đang diệt cho người ấy; còn đối với tất cả người đang sanh, người vô tâm đang tử biệt thì với người ấy tỷ xứ không đang diệt và ý xứ cũng không đang diệt”.
– HAY LÀ Ý XỨ KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ TỶ XỨ KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[541] Tỷ xứ không đang diệt cho người nào thì pháp xứ không đang diệt cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người vô tỷ đang tử biệt, với người ấy tỷ xứ không đang diệt, nhưng pháp xứ chẳng phải không đang diệt cho người ấy; còn đối với tất cả người đang sanh, thì với người ấy tỷ xứ không đang diệt và pháp xứ cũng không đang diệt”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ TỶ XỨ KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[542] Sắc xứ không đang diệt cho người nào thì ý xứ không đang diệt cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người vô sắc đang tử biệt, với người ấy sắc xứ không đang diệt, nhưng ý xứ chẳng phải không đang diệt cho người ấy; còn đối với tất cả người đang sanh thì với người ấy sắc xứ không đang diệt và ý xứ cũng không đang diệt”.
– HAY LÀ Ý XỨ KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ SẮC XỨ KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người vô tâm đang tử biệt, với người ấy ý xứ không đang diệt, nhưng sắc xứ chẳng phải không đang diệt cho người ấy; đối với tất cả người đang sanh thì với người ấy ý xứ không đang diệt và sắc xứ cũng không đang diệt”.
[543] Sắc xứ không đang diệt cho người nào thì pháp xứ không đang diệt cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người vô sắc đang tử biệt, với người ấy sắc xứ không đang diệt, nhưng pháp xứ chẳng phải không đang diệt cho người ấy; còn đối với tất cả người đang sanh, thì với người ấy sắc xứ không đang diệt và pháp xứ cũng không đang diệt”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ SẮC XỨ KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[544] Ý xứ không đang diệt cho người nào thì pháp xứ không đang diệt cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người vô tâm đang tử biệt, với người ấy ý xứ không đang diệt, nhưng pháp xứ chẳng phải không đang diệt cho người ấy; còn đối với tất cả người đang sanh thì với người ấy ý xứ không đang diệt và pháp xứ cũng không đang diệt”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ Ý XỨ KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[545] Nhãn xứ không đang diệt ở cõi nào … trùng …
[546] Nhãn xứ không đang diệt cho người nào ở cõi nào … trùng …
Phần về người cùng phần về người cõi đều giống nhau.
[547] Nhãn xứ từng diệt cho người nào thì nhĩ xứ từng diệt cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
Luận quá khứ, dù là câu thuận (Anuloma) hay câu nghịch (Paccaniya) trong phần sanh, trong phần diệt, cũng như trong phần sanh diệt, đều giống nhau.
[548] Nhãn xứ sẽ diệt cho người nào thì nhĩ xứ sẽ diệt cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ NHĨ XỨ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[549] Nhãn xứ sẽ diệt cho người nào thì tỷ xứ sẽ diệt cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người kiếp chót, người đang sanh cõi sắc giới, và người đang tử biệt mà sẽ sanh lên cõi sắc giới rồi viên tịch, với người ấy nhãn xứ sẽ diệt nhưng tỷ xứ sẽ chẳng diệt cho người ấy; còn đối với hạng khác, thì với người ấy nhãn xứ sẽ diệt và tỷ xứ cũng sẽ diệt”.
– HAY LÀ TỶ XỨ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[550] Nhãn xứ sẽ diệt cho người nào thì sắc xứ sẽ diệt cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ SẮC XỨ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[551] Nhãn xứ sẽ diệt cho người nào thì ý xứ … trùng … pháp xứ sẽ diệt cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người kiếp chót đang sanh cõi sắc giới, và người đang tử biệt mà sẽ sanh lên cõi sắc giới rồi viên tịch, với người ấy pháp xứ sẽ sanh nhưng nhãn xứ sẽ chẳng diệt cho người ấy; còn đối với hạng ngoài ra với người ấy pháp xứ sẽ diệt và nhãn xứ cũng sẽ diệt”.
[552] Tỷ xứ sẽ diệt cho người nào thì sắc xứ sẽ diệt cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ SẮC XỨ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ TỶ XỨ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người kiếp chót đang sanh cõi sắc giới, và người đang tử biệt mà sẽ sanh lên cõi sắc giới rồi viên tịch, với người ấy sắc xứ sẽ diệt nhưng tỷ xứ sẽ chẳng diệt cho người ấy; còn đối với hạng ngoài ra, thì với người ấy sắc xứ sẽ diệt và tỷ xứ cũng sẽ diệt”.
[553] Tỷ xứ sẽ diệt cho người nào thì ý xứ … trùng … pháp xứ sẽ diệt cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ TỶ XỨ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người kiếp chót đang sanh cõi sắc giới cõi vô sắc, và người đang tử biệt mà sẽ sanh lên cõi sắc giới, cõi vô sắc rồi viên tịch, với người ấy pháp xứ sẽ diệt nhưng tỷ xứ sẽ chẳng diệt cho người ấy; còn đối với hạng ngoài ra, thì với người ấy pháp xứ sẽ diệt và tỷ xứ cũng sẽ diệt”.
[554] Sắc xứ sẽ diệt cho người nào thì ý xứ … trùng … pháp xứ sẽ diệt cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ SẮC XỨ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người kiếp chót đang sanh cõi vô sắc, và người đang tử biệt mà sẽ sanh lên cõi vô sắc rồi viên tịch, với người ấy pháp xứ sẽ diệt nhưng sắc xứ sẽ chẳng diệt cho người ấy; còn đối với hạng khác, với người ấy thì pháp xứ sẽ diệt và sắc xứ cũng sẽ diệt”.
[555] Ý xứ sẽ diệt cho người nào thì pháp xứ sẽ diệt cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ Ý XỨ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[556] Nhãn xứ sẽ diệt cho cõi nào … trùng …
[557] Nhãn xứ sẽ diệt cho người nào ở cõi nào thì nhĩ xứ sẽ diệt cho người ấy vào cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ NHĨ XỨ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[558] Nhãn xứ sẽ diệt cho người nào ở cõi nào thì tỷ xứ sẽ diệt cho người ấy vào cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người cõi sắc giới … trùng … người cõi dục giới. Ðối với người cõi vô tưởng … tưởng … trùng … người cõi ngũ uẩn. Ðối với người cõi vô tưởng, người cõi vô sắc … trùng … người cõi ngũ uẩn.”
[559] Tỷ xứ sẽ diệt cho người nào ở cõi nào thì sắc xứ sẽ diệt cho người ấy vào cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ SẮC XỨ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ TỶ XỨ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người cõi sắc giới … trùng … người cõi dục giới. Ðối với người cõi sắc giới, người cõi vô sắc giới … trùng … người cõi dục giới”.
[560] Sắc xứ sẽ diệt cho người nào ở cõi nào thì ý xứ sẽ diệt cho người ấy vào cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người cõi vô tưởng … trùng … người cõi ngũ uẩn. Ðối với người cõi vô sắc … trùng … người cõi ngũ uẩn. Ðối với người cõi vô sắc… người cõi ngũ uẩn, người cõi vô tưởng”.
[561] Ý xứ sẽ diệt cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ sẽ diệt cho người ấy vào cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ Ý XỨ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người cõi vô tưởng … trùng … người cõi tứ uẩn, người cõi ngũ uẩn, với người ấy ở cõi ấy pháp xứ sẽ diệt và ý xứ cũng sẽ diệt”.
Trong phần sanh, các câu hỏi luân thời vị lai về người cõi được nói rộng như thế nào thì trong phần Diệt cũng cần được nói rộng như vậy.
[562] Nhãn xứ sẽ không diệt cho người nào thì nhĩ xứ sẽ diệt cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ NHĨ XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[563] Nhãn xứ sẽ không diệt cho người nào thì tỷ xứ sẽ không diệt cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ TỶ XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người kiếp chót đang sanh cõi sắc giới, và người đang tử biệt mà sẽ sanh lên cõi sắc giới rồi viên tịch, với người ấy tỷ xứ sẽ không diệt nhưng nhãn xứ chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy. Ðối với người đang viên tịch cõi ngũ uẩn, người kiếp chót trong cõi vô sắc, người đang tử biệt mà sẽ sanh lên cõi vô sắc rồi viên tịch, thì với người ấy tỷ xứ sẽ không diệt và nhãn xứ cũng sẽ không diệt”.
[564] Nhãn xứ sẽ không diệt cho người nào thì sắc xứ sẽ không diệt cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ SẮC XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[565] Nhãn xứ sẽ không diệt cho người nào thì ý xứ … trùng … pháp xứ sẽ không diệt cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người kiếp chót đang sanh cõi vô sắc và người đang tử biệt mà sẽ sanh lên cõi vô sắc giới rồi viên tịch, với người ấy nhãn xứ sẽ không diệt nhưng pháp xứ chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy; còn đối với người đang viên tịch, thì với người ấy nhãn xứ sẽ không diệt và pháp xứ cũng sẽ không diệt”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[566] Tỷ xứ sẽ không diệt cho người nào thì sắc xứ sẽ không diệt cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người kiếp chót đang sanh cõi sắc giới và người đang tử biệt mà sẽ sanh lên cõi vô sắc giới rồi viên tịch, với người ấy tỷ xứ sẽ không diệt nhưng sắc xứ chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy; còn đối với người đang viên tịch cõi ngũ uẩn, người kiếp chót trong cõi vô sắc rồi viên tịch, thì với người ấy tỷ xứ sẽ không diệt và sắc xứ cũng sẽ không diệt”.
– HAY LÀ SẮC XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ TỶ XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[567] Tỷ xứ sẽ không diệt cho người nào thì ý xứ … trùng … pháp xứ sẽ không diệt cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người kiếp chót đang sanh cõi sắc giới cõi vô sắc, và người đang tử biệt mà sẽ sanh lên cõi vô sắc giới rồi viên tịch, với người ấy tỷ xứ sẽ không diệt nhưng pháp xứ chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy; còn đối với người đang viên tịch thì với người ấy tỷ xứ sẽ không diệt và pháp xứ cũng sẽ không diệt”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ TỶ XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[568] Sắc xứ sẽ không diệt cho người nào thì ý xứ … trùng … pháp xứ sẽ không diệt cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người kiếp chót đang sanh cõi vô sắc, và người đang viên tịch mà sẽ sanh lên cõi vô sắc rồi viên tịch, với người ấy sắc xứ sẽ không diệt nhưng pháp xứ chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy; còn đối với người đang viên tịch thì với người ấy sắc xứ sẽ không diệt và pháp xứ cũng sẽ không diệt”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ SẮC XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[569] Ý xứ sẽ không diệt cho người nào thì pháp xứ sẽ không diệt cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ Ý XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[570] Nhãn xứ sẽ không diệt ở cõi nào … trùng
[571] Nhãn xứ sẽ không diệt cho người nào ở cõi nào thì nhĩ xứ sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ NHĨ XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[572] Nhãn xứ sẽ không diệt cho người nào ở cõi nào thì tỷ xứ sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ TỶ XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người ở cõi sắc giới, với người ấy ở cõi ấy tỷ xứ sẽ không diệt nhưng nhãn xứ chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch cõi ngũ uẩn, người cõi vô sắc, với người ấy ở cõi ấy tỷ xứ sẽ không diệt và nhãn xứ cũng sẽ không diệt”.
[573] Nhãn xứ sẽ không diệt cho người nào ở cõi nào thì sắc xứ sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người cõi vô tưởng, với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ sẽ không diệt nhưng sắc xứ chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch cõi ngũ uẩn, người cõi vô sắc, thì với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ sẽ không diệt và sắc xứ cũng sẽ không diệt”.
– HAY LÀ SẮC XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[574] Nhãn xứ sẽ không diệt cho người nào ở cõi nào thì ý xứ sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người cõi vô sắc, với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ sẽ không diệt nhưng ý xứ chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch, người cõi vô tưởng, thì với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ sẽ không diệt và ý xứ cũng sẽ không diệt”.
– HAY LÀ Ý XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[575] Nhãn xứ sẽ không diệt cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người cõi vô tưởng, người cõi vô sắc, với người ấy ở cõi ấy, nhãn xứ sẽ không diệt nhưng pháp xứ chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch thì với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ sẽ không diệt và pháp xứ cũng sẽ không diệt”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[576] Tỷ xứ sẽ không diệt cho người nào ở cõi nào thì sắc xứ sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người cõi vô sắc giới, với người ấy ở cõi ấy tỷ xứ sẽ không diệt nhưng sắc xứ chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch cõi ngũ uẩn, người cõi vô sắc, thì với người ấy ở cõi ấy tỷ xứ sẽ không diệt và sắc xứ cũng sẽ không diệt”.
– HAY LÀ SẮC XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ TỶ XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[577] Tỷ xứ sẽ không diệt cho người nào ở cõi nào thì ý xứ sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người cõi sắc giới, người cõi vô sắc giới với người ấy ở cõi ấy tỷ xứ sẽ không diệt, nhưng ý xứ chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy. Ðối với người đang viên tịch, người cõi vô tưởng, thì với người ấy ở cõi ấy tỷ xứ sẽ không diệt và ý xứ cũng sẽ không diệt”.
– HAY LÀ Ý XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ TỶ XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[578] Tỷ xứ sẽ không diệt cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người cõi sắc giới, người cõi vô sắc giới, với người ấy ở cõi ấy tỷ xứ sẽ không diệt nhưng pháp xứ chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch, với người ấy ở cõi ấy tỷ xứ sẽ không diệt và pháp xứ cũng sẽ không diệt”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ TỶ XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[579] Sắc xứ sẽ không diệt cho người nào ở cõi nào thì ý xứ sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người cõi vô sắc, với người ấy ở cõi ấy sắc xứ không diệt, nhưng ý xứ chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch thì với người ấy ở cõi ấy sắc xứ sẽ không diệt và ý xứ cũng sẽ không diệt”.
– HAY LÀ Ý XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ SẮC XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người cõi vô tưởng, với người ấy ở cõi ấy ý xứ sẽ không diệt nhưng sắc xứ chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch, với người ấy ở cõi ấy ý xứ sẽ không diệt và sắc xứ cũng sẽ không diệt”.
[580] Sắc xứ sẽ không diệt cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người cõi vô sắc, với người ấy ở cõi ấy sắc xứ không diệt nhưng pháp xứ chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch với người ấy ở cõi ấy sắc xứ sẽ không diệt và pháp xứ cũng sẽ không diệt”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ SẮC XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[581] Ý xứ sẽ không diệt cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người cõi vô tưởng, với người ấy ở cõi ấy ý xứ không diệt nhưng pháp xứ chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch thì với người ấy ở cõi ấy ý xứ sẽ không diệt và pháp xứ cũng sẽ không diệt”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ Ý XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[582] Nhãn xứ đang diệt cho người nào thì nhĩ xứ từng diệt cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ NHĨ XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với tất cả người đang sanh, người vô nhãn đang tử biệt, với người ấy nhĩ xứ từng diệt, nhưng nhãn xứ chẳng đang diệt cho người ấy; còn đối với người hữu nhãn đang tử biệt, thì với người ấy nhĩ xứ từng diệt và nhãn xứ cũng đang diệt”.
[583] Nhãn xứ đang diệt cho người nào thì tỷ xứ … trùng … sắc xứ … ý xứ … pháp xứ từng diệt cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ SẼ ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với tất cả người đang sanh, người vô nhãn đang tử biệt, với người ấy pháp xứ từng diệt nhưng nhãn xứ chẳng đang diệt cho người ấy; còn đối với người hữu nhãn đang tử biệt, với người ấy pháp xứ từng diệt và nhãn xứ cũng đang diệt”.
[584] Tỷ xứ đang diệt cho người nào thì sắc xứ … trùng … ý xứ … pháp xứ từng diệt cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ TỶ XỨ SẼ ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với tất cả người đang sanh, người vô tỷ đang tử biệt, với người ấy pháp xứ từng diệt nhưng tỷ xứ chẳng đang diệt cho người ấy; còn đối với người hữu tỷ đang tử biệt thì với người ấy pháp xứ từng diệt và tỷ xứ cũng đang diệt”.
[585] Sắc xứ đang diệt cho người nào thì ý xứ … trùng … pháp xứ từng diệt cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ SẮC XỨ ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với tất cả người đang sanh, người vô sắc đang tử biệt, với người ấy pháp xứ từng diệt, nhưng sắc xứ chẳng đang diệt cho người ấy; còn đối với người hữu sắc đang tử biệt thì với người ấy pháp xứ từng diệt và sắc xứ cũng đang diệt”.
[586] Ý xứ đang diệt cho người nào thì pháp xứ từng diệt cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ Ý XỨ ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với tất cả người đang sanh, người vô tâm đang tử biệt, với người ấy pháp xứ từng diệt nhưng ý xứ chẳng đang diệt cho người ấy; còn đối với người hữu tâm đang tử biệt thì với người ấy pháp xứ từng diệt và ý xứ cũng đang diệt”.
[587] Nhãn xứ đang diệt ở cõi nào … trùng …
[588] Nhãn xứ đang diệt cho người nào ở cõi nào thì nhĩ xứ từng diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang viên tịch ở cõi tịnh cư, với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ đang diệt nhưng nhĩ xứ chẳng từng diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người hữu nhãn khác đang tử biệt thì với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ đang diệt và nhĩ xứ cũng từng diệt”.
– HAY LÀ NHĨ XỨ TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang sanh cõi ngũ uẩn, người vô nhãn đang tử biệt cõi dục giới, với người ấy ở cõi ấy nhĩ xứ từng diệt nhưng nhãn xứ chẳng đang diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người hữu nhãn đang tử biệt thì với người ấy nhĩ xứ từng diệt và nhãn xứ cũng đang diệt”.
[589] Nhãn xứ đang diệt cho người nào ở cõi nào thì tỷ xứ từng diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang tử biệt cõi sắc giới, với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ đang diệt nhưng tỷ xứ chẳng từng diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người hữu nhãn đang tử biệt cõi dục giới thì với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ đang diệt và tỷ xứ cũng từng diệt”.
– HAY LÀ TỶ XỨ TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang sanh cõi dục giới, ngươì vô nhãn đang tử biệt cõi dục giới, với người ấy ở cõi ấy tỷ xứ từng diệt nhưng nhãn xứ chẳng đang diệt chongười ấy ở cõi ấy; còn đối với người hữu nhãn đang tử biệt cõi dục giới thì với người ấy ở cõi ấy tỷ xứ từng diệt và nhãn xứ cũng đang diệt”.
[590] Nhãn xứ đang diệt cho người nào ở cõi nào thì sắc xứ từng diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang viên tịch cõi tịnh cư, với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ đang diệt; nhưng sắc xứ chẳng từng diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người hữu nhãn khác đang tử biệt, thì với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ đang diệt và sắc xứ cũng từng diệt”.
– HAY LÀ SẮC XỨ TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang sanh cõi ngũ uẩn, người vô nhãn đang tử biệt cõi dục giới, người cõi vô tướng, với người ấy ở cõi ấy sắc xứ từng diệt nhưng nhãn xứ chẳng đang diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người hữu nhãn đang tử biệt cõi dục giới thì với người ấy ở cõi ấy sắc xứ từng diệt và nhãn xứ cũng đang diệt”.
[591] Nhãn xứ đang diệt cho người nào ở cõi nào thì ý xứ từng diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang viên tịch cõi tịnh cư, với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ đang diệt nhưng ý xứ chẳng từng diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người hữu nhãn khác đang tử biệt thì với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ đang diệt và ý xứ cũng từng diệt”.
– HAY LÀ Ý XỨ TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang sanh cõi ngũ uẩn, người vô nhãn đang tử biệt cõi dục giới, người cõi vô sắc, với người ấy ở cõi ấy ý xứ từng diệt nhưng nhãn xứ chẳng đang diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người hữu nhãn đang tử biệt thì với người ấy ở cõi ấy ý xứ từng diệt và nhãn xứ cũng đang diệt”.
[592] Nhãn xứ đang diệt cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ từng diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang viên tịch cõi tịnh cư, với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ đang diệt nhưng pháp xứ chẳng từng diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người hữu nhãn khác đang tử biệt, thì với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ đang diệt và pháp xứ cũng từng diệt”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với tất cả người đang sanh, người vô nhãn đang tử biệt, với người ấy ở cõi ấy pháp xứ từng diệt nhưng nhãn xứ chẳng đang diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người hữu nhãn đang tử biệt, với người ấy ở cõi ấy pháp xứ từng diệt và nhãn xứ cũng đang diệt”.
[593] Tỷ xứ đang diệt cho người nào ở cõi nào thì sắc xứ từng diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ SẮC XỨ TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ TỶ XỨ ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang sanh cõi dục giới, người vô tỷ đang tử biệt cõi dục giới, người cõi sắc giới, với người ấy ở cõi ấy sắc xứ từng diệt; nhưng tỷ xứ chẳng đang diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người hữu nhãn đang tử biệt thì với người ấy ở cõi ấy sắc xứ từng diệt và tỷ xứ cũng từng diệt”.
[594] Tỷ xứ đang diệt cho người nào ở cõi nào thì ý xứ từng diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ Ỷ XỨ TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ TỶ XỨ ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang sanh cõi dục giới, người vô tỷ đang tử biệt cõi dục giới, người cõi vô sắc giới, với người ấy ở cõi ấy ý xứ từng diệt; nhưng tỷ xứ chẳng đang diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người hữu tỷ đang tử biệt thì với người ấy ở cõi ấy ý xứ từng diệt và tỷ xứ cũng đang diệt”.
[595] Tỷ xứ đang diệt cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ từng diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ TỶ XỨ ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với tất cả người đang sanh cõi dục giới, người vô tỷ đang tử biệt cõi dục giới, với người ấy ở cõi ấy pháp xứ từng diệt nhưng tỷ xứ chẳng đang diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người hữu tỷ đang tử biệt thì với người ấy ở cõi ấy pháp xứ từng diệt và tỷ xứ cũng đang diệt”.
[596] Sắc xứ đang diệt cho người nào ở cõi nào thì ý xứ từng diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang viên tịch cõi tịnh cư, người đang tử biệt cõi vô tưởng, với người ấy ở cõi ấy sắc xứ đang diệt nhưng ý xứ chẳng đang diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với hạng khác đang tử biệt cõi ngũ uẩn thì với người ấy ở cõi ấy sắc xứ đang diệt và ý xứ cũng từng diệt”.
– HAY LÀ Ý XỨ TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ SẮC XỨ ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang sanh cõi ngũ uẩn, người cõi vô sắc, với người ấy ở cõi ấy ý xứ từng diệt nhưng sắc xứ chẳng đang diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang tử biệt cõi ngũ uẩn thì với người ấy ở cõi ấy ý xứ từng diệt và sắc xứ cũng đang diệt”.
[597] Sắc xứ đang diệt cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ từng diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang viên tịch cõi tịnh cư, với người ấy ở cõi ấy sắc xứ đang diệt nhưng pháp xứ chẳng từng diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với hạng hữu sắc khác đang tử biệt thì với người ấy ở cõi ấy sắc xứ đang diệt và pháp xứ cũng từng diệt”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ SẮC XỨ ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với tất cả người đang sanh, người vô sắc đang tử biệt, với người ấy ở cõi ấy pháp xứ từng diệt nhưng sắc xứ chẳng đang diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người hữu sắc đang tử biệt thì với người ấy ở cõi ấy pháp xứ từng diệt và sắc xứ cũng đang diệt”.
[598] Ý xứ đang diệt cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ từng diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang viên tịch ở cõi tịnh cư, với người ấy ở cõi ấy ý xứ đang diệt nhưng pháp xứ chẳng từng diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người hữu tâm khác đang tử biệt thì với người ấy ở cõi ấy ý xứ đang diệt và pháp xứ cũng từng diệt”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ Ý XỨ ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với tất cả người đang sanh, người vô tâm đang tử biệt, với người ấy ở cõi ấy pháp xứ từng diệt nhưng ý xứ chẳng đang diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người hữu tâm đang tử biệt thì với người ấy ở cõi ấy pháp xứ từng diệt và ý xứ cũng đang diệt”.
[599] Nhãn xứ không đang diệt cho người nào thì nhĩ xứ không từng diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Từng diệt!”
– HAY LÀ NHĨ XỨ KHÔNG TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Không có!”
[600] Nhãn xứ không đang diệt cho người nào ở cõi nào thì tỷ xứ … trùng … sắc xứ … ý xứ … pháp xứ không từng diệt cho người ấy phải chăng?
“Từng diệt!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ KHÔNG TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Không có!”
[601] Tỷ xứ … trùng … sắc xứ … ý xứ không đang diệt cho người nào thì pháp xứ không từng diệt cho người ấy phải chăng?
“Từng diệt!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ KHÔNG TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ Ý XỨ KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Không có!”
[602] Nhãn xứ không đang diệt ở cõi nào … trùng …
[603] Nhãn xứ không đang diệt cho người nào ở cõi nào thì nhĩ xứ không từng diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang sanh cõi ngũ uẩn, người vô nhãn đang tử biệt cõi dục giới, với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ khôøng đang diệt nhưng nhĩ xứ chẳng phải không từng diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang sanh cõi tịnh cư, người cõi vô tưởng, người cõi vô sắc, thì với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ không đang diệt và nhĩ xứ cũng không từng diệt”.
– HAY LÀ NHĨ XỨ KHÔNG TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang viên tịch cõi tịnh cư, với người ấy ở cõi ấy nhĩ xứ khôøng từng diệt nhưng nhãn xứ chẳng phải không đang diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang sanh cõi tịnh cư, người cõi vô tưởng, người cõi vô sắc, thì với người ấy ở cõi ấy nhĩ xứ không từng diệt và nhãn xứ cũng không từng diệt”.
[604] Nhãn xứ không đang diệt cho người nào ở cõi nào, thì tỷ xứ không từng diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang sanh cõi dục giới, người vô nhãn đang tử biệt cõi dục giới, với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ khôøng đang diệt nhưng tỷ xứ chẳng phải không từng diệt cho người ấy ở cõi ấy. Ðối với người đang sanh cõi sắc giới, người cõi vô tưởng, người cõi vô sắc, thì với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ không đang diệt và tỷ xứ cũng không đang diệt”.
– HAY LÀ TỶ XỨ KHÔNG TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang tử biệt cõi sắc giới với người ấy ở cõi ấy tỷ xứ khôøng từng diệt, nhưng nhãn xứ chẳng phải không đang diệt; còn đối với người đang sanh cõi sắc giới, người cõi vô tưởng, người cõi vô sắc, thì với người ấy ở cõi ấy tỷ xứ không từng diệt và nhãn xứ cũng không đang diệt”.
[605] Nhãn xứ không đang diệt cho người nào ở cõi nào thì sắc xứ không từng diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang sanh cõi ngũ uẩn, người vô nhãn đang tử biệt cõi dục giới, người cõi vô tưởng, với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ khôøng đang diệt nhưng sắc xứ chẳng phải không từng diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang sanh cõi tịnh cư, người cõi vô sắc, thì với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ không đang diệt và sắc xứ cũng không từng diệt”.
– HAY LÀ SẮC XỨ KHÔNG TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang viên tịch cõi tịnh cư, với người ấy ở cõi ấy sắc xứ khôøng từng diệt nhưng nhãn xứ chẳng phải không đang diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang sanh cõi tịnh cư, người cõi vô sắc, thì với người ấy ở cõi ấy sắc xứ không từng diệt và nhãn xứ cũng không đang diệt”.
[606] Nhãn xứ không đang diệt cho người nào ở cõi nào thì ý xứ không từng diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang sanh cõi ngũ uẩn, người vô nhãn đang tử biệt cõi dục giới, người cõi vô sắc, với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ không đang diệt nhưng ý xứ chẳng phải không từng diệt cho người ấy ở cõi ấy. Còn đối với người đang sanh cõi tịnh cư, người cõi vô tưởng thì với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ không đang diệt và ý xứ cũng không từng diệt”.
– HAY LÀ Ý XỨ KHÔNG TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang viên tịch cõi tịnh cư, với người ấy ở cõi ấy ý xứ khôøng từng diệt nhưng nhãn xứ chẳng phải không đang diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang sanh cõi tịnh cư, người cõi vô tưởng, thì với người ấy ở cõi ấy ý xứ không từng diệt và nhãn xứ cũng không đang diệt”.
[607] Nhãn xứ không đang diệt cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ không từng diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với tất cả người đang sanh, người vô nhãn đang tử biệt với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ khôøng đang diệt nhưng pháp xứ chẳng phải không từng diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang sanh cõi tịnh cư, thì với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ không đang diệt và pháp xứ cũng không từng diệt”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ KHÔNG TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang viên tịch cõi tịnh cư với người ấy ở cõi ấy pháp xứ khôøng từng diệt nhưng nhãn xứ chẳng phải không đang diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang sanh cõi tịnh cư, thì với người ấy ở cõi ấy pháp xứ không từng diệt và nhãn xứ cũng không đang diệt”.
III. XỨ SONG (ĀYATANAYAMAKA) – tiếp theo
[608] Tỷ xứ không đang diệt cho người nào ở cõi nào thì sắc xứ không từng diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang sanh cõi dục giới, người vô tỷ đang tử biệt cõi dục giới, người cõi sắc giới, với người ấy ở cõi ấy tỷ xứ khôøng đang diệt nhưng sắc xứ chẳng phải không từng diệt cho người ấy ở cõi ấy. Còn đối với người cõi tịnh cư, người cõi vô sắc thì với người ấy ở cõi ấy tỷ xứ không đang diệt và sắc xứ cũng không từng diệt”.
– HAY LÀ SẮC XỨ KHÔNG TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ TỶ XỨ KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[609] Tỷ xứ không đang diệt cho người nào ở cõi nào thì ý xứ không từng diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang sanh cõi dục giới, người vô tỷ đang tử biệt cõi dục giới, người cõi vô sắc giới, với người ấy ở cõi ấy tỷ xứ khôøng đang diệt nhưng ý xứ chẳng phải không từng diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người cõi tịnh cư, người cõi vô tưởng, thì với người ấy ở cõi ấy tỷ xứ không đang diệt và ý xứ cũng không từng diệt”.
– HAY LÀ Ý XỨ KHÔNG TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ TỶ XỨ KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[610] Tỷ xứ không đang diệt cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ không từng diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với tất cả người đang sanh người vô tỷ đang tử biệt, với người ấy ở cõi ấy tỷ xứ khôøng đang diệt nhưng pháp xứ chẳng phải không từng diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang sanh cõi tịnh cư thì với người ấy ở cõi ấy tỷ xứ không đang diệt và pháp xứ cũng không từng diệt”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ KHÔNG TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ TỶ XỨ KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[611] Sắc xứ không đang diệt cho người nào ở cõi nào thì ý xứ không từng diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang sanh cõi ngũ uẩn, người cõi vô sắc, với người ấy ở cõi ấy sắc xứ khôøng đang diệt nhưng ý xứ chẳng phải không từng diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang sanh cõi tịnh cư, người đang sanh cõi vô tưởng, thì với người ấy ở cõi ấy sắc xứ đang diệt và ý xứ cũng từng diệt”.
– HAY LÀ Ý XỨ KHÔNG TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ SẮC XỨ KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang viên tịch cõi tịnh cư, người đang tử biệt cõi vô tưởng, với người ấy ở cõi ấy ý xứ khôøng từng diệt nhưng sắc xứ chẳng phải không đang diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang sanh cõi tịnh cư, người đang sanh cõi vô tưởng, thì với người ấy ở cõi ấy ý xứ không từng diệt và sắc xứ cũng không đang diệt”.
[612] Sắc xứ không đang diệt cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ không từng diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với tất cả người đang sanh, người đang tử biệt cõi vô sắc, với người ấy ở cõi ấy sắc xứ khôøng đang diệt nhưng pháp xứ chẳng phải không từng diệt cho người ấy ở cõi ấy. Còn đối với người đang sanh cõi tịnh cư, thì với người ấy ở cõi ấy sắc xứ không đang diệt và pháp xứ cũng không từng diệt”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ KHÔNG TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ SẮC XỨ KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang viên tịch cõi tịnh cư, với người ấy ở cõi ấy pháp xứ khôøng từng diệt nhưng sắc xứ chẳng phải không đang diệt cho người ấy ở cõi ấy. Còn đối với người đang sanh cõi tịnh cư thì với người ấy ở cõi ấy pháp xứ không từng diệt và sắc xứ cũng không đang diệt”.
[613] Ý xứ không đang diệt cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ không từng diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với tất cả người đang sanh, người vô tâm đang tử biệt, với người ấy ở cõi ấy ý xứ khôøng đang diệt nhưng pháp xứ chẳng phải không từng diệt cho người ấy ở cõi ấy. Còn đối với người đang sanh cõi Tịnh cư thì với người ấy ở cõi ấy ý xứ không đang diệt và pháp xứ cũng không từng diệt”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ KHÔNG TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ Ý XỨ KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang viên tịch cõi tịnh cư, với người ấy ở cõi ấy pháp xứ khôøng từng diệt nhưng ý xứ chẳng phải không đang diệt cho người ấy ở cõi ấy. Còn đối với người đang sanh cõi tịnh cư thì với người ấy ở cõi ấy pháp xứ không từng diệt và ý xứ cũng không đang diệt”.
[614] Nhãn xứ đang diệt cho người nào thì nhĩ xứ sẽ diệt cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người đang viên tịch cõi ngũ uẩn, và người đang tử biệt mà sẽ sanh lên cõi vô sắc rồi viên tịch, với người ấy nhãn xứ đang diệt, nhưng nhĩ xứ sẽ chẳng diệt cho người ấy. Còn đối với người hữu nhãn đang tử biệt mà ngoài ra thì với người ấy nhãn xứ đang diệt và nhĩ xứ cũng sẽ diệt”.
– HAY LÀ NHĨ XỨ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với tất cả người đang sanh, người vô nhãn đang tử biệt, với người ấy nhĩ xứ sẽ diệt nhưng nhãn xứ chẳng đang diệt cho người ấy. Còn đối với người hữu nhãn đang tử biệt thì với người ấy nhĩ xứ sẽ diệt và nhãn xứ cũng đang diệt”.
[615] Nhãn xứ đang diệt cho người nào thì tỷ xứ sẽ diệt cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người đang viên tịch cõi ngũ uẩn, và người đang tử biệt mà sẽ sanh lên cõi sắc giới, cõi vô sắc giới rồi viên tịch, với người ấy nhãn xứ đang diệt nhưng tỷ xứ sẽ chẳng diệt cho người ấy. Còn đối với người hữu nhãn đang tử biệt mà ngoài ra thì với người ấy nhãn xứ đang diệt và tỷ xứ cũng sẽ diệt”.
– HAY LÀ TỶ XỨ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO … trùng …
[616] Nhãn xứ đang diệt cho người nào thì sắc xứ sẽ diệt cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người đang viên tịch cõi ngũ uẩn, và người đang tử biệt mà sẽ sanh lên cõi vô sắc rồi viên tịch, với người ấy nhãn xứ đang diệt nhưng sắc xứ sẽ chẳng diệt cho người ấy; còn đối với người hữu nhãn đang tử biệt mà ngoài ra thì với người ấy nhãn xứ đang diệt và sắc xứ cũng sẽ diệt”.
– HAY LÀ SẮC XỨ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO … trùng …
[617] Nhãn xứ đang diệt cho người nào thì ý xứ … trùng … pháp xứ sẽ diệt cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người đang viên tịch cõi ngũ uẩn, với người ấy nhãn xứ đang diệt nhưng pháp xứ sẽ chẳng diệt cho người ấy; còn đối với người hữu nhãn đang tử biệt mà ngoài ra với người ấy nhãn xứ đang diệt và pháp xứ cũng sẽ diệt”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG? … trùng …
[618] Tỷ xứ đang diệt cho người nào thì sắc xứ sẽ diệt cho người ấy phải chăng?
“Người đang viên tịch cõi dục giới và người đang tử biệt mà sẽ sanh lên cõi vô sắc rồi viên tịch, với người ấy tỷ xứ đang diệt nhưng sắc xứ sẽ chẳng diệt cho người ấy. Còn đối với người hữu tỷ đang tử biệt mà ngoài ra, thì tỷ xứ đang diệt và sắc xứ cũng sẽ diệt cho người ấy”.
– HAY LÀ SẮC XỨ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ TỶ XỨ ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với tất cả người đang sanh, người vô tỷ đang tử biệt, với người ấy sắc xứ sẽ diệt nhưng tỷ xứ chẳng đang diệt cho người ấy. Còn đối với người hữu tỷ đang tử biệt thì với người ấy sắc xứ sẽ diệt và tỷ xứ cũng đang diệt”.
[619] Tỷ xứ đang diệt cho người nào thì ý xứ … trùng … pháp xứ sẽ diệt cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người đang viên tịch cõi dục giới, với người ấy tỷ xứ đang diệt nhưng pháp xứ sẽ chẳng diệt cho người ấy; còn đối với người ngoài ra mà đang tử biệt thì với người ấy tỷ xứ đang diệt và pháp xứ cũng sẽ diệt”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO … trùng …
[620] Sắc xứ đang diệt cho người nào thì ý xứ … trùng … pháp xứ sẽ diệt cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người đang viên tịch ở cõi ngũ uẩn, với người ấy sắc xứ đang diệt nhưng pháp xứ sẽ chẳng diệt cho người ấy; còn đối với người hữu sắc ngoài ra mà đang tử biệt thì với người ấy sắc xứ đang diệt và pháp xứ cũng sẽ diệt”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ SẮC XỨ ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với tất cả người đang sanh, người vô sắc đang tử biệt, với người ấy pháp xứ sẽ diệt nhưng sắc xứ chẳng đang diệt cho người ấy. Còn đối với người hữu sắc đang tử biệt thì với người ấy pháp xứ sẽ diệt và sắc xứ cũng đang diệt”.
[621] Ý xứ đang diệt cho người nào thì pháp xứ sẽ diệt cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người đang viên tịch, với người ấy ý xứ đang diệt nhưng pháp xứ sẽ chẳng diệt cho người ấy. Còn đối với người hữu tâm ngoài ra mà đang tử biệt, thì với người ấy, ý xứ đang diệt và pháp xứ cũng sẽ diệt”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ Ý XỨ ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với tất cả người đang sanh, người vô tâm đang tử biệt, với người ấy pháp xứ sẽ diệt nhưng ý xứ chẳng đang diệt cho người ấy; còn đối với người hữu tâm đang tử biệt, thì với người ấy pháp xứ sẽ diệt và ý xứ cũng đang diệt”.
[622] Nhãn xứ đang diệt ở cõi nào … trùng …
[623] Nhãn xứ đang diệt cho người nào ở cõi nào thì nhĩ xứ sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang viên tịch cõi ngũ uẩn, với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ đang diệt nhưng nhĩ xứ sẽ chẳng diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người hữu nhãn ngoài ra mà đang tử biệt, thì với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ đang diệt và nhĩ xứ cũng sẽ diệt”.
– HAY LÀ NHĨ XỨ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang sanh cõi ngũ uẩn, người vô nhãn đang tử biệt cõi dục giới, với người ấy ở cõi ấy nhĩ xứ sẽ diệt nhưng nhãn xứ chẳng đang diệt cho người ấy ở cõi ấy. Còn đối với người hữu nhãn đang tử biệt, thì với người ấy ở cõi ấy nhĩ xứ sẽ diệt và nhãn xứ cũng đang diệt”.
[624] Nhãn xứ đang diệt cho người nào ở cõi nào thì tỷ xứ sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang viên tịch cõi dục giới, người đang tử biệt cõi sắc giới, với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ đang diệt nhưng tỷ xứ sẽ chẳng diệt cho người ấy ở cõi ấy. Còn đối với người hữu nhãn ngoài ra mà đang tử biệt cõi dục giới thì với người ấy nhãn xứ đang diệt và tỷ xứ cũng sẽ diệt”.
– HAY LÀ TỶ XỨ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO… trùng.
Ba phần (người, cõi, người và cõi) thuộc. Hiện tại – Quá khứ, đã được giải rộng như thế nào thì phần này (Hiện tại – vị lai) cũng cần được nói rộng như vậy.
[625] Nhãn xứ đang diệt cho người nào ở cõi nào thì sắc xứ sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang viên tịch cõi ngũ uẩn, với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ đang diệt nhưng sắc xứ sẽ chẳng diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người hữu nhãn ngoài ra mà đang tử biệt thì với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ đang diệt và sắc xứ cũng sẽ diệt”.
– HAY LÀ SẮC XỨ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO … trùng …
[626] Nhãn xứ đang diệt cho người nào ở cõi nào thì ý xứ sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang viên tịch ở cõi ngũ uẩn, với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ đang diệt nhưng ý xứ sẽ chẳng diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người hữu nhãn ngoài ra mà đang tử biệt thì với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ đang diệt và ý xứ cũng sẽ diệt”.
– HAY LÀ Ý XỨ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO … trùng …
[627] Nhãn xứ đang diệt cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang viên tịch ở cõi ngũ uẩn, với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ đang diệt nhưng pháp xứ sẽ chẳng diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người hữu nhãn ngoài ra mà đang tử biệt thì với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ đang diệt và pháp xứ cũng sẽ diệt”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với tất cả người đang sanh, người vô nhãn đang tử biệt, với người ấy ở cõi ấy pháp xứ sẽ diệt, nhưng nhãn xứ chẳng đang diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người hữu nhãn đang tử biệt thì với người ấy ở cõi ấy pháp sẽ diệt và nhãn xứ cũng đang diệt”.
[628] Tỷ xứ đang diệt cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang viên tịch cõi dục giới, với người ấy ở cõi ấy tỷ xứ đang diệt nhưng sắc xứ sẽ chẳng diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người hữu tỷ ngoài ra mà đang tử biệt thì với người ấy ở cõi ấy tỷ xứ đang diệt và sắc xứ cũng sẽ diệt”.
– HAY LÀ SẮC XỨ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO … trùng…
[629] Tỷ xứ đang diệt cho người nào ở cõi nào thì ý xứ … trùng … pháp xứ sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang viên tịch ở cõi dục giới, với người ấy ở cõi ấy tỷ xứ đang diệt nhưng pháp xứ sẽ chẳng diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người hữu tỷ ngoài ra mà đang tử biệt thì với người ấy ở cõi ấy tỷ xứ đang diệt và pháp xứ cũng sẽ diệt”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO … trùng…
[630] Sắc xứ đang diệt cho người nào ở cõi nào thì ý xứ sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang viên tịch ở cõi ngũ uẩn, người đang tử biệt cõi vô tưởng, với người ấy ở cõi ấy sắc xứ đang diệt nhưng ý xứ sẽ chẳng diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang tử biệt cõi ngũ uẩn ngoài ra thì với người ấy ở cõi ấy sắc xứ đang diệt và ý xứ cũng sẽ diệt”.
– HAY LÀ Ý XỨ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO … trùng…
[631] Sắc xứ đang diệt cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang viên tịch ở cõi ngũ uẩn, với người ấy ở cõi ấy sắc xứ đang diệt nhưng pháp xứ sẽ chẳng diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người hữu sắc ngoài ra mà đang tử biệt thì với người ấy ở cõi ấy sắc xứ đang diệt và pháp xứ cũng sẽ diệt”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ SẮC XỨ ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với tất cả người đang sanh, người vô sắc đang tử biệt, với người ấy ở cõi ấy pháp xứ sẽ diệt nhưng sắc xứ chẳng đang diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người hữu sắc đang tử biệt thì với người ấy ở cõi ấy pháp xứ sẽ diệt và sắc xứ cũng đang diệt”.
[632] Ý xứ đang diệt cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang viên tịch, với người ấy ở cõi ấy ý xứ đang diệt nhưng pháp xứ sẽ chẳng diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người hữu tâm ngoài ra mà đang tử biệt thì với người ấy ở cõi ấy ý xứ đang diệt và pháp xứ cũng sẽ diệt”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ Ý XỨ ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với tất cả người đang sanh, người vô tâm đang tử biệt với người ấy ở cõi ấy pháp xứ sẽ diệt nhưng ý xứ chẳng đang diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người hữu tâm đang tử biệt thì với người ấy ở cõi ấy pháp xứ sẽ diệt và ý xứ cũng đang diệt”.
[633] Nhãn xứ không đang diệt cho người nào thì nhĩ xứ sẽ không diệt cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người đang sanh, người vô nhãn đang tử biệt, với người ấy nhãn xứ không đang diệt nhưng nhĩ xứ chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy; còn đối với người kiếp chót trong cõi vô sắc thì với người ấy nhãn xứ không đang diệt và nhĩ xứ cũng sẽ không diệt”.
– HAY LÀ NHĨ XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNGÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang viên tịch cõi ngũ uẩn, và người đang tử biệt mà sẽ sanh lên cõi vô sắc rồi viên tịch, với người ấy nhĩ xứ sẽ không diệt nhưng nhãn xứ chẳng phải không đang diệt cho người ấy; còn đối với người kiếp chót ở cõi vô sắc thì với người ấy nhĩ xứ sẽ không diệt và nhãn xứ cũng không đang diệt”.
[634] Nhãn xứ không đang diệt cho người nào thì tỷ xứ sẽ không diệt cho người ấy phải chăng?
“Ðối với tất cả người đang sanh, người vô nhãn đang tử biệt, với người ấy nhãn xứ không đang diệt nhưng tỷ xứ chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy; còn đối với người kiếp chót đang sanh cõi sắc giới, người kiếp chót ở cõi vô sắc giới, thì với người ấy nhãn xứ không đang diệt và tỷ xứ cũng sẽ không diệt”.
– HAY LÀ TỶ XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người kiếp chót ở cõi ngũ uẩn, và người đang tử biệt mà sẽ sanh lên cõi sắc giới cõi vô sắc giới rồi viên tịch với người ấy tỷ xứ sẽ không diệt nhưng nhãn xứ chẳng phải không đang diệt cho người ấy; còn đối với người kiếp chót đang sanh cõi sắc giới, người kiếp chót ở cõi vô sắc, thì với người ấy tỷ xứ sẽ không diệt và nhãn xứ cũng không đang diệt”.
[635] Nhãn xứ không đang diệt cho người nào thì sắc xứ sẽ không diệt cho người ấy phải chăng?
“Ðối với tất cả người đang sanh, người vô nhãn đang tử biệt, với người ấy nhãn xứ không đang diệt, nhưng sắc xứ chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy; còn đối với người kiếp chót trong cõi vô sắc, với người ấy nhãn xứ không đang diệt và sắc xứ cũng sẽ không diệt”.
– HAY LÀ SẮC XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang viên tịch ở cõi ngũ uẩn, và người đang tử biệt mà sẽ sanh lên cõi vô sắc rồi viên tịch, với người ấy sắc xứ sẽ không diệt nhưng nhãn xứ chẳng phải không đang diệt cho người ấy; còn đối với người kiếp chót trong cõi vô sắc thì với người ấy sắc xứ sẽ không diệt và nhãn xứ cũng không đang diệt”.
[636] Nhãn xứ không đang diệt cho người nào thì ý xứ … trùng … pháp xứ sẽ không diệt cho người ấy phải chăng?
“Ðối với tất cả người đang sanh, người vô nhãn đang tử biệt, với người ấy nhãn xứ không đang diệt nhưng pháp xứ chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy; còn đối với người đang viên tịch cõi vô sắc thì nhãn xứ không đang diệt và pháp xứ cũng sẽ không diệt”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang viên tịch cõi ngũ uẩn, với người ấy pháp xứ sẽ không diệt cho người ấy nhưng nhãn xứ chẳng phải không đang diệt cho người ấy; còn đối với người đang viên tịch ở cõi vô sắc thì với người ấy pháp xứ sẽ không diệt và nhãn xứ cũng không đang diệt”.
[637] Tỷ xứ không đang diệt cho người nào thì sắc xứ sẽ không diệt cho người ấy phải chăng?
“Ðối với tất cả người đang sanh, người vô tỷ đang tử biệt, với người ấy tỷ xứ không đang diệt, nhưng sắc xứ chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy; còn đối với người đang viên tịch cõi sắc giới, người kiếp chót trong cõi vô sắc; với người ấy tỷ xứ không đang diệt và sắc xứ cũng sẽ không diệt”.
– HAY LÀ SẮC XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ TỶ XỨ KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang viên tịch ở cõi dục giới và người đang tử biệt mà sẽ sanh lên cõi vô sắc rồi viên tịch, với người ấy sắc xứ sẽ không diệt nhưng tỷ xứ chẳng phải không đang diệt cho người ấy; còn đối với người đang viên tịch ở cõi sắc giới, người kiếp chót trong cõi vô sắc, với người ấy sắc xứ sẽ không diệt và tỷ xứ cũng không đang diệt”.
[638] Tỷ xứ không đang diệt cho người nào thì ý xứ … trùng … pháp xứ sẽ không diệt cho người ấy phải chăng?
“Ðối với tất cả người đang sanh, người vô tỷ đang tử biệt, với người ấy tỷ xứ không đang diệt, nhưng pháp xứ chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy; còn đối với người đang viên tịch ở cõi sắc giới và cõi vô sắc giới thì với người ấy tỷ xứ không đang diệt và pháp xứ cũng sẽ không diệt”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ TỶ XỨ KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang viên tịch ở cõi dục giới, với người ấy pháp xứ sẽ không diệt nhưng tỷ xứ chẳng phải không đang diệt cho người ấy; còn đối với người đang viên tịch ở cõi sắc giới – cõi vô sắc giới thì với người ấy pháp xứ sẽ không diệt và tỷ xứ cũng không đang diệt”.
[639] Sắc xứ không đang diệt cho người nào thì ý xứ … trùng … pháp xứ sẽ không diệt cho người ấy phải chăng?
“Ðối với tất cả người đang sanh, người vô sắc đang tử biệt, với người ấy sắc xứ không đang diệt nhưng pháp xứ chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy; còn đối với người đang viên tịch ở cõi vô sắc thì với người ấy sắc xứ không đang diệt và pháp xứ cũng sẽ không diệt”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ SẮC XỨ KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang viên tịch cõi ngũ uẩn, với người ấy pháp xứ sẽ không diệt nhưng sắc xứ chẳng phải không đang diệt cho người ấy; còn đối với người đang viên tịch ở cõi vô sắc thì với người ấy pháp xứ sẽ không diệt và sắc xứ cũng không đang diệt”.
[640] Ý xứ không đang diệt cho người nào thì pháp xứ sẽ không diệt cho người ấy phải chăng?
“Sẽ diệt!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ Ý XỨ KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðang diệt!”
[641] Nhãn xứ không đang diệt ở cõi nào … trùng …
[642] Nhãn xứ không đang diệt cho người nào ở cõi nào thì nhĩ xứ sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang sanh cõi ngũ uẩn, người vô nhãn đang tử biệt cõi dục giới, với người ấy nhãn xứ không đang diệt nhưng nhĩ xứ chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người ở cõi vô tưởng, người ở cõi vô sắc, thì với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ không đang diệt và nhĩ xứ cũng sẽ không diệt”.
– HAY LÀ NHĨ XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang viên tịch ở cõi ngũ uẩn, với người ấy ở cõi ấy nhĩ xứ sẽ không diệt nhưng nhãn xứ chẳng phải không đang diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người ở cõi vô tưởng, người ở cõi vô sắc, thì với người ấy ở cõi ấy nhĩ xứ sẽ không diệt và nhãn xứ cũng không đang diệt”.
[643] Nhãn xứ không đang diệt cho người nào ở cõi nào thì tỷù xứ sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với tất cả người đang sanh cõi dục giới, người vô nhãn đang tử biệt cõi dục giới, với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ không đang diệt, nhưng tỷ xứ chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang sanh cõi sắc giới người cõi vô tưởng, người cõi vô sắc, với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ không đang diệt và tỷ xứ cũng sẽ không diệt”.
– HAY LÀ TỶ XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang viên tịch cõi dục giới, người đang tử biệt cõi sắc giới, với người ấy ở cõi ấy tỷ xứ sẽ không diệt, nhưng nhãn xứ chẳng phải không đang diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang sanh cõi sắc giới, người cõi vô tưởng, người cõi vô sắc, với người ấy ở cõi ấy tỷ xứ sẽ không diệt và nhãn xứ cũng không đang diệt”.
[644] Nhãn xứ không đang diệt cho người nào ở cõi nào thì sắc xứ sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang sanh cõi ngũ uẩn, người vô nhãn đang tử biệt cõi dục giới, người cõi vô tưởng, với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ không đang diệt nhưng sắc xứ chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người cõi vô sắc, với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ không đang diệt và sắc xứ cũng sẽ không diệt”.
– HAY LÀ SẮC XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang viên tịch cõi ngũ uẩn, với người ấy ở cõi ấy sắc xứ sẽ không diệt nhưng nhãn xứ chẳng phải không đang diệt cho người ấy ở cõi ấy. Còn đối với người cõi vô sắc thì với người ấy ở cõi ấy sắc xứ sẽ không diệt và nhãn xứ cũng không đang diệt”.
[645] Nhãn xứ không đang diệt cho người nào ở cõi nào thì ý xứ sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với tất cả người đang sanh cõi ngũ uẩn, người vô nhãn đang tử biệt cõi dục giới, người cõi vô sắc, với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ không đang diệt nhưng ý xứ chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch cõi vô sắc, người cõi vô tưởng, thì với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ không đang diệt và ý xứ cũng sẽ không diệt”.
– HAY LÀ Ý XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang viên tịch cõi ngũ uẩn, với người ấy ở cõi ấy ý xứ sẽ không diệt nhưng nhãn xứ chẳng phải không đang diệt cho người ấy ở cõi ấy. Còn đối với người đang viên tịch cõi vô sắc, người cõi vô tưởng, thì với người ấy ở cõi ấy ý xứ sẽ không diệt và nhãn xứ cũng không đang diệt”.
[646] Nhãn xứ không đang diệt cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với tất cả người đang sanh, người vô nhãn đang tử biệt, với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ không đang diệt nhưng pháp xứ chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch cõi vô sắc giới, với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ không đang diệt và pháp xứ cũng sẽ không diệt”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang viên tịch cõi ngũ uẩn, với người ấy ở cõi ấy pháp xứ sẽ không diệt nhưng nhãn xứ chẳng phải không đang diệt cho người ấy ở cõi ấy. Còn đối với người đang viên tịch cõi vô sắc, thì với người ấy ở cõi ấy pháp xứ sẽ không diệt và nhãn xứ cũng không đang diệt”.
[647] Tỷ xứ không đang diệt cho người nào ở cõi nào thì sắc xứ sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang sanh cõi dục giới, người vô tỷ đang tử biệt cõi dục giới, với người ấy ở cõi ấy tỷ xứ không đang diệt nhưng sắc xứ chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch cõi sắc giới, người cõi vô sắc, với người ấy ở cõi ấy tỷ xứ không đang diệt và sắc xứ cũng sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy”.
– HAY LÀ SẮC XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ TỶ XỨ KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang viên tịch cõi dục giới, với người ấy ở cõi ấy sắc xứ sẽ không diệt nhưng tỷ xứ chẳng phải không đang diệt cho người ấy ở cõi ấy. Còn đối với người đang viên tịch cõi sắc giới, người cõi vô sắc, với người ấy ở cõi ấy sắc xứ sẽ không diệt và tỷ xứ cũng không đang diệt”.
[648] Tỷ xứ không đang diệt cho người nào ở cõi nào thì ý xứ sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang sanh cõi dục giới, người vô tỷ đang tử biệt cõi dục giới, người cõi sắc giới, người cõi vô sắc giới, với người ấy ở cõi ấy tỷ xứ không đang diệt nhưng ý xứ chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch ở cõi sắc giới, cõi vô sắc giới, người cõi vô tưởng, thì với người ấy ở cõi ấy tỷ xứ không đang diệt và ý xứ cũng sẽ không diệt”.
– HAY LÀ Ý XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ TỶ XỨ KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang viên tịch cõi dục giới, với người ấy ở cõi ấy ý xứ sẽ không diệt nhưng tỷ xứ chẳng phải không đang diệt cho người ấy ở cõi ấy; đối với người đang viên tịch ở cõi sắc giới cõi vô sắc giới, người cõi vô tưởng, thì với người ấy ở cõi ấy ý xứ sẽ không diệt và tỷ xứ cũng không đang diệt”.
[649] Tỷ xứ không đang diệt cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với tất cả người đang sanh, người vô tỷ đang tử biệt, với người ấy ở cõi ấy tỷ xứ không đang diệt nhưng pháp xứ chẳng phải sẽ không đang diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch cõi sắc giới cõi vô sắc giới, thì với người ấy ở cõi ấy tỷ xứ không đang diệt và pháp xứ cũng sẽ không diệt”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ TỶ XỨ KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang viên tịch cõi dục giới, với người ấy ở cõi ấy pháp xứ sẽ không diệt nhưng tỷ xứ chẳng phải không đang diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch cõi sắc giới, cõi vô sắc giới, thì với người ấy ở cõi ấy pháp xứ sẽ không diệt và tỷ xứ cũng không đang diệt”.
[650] Sắc xứ không đang diệt cho người nào ở cõi nào thì ý xứ sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang sanh cõi ngũ uẩn, người cõi vô sắc, với người ấy ở cõi ấy sắc xứ không đang diệt nhưng ý xứ chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch ở cõi vô sắc, người đang sanh cõi vô tưởng thì với người ấy ở cõi ấy sắc xứ không đang diệt và ý xứ cũng sẽ không diệt”.
– HAY LÀ Ý XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ SẮC XỨ KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang viên tịch cõi ngũ uẩn, người đang tử biệt cõi vô tưởng, với người ấy ở cõi ấy ý xứ sẽ không diệt nhưng sắc xứ chẳng phải không đang diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch cõi vô sắc, người đang sanh cõi vô tưởng, thì với người ấy ở cõi ấy ý xứ sẽ không diệt và sắc xứ cũng không đang diệt”.
[651] Sắc xứ không đang diệt cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với tất cả người đang sanh, người vô sắc đang tử biệt, với người ấy ở cõi ấy sắc xứ không đang diệt nhưng pháp xứ chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch cõi vô sắc, thì với người ấy ở cõi ấy sắc xứ không đang diệt và pháp xứ cũng sẽ không diệt”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ SẮC XỨ KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang viên tịch cõi ngũ uẩn, với người ấy ở cõi ấy pháp xứ sẽ không diệt nhưng sắc xứ chẳng phải không đang diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch ở cõi vô sắc thì với người ấy ở cõi ấy pháp xứ sẽ không diệt và sắc xứ cũng không đang diệt”.
[652] Ýû xứ không đang diệt cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Sẽ diệt!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ Ý XỨ KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðang diệt!”
[653] Nhãn xứ từng diệt cho người nào thì nhĩ xứ sẽ diệt cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người đang viên tịch cõi ngũ uẩn, người kiếp chót cõi vô sắc, và người đang tử biệt mà sẽ sanh lên cõi vô sắc rồi viên tịch, với người ấy nhãn xứ từng diệt nhưng nhĩ xứ chẳng phải sẽ diệt cho người ấy; còn đối với các hạng khác, với hạng người ấy nhãn xứ từng diệt và nhĩ xứ cũng sẽ diệt”.
– HAY LÀ NHĨ XỨ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[654] Nhãn xứ từng diệt cho người nào thì tỷ xứ sẽ diệt cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người đang viên tịch cõi dục giới, người kiếp chót cõi sắc giới-cõi vô sắc giới, người đang tử biệt mà sẽ sanh lên cõi sắc giới, cõi vô sắc giới rồi viên tịch, với người ấy nhãn xứ từng diệt nhưng tỷ xứ chẳng phải sẽ diệt cho người ấy; còn đối với các hạng khác thì với họ nhãn xứ từng diệt và tỷ xứ cũng sẽ diệt”.
– HAY LÀ TỶ XỨ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO … trùng …
“Phải rồi!”
[655] Nhãn xứ từng diệt cho người nào thì sắc xứ sẽ diệt cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người đang viên tịch cõi ngũ uẩn, người kiếp chót cõi vô sắc, và người đang tử biệt mà sẽ sanh lên cõi vô sắc rồi viên tịch, với người ấy nhãn xứ từng diệt nhưng sắc xứ chẳng phải sẽ diệt cho người ấy; còn đối với hạng khác, với họ nhãn xứ từng diệt và sắc xứ cũng sẽ diệt”.
– HAY LÀ SẮC XỨ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO … trùng …
“Phải rồi!”
[656] Nhãn xứ từng diệt cho người nào thì ý xứ … trùng … pháp xứ sẽ diệt cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người đang viên tịch, với người ấy nhãn xứ từng diệt nhưng pháp xứ chẳng phải sẽ diệt cho người ấy; còn đối với hạng khác, với họ nhãn xứ từng diệt và pháp xứ cũng sẽ diệt”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO … trùng …
“Phải rồi!”
[657] Tỷ xứ từng diệt cho người nào thì sắc xứ sẽ diệt cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người đang viên tịch cõi ngũ uẩn, người kiếp chót ở cõi vô sắc, và người đang tử biệt mà sẽ sanh lên cõi vô sắc rồi viên tịch, với người ấy tỷ xứ từng diệt nhưng sắc xứ chẳng phải sẽ diệt cho người ấy; đối với hạng khác thì với họ tỷ xứ từng diệt và sắc xứ cũng sẽ diệt”.
– HAY LÀ SẮC XỨ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO … trùng …
“Phải rồi!”
[658] Tỷ xứ từng diệt cho người nào thì ý xứ … trùng … pháp xứ sẽ diệt cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người đang viên tịch, với người ấy tỷ xứ từng diệt, nhưng pháp xứ chẳng phải sẽ diệt cho người ấy; còn đối với hạng khác, với người ấyï tỷ xứ từng diệt và pháp xứ cũng sẽ diệt”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO … trùng …
“Phải rồi!”
[659] Sắc xứ từng diệt cho người nào thì ý xứ … trùng … pháp xứ sẽ diệt cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người đang viên tịch, với người ấy sắc xứ từng diệt nhưng pháp xứ chẳng phải sẽ diệt cho người ấy; còn đối với hạng khác thì với người ấy sắc xứ từng diệt và pháp xứ cũng sẽ diệt”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO … trùng …
“Phải rồi!”
[660] Ý xứ từng diệt cho người nào thì pháp xứ sẽ diệt cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người đang viên tịch, với người ấy ý xứ từng diệt nhưng pháp xứ chẳng phải sẽ diệt cho người ấy; còn đối với hạng khác, với họ ý xứ từng diệt và pháp xứ cũng sẽ diệt”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO … trùng …
“Phải rồi!”
[661] Nhãn xứ từng diệt cho cõi nào … trùng …
[662] Nhãn xứ từng diệt cho người nào ở cõi nào thì nhĩ xứ sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang viên tịch ở cõi ngũ uẩn, với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ từng diệt nhưng nhĩ xứ chẳng phải sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người cõi ngũ uẩn ngoài ra thì với người ấy, ở cõi ấy nhãn xứ từng diệt và nhĩ xứ cũng sẽ diệt”.
– HAY LÀ NHĨ XỨ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang sanh cõi tịnh cư, với người ấy ở cõi ấy nhĩ xứ sẽ diệt nhưng nhãn xứ chẳng từng diệt cho người ấy; còn đối với người cõi ngũ uẩn ngoài ra thì với người ấy ở cõi ấy nhĩ xứ sẽ diệt và nhãn xứ cũng từng diệt”.
[663] Nhãn xứ từng diệt cho người nào ở cõi nào thì tỷ xứ sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang viên tịch cõi dục giới, người cõi sắc giới, với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ từng diệt nhưng tỷ xứ chẳng phải sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người cõi dục giới ngoài ra thì với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ từng diệt và tỷ xứ cũng sẽ diệt”.
– HAY LÀ TỶ XỨ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[664] Nhãn xứ từng diệt cho người nào ở cõi nào thì sắc xứ sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang viên tịch cõi ngũ uẩn, với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ từng diệt nhưng sắc xứ chẳng phải sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người cõi ngũ uẩn hạng khác thì với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ từng diệt và sắc xứ cũng sẽ diệt”.
– HAY LÀ SẮC XỨ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang sanh cõi tịnh cư, người cõi vô tưởng, với người ấy ở cõi ấy sắc xứ sẽ diệt; nhưng nhãn xứ chẳng từng diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người cõi ngũ uẩn hạng khác thì với người ấy ở cõi ấy sắc xứ sẽ diệt và nhãn xứ cũng từng diệt”.
[665] Nhãn xứ từng diệt cho người nào ở cõi nào thì ý xứ sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang viên tịch cõi ngũ uẩn, với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ từng diệt nhưng ý xứ chẳng phải sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người cõi ngũ uẩn hạng khác thì với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ từng diệt và ý xứ cũng sẽ diệt”.
– HAY LÀ Ý XỨ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang sanh cõi tịnh cư, người cõi vô sắc, với người ấy ở cõi ấy ý xứ sẽ diệt nhưng nhãn xứ chẳng từng diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người cõi ngũ uẩn hạng khác thì với người ấy ở cõi ấy ý xứ sẽ diệt và nhãn xứ cũng từng diệt”.
[666] Nhãn xứ từng diệt cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang viên tịch ở cõi ngũ uẩn, với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ từng diệt nhưng pháp xứ chẳng phải sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người cõi ngũ uẩn hạng khác thì với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ từng diệt và pháp xứ cũng sẽ diệt”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang sanh cõi tịnh cư, người cõi vô tưởng, người cõi vô sắc, thì với người ấy ở cõi ấy pháp xứ sẽ diệt nhưng nhãn xứ chẳng từng diệt cho người ấy ở cõi ấy. Còn đối với người cõi ngũ uẩn hạng khác thì với người ấy ở cõi ấy pháp xứ sẽ diệt và nhãn xứ cũng từng diệt”.
[667] Tỷ xứ từng diệt cho người nào ở cõi nào thì sắc xứ sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang viên tịch cõi dục giới, với người ấy ở cõi ấy tỷ xứ từng diệt nhưng sắc xứ chẳng phải sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người cõi dục giới hạng khác thì với người ấy ở cõi ấy tỷ xứ từng diệt và sắc xứ cũng sẽ diệt”.
– HAY LÀ SẮC XỨ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ TỶ XỨ TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người cõi sắc giới, với người ấy ở cõi ấy sắc xứ sẽ diệt nhưng tỷ xứ chẳng từng diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người cõi dục giới thì với người ấy ở cõi ấy sắc xứ sẽ diệt và tỷ xứ cũng từng diệt”.
[668] Tỷ xứ từng diệt cho người nào ở cõi nào thì ý xứ … trùng … pháp xứ sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang viên tịch cõi dục giới, với người ấy ở cõi ấy tỷ xứ từng diệt nhưng pháp xứ chẳng phải sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người cõi dục giới hạng khác thì với người ấy ở cõi ấy tỷ xứ từng diệt và pháp xứ cũng sẽ diệt”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ TỶ XỨ TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người cõi sắc giới, người cõi vô sắc giới với người ấy ở cõi ấy pháp xứ sẽ diệt nhưng tỷ xứ chẳng từng diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người cõi dục giới thì với người ấy ở cõi ấy pháp xứ sẽ diệt và tỷ xứ cũng từng diệt”.
[669] Sắc xứ từng diệt cho người nào ở cõi nào thì ý xứ sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang viên tịch ở cõi ngũ uẩn, người cõi vô tưởng, với người ấy ở cõi ấy sắc xứ từng diệt nhưng ý xứ chẳng phải sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người cõi ngũ uẩn hạng khác thì với người ấy ở cõi ấy sắc xứ từng diệt và ý xứ cũng sẽ diệt”.
– HAY LÀ Ý XỨ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ SẮC XỨ TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang sanh cõi tịnh cư, người cõi vô sắc, với người ấy ở cõi ấy ý xứ sẽ diệt nhưng sắc xứ chẳng từng diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người cõi ngũ uẩn hạng khác thì với người ấy ở cõi ấy pháp xứ sẽ diệt và sắc xứ cũng từng diệt”.
[670] Sắc xứ từng diệt cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang viên tịch cõi ngũ uẩn, với người ấy ở cõi ấy sắc xứ từng diệt nhưng pháp xứ chẳng phải sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người cõi ngũ uẩn hạng khác, người cõi vô tưởng thì với người ấy ở cõi ấy sắc xứ từng diệt và pháp xứ cũng sẽ diệt”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ SẮC XỨ TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang sanh cõi tịnh cư, người cõi vô sắc, với người ấy ở cõi ấy pháp xứ sẽ diệt nhưng sắc xứ chẳng từng diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người cõi ngũ uẩn hạng khác thì với người ấy ở cõi ấy pháp xứ sẽ diệt và sắc xứ cũng từng diệt”.
[671] Ý xứ từng diệt cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang viên tịch với người ấy ở cõi ấy, ý xứ từng diệt nhưng pháp xứ chẳng phải sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người cõi tứ uẩn ngũ uẩn, hạng khác thì với người ấy ở cõi ấy ý xứ từng diệt và pháp xứ cũng sẽ diệt”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ Ý XỨ TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang sanh cõi tịnh cư, người cõi vô tưởng, với người ấy ở cõi ấy pháp xứ sẽ diệt nhưng ý xứ chẳng từng diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người cõi ngũ uẩn hạng khác thì với người ấy ở cõi ấy pháp xứ sẽ diệt và ý xứ cũng từng diệt”.
[672] Nhãn xứ không từng diệt cho người nào thì nhĩ xứ sẽ không diệt cho người ấy phải chăng?
“Không có!”
– HAY LÀ NHĨ XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XƯ KHÔNG TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Từng diệt!”
[673] Nhãn xứ không từng diệt cho người nào thì tỷ xứ sẽ không diệt cho người ấy phải chăng?
“Không có!”
– HAY LÀ TỶ XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Từng diệt!”
[674] Tỷ xứ … trùng … sắc xứ ý sắc không từng diệt cho người nào thì pháp xứ sẽ không diệt cho người ấy phải chăng?
“Không có!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ Ý XỨ KHÔNG TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Từng diệt!”
[675] Nhãn xứ không từng diệt cho cõi nào … trùng …
[676] Nhãn xứ không từng diệt cho người nào ở cõi nào thì nhĩ xứ sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang sanh cõi tịnh cư, với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ không từng diệt nhưng nhĩ xứ chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch cõi tịnh cư, người cõi vô tưởng, người cõi vô sắc, thì với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ không từng diệt và nhĩ xứ cũng sẽ không diệt”.
– HAY LÀ NHĨ XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang viên tịch cõi ngũ uẩn, với người ấy ở cõi ấy nhĩ xứ sẽ không diệt nhưng nhãn xứ chẳng phải không từng diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch cõi tịnh cư, người cõi vô tưởng, người cõi vô sắc, thì với người ấy ở cõi ấy nhĩ xứ sẽ không diệt và nhãn xứ cũng không từng diệt”.
[677] Nhãn xứ không từng diệt cho người nào ở cõi nào thì tỷ xứ sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
HAY LÀ TỶ XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang viên tịch trong cõi dục giới, người cõi vô sắc, với người ấy ở cõi ấy tỷ xứ sẽ không diệt nhưng nhãn xứ chẳng phải không từng diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người cõi tịnh cư, người cõi vô tưởng người cõi vô sắc, thì với người ấy ở cõi ấy tỷ xứ sẽ không diệt và nhãn xứ cũng không từng diệt”.
[678] Nhãn xứ không từng diệt cho người nào ở cõi nào thì sắc xứ sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang sanh cõi tịnh cư, người cõi vô tưởng, với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ không từng diệt nhưng sắc xứ chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch cõi tịnh cư, người cõi vô sắc, thì với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ sẽ không từng diệt và sắc xứ cũng sẽ không diệt”.
– HAY LÀ SẮC XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang viên tịch cõi ngũ uẩn, với người ấy ở cõi ấy sắc xứ sẽ không diệt nhưng nhãn xứ chẳng phải không từng diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch cõi tịnh cư, người cõi vô sắc, thì với người ấy ở cõi ấy sắc xứ sẽ không diệt và nhãn xứ cũng không từng diệt”.
[679] Nhãn xứ không từng diệt cho người nào ở cõi nào thì ý xứ sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang sanh cõi tịnh cư, người cõi vô sắc, với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ không từng diệt nhưng ý xứ chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch cõi tịnh cư, người cõi vô sắc, người cõi vô tưởng, thì với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ không từng diệt và ý xứ cũng sẽ không diệt”.
– HAY LÀ Ý XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang viên tịch cõi ngũ uẩn, với người ấy ở cõi ấy ý xứ sẽ không diệt nhưng nhãn xứ chẳng phải không từng diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch cõi tịnh cư, người đang viên tịch cõi vô sắc, người cõi vô tưởng, thì với người ấy ở cõi ấy ý xứ sẽ không diệt và nhãn xứ cũng không từng diệt”.
[680] Nhãn xứ không từng diệt cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang sanh cõi tịnh cư, người cõi vô tưởng, người cõi vô sắc với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ không từng diệt nhưng pháp xứ chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch cõi tịnh cư, người đang viên tịch cõi vô sắc, thì với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ sẽ không từng diệt và pháp xứ cũng sẽ không diệt”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang viên tịch ở cõi ngũ uẩn, với người ấy ở cõi ấy pháp xứ sẽ không diệt nhưng nhãn xứ chẳng phải không từng diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch cõi tịnh cư, người đang viên tịch cõi vô sắc, thì với người ấy ở cõi ấy pháp xứ sẽ không diệt và nhãn xứ cũng không từng diệt”.
[681] Tỷ xứ không từng diệt cho người nào ở cõi nào thì sắc xứ sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người cõi sắc giới, với người ấy ở cõi ấy tỷ xứ không từng diệt nhưng sắc xứ chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch cõi sắc giới, người cõi vô sắc, thì với người ấy ở cõi ấy tỷ xứ sẽ không từng diệt và sắc xứ cũng sẽ không diệt”.
– HAY LÀ SẮC XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ TỶ XỨ KHÔNG TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang viên tịch cõi dục giới, với người ấy ở cõi ấy sắc xứ sẽ không diệt nhưng tỷ xứ chẳng phải không từng diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch cõi sắc giới, người cõi vô sắc, thì với người ấy ở cõi ấy sắc xứ sẽ không diệt và tỷ xứ cũng không từng diệt”.
[682] Tỷ xứ không từng diệt cho người nào ở cõi nào thì ý xứ sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người cõi sắc giới, người cõi vô sắc giới, với người ấy ở cõi ấy tỷ xứ không từng diệt nhưng ý xứ chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch cõi sắc giới, người cõi vô tưởng, thì đối với người ấy ở cõi ấy tỷ xứ không từng diệt và ý xứ cũng sẽ không diệt”.
– HAY LÀ Ý XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ TỶ XỨ KHÔNG TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang viên tịch cõi dục giới, với người ấy ở cõi ấy ý xứ sẽ không diệt nhưng tỷ xứ chẳng phải không từng diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch ở cõi sắc giới cõi vô sắc giới, người cõi vô tưởng, thì với người ấy ở cõi ấy ý xứ sẽ không diệt và tỷ xứ cũng không từng diệt”.
[683] Tỷ xứ không từng diệt cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người cõi sắc giới, người cõi vô sắc giới, với người ấy ở cõi ấy tỷ xứ không từng diệt nhưng pháp xứ chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch ở cõi sắc giới, cõi vô sắc giới, thì với người ấy ở cõi ấy tỷ xứ sẽ không từng diệt và pháp xứ cũng sẽ không diệt”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ TỶ XỨ KHÔNG TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang viên tịch ở cõi dục giới, với người ấy ở cõi ấy pháp xứ sẽ không diệt nhưng tỷ xứ chẳng phải không từng diệt nhưng tỷ xứ chẳng phải không diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch ở cõi sắc giới cõi vô sắc giới thì với người ấy ở cõi ấy pháp xứ sẽ không diệt và tỷ xứ cũng không từng diệt”.
[684] Sắc xứ không từng diệt cho người nào ở cõi nào thì ý xứ sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang sanh cõi tịnh cư, người cõi vô sắc, với người ấy ở cõi ấy sắc xứ không từng diệt nhưng ý xứ chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch ở cõi tịnh cư, người viên tịch ở cõi vô sắc thì với người ấy ở cõi ấy sắc xứ không từng diệt và ý xứ cũng sẽ không diệt”.
– HAY LÀ Ý XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ SẮC XỨ KHÔNG TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang viên tịch ở cõi ngũ uẩn, người cõi vô tưởng, với người ấy ở cõi ấy ý xứ sẽ không diệt nhưng sắc xứ chẳng phải không từng diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch ở cõi tịnh cư, người đang viên tịch cõi vô sắc, thì với người ấy ở cõi ấy ý xứ sẽ không diệt và sắc xứ cũng không từng diệt”.
[685] Sắc xứ không từng diệt cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang sanh cõi tịnh cư, người cõi vô sắc, với người ấy ở cõi ấy sắc xứ không từng diệt nhưng pháp xứ chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch ở cõi tịnh cư, người đang viên tịch ở cõi vô sắc thì với người ấy ở cõi ấy sắc xứ không từng diệt và pháp xứ cũng sẽ không diệt”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ SẮC XỨ KHÔNG TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang viên tịch ở cõi ngũ uẩn, với người ấy ở cõi ấy pháp xứ sẽ không diệt nhưng sắc xứ chẳng phải không từng diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch ở cõi tịnh cư, người đang viên tịch cõi vô sắc giới thì với người ấy ở cõi ấy pháp xứ sẽ không diệt và sắc xứ cũng không từng diệt”.
[686] Ý xứ không từng diệt cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang sanh cõi tịnh cư, người cõi vô tưởng, với người ấy ở cõi ấy ý xứ không từng diệt nhưng pháp xứ chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch ở cõi tịnh cư thì với người ấy ở cõi ấy ý xứ không từng diệt và pháp xứ cũng sẽ không diệt”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ Ý XỨ KHÔNG TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang viên tịch, với người ấy ở cõi ấy pháp xứ sẽ không diệt nhưng ý xứ chẳng phải không từng diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch ở cõi tịnh cư thì với người ấy ở cõi ấy pháp xứ sẽ không diệt và ý xứ cũng không từng diệt”.
DỨT PHẦN DIỆT
[687] Nhãn xứ đang sanh cho người nào ở cõi nào thì nhĩ xứ đang diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Không phải!”
– HAY LÀ NHĨ XỨ ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Không phải!”
[688] Nhãn xứ đang sanh cho người nào thì tỷ xứ … sắc xứ ..ṣẽ ý xứ … pháp xứ đang diệt cho người ấy phải chăng?
“Không phải!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Không phải!”
[689] Ý xứ đang sanh cho người nào thì pháp xứ đang diệt cho người ấy phải chăng?
“Không phải!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ Ý XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Không phải!”
[690] Nhãn xứ đang sanh ở cõi nào … trùng …
Phần cõi không nên trả lời là “không phải” phần cõi nên lập luận giống như hai phần kia; ở phần cõi đều giống nhau trong ba cách (Ðang sanh; đang diệt; đang sanh diệt)(1)
[691] Nhãn xứ đang sanh cho người nào ở cõi nào thì nhĩ xứ đang diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Không phải!”
– HAY LÀ NHĨ XỨ ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Không phải!”
– trùng …
[692] Ý xứ đang sanh cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ đang diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Không phải!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ Ý XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Không phải!”
[693] Nhãn xứ không đang sanh cho người nào thì nhĩ xứ không đang diệt cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người hữu nhĩ đang tử biệt với người ấy nhãn xứ không đang sanh, nhưng nhĩ xứ chẳng phải không đang diệt cho người ấy; còn đối với người vô nhãn đang sanh, người vô nhĩ đang tử biệt thì với người ấy nhãn xứ không đang sanh và nhĩ xứ cũng không đang diệt”.
– HAY LÀ NHĨ XỨ KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người hữu nhãn đang sanh với người ấy nhĩ xứ không đang diệt nhưng nhãn xứ chẳng phải không đang sanh cho người ấy; còn đối với người vô nhĩ đang tử biệt, người vô nhãn đang sanh, thì với người ấy nhĩ xứ không đang diệt và nhãn xứ cũng không đang sanh”.
[694] Nhãn xứ không đang sanh cho người nào thì tỷ xứ không đang diệt cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người hữu tỷ đang tử biệt với người ấy nhãn xứ không đang sanh nhưng tỷ xứ chẳng phải không đang diệt cho người ấy; còn đối với người vô nhãn đang sanh, người vô tỷ đang tử biệt thì với người ấy nhãn xứ không đang sanh và tỷ xứ cũng không đang diệt”.
– HAY LÀ TỶ XỨ KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người hữu nhãn đang sanh, với người ấy tỷ xứ không đang diệt nhưng nhãn xứ chẳng phải không đang sanh cho người ấy; còn đối với người vô tỷ đang tử biệt, người vô nhãn đang sanh, thì với người ấy tỷ xứ không đang diệt và nhãn xứ cũng không đang sanh”.
[695] Nhãn xứ không đang sanh cho người nào thì sắc xứ không đang diệt cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người hữu sắc đang tử biệt với người ấy nhãn xứ không đang sanh nhưng sắc chẳng phải không đang diệt cho người ấy; còn đối với người vô nhãn đang sanh, người vô sắc đang tử biệt thì với người ấy nhãn xứ không đang sanh và sắc xứ cũng không đang diệt”.
– HAY LÀ SẮC XỨ KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người hữu nhãn đang sanh, với người ấy sắc xứ không đang diệt nhưng nhãn xứ chẳng phải không đang sanh cho người ấy; còn đối với người vô sắc đang tử biệt, người vô nhãn đang sanh thì với người ấy sắc xứ không đang diệt và nhãn xứ cũng không đang sanh”.
[696] Nhãn xứ không đang sanh cho người nào thì ý xứ không đang diệt cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người hữu tâm đang tử biệt, với người ấy nhãn xứ không đang sanh nhưng ý xứ chẳng phải không đang diệt cho người ấy; còn đối với người vô nhãn đang sanh, người vô tâm đang tử biệt thì với người ấy nhãn xứ không đang sanh và ý xứ cũng không đang diệt”.
– HAY LÀ Ý XỨ KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người hữu nhãn đang sanh, với người ấy ý xứ không đang diệt nhưng nhãn xứ chẳng phải không đang sanh cho người ấy; còn đối với người hữu tâm đang tử biệt, người vô nhãn đang sanh, thì với người ấy ý xứ không đang diệt và nhãn xứ cũng không đang sanh”.
[697] Nhãn xứ không đang sanh cho người nào thì pháp xứ không đang diệt cho người ấy phải chăng?
“Ðối với tất cả những người đang tử biệt, với người ấy nhãn xứ không đang sanh nhưng pháp xứ chẳng phải không đang diệt cho người ấy; còn đối với người vô nhãn đang sanh, thì với người ấy nhãn xứ không đang sanh và pháp xứ cũng không đang diệt”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người hữu nhãn đang sanh, với người ấy pháp xứ không đang diệt nhưng nhãn xứ chẳng phải không đang sanh cho người ấy; còn đối với người vô nhãn đang sanh thì với người ấy pháp xứ không đang diệt và nhãn xứ cũng không đang sanh”.
[698] Tỷ xứ không đang sanh cho người nào thì sắc xứ không đang diệt cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người hữu sắc đang tử biệt với người ấy tỷ xứ không đang sanh, nhưng sắc xứ chẳng phải không đang diệt cho người ấy; còn đối với người vô tỷ đang sanh, người vô sắc đang tử biệt thì với người ấy tỷ xứ không đang sanh và sắc xứ cũng không đang diệt”.
– HAY LÀ SẮC XỨ KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ TỶ XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người hữu tỷ đang sanh, với người ấy sắc xứ không đang diệt nhưng tỷ xứ chẳng phải không đang sanh cho người ấy; còn đối với người vô sắc đang tử biệt người vô tỷ đang sanh, thì với người ấy sắc xứ không đang diệt và tỷ xứ cũng không đang sanh”.
[699] Tỷ xứ không đang sanh cho người nào thì ý xứ không đang diệt cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người hữu tâm đang tử biệt; với người ấy tỷ xứ không đang sanh, nhưng ý xứ chẳng phải không đang diệt cho người ấy; còn đối với người vô tỷ đang sanh, người vô tâm đang tử biệt, thì với người ấy tỷ xứ không đang sanh và ý xứ cũng không đang diệt”.
– HAY LÀ Ý XỨ KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ TỶ XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người hữu tỷ đang sanh với người ấy ý xứ không đang diệt nhưng tỷ xứ chẳng phải không đang sanh cho người ấy; còn đối với người vô tâm đang tử biệt, người vô tỷ đang sanh, thì với người ấy ý xứ không đang diệt và tỷ xứ cũng không đang sanh”.
[700] Tỷ xứ không đang sanh cho người nào thì pháp xứ không đang diệt cho người ấy phải chăng?
“Ðối với tất cả người đang tử biệt; với người ấy tỷ xứ không đang sanh, nhưng pháp xứ chẳng phải không đang diệt cho người ấy; còn đối với người vô tỷ đang sanh thì với người ấy tỷ xứ không đang sanh và pháp xứ cũng không đang diệt”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ TỶ XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người hữu tỷ đang sanh, với người ấy pháp xứ không đang diệt nhưng tỷ xứ chẳng phải không đang sanh cho người ấy; còn đối với người vô tỷ đang sanh thì với người ấy pháp xứ không đang diệt và tỷ xứ cũng không đang sanh”.
[701] Sắc xứ không đang sanh cho người nào thì ý xứ không đang diệt cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người hữu tâm đang tử biệt; với người ấy sắc xứ không đang sanh, nhưng ý xứ chẳng phải không đang diệt cho người ấy; còn đối với người vô sắc đang sanh, người vô tâm đang tử biệt, với người ấy sắc xứ không đang sanh và ý xứ cũng không đang diệt”.
– HAY LÀ Ý XỨ KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ SẮC XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người hữu sắc đang sanh, với người ấy ý xứ không đang diệt nhưng sắc xứ chẳng phải không đang sanh cho người ấy; còn đối với người vô tâm đang tử biệt, người vô sắc đang sanh, thì với người ấy ý xứ không đang diệt và sắc xứ cũng không đang sanh”.
[702] Sắc xứ không đang sanh cho người nào thì pháp xứ không đang diệt cho người ấy phải chăng?
“Ðối với tất cả người đang tử biệt, với người ấy sắc xứ không đang sanh, nhưng pháp xứ chẳng phải không đang diệt cho người ấy; còn đối với người vô sắc đang sanh thì với người ấy sắc xứ không đang sanh và pháp xứ cũng không đang diệt”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ SẮC XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người hữu sắc đang sanh, với người ấy pháp xứ không đang diệt nhưng sắc xứ chẳng phải không đang sanh cho người ấy; còn đối với người vô sắc đang sanh thì với người ấy pháp xứ không đang diệt và sắc xứ cũng không đang sanh”.
[703] Ý xứ không đang sanh cho người nào thì pháp xứ không đang diệt cho người ấy phải chăng?
“Tất cả người đang tử biệt; với người ấy ý xứ không đang sanh, nhưng pháp xứ chẳng phải không đang diệt cho người ấy; còn đối với người vô tâm đang sanh thì với người ấy ý xứ không đang sanh và pháp xứ cũng không đang diệt”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ Ý XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người hữu tâm đang sanh, với người ấy pháp xứ không đang diệt nhưng ý xứ chẳng phải không đang sanh cho người ấy; còn đối với người vô tâm đang sanh thì với người ấy pháp xứ không đang diệt và ý xứ cũng không đang sanh”.
[704] Nhãn xứ không đang sanh ở cõi nào … trùng …
[705] Nhãn xứ không đang sanh cho người nào ở cõi nào … trùng.
Phần về người, cùng phần về Người – cõi đều giống nhau.
[706] Nhãn xứ từng sanh cho người nào thì nhĩ xứ từng diệt cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ NHĨ XỨ TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
– Các vấn đề thuộc quá khứ, câu xuôi cùng câu ngược trong phần SANH, phần DIỆT, phần SANH-DIỆT, đều giống nhau.
[707] Nhãn xứ sẽ sanh cho người nào thì nhĩ xứ sẽ diệt cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ NHĨ XỨ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người kiếp chót đang sanh cõi ngũ uẩn, và người đang sanh mà sẽ sanh lên cõi vô sắc rồi viên tịch, với hạng người ấy nhĩ xứ sẽ diệt nhưng nhãn xứ sẽ chẳng sanh cho người ấy; còn đối với các hạng khác thì với họ nhĩ xứ sẽ diệt và nhãn xứ cũng sẽ sanh”.
[708] Nhãn xứ sẽ sanh cho người nào thì tỷ xứ sẽ diệt cho người ấy phải chăng?
“Ðối với những người đang tử biệt mà sẽ sanh lên cõi sắc giới rồi viên tịch, với người ấy nhãn xứ sẽ sanh nhưng tỷ xứ sẽ chẳng diệt cho người ấy; còn đối với các hạng khác thì với người ấy nhãn xứ sẽ sanh và tỷ xứ cũng sẽ diệt”.
– HAY LÀ TỶ XỨ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người kiếp chót đang sanh cõi dục giới, và người mà sẽ sanh lên cõi vô sắc rồi viên tịch với người ấy tỷ xứ sẽ diệt nhưng nhãn xứ sẽ chẳng sanh cho người ấy; còn đối với các hạng khác thì với họ tỷ xứ sẽ diệt và nhãn xứ cũng sẽ sanh”.
[709] Nhãn xứ sẽ sanh cho người nào thì sắc xứ sẽ diệt cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ SẮC XỨ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người kiếp chót đang sanh cõi ngũ uẩn và người đang sanh mà sẽ sanh lên cõi vô sắc rồi viên tịch, với người ấy sắc xứ sẽ diệt nhưng nhãn xứ sẽ chẳng sanh cho người ấy; còn đối với các hạng khác, thì với họ sắc xứ sẽ diệt và nhãn xứ cũng sẽ sanh”.
[710] Nhãn xứ sẽ sanh cho người nào thì ý xứ … trùng pháp xứ sẽ diệt cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người kiếp chót đang sanh, và người mà sẽ sanh lên cõi vô sắc rồi viên tịch, với người ấy pháp xứ sẽ diệt nhưng nhãn xứ chẳng phải sẽ sanh cho người ấy; còn đối với các hạng khác thì với người ấy pháp xứ sẽ diệt và nhãn xứ cũng sẽ sanh”.
[711] Tỷ xứ sẽ sanh cho người nào thì sắc xứ sẽ diệt cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ SẮC XỨ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ TỶ XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người kiếp chót đang sanh cõi ngũ uẩn, và người đang sanh mà sẽ sanh lên cõi sắc giới cõi vô sắc giới rồi viên tịch, với người ấy sắc xứ sẽ diệt nhưng tỷ xứ sẽ chẳng sanh cho người ấy; còn đối với các hạng khác, thì với họ sắc xứ sẽ diệt và tỷ xứ cũng sẽ sanh”.
[712] Tỷ xứ sẽ sanh cho người nào thì ý xứ … trùng … pháp xứ sẽ diệt cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ TỶ XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người kiếp chót đang sanh, và người mà sẽ sanh lên cõi vô sắc rồi viên tịch, với các hạng ấy pháp xứ sẽ diệt nhưng tỷ xứ sẽ chẳng sanh cho họ còn đối với các hạng khác thì với họ pháp xứ sẽ diệt và tỷ xứ cũng sẽ sanh”.
[713] Sắc xứ sẽ sanh cho người nào thì ý xứ … trùng … pháp xứ sẽ diệt cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ SẮC XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người kiếp chót đang sanh và người đang sanh mà sẽ sanh lên cõi vô sắc rồi viên tịch, với các hạng ấy pháp xứ sẽ diệt nhưng sắc xứ sẽ chẳng sanh cho họ; còn đối với các hạng khác thì với họ pháp xứ sẽ diệt và sắc xứ cũng sẽ sanh”.
[714] Ý xứ sẽ sanh cho người nào thì pháp xứ sẽ diệt cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ Ý XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người kiếp chót đang sanh, với hạng ấy pháp xứ sẽ diệt nhưng ý xứ sẽ chẳng sanh cho người ấy; còn đối với các hạng khác thì với họ pháp xứ sẽ diệt và ý xứ cũng sẽ sanh”.
[715] Nhãn xứ sẽ sanh ở cõi nào … trùng …
[716] Nhãn xứ sẽ sanh cho người nào ở cõi nào thì nhĩ xứ sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ NHĨ XỨ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người kiếp chót đang sanh cõi ngũ uẩn, với người ấy ở cõi ấy nhĩ xứ sẽ diệt, nhưng nhãn xứ sẽ chẳng diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với hạng người cõi ngũ uẩn khác thì với người ấy ở cõi ấy nhĩ xứ sẽ diệt và nhãn xứ cũng sẽ sanh”.
[717] Nhãn xứ sẽ sanh cho người nào ở cõi nào thì tỷ xứ sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người cõi sắc giới, với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ sẽ sanh nhưng tỷ xứ sẽ chẳng diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người cõi dục giới, thì với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ sẽ sanh và tỷ xứ cũng sẽ diệt”.
– HAY LÀ TỶ XỨ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người kiếp chót đang sanh cõi dục giới, với người ấy ở cõi ấy tỷ xứ sẽ diệt, nhưng nhãn xứ sẽ chẳng sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với hạng người cõi dục giới khác thì với người ấy ở cõi ấy tỷ xứ sẽ diệt và nhãn xứ cũng sẽ sanh”.
[718] Nhãn xứ sẽ sanh cho người nào ở cõi nào thì sắc xứ sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ SẮC XỨ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người kiếp chót đang sanh cõi ngũ uẩn người cõi vô tưởng, với người ấy ở cõi ấy sắc xứ sẽ diệt, nhưng nhãn xứ sẽ chẳng sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với hạng người cõi ngũ uẩn khác thì với người ấy ở cõi ấy sắc xứ sẽ diệt và nhãn xứ cũng sẽ sanh”.
[719] Nhãn xứ sẽ sanh cho người nào ở cõi nào thì ý xứ sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ Ý XỨ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người kiếp chót đang sanh cõi ngũ uẩn, đối với người cõi vô sắc, với người ấy ở cõi ấy ý xứ sẽ diệt, nhưng nhãn xứ sẽ chẳng sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với hạng người cõi ngũ uẩn khác thì với người ấy ở cõi ấy ý xứ sẽ diệt và nhãn xứ cũng sẽ sanh”.
[720] Nhãn xứ sẽ sanh cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người kiếp chót đang sanh cõi ngũ uẩn, người cõi vô tưởng, người cõi vô sắc, với người ấy ở cõi ấy pháp xứ sẽ diệt nhưng nhãn xứ sẽ chẳng sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với hạng người cõi ngũ uẩn khác thì với người ấy ở cõi ấy pháp xứ sẽ diệt và nhãn xứ cũng sẽ sanh”.
[721] Tỷ xứ sẽ sanh cho người nào ở cõi nào thì sắc xứ sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ SẮC XỨ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ TỶ XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người kiếp chót đang sanh cõi dục giới người cõi sắc gới, với người ấy ở cõi ấy sắc xứ sẽ diệt, nhưng tỷ xứ sẽ chẳng sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với hạng người cõi dục giới khác thì với người ấy ở cõi ấy sắc xứ sẽ diệt và tỷ xứ cũng sẽ sanh”.
[722] Tỷ xứ sẽ sanh cho người nào ở cõi nào thì ý xứ … trùng … pháp xứ sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ TỶ XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người kiếp chót đang sanh cõi dục giới, người cõi sắc giới, người cõi vô sắc giới, với người ấy ở cõi ấy pháp xứ sẽ diệt nhưng tỷ xứ sẽ chẳng sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với hạng người cõi dục giới khác thì với người ấy ở cõi ấy pháp xứ sẽ diệt và tỷ xứ cũng sẽ sanh”.
[723] Sắc xứ sẽ sanh cho người nào ở cõi nào thì ý xứ sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người cõi vô tưởng, với người ấy ở cõi ấy sắc xứ sẽ sanh nhưng ý xứ sẽ chẳng diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người cõi ngũ uẩn thì với người ấy ở cõi ấy sắc xứ sẽ sanh và ý xứ cũng sẽ diệt”.
– HAY LÀ Ý XỨ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ SẮC XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người kiếp chót đang sanh cõi ngũ uẩn, người cõi vô sắc; với người ấy ở cõi ấy ý xứ sẽ diệt nhưng sắc xứ sẽ chẳng sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với hạng người cõi ngũ uẩn khác thì với người ấy ở cõi ấy ý xứ sẽ diệt và sắc xứ cũng sẽ sanh”.
[724] Sắc xứ sẽ sanh cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ SẮC XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người kiếp chót đang sanh cõi ngũ uẩn người cõi vô sắc, với người ấy ở cõi ấy pháp xứ sẽ diệt nhưng sắc xứ sẽ chẳng sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với hạng người cõi ngũ uẩn khác, người cõi vô tưởng thì với người ấy ở cõi ấy pháp xứ sẽ diệt và sắc xứ cũng sẽ sanh”.
[725] Ý xứ sẽ sanh cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ Ý XỨ SẼ SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người kiếp chót đang sanh người cõi vô sắc tưởng; với người ấy ở cõi ấy pháp xứ sẽ diệt nhưng ý xứ sẽ chẳng sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người cõi tứ uẩn và người cõi ngũ uẩn hạng khác, thì với người ấy ở cõi ấy pháp xứ sẽ diệt và ý xứ cũng sẽ sanh”.
[726] Nhãn xứ sẽ không sanh cho người nào, thì nhĩ xứ sẽ không diệt cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người kiếp chót đang sanh cõi ngũ uẩn, và người đang sanh mà sẽ sanh lên cõi vô sắc rồi viên tịch, với các hạng ấy nhãn xứ sẽ không sanh nhưng nhĩ xứ chẳng phải sẽ không diệt cho họ; còn đối với người đang viên tịch cõi ngũ uẩn, người kiếp chót trong cõi vô sắc, và người đang tử biệt mà sẽ sanh lên cõi vô sắc rồi viên tịch, thì với các hạng ấy nhãn xứ sẽ không sanh và nhĩ xứ cũng sẽ không diệt”.
– HAY LÀ NHĨ XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[727] Nhãn xứ sẽ không sanh cho người nào, thì tỷ xứ sẽ không diệt cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người kiếp chót đang sanh cõi dục giới và người đang sanh mà sẽ sanh lên cõi vô sắc rồi viên tịch, với các hạng ấy nhãn xứ sẽ không sanh nữa nhưng tỷ xứ chẳng phải sẽ không diệt cho họ; còn đối với người đang viên tịch cõi dục giới, người kiếp chót ở cõi sắc giới, cõi vô sắc giới, và người đang tử biệt mà sẽ sanh lên cõi vô sắc rồi viên tịch, với các hạng ấy nhãn xứ sẽ không sanh và tỷ xứ cũng sẽ không diệt”.
– HAY LÀ TỶ XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang tử biệt mà sẽ sanh lên cõi sắc giới rồi viên tịch, với hạng ấy tỷ xứ sẽ không diệt nhưng nhãn xứ chẳng phải sẽ không sanh cho họ; còn đối với người đang viên tịch cõi dục giới, người kiếp chót ở cõi sắc giới cõi vô sắc giới, và người đang tử biệt mà sẽ sanh lên cõi vô sắc, thì với các hạng ấy tỷ xứ sẽ không diệt và nhãn xứ cũng sẽ không sanh”.
[728] Nhãn xứ sẽ không sanh cho người nào thì sắc xứ sẽ không diệt cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người kiếp chót đang sanh cõi ngũ uẩn, và người đang sanh mà sẽ sanh lên cõi vô sắc rồi viên tịch, với các hạng ấy nhãn xứ sẽ không sanh nhưng sắc xứ chẳng phải sẽ không diệt cho họ; còn đối với người đang viên tịch cõi ngũ uẩn, người kiếp chót ở cõi vô sắc, và người đang tử biệt mà sẽ sanh lên cõi vô sắc rồi viên tịch thì với các hạng ấy nhãn xứ sẽ không sanh và sắc xứ cũng sẽ không diệt”.
– HAY LÀ SẮC XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[729] Nhãn xứ sẽ không sanh cho người nào thì ý xứ … trùng … pháp xứ sẽ không diệt cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người kiếp chót đang sanh và người đang sanh mà sẽ sanh lên cõi vô sắc rồi viên tịch, với các hạng ấy nhãn xứ sẽ không sanh nhưng pháp xứ chẳng phải sẽ không diệt cho họ; còn đối với người đang viên tịch, thì với hạng ấy nhãn xứ sẽ không sanh và pháp xứ cũng sẽ không diệt”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO … trùng …
“Phải rồi!”
[730] Tỷ xứ sẽ không sanh cho người nào thì sắc xứ sẽ không diệt cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người kiếp chót đang sanh cõi ngũ uẩn, và người đang sanh mà sẽ sanh lên cõi sắc giới, cõi vô sắc giới, với các hạng ấy tỷ xứ sẽ không sanh nhưng sắc xứ chẳng phải sẽ không diệt cho họ; còn đối với người đang viên tịch ở cõi ngũ uẩn, người kiếp chót cõi vô sắc, và người đang tử biệt mà sẽ sanh lên cõi vô sắc rồi viên tịch, thì với hạng ấy tỷ xứ sẽ không sanh và sắc xứ cũng sẽ không diệt”.
– HAY LÀ SẮC XỨ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO … trùng…?
“Phải rồi!”
[731] Tỷ xứ sẽ không sanh cho người nào thì ý xứ … trùng … pháp xứ sẽ không diệt cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người kiếp chót đang sanh và người mà sẽ sanh lên cõi sắc giới-cõi vô sắc giới rồi viên tịch, với các hạng ấy tỷ xứ sẽ không sanh nhưng pháp xứ chẳng phải sẽ không diệt cho họ; còn đối với người đang viên tịch thì với người ấy tỷ xứ sẽ không sanh và pháp xứ cũng sẽ không diệt”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO … trùng…?
“Phải rồi!”
[732] Sắc xứ sẽ không sanh cho người nào thì ý xứ … trùng … pháp xứ sẽ không diệt cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người kiếp chót đang sanh và người mà sẽ sanh lên cõi vô sắc rồi viên tịch, với các hạng ấy sắc xứ sẽ không sanh nhưng pháp xứ chẳng phải sẽ không diệt cho họ; còn đối với người đang viên tịch thì với người ấy sắc xứ sẽ không sanh và pháp xứ cũng sẽ không diệt”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO … trùng…?
“Phải rồi!”
[733] Ý xứ sẽ không sanh cho người nào thì pháp xứ sẽ không diệt cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người kiếp chót đang sanh với các người ấy ý xứ sẽ không sanh nhưng pháp xứ chẳng phải sẽ không diệt cho họ; còn đối với người đang viên tịch thì với người ấy ý xứ sẽ không sanh và pháp xứ cũng sẽ không diệt”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ Ý XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[734] Nhãn xứ sẽ không sanh ở cõi nào … trùng …
[735] Nhãn xứ sẽ không sanh cho người nào ở cõi nào thì nhĩ xứ sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người kiếp chót đang sanh cõi ngũ uẩn, với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ sẽ không sanh nhưng nhĩ xứ chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấyï; còn đối với người đang viên tịch ở cõi ngũ uẩn, người cõi vô tưởng, người cõi vô sắc, thì với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ sẽ không sanh và nhĩ xứ cũng sẽ không diệt”.
– HAY LÀ NHĨ XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO … trùng …
“Phải rồi!”
[736] Nhãn xứ sẽ không sanh cho người nào ở cõi nào thì tỷ xứ sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người kiếp chót đang sanh cõi dục giới, với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ sẽ không sanh nhưng tỷ xứ chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấyï; còn đối với người đang viên tịch cõi dục giới, người kiếp chót ở cõi sắc giới, người cõi vô tưởng, người cõi vô sắc, thì với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ sẽ không sanh và tỷ xứ cũng sẽ không diệt”.
– HAY LÀ TỶ XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người cõi vô sắc, với người ấy ở cõi ấy tỷ xứ sẽ không diệt nhưng nhãn xứ chẳng phải sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấyï; còn đối với người đang viên tịch cõi dục giới, người kiếp chót ở cõi sắc giới, người cõi vô tưởng, người cõi vô sắc, thì với người ấy ở cõi ấy tỷ xứ sẽ không diệt và nhãn xứ cũng sẽ không sanh.
[737] Nhãn xứ sẽ không sanh cho người nào ở cõi nào thì sắc xứ sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người kiếp chót đang sanh cõi ngũ uẩn người cõi vô tưởng, với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ sẽ không sanh nhưng sắc xứ chẳng phải sẽ không diệt còn đối với người đang viên tịch cõi ngũ uẩn, người cõi vô sắc, thì với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ sẽ không sanh và sắc xứ cũng sẽ không diệt”.
– HAY LÀ SẮC XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO … trùng…
“Phải rồi!”
[738] Nhãn xứ sẽ không sanh cho người nào ở cõi nào thì ý xứ sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người kiếp chót đang sanh cõi ngũ uẩn, với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ sẽ không sanh nhưng ý xứ chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấyï; còn đối với người đang viên tịch, người cõi vô tưởng, thì với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ sẽ không sanh và ý xứ cũng sẽ không diệt”.
– HAY LÀ Ý XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO … trùng…
“Phải rồi!”
[739] Nhãn xứ sẽ không sanh cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người kiếp chót đang sanh cõi ngũ uẩn, người cõi vô tưởng, người cõi vô sắc, với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ sẽ không sanh nhưng pháp xứ chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấyï”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO … trùng…
“Phải rồi!”
[740] Tỷ xứ sẽ không sanh cho người nào ở cõi nào thì sắc xứ sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người kiếp chót đang sanh cõi dục giới, ngươi cõi sắc với người ấy ở cõi ấy tỷ xứ sẽ không sanh nhưng sắc xứ chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấyï; còn đối với người đang viên tịch ở cõi ngũ uẩn, người cõi vô sắc, thì với người ấy ở cõi ấy tỷ xứ sẽ không sanh và sắc xứ cũng sẽ không diệt”.
– HAY LÀ SẮC XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO … trùng…
“Phải rồi!”
[741] Tỷ xứ sẽ không sanh cho người nào ở cõi nào thì ý xứ sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người kiếp chót đang sanh cõi dục giới người cõi sắc giới, người cõi vô sắc giới với người ấy ở cõi ấy tỷ xứ sẽ không sanh nhưng ý xứ chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấyï; còn đối với người đang viên tịch người cõi vô tưởng, thì với người ấy ở cõi ấy tỷ xứ sẽ không sanh và ý xứ cũng sẽ không diệt”.
– HAY LÀ Ý XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO … trùng…
“Phải rồi!”
[742] Tỷ xứ sẽ không sanh cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người kiếp chót đang sanh cõi dục giới, người cõi sắc giới, người cõi vô sắc giới, với người ấy ở cõi ấy và tỷ xứ sẽ không sanh nhưng pháp xứ chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấyï; còn đối với người đang viên tịch thì với người ấy ở cõi ấy tỷ xứ sẽ không sanh và pháp xứ cũng sẽ không diệt”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO … trùng…
“Phải rồi!”
[743] Sắc xứ sẽ không sanh cho người nào ở cõi nào thì ý xứ sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người kiếp chót đang sanh cõi ngũ uẩn, người cõi vô sắc, với người ấy ở cõi ấy sắc xứ sẽ không sanh nhưng ý xứ chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấyï; còn đối với người đang viên tịch thì với người ấy ở cõi ấy sắc xứ sẽ không sanh và ý xứ cũng sẽ không diệt”.
– HAY LÀ Ý XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ SẮC XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người cõi vô tưởng, với người ấy ở cõi ấy ý xứ sẽ không diệt nhưng sắc xứ chẳng phải sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấyï; còn đối với người đang viên tịch thì với người ấy ở cõi ấy ý xứ sẽ không diệt và sắc xứ cũng sẽ không sanh”.
[744] Sắc xứ sẽ không sanh cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người kiếp chót đang sanh cõi ngũ uẩn, người cõi vô sắc, với người ấy ở cõi ấy sắc xứ sẽ không sanh nhưng pháp xứ chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấyï; còn đối với người đang viên tịch thì với người ấy ở cõi ấy sắc xứ sẽ không sanh và pháp xứ cũng sẽ không diệt”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO … trùng…
“Phải rồi!”
[745] Ý xứ sẽ không sanh cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người kiếp chót đang sanh, người cõi vô tưởng, với người ấy ở cõi ấy ý xứ sẽ không sanh nhưng pháp xứ chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấyï; còn đối với người đang viên tịch thì với người ấy ở cõi ấy ý xứ sẽ không sanh và pháp xứ cũng sẽ không diệt”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ Ý XỨ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[746] Nhãn xứ đang sanh cho người nào thì nhĩ xứ từng diệt cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ NHĨ XỨ TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với tất cả người đang tử biệt, người vô nhãn đang sanh, với người ấy sắc xứ sẽ diệt nhưng nhãn xứ chẳng phải đang sanh cho người ấy; còn đối với người hữu nhãn đang sanh, thì với người ấy nhĩ xứ từng diệt và nhãn xứ cũng đang sanh”.
Các câu hỏi thuộc hiện tại- quá khứ – trong phần SANH đã được nói rộng như thế nào thì các câu hỏi thuộc hiện tại – quá khứ trong phần SANH DIỆT gồm cả câu xuôi và câu ngược cũng cần được phân tích như vậy.
[747] Nhãn xứ đang sanh với người nào thì nhĩ xứ sẽ diệt cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ NHĨ XỨ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với tất cả người đang tử biệt, người vô nhãn đang sanh, với người ấy nhĩ xứ sẽ diệt nhưng nhãn xứ chẳng phải đang sanh cho người ấy; còn đối với người hữu nhãn đang sanh thì với người ấy nhĩ xứ sẽ diệt và nhãn xứ cũng đang sanh”.
[748] Nhãn xứ đang sanh với người nào thì tỷ xứ sẽ diệt cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người kiếp chót đang sanh cõi sắc giới, với người ấy nhãn xứ sẽ không sanh nhưng tỷ xứ chẳng phải sẽ diệt cho người ấyï; còn đối với người hữu nhãn khác đang sanh, thì với người ấy nhãn xứ đang sanh và tỷ xứ cũng sẽ diệt”.
– HAY LÀ TỶ XỨ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với tất cả người đang tử biệt, người vô nhãn đang sanh, với người ấy tỷ xứ sẽ diệt nhưng nhãn xứ chẳng phải đang sanh cho người ấy; còn đối với người hữu nhãn đang sanh thì với người ấy tỷ xứ sẽ diệt và nhãn xứ cũng đang sanh”.
[749] Nhãn xứ đang sanh với người nào thì sắc xứ sẽ diệt cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ SẮC XỨ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với tất cả người đang tử biệt, người vô nhãn đang sanh, với người ấy sắcù xứ sẽ diệt nhưng nhãn chẳng phải đang sanh cho người ấy; còn đối với người hữu nhãn đang sanh thì với người ấy sắc xứ sẽ diệt và nhãn xứ cũng đang sanh”.
[750] Nhãn xứ đang sanh với người nào thì ý xứ sẽ diệt cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ Ý XỨ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với tất cả người đang tử biệt, người vô nhãn đang sanh, với người ấy ý xứ sẽ diệt nhưng nhãn không đang sanh cho người ấy; còn đối với người hữu nhãn đang sanh thì với người ấy ý xứ sẽ diệt và nhãn xứ cũng đang sanh”.
[751] Nhãn xứ đang sanh cho người nào thì pháp xứ sẽ diệt cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với tất cả người đang tử biệt, người vô nhãn đang sanh, với người ấy pháp xứ sẽ diệt nhưng nhãn xứ chẳng phải đang sanh cho người ấy; còn đối với người hữu nhãn đang sanh thì với người ấy pháp xứ sẽ diệt và nhãn xứ cũng đang sanh”.
[752] Tỷ xứ đang sanh cho người nào thì sắc xứ … trùng … ý xứ … pháp xứ sẽ diệt cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ TỶ XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với tất cả người đang tử biệt, người vô tỷ đang sanh, với người ấy pháp xứ sẽ diệt nhưng tỷ xứ chẳng phải đang sanh cho người ấy; còn đối với người hữu tỷ đang sanh, thì với người ấy pháp xứ sẽ diệt và tỷ xứ cũng đang sanh”.
[753] Sắc xứ đang sanh cho người nào thì ý xứ … trùng … pháp xứ sẽ diệt cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ SẮC XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với tất cả người đang tử biệt, người vô sắc đang sanh, với người ấy pháp xứ sẽ diệt nhưng sắc xứ chẳng phải đang sanh cho người ấy; còn đối với người hữu sắc đang sanh, thì với người ấy pháp xứ sẽ diệt và sắc xứ cũng đang sanh”.
[754] Ý xứ đang sanh cho người nào thì pháp xứ sẽ diệt cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ Ý XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với tất cả người đang tử biệt, người vô tâm đang sanh, với người ấy pháp xứ sẽ diệt nhưng ý xứ chẳng phải đang sanh cho người ấy; còn đối với người hữu tâm đang sanh thì với người ấy pháp xứ sẽ diệt và ý xứ cũng đang sanh”.
[755] Nhãn xứ đang sanh ở cõi nào … trùng …
[756] Nhãn xứ đang sanh cho người nào ở cõi nào thì nhĩ xứ sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ NHĨ XỨ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang tử biệt cõi ngũ uẩn, người vô nhãn đang sanh cõi dục giới, với người ấy ở cõi ấy nhĩ xứ sẽ diệt nhưng nhãn xứ chẳng phải đang sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người hữu nhãn đang sanh thì với người ấy ở cõi ấy nhĩ xứ sẽ diệt và nhãn xứ cũng đang sanh”.
[757] Nhãn xứ đang sanh cho người nào ở cõi nào thì tỷ xứ sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang sanh cõi sắc giới, với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ đang sanh nhưng tỷ xứ chẳng phải sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người hữu nhãn đang sanh cõi dục giới thì với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ đang sanh và tỷ xứ cũng sẽ diệt”.
– HAY LÀ TỶ XỨ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang tử biệt cõi dục giới, người vô nhãn đang sanh cõi dục giới, với người ấy ở cõi ấy tỷ xứ sẽ diệt nhưng nhãn xứ chẳng phải đang sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người hữu nhãn đang sanh cõi dục giới thì với người ấy ở cõi ấy tỷ xứ sẽ diệt và nhãn xứ cũng đang sanh”.
[758] Nhãn xứ đang sanh cho người nào ở cõi nào thì sắc xứ sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ SẮC XỨ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang tử biệt cõi ngũ uẩn, người vô nhãn đang sanh cõi dục giới, người cõi vô tưởng, với người ấy ở cõi ấy sắc xứ sẽ diệt nhưng nhãn xứ chẳng phải đang sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người hữu nhãn đang sanh thì với người ấy ở cõi ấy sắc xứ sẽ diệt và nhãn xứ cũng đang sanh”.
[759] Nhãn xứ đang sanh cho người nào ở cõi nào thì ý xứ sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ Ý XỨ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang tử biệt cõi ngũ uẩn, người vô nhãn đang sanh cõi dục giới, người cõi vô sắc, với người ấy ở cõi ấy ý xứ sẽ diệt nhưng nhãn xứ chẳng phải đang sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người hữu nhãn đang sanh thì với người ấy ở cõi ấy ý xứ sẽ diệt và nhãn xứ cũng đang sanh”.
[760] Nhãn xứ đang sanh cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với tất cả người đang tử biệt, người vô nhãn đang sanh với người ấy ở cõi ấy pháp xứ sẽ diệt nhưng nhãn xứ chẳng phải đang sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người hữu nhãn đang sanh thì với người ấy ở cõi ấy pháp xứ sẽ diệt và nhãn xứ cũng đang sanh”.
[761] Tỷ xứ đang sanh cho người nào ở cõi nào thì sắc xứ sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ SẮC XỨ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ TỶ XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang tử biệt cõi dục giới, người vô tỷ đang sanh cõi dục giới, người cõi sắc giới, người vô tỷ đang sanh cõi dục giới, người cõi vô sắc, với người ấy ở cõi ấy sắc xứ sẽ diệt nhưng tỷ xứ chẳng phải đang sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người hữu tỷ đang sanh thì với người ấy ở cõi ấy sắc xứ sẽ diệt và tỷ xứ cũng đang sanh”.
[762] Tỷ xứ đang sanh cho người nào ở cõi nào thì ý xứ sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ Ý XỨ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ TỶ XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang tử biệt cõi dục giới, người vô tỷ đang sanh cõi dục giới, người cõi sắc giới, người cõi vô sắc giới, với người ấy ở cõi ấy ý xứ sẽ diệt nhưng tỷ xứ chẳng phải đang sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người hữu tỷ đang sanh thì với người ấy ở cõi ấy ý xứ sẽ diệt và tỷ xứ cũng đang sanh”.
[763] Tỷ xứ đang sanh cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ TỶ XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với tất cả người đang tử biệt, người vô tỷ đang sanh, với người ấy ở cõi ấy pháp xứ sẽ diệt nhưng tỷ xứ chẳng phải đang sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người hữu tỷ đang sanh thì với người ấy ở cõi ấy pháp xứ sẽ diệt và tỷ xứ cũng đang sanh”.
[764] Sắc xứ đang sanh cho người nào ở cõi nào thì ý xứ sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người vô tưởng đang sanh, với người ấy ở cõi ấy sắc xứ đang sanh nhưng ý xứ chẳng phải sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang sanh cõi ngũ uẩn thì với người ấy ở cõi ấy sắc xứ đang sanh và ý xứ cũng sẽ diệt”.
– HAY LÀ Ý XỨ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ SẮC XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang tử biệt cõi ngũ uẩn, người cõi vô sắc, với người ấy ở cõi ấy ý xứ sẽ diệt nhưng sắc xứ chẳng phải đang sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang sanh cõi ngũ uẩn thì với người ấy ở cõi ấy ý xứ sẽ diệt và sắc xứ cũng đang sanh”.
[765] Sắc xứ đang sanh cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ SẮC XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với tất cả người đang tử biệt, người vô sắc đang sanh, với người ấy ở cõi ấy pháp xứ sẽ diệt, nhưng sắc xứ chẳng phải đang sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người hữu sắc đang sanh thì với người ấy ở cõi ấy pháp xứ sẽ diệt và sắc xứ cũng đang sanh”.
[766] Ý xứ đang sanh cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ Ý XỨ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang tử biệt, người vô tâm đang sanh, với người ấy ở cõi ấy pháp xứ sẽ diệt nhưng ý xứ chẳng phải đang sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người hữu tâm đang sanh thì với người ấy ở cõi ấy pháp xứ sẽ diệt và ý xứ cũng đang sanh”.
[767] Nhãn xứ không đang sanh cho người nào thì nhĩ xứ sẽ không diệt cho người ấy phải chăng?
“Ðối với tất cả người đang tử biệt, người vô nhãn đang sanh, với người ấy nhãn xứ không đang sanh nhưng nhĩ xứ chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy; còn đối với người đang viên tịch ở cõi ngũ uẩn, người kiếp chót cõi vô sắc và người đang tử biệt mà sẽ sanh lên cõi vô sắc rồi viên tịch, thì với người ấy nhãn xứ không sanh và nhĩ xứ cũng sẽ không diệt”.
– HAY LÀ NHĨ XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[768] Nhãn xứ không đang sanh cho người nào thì tỷ xứ sẽ không diệt cho người ấy phải chăng?
“Ðối với tất cả người đang tử biệt, người vô nhãn đang sanh, với người ấy nhãn xứ không đang sanh nhưng tỷ xứ chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy; còn đối với người đang viên tịch ở cõi ngũ uẩn, người kiếp chót ở cõi vô sắc và người đang tử biệt mà sanh lên cõi sắc giới và vô sắc giới rồi viên tịch, thì với người ấy, nhãn xứ không đang sanh và tỷ xứ cũng sẽ không diệt”.
– HAY LÀ TỶ XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người kiếp chót đang sanh cõi sắc gới, với người ấy tỷ xứ sẽ không diệt nhưng nhãn xứ chẳng phải không đang sanh cho người ấy; còn đối với người đang viên tịch ở cõi ngũ uẩn, người kiếp chót ở cõi vô sắc, và người đang tử biệt mà sẽ sanh lên cõi sắc giới, cõi vô sắc giới rồi viên tịch, thì với người ấy tỷ xứ sẽ không diệt và nhãn xứ cũng không đang sanh”.
[769] Nhãn xứ không đang sanh cho người nào thì sắc xứ sẽ không diệt cho người ấy phải chăng?
“Ðối với tất cả người đang tử biệt, người vô nhãn đang sanh, với người ấy nhãn xứ không đang sanh nhưng sắc xứ chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy; còn đối với người đang viên tịch ở cõi ngũ uẩn, người kiếp chót ở cõi vô sắc và người đang tử biệt mà sanh lên cõi vô sắc rồi viên tịch, thì với người ấy, nhãn xứ không đang sanh và sắc xứ cũng sẽ không diệt”.
– HAY LÀ SẮC XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO … trùng …
“Phải rồi!”
[770] Nhãn xứ không đang sanh cho người nào thì ý xứ … trùng … pháp xứ sẽ không diệt cho người ấy phải chăng?
“Ðối với tất cả người đang tử biệt, người vô nhãn đang sanh, với người ấy nhãn xứ không đang sanh nhưng pháp xứ chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy; còn đối với người đang viên tịch, thì với người ấy, nhãn xứ không đang sanh và pháp xứ cũng sẽ không diệt”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO … trùng …
“Phải rồi!”
[771] Tỷ xứ không đang sanh cho người nào thì sắc xứ sẽ không diệt cho người ấy phải chăng?
“Ðối với tất cả người đang tử biệt, người vô tỷ đang sanh, với người ấy tỷ xứ không đang sanh nhưng sắc xứ chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy; còn đối với người đang viên tịch ở cõi ngũ uẩn, người kiếp chót ở cõi vô sắc, và người đang tử biệt mà sẽ sanh lên cõi vô sắc rồi viên tịch, thì với người ấy tỷ xứ không đang sanh và sắc xứ cũng sẽ không diệt”.
– HAY LÀ SẮC XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO … trùng …
“Phải rồi!”
[772] Tỷ xứ không đang sanh cho người nào thì ý xứ … trùng … pháp xứ sẽ không diệt cho người ấy phải chăng?
“Ðối với tất cả người đang tử biệt, người vô tỷ đang sanh, với người ấy tỷ xứ không đang sanh nhưng pháp xứ chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy; còn đối với người đang viên tịch, thì với người ấy, tỷ xứ không đang sanh và pháp xứ cũng sẽ không diệt”.
– HAY LÀ SẮC XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO … trùng …
“Phải rồi!”
[773] Sắc xứ không đang sanh cho người nào thì ý xứ … trùng … pháp xứ sẽ không diệt cho người ấy phải chăng?
“Ðối với tất cả người đang tử biệt, người vô sắc đang sanh, với người ấy sắc xứ không đang sanh nhưng pháp xứ chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy; còn đối với người đang viên tịch thì với người ấy sắc xứ không đang sanh và pháp xứ cũng sẽ không diệt”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO … trùng …
“Phải rồi!”
[774] Ýxứ không đang sanh cho người nào thì pháp xứ sẽ không diệt cho người ấy phải chăng?
“Ðối với tất cả người đang tử biệt, người vô tâm đang sanh, với người ấy ý xứ không đang sanh nhưng pháp xứ chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy; còn đối với người đang viên tịch, thì với người ấy, ý xứ không đang sanh và pháp xứ cũng sẽ không diệt”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ Ý XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[775] Nhãn xứ không đang sanh ở cõi nào … trùng …
[776] Nhãn xứ không đang sanh cho người nào ở cõi nào thì nhĩ xứ sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang tử biệt cõi ngũ uẩn, người vô nhãn đang sanh cõi dục giới, với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ không đang sanh nhưng nhĩ xứ chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch cõi ngũ uẩn, người cõi vô tưởng, người cõi vô sắc, thì với những hạng ấy ở cõi ấy nhãn xứ không đang sanh và tỷ xứ cũng sẽ không diệt”.
– HAY LÀ NHĨ XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[777] Nhãn xứ không đang sanh cho người nào ở cõi nào thì tỷ xứ sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang tử biệt ở cõi dục giới, người vô nhãn đang sanh cõi dục giới, với những hạng ấy ở cõi ấy nhãn xứ không đang sanh nhưng tỷ xứ chẳng phải sẽ không diệt cho họ ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch cõi dục giới, người đang tử biệt cõi sắc giới, người cõi vô tưởng, người cõi vô sắc, thì với các hạng ấy ở cõi ấy, nhãn xứ không đang sanh và tỷ xứ cũng sẽ không diệt”.
– HAY LÀ TỶ XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang sanh cõi sắc giới, với người ấy ở cõi ấy tỷ xứ sẽ không diệt nhưng nhãn xứ chẳng phải không đang sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch cõi dục giới, người đang tử biệt cõi sắc giới, người cõi vô tưởng, người cõi vô sắc, thì với các hạng ấy ở cõi ấy tỷ xứ sẽ không diệt và nhãn xứ cũng không đang sanh”.
[778] Nhãn xứ không đang sanh cho người nào ở cõi nào thì sắc xứ sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang tử biệt ở cõi ngũ uẩn, người vô nhãn đang sanh cõi dục giới, người cõi vô tưởng, với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ không đang sanh nhưng sắc xứ chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch ở cõi ngũ uẩn, người cõi vô sắc, thì với người ấy ở cõi ấy, nhãn xứ không đang sanh và sắc xứ cũng sẽ không diệt”.
– HAY LÀ SẮC XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[779] Nhãn xứ không đang sanh cho người nào ở cõi nào thì ý xứ sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang tử biệt cõi ngũ uẩn, người vô nhãn đang sanh cõi dục giới, người cõi vô sắc, với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ không đang sanh nhưng ý xứ chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch, người cõi vô tưởng, thì với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ không đang sanh và ý xứ cũng sẽ không diệt”.
– HAY LÀ Ý XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[780] Nhãn xứ không đang sanh cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với tất cả người đang tử biệt, người vô nhãn đang sanh, với người ấy ở cõi ấy nhãn xứ không đang sanh nhưng pháp xứ chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch, thì với người ấy ở cõi ấy, nhãn xứ không đang sanh và pháp xứ cũng sẽ không diệt”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ NHÃN XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[781] Tỷ xứ không đang sanh cho người nào ở cõi nào thì sắc xứ sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang tử biệt cõi dục giới, người vô tỷ đang sanh cõi dục giới, người cõi sắc giới, với người ấy ở cõi ấy tỷ xứ không đang sanh nhưng sắc xứ chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch cõi ngũ uẩn, người cõi vô sắc, thì với người ấy ở cõi ấy tỷ xứ không đang sanh và sắc xứ cũng sẽ không diệt”.
– HAY LÀ SẮC XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ TỶ XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[782] Tỷ xứ không đang sanh cho người nào ở cõi nào thì ý xứ sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang tử biệt cõi dục giới, người vô tỷ đang sanh cõi dục giới, người cõi sắc giới, người cõi vô sắc giới, với người ấy ở cõi ấy tỷ xứ không đang sanh nhưng ý xứ chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch, người cõi vô tưởng thì với người ấy ở cõi ấy tỷ xứ không đang sanh và ý xứ cũng sẽ không diệt”.
– HAY LÀ Ý XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ TỶ XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[783] Tỷ xứ không đang sanh cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với tất cả người đang tử biệt, người vô tỷ đang sanh, với người ấy ở cõi ấy tỷ xứ không đang sanh nhưng pháp xứ chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch, thì với người ấy ở cõi ấy tỷ xứ không đang sanh và pháp xứ cũng sẽ không diệt”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ TỶ XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[784] Sắc xứ không đang sanh cho người nào ở cõi nào thì ý xứ sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang tử biệt cõi ngũ uẩn, người cõi vô sắc, với người ấy ở cõi ấy sắc xứ không đang sanh nhưng ý xứ chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch, ngườiđang tử biệt cõi vô tưởng, thì với người ấy ở cõi ấy sắc xứ không đang sanh và ý xứ cũng sẽ không diệt”.
– HAY LÀ Ý XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ SẮC XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang sanh cõi vô tưởng, với người ấy ở cõi ấy ý xứ sẽ không diệt nhưng sắc xứ chẳng phải không đang sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch, người đang tử biệt cõi vô tưởng, thì với người ấy ở cõi ấy ý xứ sẽ không đang diệt và sắc xứ cũng không đang sanh”.
[785] Sắc xứ không đang sanh cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với tất cả người đang tử biệt, người vô sắc đang sanh, với người ấy ở cõi ấy sắc xứ không đang sanh nhưng pháp xứ chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch, thì với người ấy ở cõi ấy sắc xứ không đang sanh và pháp xứ cũng sẽ không diệt”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ SẮC XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[786] Ý xứ không đang sanh cho người nào ở cõi nào thì pháp xứ sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với tất cả người đang tử biệt, người vô tâm đang sanh, với người ấy ở cõi ấy ý xứ không đang sanh nhưng pháp xứ chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người đang viên tịch, thì với người ấy ở cõi ấy ý xứ không đang sanh và pháp xứ cũng sẽ không diệt”.
– HAY LÀ PHÁP XỨ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ Ý XỨ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[787] Nhãn xứ từng sanh cho người nào thì tỷ xứ sẽ diệt cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người đang viên tịch ở cõi ngũ uẩn, người kiếp chót ở vô sắc, và người đang tử biệt mà sẽ sanh lên ở cõi vô sắc rồi viên tịch, với người ấy nhãn xứ từng sanh nhưng nhĩ xứ chẳng phải sẽ diệt cho người ấy; còn đối với các hạng khác thì với họ nhãn xứ từng sanh và nhĩ xứ cũng sẽ diệt”.
– HAY LÀ NHĨ XỨ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN XỨ TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”.
Trong phần Diệt (Nirodhavāra), các câu hỏi thuộc quá khứ – vị lai, đối với người – cõi – người cõi, cùng là câu xuôi – câu ngược, đã được phân tích như thế nào thì các câu hỏi trong phần SANH DIỆT (Uppādaniradhavāra) thuộc quá khứ – vị lai cũng cần được phân tích như vầy.
DỨT PHẦN SANH DIỆT
KẾT THÚC PHẦN CHUYỂN BIẾN (Pavatti)
5- PHẦN BIẾN TRI (PARIÑÑĀVĀRO)
[788] Người nào đang biến tri nhãn xứ thì người ấy đang biến tri nhĩ xứ phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ NGƯỜI NÀO ÐANG BIẾN TRI NHĨ XỨ THÌ NGƯỜI ẤY ÐANG BIẾN TRI NHÃN XỨ PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
NGƯỜI NÀO KHÔNG BIẾN TRI NHÃN XỨ THÌ NGƯỜI ẤY KHÔNG ÐANG BIẾN TRI NHĨ XỨ PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ NGƯỜI NÀO KHÔNG ÐANG BIẾN TRI NHĨ XỨ THÌ NGƯỜI ẤY KHÔNG ÐANG BIẾN TRI NHÃN XỨ PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[789] Người nào đã biến tri nhãn xứ thì người ấy đã biến tri nhĩ xứ phải chăng?
“Phải rổi!”
– HAY LÀ NGƯỜI NÀO ÐÃ BIẾN TRI NHĨ XỨ THÌ NGƯỜI ẤY ÐÃ BIẾN TRI NHÃN XỨ PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
NGƯỜI NÀO KHÔNG TỪNG BIẾN TRI NHÃN XỨ THÌ NGƯỜI ẤY KHÔNG TỪNG BIẾN TRI NHĨ XỨ PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ NGƯỜI NÀO KHÔNG TỪNG BIẾN TRI NHĨ XỨ THÌ NGƯỜI ẤY KHÔNG TỪNG BIẾN TRI NHÃN XỨ PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[790] Người nào sẽ biến tri nhãn xứ thì người ấy sẽ biến tri nhĩ xứ phải chăng?
“Phải Rồi!”
– HAY LÀ NGƯỜI NÀO SẼ BIẾN TRI NHĨ XỨ THÌ NGƯỜI ẤY SẼ BIẾN TRI NHÃN XỨ PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
NGƯỜI NÀO SẼ KHÔNG BIẾN TRI NHÃN XỨ THÌ NGƯỜI ẤY SẼ BIẾN TRI NHĨ XỨ PHẢI CHĂNG?
“Phải rổi!”
– HAY LÀ NGƯỜI NÀO SẼ KHÔNG BIẾN TRI NHĨ XỨ THÌ NGƯỜI ẤY SẼ KHÔNG BIẾN TRI NHÃN XỨ PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[791] Người nào đang biến tri nhãn xứ thì người ấy đã biến tri nhĩ xứ phải chăng?
“Không phải!”
– HAY LÀ NGƯỜI NÀO ÐÃ BIẾN TRI NHĨ XỨ THÌ NGƯỜI ẤY ÐANG BIẾN TRI NHÃN XỨ PHẢI CHĂNG?
“Không phải!”
NGƯỜI NÀO KHÔNG ÐANG BIẾN TRI NHÃN XỨ THÌ NGƯỜI ẤY KHÔNG TỪNG BIẾN TRI NHĨ XỨ PHẢI CHĂNG?
“Bậc A La Hán không đang biến tri nhãn xứ nhưng chẳng phải không từng biến tri nhĩ xứ; ngoại trừ bậc chí thượng đạo và bậc A La Hán, các hạng người còn lại thì không đang biến tri nhãn xứ cũng không từng biến tri nhĩ xứ”.
– HAY LÀ NGƯỜI NÀO KHÔNG TỪNG BIẾN TRI NHĨ XỨ THÌ NGƯỜI ẤY KHÔNG ÐANG BIẾN TRI NHÃN XỨ PHẢI CHĂNG?
“Bậc chí thượng đạo không từng biến tri nhĩ xứ nhưng chẳng phải không đang biến tri nhãn xứ; ngoại trừ bậc chí thượng đạo và bậc A La Hán, các hạng người còn lại thì không từng biến tri nhĩ xứ và cũng không đang biến tri nhãn xứ”.
[792] Người nào đang biến tri nhãn xứ thì người ấy sẽ biến tri nhĩ xứ phải chăng?
“Không phải!”
– HAY LÀ NGƯỜI NÀO SẼ BIẾN TRI NHĨ XỨ THÌ NGƯỜI ẤY ÐANG BIẾN TRI NHÃN XỨ PHẢI CHĂNG?
“Không phải!”
– HAY LÀ NGƯỜI NÀO KHÔNG ÐANG BIẾN TRI NHÃN XỨ THÌ NGƯỜI ẤY SẼ KHÔNG BIẾN TRI NHĨ XỨ PHẢI CHĂNG?
“Người mà sẽ đắc đạo, người ấy không đang biến tri nhãn xứ nhưng chẳng phải không biến tri nhĩ xứ; còn bậc A La Hán và hạng phàm phu mà sẽ không đắc đạo thì các hạng ấy không đang biến tri nhãn xứ và cũng sẽ biến tri nhĩ xứ”.
– HAY LÀ NGƯỜI NÀO SẼ KHÔNG BIẾN TRI NHĨ XỨ THÌ NGƯỜI ẤY KHÔNG ÐANG BIẾN TRI NHÃN XỨ PHẢI CHĂNG?
“Bậc Chí Thượng đạo sẽ không từng biến tri nhĩ xứ nhưng chẳng phải không đang biến tri nhãn xứ; còn bậc A La Hán và hạng phàm phu mà sẽ không đắc đạo thì các hạng ấy sẽ không biến tri nhĩ xứ và cũng không đang biến tri nhãn xứ”.
[793] Người nào đã biến tri nhãn xứ người ấy sẽ biến tri nhĩ xứ phải chăng?
“Không phải!”
– HAY LÀ NGƯỜI NÀO SẼ BIẾN TRI NHĨ XỨ, THÌ NGƯỜI ẤY ÐÃ BIẾN TRI NHÃN XỨ PHẢI CHĂNG?
“Không phải!”
NGƯỜI NÀO KHÔNG TỪNG BIẾN TRI NHÃN XỨ THÌ NGƯỜI ẤY SẼ KHÔNG BIẾN TRI NHĨ XỨ PHẢI CHĂNG?
“Người mà sẽ đắc đạo, người ấy không từng biến tri nhãn xứ nhưng chẳng phải sẽ không biến tri nhĩ xứ; còn bậc chí thượng đạo và hạng phàm phu sẽ không đắc đạo, thì các hạng ấy không từng biến tri nhãn xứ cũng sẽ không biến tri nhĩ xứ”.
– HAY LÀ NGƯỜI NÀO SẼ KHÔNG BIẾN TRI NHĨ XỨ THÌ NGƯỜI ẤY KHÔNG TỪNG BIẾN TRI NHÃN XỨ PHẢI CHĂNG?
“Bậc A La Hán sẽ không biến tri nhĩ xứ nhưng chẳng phải không từng biến tri nhãn xứ; còn bậc chí thượng đạo và hạng phàm phu mà sẽ không đắc đạo thì các hạng ấy không biến tri nhĩ xứ và cũng không từng biến tri nhãn xứ”.
DỨT PHẦN BIẾN TRI
KẾT THÚC XỨ SONG
-ooOoo-
(1) Xem đoạn [532] có lời phụ giải: “Uppādepi nirodhepi uppaddanrodhepi yatthakam sabbattha sadisam“. Chỉ lấy theo thời hiện tại.
IV. GIỚI SONG (DHĀTUYAMAKA)
1- PHẦN ÐỊNH DANH (PAÑÑATTIVĀRA)
[794] Mười tám giới là: nhãn giới, nhĩ giới, tỷ giới, thiệt giới, thân giới, sắc giới, thinh giới, khí giới, vị giới, xúc giới, nhãn thức giới, nhĩ thức giới , tỷ thức giới, thiệt thức giới, thân thức giới, ý giới, ý thức giới, pháp giới.
2- PHẦN XIỂN THUẬT (UDDESAVĀRA)
[795] Nhãn là nhãn giới? nhãn giới là nhãn?
Nhĩ là nhĩ giới? Nhĩ giới là nhĩ?… trùng …
Nhãn thức là nhãn thức giới? Nhãn thức giới là nhãn thức?… trùng …
Ý là ý giới? Ý giới là ý?
Ý thức là ý thức giới? Ý thức giới là ý thức?
Pháp là pháp giới? Pháp giới là pháp?
[796] Phi nhãn là phi nhãn giới? Phi nhãn giới là phi nhãn?
Phi nhĩ là phi nhĩ giới? Phi nhĩ giới là phi nhĩ … trùng …
Phi nhãn thức là phi nhãn thức giới? Phi nhãn thức giới là phi nhãn thức?… trùng …
Phi ý là phi ý giới? Phi ý giới là phi ý?
Phi ý thức là phi ý thức giới? Phi ý thức giới là phi ý thức?
Phi pháp là phi pháp giới? Phi pháp giới là phi pháp?
[797] Nhãn là nhãn giới? Giới là nhĩ giới?… trùng …
Nhãn là nhãn giới? Giới là nhĩ giới?… trùng …
Nhãn là nhãn giới? Giới là pháp giới?
Trong xứ song được xoay chuyền như thế nào thì ở đây cũng phải xoay chuyền như vậy.
[798] Phi nhãn là phi nhãn giới? Phi giới là phi nhĩ giới?… trùng ….
Phi nhãn là phi nhãn giới? Phi giới là phi tỷ giới?… trùng …
Phi nhãn là phi nhãn giới? Phi giới là phi pháp giới?… trùng …
Phi pháp là phi pháp giới? Phi giới là phi nhãn giới?… trùng …
Phi pháp là phi pháp giới? Phi giới là phi ý thức giới?
Cần phải xoay chuyền như vậy.
[799] Nhãn là giới? Giới là nhãn?
Nhĩ là giới? Giới là nhĩ?… là tỷ … là thiệt … là thân … là sắc … là thinh … là khí … là vị … là xúc?
Nhãn thức là giới? Giới là nhãn thức?
Nhĩ thức là giới? Giới là nhĩ thức?… là tỷ thức … là thiệt thức … là thân thức?
Ý là Giới? Giới là ý?
Ý thức là giới? Giới là ý thức?
Pháp là giới? Giới là pháp?
[800] Nhãn là phi giới? Phi giới là phi nhãn?
Phi nhĩ là phi giới? Phi giới là phi nhĩ?
Phi tỷ… Phi thiệt … phi thân … phi sắc … phi thinh … phi khí … phi vị … phi xúc …
Phi nhãn thức là phi giới? phi giới là phi nhãn thức?
Phi nhĩ thức … phi tỷ thức … phi thiệt thức.
Phi thân thức là phi giới? Phi giới là phi thân thức?
Phi ý là phi giới? Phi giới là phi ý?
Phi ý thức là phi giới? Phi giới là phi ý thức?
Phi pháp là phi giới? Phi giới là phi pháp.
[801] Nhãn là giới? Giới là nhĩ?… trùng …
Nhãn là giới? Giới là pháp? … trùng … pháp là giới?
Giới là nhãn? … trùng … Pháp là giới? Giới là ý thức?
Cần phải xoay chuyền như vậy.
[802] Phi nhãn là phi giới? Phi giới là phi nhĩ?
Phi nhãn là phi giới? Phi giới là phi tỷ … trùng … Phi nhãn là phi giới? Phi giới là phi pháp? trùng … Phi pháp là phi giới? Phi giới là phi nhãn?… trùng … Phi pháp là phi giới? Phi giới là phi nhãn.
Cần phải xoay chuyền như vậy?
DỨT PHẦN XIỂN THUẬT
3- PHẦN XIỂN MINH (NIDDESAVĀRA)
[803] Nhãn là nhãn giới phải chăng?
“Thiên nhãn, tuệ nhãn là nhãn mà không phải là nhãn giới, còn nhãn giới vừa là nhãn vừa là nhãn giới”.
NHÃN GIỚI LÀ NHÃN PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
NHĨ LÀ NHĨ GIỚI PHẢI CHĂNG?
“Thiên nhĩ, ái nhĩ (Tanhāsotaṃ)(1) là nhĩ mà không phải là nhĩ giới, chỉ có nhĩ giới là nhĩ cũng là nhĩ giới”.
NHĨ GIỚI LÀ NHĨ PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
TỶ LÀ TỶ GIỚI PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
TỶ GIỚI LÀ TỶ PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
THIỆT CŨNG GIỐNG NHƯ TỶ GIỚI.
THÂN LÀ THÂN GIỚI PHẢI CHĂNG?
“Ngoại trừ thân giới ra, thân loại khác gọi là thân mà không phải là thân giới, chỉ có thân giới là thân cũng là thân giới.
THÂN GIỚI LÀ THÂN PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
SẮC LÀ SẮC GIỚI PHẢI CHĂNG?
“Ngoại trừ thân giới ra, thân loại khác gọi là thân mà không phải là thân giới, chỉ có thân giới là thân cũng là thân giới”
THÂN GIỚI LÀ THÂN PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
SẮC LÀ SẮC GIỚI PHẢI CHĂNG?
“Ngoại trừ sắc giới ra, sắc loại khác gọi là sắc mà không phải là sắc giới, sắc giới là sắc cũng là sắc giới”
SẮC GIỚI LÀ SẮC PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
THINH GIỐNG NHƯ TỶ
KHÍ LÀ KHÍ GIỚI PHẢI CHĂNG?
“Giới khí (Sīlagandho), định khí (Samādhigandho), tuệ khí (Paññāgandho) gọi là khí mà không phải là khí giới, chỉ có khí giới là khí cũng là khí giới”
KHÍ GIỚI LÀ KHÍ PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
VỊ LÀ VỊ GIỚI PHẢI CHĂNG?
“Nghĩa vị (Attharasa), pháp vị (Dhammarasa), giải thoát vị (Vimuttirasa) là vị mà không phải là vị giới, chỉ có vị giới là vị cũng là vị giới”.
VỊ GIỚI LÀ VỊ PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
XÚC GIỐNG NHƯ TỶ.
NHÃN THỨC LÀ NHÃN THỨC GIỚI PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
NHÃN THỨC GIỚI LÀ NHÃN THỨC PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
NHĨ THỨC … trùng … TỶ THỨC … THIỆT THỨC THÂN THỨC.
Ý LÀ Ý GIỚI PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
Ý THỨC LÀ Ý THỨC PHẢI CHĂNG?
“Ngoại trừ pháp giới ra, pháp loại khác là pháp mà không phải là pháp giới chỉ có pháp giới là pháp cũng là pháp giới”.
“Phải rồi!”
Ý THỨC LÀ Ý THỨC PHẢI CHĂNG ?
“Phải rồi!”
PHÁP LÀ PHÁP GIỚI PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
PHÁP GIỚI LÀ PHÁP PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[804] Phi nhãn là phi nhãn giới phải chăng?
“Phải rồi!”
PHI NHÃN GIỚI LÀ PHI NHÃN PHẢI CHĂNG?
“Thiên nhãn, tuệ nhãn là phi nhãn giới mà là nhãn ngoại trừ nhãn và nhãn giới ra, các pháp còn lại là phi nhãn cũng là phi nhãn giới”.
PHI NHĨ LÀ PHI NHĨ GIỚI PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
PHI NHĨ GIỚI LÀ PHI NHĨ PHẢI CHĂNG?
“Thiên nhĩ, ái nhĩ (Tanhāsotaṃ) là phi nhĩ giới mà là nhĩ, ngoại trừ nhĩ và nhĩ giới ra, các pháp còn lại là phi nhĩ cũng là phi nhĩ giới”.
PHI TỶ LÀ PHI TỶ GIỚI PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
PHI TỶ GIỚI LÀ PHI TỶ PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
Ðiều nào được tóm tắt thì trong cả hai câu được đáp là “Phải rồi!”
PHI THIỆT … trùng … PHI THÂN LÀ PHI THÂN GIỚI PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
PHI THÂN GIỚI LÀ PHI THÂN PHẢI CHĂNG?
“Ngoại trừ thân giới ra, thân loại khác là phi thân giới, mà là thân, ngoại trừ thân và thân giới ra, pháp còn lại là phi thân cũng là phi thân giới”.
PHI SẮC LÀ PHI SẮC GIỚI PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
PHI SẮC GIỚI LÀ PHI SẮC PHẢI CHĂNG?
“Ngoại trừ sắc giới ra, sắc còn lại gọi là phi sắc giới, mà là sắc, ngoại trừ sắc và sắc giới ra, pháp còn lại là phi sắc cũng là phi sắc giới”.
PHI THINH … trùng …
PHI KHÍ LÀ PHI KHÍ GIỚI PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
PHI KHÍ GIỚI LÀ PHI KHÍ PHẢI CHĂNG?
“Giới khí (Silagandho), định khí (Samādhigandho), tuệ khí (Paññāgadho) là phi khí giới mà là khí, ngoại trừ khí và khí giới ra, pháp còn lại là phi khí cũng là phi khí giới”
PHI VỊ LÀ PHI VỊ GIỚI PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
PHI VỊ GIỚI LÀ PHI VỊ PHẢI CHĂNG?
“Nghĩa vị (Attharasa), pháp vị (Dhammarasa), giải thoát vị (Vimuttirasa) là phi vị giới mà là vị ngoại trừ vị và vị giới ra pháp còn lại là phi vị cũng là phi vị giới”.
PHI XÚC … trùng … PHI NHÃN THỨC LÀ PHI NHÃN THỨC GIỚI PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
PHI NHÃN THỨC GIỚI LÀ PHI NHÃN THỨC PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
PHI NHĨ THỨC… PHI TỶ THỨC… PHI THIỆT THỨC… PHI THÂN THỨC…
PHI Ý LÀ PHI Ý GIỚI PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
PHI Ý GIỚI LÀ PHI Ý PHẢI CHĂNG?
“Ngoại trừ ý giới ra ý còn lại là phi ý giới mà là ý, ngoại trừ ý và ý giới ra, pháp còn lại là phi ý cũng là phi ý giới”
PHI Ý THỨC LÀ PHI Ý THỨC PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
PHI Ý THỨC GIỚI LÀ PHI Ý THỨC PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
PHI PHÁP LÀ PHI PHÁP GIỚI PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
PHI PHÁP GIỚI LÀ PHI PHÁP PHẢI CHĂNG?
“Ngoại trừ pháp giới ra, pháp còn lại là phi pháp giới, mà là pháp, ngoại trừ pháp và pháp giới ra pháp còn lại là phi pháp cũng là phi pháp giới”.
[805] Nhãn là nhãn giới phải chăng?
“Thiên nhãn, tuệ nhãn là nhãn mà không phải là nhãn giới, chỉ có nhãn giới là nhãn cũng là nhãn giới”
GIỚI LÀ NHĨ GIỚI PHẢI CHĂNG?
“Nhĩ giới là giới cũng là nhĩ giới, giới còn lại là giới mà không phải là nhĩ giới”.
NHÃN LÀ NHÃN GIỚI PHẢI CHĂNG?
“Thiên nhãn, tuệ nhãn là nhãn mà không phải là nhãn giới, chỉ có nhãn giới là nhãn cũng là nhãn giới”.
GIỚI LÀ TỶ GIỚI … trùng … GIỚI LÀ PHÁP GIỚI PHẢI CHĂNG?
“Pháp giới là giới cũng là pháp giới, giới còn lại là giới mà không phải là pháp giới”.
Phần Ðịnh Danh trong XỨ SONG (Āyatanayamaka) như thế nào, thì phần định danh trong giới song (Dhātuyamaka) cũng như vậy. Cần sắp xoay chuyển.
[806] Phi nhãn là phi nhãn giới phải chăng?
“Phải rồi!”
PHI GIỚI LÀ PHI NHĨ GIỚI PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
PHI NHÃN LÀ PHI NHÃN GIỚI PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
PHI GIỚI LÀ PHI TỶ GIỚI … trùng … PHI GIỚI LÀ PHI PHÁP GIỚI PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
Cần sắp xoay chuyền. Tất cả câu còn lại, cả hai câu ngược xuôi đều đáp “Phải rồi!”).
[807] Nhãn là giới phải chăng?
“Phải rồi!”
GIỚI LÀ NHÃN GIỚI PHẢI CHĂNG?
“Nhãn giới là giới và cũng là nhãn giới, giới còn lại là giới mà không phải là nhãn giới”.
NHĨ LÀ GIỚI PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
TỶ, THIỆT, THÂN, SẮC, THINH, KHÍ, VỊ, XÚC … trùng…
NHÃN THỨC LÀ GIỚI PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
GIỚI LÀ NHÃN THỨC PHẢI CHĂNG?
“Nhãn thức giới là giới và cũng là nhãn thức giới, giới còn lại là giới mà không phải là nhãn thức giới”.
NHĨ THỨC … TỶ THỨC … THIỆT THỨC … THÂN THỨC …
Ý LÀ GIỚI PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
GIỚI LÀ Ý GIỚI PHẢI CHĂNG?
“Ý giới gọi là giới cũng phải, gọi là ý giới cũng phải, giới còn lại gọi giới mà phi ý giới”.
Ý THỨC LÀ GIỚI PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
GIỚI LÀ Ý THỨC GIỚI PHẢI CHĂNG?
“Ý Thức giới là giới và cũng là ý thức giới, giới còn lại là giới mà không phải là ý thức giới”.
PHÁP LÀ GIỚI PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
GIỚI LÀ PHÁP GIỚI PHẢI CHĂNG?
“Pháp giới là giới và cũng là pháp giới còn lại là giới mà không phải là pháp giới”.
[808] Phi nhãn là phi giới phải chăng?
“Ngoại trừ nhãn ra, giới còn lại là phi nhãn mà là giới, ngoại trừ nhãn và giới ra, pháp còn lại là phi nhãn mà cũng là phi giới”.
PHI GIỚI LÀ PHI NHÃN GIỚI PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
PHI NHĨ LÀ PHI GIỚI PHẢI CHĂNG?
“Ngoại trừ nhĩ ra … trùng … Ngoại trừ tỷ ra … trùng … Ngoại trừ thiệt ra … trùng …”
PHI THÂN LÀ PHI GIỚI PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
PHI GIỚI LÀ PHI THÂN GIỚI PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
PHI SẮC LÀ PHI GIỚI PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
“Ngoại sắc ra … trùng … ngoại trừ thinh … khí… vị … xúc … nhãn thức … nhĩ thức … tỷ thức … thiệt thức … thân thức … Ý … Ý thức … trùng. …”
PHI PHÁP LÀ PHI GIỚI PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
PHI GIỚI LÀ PHI PHÁP PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[809] Nhãn giới là giới phải chăng?
“Phải rồi!”
GIỚI LÀ NHĨ GIỚI PHẢI CHĂNG?
“Nhĩ giới là giới và cũng là nhĩ giới, giới còn lại là giới mà không phải là nhĩ giới”.
NHÃN LÀ GIỚI PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
GIỚI LÀ TỶ GIỚI … trùng … GIỚI LÀ PHÁP GIỚI PHẢI CHĂNG?
“Pháp giới là giới, và cũng là pháp giới, giới còn lại là giới mà không phải là pháp giới”.
Cần sắp xoay chuyển.
[810] Phi nhãn là phi giới phải chăng?
“Ngoại trừ nhãn ra, pháp còn lại không là nhãn nhưng là giới, ngoại trừ nhãn và giới ra pháp còn lại là phi nhãn và cũng là phi giới”.
PHI GIỚI LÀ PHI NHĨ GIỚI PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
PHI NHÃN LÀ PHI GIỚI PHẢI CHĂNG?
“Ngoại trừ nhãn ra, giới còn lại là phi nhãn mà là giới, ngoại trừ nhãn và giới ra pháp còn lại là phi nhãn và cũng là phi giới”.
PHI GIỚI LÀ PHI TỶ GIỚI PHẢI CHĂNG?… trùng … PHI GIỚI LÀ PHI PHÁP GIỚI PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
… trùng … PHI PHÁP LÀ PHI GIỚI PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
PHI GIỚI LÀ PHI NHÃN GIỚI PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
PHI PHÁP LÀ PHI GIỚI PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
PHI GIỚI LÀ PHI NHĨ GIỚI … trùng … PHI GIỚI LÀ PHI Ý THỨC GIỚI PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
Cần sắp xoay chuyền. Phần Ðịnh Danh của XỨ SONG (Āyatanayamaka) như thế nào, phần Ðịnh Danh của GIỚI SONG (Dhātuyamaka) cần được nói rộng như thế ấy.
DỨT PHẦN ÐỊNH DANH.
4- PHẦN CHUYỂN BIẾN (PAVATTIVĀRO)
[811] Nhãn giới đang sanh cho người nào thì nhĩ giới đang sanh cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người hữu nhãn vô nhĩ đang sanh, với người ấy nhãn giới đang sanh nhưng nhĩ giới chẳng đang sanh cho người ấy; còn đối với người hữu nhãn hữu nhĩ đang sanh thì với người ấy nhãn giới đang sanh và nhĩ giới cũng đang sanh”.
– HAY LÀ NHĨ GIỚI ÐANG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN GIỚI ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người hữu nhĩ vô nhãn đang sanh, với người ấy nhĩ giới đang sanh nhưng nhãn giới chẳng đang sanh cho người ấy; còn đối với người hữu nhĩ hữu nhãn đang sanh thì với người ấy nhĩ giới đang sanh và nhãn giới cũng đang sanh”.
[812] Nhãn giới đang sanh cho người nào thì tỷ giới đang sanh cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người hữu nhãn vô tỷ đang sanh, với người ấy nhãn giới đang sanh nhưng tỷ giới chẳng đang sanh cho người ấy; còn đối với người hữu nhãn hữu tỷ đang sanh thì với người ấy nhãn giới đang sanh và tỷ giới cũng đang sanh”.
– HAY LÀ TỶ GIỚI ÐANG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN GIỚI ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người hữu tỷ vô nhãn đang sanh, với người ấy tỷ giới đang sanh nhưng nhãn giới chẳng đang sanh cho người ấy; còn đối với người hữu tỷ hữu nhãn đang sanh thì với người ấy tỷ giới đang sanh và nhãn giới cũng đang sanh”.
[813] Nhãn giới đang sanh cho người nào thì sắc giới đang sanh cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ SẮC GIỚI ÐANG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN GIỚI ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người hữu sắc vô nhãn đang sanh, với người ấy sắc giới đang sanh nhưng nhãn giới chẳng đang sanh cho người ấy; còn đối với người hữu sắc hữu nhãn đang sanh thì với người ấy sắc giới đang sanh và nhãn giới cũng đang sanh”.
[814] Nhãn giới đang sanh cho người nào thì ý thức giới đang sanh cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ Ý THỨC GIỚI ÐANG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN GIỚI ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người hữu tâm vô nhãn đang sanh, với người ấy ý thức giới đang sanh nhưng nhãn giới chẳng đang sanh cho người ấy; còn đối với người hữu tâm hữu nhãn đang sanh ý thức giới đang sanh và nhãn giới cũng đang sanh”.
[815] Nhãn giới đang sanh cho người nào thì pháp giới đang sanh cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
– HAY LÀ PHÁP GIỚI ÐANG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ NHÃN GIỚI ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người vô nhãn đang sanh, với người ấy pháp giới đang sanh nhưng nhãn giới chẳng đang sanh cho người ấy; còn đối với người hữu nhãn đang sanh thì với người ấy pháp giới đang sanh và nhãn giới cũng đang sanh”.
XỨ SONG (Āyatanayamaka) đã được phân tích như thế nào thì GIỚI SONG (Dhātuyamaka) cũng cần phải phân tích như vậy. Nên làm giống nhau.
5- PHẦN BIẾN TRI (PARIÑÑĀVĀRA)
[816] Người nào biến tri nhãn giới thì người ấy cũng biến tri nhĩ giới phải chăng?
“Phải rồi!” … trùng …
GIỚI SONG đã được hoàn mãn theo cách bỏ đoạn trùng.
DỨT PHẦN BIẾN TRI
KẾT THÚC GIỚI SONG
-ooOoo-
(1) Taṇhāsotaṃ đúng nghĩa là dòng sông ái, dịch chử Ái lưu. Trong tiếng Phạn, Sota có 2 nghĩa – 1 là lổ tai (nhỉ) – 2 là dòng sông (Lưu), trong câu sotaṃ là sotāyatana? mới chơi chử (đồng tự bất đồng nghĩa) đáp rằng: “taṇhāsotaṃ cũng là sotaṃ mà không phải là sotāyatana …“ ở đây cũng uyển chuyển cho hợp cách chơi chứ đồng tự bất đồng nghĩa, nên tạm dùng tiếng “ái nhĩ” dịch cho taṇhāsotaṃ để câu hỏi “nhĩ là nhĩ xứ?” thì đáp “ái nhĩ là nhĩ nhưng không phải là nhĩ xứ …”, taṇhāsotaṃ dịch là “ái lưu” mới đúng nghĩa, nếu nói “ái nhĩ” thì không có nghĩa chi! ND.
V. ÐẾ SONG (SACCAYAMAKA)
1- PHẦN ÐỊNH DANH (PAÑÑATIVĀRA)
Bốn đế là: Khổ đế, Tập đế, Diệt đế và Ðạo đế.
2- PHẦN XIỂN THUẬT (UDDESAVĀRA)
[817] Khổ là khổ đế phải không? Khổ đế là khổ phải chăng?
Tập là tập đế phải chăng? Tập đế là tập phải chăng?
Diệt là diệt đế phải chăng? Diệt đế là diệt phải chăng?
Ðạo là đạo đế phải chăng? Ðạo đế là đạo phải chăng?
[818] Phi khổ là phi khổ đế phải chăng? Phi khổ đế là phi khổ phải chăng?
Phi tập là phi tập đế phải chăng? Phi tập đế là phi tập phải chăng?
Phi diệt là phi diệt đế phải chăng? Phi diệt đế là phi diệt phải chăng?
Phi đạo là phi đạo đế phải chăng? Phi đạo đế là phi đạo phải chăng?
[819] Khổ là khổ đế phải chăng? Ðế là tập đế phải chăng?
Khổ là khổ đế phải chăng? Ðế là diệt đế phải chăng?
Khổ là khổ đế phải chăng? Ðế là đạo đế phải chăng?
Tập là tập đế phải chăng? Ðế là khổ đế phải chăng?
Tập là tập đế phải chăng? Ðế là diệt đế phải chăng?
Tập là tập đế phải chăng? Ðế là đạo đế phải chăng?
Diệt là diệt đế phải chăng? Ðế là khổ đế phải chăng?
Diệt là diệt đế phải chăng? Ðế là tập đế phải chăng?
Diệt là diệt đế phải chăng? Ðế là đạo đế phải chăng?
Ðạo là đạo đế phải chăng? Ðế là khổ đế phải chăng?
Ðạo là đạo đế phải chăng? Ðế là tập đế phải chăng?
Ðạo là đạo đế phải chăng? Ðế là diệt đế phải chăng?
[820] Phi khổ là phi khổ đế phải chăng? Ðế là phi tập đế phải chăng?
Phi khổ là phi khổ đế phải chăng? Ðế là phi diệt đế phải chăng?
Phi khổ là phi khổ đế phải chăng? Ðế là phi đạo đế phải chăng?
Phi tập là phi tập đế phải chăng? Ðế là phi khổ đế phải chăng?
Phi tập là phi tập đế phải chăng? Ðế là phi diệt đế phải chăng?
Phi tập là phi tập đế phải chăng? Ðế là phi đạo đế phải chăng?
Phi diệt là phi diệt đế phải chăng? Ðế là phi khổ đế phải chăng?
Phi diệt là phi diệt đế phải chăng? Ðế là phi tập đế phải chăng?
Phi diệt là phi diệt đế phải chăng? Ðế là phi đạo đế phải chăng?
Phi đạo là phi đạo đế phải chăng? Ðế là phi khổ đế phải chăng?
Phi đạo là phi đạo đế phải chăng? Ðế là phi tập đế phải chăng?
Phi đạo là phi đạo đế phải chăng? Ðế là phi diệt đế phải chăng?
[821] Khổ là đế phải chăng? Ðế là khổ phải chăng?
Tập là đế phải chăng? Ðế là tập phải chăng?
Diệt là đế phải chăng? Ðế là diệt phải chăng?
Ðạo là đế phải chăng? Ðế là đạo phải chăng?
[822] Phi khổ là phi đế phải chăng? Phi đế là phi khổ phải chăng?
Phi tập là phi tập đế phải chăng? Phi đế là phi tập phải chăng?
Phi diệt là phi đế phải chăng? Phi đế là phi diệt phải chăng?
Phi đạo là phi đế phải chăng? Phi đế là phi đạo phải chăng?
[823] Khổ là đế phải chăng? Ðế là tập phải chăng?
Khổ là đế phải chăng? Ðế là diệt phải chăng?
Khổ là đế phải chăng? Ðế là đạo phải chăng?
Tập là đế phải chăng? Ðế là khổ phải chăng?
Tập là đế phải chăng? Ðế là diệt phải chăng?
Tập là đế phải chăng? Ðế là đạo phải chăng?
Diệt là đế phải chăng? Ðế là khổ phải chăng?
Diệt là đế phải chăng? Ðế là tập phải chăng?
Diệt là đế phải chăng? Ðế là đạo phải chăng?
Ðạo là đế phải chăng? Ðế là khổ phải chăng?
Ðạo là đế phải chăng? Ðế là tập phải chăng?
Ðạo là đế phải chăng? Ðế là diệt phải chăng?
[824] Phi khổ là phi đế phải chăng? Phi đế là phi tập phải chăng?
Phi khổ là đế phải chăng? Phi đế là phi diệt phải chăng?
Phi khổ là phi đế phải chăng? Phi đế là phi đạo phải chăng?
Phi tập là phi đế phải chăng? Phi đế là phi khổ phải chăng?
Phi tập là phi đế phải chăng? Phi đế là phi diệt phải chăng?
Phi tập là phi đế phải chăng? Phi đế là phi đạo phải chăng?
Phi diệt là phi đế phải chăng? Phi đế là phi khổ phải chăng?
Phi diệt là phi đế phải chăng? Phi đế là phi đạo phải chăng?
Phi đạo là phi đế phải chăng? Phi đế là phi khổ phải chăng?
Phi đạo là phi đế phải chăng? Phi đế là phi tập phải chăng?
Phi đạo là phi đế phải chăng? Phi đế là phi diệt phải chăng?
DỨT PHẦN XIỂN THUẬT
3- PHẦN XIỂN MINH (NIDDESAVĀRA)
[825] Khổ là khổ đế phải chăng?
“Phải rồi!”
KHỔ ÐẾ LÀ KHỔ PHẢI CHĂNG?
“Ngoại trừ khổ thân và khổ tâm, khổ đế còn lại là khổ đế mà chẳng phải là khổ; còn khổ thân và khổ tâm là khổ và cũng là khổ đế”.
TẬP LÀ TẬP ÐẾ PHẢI CHĂNG?
“Ngoại trừ tập đế ra, tập còn lại là tập đế mà không phải là tập đế. Còn tập đế là tập và cũng là tập đế”.
TẬP ÐẾ LÀ TẬP PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
DIỆT LÀ DIỆT ÐẾ PHẢI CHĂNG?
“Ngoại trừ diệt đế ra diệt còn lại là diệt mà không phải là diệt đế; còn diệt đế là diệt và cũng là diệt đế”.
DIỆT ÐẾ LÀ DIỆT PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
ÐẠO LÀ ÐẠO ÐẾ PHẢI CHĂNG?
“Ngoại trừ đạo đế ra, đạo còn là đạo mà không phải là đạo đế; còn đạo đế là đạo và cũng là đạo đế”.
ÐẠO ÐẾ LÀ ÐẠO PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[826] Phi khổ là phi khổ đế phải chăng?
“Ngoại trừ khổ thân và khổ tâm ra, khổ đế còn lại là phi khổ nhưng là khổ đế. Ngoại trừ khổ và khổ đế ra, pháp còn lại là phi khổ và cũng là phi khổ đế”.
PHI KHỔ ÐẾ LÀ PHI KHỔ PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
PHI TẬP LÀ PHI TẬP ÐẾ PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
PHI TẬP ÐẾ LÀ PHI TẬP PHẢI CHĂNG?
“Ngoại trừ tập đế ra, tập còn lại là phi tập đế mà là tập. Ngoại trừ tập và tập đế ra, pháp còn lại là phi tập và cũng là phi tập đế”.
PHI DIỆT LÀ PHI DIỆT ÐẾ PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
PHI DIỆT ÐẾ LÀ PHI DIỆT PHẢI CHĂNG?
“Ngoại trừ diệt đế ra, diệt còn lại là phi diệt đế mà là diệt. Ngoại trừ diệt và diệt đế ra, pháp còn lại là phi diệt và cũng là phi diệt đế”.
PHI ÐẠO LÀ PHI ÐẠO ÐẾ PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
PHI ÐẠO ÐẾ LÀ PHI ÐẠO PHẢI CHĂNG?
“Ngoại trừ đạo đế ra, đạo còn lại là phi đạo đế mà là đạo. Ngoại trừ đạo ra và đạo đế ra, pháp còn lại là phi đạo và cũng là phi đạo đế”.
[827] Khổ là khổ đế phải chăng?
“Phải rồi!”
ÐẾ LÀ TẬP ÐẾ PHẢI CHĂNG?
“Tập đế là đế và cũng là tập đế. Ðế còn lại là đế mà không phải là tập đế”.
KHỔ LÀ KHỔ ÐẾ PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
ÐẾ LÀ DIỆT ÐẾ PHẢI CHĂNG?… trùng… ÐẾ LÀ ÐẠO ÐẾ PHẢI CHĂNG?
“Ðạo đế là đế và cũng là đạo đế. Ðế còn lại là đế mà không phải là đạo đế”.
TẬP LÀ TẬP ÐẾ PHẢI CHĂNG?
“Ngoại trừ tập đế ra, đế còn lại là đế mà không phải là tập đế; tập đế là tập và cũng là tập đế”
ÐẾ LÀ KHỔ ÐẾ PHẢI CHĂNG … trùng … ÐẾ LÀ DIỆT ÐẾ PHẢI CHĂNG?… trùng … ÐẾ LÀ ÐẠO ÐẾ PHẢI CHĂNG?
“Ðạo đế là đế và cũng là Ðạo đế. Ðế còn lại là đế mà không phải là đạo đế”.
DIỆT LÀ DIỆT ÐẾ PHẢI CHĂNG?
“Ngoại trừ diệt đế ra, diệt còn lại là diệt mà không phải là diệt đế. Diệt đế là diệt và cũng là diệt đế”
ÐẾ LÀ KHỔ ÐẾ PHẢI CHĂNG?… trùng … ÐẾ LÀ TẬP ÐẾ PHẢI CHĂNG?… trùng … ÐẾ LÀ ÐẠO ÐẾ PHẢI CHĂNG?
“Ðạo đế là đế và cũng là Ðạo đế. Ðế còn lại là đế mà không phải là đạo đế”.
ÐẠO LÀ ÐẠO ÐẾ PHẢI CHĂNG?
“Trừ ra đạo đế, đạo còn là đạo mà không phải là đạo đế; Ðạo đế là đạo và cũng là đạo đế”
ÐẾ LÀ KHỔ ÐẾ PHẢI CHĂNG … trùng … ÐẾ LÀ TẬP ÐẾ PHẢI CHĂNG? … trùng … ÐẾ LÀ DIỆT ÐẾ PHẢI CHĂNG?
“Diệt đế là đế và cũng là diệt đế; còn lại là đế mà không phải là diệt đế”.
[828] Phi khổ là phi khổ đế phải chăng?
“Trừ ra khổ thân, khổ tâm, khổ đế còn lại là phi khổ mà là khổ đế; trừ ra khổ và khổ đế, pháp còn lại là phi khổ và cũng là phi khổ đế”.
PHI ÐẾ LÀ PHI TẬP ÐẾ PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
– PHI KHỔ LÀ PHI KHỔ ÐẾ PHẢI CHĂNG?
“Trừ ra khổ thân, khổ tâm, khổ đế còn lại là phi khổ mà là khổ đế; trừ ra khổ và khổ đế, pháp còn lại là phi khổ và cũng là phi khổ đế”.
PHI ÐẾ LÀ PHI DIỆT ÐẾ PHẢI CHĂNG?… trùng… PHI ÐẾ LÀ PHI ÐẠO ÐẾ PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
– PHI TẬP LÀ PHI TẬP ÐẾ PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
– PHI ÐẾ LÀ PHI KHỔ ÐẾ PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
– PHI TẬP LÀ PHI TẬP ÐẾ PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
– PHI ÐẾ LÀ PHI DIỆT ÐẾ PHẢI CHĂNG?… trùng… PHI ÐẾ LÀ PHI ÐẠO ÐẾ PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
– PHI DIỆT LÀ PHI DIỆT ÐẾ PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
– PHI ÐẾ LÀ PHI KHỔ ÐẾ PHẢI CHĂNG?… trùng… PHI ÐẾ LÀ PHI TẬP ÐẾ PHẢI CHĂNG?… trùng … PHI ÐẾ LÀ PHI ÐẠO ÐẾ PHẢI CHĂNG?
– PHI ÐẠO LÀ PHI ÐẠO ÐẾ PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
– PHI ÐẾ LÀ PHI KHỔ ÐẾ PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
– PHI ÐẾ LÀ PHI TẬP ÐẾ PHẢI CHĂNG?… trùng… PHI ÐẾ LÀ PHI DIỆT ÐẾ PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[829] Khổ là đế phải chăng?
“Phải rồi!”
ÐẾ LÀ KHỔ ÐẾ PHẢI CHĂNG?
“Khổ đế là đế và cũng là khổ đế. Ðế còn lại là đế mà không phải là khổ đế”.
TẬP LÀ TẬP ÐẾ PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!” … trùng …
DIỆT LÀ ÐẾ PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!” … trùng …
ÐẠO LÀ ÐẾ PHẢI CHĂNG?
“Ðạo đế là đế và cũng là đạo đế. Ðế còn lại là đế mà không phải là đạo đế”.
[830] Phi khổ là phi đế phải chăng?
“Trừ ra khổ, đế còn lại là phi khổ mà là đế; trừ ra khổ và đế, pháp còn lại là phi khổ và cũng là phi đế”.
PHI ÐẾ LÀ PHI KHỔ ÐẾ PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
PHI TẬP LÀ PHI TẬP ÐẾ PHẢI CHĂNG?
“Trừ ra tập … trùng …”
PHI DIỆT LÀ PHI ÐẾ PHẢI CHĂNG?
“Trừ ra diệt ..ṭrùng …”
PHI ÐẠO LÀ PHI ÐẾ PHẢI CHĂNG?
“Trừ ra đạo, đế còn lại là phi đạo mà là đế; trừ ra đạo và đế, pháp còn lại là phi đạo và cũng là phi đế”.
PHI ÐẾ LÀ PHI ÐẠO ÐẾ PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[831] Khổ là đế phải chăng?
“Phải rồi!”
ÐẾ LÀ TẬP ÐẾ PHẢI CHĂNG?
“Tập đế là đế và cũng là tập đế. Ðế còn lại là đế mà không phải là tập đế”.
KHỔ LÀ ÐẾ PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
ÐẾ LÀ DIỆT ÐẾ PHẢI CHĂNG?… trùng… ÐẾ LÀ ÐẠO ÐẾ PHẢI CHĂNG?
“Ðạo đế là đế và cũng là đạo đế. Ðế còn lại là đế mà không phải là đạo đế”.
TẬP LÀ ÐẾ PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”… trùng …
DIỆT LÀ ÐẾ PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!” … trùng …
ÐẠO LÀ ÐẾ PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
ÐẾ LÀ KHỔ ÐẾ PHẢI CHĂNG?… trùng… ÐẾ LÀ TẬP ÐẾ PHẢI CHĂNG? … trùng… ÐẾ LÀ DIỆT ÐẾ PHẢI CHĂNG?
“Diệt đế là đế và cũng là diệt đế. Ðế còn lại là đế mà không phải là diệt đế”.
[832] Phi khổ là phi đế phải chăng?
“Trừ ra khổ; đế còn lại là phi khổ mà là đế trừ ra khổ và đế, pháp còn lại là phi khổ cũng là phi đế”.
PHI ÐẾ LÀ PHI TẬP ÐẾ PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
PHI KHỔ LÀ PHI ÐẾ PHẢI CHĂNG?
“Trừ ra khổ; đế còn lại là phi khổ mà là đế; trừ ra khổ và đế, pháp còn lại là phi khổ cũng là phi đế”.
PHI ÐẾ LÀ PHI DIỆT ÐẾ PHẢI CHĂNG? … trùng … PHI ÐẾ LÀ PHI ÐẠO ÐẾ PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
PHI TẬP LÀ PHI ÐẾ PHẢI CHĂNG?
“Trừ ra tập; đế còn lại là phi tập mà là đế. Trừ ra tập và đế, pháp còn lại là phi tập và cũng là phi đế”… trùng …
PHI DIỆT LÀ PHI ÐẾ PHẢI CHĂNG?
“Trừ ra diệt đế… trùng…”
PHI ÐẠO LÀ PHI ÐẾ PHẢI CHĂNG?
“Trừ ra đạo; đế còn lại là phi đạo mà là đế. Trừ ra đạo và đế, pháp còn lại là phi đạo và cũng là phi đế”.
PHI ÐẾ LÀ PHI KHỔ ÐẾ PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
PHI ÐẠO LÀ PHI ÐẾ PHẢI CHĂNG?
“Trừ ra đạo; đế còn lại là phi đạo mà là đế. Trừ ra đạo và đế, pháp còn lại là phi đạo cũng là phi đế”.
PHI ÐẾ LÀ PHI TẬP ÐẾ PHẢI CHĂNG?… trùng … PHI ÐẾ LÀ PHI DIỆT ÐẾ PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
DỨT PHẦN ÐỊNH DANH
4- PHẦN CHUYỂN BIẾN (PAVATTIVĀRO)
[833] Khổ đế đang sanh cho người nào thì tập đế đang sanh cho người ấy phải chăng?
“Ðối với tất cả người đang sanh, và vào sát na sanh của tâm lý ái trong thời bình nhựt (Pavattakāla), với người ấy khổ đế đang sanh nhưng tập đế thì chẳng đang sanh cho người ấy; vào sát na sanh của tâm ái thì với người ấy khổ đế đang sanh và tập đế cũng đang sanh”.
– HAY LÀ TẬP ÐẾ ÐANG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ KHỔ ÐẾ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[834] Khổ đế đang sanh cho người nào thì đạo đế đang sanh cho người ấy phải chăng?
“Ðối với tất cả người đang sanh, và vào sát na sanh của tâm bất tương ưng đạo trong thời bình nhựt, với người ấy khổ đế đang sanh nhưng đạo đế thì chẳng đang sanh cho người ấy; vào sát na sanh của tâm đạo ở cõi ngũ uẩn thì với người ấy khổ đế đang sanh và đạo đế cũng đang sanh”.
– HAY LÀ ÐẠO ÐẾ ÐANG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ KHỔ ÐẾ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
Vào sát na sanh của tâm đạo ở cõi vô sắc, với người ấy đạo đế đang sanh nhưng khổ đế thì chẳng đang sanh cho người ấy. Vào sát na sanh của tâm đạo ở cõi ngũ uẩn thì với người ấy đạo đế đang sanh và khổ đế cũng đang sanh”.
[835] Tập đế đang sanh cho người nào thì đạo đế đang sanh cho người ấy phải chăng?
“Không phải!”
– HAY LÀ ÐẠO ÐẾ ÐANG SANH Ở CÕI NÀO THÌ TẬP ÐẾ ÐANG SANH Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Không phải!”
[836] Khổ đế đang sanh ở cõi nào thì tập đế đang sanh ở cõi ấy phải chăng?
“Ở cõi vô tưởng, cõi ấy khổ đế đang sanh nhưng tập đế chẳng đang sanh ở cõi ấy. Còn ở cõi tứ uẩn và cõi ngũ uẩn, thì ở cõi ấy khổ đế đang sanh và tập đế cũng đang sanh”.
TẬP ÐẾ ÐANG SANH Ở CÕI NÀO THÌ KHỔ ÐẾ ÐANG SANH Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[837] Khổ đế đang sanh ở cõi nào thì đạo đế cũng đang sanh ở cõi ấy phải chăng?
“Ở cõi khổ (Apāye), ở cõi vô tưởng, cõi ấy khổ đế đang sanh nhưng đạo đế chăng đang sanh ở cõi ấy. Còn ở cõi tứ uẩn cõi ngũ uẩn ngoài ra, thì ở cõi ấy khổ đế đang sanh và đạo đế cũng đang sanh”.
– HAY LÀ ÐẠO ÐẾ ÐANG SANH Ở CÕI NÀO THÌ KHỔ ÐẾ ÐANG SANH Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[838] Tập đế đang sanh ở cõi nào thì đạo đế cũng đang sanh ở cõi ấy phải chăng?
“Ở cõi khổ, ở cõi ấy tập đế đang sanh nhưng đạo đế thì chẳng đang sanh ở cõi ấy. Còn ở cõi tứ uẩn ngũ uẩn ngoài ra thì ở cõi ấy tập đế đang sanh và đạo đế cũng đang sanh”.
– HAY LÀ ÐẠO ÐẾ ÐANG SANH Ở CÕI NÀO THÌ TẬP ÐẾ ÐANG SANH Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[839] Khổ đế đang sanh cho người nào ở cõi nào thì tập đế đang sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
(Phần NGƯỜI và phần NGƯỜI CÕI cần được giải rộng giống nhau).
[840] Khổ đế không đang sanh cho người nào thì tập đế không đang sanh cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
HAY LÀ TẬP ÐẾ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ KHỔ ÐẾ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với tất cả người đang sanh, trong thời bình nhựt vào sát na sanh của tâm ly ái, với người ấy tập đế không đang sanh nhưng khổ đế chẳng phải không đang sanh cho người ấy. Còn đối với tất cả người đang tử biệt trong thời bình nhật vào sát na diệt của tâm và ở cõi vô sắc và sát nơi người ấy sanh của tâm đạo (Magga) tâm quả (Phala), thì với người ấy tập đế không đang sanh và khổ đế cũng không đang sanh”.
[841] Khổ đế không đang sanh cho người nào thì đạo đế không đang sanh cho người ấy phải chăng?
Vào sát na sanh của tâm đạo ở cõi vô sắc, với người ấy khổ đế không đang sanh nhưng đạo đế chẳng phải không đang sanh cho người ấy. Còn đối với tất cả người đang tử biệt trong thời bình nhật vào sát na diệt của tâm trong cõi vô sắc sát nơi người ấy sanh của tâm quả, thì với người ấy khổ đế không đang sanh và đạo đế cũng không đang sanh”.
HAY LÀ ÐẠO ÐẾ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ KHỔ ÐẾ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với tất cả người đang sanh, trong thời bình nhựt vào sát na sanh của tâm bất tương ưng đạo, với người ấy đạo đế không đang sanh nhưng khổ đế chẳng phải không đang sanh cho người ấy. Còn đối với tất cả người đang tử biệt, trong thời bình nhựt vào sát na diệt của tâm, trong cõi vô sắc vào sát na sanh của tâm quả, thì với người ấy đạo đế không đang sanh và khổ đế cũng không đang sanh”.
[842] Tập đế không đang sanh cho người nào thì đạo đế cũng không đang sanh cho người ấy phải chăng?
Vào sát na sanh của tâm đạo với người ấy tập đế không đang sanh nhưng đạo đế chẳng phải không đang sanh cho người ấy. Ðối với tất cả người đang tử biệt, vào sát na sanh của tâm ly ái và bất tương ưng đạo, đối với người đang nhập thiền diệt, người cõi vô tưởng, với các hạng ấy tập đế không đang sanh và đạo đế cũng không đang sanh”.
HAY LÀ ÐẠO ÐẾ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ TẬP ÐẾ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Vào sát na sanh của tâm ái, với người ấy đạo đế không đang sanh nhưng tập đế chẳng phải không đang sanh cho người ấy. Ðối với mọi người vào sát na diệt của tâm, vào sát na sanh của tâm bất tương ưng đạo, bất tương ưng ái, người đang nhập thiền diệt, người cõi vô tưởng thì với các người ấy đạo đế không đang sanh và tập đế cũng không đang sanh”.
[843] Khổ đế không đang sanh ở cõi nào thì tập đế không đang sanh ở cõi ấy phải chăng?
“Không có!”.
HAY LÀ TẬP ÐẾ KHÔNG ÐANG SANH Ở CÕI NÀO THÌ KHỔ ÐẾ KHÔNG ÐANG SANH Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðang sanh”
[844] Khổ đế không đang sanh ở cõi nào thì đạo đế cũng không đang sanh ở cõi ấy phải chăng?
“Không có!”.
HAY LÀ TẬP ÐẾ KHÔNG ÐANG SANH Ở CÕI NÀO THÌ KHỔ ÐẾ KHÔNG ÐANG SANH Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðang sanh”
[845] Tập đế không đang sanh ở cõi nào thì đạo đế cũng không đang sanh ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
HAY LÀ ÐẠO ÐẾ KHÔNG ÐANG SANH Ở CÕI NÀO THÌ TẬP ÐẾ KHÔNG ÐANG SANH Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ở cõi khổ, cõi ấy đạo đế không đang sanh nhưng tập đế chẳng phải không đang sanh ở cõi ấy; ở cõi vô tưởng thì cõi ấy đạo đế không đang sanh và tập đế cũng không đang sanh”.
[846] Khổ đế không đang sanh cho người nào ở cõi nào thì tập đế không đang sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
HAY LÀ TẬP ÐẾ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ KHỔ ÐẾ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với tất cả người đang sanh, vào sát na sanh của tâm bất tương ưng, ái trong thời bình nhựt, với người ấy ở cõi ấy tập đế không đang sanh nhưng khổ đế chẳng phải không đang sanh cho người ấy ở cõi ấy. Còn với tất cả người đang tử biệt, vào sát na sanh của tâm đạo và tâm quả ở cõi vô sắc, thì với người ấy ở cõi ấy tập đế không đang sanh và khổ đế cũng không đang sanh”.
[847] Khổ đế không đang sanh cho người nào ở cõi nào thì đạo đế không đang sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Vào sát na sanh của tâm đạo ở cõi vô sắc, với người ấy ở cõi ấy khổ đế không đang sanh nhưng đạo đế chẳng phải không đang sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với tất cả người đang tử biệt, vào sát na diệt của tâm trong thời bình nhựt, vào sát na sanh của tâm quả ở cõi vô sắc thì với người ấy ở cõi ấy khổ đế không đang sanh và đạo đế cũng không đang sanh”.
HAY LÀ ÐẠO ÐẾ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ KHỔ ÐẾ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với tất cả người đang sanh, vào sát na sanh của tâm bất tương đạo trong thời bình nhựt, với người ấy ở cõi ấy đạo đế không đang sanh nhưng khổ đế chẳng phải không đang sanh cho người ấy ở cõi ấy. Còn đối với tất cả người đang tử biệt, vào sát na diệt của tâm trong thời bình nhựt, vào sát na sanh của tâm quả ở cõi vô sắc, thì với người ấy ở cõi ấy đạo đế không đang sanh và khổ đế cũng không đang sanh”.
[848] Tập đế không đang sanh cho người nào ở cõi nào thì đạo đế không đang sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Vào sát na sanh của tâm đạo, với người ấy ở cõi ấy tập đế không đang sanh nhưng đạo đế chẳng phải không đang sanh cho người ấy ở cõi ấy. Vào sát na diệt của tâm đối với tất cả hạng người vào sát na sanh của tâm bất tương ưng ái, tâm bất tương ưng đạo, đối với người đang nhập thiền diệt, người cõi vô tưởng, thì với người ấy ở cõi ấy tập đế không đang sanh và đạo đế cũng không đang sanh”.
HAY LÀ ÐẠO ÐẾ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ KHỔ ÐẾ TẬP ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Vào sát na sanh của tâm ái, với người ấy ở cõi ấy đạo đế không đang sanh nhưng tập đế chẳng phải không đang sanh cho người ấy ở cõi ấy. Vào sát na diệt của tâm đối với tất cả hạng người, vào sát na sanh của tâm bất tương ưng đạo, bất tương ưng ái, đối với người đang nhập thiền diệt, đối với người cõi vô tưởng, thì với người ấy ở cõi ấy đạo đế không đang sanh và tập đế cũng không đang sanh”.
[849] Khổ đế từng sanh cho người nào thì tập đế từng sanh cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
HAY LÀ TẬP ÐẾ TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ KHỔ ÐẾ TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[850] Khổ đế từng sanh cho người nào thì đạo đế từng sanh cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người chưa đắc đạo (Anabhisametavinām) với người ấy khổ đế từng sanh nhưng đạo đế chẳng từng sanh cho người ấy; Còn đối với người đã đắc đạo (Abbissametāvīnaṃ) thì với người ấy khổ đế từng sanh và đạo đế cũng từng sanh”.
HAY LÀ ÐẠO ÐẾ TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO … trùng …
“Phải rồi!”
[851] Tập đế từng sanh cho người nào thì đạo đế từng sanh cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người chưa đắc đạo với người ấy tập đế từng sanh nhưng đạo đế chẳng từng sanh cho người ấy; còn đối với người đã đắc đạo thì với người ấy tập đế từng sanh và đạo đế cũng từng sanh”.
HAY LÀ ÐẠO ÐẾ TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO … trùng …
“Phải rồi!”
[852] Khổ đế từng sanh ở cõi nào … trùng …
Câu thuộc phần cõi (Yatthaka) đều giống nhau tất cả so với câu về cõi (Yatthaka) phần dưới chỉ khác nhau hệ thống (Tantinānākaranaṃ).
[853] Khổ đế từng sanh cho người nào ở cõi nào thì tập đế từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người cõi tịnh cư vào tâm thứ hai đang diễn tiến, đối với người cõi vô tưởng, với người ấy ở cõi ấy khổ đế từng sanh nhưng tập đế chẳng từng sanh cho người ấy ở cõi ấy; Còn đối với người cõi tứ uẩn người cõi ngũ uẩn hạng khác thì với người ấy ở cõi ấy khổ đế từng sanh và tập đế cũng từng sanh”.
HAY LÀ TẬP ÐẾ TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO … trùng …
“Phải rồi!”
[854] Khổ đế từng sanh cho người nào ở cõi nào thì đạo đế từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người cõi tịnh cư vào cái tâm đang diễn tiến lần thứ hai, đối với người chưa đắc đạo, đối với người cõi vô tưởng, với người ấy ở cõi ấy khổ đế từng sanh nhưng đạo đế chẳng từng sanh cho người ấy ở cõi ấy. Còn đối với người đã đắc đạo, thì với người ấy ở cõi ấy khổ đế từng sanh và đạo đế cũng từng sanh”.
HAY LÀ ÐẠO ÐẾ TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO … trùng…?
“Phải rồi!”
[855] Tập đế từng sanh cho người nào ở cõi nào thì đạo đế từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người cõi tịnh cư vào tâm đang bất thiện đang diễn tiến lần thứ hai, đối với người chưa đắc đạo, với người ấy ở cõi ấy. Còn đối với người đã đắc đạo thì với người ấy ở cõi ấy tập đế từng sanh và đạo đế cũng từng sanh”.
HAY LÀ ÐẠO ÐẾ TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO ..ṬRÙNG…?
“Phải rồi!”
[856] Khổ đế không từng sanh cho người nào thì tập đế không từng sanh cho người ấy phải chăng?
“Không có!”
HAY LÀ TẬP ÐẾ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO … trùng …?
“Không có!”
[857] Khổ đế không từng sanh cho người nào thì đạo đế không từng sanh cho người ấy phải chăng?
“Không có!”
HAY LÀ ÐẠO ÐẾ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ KHỔ ÐẾ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Từng sanh”.
[858] Tập đế không từng sanh cho người nào thì đạo đế không từng sanh cho người ấy phải chăng?
“Không có!”
HAY LÀ ÐẠO ÐẾ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ TẬP ÐẾ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Từng sanh”
[859] Khổ đế không từng sanh ở cõi nào … trùng …
[860] Khổ đế không từng sanh cho người nào ở cõi nào thì tập đế không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
HAY LÀ TẬP ÐẾ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ KHỔ ÐẾ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người cõi tịnh cư vào tâm đang diễn tiến lần thứ hai, người cõi vô tưởng, với người ấy ở cõi ấy tập đế không từng sanh nhưng khổ đế chẳng phải không từng sanh cho ngươì ấy ở cõi ấy. Còn đối với người đang sanh cõi tịnh cư thì với người ấy ở cõi ấy tập đế từng sanh và khổ đế cũng từng sanh”.
[861] Khổ đế không từng sanh cho người nào ở cõi nào thì đạo đế không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
HAY LÀ ÐẠO ÐẾ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ KHỔ ÐẾ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người cõi tịnh cư vào cái tâm đang diễn tiến lần thứ hai, đối với người chưa đắc đạo, đối với người cõi vô tưởng, với người ấy ở cõi ấy đạo đế không từng sanh nhưng khổ đế chẳng phải không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy. Còn đối với người đang sanh cõi tịnh cư, thì với người ấy ở cõi ấy đạo đế không từng sanh và khổ đế cũng không từng sanh”.
[862] Tập đế không từng sanh cho người nào ở cõi nào thì đạo đế không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
HAY LÀ ÐẠO ÐẾ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ TẬP ÐẾ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người cõi tịnh cư vào cái tâm bất thiện đang diễn tiến lần thứ hai, đối với người chưa đắc đạo thì với người ấy ở cõi ấy đạo đế không từng sanh nhưng tập đế chẳng phải không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy. Còn đối với người cõi tịnh cư vào cái tâm đang diễn tiến lần thứ hai, đối với người cõi vô tưởng thì với người ấy ở cõi ấy đạo đế không từng sanh và tập đế cũng không từng sanh”.
[863] Khổ đế sẽ sanh cho người nào thì tập đế sẽ sanh cho người ấy phải chăng?
“Ðối với bậc chí thượng đạo, đối với bậc A La Hán đối với bậc tiếp cận tâm sẽ đắc chí thượng đạo(1) với người ấy khổ đế sẽ sanh nhưng tập đế chẳng phải sẽ sanh cho người ấy; còn đối với các hạng khác thì với họ khổ đế sẽ sanh và tập đế cũng sẽ sanh”.
HAY LÀ TẬP ÐẾ SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO … trùng…
“Phải rồi!”
[864] Khổ đế sẽ sanh cho người nào thì đạo đế sẽ sanh cho người ấy phải chăng?
“Ðối với bậc chí thượng đạo, đối với bậc A La Hán và hạng người phàm phu mà sẽ không đắc đạo, với người ấy khổ đế sẽ sanh nhưng đạo đế sẽ chẳng sanh cho người ấy. Ðối với bậc tiếp cận tâm sẽ đắc chí thượng đạo và những hạng khác mà sẽ đắc đạo, thì với người ấy khổ đế sẽ sanh và đạo đế cũng sẽ sanh”.
HAY LÀ ÐẠO ÐẾ SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO … trùng…
“Phải rồi!”
[865] Tập đế sẽ sanh cho người nào thì đạo đế sẽ sanh cho người ấy phải chăng?
“Những hạng phàm phu mà sẽ không đắc đạo, với hạng ấy tập đế sẽ sanh nhưng đạo đế sẽ chẳng sanh cho người ấy. Còn những người mà sẽ đắc đạo, thì với người ấy khổ đế sẽ sanh và đạo đế cũng sẽ sanh”.
HAY LÀ ÐẠO ÐẾ SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ TẬP ÐẾ SẼ SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Những hạng tiếp cận tâm mà sẽ đắc chí thượng đạo, với hạng ấy đạo đế sẽ sanh nhưng tập đế sẽ không sanh cho người ấy; còn những hạng khác mà sẽ đắc đạo thì với người ấy đạo đế sẽ sanh và tập đế cũng sẽ sanh”.
[866] Khổ đế sẽ sanh ở cõi nào … trùng …
[867] Khổ đế sẽ sanh cho người nào ở cõi nào thì tập đế sẽ sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với bậc chí thượng đạo, bậc A La Hán, bậc tiếp cận tâm mà sẽ đắc chí thượng đạo, người cõi vô tưởng, với người ấy ở cõi ấy khổ đế sẽ sanh nhưng tập đế sẽ chẳng sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với người cõi ngũ uẩn – cõi tứ uẩn hạng khác, thì với người ấy ở cõi ấy khổ đế sẽ sanh và tập đế cũng sẽ sanh”.
HAY LÀ TẬP ÐẾ SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO … trùng…
“Phải rồi!”
[868] Khổ đế sẽ sanh cho người nào ở cõi nào thì đạo đế sẽ sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với bậc chí thượng đạo, bậc A La Hán, hạng phàm phu mà sẽ không đắc đạo, người cõi khổ, người cõi vô tưởng, với người ấy ở cõi ấy khổ đế sẽ sanh nhưng đạo đế sẽ chẳng sanh cho người ấy ở cõi ấy. Còn những hạng tiếp cận tâm sẽ đắc chí thượng đạo và hạng khác mà sẽ đắc đạo thì với người ấy ở cõi ấy khổ đế sẽ sanh và đạo đế cũng sẽ sanh”.
HAY LÀ ÐẠO ÐẾ SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ KHỔ ÐẾ SẼ SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[869] Tập đế sẽ sanh cho người nào ở cõi nào thì đạo đế sẽ sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Người cõi khổ và hạng phàm phu sẽ không đắc đạo, với người ấy ở cõi ấy tập đế sẽ sanh nhưng đạo đế sẽ chẳng sanh cho người ấy ở cõi ấy. Còn những hạng mà sẽ đắc đạo, thì với người ấy ở cõi ấy tập đế sẽ sanh và đạo đế cũng sẽ sanh”.
HAY LÀ ÐẠO ÐẾ SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ TẬP ÐẾ SẼ SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Những cậc tiếp cận tâm sẽ đắc chí thượng đạo, với người ấy ở cõi ấy đạo đế sẽ sanh nhưng tập đế sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy. Còn những hạng khác mà sẽ đắc đạo thì với người ấy ở cõi ấy đạo đế sẽ sanh tập đế cũng sẽ sanh”.
[870] Khổ đế sẽ không sanh cho người nào thì tập đế sẽ không sanh cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
HAY LÀ TẬP ÐẾ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ KHỔ ÐẾ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với bậc chí thượng đạo, bậc A La Hán, bậc tiếp cận tâm sẽ đắc chí thượng đạo với người ấy tập đế sẽ không sanh nhưng khổ đế chẳng phải sẽ không sanh cho người ấy. Còn đối với bậc tối hậu tâm (Pachimacittasamangī)(1) với người ấy tập đế sẽ không sanh và khổ đế cũng sẽ không sanh”.
[871] Khổ đế sẽ không sanh cho người nào thì đạo đế sẽ không sanh cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
HAY LÀ ÐẠO ÐẾ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ KHỔ ÐẾ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với bậc chí thượng đạo, bậc A La Hán và hạng phàm phu mà sẽ không đắc đạo; với hạng ấy đạo đế sẽ không sanh nhưng khổ đế chẳng phải sẽ không sanh cho người ấy. Còn đối với bậc tối hậu tâm thì với hạng ấy đạo đế sẽ không sanh và khổ đế cũng sẽ không sanh”.
[872] Tập đế sẽ không sanh cho người nào thì đạo đế sẽ không sanh cho người ấy phải chăng?
“Những cậc tiếp cận tâm sẽ đắc chí thượng đạo, với hạng ấy tập đế sẽ không sanh nhưng đạo đế chẳng phải sẽ không sanh cho người ấy. Còn đối với bậc chí thượng đạo bậc A La Hán thì với hạng ấy tập đế sẽ không sanh và đạo đế cũng sẽ không sanh”.
HAY LÀ ÐẠO ÐẾ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ TẬP ÐẾ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Những hạng phàm phu mà sẽ không đắc đạo, với người ấy đạo đế sẽ không sanh nhưng tập đế chẳng phải sẽ không sanh cho người ấy. Còn đối với bậc chí thượng đạo, bậc A La Hán, thì với người ấy đạo đế sẽ không sanh và tập đế cũng sẽ không sanh”.
[873] Khổ đế sẽ không sanh ở cõi nào … trùng …
[874] Khổ đế sẽ không sanh cho người nào ở cõi nào thì tập đế sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
HAY LÀ TẬP ÐẾ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ KHỔ ÐẾ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với bậc chí thượng đạo, bậc A La Hán, bậc tiếp cận tâm sẽ đắc chí thượng đạo, người cõi vô tưởng, với người ấy ở cõi ấy tập đế sẽ không sanh nhưng khổ đế chẳng phải sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy. Còn đối với bậc tối hậu tâm thì với người ấy ở cõi ấy tập đế sẽ không sanh và khổ đế cũng sẽ không sanh”.
[875] Khổ đế sẽ không sanh cho người nào ở cõi nào thì đạo đế sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
HAY LÀ ÐẠO ÐẾ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ KHỔ ÐẾ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với bậc chí thượng đạo, bậc A La Hán, hạng phàm phu mà sẽ không đắc đạo, người cõi khổ, người cõi vô tưởng, với người ấy ở cõi ấy đạo đế sẽ không sanh nhưng khổ đế chẳng phải sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy; còn đối với bậc tối hậu tâm thì với người ấy ở cõi ấy đạo đế sẽ không sanh và khổ đế cũng sẽ không sanh”.
[876] Tập đế sẽ không sanh cho người nào ở cõi nào thì đạo đế sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Bậc tiếp cận tâm sẽ đắc chí thượng đạo, với người ấy ở cõi ấy tập đế sẽ không sanh nhưng đạo đế chẳng phải sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy. Còn đối với bậc chí thượng đạo, bậc A La Hán, người cõi vô tưởng thì với người ấy ở cõi ấy tập đế sẽ không sanh và đạo đế cũng sẽ không sanh”.
HAY LÀ ÐẠO ÐẾ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ TẬP ÐẾ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người cõi khổ, và hạng phàm phu mà sẽ không đắc đạo, với người ấy ở cõi ấy đạo đế sẽ không sanh nhưng tập đế chẳng phải sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy. Còn đối với bậc chí thượng đạo, bậc A La Hán, người cõi vô tưởng thì với người ấy ở cõi ấy đạo đế sẽ không sanh và tập đế cũng sẽ không sanh”.
[877] Khổ đế đang sanh cho người nào thì tập đế sẽ từng sanh cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
HAY LÀ TẬP ÐẾ TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ KHỔ ÐẾ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với tất cả người đang tử biệt, trong thời bình nhựt, vào sát na diệt của tâm, ở cõi vô sắc vào sát na sanh của tâm đạo và tâm quả, với người ấy tập đế từng sanh nhưng khổ đế thì chẳng đang sanh cho người ấy, còn đối với tất cả người đang sanh trong thời bình nhựt vào sát na sanh của tâm, với người ấy tập đế từng sanh và khổ đế cũng đang sanh”.
[878] Khổ đế đang sanh cho người nào thì đạo đế từng sanh cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người chưa đắc đạo đang sanh, trong thời bình nhựt, vào sát na sanh của tâm, với người ấy khổ đế đang sanh nhưng tập đế chẳng phải từng sanh cho người ấy. Ðối với người đắc đạo đang sanh(1) vào sát na sanh của tâm trong thời bình nhựt, với người ấy khổ đế đang sanh và đạo đế cũng từng sanh”.
HAY LÀ ÐẠO ÐẾ TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ KHỔ ÐẾ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đã đắc đạo đang tử biệt, vào sát na diệt của tâm trong thời bình nhựt (đối với người ấy) vào sát na sanh của tâm đạo và tâm quả của cõi vô sắc, với người ấy đạo đế từng sanh nhưng khổ đế chẳng đang sanh cho người ấy. Còn đối với người đã đắc đạo, và sát na sanh của tâm trong thời bình nhựt (đối với người ấy) với họ, đạo đế từng sanh và khổ đế cũng đang sanh”.
[879] Tập đế đang sanh cho người nào thì đạo đế từng sanh cho người ấy phải chăng?
“Vào sát na sanh của tâm ái đối với người chưa đắc đạo, với người ấy tập đế đang sanh nhưng đạo đế chẳng từng sanh cho người ấy. Còn vào sát na sanh của tâm ái đối với người đã đắc đạo(1), với người ấy tập đế đang sanh và đạo đế cũng từng sanh”.
HAY LÀ ÐẠO ÐẾ TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ TẬP ÐẾ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Vào sát na diệt của tâm ái đối với người đã đắc đạo, vào cái tâm bất tương ái đang diễn tiến (của bậc thánh) đối với bậc đang nhập diệt, với người ấy đạo đế từng sanh nhưng tập đế chẳng đang sanh cho người ấy. Vào sát na sanh của tâm ái đối với bậc đã đắc đạo, thì với người ấy đạo đế từng sanh và tập đế cũng đang sanh”.
[880] Khổ đế đang sanh ở cõi nào … trùng …
Phần thuộc về cõi (Yatthaka) tất cả đều giống nhau.
[881] Khổ đế đang sanh cho người nào ở cõi nào thì tập đế từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Vào sát na sanh của tâm hóa sanh bậc tinh cư, người đang sanh cõi vô tưởng, với người ấy ở cõi ấy khổ đế đang sanh nhưng tập đế chẳng từng sanh cho người ấy ở cõi ấy. Vào sát na sanh của tâm diễn tiến cho người nương sanh cõi tứ uẩn, ngũ uẩn hạng khác, thì với người ấy ở cõi ấy khổ đế đang sanh và tập đế cũng từng sanh”.
HAY LÀ TẬP ÐẾ TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ KHỔ ÐẾ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang tử biệt cõi tứ uẩn, ngũ uẩn, vào sát na diệt của tâm bình nhựt, vào sát na sanh của tâm đạo và tâm quả ở cõi vô sắc, với người ấy ở cõi ấy tập đế từng sanh nhưng khổ đế chẳng đang sanh cho người ấy ở cõi ấy. Còn đối với người đang sanh cõi tứ uẩn, ngũ uẩn, vào sát na sanh của tâm bình nhựt, với người ấy ở cõi ấy tập đế từng sanh và khổ đế cũng đang sanh”.
[882] Khổ đế đang sanh cho người nào ở cõi nào thì đạo đế từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Vào sát na sanh của tâm hóa sanh bậc tinh cư, hạng chưa đắc đạo đang sanh vào sát na sanh của tâm bình nhựt, hạng đang sanh cõi vô tưởng, với người ấy ở cõi ấy khổ đế đang sanh nhưng đạo đế chẳng từng sanh cho người ấy ở cõi ấy. Còn đối với hạng đã đắc đạo đang sanh vào sát na sanh của tâm bình nhựt thì với người ấy ở cõi ấy khổ đế đang sanh và đạo đế cũng từng sanh”.
HAY LÀ ÐẠO ÐẾ TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ KHỔ ÐẾ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với hạng đã đắc đạo đang tử biệt vào sát na diệt của tâm bình nhựt, vào sát na sanh của tâm đạo và tâm quả ở cõi vô sắc, với người ấy ở cõi ấy đạo đế từng sanh nhưng khổ đế chẳng đang sanh cho người ấy ở cõi ấy. Còn đối với hạng đã đắc đạo đang sanh, vào sát na sanh của tâm bình nhựt, với người ấy ở cõi ấy đạo đế từng sanh và khổ đế cũng đang sanh”.
[883] Tập đế đang sanh cho người nào ở cõi nào thì đạo đế từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Vào sát na sanh của tâm ái đối với hạng chưa đắc đạo, với người ấy ở cõi ấy tập đế đang sanh nhưng khổ đế chẳng từng sanh cho người ấy ở cõi ấy. Vào sát na sanh của tâm ái đối với người đã đắc đạo thì với người ấy ở cõi ấy tập đế đang sanh và đạo đế cũng từng sanh”.
HAY LÀ ÐẠO ÐẾ TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ TẬP ÐẾ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Vào sát na diệt của tâm ái đối với người đã đắc đạo, vào cái tâm bất tương ưng ái đang diễn tiến, với người ấy ở cõi ấy đạo đế từng sanh nhưng tập đế chẳng đang sanh cho người ấy ở cõi ấy. Vào sát na sanh của tâm ái đối với người đã đắc đạo thì với người ấy ở cõi ấy đạo đế từng sanh và tập đế cũng đang sanh”.
[884] Khổ đế không đang sanh cho người nào thì tập đế không từng sanh cho người ấy phải chăng?
“Từng sanh”
HAY LÀ TẬP ÐẾ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ KHỔ ÐẾ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Không có!”
[885] Khổ đế không đang sanh cho người nào thì đạo đế không từng sanh cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người đã đắc đạo đang tử biệt, vào sát na diệt của tâm bình nhựt, vào sát na sanh của tâm đạo tâm quả ở cõi vô sắc, với người ấy khổ đế không đang sanh nhưng đạo đế chẳng phải không từng sanh cho người ấy; còn đối với người chưa đắc đạo đang tử biệt, vào sát na diệt của tâm thời bình nhựt thì với người ấy khổ đế không đang sanh và đạo đế không từng sanh”.
HAY LÀ ÐẠO ÐẾ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ KHỔ ÐẾ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người chưa đắc đạo đang sanh vào sát na sanh của tâm thời bình nhựt, với người ấy đạo đế không từng sanh nhưng khổ đế chẳng phải không đang sanh cho người ấy. Còn đối với người chưa đắc đạo đang tử biệt, vào sát na diệt của tâm thời bình nhựt thì với người ấy đạo đế không từng sanh và khổ đế không đang sanh”.
[886] Tập đế không đang sanh cho người nào thì đạo đế không từng sanh cho người ấy phải chăng?
“Vào sát na diệt của tâm ái đối với người đã đắc đạo, vào cái tâm bất tương ưng ái đang diễn tiến, đối với người đang nhập thiền diệt, với người ấy tập đế không đang sanh nhưng đạo đế chẳng không từng sanh cho người ấy. Còn vào sát na diệt của tâm ái, vào cái tâm bất tương ưng ái đang diễn tiến đối với hạng chưa đắc đạo, đối với người cõi vô tưởng, với người ấy tập đế không đang sanh và đạo đế cũng không từng sanh”.
HAY LÀ ÐẠO ÐẾ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ TẬP ÐẾ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Vào sát na sanh của tâm ái đối với người chưa đắc đạo, với người ấy đạo đế không từng sanh nhưng tập đế chẳng phải không đang sanh cho người ấy. Còn vào sát na diệt của tâm ái, vào cái tâm bất tương ưng ái đang diễn tiến đối người chưa đắc đạo, đối với người cõi vô tưởng, thì với người ấy đạo đế không từng sanh và tập đế cũng không đang sanh”
[887] Khổ đế không đang sanh ở cõi nào … trùng …
[888] Khổ đế không đang sanh cho người nào ở cõi nào thì tập đế không đang sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang tử biệt cõi tứ uẩn cõi ngũ uẩn, vào sát na diệt của tâm thời bình nhựt (các cõi ấy) vào sát na sanh của tâm đạo và tâm quả ở cõi vô sắc, với người ấy ở cõi ấy khổ đế không đang sanh nhưng tập đế chẳng phải không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy. Vào sát na diệt của tâm hóa sanh bậc tịnh cư, người đang tử biệt cõi vô tưởng, thì với người ấy ở cõi ấy khổ đế không đang sanh và tập đế không từng sanh”.
HAY LÀ TẬP ÐẾ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ KHỔ ÐẾ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Vào sát na sanh của tâm hóa sanh bậc tịnh cư, người đang san cõi vô tưởng, với người ấy ở cõi ấy tập đế không từng sanh nhưng khổ đế chẳng phải không đang sanh cho người ấy ở cõi ấy; Vào sát na diệt của tâm hóa sanh bậc tịnh cư, người đang tử biệt cõi vô tưởng, thì với người ấy ở cõi ấy tập đế không từng sanh và khổ đế cũng không đang sanh”.
[889] Khổ đế không đang sanh cho người nào ở cõi nào thì đạo đế không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đã đắc đạo đang tử biệt, vào sát na diệt của tâm thời bình nhựt, vào sát na sanh của tâm đạo và tâm quả ở cõi vô sắc, với người ấy ở cõi ấy khổ đế không đang sanh nhưng đạo đế chẳng phải không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy. Vào sát na diệt của tâm hóa sanh bậc tịnh cư, người chưa đắc đạo đang tử biệt, vào sát na diệt của tâm thời bình nhựt, người đang tử biệt cõi vô tưởng, thì với người ấy ở cõi ấy khổ đế không đang sanh và đạo đế cũng không từng sanh”.
HAY LÀ ÐẠO ÐẾ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ KHỔ ÐẾ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Vào sát na sanh của tâm hóa sanh bậc tịnh cư, đối với người chưa đắc đạo đang sanh, vào sát na sanh của tâm thời bình nhựt, người đang sanh cõi vô tưởng, với người ấy ở cõi ấy đạo đế không từng sanh nhưng khổ đế chẳng phải không đang sanh cho người ấy ở cõi ấy. Vào sát na diệt của tâm hóa sanh bậc tịnh cư, đối với người chưa đắc đạo đang tử biệt, vào sát na diệt của tâm thời bình nhựt, người đang tử biệt cõi vô tưởng thì với người ấy ở cõi ấy đạo đế không từng sanh và khổ đế cũng không đang sanh”.
[890] Tập đế không đang sanh cho người nào ở cõi nào thì đạo đế không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Vào sát na diệt của tâm ái và vào cái tâm bất tương ưng ái đang diễn tiến đối với bậc đã đắc đạo, với người ấy ở cõi ấy tập đế không đang sanh nhưng đạo đế chẳng phải không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy. Vào cái tâm đang diễn tiến lần thứ hai của bậc tịnh cư, vào sát na diệt của tâm ái và cái tâm bất tương ưng ái đang diễn tiến của người chưa đắc đạo, người ở cõi vô tưởng, thì với người ấy ở cõi ấy tập đế không đang sanh và đạo đế cũng không từng sanh”.
HAY LÀ ÐẠO ÐẾ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ TẬP ÐẾ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Vào sát na sanh của tâm ái đối với người chưa đắc đạo, với người ấy ở cõi ấy đạo đế không từng sanh nhưng tập đế chẳng phải không đang sanh cho người ấy ở cõi ấy. Vào cái tâm đang diễn tiến lần thứ hai của bậc tịnh cư, vào sát na diệt của tâm ái và cái tâm bất tương ưng ái đang diễn tiến của người chưa đắc đạo, người nương cõi vô tưởng, thì với người ấy ở cõi ấy đạo đế không từng sanh và tập đế cũng không đang sanh”.
[891] Khổ đế đang sanh cho người nào thì tập đế sẽ sanh cho người ấy phải chăng?
“Vào sát na sanh của tâm chí thượng đạo, vào sát na sanh của tâm bậc A La Hán, vào sát na sanh của tâm bậc mà tiếp cận tâm sẽ đắc chí thượng đạo, với người ấy ở khổ đế đang sanh nhưng tập đế sẽ chẳng sanh cho người ấy. Còn đối với hạng đang sanh khác, vào sát na sanh của tâm thời bình nhựt thì với người ấy khổ đế đang sanh và tập đế cũng sẽ sanh”.
HAY LÀ TẬP ÐẾ SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ KHỔ ÐẾ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với tất cả người đang tử, người trong thời bình nhựt vào sát na sanh của tâm, người cõi vô sắc vào sát na sanh của tâm đạo và tâm quả, với người ấy tập đế sẽ sanh nhưng khổ đế thì không đang sanh cho người ấy. Còn đối với tất cả người đang sanh, người trong thời bình nhựt vào sát na sanh của tâm với người ấy tập đế sẽ sanh và khổ đế cũng đang sanh”.
[892] Khổ đế đang sanh cho người nào thì đạo đế sẽ sanh cho người ấy phải chăng?
“Vào sát na sanh của tâm chí thượng đạo, vào sát na sanh của tâm bậc A La Hán, người đang sanh và hạng phàm phu sẽ không đắc đạo, người trong thời bình nhựt vào sát na sanh của tâm, với người ấy, khổ đế đang sanh nhưng đạo đế sẽ chẳng sanh cho người ấy. Vào sát na sanh của tâm bậc mà tiếp cận tâm sẽ đắc chí thượng đạo, người đang sanh là những hạng mà sẽ đắc đạo, người trong thời bình nhựt, vào sát nơi người ấy sanh của tâm thì với người ấy khổ đế đang sanh và đạo đế cũng sẽ sanh”.
HAY LÀ ÐẠO ÐẾ SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ KHỔ ÐẾ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Vào sát na diệt của tâm bậc mà đang tiếp cận tâm sẽ đắc chí thượng đạo, người đang tử biệt là hạng mà sẽ đắc đạo, người trong thời bình nhựt vào sát na diệt của tâm người ở cõi vô sắc, sát na sanh của tâm đạo và tâm quả, với người ấy đạo đế sẽ sanh nhưng khổ đế thì không đang sanh cho người ấy. Vào sát na sanh của tâm bậc mà tiếp cận tâm sẽ đắc chí thượng đạo, người đang sanh là hạng mà sẽ đắc đạo, người trong thời bình nhựt vào sát na sanh của tâm, thì với người ấy đạo đế sẽ sanh và khổ đế cũng đang sanh”.
[893] Tập đế đang sanh cho người nào thì đạo đế sẽ sanh cho người ấy phải chăng?
“Vào sát na sanh của tâm ái đối với hạng phàm phu mà sẽ không đắc đạo, với người ấy tập đế đang sanh nhưng đạo đế sẽ chẳng sanh cho người ấy. Vào sát na sanh của tâm ái đối với hạng mà sẽ đắc đạo, thì với người ấy tập đế đang sanh và đạo đế cũng sẽ sanh”.
HAY LÀ ÐẠO ÐẾ SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ TẬP ÐẾ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Vào sát na sanh của tâm bậc mà tiếp cận tâm sẽ đắc chí thượng đạo, vào sát na diệt của tâm ái và vào cái tâm bất tương ưng ái đang diễn tiến, đối với những hạng mà sẽ đắc đạo, người đang nhập thiền diệt, người cõi vô tưởng, với người ấy đạo đế sẽ sanh nhưng tập đế chẳng đang sanh cho người ấy. Vào sát na sanh của tâm ái đối với người mà sẽ đắc đạo, thì với người ấy đạo đế sẽ sanh và tập đế cũng đang sanh”.
[894] Khổ đế đang sanh ở cõi nào … trùng …
Ở phần cõi (Yatthakaṃ) cần sắp giống như phần người cõi (Yassaya-tthakaṃ).
[895] Khổ đế đang sanh cho người nào ở cõi nào thì tập đế sẽ sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Vào sát na sanh của tâm chí thượng đạo, vào sát na sanh của tâm bậc A La Hán, vào sát na sanh của tâm bậc mà tiếp cận tâm sẽ đắc chí thượng đạo, người đang sanh cõi vô tưởng, với người ấy ở cõi ấy khổ đế đang sanh nhưng tập đế sẽ chẳng sanh cho người ấy ở cõi ấy. Ðối với những hạng khác đang sanh cõi tứ uẩn cõi ngũ uẩn người trong thời bình nhật vào sát na sanh của tâm, thì với người ấy ở cõi ấy khổ đế đang sanh và tập đế cũng sẽ sanh”.
HAY LÀ TẬP ÐẾ SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ KHỔ ÐẾ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang tử biệt cõi tứ uẩn, cõi ngũ uẩn, người trong thời bình nhựt vào sát na diệt của tâm, người ở cõi vô sắc vào sát na sanh của tâm đạo và tâm quả, với người ấy ở cõi ấy tập đế sẽ sanh nhưng khổ đế chẳng đang sanh cho người ấy cõi ấy đến với người đang sanh cõi tứ uẩn, cõi ngũ uẩn người trong trong thời bình nhựt vào sát na sanh của tâm, thì với người ấy ở cõi ấy, tập đế sẽ sanh và khổ đế cũng đang sanh”
[896] Khổ đế đang sanh cho người nào ở cõi nào thì đạo đế sẽ sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Vào sát na sanh của tâm chí thượng đạo, vào sát na sanh của tâm bậc A La Hán, người đang sanh là hạng phàm phu mà sẽ không đắc đạo, người trong thời bình nhật vào sát na sanh của tâm, người đang sanh cõi khổ và cõi vô tưởng, với người ấy ở cõi ấy khổ đế đang sanh nhưng đạo đế sẽ chẳng sanh cho người ấy ở cõi ấy; vào sát na sanh của tâm bậc mà tiếp cận tâm sẽ đắc chí thượng đạo, người đang sanh là những hạng mà sẽ đắc đạo, người trong thời bình nhật vào sát na sanh của tâm, với người ấy ở cõi ấy khổ đế đang sanh và đạo đế cũng sẽ sanh”
HAY LÀ ÐẠO ÐẾ SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ KHỔ ÐẾ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Vào sát na diệt của tâm bậc mà tiếp cận tâm sẽ đắc chí thượng đạo, người đang tử biệt là những hạng mà sẽ đắc đạo, người đang tử biệt mà sẽ đắc đạo, người trong thời bình nhật vào sát na diệt của tâm, người ở cõi vô sắc, vào sát nơi người ấy sanh của tâm đạo và tâm quả, với người ấy ở cõi ấy đạo sẽ sanh nhưng khổ đế chẳng phải đang sanh cho người ấy ở cõi ấy. Vào sát na sanh của tâm bậc mà tiếp cận tâm sẽ đắc chí thượng đạo, người đang sanh là những hạng mà sẽ đắc đạo, người trong thời bình nhật vào sát na sanh của tâm, với người ấy ở cõi ấy đạo đế sẽ sanh và khổ đế cũng đang sanh”.
[897] Tập đế đang sanh cho người nào ở cõi nào thì đạo đế sẽ sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang cõi khổ, vào sát na sanh của tâm ái đối với hạng phàm phu mà sẽ không đắc đạo, với người ấy ở cõi ấy tập đế đang sanh nhưng đạo đế sẽ chẳng sanh cho người ấy ở cõi ấy. Vào sát na sanh của tâm ái đối với bậc mà sẽ đắc đạo, thì với người ấy ở cõi ấy tập đế đang sanh và đạo đế cũng sẽ
HAY LÀ ÐẠO ÐẾ SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ TẬP ÐẾ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Vào sát na diệt của tâm bậc mà tiếp cận tâm sẽ đắc chí thượng đạo, vào sát na diệt của tâm ái đối với hạng mà sẽ đắc đạo, vào cái tâm bất tương ưng ái đang hiện hành của bậc sẽ đắc đạo, với người ấy ở cõi ấy đạo sẽ sanh nhưng tập đế không đang sanh cho người ấy ở cõi ấy. Vào sát na sanh của tâm ái đối với hạng mà sẽ đắc đạo, thì với người ấy ở cõi ấy đạo đế sẽ sanh và tập đế cũng đang sanh”.
[898] Khổ đế không đang sanh cho người nào thì tập đế sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với tất cả người đang tử biệt, người trong thời bình nhật vào sát na diệt của tâm, người ở cõi vô sắc vào sát na sanh của tâm đạo và tâm quả, với người ấy khổ đế không đang sanh nhưng tập đế chẳng phải sẽ không sanh cho người ấy. Vào sát na diệt của tâm chí thượng đạo, vào sát na diệt của tâm, Bậc A La Hán vào sát nơi người ấy diệt của tâm bậc mà tiếp cận tâm sẽ đắc chí thượng đạo, người ở cõi vô sắc vào sát na sanh của tâm đạo và tâm quả, thì với người ấy khổ đế không đang sanh và tập đế cũng sẽ không sanh”
– HAY LÀ TẬP ÐẾ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ KHỔ ÐẾ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Vào sát na sanh của tâm chí thượng đạo, vào sát na sanh của tâm bậc A La Hán, vào sát na sanh của tâm bậc mà tiếp cận tâm sẽ đắc chí thượng đạo, với người ấy tập đế sẽ không sanh nhưng khổ đế chẳng phải không đang sanh cho người ấy; vào sát na diệt của tâm chí thượng đạo, vào sát na diệt của tâm bậc A La Hán, vào sát na diệt của tâm bậc mà tiếp cận tâm sẽ đắc chí thượng đạo, người ở cõi vô sắc vào sát na sanh của tâm đạo và tâm quả, thì với người ấy tập đế sẽ không sanh và khổ đế cũng không đang sanh”.
[899] Khổ đế không đang sanh cho người nào thì đạo đế sẽ không sanh cho người ấy phải chăng?
“Vào sát na diệt của tâm mà tiếp cận tâm sẽ đắc chí thượng đạo, với người đang tử biệt là hạng mà sẽ đắc đạo, người trong thời bình nhật vào sát na diệt của tâm, người ở cõi vô sắc vào sát na sanh của tâm đạo và tâm quả, với người ấy khổ đế không đang sanh nhưng đạo đế chẳng phải sẽ không sanh cho người ấy. Vào sát na diệt của tâm chí thượng đạo, vào sát na diệt của tâm bậc A La Hán, đối với người đang tử biệt là hạng phàm phu mà sẽ không đắc đạo, người trong thời bình nhật vào sát na diệt của tâm, người ở cõi vô sắc vào sát na sanh của tâm đạo và tâm quả thì với người ấy khổ đế không đang sanh và đạo đế cũng sẽ không sanh”.
HAY LÀ ÐẠO ÐẾ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ KHỔ ÐẾ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Vào sát na sanh của tâm chí thượng đạo, vào sát na sanh của tâm bậc A La Hán, đối với người đang sanh là hạng còn đối với hạng phàm phu mà sẽ không đắc đạo, người trong thời bình nhật vào sát nơi người ấy sanh của tâm, với người ấy đạo đế sẽ không sanh nhưng khổ đế chẳng phải không đang sanh cho người ấy; vào sát na diệt của tâm chí thượng đạo, vào sát na diệt của tâm bậc A La Hán, đối với người đang tử biệt là hạng phàm phu mà sẽ không đắc đạo, người trong thời bình nhật vào sát nơi người ấy diệt của tâm, người ấy ở cõi vô sắc vào sát na sanh của tâm đạo và tâm quả, thì với người ấy đạo đế sẽ không sanh và khổ đế cũng không đang sanh”.
[900] Tập đế không đang sanh cho người nào thì đạo đế sẽ không sanh cho người ấy phải chăng?
“Vào sát na sanh của tâm bậc mà tiếp cận tâm sẽ đắc chí thượng đạo, vào sát na diệt của tâm ái và vào cái tâm bất tương ưng ái đang diễn tiến của hạng mà sẽ đắc đạo, đối với bậc nhập thiền diệt, đối với bậc vô tưởng, với người ấy tập đế không đang sanhnhưng đạo đế chẳng phải sẽ không sanh cho người ấy. Ðối với bậc chí thượng đạo, bậc A La Hán, vào sát na diệt của tâm ái và vào cái tâm bất tương ưng ái đang diễn tiến đối với hạng phàm phu mà sẽ không đắc đạo, đối với các bậc đang nhập thiền diệt, đối với bậc vô tưởng, với người ấy tập đế không đang sanh và đạo đế cũng sẽ không sanh”.
HAY LÀ ÐẠO ÐẾ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ TẬP ÐẾ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Vào sát na sanh của tâm ái đối với hạng phàm phu mà sẽ không đắc đạo, với người ấy đạo đế sẽ không sanh nhưng tập đế chẳng phải không đang sanh cho người ấy. Ðối với bậc chí thượng đạo, bậc A La Hán, vào sát na diệt của tâm ái và vào cái tâm bất tương ưng ái đang diễn tiến của hạng phàm phu mà sẽ không đắc đạo, đối với bậc nhập thiền diệt, bậc vô tưởng, với người ấy đạo đế sẽ không sanh và tập đế cũng không đang sanh”…
[901] Khổ đế không đang sanh ở cõi nào … trùng …
[902] Khổ đế không đang sanh cho người nào ở cõi nào thì tập đế sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người đang tử biệt cõi tứ uẩn – cõi ngũ uẩn, người thời bình nhật vào sát na diệt của tâm, người cõi vô sắc vào sát na sanh của tâm đạo và tâm quả, với người ấy ở cõi ấy khổ đế không đang sanh nhưng tập đế chẳng phải sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy. Vào sát na diệt của tâm chí thượng đạo, vào sát na diệt của tâm bậc A La Hán, vào sát na diệt của tâm bậc mà tiếp cận tâm sẽ đắc chí thượng đạo, người ở cõi vô sắc vào sát na sanh của tâm đạo và tâm quả, đối với người đang tử biệt cõi vô tưởng, thì với người ấy ở cõi ấy khổ đế không đang sanh và tập đế cũng sẽ không sanh”.
– HAY LÀ TẬP ÐẾ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ KHỔ ÐẾ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Vào sát na sanh của tâm chí thượng đạo, vào sát na sanh của tâm bậc A La Hán vào sát na sanh của tâm bậc mà tiếp cận tâm sẽ đắc chí thượng đạo, bậc đang sanh cõi vô tưởng, với người ấy ở cõi ấy tập đế sẽ không sanh nhưng khổ đế chẳng phải không đang sanh cho người ấy ở cõi ấy. Vào sát na diệt của tâm chí thượng đạo, vào sát na diệt của tâm bậc A La Hán, vào sát na diệt của tâm bậc mà tiếp cận tâm sẽ đắc chí thượng đạo người ở cõi vô sắc vào sát na sanh của tâm đạo và tâm quả, đối với bậc đang tử biệt cõi vô tưởng, thì với người ấy ở cõi ấy tập đế sẽ không sanh và khổ đế cũng không đang sanh”.
[903] Khổ đế không đang sanh cho người nào ở cõi nào thì đạo đế sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Vào sát na diệt của tâm bậc mà tiếp cận tâm sẽ đắc chí thượng đạo, người đang tử biệt là hạng mà sẽ đắc đạo, người trong thời bình nhật vào sát na diệt của tâm người ở cõi nào vô sắc vào sát nơi người ấy sanh của tâm đạo và tâm quả, với người ấy ở cõi ấy khổ đế không đang sanh nhưng đạo đế chẳng phải sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy. Vào sát na diệt của tâm chí thượng đạo, vào sát na diệt của tâm bậc A La Hán, người đang tử biệt là hạng phàm phu mà sẽ không đắc đạo, người trong thời bình nhật vào sát na diệt của tâm, người ở cõi vô sắc vào sát na sanh của tâm đạo và tâm quả, người đang tử biệt cõi vô tưởng, với người ấy ở cõi ấy khổ đế không đang sanh và đạo đế cũng sẽ không sanh”.
HAY LÀ ÐẠO ÐẾ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ KHỔ ÐẾ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Vào sát na sanh của tâm chí thượng đạo, vào sát na sanh của tâm bậc A La Hán, vào sát na sanh của hạng phàm phu mà sẽ không đắc đạo, người trong thời bình nhật vào sát na sanh của tâm, người đang sanh cõi vô tưởng, với người ấy ở cõi ấy đạo đế sẽ không sanh nhưng khổ đế chẳng phải không đang sanh cho người ấy ở cõi ấy. Vào sát na diệt của tâm chí thượng đạo, vào sát na diệt của tâm bậc A La Hán, người đang tử biệt là hạng phàm phu mà sẽ không đắc đạo, người trong thời bình nhật vào sát na diệt của tâm, người ở cõi vô sắc vào sát na sanh của tâm đạo và tâm quả, người đang tử biệt cõi vô tưởng, thì với người ấy ở cõi ấy đạo đế sẽ không sanh và khổ đế cũng không đang sanh”.
[904] Tập đế không đang sanh cho người nào ở cõi nào thì đạo đế sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Vào sát na sanh của tâm bậc mà tiếp cận tâm sẽ đắc chí thượng đạo, vào sát diệt của tâm ái và vào cái tâm bất tương ưng ái đang diễn tiến đối với hạng mà sẽ đắc đạo, với người ấy ở cõi ấy tập đế không đang sanh nhưng đạo đế chẳng phải sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy. Ðối với bậc chí thượng đạo A La Hán, vào sát na diệt của tâm ái và vào cái tâm bất tương ưng ái đang diễn tiến đối với hạng phàm phu mà sẽ không đắc đạo, đối với bậc vô tưởng, với người ấy ở cõi ấy tập đế không đang sanh và đạo đế cũng sẽ không sanh”.
HAY LÀ ÐẠO ÐẾ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ TẬP ÐẾ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối Với người cõi khổ, đối với hạng phàm phu mà sẽ không đắc đạo, vào sát na sanh của tâm ái, với người ấy ở cõi ấy đạo đế sẽ không sanh nhưng tập đế chẳng phải không đang sanh cho người ấy ở cõi ấy. Ðối với bậc chí thượng đạo, bậc A La Hán, vào sát nơi người ấy diệt của tâm ái và vào cái tâm bất tương ưng ái đang diễn tiến của hạng phàm phu mà sẽ không đắc đạo, đối với người cõi vô tưởng, thì với người ấy ở cõi ấy đạo đế sẽ không sanh và tập đế cũng không đang sanh”.
[905] Khổ đế từng sanh cho người nào thì tập đế sẽ sanh cho người ấy phải chăng?
“Ðối với bậc chí thượng đạo; bậc A La Hán, bậc tiếp cận tâm mà sẽ đắc chí thượng đạo, với người ấy khổ đế từng sanh nhưng tập đế sẽ không sanh cho người ấy. Ðối với các hạng khác, với người ấy khổ đế từng sanh và tập đế cũng sẽ sanh”.
HAY LÀ TẬP ÐẾ SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ KHỔ ÐẾ TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[906] Khổ đế từng sanh cho người nào thì đạo đế sẽ không sanh cho người ấy phải chăng?
“Ðối với bậc chí thượng đạo; bậc A La Hán và hạng phàm phu mà sẽ không đắc đạo, với người ấy khổ đế từng sanh nhưng đạo đế sẽ chẳng sanh cho người ấy. Bậc tiếp cận tâm mà sẽ đắc chí thượng đạo vào sát na sanh của tâm và hạng mà sẽ đắc đạo, với người ấy khổ đế từng sanh và đạo đế cũng sẽ sanh”.
HAY LÀ ÐẠO ÐẾ SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO … trùng …
“Phải rồi!”
[907] Tập đế từng sanh cho người nào thì đạo đế sẽ sanh cho người ấy phải chăng?
“Ðối với bậc chí thượng đạo; bậc A La Hán và hạng phàm phu mà sẽ không đắc đạo, với người ấy tập đế từng sanh nhưng đạo đế sẽ không sanh cho người ấy. Bậc tiếp cận tâm mà sẽ đắc chí thượng đạo và hạng người mà sẽ đắc đạo, với người ấy tập đế từng sanh và đạo đế cũng sẽ sanh”.
HAY LÀ ÐẠO ÐẾ SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO … trùng …
“Phải rồi!”
[908] Khổ đế từng sanh ở cõi nào… trùng …
[909] Khổ đế từng sanh cho người nào ở cõi nào thì tập đế sẽ sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với bậc chí thượng đạo; bậc A La Hán, bậc tiếp cận tâm mà sẽ đắc chí thượng đạo, người ở cõi vô tưởng, với người ấy ở cõi ấy khổ đế từng sanh nhưng tập đế sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy. Ðối với hạng người khác ở cõi tứ uẩn cõi ngũ uẩn, với người ấy ở cõi ấy khổ đế từng sanh và tập đế cũng sẽ sanh”.
HAY LÀ TẬP ÐẾ SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ KHỔ ÐẾ TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang sanh cõi tịnh cư, với người ấy ở cõi ấy tập đế sẽ sanh nhưng khổ đế chẳng từng sanh cho người ấy ở cõi ấy. Ðối với hạng khác ở cõi tứ uẩn cõi ngũ uẩn thì với người ấy ở cõi ấy tập đế sẽ sanh khổ đế cũng từng sanh”.
[910] Khổ đế không từng sanh cho người nào ở cõi nào thì đạo đế sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với bậc chí thượng đạo, bậc A La Hán, hạng phàm phu mà sẽ không đắc đạo, người cõi khổ, người cõi vô tưởng, với người ấy ở cõi ấy khổ đế từng sanh đạo đế sẽ chẳng sanh cho người ấy ở cõi ấy, bậc tiếp cận tâm sẽ đắc chí thượng đạo, thì với người ấy ở cõi ấy khổ đế từng sanhvà đạo đế cũng sẽ sanh”.
HAY LÀ ÐẠO ÐẾ SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ KHỔ ÐẾ TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang sanh cõi tịnh cư, với người ấy ở cõi ấy đạo đế sẽ sanh nhưng khổ đế chẳng từng sanh cho người ấy ở cõi ấy. Vào sát na sanh của tâm bậc tiếp cận tâm mà sẽ đắc chí thượng đạo và những hạng mà sẽ đắc đạo, thì người ấy ở cõi ấy đạo đế sẽ sanh và khổ đế cũng từng sanh”.
[911] Tập đế từng sanh cho người nào ở cõi nào thì đạo đế sẽ sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với bậc chí thượng đạo, bậc A La Hán, hạng phàm phu mà sẽ không đắc đạo, người cõi khổ, với người ấy ở cõi ấy tập đế từng sanh nhưng đạo đế sẽ chẳng sanh cho người ấy ở cõi ấy. Vào sát na sanh của tâm bậc tiếp cận tâm mà sẽ đắc chí thượng đạo và những hạng mà sẽ đắc đạo, thì với người ấy ở cõi ấy tập đế từng sanh và đạo đế cũng sẽ sanh”.
HAY LÀ ÐẠO ÐẾ SẼ SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ TẬP ÐẾ TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Vào cái tâm đang diễn tiến lần thứ hai của bậc tịnh cư, với người ấy ở cõi ấy đạo đế sẽ sanh nhưng tập đế chẳng từng sanh cho người ấy ở cõi ấy. Vào sát na sanh của tâm đạo tiếp cận tâm mà sẽ đắc chí thượng đạo, và những hạng mà sẽ đắc đạo, thì với người ấy ở cõi ấy đạo đế sẽ sanh và tập đế cũng từng sanh”.
[912] Khổ đế không từng sanh cho người nào thì tập đế sẽ không sanh cho người ấy phải chăng?
“Không có!”
HAY LÀ TẬP ÐẾ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ KHỔ ÐẾ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Từng sanh!”
[913] Khổ đế không từng sanh cho người nào thì đạo đế sẽ không sanh cho người ấy phải chăng?
“Không có!”
HAY LÀ ÐẠO ÐẾ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ KHỔ ÐẾ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Từng sanh!”
[914] Tập đế không từng sanh cho người nào thì đạo đế sẽ không sanh cho người ấy phải chăng?
“Không có!”
HAY LÀ ÐẠO ÐẾ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ TẬP ÐẾ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Từng sanh!”
(1) Yassa cittassa anantarā aggamaggam patilabhissanti ở đây chỉ cho vị tam quả A Na Hàm ở giai đoạn tâm lộ sanh gần kề tâm tứ đạo (Arahattamagga = aggamagga), tức là các tâm manodvāra-vajjana, parikamma, upacāra, anuloma và vodana trong lộ tâm đắc tứ đạo. ND.
(1) Bậc tối hậu tâm, ở đây chỉ cho bậc A La Hán đang viên tịch, tức là vào sát na tâm tử của vị A La Hán.
(1) Ở đây, người đã đắc đạo mà còn sanh tức là chỉ cho bậc thánh hữu học (Sekhā).
(1) Ở đây, bậc thánh còn tâm ái tức là chỉ cho bậc thánh hữu học (Sekhā).
V. ÐẾ SONG (SACCAYAMAKA) – tiếp theo
[915] Khổ đế không từng sanh ở cõi nào … trùng …
[916] Khổ đế không từng sanh cho người nào ở cõi nào thì thì tập đế sẽ không sanh cho người ấy phải chăng?
“Sẽ sanh!”
HAY LÀ TẬP ÐẾ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ KHỔ ÐẾ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Từng sanh!”
[917] Khổ đế không từng sanh cho người nào ở cõi nào thì thì đạo đế sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Sẽ sanh!”
HAY LÀ ÐẠO ÐẾ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ KHỔ ÐẾ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Từng sanh!”
[918] Tập đế không từng sanh cho người nào ở cõi nào thì đạo đế sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Vào cái tâm đang diễn tiến lần thứ hai của bậc tịnh cư, với người ấy ở cõi ấy tập đế không từng sanh nhưng đạo đế chẳng phải sẽ không sanh cho người ấy ở cõi ấy. Ðối với người cõi vô tưởng, thì với người ấy ở cõi ấy, tập đế không từng sanh và đạo đế cũng sẽ không sanh”.
HAY LÀ ÐẠO ÐẾ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ TẬP ÐẾ KHÔNG TỪNG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với bậc chí thượng đạo, bậc A La Hán, hạng phàm phu mà sẽ không đắc đạo, người cõi khổ, với người ấy ở cõi ấy đạo đế sẽ không sanh nhưng tập đế chẳng phải không từng sanh cho người ấy ở cõi ấy. Ðối với người cõi vô tưởng, thì với người ấy ở cõi ấy đạo đế sẽ không sanh và tập đế cũng không từng sanh”.
DỨT PHẦN SANH
[919] Khổ đế đang diệt cho người nào thì tập đế đang diệt cho người ấy phải chăng?
“Ðối với tất cả người đang tử biệt, người trong thời bình nhật vào na diệt của tâm bất tương ưng ái, với người ấy khổ đế đang diệt nhưng tập đế chẳng đang diệt cho người ấy. Vào sát na diệt của tâm ái, thì với người ấy khổ đế đang diệt và tập đế cũng đang diệt”.
HAY LÀ TẬP ÐẾ ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ KHỔ ÐẾ ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[920] Khổ đế đang diệt cho người nào thì đạo đế đang diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với tất cả người đang tử biệt, người trong thời bình nhật vào sát na diệt của tâm bất tương ưng đạo với người ấy khổ đế đang diệt nhưng đạo đế chẳng đang diệt cho họ. Người trong cõi ngũ uẩn vào sát na diệt của tâm đạo, thì với người ấy khổ đế đang diệt và đạo đế cũng đang diệt”.
HAY LÀ ÐẠO ÐẾ ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ KHỔ ÐẾ ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Người trong cõi vô sắc vào sát na diệt của tâm đạo, với người ấy đạo đế đang diệt nhưng khổ đế chẳng đang diệt cho người ấy. Người trong cõi ngũ uẩn vào sát na diệt của tâm đạo, thì với người ấy đạo đế đang diệt và khổ đế cũng đang diệt”.
[921] Tập đế đang diệt cho người nào thì đạo đế đang diệt cho người ấy phải chăng?
“Không phải!”
[922] Khổ đế đang diệt ở cõi nào thì tập đế đang diệt ở cõi ấy phải chăng?
Ở cõi vô tưởng, cõi ấy khổ đế đang diệt … trùng …
Ðối với cõi (Yatthaka) trong phần sanh, trong phần diệt, trong phần sanh diệt, đều giống nhau không có sự khác biệt.
[923] Khổ đế đang diệt cho người nào ở cõi nào … trùng …
Phần người cõi đều giống nhau, cần nói rộng.
[924] Khổ đế không đang diệt cho người nào thì tập đế không đang diệt cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
HAY LÀ TẬP ÐẾ KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ KHỔ ÐẾ KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với tất cả người đang tử biệt, người trong thời bình nhật vào sát na diệt của tâm bất tương ưng ái, với người ấy tập đế không đang diệt nhưng khổ đế chẳng phải không diệt cho người ấy. Còn đối với tất cả người đang sanh, người trong thời bình nhật vào sát na sanh của tâm người ở cõi vô sắc và sát nơi người ấy diệt của tâm đạo và tâm quả, thì với người ấy tập đế không đang diệt và khổ đế cũng không đang diệt”.
[925] Khổ đế không đang diệt cho người nào thì đạo đế không đang diệt cho người ấy phải chăng?
“Người ở cõi vô sắc vào sát na diệt của tâm đạo, với người ấy khổ đế không đang diệt nhưng đạo đế chẳng phải không đang diệt cho người ấy. Còn đối với tất cả người đang sanh, người trong thời bình nhật vào sát na sanh của tâm, người ở cõi vô sắc vào sát na diệt của tâm quả, thì với người ấy khổ đế không đang diệt và đạo đế cũng không đang diệt”.
HAY LÀ ÐẠO ÐẾ KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ KHỔ ÐẾ KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với tất cả người đang tử biệt người trong thời bình nhật vào sát na diệt của tâm bất tương ưng đạo, với người ấy đạo đế không đang diệt nhưng khổ đế chẳng phải không diệt cho người ấy. Còn đối với tất cả người đang sanh người trong thời bình nhật vào sát na sanh của tâm, người ở cõi vô sắc vào sát na diệt của tâm quả, thì với người ấy đạo đế không đang diệt và khổ đế cũng không đang diệt”.
[926] Tập đế không đang diệt cho người nào thì đạo đế không đang diệt cho người ấy phải chăng?
“Vào sát na diệt của tâm đạo, với người ấy tập đế không đang diệt nhưng đạo đế chẳng phải không đang diệt cho người ấy. Còn đối với tất cả người vào sát na sanh của tâm vào sát na diệt của tâm bất tương ưng đạo và bất tương ưng ái, đối với bậc nhập thiền diệt, bậc vô tưởng, thì với người ấy tập đế không đang diệt và đạo đế cũng không đang diệt”.
HAY LÀ ÐẠO ÐẾ KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ TẬP ÐẾ KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Vào sát na diệt của tâm ái, với người ấy đạo đế không đang diệt nhưng tập đế chẳng phải không đang diệt cho người ấy. Còn đối với tất cả người vào sát na sanh của tâm vào sát na diệt của tâm bất tương ưng đạo và bất tương ưng ái, đối với bậc đang nhập thiền diệt, bậc vô tưởng, thì với người ấy đạo đế không đang diệt và tập đế cũng không đang diệt”.
[927] Khổ đế không đang diệt ở cõi nào … trùng …
[928] Khổ đế không đang diệt cho người nào ở cõi nào … trùng …
Phần người (Yassaka), phần cõi (Yatthaka) phần người cõi (Yassayatthaka) đều giống nhau. Nhưng trong phần người cõi, không nên lập luận rằng: “Ðối với bậc nhập thiền diệt”.
[929] Khổ đế từng diệt cho người nào thì tập đế từng diệt cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
Trong phần sanh (Upādavara) các câu hỏi thì quá khứ, xuôi và ngược, đã được phân tích như thế nào thì trong phần diệt (Nirodhavāra) cũng nên phân tích như vậy, không có sự khác biệt.
[930] Khổ đế sẽ diệt cho người nào thì tập đế sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với bậc chí thượng đạo, bậc A La Hán, bậc tiếp cận tâm mà sẽ đắc chí thượng đạo thì vào sát na sanh của tâm ấy, với người đó khổ đế sẽ diệt nhưng tập đế chẳng phải sẽ diệt cho người ấyï. Còn đối với các hạng khác khổ đế sẽ diệt và tập đế cũng sẽ diệt”.
HAY LÀ TẬP ÐẾ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO … trùng…
“Phải rồi!”
[931] Khổ đế sẽ diệt cho người nào thì đạo đế sẽ diệt cho người ấy phải chăng?
“Vào sát na diệt của tâm chí thượng đạo, đối với bậc A La Hán, và những hạng phàm phu mà sẽ không đắc đạo, với người ấy khổ đế sẽ diệt nhưng đạo đế sẽ chẳng diệt cho người ấy. Còn vào sát na sanh của tâm chí thượng đạo, bậc tiếp cận tâm sẽ đắc chí thượng đạo và nhữnghạng mà sẽ đắc đạo, thì với người ấy khổ đế sẽ diệt và đạo đế cũng sẽ diệt”.
HAY LÀ ÐẠO ÐẾ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO … trùng…
“Phải rồi!”
[932] Tập đế sẽ diệt cho người nào thì đạo đế sẽ diệt cho người ấy phải chăng?
“Những hạng phàm phu mà sẽ không đắc đạo, với người ấy tập đế sẽ diệt nhưng đạo đế chẳng phải sẽ diệt cho người ấy. Còn những người mà sẽ đắc đạo, với người ấy tập đế sẽ diệt và đạo đế cũng sẽ diệt”.
HAY LÀ ÐẠO ÐẾ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ TẬP ÐẾ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Vào sát na sanh của tâm chí thượng đạo, bậc tiếp cận tâm mà sẽ đắc chí thượng đạo, với người ấy đạo đế sẽ diệt nhưng tập đế sẽ chẳng phải sẽ diệt cho người ấy; Còn những người mà sẽ đắc đạo, thì với người ấy đạo đế sẽ diệt và tập đế cũng sẽ diệt”.
[933] Khổ đế sẽ diệt ở cõi nào … trùng …
[934] Khổ đế sẽ diệt cho người nào ở cõi nào thì tập đế sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với bậc chí thượng đạo và bậc A La Hán, bậc tiếp cận tâm mà sẽ đắc chí thượng đạo, bậc vô tưởng, với người ấy ở cõi ấy khổ đế sẽ diệt nhưng tập đế chẳng phải sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy. Ðối với người cõi tứ uẩn, cõi ngũ uẩn hạng khác, thì với người ấy ở cõi ấy khổ đế sẽ diệt và tập đế cũng sẽ diệt”.
Phần nói NGƯỜI (Yassaka), Cõi (Yatthaka) NGƯỜI CÕI (Yassayatthaka) đều giống nhau.
[935] Khổ đế sẽ không diệt cho người nào thì tập đế sẽ không diệt cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
HAY LÀ TẬP ÐẾ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ KHỔ ÐẾ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với bậc chí thượng đạo, bậc A La Hán, bậc tiếp cận tâm sẽ đắc chí thượng đạo với người ấy tập đế sẽ không diệt cho người ấy. Vào sát na diệt của tâm tối hậu (Pacchimacitta), thì với người ấy tập đế sẽ không diệt và khổ đế cũng sẽ không diệt”.
[936] Khổ đế sẽ không diệt cho người nào thì đạo đế sẽ không diệt cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
HAY LÀ ÐẠO ÐẾ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ KHỔ ÐẾ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Vào sát na diệt của tâm chí thượng đạo, bậc A La Hán, hạng phàm phu mà sẽ không đắc đạo, với người ấy đạo đế sẽ không diệt nhưng khổ đế chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy. Còn người vào sát na diệt của tâm tối hậu, thì với người ấy đạo đế sẽ không diệt và khổ đế cũng sẽ không diệt”.
[937] Tập đế sẽ không diệt cho người nào thì đạo đế sẽ không diệt cho người ấy phải chăng?
“Vào sát na sanh của bậc chí thượng đạo, bậc tiếp cận tâm mà sẽ đắc chí thượng đạo, với người ấy tập đế sẽ không diệt nhưng đạo đế chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy. Còn người vào sát na diệt của tâm chí thượng đạo, bậc A La Hán thì với người ấy tập đế sẽ không diệt và đạo đế cũng sẽ không diệt”.
HAY LÀ ÐẠO ÐẾ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ TẬP ÐẾ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Hạng phàm phu mà sẽ không đắc đạo, với người ấy đạo đế sẽ không diệt nhưng tập đế chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy. Còn người vào sát na diệt của tâm chí thượng đạo, bậc A La Hán, thì với người ấy đạo đế sẽ không diệt và tập đế cũng sẽ không diệt”.
[938] Khổ đế sẽ không diệt ở cõi nào … trùng …
[939] Khổ đế sẽ không diệt cho người nào ở cõi nào thì tập đế sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
HAY LÀ TẬP ÐẾ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ KHỔ ÐẾ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với bậc chí thượng đạo, bậc A La Hán, bậc tiếp cận tâm mà sẽ đắc chí thượng đạo, bậc vô tưởng, với người ấy ở cõi ấy tập đế sẽ không diệt nhưng khổ đế chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy. Vào sát na diệt của tâm tối hậu thì với người ấy ở cõi ấy tập đế sẽ không diệt và khổ đế cũng sẽ không diệt”.
[940] Khổ đế sẽ không diệt cho người nào ở cõi nào thì đạo đế sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
HAY LÀ ÐẠO ÐẾ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ KHỔ ÐẾ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Vào sát na diệt của tâm chí thượng đạo, bậc A La Hán hạng phàm phu mà sẽ không đắc đạo, người cõi khổ, người cõi vô tưởng, với người ấy ở cõi ấy đạo đế sẽ không diệt nhưng khổ đế chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy. Còn người vào sát na diệt của tâm tối hậu; thì với người ấy ở cõi ấy đạo đế sẽ không diệt và khổ đế cũng sẽ không diệt”.
[941] Tập đế sẽ không diệt cho người nào ở cõi nào thì đạo đế sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Vào sát na sanh của tâm chí thượng đạo, bậc tiếp cận tâm mà sẽ đắc chí thượng đạo, với người ấy ở cõi ấy tập đế sẽ không diệt nhưng đạo đế chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy. Còn người vào sát na diệt của tâm chí thượng đạo, bậc A La Hán, bậc vô tưởng, thì với người ấy ở cõi ấy tập đế sẽ không diệt và đạo đế cũng sẽ không diệt”.
HAY LÀ ÐẠO ÐẾ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ TẬP ÐẾ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người cõi khổ, hạng phàm phu mà sẽ không đắc đạo, với người ấy ở cõi ấy đạo đế sẽ không diệt nhưng tập đế chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy. Vào sát na diệt của tâm chí thượng đạo, bậc A La Hán, bậc vô tưởng, thì với người ấy ở cõi ấy đạo đế sẽ không diệt và tập đế cũng sẽ không diệt”.
[942] Khổ đế đang diệt cho người nào thì tập đế sẽ từng diệt cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
HAY LÀ TẬP ÐẾ TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ KHỔ ÐẾ ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với tất cả người đang sanh, người trong thời bình nhật vào sát na sanh của tâm, người trong cõi vô sắc vào sát na diệt của tâm đạo và tâm quả, với người ấy tập đế từng diệt nhưng khổ đế chẳng đang diệt cho người ấy. Còn đối với tất cả người đang tử biệt, người trong thời bình nhật vào sát na diệt của tâm thì với người ấy tập đế từng diệt và khổ đế cũng đang diệt”.
[943] Khổ đế đang diệt cho người nào thì đạo đế từng diệt cho người ấy phải chăng?
“Ðối với hạng không chứng ngộ đang tử biệt và trong thời bình nhật vào sát na diệt của tâm, với người ấy khổ đế đang diệt nhưng đạo đế chẳng từng diệt cho người ấy. Còn đối với bậc đã chứng ngộ đang tử biệt, và vào sát na diệt của tâm trong thời bình nhật, với người ấy khổ đế đang diệt và đạo đế cũng từng diệt”.
HAY LÀ ÐẠO ÐẾ TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ KHỔ ÐẾ ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đã chứng ngộ đang sanh và trong thời bình nhật vào sát na sanh của tâm, người ở cõi vô sắc vào sát na diệt của tâm đạo và tâm quả, với người ấy đạo đế từng diệt nhưng khổ đế chẳng phải đang diệt cho người ấy. Còn đối với người chứng ngộ đang tử biệt và trong thời bình nhật vào sát na diệt của tâm thì với người ấy đạo đế từng diệt và khổ đế cũng đang diệt”.
[944] Tập đế đang diệt cho người nào thì đạo đế từng diệt cho người ấy phải chăng?
“Ðối với người chưa chứng ngộ thì vào sát na diệt của tâm ái, với người ấy tập đế đang diệt nhưng đạo đế chẳng từng diệt cho người ấy. Còn đối với người đã chứng ngộ thì vào sát na diệt của tâm ái, với người ấy tập đế đang diệt và đạo đế cũng từng diệt”.
HAY LÀ ÐẠO ÐẾ TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ TẬP ÐẾ CŨNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đã chứng ngộ thì vào sát na sanh của tâm ái, vào cái tâm bất tương ưng ái đang diễn tiến, đối với bậc nhập thiền diệt, với người ấy đạo đế từng diệt nhưng tập đế chẳng đang diệt cho người ấy. Còn đối với bậc đã chứng ngộ thì vào sát na diệt của tâm ái, với người ấy đạo đế từng diệt và tập đế cũng đang diệt”.
[945] Khổ đế đang diệt ở cõi nào … trùng …
[946] Khổ đế đang diệt cho người nào ở cõi nào thì tập đế từng diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người cõi tịnh cư vào sát na diệt của tâm sanh, đối với người ấy đang tử biệt cõi vô tưởng, với người ấy ở cõi ấy khổ đế đang diệt mà tập đế chẳng từng diệt cho người ấy ở cõi ấy. Còn đối với hạng khác đang tử biệt cõi tứ uẩn, cõi ngũ uẩn và trong thời bình nhật vào sát na diệt của tâm thì với người ấy ở cõi ấy khổ đế đang diệt và tập đế cũng từng diệt”.
HAY LÀ TẬP ÐẾ TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ KHỔ ÐẾ ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang sanh cõi tứ uẩn ngũ uẩn và trong thời bình nhật vào sát na sanh của tâm, người trong cõi vô sắc vào sát na diệt của tâm đạo và tâm quả, với người ấy ở cõi ấy tập đế từng diệt nhưng khổ đế không đang diệt cho người ấy ở cõi ấy. Còn đối với người đang tử biệt cõi tứ uẩn, ngũ uẩn và trong thời bình nhật vào sát na diệt của tâm thì với người ấy ở cõi ấy tập đế từng diệt và khổ đế cũng đang diệt”.
[947] Khổ đế đang diệt cho người nào ở cõi nào thì đạo đế từng diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người cõi tịnh cư vào sát na diệt của tâm sanh, đối với người đối với người chưa chứng ngộ đang tử biệt của trong thời bình nhật vào sát na diệt của tâm, đối với người đang tử biệt cõi vô tưởng với người ấy ở cõi ấy khổ đế đang diệt nhưng đạo đế chẳng từng diệt cho người ấy ở cõi ấy. Còn đối người đã chứng ngộ đang tử biệt vào sát na diệt của tâm, thì với người ấy ở cõi ấy khổ đế đang diệt và đạo đế cũng từng diệt”.
HAY LÀ ÐẠO ÐẾ TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ KHỔ ÐẾ ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đã chứng ngộ đang sanh và trong thời bình nhật vào sát na sanh của tâm, người ở cõi vô sắc vào sát na diệt của tâm đạo và tâm quả, với người ấy ở cõi ấy đạo đế từng diệt nhưng khổ đế chẳng từng đang diệt cho người ấy ở cõi ấy. Còn đối với người đã chứng ngộ đang tử biệt và trong thời bình nhật vào sát na diệt của tâm, thì với người ấy ở cõi ấy đạo đế từng diệt và khổ đế cũng đang diệt”.
[948] Tập đế đang diệt cho người nào ở cõi nào thì đạo đế từng diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người chưa chứng ngộ thì vào sát na diệt của tâm ái, với người ấy ở cõi ấy tập đế đang diệt mà đạo đế chẳng từng diệt cho người ấy ở cõi ấy. Còn đối người đã chứng ngộ (bậc hữu học) thì vào sát na diệt của tâm ái, với người ấy ở cõi ấy tập đế đang diệt và đạo đế cũng từng diệt”.
HAY LÀ ÐẠO ÐẾ TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ TẬP ÐẾ ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Vào sát na sanh của tâm ái và vào cái tâm bất tương ưng ái đang diễn tiến đối với bậc đã chứng ngộ (hữu học), với người ấy ở cõi ấy đạo đế từng diệt mà tập đế chẳng đang diệt cho người ấy ở cõi ấy. Còn đối với bậc đã chứng ngộ mà vào sát na diệt của tâm ái thì với người ấy ở cõi ấy đạo đế từng diệt và tập đế cũng đang diệt”.
[949] Khổ đế không đang diệt cho người nào thì tập đế không từng diệt cho người ấy phải chăng?
“Từng diệt!”
HAY LÀ TẬP ÐẾ KHÔNG TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ KHỔ ÐẾ KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Không có!”
[950] Khổ đế không đang diệt cho người nào thì tập đế không từng diệt cho người ấy phải chăng?
“Vào sát na sanh của tâm trong thời bình nhật đối với người đã chứng ngộ đang sanh, vào sát na diệt của tâm đạo và tâm quả ở cõi vô sắc, với người ấy khổ đế không đang diệt nhưng đạo đế chẳng phải không từng diệt cho người ấy. Còn vào sát na sanh của tâm bình nhật đối với người chưa chứng ngộ đang sanh, thì với người ấy khổ đế không đang diệt và đạo đế cũng không từng diệt”.
HAY LÀ ÐẠO ÐẾ KHÔNG TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ KHỔ ÐẾ KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Vào sát na diệt của tâm bình nhật đối với người chưa chứng ngộ đang tử biệt, với người ấy đạo đế không từng diệt nhưng khổ đế chẳng phải không đang diệt cho người ấy. Còn vào sát na sanh của tâm bình nhật đối với người chưa chứng ngộ đang sanh, thì với người ấy đạo đế không từng diệt và khổ đế cũng không đang diệt”.
[951] Tập đế không đang diệt cho người nào thì đạo đế không từng diệt cho người ấy phải chăng?
“Vào sát na sanh của tâm ái, vào cái tâm bất tương ưng ái đang diễn tiến đối với bậc đã chứng ngộ (hữu học) và đối với bậc đang nhập thiền diệt, với người ấy tập đế không đang diệt nhưng đạo đế chẳng phải không từng diệt cho người ấy. Còn vào sát na sanh của tâm ái, vào cái tâm bất tương ưng ái đang diễn tiến đối với người chưa chứng ngộ, và đối với bậc vô tưởng, thì với người ấy tập đế không đang diệt và đạo đế cũng không từng diệt”.
HAY LÀ ÐẠO ÐẾ KHÔNG TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ TẬP ÐẾ KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Vào sát na diệt của tâm ái đối với người chưa chứng ngộ, với người ấy đạo đế không từng diệt nhưng tập đế chẳng phải không đang diệt cho người ấy. Còn vào sát na sanh của tâm ái vào cái tâm bất tương ưng ái đang diễn biến đối với bậc đã chứng ngộ (hữu học), đối với bậc vô tưởng, thì với người ấy đạo đế không từng diệt và tập đế cũng không đang diệt”.
[952] Khổ đế không đang diệt ở cõi nào … trùng …
[953] Khổ đế không đang diệt cho người nào ở cõi nào thì tập đế không từng diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Vào sát na sanh của tâm bình nhật đối với người đã chứng ngộ đang sanh cõi tứ uẩn- cõi ngũ uẩn,vào sát na diệt của tâm đạo và tâm quả ở cõi vô sắc, với người ấy ở cõi ấy khổ đế không đang diệt nhưng tập đế chẳng phải không từng diệt cho người ấy ở cõi ấy. Vào sát na sanh của tâm sanh đối với bậc tịnh cư, đối với người đang sanh cõi vô tưởng, thì với người ấy ở cõi ấy khổ đế không đang diệt và tập đế cũng không từng diệt”.
HAY LÀ TẬP ÐẾ KHÔNG TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO
THÌ KHỔ ÐẾ KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Vào sát na diệt của tâm hóa sanh đối với bậc tịnh cư, đối vớingười đang tử biệt cõi vô tưởng, với người ấy ở cõi ấy tập đế không từng diệt nhưng khổ đế chẳng phải không đang diệt cho người ấy ở cõi ấy. Vào sát na sanh của tâm hóa sanh đối với bậc tịnh cư, đối với người đang sanh cõi vô tưởng, thì với người ấy ở cõi ấy tập đế không từng diệt và khổ đế cũng không đang diệt”.
[954] Khổ đế không đang diệt cho người nào ở cõi nào thì đạo đế không từng diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Vào sát na sanh của tâm bình nhật đối với người đang sanh,vào sát na diệt của tâm đạo và tâm quả ở cõi vô sắc, với người ấy ở cõi ấy khổ đế không đang diệt nhưng đạo đế chẳng phải không từng diệt cho người ấy ở cõi ấy. Vào sát na sanh của tâm hóa sanh đối với bậc tịnh cư, vào sát na sanh của tâm bình nhật đối với người chưa chứng ngộ đang sanh, đối với người đang sanh cõi vô tưởng, với người ấy ở cõi ấy khổ đế không đang diệt và đạo đế cũng không từng diệt”.
HAY LÀ ÐẠO ÐẾ KHÔNG TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ KHỔ ÐẾ KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Vào sát na diệt của tâm hóa sanh đối với bậc tịnh cư, vào sát na diệt của tâm bình nhật đối với người chưa chứng ngộ đang tử biệt; đối với người đang tử biệt cõi vô tưởng, với người ấy ở cõi ấy đạo đế không từng diệt nhưng khổ đế chẳng phải không đang diệt cho người ấy ở cõi ấy; vào sát na sanh của tâm hóa sanh đối với bậc tịnh cư, vào sát na sanh của tâm bình nhật đối với người chưa chứng ngộ đang sanh, đối với người đang sanh cõi vô tưởng, với người ấy ở cõi ấy đạo đế không từng diệt và khổ đế cũng không đang diệt”.
[955] Tập đế không đang diệt cho người nào ở cõi nào thì đạo đế không từng diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Vào sát na sanh của tâm ái, vào cái tâm bất tương ái đang diễn tiến đối với bậc đã chứng ngộ, với người ấy ở cõi ấy tập đế đang diệt nhưng đạo đế chẳng phải không từng diệt cho người ấy ở cõi ấy”.
“Vào cái tâm thứ hai đang diễn tiến của bậc tịnh cư, vào sát na sanh của tâm ái vào cái tâm bất tương ưng ái đang diễn tiến đối với người chưa chứng ngộ, đối với người cõi vô tưởng, với người ấy ở cõi ấy tập đế không đang diệt và đạo đế cũng không từng diệt”.
HAY LÀ ÐẠO ÐẾ KHÔNG TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ TẬP ÐẾ KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Vào sát na diệt của tâm ái đối với người chưa chứng ngộ, với người ấy ở cõi ấy đạo đế không từng diệt nhưng tập đế chẳng phải không đang diệt cho người ấy ở cõi ấy. Vào cái tâm thứ hai đang diễn tiến đối với bậc tịnh cư, vào sát na sanh của tâm ái vào cái tâm bất tương ưng ái đang diễn tiến đối với người chưa chứng ngộ, đối với người cõi vô tưởng, với người ấy ở cõi ấy đạo đế không từng diệt và tập đế cũng không đang diệt”.
[956] Khổ đế đang diệt cho người nào thì tập đế sẽ diệt cho người ấy phải chăng?
“Vào sát na diệt của tâm chí thượng đạo, vào sát na diệt của tâm bậc A La Hán, vào sát na diệt của tâm mà tiếp cận tâm sẽ đắc chí thượng đạo, với người ấy khổ đế đang diệt nhưng tập đế sẽ chẳng diệt cho người ấy; còn vào sát na diệt của tâm bình nhật đối với hạng khác đang tử biệt, thì với người ấy khổ đế đang diệt và tập đế cũng sẽ diệt”.
HAY LÀ TẬP ÐẾ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ KHỔ ÐẾ ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Vào sát na sanh của tâm bình nhật đối với tất cả người đang sanh, vào sát na diệt của tâm đạo và tâm quả ở cõi vô sắc(1), với người ấy tập đế sẽ diệt nhưng khổ đế chẳng đang diệt cho người ấy; còn vào sát na diệt của tâm bình nhật đối với tất cả người đang tử biệt, với người ấy tập đế sẽ diệt và khổ đế cũng đang diệt”.
[957] Khổ đế đang diệt cho người nào thì đạo đế sẽ diệt cho người ấy phải chăng?
“Vào sát na diệt của tâm chí thượng đạo, vào sát na diệt của tâm bậc A La Hán, vào sát na diệt của tâm bình nhật đối với người đang tử biệt là hạng phàm phu mà sẽ không đắc đạo, với người ấy khổ đế đang diệt nhưng đạo đế chẳng phải sẽ diệt cho người ấy còn vào sát na diệt của tâm mà tiếp cận sẽ đắc chí thượng đạo, vào sát na diệt của tâm bình nhật đối với người đang tử biệt là những hạng mà sẽ đắc đạo, với người ấy khổ đế đang diệt và đạo đế cũng sẽ diệt”.
HAY LÀ ÐẠO ÐẾ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ KHỔ ÐẾ ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Vào sát na sanh của tâm chí thượng đạo, vào sát na sanh của tâm mà tiếp cận sẽ đắc chí thượng đạo, và sát na sanh của tâm bình nhật đối với người đang sanh là những hạng mà sẽ đắc đạo, vào sát na diệt của tâm đạo vào quả ở cõi vô sắc, với người ấy đạo đế sẽ diệt nhưng khổ đế chẳng đang diệt cho người ấy. Còn vào sát na diệt của tâm mà tiếp cận sẽ đắc chí thượng đạo, vào sát na diệt của tâm bình nhật đối với người đang tử biệt là những hạng mà sẽ đắc đạo, với người ấy đạo đế sẽ diệt và khổ đế cũng đang diệt”.
[958] Tập đế đang diệt cho người nào thì đạo đế sẽ diệt cho người ấy phải chăng?
“Vào sát na diệt của tâm ái với người mà sẽ không đắc đạo, với người ấy tập đế đang diệt nhưng đạo đế sẽ chẳng diệt cho người ấy. Vào sát na diệt của tâm ái đối với người mà sẽ đắc đạo, với người ấy tập đế đang diệt và đạo đế cũng sẽ diệt”.
HAY LÀ ÐẠO ÐẾ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ TẬP ÐẾ ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Vào sát na sanh của tâm chí thượng đạo, vào sát na sanh của tâm mà tiếp cận sẽ đắc chí thượng đạo, vào sát na sanh của tâm ái và cái tâm bất tương ưng ái đang diễn tiến đối với người mà sẽ đắc đạo, đối với bậc đang nhập thiền diệt, đối với bậc vô tưởng, với người ấy đạo đế sẽ diệt nhưng tập đế chẳng phải đang diệt cho người ấy. Vào sát na diệt của tâm ái đối với người mà sẽ đắc đạo, với người ấy đạo đế sẽ diệt và tập đế cũng đang diệt”.
[959] Khổ đế đang diệt ở cõi nào … trùng …
[960] Khổ đế đang diệt cho người nào ở cõi nào thì tập đế sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Vào sát na diệt của tâm chí thượng đạo, vào sát na diệt của tâm bậc A La Hán, vào sát na diệt của tâm mà tiếp cận sẽ đắc chí thượng đạo, người đang tử biệt cõi vô tưởng, với người ấy ở cõi ấy khổ đế đang diệt nhưng tập đế sẽ chẳng diệt cho người ấy ở cõi ấy. Vào sát na diệt của tâm bình nhật đối với người đang tử biệt cõi tứ uẩn cõi ngũ uẩn hạng khác thì với người ấy ở cõi ấy khổ đế đang diệt và tập đế cũng sẽ diệt”.
HAY LÀ TẬP ÐẾ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ KHỔ ÐẾ ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Vào sát na sanh của tâm bình nhật đối với người đang sanh cõi tứ uẩn cõi ngũ uẩn, vào sát na diệt của tâm đạo quả ở cõi vô sắc, với người ấy ở cõi ấy tập đế sẽ diệt nhưng khổ đế chẳng phải đang diệt cho người ấy ở cõi ấy. Vào sát na diệt của tâm bình nhật đối với người đang tử biệt cõi tứ uẩn cõi ngũ uẩn, thì với người ấy ở cõi ấy tập đế sẽ diệt và khổ đế cũng đang diệt”.
[961] Khổ đế đang diệt cho người nào ở cõi nào thì đạo đế sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Vào sát na diệt của tâm chí thượng đạo, vào sát na diệt của tâm bậc A La Hán, vào sát na diệt của tâm bình nhật đối với người đang tử là hạng phàm phu mà sẽ không đắc đạo, đối với người ấy khổ đế đang diệt nhưng đạo đế sẽ chẳng diệt cho người ấy ở cõi ấy. Vào sát na diệt của tâm đạo ở cõi ngũ uẩn, vào sát na diệt của tâm mà tiếp cận sẽ đắc chí thượng đạo vào sát na diệt của tâm bình nhật đối với người đang tử biệt là hạng người mà sẽ đắc đạo, thì với người ấy ở cõi ấy khổ đế đang diệt và đạo đế cũng sẽ diệt”.
HAY LÀ ÐẠO ÐẾ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ KHỔ ÐẾ ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Vào sát na sanh của tâm chí thượng đạo vào sát na sanh của tâm mà tiếp cận sẽ đắc chí thượng đạo vào sát na sanh của tâm bình nhật đối với người đang sanh là người mà sẽ đắc đạo vào sát nơi người ấy diệt của tâm đạo và tâm quả quả ở cõi vô sắc, với người ấy ở cõi ấy đạo đế sẽ diệt nhưng khổ đế chẳng phải đang diệt cho người ấy ở cõi ấy vào sát na diệt của tâm đạo ở cõi ngũ uẩn, vào sát na diệt của tâm mà tiếp cận sẽ đắc chí thượng đạo, vào sát na diệt của tâm bình nhật đối với người đang tử biệt là người mà sẽ đắc đạo thì với người ấy ở cõi ấy đạo đế sẽ diệt và khổ đế cũng đang diệt”.
[962] Tập đế đang diệt cho người nào ở cõi nào thì đạo đế sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người cõi khổ, và vào sát na diệt của tâm ái đối với người là hạng phàm phu mà sẽ không đắc đạo, với người ấy ở cõi ấy tập đế đang diệt nhưng đạo đế sẽ chẳng diệt cho người ấy ở cõi ấy. Vào sát na diệt của tâm ái đối với người mà sẽ đắc đạo, thì với người ấy ở cõi ấy tập đế đang diệt và đạo đế cũng sẽ diệt”.
HAY LÀ ÐẠO ÐẾ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ TẬP ÐẾ ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Vào sát na sanh của tâm chí thượng đạo, vào sát na sanh của tâm mà sẽ tiếp cận sẽ đắc chí thượng đạo vào sát na sanh của tâm ái và vào cái tâm bất tương ưng ái đang diễn tiến đối với người là hạng mà sẽ đắc đạo, với người ấy ở cõi ấy đạo đế sẽ diệt nhưng tập đế chẳng phải đang diệt cho người ấy ở cõi ấy. Vào sát na diệt của tâm ái đối với người mà sẽ đắc đạo, với người ấy ở cõi ấy đạo đế sẽ diệt và tập đế cũng đang diệt”.
[963] Khổ đế không đang diệt cho người nào thì tập đế sẽ không diệt cho người ấy phải chăng?
“Vào sát na sanh của tâm bình nhật đối với tất cả người đang sanh vào sát na diệt của tâm đạo quả ở cõi vô sắc, với người ấy khổ đế không đang diệt nhưng tập đế chẳng phãi sẽ không diệt cho người ấy. Vào sát na sanh của tâm chí thượng đạo, vào sát na sanh của tâm bậc A La Hán, vào sát na sanh của tâm mà tiếp cận sẽ đắc chí thượng đạo, vào sát na diệt của đạo quả ở cõi vô sắc ái với người ấy khổ đế không đang diệt và tập đế cũng sẽ không diệt”.
HAY LÀ TẬP ÐẾ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ KHỔ ÐẾ KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Vào sát na diệt của tâm chí thượng đạo, vào sát na diệt của tâm bậc A La Hán, vào sát na diệt của tâm mà tiếp cận sẽ đắc chí thượng đạo, với người ấy tập đế sẽ không diệt nhưng khổ đế chẳng phải không đang diệt cho người ấy. Vào sát na sanh của tâm chí thượng đạo, vào sát na sanh của tâm bậc A La Hán, vào sát na sanh của tâm mà tiếp cận sẽ đắc chí thượng đạo, vào sát na diệt của tâm đạo quả ở cõi vô sắc, với người ấy tập đế sẽ không diệt và khổ đế cũng không đang diệt”.
[964] Khổ đế không đang diệt cho người nào thì đạo đế sẽ không diệt cho người ấy phải chăng?
“Vào sát na sanh của tâm chí thượng đạo, vào sát na sanh của tâm mà tiếp cận sẽ đắc chí thượng đạo vào sát na sanh của tâm bình nhật đối với người đang sanh là hạng mà sẽ đắc đạo, vào sát na diệt của tâm đạo quả ở cõi vô sắc, với người ấy khổ đế không đang diệt nhưng đạo đế chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy. Còn vào sát na sanh của tâm, bậc A La hán, vào sát nơi người ấy sanh của tâm bình nhật đối với người đang sanh là hạng phàm phu sẽ đắc đạo vào sát na diệt của tâm đạo quả ở cõi vô sắc, thì với người ấy khổ đế không đang diệt và đạo đế cũng sẽ không diệt”.
HAY LÀ ÐẠO ÐẾ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ KHỔ ÐẾ KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Vào sát na diệt của tâm chí thượng đạo, vào sát na diệt của tâm bậc A La Hán, vào sát na diệt của tâm bình nhật đối với người đang tử biệt là hạng phàm phu mà sẽ không đắc đạo, với người ấy đạo đế sẽ không diệt nhưng khổ đế chẳng phải không đang diệt cho người ấy. Còn vào sát na sanh của tâm bậc A La Hán, vào sát na sanh của tâm bình nhật đối với người đang sanh là hạng phàm phu mà sẽ không đắc đạo, vào sát na diệt của tâm đạo quả ở cõi vô sắc, thì với người ấy đạo đế sẽ không diệt và khổ đế cũng không đang diệt”.
[965] Tập đế không đang diệt cho người nào thì đạo đế sẽ không diệt cho người ấy phải chăng?
“Vào sát na sanh của tâm chí thượng đạo, vào sát na sanh của tâm mà tiếp cận sẽ đắc chí thượng đạo, vào sát na sanh của tâm ái và vào cái tâm bất tương ưng ái đang diễn tiến đối với người là hạng mà sẽ đắc đạo, đối với bậc đang nhập thiền diệt, đối với bậc vô tưởng, với người ấy tập đế không đang diệt nhưng đạo đế chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy. Vào sát na diệt của tâm chí thượng đạo, đối với bậc A La Hán, vào sát na sanh của tâm ái vào cái tâm bất tương ứng ái đang diễn tiến đối với hạng phàm phu mà sẽ không đắc đạo, đối với bậc đang nhập thiền diệt, đối với bậc vô tưởng, thì với người ấy tập đế không đang diệt và đạo đế cũng sẽ không diệt”.
HAY LÀ ÐẠO ÐẾ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ TẬP ÐẾ KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Vào sát na diệt của tâm ái đối với người là hạng phàm phu mà sẽ không đắc đạo, với người ấy đạo đế sẽ không diệt nhưng tập đế chẳng phải không đang diệt cho người ấy. Vào sát na diệt của tâm chí thượng đạo, luôn cả đối với bậc A La Hán, vào sát na sanh của tâm ái và vào cái tâm bất tương ưng ái đang diễn tiến đối với người là hạng phàm phu sẽ không đắc đạo, đối với bậc đang nhập thiền diệt, đối với bậc vô tưởng, thì với người ấy đạo đế sẽ không diệt và tập đế cũng không đang diệt”.
[966] Khổ đế không đang diệt ở cõi nào … trùng …
[967] Khổ đế không đang diệt cho người nào ở cõi nào thì tập đế sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Vào sát na sanh của tâm bình nhật đối với người đang sanh cõi tứ uẩn cõi ngũ uẩn, vào sát na diệt của tâm đạo quả ở cõi vô sắc, với người ấy ở cõi ấy khổ đế không đang diệt nhưng tập đế chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy. Còn vào sát na sanh của tâm chí thượng đạo, vào sát na sanh của tâm bậc A La Hán, vào sát na sanh của tâm và tiếp cận sẽ đắc chí thượng đạo, vào sát na diệt của đạo quả ở cõi vô sắc, đối với người đang sanh ở cõi vô tưởng, với người ấy ở cõi ấy khổ đế không đang diệt và tập đế cũng sẽ không diệt”.
HAY LÀ TẬP ÐẾ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ KHỔ ÐẾ KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Vào sát na diệt của tâm chí thượng đạo, vào sát na diệt của tâm bậc A La Hán, vào sát na diệt của tâm mà tiếp cận sẽ đắc chí thượng đạo, đối với người vô tưởng đang tử biệt, với người ấy ở cõi ấy tập đế sẽ không diệt nhưng khổ đế chẳng phải không đang diệt cho người ấy ở cõi ấy. Còn vào sát na sanh của tâm chí thượng đạo, vào sát na sanh của tâm bậc A La Hán, vào sát na sanh của tâm mà tiếp cận sẽ đắc chí thượng đạo, vào sát na diệt của tâm đạo quả ở cõi vô sắc, đối với người đang sanh cõi vô tưởng, thì với người ấy ở cõi ấy tập đế sẽ không diệt và khổ đế cũng không đang diệt”.
[968] Khổ đế không đang diệt cho người nào ở cõi nào thì đạo đế sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Vào sát na sanh của tâm chí thượng đạo ở cõi ngũ uẩn, vào sát na sanh của tâm mà tiếp cận sẽ đắc chí thượng đạo vào sát na sanh của tâm bình nhật đối với người đang sanh là hạng mà sẽ đắc đạo, vào sát na diệt của tâm đạo quả ở cõi vô sắc, với người ấy ở cõi ấy khổ đế không đang diệt nhưng đạo đế chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy. Còn vào sát na sanh của tâm bậc A La Hán, vào sát na sanh của tâm bình nhật đối với người đang sanh là hạng phàm phu mà sẽ không đắc đạo vào sát na diệt của tâm đạo quả ở cõi vô sắc, đối với người đang sanh cõi khổ – cõi vô tưởng, thì với người ấy ở cõi ấy khổ đế không đang diệt và đạo đế cũng sẽ không diệt”.
HAY LÀ ÐẠO ÐẾ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ KHỔ ÐẾ KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Vào sát na diệt của tâm chí thượng đạo, vào sát na diệt của tâm bậc A La Hán, vào sát na diệt của tâm bình nhật đối với người đang tử biệt là hạng phàm phu mà sẽ không đắc đạo, đối với người đang tử biệt cõi khổ- cõi vô tưởng, với người ấy ở cõi ấy đạo đế sẽ không diệt nhưng khổ đế chẳng phải không đang diệt cho người ấy ở cõi ấy. Vào sát na sanh của tâm bậc A La Hán, vào sát na sanh của tâm bình nhật đối với người đang sanh là hạng phàm phu mà sẽ không đắc đạo, vào sát na diệt của tâm đạo quả ở cõi vô sắc, đối với người đang sanh cõi khổ – cõi vô tưởng, thì với người ấy ở cõi ấy đạo đế sẽ không diệt và khổ đế cũng không đang diệt”.
[969] Tập đế không đang diệt cho người nào ở cõi nào thì đạo đế sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Vào sát na sanh của tâm chí thượng đạo, vào sát na sanh của tâm mà tiếp cận sẽ đắc chí thượng đạo, vào sát na sanh của tâm ái và vào cái tâm bất tương ưng ái đang diễn tiến đối với người là hạng mà sẽ đắc đạo, với người ấy ở cõi ấy tập đế không đang diệt nhưng đạo đế chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy. Vào sát na diệt của tâm chí thượng đạo, luôn đối với các bậc A La Hán, vào sát na sanh của tâm ái và vào cái tâm bất tương ưng ái đang diễn tiến đối với người là hạng phàm phu mà sẽ không đắc đạo, đối với bậc vô tưởng, thì với người ấy ở cõi ấy tập đế không đang diệt và đạo đế cũng sẽ không diệt”.
HAY LÀ ÐẠO ÐẾ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ TẬP ÐẾ KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Vào sát na diệt của tâm ái đối với người khổ và đối với người là hạng phàm phu mà sẽ không đắc đạo, với người ấy ở cõi ấy đạo đế sẽ không diệt nhưng tập đế chẳng phải không đang diệt cho người ấy ở cõi ấy. Vào sát na diệt của tâm chí thượng đạo, luôn đối với bậc A La Hán vào sát na sanh của tâm ái và vào cái tâm bất tương ưng ái đang diễn tiến đối với người là hạng phàm phu mà sẽ đắc đạo, đối với bậc vô tưởng, thì với người ấy ở cõi ấy đạo đế sẽ không diệt và tập đế cũng không đang diệt”.
[970] Khổ đế từng diệt cho người nào thì tập đế sẽ diệt cho người ấy phải chăng?
“Ðối với bậc chí thượng đạo, đối với bậc A La Hán đối với bậc mà tiếp cận tâm sẽ đắc chí thượng đạo, với người ấy khổ đế từng diệt nhưng tập đế sẽ chẳng diệt cho người ấy. Còn đối với các hạng khác thì khổ đế từng diệt và tập đế cũng sẽ diệt”.
HAY LÀ TẬP ÐẾ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO … trùng…
“Phải rồi!”
[971] Khổ đế từng diệt cho người nào thì đạo đế sẽ diệt cho người ấy phải chăng?
“Vào sát na diệt bậc chí thượng đạo, luôn cả bậc A La Hán, và hạng phàm phu mà sẽ không đắc đạo, đối với người ấy khổ đế từng diệt nhưng đạo đế sẽ chẳng diệt cho người ấy. Còn vào sát na sanh của tâm chí thượng đạo, đối với các bậc mà tiếp cận tâm sẽ đắc chí thượng đạo, và hạng người mà sẽ đắc đạo, với người ấy khổ đế từng diệt và đạo đế cũng sẽ diệt”.
HAY LÀ ÐẠO ÐẾ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO … trùng …
“Phải rồi!”
[972] Tập đế từng diệt cho người nào thì đạo đế sẽ diệt cho người ấy phải chăng?
“Vào sát na diệt của tâm chí thượng đạo, luôn đối với bậc A La Hán, và hạng phàm phu mà sẽ không đắc đạo, đối với người ấy tập đế từng diệt nhưng đạo đế sẽ chẳng diệt cho người ấy. Còn vào sát na sanh của tâm chí thượng đạo, đối với bậc mà tiếp cận tâm sẽ đắc chí thượng đạo, và những hạng mà sẽ đắc đạo, thì với người ấy tập đế từng diệt và đạo đế cũng sẽ diệt”.
HAY LÀ ÐẠO ÐẾ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO … trùng …
“Phải rồi!”
[973] Khổ đế từng diệt ở cõi nào … trùng …
[974] Khổ đế từng diệt cho người nào ở cõi nào thì tập đế sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với bậc chí thượng đạo, đối với bậc A La Hán, đối với người mà tiếp cận tâm sẽ đắc chí thượng đạo, đối với bậc vô tưởng, với người ấy ở cõi ấy khổ đế từng diệt nhưng tập đế sẽ chẳng diệt cho người ấy ở cõi ấy. Ðối với người cõi tứ uẩn-ngũ uẩn hạng khác thì với người ấy ở cõi ấy khổ đế từng diệt và tập đế cũng sẽ diệt”.
HAY LÀ TẬP ÐẾ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ KHỔ ÐẾ TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang sanh cõi tịnh cư, với người ấy ở cõi ấy tập đế sẽ diệt nhưng khổ đế chẳng từng diệt cho người ấy ở cõi ấy. Còn đối với người ở cõi tứ uẩn-ngũ uẩn hạng khác thì với người ấy ở cõi ấy tập đế sẽ diệt và khổ đế cũng từng diệt”.
[975] Khổ đế từng diệt cho người nào ở cõi nào thì đạo đế sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Vào sát na diệt của tâm chí thượng đạo, luôn đối với bậc A La Hán, đối với hạng phàm phu mà sẽ không đắc đạo, đối với người cõi khổ, đối với người cõi vô tưởng, với người ấy ở cõi ấy khổ đế từng diệt nhưng đạo đế sẽ chẳng diệt cho người ấy ở cõi ấy. Vào sát na sanh của tâm chí thượng đạo, bậc mà tiếp cận tâm sẽ đắc chí thượng đạo và hạng người mà sẽ đắc đạo, thì với người ấy ở cõi ấy khổ đế từng diệt và đạo đế cũng sẽ diệt”.
HAY LÀ ÐẠO ÐẾ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ KHỔ ÐẾ TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người đang sanh cõi tịnh cư, với người ấy ở cõi ấy đạo đế sẽ diệt nhưng khổ đế chẳng từng diệt cho người ấy ở cõi ấy. Còn vào sát na sanh của tâm chí thượng đạo, đối với bậc mà tiếp cận tâm sẽ đắc chí thượng đạo và những hạng mà sẽ đắc đạo, thì với người ấy ở cõi ấy đạo đế sẽ diệt và khổ đế cũng từng diệt”.
[976] Tập đế từng diệt cho người nào ở cõi nào thì đạo đế sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Vào sát na diệt của tâm chí thượng đạo, luôn đối với bậc A La Hán, đối với hạng phàm phu mà sẽ không đắc đạo, đối với người cõi khổ, với người ấy ở cõi ấy tập đế từng diệt nhưng đạo đế sẽ chẳng diệt cho người ấy ở cõi ấy. Vào sát na sanh của tâm chí thượng đạo, đối với bậc mà tiếp cận tâm sẽ đắc chí thượng đạo, và những hạng người mà sẽ đắc đạo, thì với người ấy ở cõi ấy tập đế từng diệt và đạo đế cũng sẽ diệt”.
HAY LÀ ÐẠO ÐẾ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ TẬP ÐẾ TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Vào cái tâm thứ hai đang diễn tiến của bậc tịnh cư, với người ấy ở cõi ấy đạo đế sẽ diệt nhưng tập đế chẳng từng diệt cho người ấy ở cõi ấy, còn vào sát na sanh của tâm chí thượng đạo, đối với bậc mà tiếp cận tâm sẽ đắc chí thượng đạo, và hạng người mà sẽ đắc đạo thì với người ấy ở cõi ấy đạo đế sẽ diệt và tập đế cũng từng diệt”.
[977] Khổ đế không từng diệt cho người nào thì tập đế sẽ không diệt cho người ấy phải chăng?
“Không có!”
HAY LÀ TẬP ÐẾ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ KHỔ ÐẾ KHÔNG TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Từng diệt!”
[978] Khổ đế không từng diệt cho người nào thì đạo đế sẽ không diệt cho người ấy phải chăng?
“Không có!”
HAY LÀ ÐẠO ÐẾ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ KHỔ ÐẾ KHÔNG TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Từng diệt!”
[979] Tập đế không từng diệt cho người nào thì đạo đế sẽ không diệt cho người ấy phải chăng?
“Không có!”
HAY LÀ ÐẠO ÐẾ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ TẬP ÐẾ KHÔNG TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Từng diệt!”
[980] Khổ đế không từng diệt ở cõi nào … trùng …
[981] Khổ đế không từng diệt cho người nào ở cõi nào thì tập đế sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Sẽ diệt!”
HAY LÀ TẬP ÐẾ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ KHỔ ÐẾ KHÔNG TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Từng diệt!”
[982] Khổ đế không từng diệt cho người nào ở cõi nào thì đạo đế sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Sẽ diệt!”
HAY LÀ ÐẠO ÐẾ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ KHỔ ÐẾ KHÔNG TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Từng diệt!”
[983] Tập đế không từng diệt cho người nào ở cõi nào thì đạo đế sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Vào cái tâm thứ hai đang diễn tiến của bậc tịnh cư, với người ấy ở cõi ấy tập đế không từng diệt nhưng đạo đế chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy, còn đối với bậc vô tưởng, thì với người ấy ở cõi ấy tập đế không từng diệt và đạo đế cũng sẽ không diệt”.
HAY LÀ ÐẠO ÐẾ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ TẬP ÐẾ KHÔNG TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Vào sát na diệt của tâm chí thượng đạo, luôn đối với bậc A La Hán, đối với hạng phàm phu mà sẽ không đắc đạo, đối với người cõi khổ, người ấy ở cõi ấy đạo đế sẽ không diệt nhưng tập đế chẳng phải không từng diệt cho người ấy ở cõi ấy, còn đối với bậc vô tưởng thì với người ấy ở cõi ấy đạo đế sẽ không diệt và tập đế không từng diệt”.
DỨT PHẦN DIỆT
[984] Khổ đế đang sanh cho người nào thì tập đế đang diệt cho người ấy phải chăng?
“Không phải!”
HAY LÀ TẬP ÐẾ ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ KHỔ ÐẾ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Không phải!”
KHỔ ÐẾ ÐANG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ ÐẠO ÐẾ ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Không phải!”
HAY LÀ ÐẠO ÐẾ ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ KHỔ ÐẾ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Không phải!”
TẬP ÐẾ ÐANG SANH CHO NGƯỜI NÀO THÌ ÐẠO ÐẾ ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Không phải!”
HAY LÀ ÐẠO ÐẾ ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ TẬP ÐẾ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Không phải!”
KHỔ ÐẾ ÐANG SANH Ở CÕI NÀO THÌ TẬP ÐẾ ÐANG DIỆT Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ở cõi vô tưởng, cõi ấy khổ đế đang sanh nhưng tập đế chẳng phải đang diệt ở cõi ấy … Về phần cõi (Yatthakaṃ) trong phần SANH và DIỆT phần DIỆT, và phần SANH DIỆT cũng giống nhau có sự sai khác”.
KHỔ ÐẾ ÐANG SANH CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ TẬP ÐẾ ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
Về phần NGƯỜI (Yassakaṃ) và phần NGƯỜI CÕI (Yassayatthakaṃ) cũng giống nhau.
[985] Khổ đế không đang sanh cho người nào thì tập đế đang diệt cho người ấy phải chăng?
“Vào sát na diệt của tâm ái, với người ấy khổ đế không đang sanh nhưng tập đế chẳng phải không đang diệt cho người ấy, vào sát na diệt của tâm bất tương ưng ái thời bình nhật đối với tất cả người đang tử, vào sát na sanh của tâm đạo quả ở cõi vô sắc, với người ấy khổ đế không đang sanh và tập đế cũng không đang diệt”.
HAY LÀ TẬP ÐẾ KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ KHỔ ÐẾ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Vào sát na sanh của tâm bình nhật đối với tất cả người đang sanh, với người ấy tập đế không đang diệt nhưng khổ đế chẳng phải không đang sanh cho người ấy, vào sát na diệt của tâm bất tương ưng ái thời bình nhật đối với tất cả người đang tử, vào sát na sanh của tâm đạo quả ở cõi vô sắc, với người ấy tập đế không đang diệt và khổ đế cũng không đang sanh”.
[986] Khổ đế không đang sanh cho người nào thì đạo đế không đang diệt cho người ấy phải chăng?
“Vào sát na diệt của tâm đạo, với người ấy khổ đế không đang sanh nhưng đạo đế chẳng phải không đang diệt cho người ấy. Vào sát na diệt của tâm bất tương ưng đạo thời bình nhật đối với tất cả người đang tử biệt, vào sát na sanh của tâm đạo quả ở cõi vô sắc, thì với người ấy khổ đế không đang sanh và đạo đế cũng không đang diệt”.
HAY LÀ ÐẠO ÐẾ KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ KHỔ ÐẾ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Vào sát na sanh của tâm bình nhật đối với tất cả người đang sanh, với người ấy đạo đế không đang diệt nhưng khổ đế chẳng phải không đang sanh cho người ấy, vào sát na diệt của tâm bất tương ưng đạo thời bình nhật đối với tất cả người đang tử biệt, vào sát na sanh của tâm đạo quả ở cõi vô sắc, với người ấy đạo đế không đang diệt và khổ đế cũng không đang sanh”.
[987] Tập đế không đang sanh cho người nào thì đạo đế không đang diệt cho người ấy phải chăng?
“Vào sát na diệt của tâm đạo, với người ấy tập đế không đang sanh nhưng đạo đế chẳng phải không đang diệt cho người ấy; còn vào sát na sanh của tâm bất tương ưng ái, vào sát na diệt của tâm bất tương ưng đạo, và đối với bậc đang nhập thiền diệt, đối với bậc vô tưởng, với người ấy tập đế không đang sanh và đạo đế cũng không đang diệt”.
HAY LÀ ÐẠO ÐẾ KHÔNG ÐANG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ TẬP ÐẾ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Vào sát na sanh của tâm ái, với người ấy đạo đế không đang diệt nhưng tập đế chẳng phải không đang sanh cho người ấy, vào sát na sanh của tâm bất tương ưng ái vào sát na diệt của tâm bất tương ưng đạo, và đối với bậc đang nhập thiền diệt, đối với bậc vô tưởng, với người ấy đạo đế không đang diệt và tập đế cũng không đang sanh”.
[988] Khổ đế không đang sanh ở cõi nào … trùng …
[989] Khổ đế không đang sanh cho người nào ở cõi nào … trùng …
Về phần NGƯỜI (Yassakaṃ) và phần NGƯỜI CÕI (Yassayatthakaṃ) cũng giống nhau; nhưng trong phần NGƯỜI CÕI không nên lập luận câu rằng: “Bậc đang nhập thiền diệt”.
[990] Khổ đế từng sanh cho người nào thì tập đế từng diệt với người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
HAY LÀ TẬP ÐẾ TỪNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO … trùng…
“Phải rồi!”
Những câu hỏi thuộc quá khứ đã được phân tích trong phần sanh (Uppāda-vāra) như thế nào thì trong phần sanh diệt của câu xuôi lẫn câu ngược cũng cần được phân tích như vậy.
[991] Khổ đế sẽ sanh cho người nào thì tập đế sẽ diệt cho người ấy phải chăng?
“Ðối với bậc chí thượng đạo, bậc A La Hán, và bậc tiếp cận tâm mà sẽ đắc chí thượng đạo, với người ấy khổ đế sẽ sanh nhưng tập đế chẳng phải sẽ diệt cho người ấy, còn đối với các hạng khác thì với người ấy khổ đế sẽ sanh và tập đế cũng sẽ diệt”.
HAY LÀ TẬP ÐẾ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO … trùng…
“Phải rồi!”
[992] Khổ đế sẽ sanh cho người nào thì đạo đế sẽ diệt cho người ấy phải chăng?
“Vào sát na diệt của tâm chí thượng đạo, đối với bậc A La Hán, đối với hạng phàm phu mà sẽ không đắc đạo, với người ấy khổ đế sẽ sanh nhưng đạo đế chẳng phải sẽ diệt cho người ấy. Còn vào sát na sanh của tâm chí thượng đạo, Bậc tiếp cận tâm mà sẽ đắc chí thượng đạo, và hạng người mà sẽ đắc đạo, với người ấy khổ đế sẽ sanh và đạo đế cũng sẽ diệt”.
HAY LÀ ÐẠO ÐẾ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO … trùng…
“Phải rồi!”
[993] Tập đế sẽ sanh cho người nào thì đạo đế sẽ diệt cho người ấy phải chăng?
“Hạng phàm phu mà sẽ không đắc đạo, với người ấy tập đế sẽ sanh nhưng đạo đế chẳng phải sẽ diệt cho người ấy. Còn đối với người mà sẽ đắc đạo thì với người ấy tập đế sẽ sanh và đạo đế cũng sẽ diệt”.
HAY LÀ ÐẠO ÐẾ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ TẬP ÐẾ SẼ SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Vào sát na sanh của tâm chí thượng đạo, bậc tiếp cận tâm mà sẽ đắc chí thượng đạo, với người ấy đạo đế sẽ diệt nhưng tập đế chẳng phải sẽ sanh cho người ấy, Còn bậc sẽ đắc đạo thì với người ấy đạo đế sẽ diệt và tập đế cũng sẽ sanh”.
[994] Khổ đế sẽ sanh ở cõi nào … trùng …
[995] Khổ đế sẽ sanh cho người nào ở cõi nào thì tập đế sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với bậc chí thượng đạo, bậc A La Hán, bậc tiếp cận tâm mà sẽ đắc chí thượng đạo, bậc vô tưởng, với người ấy ở cõi ấy khổ đế sẽ sanh nhưng tập đế chẳng phải sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy, Ðối với người cõi tứ uẩn, ngũ uẩn, hạng khác thì với người ấy ở cõi ấy khổ đế sẽ sanh và tập đế cũng sẽ diệt”.
Phần NGƯỜI (Yassakaṃ) và phần NGƯỜI CÕI (Yassayatthakaṃ) cũng giống nhau.
[996] Khổ đế sẽ không sanh cho người nào thì tập đế sẽ không diệt cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
HAY LÀ TẬP ÐẾ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ KHỔ ÐẾ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với bậc chí thượng đạo, bậc A La Hán, bậc tiếp cận tâm mà sẽ đắc chí thượng đạo, với người ấy tập đế sẽ không diệt nhưng khổ đế chẳng phải sẽ không sanh cho người ấy. Còn đối với bậc tối hậu tâm thì với người ấy tập đế sẽ không diệt và khổ đế cũng sẽ không sanh”.
[997] Khổ đế sẽ không sanh cho người nào thì đạo đế sẽ không diệt cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
HAY LÀ ÐẠO ÐẾ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ KHỔ ÐẾ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Vào sát na diệt của tâm chí thượng đạo, bậc A La Hánvà hạng phàm phu mà sẽ không đắc đạo, với người ấy đạo đế sẽ không diệt nhưng khổ đế chẳng phải sẽ không sanh cho người ấy. Còn đối với các bậc tối hậu tâm, thì với người ấy đạo đế sẽ không diệt và khổ đế cũng sẽ không sanh”.
[998] Tập đế sẽ không sanh cho người nào thì đạo đế sẽ không diệt cho người ấy phải chăng?
“Vào sát na sanh của tâm chí thượng đạo, bậc tiếp cận tâm mà sẽ đắc chí thượng đạo, với người ấy tập đế sẽ không sanh nhưng đạo đế chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy. Còn vào sát na diệt của tâm chí thượng đạo, bậc A La Hán, với người ấy tập đế sẽ không sanh và đạo đế cũng sẽ không diệt”.
HAY LÀ ÐẠO ÐẾ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ TẬP ÐẾ SẼ KHÔNG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với hạng phàm phu mà sẽ không đắc đạo, với người ấy đạo đế sẽ không diệt nhưng tập đế chẳng phải sẽ không sanh cho người ấy. Còn vào sát na diệt của tâm chí thượng đạo, bậc A La Hán, thì với người ấy đạo đế sẽ không diệt và tập đế cũng sẽ không sanh”.
[999] Khổ đế sẽ không sanh ở cõi nào … trùng …
[1000] Khổ đế sẽ không sanh cho người nào ở cõi nào …
Phần NGƯỜI (Yassakaṃ) và phần NGƯỜI CÕI (Yassayatthakaṃ) cũng giống nhau.
Tập đế, đạo đế … trùng … chỉ có điểm khác nhau là: vào sát na diệt của tâm chí thượng đạo, bậc A La Hán, bậc vô tưởng, thì với người ấy ở cõi ấy đạo đế sẽ không diệt và tập đế cũng sẽ không sanh.
[1001] Khổ đế sẽ đang sanh cho người nào thì tập đế từng diệt cho người ấy phải chăng?
“Phải rồi!”
HAY LÀ … trùng …
Các câu hỏi thuộc hiện tại quá khứ trong phần sanh và phần sanh diệt cũng giống nhau luôn về người, về cõi, về người cõi, câu xuôi cùng câu ngược, cần được phân tích cho minh bạch.
[1002] Khổ đế đang sanh cho người nào thì tập đế sẽ diệt cho người ấy phải chăng?
“Vào sát na sanh của tâm chí thượng đạo vào sát na sanh của tâm bậc A La Hán, vào sát na sanh của tâm là bậc tiếp cận sẽ đắc chí thượng đạo, với người ấy khổ đế đang sanh nhưng tập đế chẳng phải sẽ diệt cho người ấy. Vào sát na sanh của tâm bình nhật đối với người đang sanh hạng khác, thì với người ấy khổ đế đang sanh và tập đế cũng sẽ diệt”.
– HAY LÀ TẬP ÐẾ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ KHỔ ÐẾ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Vào sát na diệt của tâm bình nhật, đối với tất cả người đang tử biệt, vào sát na sanh của tâm đạo quả ở cõi vô sắc, với người ấy tập đế sẽ diệt nhưng khổ đế chẳng phải đang sanh cho người ấy. Vào sát na sanh của tâm bình nhật đối với người đang sanh, thì với người ấy tập đế sẽ diệt và khổ đế cũng đang sanh”.
[1003] Khổ đế đang sanh cho người nào thì đạo đế sẽ diệt cho người ấy phải chăng?
“Vào sát na sanh của tâm bậc A La Hán vào sát na sanh của tâm bình nhật đối với người đang sanh là hạng phàm phu mà sẽ không đắc đạo, với người ấy khổ đế đang sanh nhưng đạo đế chẳng phải sẽ diệt cho người ấy. Vào sát na sanh của tâm chí thượng đạo, vào sát nơi người ấy sanh của tâm mà tiếp cận sẽ đắc chí thượng đạo, vào sát na sanh của tâm bình nhật đối với người đang sanh là hạng mà sẽ đắc đạo, thì với người ấy khổ đế đang sanh và đạo đế cũng sẽ diệt”.
HAY LÀ ÐẠO ÐẾ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ KHỔ ÐẾ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Vào sát na diệt của tâm chí thượng đạo, vào sát na diệt của tâm mà tiếp cận sẽ đắc chí thượng đạo, vào sát na diệt của tâm bình nhật đối với người đang tử biệt là hạng mà sẽ đắc đạo, vào sát na sanh của tâm đạo quả ở cõi vô sắc, với người ấy đạo đế sẽ diệt nhưng khổ đế chẳng phải đang sanh cho người ấy. Còn vào sát na sanh của tâm chí thượng đạo, vào sát na sanh của tâm là bậc mà tiếp cận sẽ đắc chí thượng đạo, vào sát nơi người ấy sanh của tâm bình nhật đối với người đang sanh là hạng người mà sẽ đắc đạo, thì với người ấy đạo đế sẽ diệt và khổ đế cũng đang sanh”.
[1004] Tập đế đang sanh cho người nào thì đạo đế sẽ diệt cho người ấy phải chăng?
“Vào sát na sanh của tâm ái đối với người là hạng phàm phu sẽ không đắc đạo, với người ấy tập đế đang sanh nhưng đạo đế chẳng phải sẽ diệt cho người ấy. Còn vào sát na sanh của tâm ái đối với người mà sẽ đắc đạo, thì với người ấy tập đế đang sanh và đạo đế cũng sẽ diệt”.
HAY LÀ ÐẠO ÐẾ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ TẬP ÐẾ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Vào sát na sanh của tâm chí thượng đạo, vào sát na sanh của tâm mà tiếp cận sẽ đắc chí thượng đạo, vào sát na diệt của tâm ái vào cái tâm bất tương ưng ái đối với bậc mà sẽ đắc đạo, đối với bậc nhập thiền diệt, đối với bậc vô tưởng, với người ấy đạo đề sẽ diệt nhưng tập đế chẳng phải đang sanh cho người ấy; Còn vào sát na sanh của tâm ái đối với người mà sẽ đắc đạo, thì với người ấy đạo đế sẽ diệt và tập đế cũng đang sanh”.
[1005] Khổ đế đang sanh ở cõi nào … trùng …
[1006] Khổ đế đang sanh cho người nào ở cõi nào thì tập đế sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Vào sát na sanh của tâm chí thượng đạo, vào sát na sanh của tâm bậc A La Hán, vào sát na sanh của tâm tiếp cận mà sẽ đắc chí thượng đạo, đối với người đang sanh cõi vô tưởng, với người ấy ở cõi ấy khổ đế đang sanh nhưng tập đế chẳng phải sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy. Còn vào sát na sanh của tâm bình nhật đối với người đang sanh cõi tứ uẩn, ngũ uẩn hạng khác, thì với người ấy ở cõi ấy khổ đế đang sanh và tập đế cũng sẽ diệt”.
HAY LÀ TẬP ÐẾ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ KHỔ ÐẾ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Vào sát na diệt của tâm bình nhật đối với người đang tử biệt cõi tứ uẩn-ngũ uẩn, vào sát na sanh của tâm đạo quả ở cõi vô sắc, với người ấy ở cõi ấy tập đế sẽ diệt nhưng khổ đế chẳng phải đang sanh cho người ấy ở cõi ấy. Còn vào sát na sanh của tâm bình nhật đối với người đang sanh cõi tứ uẩn, ngũ uẩn, thì với người ấy ở cõi ấy tập đế sẽ diệt và khổ đế cũng đang sanh”.
[1007] Khổ đế đang sanh cho người nào ở cõi nào thì đạo đế sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Vào sát na sanh của tâm bậc A La Hán, vào sát na sanh của tâm bình nhật đối với người đang sanh là hạng phàm phu mà sẽ không đắc đạo, đối với người đang sanh cõi khổ cõi vô tưởng, với người ấy ở cõi ấy khổ đế đang sanh nhưng đạo đế chẳng phải sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy. Vào sát na sanh của tâm chí thượng đạo vào sát na sanh của tâm bình nhật, đối với người đang sanh là hạng mà sẽ đắc đạo, thì với người ấy ở cõi ấy khổ đế đang sanh và đạo đế cũng sẽ diệt”.
HAY LÀ ÐẠO ÐẾ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ KHỔ ÐẾ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Vào sát na diệt của tâm chí thượng đạo, vào sát na diệt của tâm mà tiếp cận sẽ đắc chí thượng đạo, vào sát na diệt của tâm thời bình nhật đối với người đang tử biệt là hạng mà sẽ đắc đạo, vào sát na sanh của tâm đạo quả ở cõi vô sắc, với người ấy ở cõi ấy đạo đế sẽ diệt nhưng khổ đế chẳng phải đang sanh cho người ấy ở cõi ấy. Vào sát na sanh của tâm chí thượng đạo vào sát na sanh của tâm mà tiếp cận sẽ đắc chí thượng đạo, vào sát nơi người ấy sanh của tâm bình nhật, đối với người đang sanh là hạng mà sẽ đắc đạo, thì với người ấy ở cõi ấy đạo đế sẽ diệt và khổ đế cũng đang sanh”.
[1008] Tập đế đang sanh cho người nào ở cõi nào thì đạo đế sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Ðối với người cõi khổ, vào sát na sanh của tâm ái đối với người là hạng phàm phu mà sẽ không đắc đạo, với người ấy ở cõi ấy tập đế đang sanh nhưng đạo đế chẳng phải sẽ diệt cho người ấy ở cõi ấy. Còn vào sát na sanh của tâm ái đối với người mà sẽ đắc đạo thì với người ấy ở cõi ấy tập đế đang sanh và đạo đế cũng sẽ diệt”.
HAY LÀ ÐẠO ÐẾ SẼ DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ TẬP ÐẾ ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Vào sát na sanh của tâm chí thượng đạo, vào sát na sanh của tâm mà tiếp cận sẽ đắc chí thượng đạo, vào sát na diệt của tâm ái và vào cái tâm bất tương ưng ái đang diễn tiến đối với người mà sẽ đắc đạo, với người ấy ở cõi ấy đạo đế sẽ diệt nhưng tập đế chẳng phải đang sanh cho người ấy ở cõi ấy. Còn vào sát na sanh của tâm ái đối với người mà sẽ đắc đạo, thì với người ấy ở cõi ấy đạo đế sẽ diệt và tập đế cũng đang sanh”.
[1009] Khổ đế không đang sanh cho người nào thì tập đế sẽ không diệt cho người ấy phải chăng?
“Vào sát na diệt của tâm bình nhật đối với tất cả người đang tử biệt, vào sát na sanh của tâm đạo quả ở cõi vô sắc, với người ấy khổ đế không đang sanh nhưng tập đế chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy. Vào sát na diệt của tâm chí thượng đạo, vào sát na diệt của tâm bậc A La Hán, vào sát na diệt của tâm mà mà tiếp cận sẽ đắc chí thượng đạo, vào sát na sanh của tâm đạo quả ở cõi vô sắc, thì với người ấy khổ đế không đang sanh và tập đế cũng sẽ không diệt”.
HAY LÀ TẬP ÐẾ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ KHỔ ÐẾ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Vào sát na sanh của tâm chí thượng đạo, vào sát na sanh của tâm bậc A La Hán, vào sát na sanh của tâm mà tiếp cận sẽ đắc chí thượng đạo, với người ấy tập đế sẽ không diệt nhưng khổ đế chẳng phải không đang sanh cho người ấy; Vào sát na diệt của tâm chí thượng đạo, vào sát na diệt của tâm bậc A La Hán, vào sát na diệt của tâm mà tiếp cận sẽ đắc chí thượng đạo, vào sát na sanh của tâm đạo quả ở cõi vô sắc thì với người ấy tập đế sẽ không diệt và khổ đế cũng không đang sanh”.
[1010] Khổ đế không đang sanh cho người nào thì đạo đế sẽ không diệt cho người ấy phải chăng?
“Vào sát na diệt của tâm đạo, vào sát na diệt của mà tiếp cận sẽ đắc chí thượng đạo, vào sát na diệt của tâm bình nhật đối với người đang tử biệt là hạng người mà sẽ đắc đạo, vào sát na sanh của tâm đạo quả ở cõi vô sắc, với người ấy khổ đế không đang sanh nhưng đạo đế chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy. Vào sát na diệt của tâm chí thượng đạo, vào sát na diệt của tâm bậc A La Hán, vào sát na diệt của tâm bình nhật đối với người đang tử biệt là hạng phàm phu mà sẽ không đắc đạo, vào sát na sanh của tâm đạo quả ở cõi vô sắc, thì với người ấy khổ đế không đang sanh và đạo đế cũng sẽ không diệt”.
HAY LÀ ÐẠO ÐẾ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ KHỔ ÐẾ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Vào sát na sanh của tâm bậc A La Hán, vào sát na sanh của tâm bình nhật đối với người đang sanh là hạng phàm phu mà sẽ không đắc đạo, với người ấy đạo đế sẽ không diệt nhưng khổ đế chẳng phải không đang sanh cho người ấy. Còn vào sát na diệt của tâm chí thượng đạo, vào sát na diệt của tâm bậc A La Hán, vào sát na diệt của tâm bình nhật đối với người đang tử biệt là hạng phàm phu mà sẽ không đắc đạo, vào sát na sanh của tâm đạo quả ở cõi vô sắc, thì với người ấy đạo đế sẽ không diệt và khổ đế cũng không đang sanh”.
[1011] Tập đế không đang sanh cho người nào thì đạo đế sẽ không diệt cho người ấy phải chăng?
“Vào sát na sanh của tâm chí thượng đạo, vào sát na sanh của tâm mà tiếp cận sẽ đắc chí thượng đạo, vào sát na diệt của tâm ái và vào cái tâm bất tương ưng ái đang diễn tiến đối với người là hạng người mà sẽ đắc đạo, đối với bậc đang nhập thiền diệt, đối với bậc vô tưởng, với người ấy tập đế không đang sanh nhưng đạo đế chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy. Còn vào sát na diệt của tâm chí thượng đạo, luôn với bậc A La Hán, vào sát na diệt của tâm ái và vào cái tâm bất tương ưng ái đối với người là hạng phàm phu mà sẽ không đắc đạo, đối với người đang nhập thiền diệt, đối với bậc vô tưởng thì với người ấy tập đế không đang sanh và đạo đế cũng sẽ không diệt”.
HAY LÀ ÐẠO ÐẾ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO THÌ TẬP ÐẾ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Vào sát na sanh của tâm ái đối với người là hạng phàm phu mà sẽ không đắc đạo, với người ấy đạo đế sẽ không diệt nhưng tập đế chẳng phải không đang sanh cho người ấy. Còn vào sát na diệt của tâm chí thượng đạo, luôn với bậc A La Hán, vào sát na diệt của tâm ái và vào cái tâm bất tương ưng ái đang diễn tiến đối với người là hạng phàm phu mà sẽ không đắc đạo, đối với bậc đang nhập thiền diệt, đối với bậc vô tưởng, thì với người ấy đạo đế sẽ không diệt và tập đế cũng không đang sanh”.
[1012] Khổ đế không đang sanh ở cõi nào … trùng …
[1013] Khổ đế không đang sanh cho người nào ở cõi nào thì tập đế sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Vào sát na diệt của tâm bình nhật đối với người đang tử biệt cõi tứ uẩn-ngũ uẩn, vào sát na sanh của tâm đạo quả ở cõi vô sắc, với người ấy ở cõi ấy khổ đế không đang sanh nhưng tập đế chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy. Vào sát na diệt của tâm chí thượng đạo và vào sát na diệt của tâm bậc A La Hán, vào sát na diệt của tâm mà tiếp cận sẽ đắc chí thượng đạo, vào sát na sanh của tâm đạo quả ở cõi vô sắc, đối với người đang tử biệt cõi vô tưởng, thì với người ấy ở cõi ấy khổ đế không đang sanh và tập đế cũng sẽ không diệt”.
HAY LÀ TẬP ÐẾ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ KHỔ ÐẾ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Vào sát na sanh của tâm chí thượng đạo, vào sát na sanh của tâm bậc A La Hán, vào sát na sanh của tâm mà tiếp cận sẽ đắc chí thượng đạo, đối với người đang sanh cõi vô tưởng, với người ấy ở cõi ấy tập đế sẽ không diệt nhưng khổ đế chẳng phải không đang sanh cho người ấy ở cõi ấy. Còn vào sát na diệt của tâm chí thượng đạo, vào sát na diệt của tâm bậc A La Hán, vào sát na diệt của tâm mà tiếp cận sẽ đắc chí thượng đạo, vào sát na sanh của tâm đạo quả ở cõi vô sắc, đối với người đang tử biệt cõi vô tưởng, thì với người ấy ở cõi ấy tập đế sẽ không diệt và khổ đế không đang sanh”.
[1014] Khổ đế không đang sanh cho người nào ở cõi nào thì đạo đế sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Vào sát na diệt của tâm đạo, vào sát na diệt của tâm mà tiếp cận sẽ đắc chí thượng đạo, vào sát na diệt của tâm bình nhật đối với người đang tử biệt là hạng mà sẽ đắc đạo, vào sát na sanh của tâm đạo quả ở cõi vô sắc, với người ấy ở cõi ấy khổ đế không đang sanh nhưng đạo đế chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy. Vào sát na diệt của tâm chí thượng đạo, vào sát na diệt của tâm bậc A La Hán, vào sát na diệt của tâm bình nhật đối với người đang tử biệt là hạng phàm phu mà sẽ không đắc đạo, vào sát na sanh của tâm đạo quả ở cõi vô sắc, đối với người đang tử biệt cõi khổ- cõi vô tưởng, thì với người ấy ở cõi ấy khổ đế không đang sanh và đạo đế cũng sẽ không diệt”.
HAY LÀ ÐẠO ÐẾ CŨNG SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ KHỔ ÐẾ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Vào sát na sanh của tâm bậc A La Hán, vào sát na sanh của tâm bình nhật đối với người đang sanh là hạng phàm phu mà sẽ không đắc đạo, đối với người đang sanh cõi khổ – cõi vô tưởng, với người ấy ở cõi ấy đạo đế sẽ không diệt nhưng khổ đế chẳng phải không đang sanh cho người ấy ở cõi ấy. Vào sát na diệt của tâm chí thượng đạo, vào sát na diệt của tâm bậc A La Hán, vào sát na diệt của tâm bình nhật đối với người đang tử biệt là hạng phàm phu mà sẽ không đắc đạo, vào sát na sanh của tâm đạo quả ở cõi vô sắc, đối với người đang tử biệt cõi khổ – cõi vô tưởng, thì với người ấy ở cõi ấy đạo đế sẽ không diệt và khổ đế cũng không đang sanh”.
[1015] Tập đế không đang sanh cho người nào ở cõi nào thì đạo đế sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy phải chăng?
“Vào sát na sanh của tâm chí thượng đạo, vào sát na sanh của tâm mà tiếp cận sẽ đắc chí thượng đạo, vào sát na diệt của tâm ái và vào cái tâm bất tương ưng ái đang diễn tiến đối với người mà sẽ đắc đạo, với người ấy ở cõi ấy; tập đế không đang sanh nhưng đạo đế chẳng phải sẽ không diệt cho người ấy ở cõi ấy. Còn vào sát na diệt của tâm chí thượng đạo, luôn đối với bậc A La Hán, vào sát na diệt của tâm ái và vào cái tâm bất tương ưng ái đang diễn tiến đối với người là hạng phàm phu mà sẽ không đắc đạo, đối với bậc vô tưởng, thì với người ấy ở cõi ấy tập đế không đang sanh và đạo đế cũng sẽ không diệt”.
HAY LÀ ÐẠO ÐẾ SẼ KHÔNG DIỆT CHO NGƯỜI NÀO Ở CÕI NÀO THÌ TẬP ÐẾ KHÔNG ÐANG SANH CHO NGƯỜI ẤY Ở CÕI ẤY PHẢI CHĂNG?
“Ðối với người cõi khổ, vào sát na sanh của tâm ái đối với người là hạng phàm phu mà sẽ không đắc đạo, với người ấy ở cõi ấy đạo đế sẽ không diệt nhưng tập đế chẳng phải không đang sanh cho người ấy ở cõi ấy. Còn vào sát na diệt của tâm chí thượng đạo, luôn với bậc A La Hán, vào sát na diệt của tâm ái và vào cái tâm bất tương ưng ái đang diễn tiến đối với người là hạng phàm phu mà sẽ không đắc đạo, đối với bậc vô tưởng, thì với người ấy ở cõi ấy đạo đế sẽ không diệt và tập đế cũng không đang sanh”.
[1016] Khổ đế từng sanh cho người nào thì tập đế sẽ diệt cho người ấy phải chăng?
Các câu hỏi thuộc quá khứ vị lai trong phần diệt (Nirodhavāra) cả câu xuôi lẫn câu ngược đã được phân tích như thế nào trong phần sanh diệt (Uppādanirodhavāra) cũng nên phân tích rõ ràng như vậy.
DỨT PHẦN SANH DIỆT (Uppādanirodhavāraniṭṭhitaṃ)
KẾT THÚC CHUYỂN BIẾN (Pavattivāro)
5- PHẦN BIẾN TRI (PARIÑÑĀVĀRO)
[1017] Người nào biến tri khổ đế thì người ấy cũng đoạn trừ (Pajahati) tập đế phải chăng?
“Phải rồi!”
HAY LÀ NGƯỜI NÀO ÐOẠN TRỪ TẬP ÐẾ THÌ NGƯỜI ẤY CŨNG BIẾN TRI (PARIJĀNĀTI) KHỔ ÐẾ PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
NGƯỜI NÀO KHÔNG BIẾN TRI KHỔ ÐẾ THÌ NGƯỜI ẤY KHÔNG ÐOẠN TRỪ TẬP ÐẾ PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
HAY LÀ NGƯỜI NÀO KHÔNG ÐOẠN TRỪ TẬP ÐẾ THÌ NGƯỜI ẤY KHÔNG BIẾN TRI KHỔ ÐẾ PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[1018] Người nào đã biến tri khổ đế thì người ấy đã đoạn trừ tập đế phải chăng?
“Phải rồi!”
HAY LÀ NGƯỜI NÀO ÐÃ ÐOẠN TRỪ TẬP ÐẾ THÌ NGƯỜI ẤY ÐÃ BIẾN TRI KHỔ ÐẾ PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
NGƯỜI NÀO ÐÃ KHÔNG BIẾN TRI KHỔ ÐẾ THÌ NGƯỜI ẤY ÐÃ KHÔNG ÐOẠN TRỪ TẬP ÐẾ PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
HAY LÀ NGƯỜI NÀO ÐÃ KHÔNG ÐOẠN TRỪ TẬP ÐẾ THÌ NGƯỜI ẤY ÐÃ KHÔNG BIẾN TRI KHỔ ÐẾ PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[1019] Người nào sẽ biến tri khổ đế thì người ấy sẽ đoạn trừ tập đế phải chăng?
“Phải rồi!”
HAY LÀ NGƯỜI NÀO SẼ ÐOẠN TRỪ TẬP ÐẾ THÌ NGƯỜI ẤY SẼ BIẾN TRI KHỔ ÐẾ PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
NGƯỜI NÀO SẼ KHÔNG BIẾN TRI KHỔ ÐẾ THÌ NGƯỜI ẤY SẼ KHÔNG ÐOẠN TRỪ TẬP ÐẾ PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
HAY LÀ NGƯỜI NÀO SẼ KHÔNG ÐOẠN TRỪ TẬP ÐẾ THÌ NGƯỜI ẤY SẼ KHÔNG BIẾN TRI KHỔ ÐẾ PHẢI CHĂNG?
“Phải rồi!”
[1020] Người nào đang biến tri khổ đế thì người ấy đã đoạn trừ tập đế phải chăng?
“Không phải!”
HAY LÀ NGƯỜI NÀO ÐÃ ÐOẠN TRỪ TẬP ÐẾ THÌ NGƯỜI ẤY ÐANG BIẾN TRI KHỔ ÐẾ PHẢI CHĂNG?
“Không phải!”
NGƯỜI NÀO KHÔNG ÐANG BIẾN TRI KHỔ ÐẾ THÌ NGƯỜI ẤY ÐÃ KHÔNG ÐOẠN TRỪ TẬP ÐẾ PHẢI CHĂNG?
“Vị A La Hán không đang biến tri khổ đế nhưng chẳng phải chưa đoạn trừ tập đế. Ngoại trừ bậc chí thượng đạo và vị A La Hán, các hạng người còn lại thì không đang biến tri khổ đế và cũng chưa đoạn trừ tập đế”.
HAY LÀ NGƯỜI NÀO CHƯA TỪNG ÐOẠN TRỪ TẬP ÐẾ THÌ NGƯỜI ẤY KHÔNG ÐANG BIẾN TRI KHỔ ÐẾ PHẢI CHĂNG?
“Bậc chí thượng đạo không từng đoạn trừ tập đế nhưng chẳng phải không đang biến tri khổ đế. Ngoại trừ bậc chí thượng đạo và bậc A La Hán, các hạng người còn lại thì không từng đoạn trừ tập đế và cũng không đang biến tri khổ đế”.
[1021] Người nào đang biến tri khổ đế thì người ấy sẽ đoạn trừ tập đế phải chăng?
“Không phải!”
HAY LÀ NGƯỜI NÀO SẼ ÐOẠN TRỪ TẬP ÐẾ THÌ NGƯỜI ẤY ÐANG BIẾN TRI KHỔ ÐẾ PHẢI CHĂNG?
“Không phải!”
NGƯỜI NÀO KHÔNG ÐANG BIẾN TRI KHỔ ÐẾ THÌ NGƯỜI ẤY SẼ KHÔNG ÐOẠN TRỪ TẬP ÐẾ PHẢI CHĂNG?
“Người mà sẽ đắc đạo thì người ấy không đang biến tri khổ đế nhưng chẳng phải sẽ không đoạn trừ tập đế. Còn bậc A La Hán và hạng phàm phu mà sẽ không đắc đạo thì người ấy không đang biến tri khổ đế và cũng sẽ không đoạn trừ tập đế”.
HAY LÀ NGƯỜI NÀO SẼ KHÔNG ÐOẠN TRỪ TẬP ÐẾ THÌ NGƯỜI ẤY KHÔNG ÐANG BIẾN TRI KHỔ ÐẾ PHẢI CHĂNG?
“Bậc chí thượng đạo sẽ không đoạn trừ tập đế nhưng chẳng phải không đang biến tri khổ đế. Còn vị A La Hán và hạng phàm phu mà sẽ không đắc đạo thì với người ấy sẽ không đoạn trừ tập đế và cũng không đang biến tri khổ đế”.
[1022] Người nào từng biến tri khổ đế thì người ấy sẽ đoạn trừ tập đế phải chăng?
“Không phải!”
HAY LÀ NGƯỜI NÀO SẼ ÐOẠN TRỪ TẬP ÐẾ THÌ NGƯỜI ẤY TỪNG BIẾN TRI KHỔ ÐẾ PHẢI CHĂNG?
“Không phải!”
NGƯỜI NÀO KHÔNG TỪNG BIẾN TRI KHỔ ÐẾ THÌ NGƯỜI ẤY SẼ KHÔNG ÐOẠN TRỪ TẬP ÐẾ PHẢI CHĂNG?
“Người mà sẽ đắc đạo người ấy không từng biến tri khổ đế nhưng chẳng phải sẽ không đoạn trừ tập đế. Còn bậc chí thượng đạo và hạng phàm phu mà sẽ không đắc đạo, người ấy không từng biến tri khổ đế và cũng sẽ không đoạn trừ tập đế”.
HAY LÀ NGƯỜI NÀO SẼ KHÔNG ÐOẠN TRỪ TẬP ÐẾ THÌ NGƯỜI ẤY KHÔNG TỪNG BIẾN TRI KHỔ ÐẾ PHẢI CHĂNG?
“Vị A La Hán sẽ không từng đoạn trừ tập đế nhưng chẳng phải không từng biến tri khổ đế. Còn bậc chí thượng đạo và hạng phàm phu mà sẽ không đắc đạo thì những người ấy sẽ không đoạn trừ tập đế và cũng không từng biến tri khổ đế”.
DỨT PHẦN BIẾN TRI (Parriññavāraṃ niṭṭhitaṃ)
KẾT THÚC ÐẾ SONG
(Saccayamakaṃ niṭṭhitaṃ)
KẾT THÚC BỘ SONG ÐỐI LUẬN – TẬP 1
(1) Ở đây cần phải hiểu là đạo quả hữu học.
TRÍCH CÚ TỪ ĐIỂN
PADABHĀJANĪYĀNUKKAMO
Akusala 2 nakevalaṃ: bất thiện
akusalamūlā 2, 10, 13: căn bất thiện
akusalamūlaka 2,12: nương căn bất thiện
akusalamūlamūla 2.11: căn bất thiện căn
akusalamūlamūlaka 2.13: nương căn bất thiện căn
akusalamūlasahajāta 10-13: câu sanh bất thiện căn
akusalasamuṭṭhāna 10-13: bất thiện sỡ sanh
aggamagga 863 nakevalaṃ: chí thượng đạo
aggamaggasamaṅgī 276 nakevalaṃ: bậc chí thượng đạo
aghānaka 297. nakevalaṃ: người vô tỷ
acakkhuka 296. nakevalaṃ: người vô nhãn
aññamaññamūla 1. nakevalaṃ: hỗ tương căn
aññamaññamūlaka 1 nakevalaṃ: thuộc hỗ tương căn
aññamaññamūlamūla: nakevalaṃ: căn hỗ tương căn
aññamaññamūlamūlaka. nakevalaṃ: thuộc căn hỗ tương căn
atīta 929. nakevalaṃ quá khứ
attharạsa 288. 289. 803. 804 nghĩa vị
atthi 760 nakevalaṃ có (động từ)
anantarā 863 nakevalaṃ tiếp cận, liên tục.
anabhisametavī 850 nakevalaṃ: người chưa đắc đạo.
anāgata 346. 561. vị lai
anāgāmimaggasamangī 1387. nakevalaṃ bậc bất lai đạo
anuloma 547 nakevalaṃ thuận, xuôi
apāya 837 yebhuyyikaṃ: cõi khổ
abyākata 3. 14-17-22. Vô ký
abyākatamūla 3.14-17 căn vô ký
abyākatamūlaka 3.16: thuộc căn vô ký, nương căn vô ký
abyākatamūlamūla 3.15. căn vô ký căn
abyākatamūlamūlaka 3.17. nương căn vô ký căn
abyākatamūlasahajāta 14.17. câu sanh căn vô ký
abhisametāvī 850. nakevalaṃ: người đã đắc đạo
arahanta 276. nakevalaṃ bậc Ứng Cúng, vị A La Hán
arūpa 117. yebhuyyikaṃ: vô sắc
arūpaka 304. nakevalaṃ: người vô sắc, không hình sắc
arūpāvacara 313 yebhuyyikaṃ: cõi vô sắc giới
avasesa 7. yebhuyyikaṃ: ngoài ra, còn lại
ahetuka 10. nakevalaṃ: vô nhân
asannasatta 117. yebhuyyikaṃ: cõi vô tưởng.
asotaka 296. nakevalaṃ: người vô nhĩ
āpāyika 868. nakevalaṃ: người cõi khổ
āmantaø 6. yebhuyyikaṃ: phải rồi! đúng rồi!
āyatana 282. nakevalaṃ: xúc nhập.
uppapajjanta 117. nakevalaṃ: đang sanh khởi.
uppajjati 6. yebhuyyikaṃ: phát sanh
uppajjittha 123 yebhuyyikaṃ: đã sanh
uppajjissati 129. yebhuyyikaṃ: sẽ sanh
uppatticitta. 881. yebhuyikaṃ: tâm tục sinh
uppāda 532-706, 922: sự sanh khởi, phần sanh
uppàdakkhana 833. yebhuyyikaṃ: sát na sanh
uppādaniredha 532 nakevalaṃ: phần sanh và diệt
ekamūla 1. nakevalaṃ: đồng căn
ekamūlaka 1. nakevalaṃ: nương đồng căn
ekamūlamūla 1. nakevalaṃ: căn đồng căn
ekamūlamūlaka 1. nakevalaṃ: nương căn đồng căn
ekasadisa 312. đồng như nhau.
ekekapadamūlaka 290: mỗi mỗi câu gốc
kattabba 197. nakevalaṃ: nên kết cấu, nên làm thành.
kāmarāgānusaya 1221. dục ái tùy miên
kāya 280. nakevalaṃ: thân
kāyadhātu 794. 803. thân giới
kāyaviññaṇna 799. 803. thân thức
kāyaviññāṇadhātu 794. thân thức giới
kāyayatana 279 nakevalaṃ. thân xứ
kāyika 825. nakevalaṃ. thuộc về thân
kusala 1. nakevalaṃ. thiện, lành
kusalanidāna 5.22 nhơn duyên thiện
kusalapaccaya 5. 22. duyên thiện
kusalappabhava 5. 22. khởi nguồn thiện
kusalamūla 1. 6. 9. căn thiện
kusalamūlaka 1. 8. nương căn thiện
kusalamūlamūla 1.7 căn thiện căn
kusalamūlamūlaka 1. 2. 9. 13 nương căn thiện căn
kusalamūlasahajāta 6. 9. câu sanh căn thiện
kusalasamutthāna 5. 9. 22. cơ sở thiện
kusalasamudaya 5. 22. tập khởi thiện
kusalahetu 5.22. nhân thiện
kusalārammana 5. 22. cảnh thiện
kusalāhāra 5. 22. vật thực thiện
khandha 26. nakevalaṃ uẩn
gandha 280. yebhuyyikaṃ: hương; khí
gandhadhātu 794. 803: khí giới
gandhāyatana 279. nakevalaṃ: khí xứ.
ghāna 280. yebhuyyikaṃ: tỷ.
ghānadhātu 794. nakevalaṃ: tỷ giới.
ghānadhātusadisa 803. giống như tỷ giới
ghānaviññāṇa 799.803. tỷ thức
ghānaviññāṇadhātu 794. tỷ thức giới
ghānasadisa 803. giống như tỷ
ghānayatana 279. nakevalaṃ. tỷ xứ
cakkhāyatana 279. nakevalaṃ, nhãn xứ
cakkhu 280. yebhuyyikaṃ. nhãn, con mắt
cakkhudhātu 811. nakevalaṃ. nhãn giới
cakkuviññāṇadhātu 794. 803. nhãn thức giới.
catuvokāra 136. yebhuyyikaṃ: cõi tứ uẩn
cavanta 120. yebhuyyikaṃ. đang tử biệt (htpt)
citta 840. yebhuyyikaṃ: tâm
cetasika 825. nakevalaṃ: sở hữu tâm.
jivhā 280. yebhuyyikaṃ: thiệt, lưởi.
jivhādhātu 794: thiệt giới
jivhāyatana 279: thiệt xứ
jivhāviññāṇa 799. 803. thiệt thức
jivhāviññāṇadhātu 794. thiệt thức giới
taṅhaø 833. yebhuyyikaṃ. ái
taṅhāvippayuttacitta 833. nakevalaṃ. tâm bất tương ưng ái
taṅhāvippayuttamaggavippayuttacitta 842. nakevalaṃ tâm bất tương ưng ái bất tương ưng đạo
taṅhāsota 288. 289. 803. 804. ái nhĩ, ái lưu
diṭṭhisaññā 34. nakevalaṃ: tưởng kiến
dibbacakkhu 288. 290. 803. thiên nhãn
dibbasota 288. 289. 803. 804. thiên nhĩ
dukkha 817 yebhuyyikaṃ. khổ
dukkhasacca 817. nakevalaṃ. khổ đế
dvādasāyatana 279. thập nhị xứ, mười hai xứ
dhamma 1. yebhuyyikaṃ pháp.
dhammadhātu 794. nakevalaṃ. pháp giới
dhammarasa 288. 289. 803. 804. pháp vị
dhammāyatana 279. nakevalaṃ, pháp xứ
dhātu 794. nakevalaṃ giới, bản chất
natthi 126. yebhuyyikaṃ. không có
nāmam 312. có được
nāma 4. 18. 22 danh
nāmanidāna 22 nhơn duyên danh
nāmapaccaya 22 duyên danh
nāmappabhava 22. khởi nguồn danh
nāmamūla 4. 18. 20. căn danh
nāmamūlaka 4. 20. nương căn danh
nāmamūlamūla 4. 19. căn danh căn
nāmamūlamūlaka 4. 21. nương căn danh căn.
nāmamūlasahagata 18. 21. câu sanh căn danh
nāmasamuṭṭhāna 18. 22. cơ sở danh
nāmasamudaya 22. tập khởi danh
nāmasambhava 22. căn bổn danh
nāmahetu 22. nhân danh
nāmarāmmana 22. cảnh danh
nāmāhāra 22. vật thực danh
nidāna 5. 22. nhơn duyên
nirujjhati 171. yebhuyyikaṃ đang diệt (ÐT)
nirujjhittha 177. yebhuyyikaṃ đã diệt (ÐT)
nirujjhissati 183. yebhuyyikaṃ sẽ diệt (ÐT)
nirodha 532. nakevalaṃ diệt, sự đoạn diệt
nirodhasacca 817. yebhuyyikaṃ diệt đế
nirodhasamāpanna 842. yebhuyyikaṃ bậc nhập thiền diệt
paccaya 5. 22 duyên, duyên trợ
paccuppanna 252. nakevalaṃ hiện tại
pacchimacitta 935. nakevalaṃ tâm chót, tâm rốt ráo
pacchimacittasamangī 870. nakevalaṃ bậc tối hậu tâm
pacchimabhavika 132. nakevalaṃ người kiếp chót
pajahati 1017. nakevalaṃ đang đoạn trừ (ÐT)
pajahittha 1018 đã đoạn trừ (ÐT)
pajahissati 1009 nakevalaṃ sẽ đoạn trừ (ÐT)
pancakkhandha 23. ngũ uẩn.
pancavokāra 117 yebhuyyikaṃ cõi ngũ uẩn.
paññāgandha 288 tuệ hương, huệ hương
patilabhissanti 277 yebhuyyikaṃ sẽ đắc được
paññatti 805. 810. định danh
pabhava 5. 22 sự khởi nguyên, khởi nguồn
parijānāti 273. yebhuyyikaṃ đang biến tri (ÐT)
parijānittha 274. yebhuyyikaṃ đã biến tri (ÐT)
parijānissati 275. yebhuyyikaṃ sẽ biến tri (ÐT)
parinibbanti 145. yebhuyyikaṃ, đang viên tịch (htpt)
parinibbāyissanti 129. yebhuyyikaṃ sẽ viên tịch (ÐT)
paripunna 197 sự đầy đủ, sự mãn túc.
pavatta 833. yebhuyyikaṃ sự hiện hành, diễn biến, bình nhật.
piyarūpa 32. nakevalaṃ sắc khả ái
puggala 276 nakevalaṃ hạng người
pucchā 547. yebhuyyikaṃ sự hỏi, câu vấn
puthujjana 277. yebhuyyikaṃ phàm phu
phala 840. nakevalaṃ, quả.
Phoṭṭhabba 799. 803. xúc.
Phoṭṭhabbadhātu 794. xúc giới.
Phoṭṭhabbāyatana 279. nakevalaṃ xúc xứ.
bandhanta 291 kết cấu, kết buộc (htpt)
bandhita 797. đã được kết cấu.
bandhitabba 282. yebhuyyikaṃ cần được kết cấu.
bhangakkhana 840. yebhuyyikaṃ sát na diệt.
magga 277. yebhuyyikaṃ đạo
maggavippayuttacitta 834. nakevalaṃ tâm bất tương ưng đạo
maggavippayuttataṅhāvippayuttacitta 824. nakevalaṃ tâm bất tương ưng đạo bất tương ưng ái.
magasacca 817. nakevalaṃ. đạo đế.
mana 280. nakevalaṃ. ý
manāyatana 279. nakevalaṃ ý xứ
manodhātu 799. 803. ý giới
manoviññāna 799. 801. 803 ý thức
manoviññānadhātu 794. 804. 814 ý thức giới
mūla 5. nakevalaṃ căn.
rasa 280. nakevalaṃ vị, vị chất.
rasadhātu 794. 801. 804. vị giới
rasāyatana 271. nakevalaṃ vị xứ
rūpa 6. nakevalaṃ sắc.
rūpakkhandha 23. nakevalaṃ sắc uẩn.
rūpahātu 794. nakevalaṃ sắc giới
rūpayatana 279. nakevalaṃ sắc xứ
rūpavacara 308. yebhuyyikaṃ sắc giới
vattamāna 853. yebhuyyikaṃ đang diễn tiến
viññā 24. nakevalaṃ thức
viññāṅakhandha 23. nakevalaṃ thức uẩn
vitthārita 624. được giải rộng.
vibhajitabba 252. yebhuyyikaṃ. cần được phân tích
vibhatta 525. nakevalaṃ. đã được phân tích
vimuttirasa 288. 289. 803. 804. giải thoát vị
vedanā 24. yebhuyyikaṃ thọ.
vedanākkhandha 23. nakevalaṃ thọ uẩn.
saghānaka 297. nakevalaṃ. người hữu tỷ.
sankhāra 24. yebhuyyikaṃ hành.
sankhārakkhandha 23. nakevalaṃ. hành uẩn.
sankhepa 212. tóm tắt, tóm lược.
sacakkhuka 296. nakevalaṃ. người hữu tỷ.
sacittaka 299. nakevalaṃ. người hữu tâm.
sacca 827. nakevalaṃ. Ðế, sự thật
saññākkhandha 23. nakevalaṃ. tưởng uẩn.
sadisa 346. yebhuyyikaṃ. giống như
sadda 280. nakevalaṃ, thinh, tiếng
saddadhātu 794. thinh giới
saddāyatana 279. nakevalaṃ, thinh xứ
samādhigandha 288. 289. 803. 804. định hương
samuṭṭhāna 5. 22. cơ sở, sở sanh.
samudaya. 5. yebhuyyikaṃ tập, tập khởi.
samudayasacca 817. nakevalaṃ. tập đế.
sambhava 5. 22. căn bổn.
sarūpaka 298. yebhuyyikaṃ. người hữu sắc.
rasotaka 317. nakevalaṃ người hữu nhĩ
sahetuka. 10 nakevalaṃ. hữu nhân.
sātarūpa 32. nakevalaṃ. sắc khả lạc.
sīlagandha. 288. 289. 803. 804. giới hương.
suddhāvāsā 128. yebhuyyikaṃ. cõi tịnh cư
sota 280. yebhuyyikaṃ nhĩ, lỗ tai.
sotadhātu 803. nakevalaṃ nhĩ giới.
Sotaviññāna 799. 803. nhĩ thức
sotaviññānaddātu 794. nhĩ thức giới
sotāyatana 279. nakevalaṃ. nhĩ xứ
Hetu 5. 22. nhân.